VONG LINH XIN QUY Y
 Ghi chép HỒNG VÂN
 Hạnh Đoan giải thich và hiệu đính

 

“Chị ơi em có việc lạ này, ông ngoại em là lính vn cộng hòa mất cách đây 36 năm vào thời đi học tập cải tạo.Vừa rồi hồn ông về, nhập vào em của mợ dâu, xin gia đình làm Lễ Qui- y Tam bảo cho ông.

Gia đình em hỏi: Xác ông ở đâu? Để người nhà đem về lập mộ. Tại sao ông trở về xin quy y Tam bảo?

Ông đáp: – Không cần tìm xác ông để chôn cất làm gì.

Ông thấy mình nghiệp rất nặng và phải đối diện với những gì mình đã gây ra. Ông muốn gieo duyên với Phật để khi tái sanh trở lại làm người, ông được gặp Phật pháp và có thể phát tâm tu.

Gia đình em đã tìm thầy Thích Giác Hạnh – Chùa Hội Phước Bà Rịa – Vũng Tàu để xin thầy quy y cho ông và thầy đã đồng ý.”

Vài ngày sau, tôi và cô bạn cùng đi đến gặp Thầy Giác Hạnh.

Buổi sáng trên đường đến gặp thầy, cô kể: – Hôm qua hồn ông ngoại em lại về nói rằng: “Ngoài việc tìm thầy quy y Tam bảo cho ông, gia đình nhớ lập trai đàn cúng cầu siêu hồi hướng – cho ông và những người làm việc cùng thời với ông – để tạo công đức hỗ trợ ông và họ được siêu thoát.

Tôi muốn hỏi là vì sao ông lại quay trở lại thế gian xin Qui-y Tam bảo, trong khi lúc còn sống, ông chưa hề tiếp cận được với Phật giáo?

Nhưng do bận việc nên tôi không thể tiếp cận và phỏng vấn đành nhờ cháu ông hỏi giùm những thắc mắc và thu âm lại.

Cuộc phỏng vấn vong linh được ghi ra đây là bao gồm nhiều lần tiếp xúc trò chuyện khi ông Lương trở về. Những gì thuộc vấn đề tế nhị trong gia đình sẽ không được đưa ra, nhưng có thể nói trong phần hai của bài viết “Luận về cuộc phỏng vấn”.

Cuộc trò chuyện với ông Lương xảy ra như sau:

Ông Huỳnh Văn Lương trong cuộc gặp mặt cuối cùng với gia đình tại Rạch Kiến. Do đã thông hiểu Phật pháp, ông vốn từng là một người lính Việt Nam Cộng hoà, nhưng cũng đưa các vong linh các người lính thuộc hai phía (Bộ đội và Cộng hoà) cùng đến đứng trước mâm cơm chay, tất nhiên chúng ta được biết những lời tuyên bố chân thành này khi ông Lương nhập qua xác một người thân trong gia đình và nói như sau:

Hôm nay, tôi tên Huỳnh Văn Lương – Pháp danh Minh Tâm (chính xác là tối ngày 27/7 năm Tân Mão 2011) Tôi cùng các con tôi xin thỉnh chư vị 2 bên, cùng dân chúng tại đây (vong linh đang ở quê) nghe tôi thuyết giảng một lời.

Ngày hôm nay, tôi đã qui y trước Tam bảo. Thời của chúng tôi đã chấm dứt rồi, cho nên chúng tôi hạ vũ khí… tất cả chúng ta đồng là dân nước Việt, đều là con người. Ai thờ chủ nấy, chúng ta nên cư xử hoà hảo, giải hết oan trái, cùng quy y Phật, bước chung một đường đạo.

Chúng ta là những người … do nghiệp sát mà phải đầu thai làm lính. Nay tôi đã tỉnh ngộ, biết được con đường sáng cứu khổ của đạo Phật nên tôi mong các ông và các vong linh ở đây cùng tôi đồng về với Phật…

Chúng ta hãy thức tỉnh giác ngộ Buông xả hết và đồng chắp tay lại như tôi đang làm và niệm: Nam Mô A Di Đà Phật (3 lần). cảm ơn các ông đã nghe và làm theo như lời tôi yêu cầu.

Hôm nay, được cháu tôi cùng chư bằng hữu có mặt ở đây trợ duyên. Các ông hãy linh hiển thọ nhận mâm cơm chay này, để chư Tăng hồi hướng công đức, đưa chúng ta về thế giới Tây Phương Cực lạc.

Các ông hãy chứng cho lòng thành của tôi… Nam Mô A Di Đà Phật (3 lần)

… Các ông đã quỳ xuống hết rồi, đã chắp tay niệm Phật rồi. Minh Tâm tôi đã thành công rồi. Dân ở đây người ta rất hoan hỉ.

Sau đây là cuộc phỏng vấn với ông Lương: 

Hỏi: Nhân duyên gì mà ông gặp được Phật và phát tâm tu ại cõi âm?

Đáp: -Trong kiếp làm người vừa qua, nghĩa là lúc còn sống ở thế gian, hồi trẻ tôi có vào chùa, nhưng chủ yếu là để quậy phá vui chơi thôi. Nhờ có phước nên tôi đã gieo được hạt giống Phật trong tâm thức. Sau khi chết đi, tôi vẫn thường về nhà, nhưng không tiếp cận được ai, do người thân không nhớ đến tôi. Ngày giỗ, tôi cũng không được ăn gì, vì trên giấy báo tử ghi không đúng ngày mất của tôi. Tôi phải chịu đói khát, lạnh lẽo trong suốt bao năm qua.

May nhờ bà mợ dâu khi ăn thường mời cơm, nên tôi theo bà về quê nhân dịp dưới quê có giỗ. Tôi ở luôn dưới quê (Rạch Kiến). Tại đây tôi được nghe kinh Phật mỗi tối, do hai cô em gái đầu là Phật tử, thường tụng kinh mỗi ngày.

Vì nghiệp sát nặng nên tôi không thể vào chùa được. Nhưng sau khi qui-y tôi đã có thể vào chùa để nghe chư tăng giảng kinh.

Hỏi: Vì sao ông không quy y Tam bảo ở cõi âm, mà lại nhập vào thân xác dương trần xin qui- y?

Muốn quy y Tam Bảo thì trước phải thọ tam quy (quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng) và ngũ giới (Không sát sinh, không uống rượu, không nói dối, không tà dâm, không trộm cắp). Tam quy thì tôi có thể thực hiện được, nhưng ngũ giới thì không, vì tôi không còn thân xác để thực hiện ngũ giới.

Hỏi: Chúng sinh cõi âm cõi âm có tu được không. Có ngồi thiền, tụng Kinh, Niệm Phật được không ?

– Không thể tu được, họ đâu còn thân xác mà tu? (Nhưng các vọng tưởng trong tâm vẫn trỗi dậy không ngừng, khó thể dẹp bỏ được). Quí vị phải biết thân người quý lắm. Chỉ khi thần thức ở trong thân người mới tu được.Vì vậy nếu ai còn thân người thì xin hãy cố gắng tu.

Kiếp sau khi được tái sanh làm người tôi nguyện sẽ tu. Tôi quy y lần này là để gieo hạt giống phật vào tâm thức, mong kiếp sau được sanh lên làm người, nếu gặp Phật Pháp là tôi tu liền. Tôi có duyên sư đồ với thầy Thích Giác Hạnh trong kiếp trước.

Hỏi: Ông có thể nói rõ hơn về nhân duyên thầy trò giữa ông với thầy Thích Giác Hạnh được không ?

– Được, trong kiếp vừa rồi, tôi là một thanh niên rất ngang bướng, từng ghé vào vào chùa chơi. Lúc đó thầy Giác Hạnh là một vị tăng đang tu ở trong chùa. Thầy có khuyên tôi nên qui y Tam Bảo.

Lúc đó tôi trả lời là: “Khi nào không còn thân xác thì tôi mới quy y”. Do câu nói này, nhân gieo này mà duyên thầy trò chúng tôi được hình thành.

Hôm nay Thầy đã quy y cho tôi. Nhưng vì tôi không có thân xác nên duyên thầy trò xem như chỉ được 50 %. Thông thường thì duyên thầy trò phải gặp nhau 3 kiếp. Tương lai thầy Giác Hạnh sẽ tiếp tục làm tăng kiếp nữa và ở kiếp đó tôi sẽ là đệ tử 100% của thầy.

Hỏi: Như vậy có nghĩa là trong kiếp này, thầy Hạnh vẫn chưa vãng sanh về Tây Phương Cực lạc?

– Chưa, Vì Phật tổ còn muốn thầy ở lại để tiếp tục độ chúng sinh một kiếp nữa, sau đó mới vãng sanh được.

Hỏi: Ông đã mất thân xác 36 năm. Tiếp cận với Phật pháp được lâu chưa? Bao giờ ông đi tái sanh ?

– Tôi mới tiếp cận được gần đây thôi, nhưng lực xoay chuyển nghiệp báo rất nhanh, nhanh trong từng sát na (chớp mắt). Tôi sắp được siêu thoát và có thể tái sanh làm người trở lại. Khoảng ba tháng nữa, khi nào cháu ngoại nằm mộng thấy Phật là tôi tái sanh.

GIẢI THÍCH: 

Do có người hỏi vì sao vong linh có thể nhập xác niệm Phật, vì vậy tôi post bài này lên để quý vị hiểu rõ hơn.

Ông Lương phát tâm tu, xin quy y Tam bảo, điểm giải thoát đầu tiên là ông không chấp vào thân xác. Con cháu hỏi xác ông để mang về an táng, ông nói không cần. Điều này rất quý giá và quan trọng.

Vì qua kinh nghiệm dịch lâu năm, tôi được biết có những vong linh tình chấp nặng: chấp vào thân xác, chấp vào ngôi mộ, chấp từng cọng tóc, lóng xương… vì vậy mà họ biến thành quỷ giữ thây, giữ mộ, đau đớn khi xương cốt bị xâm phạm, thống khổ khi mộ bị sức mẻ… họ cứ thế làm quỷ suốt ngàn vạn năm không thể đầu thai vì tình chấp nặng nề này, thậm chí còn khởi ác tâm sẵn sàng làm hại bất cứ ai đến gần chỗ họ.

Ông lương trong đây tâm buông xả mạnh, không bám chấp, vì vậy ông rất dễ đầu thai làm người để thực nguyện ước muốn được tu theo Phật của mình.

Hỏi: Tâm trạng của ông sau khi chết (lúc mất thân xác) như thế nào? Tại sao người chết không ra đi luôn, mà còn quay trở lại dương trần làm gì ?

– Con người có 2 phần, phần hồn và phần vật chất. Phần hồn nhà Phật gọi là vong linh. Khi đưa vong linh vào phụng thờ thì gọi là hương linh.

Con người có 2 cách chết. Một là, chết đột ngột vì tai nạn, vì bệnh tật hay một lý do nào đó không có sự chuẩn bị trước. Hai là, chết già, người chết vì già thì mọi thứ có thể dễ dàng buông bỏ không còn quyến luyến và có được sự chuẩn bị trước.

Nhưng những người chết trẻ hay chết đột ngột, do tâm còn u uất còn nhiều lưu luyến vương vấn cõi trần nên hay bám chấp vào cuộc sống hiện tại. Tâm thức và trạng thái khi bị đột tử đó vẫn còn lưu giữ đeo mang mãi. Do vậy mà tôi phải quay trở lại gặp gia đình.

Hỏi: Vì sao ông không về sớm hơn, mà bây giờ mới quay về?

– Tôi không thể về sớm hơn, là thuộc nhiều lý do: chẳng hạn như vì người cho mượn thân xác chưa đủ công đức và họ chưa phát nguyện độ chúng sanh. Bây giờ người ấy đã phát nguyện “Bỏ ác, làm thiện cứu độ tất cả chúng sanh” họ đã có đủ công đức. Vì hiện thời người cho tôi mượn thân xác có đủ thiện căn lành, duyên tu sâu; nên mới đã có thể nhìn thấy tôi khi tôi quay về.

Hỏi: Sau khi chết (mất thân) ông thấy những gì diễn ra xung quanh mình?

Tôi thấy xung quanh mình chỉ toàn là một màu đen, đỏ tối om. Tôi có cảm giác rất khổ sở và không thấy gì ở phía trước. Tôi phải sống trong cảnh đói khát, lạnh lẽo và không thể trở về nhà được.

Không ai cho vào. Tôi hiểu đó là do nghiệp sát mà tôi phải trả.

Sau khi tiếp cận Phật pháp (đã sám hối, và trì chú Đại Bi) tôi thấy xung quanh mình dần dần sáng ra, thân tâm nhẹ nhàng dần và nhìn rõ con đường đi của mình.

Giải thích: Vong Linh có thể nương theo người hành trì pháp Phật mà niệm Phật, trì chú. Nhưng khi họ nhập vào xác trì lực sẽ mạnh và dễ hơn (Xin xem chuyện tình Nga My Hạnh Đoan đã post lên trước đây, khi Nga chuẩn bị đi đầu thai, mỗi lần muốn trì chú Lang Nghiêm phải nhập xác chị My trì, trì xong đủ số thì mới xuất ra. Có người hỏi chú Phật hàng ma, vì sao ma có thể trì được?

Xin đáp: chú Phật có công năng hàng phục ác ma, quỷ dữ, làm dịu tâm xấu ác nơi chúng hoặc có thể ngăn cản không cho ác ma xâm hại người trì chú. Còn những vong hiền, tâm thiện biết hồi đầu nguyện tu tập, chú không hề ngăn ngại vong mà còn ban lực hỗ trợ rất lớn)

Hỏi: Còn những người đã chết xung quanh ông thế nào?

– Những người chết xung quanh tôi cũng có những sắc mầu gần giống như vậy (đen đỏ). Chỉ những người trì tụng kinh Phật thường xuyên và những người tu mới mang màu sắc sáng trắng sau khi rời bỏ thân xác. Tôi đã nhìn thấy màu sáng trắng đó quanh đầu Ni trưởng Thích nữ Như Vân ở Long Hoa Ni Tự – Rạch Kiến.

Giải thích: mõi người chúng ta khi còn sống đều vẫn có hào quang, mà ông Lương gọi là màu sắc. người tâm hiền thiện thì hào quang sáng trắng, vàng. Người tâm ác thì hào quang đen. Thông thường ma quỷ nhìn chúng ta qua tư tưởng, ý nghĩ, tư tưởng chúng ta cũng hình thành những màu sắc thiện ác quanh ta. Những vong người chết tâm xấu không tốt, độc dữ… nếu có thể thấy ta thường thấy họ mang màu đen, là bóng đen kết tụ mờ như sương khói. Còn vong hiền hơn thì mang màu trắng, hình dáng bóng trắng như khói sương.

Hỏi: Những người quay trở về dương thế giống như ông có nhiều không?

Nhiều lắm. Nếu người ở dương thế không biết giữ giữ đầu óc trong sáng, là bị vong nhập liền! Vì vong hiện rất khao khát thèm có thân xác, nên gặp người thích hợp, là chúng nhập ngay. Chỉ cần người dương thế niệm tham, sân, si…khởi lên mạnh mẽ là vong thấy, biết liền. Người nào tâm khởi vọng tưởng tà càng mạnh thì vong càng dễ nhập.

Hỏi: Khi được thân người thì phải tu như thế nào, để sau khi mất thân xác được vãng sanh về Tây Phương Cực lạc?

– Muốn vãng sanh được về Tây phương cực lạc thì phải niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” thường xuyên, liên tục. Phải ăn chay niệm Phật, làm công đức; phải tu thập thiện trì ngũ giới. Khi lâm chung phải niệm 10 tiếng nhất tâm bất loạn. Nếu có cơ duyên tốt được người hộ niệm thì nhất định sẽ vãng sinh được về Tây Phương cực lạc.

Hỏi: Trước đây cháu nghe bà ngoại nói ông không bao giờ dạy bảo ai điều gì. Sao bây giờ khi trở về, gặp ai, ông cũng khuyên mọi người nên tu và niệm Phật? Còn các đạo giáo khác thì thế nào?

– Cháu đừng nghĩ sau khi chết là hết. Cuộc đời ở trần thế rất vô thường, ngắn ngủi như một giấc chiêm bao. VÌ VẬY ÔNG MUỐN THỨC TỈNH MỌI NGƯỜI: Muốn họ hiểu rằng một khi mất thân người rồi, thì xuống đây chẳng còn gì ngoài biểu hiện của tâm thức. Mà KHI CHỈ CÒN TÂM THỨC MỚI THẤM THÍA ĐẠO PHẬT LÀ CHÁNH PHÁP VÀ CHỈ CÓ ĐẠO PHẬT MỚI CÓ THỂ CỨU CON NGƯỜI RA KHỎI CẢNH KHỔ VÀ SIÊU THOÁT ĐƯỢC. Nếu không tu theo Phật pháp, thì những nghiệp mà mình đã tạo trước đây sẽ còn đeo bám, ám mình suốt đời, không biết bao giờ mới thoát ra được.

Xin nhắn chư vị độc giả: Nếu ai đọc xong bài phỏng vấn này mà phát tâm tu hoặc đã tu rồi mà tự nhiên cảm thấy tinh tấn hơn, thì xin hãy hồi hướng công đức đó cho ông Huỳnh Văn lương cùng các cộng sự của ông và những người lính của cả 2 bên thể chế để họ được siêu thoát.

Giải thích:

Chúng ta để ý câu đáp của ông Lương, ông về thăm nhà thường, nhưng 38 năm sau mới nhập vô người khi đủ duyên (vì người cho mượn xác này từng phát nguyện độ chúng sinh, có duyên tu sâu, thiện căn tốt lành).

Thông thường thì việc cho mượn xác rất không tốt, gây tổn thương cho thân tâm đương sự, nhất là khi các vong nhập thuộc cảnh giới thấp hèn.

Trong thời gian dài chờ đủ duyên để nhập xác, ông Lương đêm mào cũng nghe người thân tụng kinh, nhờ đó mà tâm ông mở sáng, biết quy hướng Tam bảo. Cái xác ông nhập bản tính hiền thiện và vong linh ông cũng hiền thiện, họ có cùng tần suất phù hợp tương đương.

Ông cũng kế là vong linh ở dương thế rất nhiều, Nếu người sống ở trần gian mà không biết giữ đầu óc trong sáng, thì rất dễ bị vong nhập. Vì các vong rất khao khát thèm được có thân xác. Chỉ cần người dương thế khởi niệm tham, sân, si… là vong lập tức thấy ngay. Nên người nào tâm có vọng tưởng tà, suy nghĩ tà… càng mạnh, thì vong càng dễ nhập!

Ta thấy rõ người bị nhập có hai hạng: Hạng thiện có nguyện độ người và hạng tam độc tham sân si nặng nề lẫy lừng! Hễ tâm loạn, ý tà hoặc thần trí yếu là rất dễ bị nhập. Mà đôi lúc đối tượng gá nhập không thuộc vong người mà có thể là xà tinh, chồn tinh hay vong súc sinh như Quả Khanh từng giải thích trong Báo ứng hiện đời.

Vì vậy lúc nào ta cũng phải giữ tâm trong sáng, nênthường xuyên trì chú, niệm Phật hay Thiền cho miên mật… vì tâm định mạnh thì ngoại tà khó xâm nhập!

Vong linh cũng dễ nhập những người thân cùng huyết thống liên đới nhau như cha con, anh chị em, bà cháu, cô dì, cậu mợ, chú thím v.v… hay những người có cùng từ trường hoặc thể vía yếu… Riêng các vong oan gia nếu được phép báo thù thì cũng có thể tùy tiện nhập. Cũng có những người bình thường vì ngây thơ, không biết nên đã rủ rê mời gọi, chấp nhận cho phép vong nhập vào xác mình thì họ sẽ gá nhập dễ dàng, và đôi khi muốn trục họ ra cũng không phải dễ, nếu như đương sự không biết tu hành trì chú niệm Phật thì rất dễ bị vong chiếm xác.

Người âm không có người hộ niệm để xua đuổi các oan gia trái chủ. Họ chỉ có thể tạo duyên với Phật pháp bằng cách gieo hạt giống Phật vào tâm thức thật nhiều để đến khi mang được thân người, tiếp cận với Phật pháp họ sẽ tu hành.

NGHIỆP CHIÊU CẢM LÀM CHO NGƯỜI ÂM RẤT KHỔ 

Đối với Phật giáo, phút giây cận tử nghiệp của con người rất quan trọng. Thông qua lời của ông Lương ta thấy: Con người sau khi chết vẫn giữ nguyên tâm trạng lúc lâm chung khi lìa thân xác bước vào cõi âm.

Vì vậy mà sau mấy chục năm, những người lính chết trận vẫn bị tâm sát đeo bám, làm chủ; thần thức họ tiếp tục chấp vào đấy và luôn ở trong tình trạng chiến đấu bắn giết nhau; cảnh trạng này hoàn toàn do tâm họ tạo ra. Cho dù hiện thời họ chẳng còn thân xác. Nếu không tiếp cận được với pháp Phật, nghe kinh và thức tỉnh thì không biết bao giờ họ mới thoát ra khỏi tâm trạng đấu đánh, trả thù triền miên đó.

Tất cả mọi người sau khi chết nếu không phải hạng cực thiện hay cực ác (để tái sinh ngay lập tức) thì đều phải đối diện với những hành động họ từng tạo trong vô lượng kiếp quá khứ của mình.

Chính tham, sân, si… cùng Những thói quen hàng ngày đã ăn sâu vào trong tiềm thức, nên người chết vẫn mang cảm giác và có nhu cầu, dục vọng… giống như một người còn thân xác.

Có những vong chưa chấp nhận mình đã chết, bị lâm vào tình trạng lạnh lẽo cô đơn, đói khát, khổ sở. Theo như Lạt ma Lobsang Ramp nói thì:

“Vì người chết không chấp nhận cõi giới khác đó, nên chết đi họ không hoàn toàn sang hẳn cõi âm mà cứ ở chỗ chuyển tiếp giữa hai cõi. Các vong linh không siêu thoát này đều rất đau khổ, họ không ý thức được rằng mình đã chết, đã bước sang một cõi khác nên cứ đeo bám mãi cõi trần, do vậy mà thần trí họ càng mê muội, điên đảo….

Cho đến khi nào vong linh tỉnh táo, chịu nhìn nhận những sự việc xẩy ra chung quanh, Ý THỨC ĐƯỢC SỰ CHẾT CỦA MÌNH VÀ CHẤP NHẬN CÁI CHẾT ĐÓ thì họ mới có thể siêu thoát được”.

Tất cả những cảm giác này đều do sự chiêu cảm của nghiệp hiển hiện. Trong Kinh Địa Tạng, Ngài Địa Tạng Bồ Tát nói với Bồ Tát Phổ Hiền rằng:

Đó đều là do chúng sanh trong cõi Diêm-Phù-Đề làm những điều ác mà tùy nghiệp chiêu cảm ra cảnh địa ngục như thế….Nghiệp lực họ tạo rất lớn, có thể sánh với núi Tu-Di, có thể sâu dường biển cả, có thể làm chướng ngăn đạo thánh.

Lạt ma Lobsang Ramp còn cho rằng:

“sự không siêu thoát sẽ tạo nên nhiều đau khổ. Linh hồn của họ luôn bị giam hãm, bị bao bọc trong một cái vỏ do chính họ tạo ra, nên họ không thể thấy gì bên ngoài (như ông Lương từng diễn tả: SAU KHI MẤT THÂN XÁC, ÔNG LƯƠNG ĐÃ NÓI RẰNG, XUNG QUANH ÔNG BAO BỌC MỘT MÀU ĐEN ĐỎ VÀ KHÔNG THẤY GÌ CẢ.

….Theo thời gian khi dục vọng trong họ giảm bớt, cái vỏ này sẽ tan dần và đến một lúc nào đó họ sẽ ý thức được điều này, và dược siêu thoát”.

Mật tông tả rằng: Xác thể và dục thể có tan rã hết thì con người mới siêu thoát và đầu thai vào kiếp mới được. Dục thể được cấu tạo bằng những ham muốn, thèm khát, tình cảm … NÊN CHÍNH DỤC THỂ QUYẾT ĐỊNH THỜI GIAN CON NGƯỜI PHẢI SỐNG NƠI CÕI ÂM LÂU HAY MAU. VÌ VẬY MÀ NHỮNG NGƯỜI ÍT HAM MUỐN CÓ TÂM HỒN THANH KHIẾT SẼ DỄ SIÊU THOÁT HƠN NHỮNG NGƯỜI CÓ NHIỀU DỤC VỌNG.

Trường phái Nam Tông (Phật giáo dược truyền từ phía Nam nước ta thì gọi Nam truyền hay Nam tông) cho rằng: Con người sau 49 ngày nếu chưa thể tái sinh thì họ được xếp vào hạng: Là các loại cô hồn, ma quỷ vất vưởng. Vì vậy mà thuyết của phái Nam truyền không cho là có thế giới trung thân, trung ấm.

NHỮNG NGƯỜI KHÔNG SIÊU THOÁT ĐƯỢC SAU 49 NGÀY, ĐỀU LÀ NHỮNG CHÚNG SINH CÒN BÁM CHẤP QUÁ NHIỀU VÀO CUỘC SỐNG DƯƠNG TRẦN, NÊN TRONG KIẾP TÁI SINH TIẾP THEO CÓ KHẢ NĂNG HỌ SẼ ĐỌA VÀO CÕI GIỚI NGẠ QUỶ.

Giờ thì chúng đã hiểu vì sao kinh nói, sau khi mất thân người thì bảy tám mươi phần trăm vong là tái sinh vào kiếp ngạ quỷ. Nghiệp báo của chúng ta sau khi mất thân người còn đang chông chênh. Nếu tâm cứ chìm mãi trong mê muội bám chấp vào cuộc sống dương trần quá mạnh, trụ ở trong cõi âm quá lâu! Mà càng lâu thì kết nghiệp duyên với ngạ quỷ càng nhiều và thế là cảnh giới tiếp theo của ta sẽ là ngạ quỷ.

SỰ VI DIỆU BẤT KHẢ TƯ NGHỊ CỦA CÁC CÂU THẦN CHÚ PHẬT 

Để chuyển hoá được tâm thức, giúp chuyển nghiệp, tiêu trừ nghiệp chướng… chư Phật và Bồ Tát đã ban cho chúng sinh rất nhiều pháp môn như Thiền, Mật, Tịnh. UY LỰC CỦA NHỮNG CÂU THẦN CHÚ RẤT VI DIỆU NHƯNG NHIỀU NGƯỜI TRONG CHÚNG TA LẠI COI NHẸ VIỆC TỤNG KINH TRÌ CHÚ, vì không thấy được hiệu quả trước mắt.
Khi con người còn thân xác, do thể chất quá nặng nên năng lực của các câu thần chú tác động đến tâm thức không nhiều. Nhưng khi con người mất thân xác thì các câu thần chú này lại như một liều thần dược giúp chuyển hoá tâm thức rất nhanh.

Vì thế mà ông Lương nói, ông chỉ tiếp cận đạo Phật mới gần đây, nhưng phật pháp xoay chuyển nghiệp báo rất nhanh: Trong chớp mắt.

Theo ông, chỉ khi tiếp cận với Phật đạo tâm ông mới phát tâm tỉnh giác, hỉ xả buông bỏ.

Ông kể sau khi trì tụng Chú Đại Bi, nghe kinh pháp, ông mới thấy sắc màu xung quanh mình chuyển từ mầu đen đỏ sang màu sáng.

Sắc màu quanh người (còn gọi là hào quang) của người dương cũng như người âm thể hiện trạng thái tình cảm tư tưởng của tâm thức.

PHÁP PHẬT THẬT VÔ BIÊN. CÁC CÂU THẦN CHÚ RẤT LINH DIỆU VÀ BẤT KHẢ TƯ NGHÌ.

Như vậy, sự buông xả không chỉ dành cho những người tu khi còn sống mà nó còn vô cùng quan trọng và cần thiết cho những vong linh trong việc siêu thoát.

NẾU CHÚNG TA KHÔNG TẬP THÓI QUEN BUÔNG XẢ NGAY LÚC CÒN SỐNG, THÌ SẼ RẤT KHÓ SINH TÂM BUÔNG BỎ KHI BƯỚC QUA THẾ GIỚI BÊN KIA.

Không phải chúng sinh nào cũng may mắn được tiếp cận Phật pháp tại cõi âm như ông Lương. Nếu như ông Lương không có duyên lành với Phật pháp, không chịu trì tụng kinh Chú, có lẽ cảnh giới tái sinh tiếp theo của ông sẽ khó thoát khỏi kiếp súc sinh và ngạ quỷ (do ác nghiệp sát sinh).

Mật Tông cho rằng, Sự cầu nguyện, NHẤT LÀ KHI TỤNG CÁC CÂU THẦN CHÚ SẼ PHÁT RA NHỮNG ÂM THANH ĐẶC BIỆT CÓ CÔNG DỤNG LÀM RUNG ĐỘNG CÕI ÂM, TÁC ĐỘNG VÀO THẦN THỨC GIÚP CÁC LINH HỒN ĐANG BỊ BAO BỌC TRONG CÁI VỎ KÉN MÊ MUỘI TỈNH THỨC.

KHÔNG PHẢI CHỈ NHỮNG CÂU THẦN CHÚ MỚI CÓ HIỆU QUẢ, MÀ NHỮNG LỜI CẦU NGUYỆN HỒI HƯỚNG CHÂN THÀNH CỦA NGƯỜI THÂN DÀNH CHO HỌ CŨNG ĐEM ĐẾN HIỆU QUẢ TỐT ĐẸP KHÔNG KÉM…

Lời chú nguyện có một sức mạnh VÔ BIÊN DÙ BẰNG TƯ TƯỞNG VẪN HỖ TRỢ rất mạnh cho cõi giới bên kia.

HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC ĐỂ TRỢ DUYÊN, GIẢM NGHIỆP CHƯỚNG CHO NGƯỜI MẤT 

Nếu các vong linh không siêu thoát được, họ ở càng lâu trong cõi âm thì càng tạo nghiệp tái sinh vào CÕI ngạ quỷ. Vì vậy thời gian ngay sau khi chết là hết sức quan trọng, vì khi đó linh hồn vừa rời khỏi xác, đang xúc động, cần được hướng dẫn trấn an.

NẾU KHÔNG CÓ ĐƯỢC HƯỚNG DẪN RÕ RÀNG, LINH HỒN THƯỜNG VÌ SINH QUYẾN LUYẾN MÀ CỨ QUANH QUẨN THEO DƯƠNG THẾ, KHÔNG SIÊU THOÁT ĐƯỢC VÀ HỌ TRỞ THÀNH NHỮNG CÔ HỒN KHÔNG NƠI NƯƠNG TỰA HOẶC CÓ KHI BỊ SINH VẬT Ở CÕI ÂM LỢI DỤNG ĐƯA VÀO NHỮNG NẺO NGUY HIỂM.

Để người chết không bị sống lâu trong thế cõi âm tăm tối và mau chóng được siêu thoát, vai trò của những người thân rất quan trọng.

Không phải ngẫu nhiên ông Huỳnh Văn Lương yêu cầu con cháu trong nhà lập trai đàn cúng hồi hướng cầu siêu cho ông và những người chết quanh ông được siêu thoát. Do từng sống ở trong cảnh giới đó nên ông rất hiểu là: NẾU KHÔNG CÓ SỰ TRỢ DUYÊN CỦA NGƯỜI THÂN, THÌ NGƯỜI CÕI ÂM RẤT KHÓ SIÊU THOÁT ĐƯỢC.

Trong Kinh Địa Tạng có đoạn:

“Thần hồn người chết đó khi chưa được thọ sinh, ở trong bốn mươi chín ngày, luôn luôn trông ngóng hàng cốt nhục thân quyến tu tạo phước lành để cứu vớt cho… Vì vậy thân quyến của người lâm chung đó, cần phải sắm sửa thực hiện sự cúng dường lớn, lo tụng đọc Tôn kinh, niệm danh hiệu của Phật và Bồ Tát, tạo nhân duyên phúc lành như thế, có thể giúp cho người chết thoát khỏi chốn ác đạo và các loài ma, quỉ, ác thần, thảy đều phải thối lui tan biến hết”.

TẠM TIẾT LỘ CHÚT NHÂN QUẢ

Một cô cháu gái kể mình làm công đức để hồi hướng cho ông nội vì (ông nội cô ta đang bị quả báo tái sinh vào cảnh khổ). Ông Lương trả lời: Người thân gần nhất chính là con cái hồi hướng, sẽ có hiệu quả nhất, sau đó mới đến hàng con cháu.

Lưu ý điều quan trọng này: Khi làm việc lành tạo công đức hồi hướng cho người mất, tuyệt đối không được sát hại bất cứ sinh vật nào. Nếu còn sát sinh, thì chỉ tổ tạo thêm nghiệp xấu cho người cõi âm!

Trong Kinh Địa Tạng, Bồ Tát Địa Tạng cũng bạch Phật rằng:

“Vì lẽ đó mà hôm nay con đối trước Thế Tôn cùng với hàng Trời, Rồng, tám bộ chúng, người và phi nhơn vv… thiết tha khuyên bảo những chúng sinh trong cõi Diêm-Phù-Đề, là vào ngày lâm chung, hàng thân thuộc phải cẩn thận không được giết hại và chớ nên tạo nghiệp chẳng lành, cũng đừng tế lễ Quỉ, Thần, cầu cúng ma quái… Vì sao? Vì hành vi giết hại cúng tế đó, không đem lại chút lợi ích nào cho người chết, ngược lại còn làm gia tăng tội nghiệt mà thôi”.
các Nhà ngoại cảm Phật giáo cũng từng phát biểu: Khi họ niệm 108 câu Nam Mô A Di Đà Phật thì đã nhìn thấy các vong linh quanh đó ngồi xuống trong tư thế thiền định đồng niệm phật theo.

Nên họ tin chắc chắn rằng: Chỉ có câu Phật hiệu là món quà quý giá nhất đối với các chúng sinh ở cõi âm. Câu Phật hiệu đã giúp họ tịnh tâm, khởi ý buông xả, từ bỏ mọi bám chấp nhờ vậy mà có thể siêu thoát được.

Nếu chúng ta cứ lo đốt vàng mã, cúng nhiều gà vịt, xây mộ thật to cho người âm, có nghĩa là chúng ta muốn họ sinh tâm bám chấp cực mạnh, sống càng lâu hơn nữa trong thế giới quỷ vô cùng khổ sở đó.

GIỮ TÂM TRONG SÁNG, TRÌ TỤNG KINH CHÚ, NIỆM PHẬT CŨNG LÀ TẠO CÔNG ĐỨC 

Vì đã thoát ra khỏi thân xác, nên người âm đọc được hết mọi suy nghĩ của người dương.

Họ cảm nhận được những gì mà người khác đang suy nghĩ. Có một chi tiết rất hay như thế này: Trong lúc đang trò chuyện, thì cô cháu gái ông Lương bỗng khởi tâm lo nghĩ cho con chó đang bị ốm ở nhà không ai chăm sóc. Thế là Ông Lương bỗng kêu lên: -“Sao mình thấy xung quanh toàn là chó thế này?!”

Thông qua điều này, chúng ta có thể hiểu rằng: Sau khi người thân mất, nếu quyến thuộc trong nhà hàng ngày trì tụng kinh, chú… Phật và thường xuyên hồi hướng cho người đã chết ,thì các vong linh này sẽ tiếp cận được Phật pháp. Vì lúc đó họ chưa đi đâu cả, vẫn còn quanh quẩn ở trong nhà.
chính những câu thần chú, niệm Phật… và sự chí thành cầu nguyện hồi hướng… sẽ tác động vào tâm thức người mất, khiến các vong linh thầm nhận được sự an lạc và sinh tâm hoan hỉ mà siêu thoát. Đây là một hình thức trợ duyên rất tốt cho người âm.

Qua chi tiết này TA THẤY VÌ SAO PHẢI LUÔN GIỮ SỰ TRONG SÁNG TRONG TÂM. Vì khi ta khởi lên những vọng tưởng không tốt thì tà ma ác quỷ sẽ nương tư tưởng xấu của ta mà xâm nhập, vì đồng thanh tương ứng, đồng ý tương cầu!

Vì nhân quả báo ứng không sai, nên phải tinh tấn tu khi đang mang thân người

Đã rất nhiều lần trong cuộc nói chuyện với quyến thân trong gia đình, ông Lương khuyên tất cả “phải tinh tấn tu”.

Gặp ai ông cũng bảo “PHẢI SIÊNG TU!” – VÌ CUỘC SỐNG CON NGƯỜI RẤT NGẮN NGỦI. CÓ TIỀN BẠC NHIỀU ĐỂ LÀM GÌ, QUYỀN CAO CHỨC TRỌNG ĐỂ LÀM GÌ, CÀNG NHIỀU THÌ CÀNG CHẤT THÊM NGHIỆP KHỔ, VÌ CÓ LẮM TIỀN NGƯỜI TA THƯỜNG SINH LẮM TẬT HƯ. Chỉ cần đủ ăn đủ mặc là tốt rồi. CHỈ CÓ TU MỚI giúp THAY ĐỔI XOAY CHUYỂN ĐƯỢC NGHIỆP CHƯỚNG CỦA MÌNH. NẾU KHÔNG TU THÌ CỨ THEO NGHIỆP MÀ TÁI SINH, RỒI RƠI VÀO CẢNH KHỔ.

KHI KHÔNG CÒN THÂN XÁC, NHƯNG BIẾT TÌM ĐẾN, TIẾP CẬN VỚI ĐẠO PHẬT, ÔNG LƯƠNG THẤY XUNG QUANH MÌNH SÁNG DẦN LÊN VÀ CÒN NHÌN THẤU LUẬT NHÂN QUẢ THÔNG QUA BA THỜI CỦA CÁC KIẾP QUÁ KHỨ, HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI.

Khi nói về hậu kiếp của các thân nhân trong gia đình. Có những chi tiết tế nhị đúng ra không nên công bố. Nhưng chúng ta có thể tạm biết một chút để lấy đó làm bài học răn mình.

Ông Lương đã nhìn thấy và cảnh báo một số người thân của ông rằng sau khi mất thân người họ sẽ sinh về cảnh giới nào. Nguyên do vì sao họ lại đầu thai ở cảnh đó! Ông giải thích là: Dựa theo luật nhân quả, NGƯỜI CÓ CÔNG ĐỨC THÌ SẼ CHUYỂN THÂN LÀM NAM. Vị KHÔNG CHỊU LÀM VIỆC, LƯỜI BIẾNG LẠI THIẾU NỢ NGƯỜI KHÁC THÌ SẼ ĐẦU THAI làm KIẾP CHÓ.

Còn vị ham chơi cờ bạc sẽ tái sinh thành người nghèo khổ phải xách giỏ đi ăn xin một nửa kiếp đầu… (nên nhớ đây là ông dự báo cho một số thân nhân để họ sớm tỉnh giác lo tu thì may ra chuyển nghiệp xấu thành tốt. Bằng không, họ phải nhận lãnh quả báo, tất cả đều là do nhân gieo của họ trong kiếp này nên phải thọ quả ở kiếp tương lai) độc giả chỉ xem để biết và rút kinh nghiệm thôi.

Có một cuộc đàm thoại không thành (do sự cố chấp của người con gái) nên ông Lương rất buồn vì đã nhìn ra cô này trong kiếp tương lai sẽ bị quả báo có người cha không yêu thương mình. Ông bảo: Toàn bộ cuộc sống của ông khi còn thân xác cho đến khi sang thế giới âm đều vận hành theo luật nhân quả. Do ông đã nhìn thấu rõ và hiểu được tầm quan trọng nên mới tha thiết nhắc tất cả cần phải tu khi còn đang mang thân xác con người.

Trong Kinh địa Tạng nói: “Chúng sinh chớ khinh thường cho rằng làm điều quấy nhỏ là không tội, vì sau khi chết đều có quả báo, dầu là tí ti đều phải lãnh báo” .

Qua câu chuyện này ta thấy rõ chúng sinh cõi âm không thể tu được mà cần phải có thân người mới tu được. Vì người cõi âm không thể thực hiện được ngũ giới và tu thập thiện. Người cõi âm không thể nào niệm 10 câu niệm Phật mà không xen tạp, vì vọng tưởng trong tâm thức của vong linh loạn cuồng và mạnh gấp 9 lần so với người có thân xác.

Người âm cũng không có người hộ niệm để xua đuổi các oan gia trái chủ. Vì vậy, cho dù có cố gắng họ cũng không thể vãng sinh về Tây Phương cực lạc. Họ chỉ có thể tạo nhân bằng cách gieo chủng tử Phật vào tâm thức thật nhiều, để đến khi mang được thân người, có đủ duyên lành đến được với Phật pháp để tu hành.

Xin được hồi hướng công đức này cho ông Huỳnh Văn Lương cùng các cộng sự của ông, những người lính của cả hai phía và các chúng sinh, nguyện tất cả đều được biết đến Phật pháp tu hành và thành đạo!