TỨ PHẦN LUẬT SAN BỔ TÙY CƠ YẾT MA
Sa-môn Đạo Tuyên chùa Sùng Nghĩa ở Kinh Triệu đời Đường soạn

 

QUYỂN HẠ

THIÊN THỨ TƯ: THỌ Y PHỤC THUỐC MEN THANH TỊNH PHÁP THỌ Y:

(Bấy giờ, các Tỳ-kheo cất chứa nhiều y phục. Phật dạy: Đời sau, các người thiện nam không chịu nổi khổ của lạnh, chỉ chứa ba y không được quá. Luật Tăng-kỳ nói: “Ba y là cờ nêu của Sa-môn Hiền thánh”. Luận Tát-ba-đa nói: Vì cho năm y để che nóng lạnh, trừ không biết hổ thẹn. Khi vào xóm làng, đi trên đường vì phải khéo giữ oai nghi thanh tịnh mới đặt ra ba y.

Luật bản nói: Không được dùng vật bị phạm tội xả đọa và vật tà mạng may y xong thì không thành thọ. Nếu y gấm có năm mầu chính thì không được thọ, nên nhuộm thành mầu ca-sa. Chỉ có chiều dài hai khuỷu tay, chiều rộng bốn khuỷu tay làm y An-đà-hội, dài ba khuỷu tay, rộng năm khuỷu tay làm y Uất-đa-la-tăng, y Tăng-già-lê cũng như vậy.

Luật Ngũ Phần nói: Lượng của khuỷu tay dài ngắn không nhất định. Phật chế tùy thân mà phân lượng.

Phật dạy: Độ theo thân mà may y. Nếu may vải mới thì y An-đàhội, y Uất-đa-la tăng một lớp, y Tăng-già-lê hai lớp. Nếu vải cũ thì may y An-đà-hội và y Uất-đa-la hai lớp, y Tăng-già-lê bốn lớp. Nếu y phẩn tảo thì tùy ý may nhiều lớp, nên may năm điều, không nên may sáu điều. Cho đến, nên may mười chín điều không nên may hai mươi điều. Nếu quá số điều này cũng được chứa. Phải đúng pháp như bờ ruộng ngay thẳng. Cho dùng dao cắt thành y Sa-môn, để không bị kẻ oán tặc cướp mất.

Cho nên, luận Tát-ba-đa nói: Y từ chín điều đến mười ba điều là. Hạ phẩm, đại y may hai bức dài, một bức ngắn. Y từ mười lăm điều đến mười chín điều may ba bức dài, một bức ngắn. Y từ hai mươi mốt điều đến hai mươi lăm điều may bốn bức dài, một bức ngắn. gọi là may đúng pháp.

Nếu thêm hoặc bớt thành thọ trì, nếu đắp dùng thì phạm tội.

Luật dạy: Đúng theo pháp thì xung quanh phải có thành viền, y năm điều gồm mười bức, nên tự mình giặt nhuộm, căng thẳng rồi cắt may.

Đại y, trung y phải cắt rọc, nếu thiếu thì xếp lá mà may. Nếu y ngũ nạp cũng như vậy. Nếu may hạ y thì được xếp lá.

Luật Thập Tụng nói: Nếu thiếu may giảm bớt lượng, hoặc may không có điều tướng.

Luật Tăng-kỳ nói: Lá rộng nhất bằng bốn ngón tay, lá hẹp nhất bằng hạt bắp lớn.

Luật Bản nói: Phải biết: Đây là điều dài, đây là điều ngắn. Đây là sóng lá, đây là đường may thứ nhất, đường may thứ hai. Đây là đường may ở giữa, may lá phải hướng về hai bên, cho may sóng lá giống như móng chân chim.

Luật Thập Tụng nói: Phải may lùi lại, phía trước cách thành viền bốn ngón tay để cái khuy, phía sau cách tám ngón tay để đơm nút.

Luận Tát-bà-đa: Ba y rách nhưng thành viền không rách thì không mất pháp thọ trì.

Trong Tam Thiên Oai Nghi chép: Ở bốn góc may bốn miếng vá.

Luật Bản cho may lá để thấm mồ hôi nhơ. Nếu y nách tùy theo lỗ to, nhỏ, vuông, tròn mà vá, vá rộng hơn hai ngón tay cái.

Luật Thập Tụng chép: Giữ gìn ba y như giữ da mình, người mặc đại y không được ngồi trên đất đá, cỏ cây lẫn lộn.

Nếu không đem ba y mà vào thôn xóm, thì phạm tội.

Luật Tăng-kỳ nói: Phải cung kính tưởng như tháp, nếu không mặc thì cho xếp cất. Vào nhà thế tục, mà không gài nút áo thì cứ vào mỗi nhà phạm một tội.

Luật Ngũ Phần nói: nếu y dưới rách cũng cho đắp đảo ngược lên, trên dưới đều đơm khuy nút.

Trong luật nói: Ngoài xóm làng cho lật trái y mà mặc.

Tỳ-kheo đến chỗ nào thì phải mang y bát theo đến đó. Giống như hai cánh con chim, còn lại những việc khác trong Sự Sao có nói rõ).

Pháp thọ y An-đà-hội (Phật dạy: Ba y phải thọ trì, nêu nghi xả rồi thọ lại. Nếu người có y mà không thọ trì thì phạm Đột-cát-la, nhưng không ngoài pháp thọ. Nay theo luật Thập Tụng gia trì. Nếu dùng năm màu sắc chánh: Xanh, vàng, đỏ, trắng, đen và mầu sắc đẹp để nhuộm thì trong luật, luận đều nói không thành thọ. Nếu y đúng pháp nên thưa rằng):

Đại đức một lòng nhớ nghĩ! Tôi là Tỳ-kheo ni………… y An-Đàhội này là y năm điều, một bức dài, một bức ngắn là y cắt rọc, tôi xin thọ trì (nói ba lần), may có bốn loại: là y cắt rọc, y nhiếp lá, y điệp lá, và y man, các pháp trong đó có hai phẩm chánh và tùng.

Trước nói về chánh có ba loại, nói về tùng thì có hai mươi hai loại. Nếu khi may hai loại y nhiếp lá, điệp lá thì thêm văn thọ. Còn lại thì lời đồng như trên, chỉ sửa lại là hạ y nhiếp lá, tôi xin thọ trì, hoặc là y diệp lá, tôi xin thọ trì.

Nếu thọ trì tùng y thì phải thêm, như vầy:

Đại đức nhất tâm niệm! Tôi là Tỳ-kheo………. y An-đà-hội này là y hai mươi lăm điều, bốn bức dài, một bức ngắn là y cắt rọc, con xin thọ trì, nói ba lần như vậy. Cho đến y chín điều, bảy điều, ở đây rất dễ hiểu.

Y Uất-đa-la-tăng, y Tăng-già-lê đều có chánh và tùng, lại thêm, khác nhau, y theo trên có thể biết. Nếu thêm y man An-Đà-hội, như các văn trên nên nói: Y man An-Đà-hội này, tôi xin thọ trì. (Nói ba lần).

Nếu tính may y Uất-đa-la tăng, Tăng-già-lê đều y theo cách may y An-Đà-hội. Chỉ ước chừng trên dưới của y, tùy theo đó mà thêm bớt khác nhau.

Pháp thọ y Uất-đa-la tăng.

Y này chánh có hai nghĩa là y cắt rọc, xếp lá bảy điều. Tùng có hai mươi. Nếu thọ y cắt rọc, các văn khác y cứ vào cách thêm của văn trên, văn dưới.

Y Uất-đa-la-tăng là y bảy điều, hai bức dài, một bức ngắn là y cắt rọc, tôi xin thọ trì. (Nói ba lần). Nếu y xếp lá hoặc y tùng đều y theo mà đổi.

Pháp thọ y Tăng-già-lê, y này chánh có mười tám loại, nghĩa là y cắt rọc, y xếp lá đều có chín phẩm. Y tùng có sáu thứ. Nếu thọ y cắt rọc, thì lời lẽ nói như trên, theo đó đổi lại phần sau: Là y Tăng-già-lê (bao nhiêu điều) tôi xin thọ trì, mấy bức dài, mấy bức ngắn, là y cắt rọc, hoặc y xếp lá tôi xin thọ trì. Nói ba lần cho đến y chín điều cũng theo như trên. Nếu có y tùng thì lệ theo như trước.

Pháp thọ man y.

Trong Luật Bản nói: Ba chúng dưới nếu ngủ lìa y ở chỗ khác thì phạm Đột-cát-la.

Luận Tát-bà-đa nói: Phải đem hai y thượng, hạ.

Một phải mặc An-đà-hội, hai phải mặc Uất-đa-la-tăng.

Nếu được y đúng pháp nên nói: Đại đức một lòng nghĩ: Con là Sa-di……… y man này là y An-Đà-hội, con xin thọ trì.

Luật tuy không nói pháp thọ. Nay y cứ vào luật Thập Tụng, luật Ngũ Phần đúng pháp nói ba lần.

Về Pháp xả y, Luật Bản nói: Có nghi nên xả rồi lại thọ, không nói văn xả. Có duyên cần xả thì sửa sang oai nghi bạch thêm rằng:

Đại đức một lòng nghĩ! Tôi là Tỳ-kheo……. Đây là y Tăng-già-lê là một trong ba y của con. Trước tôi thọ trì, nay tôi xin xả.

Nói một lần thôi, ngay cả hai y dưới cho đến năm y của ni, v.v… cần xả thì cũng giống như vậy.

Pháp ni thọ hai y khác.

Bấy giờ, Tỳ-kheo ni để bày ngực, cánh tay mà đi, bị người đời chê cười, nên bạch lên Đức Phật.

Phật nói: Phải có y Tăng-kỳ-chi để che vai.

Nay y cứ luật Tăng-kỳ thêm rằng:

Bạch Đại tỷ một lòng nghĩ! Tôi là Tỳ-kheo ni…….. y Tăng-kỳ-chi này may đúng pháp. Tôi xin thọ trì. (Nói ba lần). Nếu theo văn trong Tăng-kỳ, thì rộng bốn khuỷu tay, dài hai khuỷu tay vốn là pháp Phật chế. Nay sửa lại, nghĩa là y cứ các pháp, y che vai này cũng như pháp may kỳ-chi. Nay lấy để mặc, hoặc may giảm bớt, không cần y theo văn. Nên theo pháp mà sửa đổi thêm.

Bạch Đại tỷ một lòng nghĩ! Tôi là Tỳ-kheo ni…….. y che vai này may đúng pháp, tôi xin thọ trì. (Nói ba lần).

Nếu có thay đổi cần xả thì cũng y theo văn trên. Nếu Thức-xoama-na-ni, hay Sa-di ni thọ bốn y cũng đồng như trước.

Pháp tâm niệm thọ xả y:

Luật Ngũ Phần nói: Tỳ-kheo ở một mình, trong ba y muốn thay đổi một y, phải sửa sang oai nghi, tay cầm y tâm nghĩ miệng nói bạch rằng:

Tôi là Tỳ-kheo ni………. y Tăng-già-lê này có bao nhiêu điều nay xin xả. (Nói ba lần).

Nhưng sau có y dư thì cũng sửa sang oai nghi như trước, cách bạch thì thêm rằng:

Tôi là Tỳ-kheo ni………. y Tăng-già-lê này có bao nhiêu điều, tôi xin thọ trì, nói ba lần.

Hai y khác v.v… thọ xả cũng giống như vậy.

Y vào dư xả như pháp tâm niệm tịnh thí ở sau. Bốn chúng khác thọ xả đều y cứ theo đây.

Phạp thọ Ni-Sư-Đàn.

Phật dạy: Vì thân, vì y, vì đồ nằm nên cho phép cất giữ. Chu vi dài bốn thước, rộng ba thước. Theo Luật Bản thì thêm nửa gang tay. Luật Thiện Kiến nói: Đúng pháp may Ni-sư-đàn ngoài bìa phải chồng thêm nhiều lớp.

Luật Thập Tụng nói: Vải mới thì may chồng hai lớp, vải cũ thì may chồng bốn lớp.

Luật Tăng-kỳ nói: Không được tự nhiên đem vật cũ mà may, rút lượng nước thấm ướt, hoặc khô quá thì phạm tội đọa, thọ dùng thì phạm tội nhẹ. Đây là tùy theo y mà ngồi, không được tịnh thí. Và để lấy củi cỏ, hoặc đựng những vật dụng khác. Phải xếp y để vai trái mà đi, đến chỗ nào ngồi thì trải ra ngồi. Nếu để chỗ cũ phải giấu trong y. Khi muốn ngồi thì từ từ trải ra, trước dùng tay đè xuống, rồi mới ngồi lên.

Luật Thập Tụng nói: Không nên thọ đơn, ngủ lìa nó phạm Độtcát-la.

Luật Ngũ Phần nói: Nên may bốn góc, không may thì thôi.

Luận Ma-đắc-lặc già nói: Nếu lìa mà ngủ thì không cần xả. Luật, luận chế văn thọ bị thiếu. Nên bạch thêm rằng:

Bạch Đại đức một lòng nghĩ: tôi là Tỳ-kheo………. Ni-sư-đàn này may đúng pháp, nay tôi xin thọ trì. (Nói ba lần). Đây là có trừ duyên theo pháp xả y ở trên.

Pháp thọ Bát-đa-la.

Luật Tăng-kỳ nói: Bát là đồ dùng của người xuất gia ít muốn ít việc. Nó không thích nghi với người thế tục.

Luật Ngũ Phần nói: Phật tự làm bát xấu, để chế pháp cho đời sau.

Trong Luật nói: Không được chứa nhiều bát báu, đồng chì, gỗ đá. Đại khái có hai loại là bát đất và bát sắt, nên xông bằng hai mầu đen và đỏ. Thời bấy giờ, có nhiều loại bát như để-da, tất-tố, hiệp trữ, v.v…

đều chẳng phải Phật chế, không thành thọ trì.

Trong các bộ chỉ nói: Xông bát một mầu.

Luật Thập Tụng và luận nói: Bát bậc thượng đựng đủ một đấu hay ba đấu.

Luật Tỳ-ni Mẫu nói: Không đầy một đấu rưỡi, nếu quá ba đấu thì không được thọ.

Luật Thiện Kiến nói: Nếu Bát lủng, bể, mất thì được xin thọ trì.

Luật nói: Bát bể thức ăn nhét vào, nhưng rửa thức ăn không ra thì không phạm. Phải cẩn thận giữ gìn không được bỏ, cho đến không được để bát dưới chân cho bể.

Luận Tỳ-ni Mẫu nói: Phải dùng xà-bông mà rửa.

Luật Bản nói: Hoặc dùng lá, hoặc nước để rửa sạch dầu mỡ. Nên may đảy hay bọc đựng bát, buộc miệng hướng ra ngoài, đeo trên vai, kẹp bát dưới nách.

Luật Ngũ Phần nói: Bát bằng sành nên để gần mặt đất mà rửa, nếu rửa trái phép thì mắc tội.

Luận Tỳ-ni-Mẫu, Thập Tụng nói: Bát là cờ nêu của Chư Phật, không được dùng với tâm xấu, phải cung kính, cẩn thận giữ gìn như giữ tròng mắt mình.

Trong luật nói: Nếu có vỡ, thì dùng chì trắng, bạch lạp mà hàn lại. Luật không có pháp thọ, theo luật Thập Tụng nói rằng:

Đại đức một lòng nghĩ: Tôi là Tỳ-kheo………. Bát-đa-la nầy đúng lượng, tôi xin thọ trì, vì thường dùng. (Nói ba lần).

Luật Thiện Kiến nói: Nếu khi không có người, riêng mình thọ trì bát, thì y theo văn trên. Bốn chúng như Tỳ-kheo ni, v.v………. cũng y theo đây. Nếu bỏ cũ thọ mới, đều y theo văn trên.

Pháp thọ thuốc

Phật dạy: Có bốn loại thuốc.

1/ Thuốc đúng thời 2/ Thuốc phi thời 3/ Thuốc bảy ngày 4/ Thuốc trọn đời.

Phải dùng tay nhận.

Luận Tát-bà-đa nói: Nhận thức ăn có năm nghĩa.

Luật Bản không nói pháp thọ. Y theo luật Thập Tụng và luật chế cho nhận thuốc đúng thời. Tay, miệng đều nhận ba thứ thuốc kia, gồm cả hai thứ mà thọ.

Pháp thọ thuốc đúng thời.

Phật dạy: Bồ-xà-ni có năm loại, là: Cơm, cốm, cơm khô, cá, thịt.

Khư-xà-ni có năm loại là: Cành, lá, hoa, quả và thức ăn bằng bột mịn, gọi là thuốc đúng thời. Nghĩa là từ sáng đến giữa ngọ, nếu muốn thọ trước phải biết thể chất của thuốc, rồi sau mới trao thọ. Các thứ thuốc khác đều y theo pháp này.

Thuốc chẳng có bảy lỗi:

1/ Chẳng phải chỗ ngủ mà ngủ. 2/ Chẳng phải chỗ nấu mà nấu. 3/ Chẳng phải tự nấu. 4/ Chẳng phải ác xúc. 5/ Chẳng phải thức ăn dư cách đêm. 6/ Chẳng phải mua bán mà được. 7/ Chẳng phạm thuốc dư v.v…

Người trao thức ăn có ba thứ:

1/ Phải biết phân biệt là thức ăn hay chẳng phải thức ăn. 2/ Phải có tâm cúng dường. 3/ Đúng như pháp trao cho.

Ba pháp tự thọ.

1/ Biết phân biệt thể của thức ăn và thức ăn của tịnh nhân đã trao, tâm cảnh hợp nhau, không lẫn lộn vật đây, vật kia.

2/ Có tâm tự ăn, chẳng vì việc khác.

3/ Đúng như luật dùng tay thọ, có hai thứ năm pháp, chẳng phải việc làm trái oai nghi.

Bữa ăn chính có năm pháp quán.

1/ Tính công nhiều hay ít, lượng thức ăn ở đâu đem đến.

2/ Tự biết đức hạnh của mình thiếu hay đủ mà nhận sự cúng dường.

3/ Giữ gìn tâm mình, xa lìa các lỗi như tham, v.v… làm cội gốc.

4/ Chính là vị thuốc hay để trị thân gầy ốm.

5/ Là vì thành đạo nghiệp.

Tất cả đều là chánh văn của luận luận, chớ chẳng phải kiềm chế hay mở rộng như Hành Sự Sao.

Pháp thọ thuốc phi thời.

Phật dạy: Cho dùng thứ có nước như: Lê, táo, trái nhuy, mía làm nước uống. Nếu những thứ nước không làm say người có thể uống phi thời cũng không nên uống. Ngày nay nhận nước uống để đến ngày mai, nếu uống thì đúng pháp mà trị.

Luật Tăng-kỳ và Ngũ Phần nói: Khai cho được uống nước trái cây ép, nếu các nước trái cây lóng mầu như nước, rồi nhỏ nước vào để điểm tịnh, nghĩa là thêm pháp bạch thọ rằng:

Bạch Đại đức một lòng nghĩ, tôi Tỳ-kheo……… nay vì nhân duyên bệnh phát, đây là nước trái cây ép, vì muốn trải qua phi thời uống dùng, nay nên ở trước Đại đức tôi xin thọ, nói ba lần, các thứ nước khác y theo đây. Nếu không bị bệnh khát, thì phạm tội.

Pháp thọ thuốc bảy ngày

Phật dạy: Có sữa, dầu, sữa tươi, mật, đường phèn, người thế gian

chê bai, có nhân duyên bị bệnh cho uống khi trái thời.

Luật Tăng-kỳ nói: Các thức mỡ cũng uống bảy ngày, nghĩa là nên thêm pháp bạch rằng:

Bạch Đại Đức một lòng nghĩ, tôi là Tỳ-kheo………. Nay vì nhân duyên bệnh nóng, sữa này là thuốc bảy ngày, vì muốn uống để cách đêm. Nên nay ở trước Đại đức tôi xin thọ. (Nói ba lần).

Luật Bản nói: Bệnh phong uống dầu và uống năm thứ mỡ.

Luật Tăng Kỳ đều có pháp đối bệnh cho thuốc.

Pháp thọ thuốc suốt đời

Phật dạy: Tất cả mặn, đắng, chua, cay, không được ăn. Có nhân duyên bệnh cho uống suốt đời, cho đến tro đất, đại tiểu tiện, v.v… cũng gọi là tay thọ, thêm pháp bạch nói rằng:

Bạch Đại đức một lòng nghĩ, tôi là Tỳ-kheo……… Nay vì nhân duyên bệnh, gừng, tiêu này là thuốc suốt đời. Vì muốn để chung với chỗ ngủ uống lâu dài. Nên nay tôi ở trước Đại đức xin thọ. (Nói ba lần).

Nếu có thuốc khác hoặc bạch thuật, thuốc tán, thuốc hoàn, thuốc thang, thuốc cao, hay thuốc sắc nấu, v.v… nhưng bất kỳ thức ăn, nào đều gọi là gia pháp.

Tát-bà-đa nói: Như năm thứ thạch hoàn, tùy theo nói bất cứ một tên gọi nào, còn các thứ thuốc khác là nhiếp chung.

Pháp y thuyết tịnh

Phật dạy: Y dư bề dài bằng tám ngón tay Đức Như lai, bề rộng bốn ngón, phải tịnh thí, nếu không thì phạm tội đọa. Trừ y Ba-lợi-ca-la, không có hiện tiền, v.v…

Luận Tát-bà-Đa nói: Không ứng lượng là nếu để quá mười ngày, xả và tác pháp sám hối Đột-cát-la. Cho đến tiền của, vật báu, lúa gạo v.v… cũng vậy. Ngón tay Phật bốn phía rộng hai tấc:

Pháp thỉnh thí chủ

Phật dạy: Có hai thứ tịnh pháp 1. Chân thật tịnh pháp.

2. Triển chuyển tịnh pháp.

Tát-bà-đa nói: Nếu tìm người học rộng giữ giới làm thí chủ, cũng không có văn thỉnh, nghĩa là thêm pháp bạch thỉnh.

Bạch Đại đức một lòng nghĩ, tôi là Tỳ-kheo………….. Nay xin thỉnh Đại đức làm chủ triển chuyển tịnh thí y, thuốc, bát. Xin Đại đức vì con làm chủ triển chuyển thí y, thuốc, bát. Xin thương xót tôi. (Nói ba lần).

Người nào làm chủ chân thật tịnh thí, thì tiền, bạc, của báu, lúa gạo, v.v… là người thế tục làm chủ, đều y cứ vào đó mà thỉnh.

Pháp chánh thuyết tịnh

Luật Thiện Kiến nói: Nếu y vật rất nhiều, thì nói từng đoạn. Muốn nói chung thì đều ràng buộc chấp trước lẫn nhau, thêm lên thánh pháp rằng:

Bạch Đại đức một lòng nghĩ, đây là y dư của tôi chưa tác tịnh. Nay vì muốn thanh tịnh nên cũng cho Đại đức làm triển chuyển tịnh thí. Người kia nhận rồi nói:

Trưởng lão một lòng nghĩ! Ông có ý dư này chưa tác tịnh. Vì có tịnh nên cúng cho tôi, nay Tôi xin nhận, hỏi. Ông cúng cho ai? Vị chủ y nói: Cúng cho………. vị nhận tịnh nói:

Trưởng lão một lòng nghĩ! Ông có y dư này chưa tác tịnh, vì tịnh nên cho tôi, tôi đã nhận rồi. Ông cho mỗ y này, mỗ đã có, ông vì mỗ nên ông khéo giữ gìn, tùy nhân duyên đắp dùng.

Bát dư, thuốc dư văn so sánh đều đồng.

Pháp tâm niệm thuyyết tịnh

Ngũ Phần nói: Nên vén y bày vai phải, quỳ gối tay bưng y, tâm nghĩ miệng nói: Tôi là Tỳ-kheo …. y dư này tịnh thí cho …, tùy ý cho trong năm chúng, tùy người kia lấy dùng được đến mười một ngày, lại như trước oai nghi ngay ngắn nói: Tôi là Tỳ-kheo …, y dư này từ mỗ giáp lấy lại được đến mười ngày, lại như trước nói: Tôi là Tỳ-kheo …, y dư này tịnh thí cho …, tùy người kia lấy dùng, như thế xả cái cũ thọ cái mới được đến mười một ngày.

Pháp vàng, lúa thanh tịnh:

Bộ Tát-bà-đa nói: Tiền của, lúa gạo đều đồng như y dư thuyết tịnh mười ngày. Luật bản nói: Phải cầm đến chỗ Ưu-bà-tắc đáng tin cậy, hoặc người giữ vườn, nói như vầy: Đây là sở hữu của tôi, không nên cất chứa, ông phải biết điều đó.

Luận nói: Trừ vàng bạc và tất cả của cải dư, đồng lấy năm chúng làm thí chủ. Nếu thuyết tịnh tiền bạc, mong được y, vật, không nên tịnh thí. Luật Tăng-Kỳ nói: nếu thí chủ chết không được quá mười ngày, lại tìm thí chủ thuyết tịnh. Kinh Tỳ-ni-mẫu nói: Nếu y vật chưa thuyết tịnh may y mặc, đã tịnh rồi thì gọi là y Tịnh hòa hợp. Nếu mầu sắc phi pháp, nay mặc đúng pháp gọi là sắc y tịnh, hòa hợp lại không nên tịnh riêng.

****

THIÊN THỨ NĂM: CÁC PHÁP THUYẾT GIỚI

Luận Ma-đắc-lặc-già nói: Vì sao nói bố-tát xả bỏ các pháp ác, không lành; chứng được pháp lành; phạm hạnh rốt ráo, nửa tháng tự xem phạm hay không phạm, thanh tịnh thân miệng.

Luật Thiện Kiến nói: Vì sao biết được Chánh pháp tồn tại lâu dài ở thế gian?

Kinh Tỳ-ni-mẫu nói: Thanh tịnh là nghĩa bố-tát.

Pháp tăng thuyết giới:

Nếu bốn người trở lên phải bạch, sau đó thuyết giới, ngày mười bốn, mười lăm, mười sáu thuyết giới nghe. Thượng tọa vào ngày bố tát bạch tăng rằng:

– Đại đức tăng nghe, nay ngày mười lăm tháng trăng sáng, bốtát bạch chúng tăng nhóm ở chỗ nào đó thuyết giới. Bạch như thế rồi, Thượng tọa nên dạy Tỳ-kheo trẻ, cho làm đủ tịnh thủy, đèn đuốc, xála.

Bấy giờ hoặc đánh kiền-chùy và pháp lúc khác, hoặc nói:

Các Đại đức lúc bố-tát thuyết giới đến; tăng nhóm rồi, thì điểm danh để biết vị nào đến, vị nào không đến, các chúng Tỳ-kheo trang nghiêm thuyết giới, như trong sao có nói rộng.

Pháp tăng đồng phạm biết tội sám bạch:

Phật bảo: Nếu tăng nhóm họp thuyết giới, người phạm tội không được thuyết, không được nghe giới, không được sám hối với người phạm tội. Người phạm không được nhận sự sám hối của người khác. Tỳ-kheo kia bạch rồi phải sám hối, nên bạch như vầy:

– Đại đức tăng nghe, tất cả chúng tăng đây phạm tội, nếu thời giờ của chúng tăng đã đến, tăng bằng lòng cho tất cả tăng sám hối, tác bạch như thế: Bạch như thế rồi, sau đó thuyết giới. Luật bản nói: Không hối tội cũ trở lại.

Pháp Tăng đồng phạm nghi tội, phát lồ tác bạch:

Phật bảo: Nếu khi thuyết giới, tất cả tăng đối với tội, có nghi nên bạch:

– Đại đức tăng nghe, tất cả tăng này đối với tội có nghi, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho chúng tăng tự nói tội, tác bạch như thế. Sau đó thuyết giới, đây chỉ là phát lồ tội, được nghe thuyết giới, tội cũ vẫn thuyết rồi sám.

Pháp ni sai người thỉnh giáo thọ:

Ngày thuyết giới, nhóm tăng hỏi dục hỏi duyên. Đáp nói: Yết-ma

sai người thỉnh giáo thọ, văn nói:

– Đại tỷ tăng nghe, nếu thời giờ của tắng đã đến, tăng bằng lòng cho tăng sai Tỳ-kheo-ni tên …, vì Tỳ-kheo-ni nửa tháng đến, chờ Tỳkheo tăng cầu giáo thọ bạch rằng:

– Đại tỷ tăng xin lắng nghe, nay tăng sai Tỳ-kheo-ni … vì Tỳ-kheoni nên nửa tháng đến trong Tỳ-kheo tăng cầu giáo thọ. Đại tỷ nào bằng lòng tăng sai Tỳ-kheo ni tên … vì Tỳ-kheo ni nên nửa tháng đến trong Tỳ-kheo tăng cầu giáo thọ thì im lặng. Vị nào không bằng lòng thì nói. Tăng đã bằng lòng sai Tỳ-kheo ni tên …. Vì Tỳ-kheo-ni nên nửa tháng đến trong Tỳ-kheo tăng cầu Giáo thọ rồi. Vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này cứ như vậy mà làm.

Luật bản nói: Nên bạch hai lần sai một người rồi, người kia một mình đi không ai hộ, lại sai hai, ba người làm bạn. Đến chùa tăng, tới chỗ Tỳ-kheo, Nghĩa Chuẩn nên sai người đến nhận người kia dặn dò ni.

Nên trình bày đủ việc thỉnh. Đến ngày mười sáu lại đến chùa tăng cầu không đúng thời. Nếu được lược dạy trao rồi lại về chùa mình, đánh kiền-chùy nhóm họp ni chúng. Người không đến thuyết dục rồi, sau đó sai ni ở trong chờ tăng. Người nói: bèn ở trong ni chúng nói đủ lời tăng răn dạy xong. Các ni chắp tay kính thọ. Luật không có văn, chỉ có văn luật của Tăng-kỳ nghĩa như thế. Nếu hai chúng tăng ni, mời chúng đủ năm người trở lên mới thực hành pháp này. Cho nên luật bản nói: Nếu chúng không đủ, hoặc không hòa hợp, đến lúc chỉ lễ bái hỏi han.

Pháp giáo giới ni:

Phật dạy! Lúc tăng thuyết giới, Thượng tọa hỏi rằng: Chúng Tỳkheo-ni sai người nào? Nay chỉ lấy những người phải thời thuyết giới, hỏi han, dặn dò, liền đứng dậy sửa sang oai nghi, bạch tăng rằng:

– Đại đức tăng lắng nghe, Tỳ-kheo-ni ở chỗ nào đó hòa hợp, tăng sai Tỳ-kheo ni mỗ nửa tháng đảnh lễ dưới chân Tỳ-kheo tăng cầu thỉnh người giáo thọ ni (nói ba lần), Nghĩa Gia nói: Người kia nên đến chỗ Thượng tọa nói: Đại đức từ bi cứu giúp có thể làm Giáo thọ Tỳ-kheo-ni không? Nếu đáp rằng không có khả năng, đến vị hai mươi tuổi hạ mỗi mỗi đều hỏi. Nếu không có người, thì đến chỗ Thượng tọa bạch rằng: Hỏi khắp chúng tăng không vị nào có khả năng, Thượng tọa liền nên lược pháp giáo giới, dặn dò người rằng: Chúng này không có người chịu giáo giới, ngày mai ni đến thỉnh có chịu được không? Nên đáp rằng: Hôm qua vì ni mà thỉnh khắp nhưng không có người có khả năng. Tuy nhiên, Thượng tọa có khuyên răn, khuyên các ni chúng tinh tấn hành 81 đạo, cẩn thận chớ buông lung.

Pháp nói thanh tịnh:

Phật dạy: Vào ngày thuyết giới, nếu khách đến ít người, thì phải nói cho cựu Tỳ-kheo thanh tịnh biết, nên nói như vầy: Tôi là Tỳ-kheo thanh tịnh, nếu thuyết lời tựa giới xong, mới trình bày như thế, chắc chắn có người phạm nêu tội, nói xong rồi người khác theo thứ lớp nghe.

Pháp biết tội phát lộ:

Đức Phật dạy: Phải đến Tỳ-kheo thanh tịnh, oai nghi ngay ngắn nói việc đã phạm, nói chủng loại bạch rằng: Đại đức nhớ nghĩ: Tôi là Tỳ-kheo phạm tội …. này hướng về tăng phát lồ. Sau đó, đúng như pháp sám hối, (nói ba lần): Khi nói giới nhớ lại, phải dùng pháp này. Nếu lúc khác y vào pháp sám hối. Luật Thập Tụng nói: Tỳ-kheo phát lồ không cần phát lồ lại. Pháp nghi tội phát lồ:

Luật bản nói: Tỳ-kheo phạm tội có nghi, lại ép ngặt thuyết giới.

Phật dạy: Nên phát lồ rồi mới được nghe giới, y theo nghĩa nói: Đại đức nhớ nghĩ: Tôi là Tỳ-kheo phạm ở chỗ nào đó sinh nghi. Nay hướng về Đại đức phát lồ, sau đó không có nghi, sám hối đúng như pháp (nói ba lần).

Pháp thuyết giới Thượng tọa nhớ tội phát lồ:

Luật nói: Vì ở trước Thượng tọa bỗng nhớ tôi của mình, hướng về người bên cạnh nói về tội của mình, cả chúng náo loạn. Phật bảo nên tâm niệm phát lồ, y theo nghĩa nói: Tôi là Tỳ-kheo … phạm tội … vì ép ngặt thuyết giới, vì sợ chúng náo loạn, đợi xong nên sám hối (ba lần nói nghi tội y theo đây).

Pháp lược thuyết giới:

Phật dạy: Nếu bị nạn vua, giặc, nước, lửa, người bệnh, phi nhân, trùng độc, và có các duyên khác, hoặc sáng tòa ít, trời mưa, bố-tát nhiều đêm đã lâu, hoặc đấu tranh nói pháp, v.v…

Nhiều đêm là lược thuyết giới, Ngũ Phần, Tăng-Kỳ đều nói là nhiều duyên khai cho lược nói, nói phương tiện trước, rộng ra như pháp.

Tùy theo việc gấp hoặc thư giãn mà nói. Trong luật nói có ba, năm cách nói lược, tùy theo duyên xa gần văn không rõ ràng. Nay nếu thuyết tựa hỏi thanh tịnh rồi nên nói:

– Thưa các Đại đức, pháp Ba-la-di này tăng thường nghe (mười ba pháp tăng già bà-thi-sa, cho đến pháp chúng học đều nói).

– Các Đại đức đây là pháp chúng học mà tăng thường nghe. Các Đại đức đây là bảy pháp diệt tránh, nửa tháng nói trong giới kinh, trước hết y theo văn nói rộng. Nếu nạn xong đến nên tùy theo chỗ đến nói, đã nói đến chỗ nào đó, còn điều khác tăng thường nghe. Nếu nạn duyên ép ngặt đến gần không được nói tựa. Luật Tăng-kỳ nói:

– Các Đại đức: Nay ngày mười lăm bố-tát, mời người thân miệng thanh tịnh chớ buông lung. Mỗi người tùy ý đi. Trong luật nói: đến ngày bố-tát, không được không thuyết giới. Nếu không có người tụng nên sai người đến chùa gần bên tụng, rồi trở về chỗ mình thuyết. Nếu không thì nói pháp, tụng kinh cũng được.

Pháp Đối thú thuyết giới:

Đức Phật dạy: Nếu trú xứ Tỳ-kheo, ngày thuyết giới nên đến chỗ thuyết giới quét dọn, rưới nước quét dọn sạch sẽ, trải đồ ngồi, chuẩn bị bình nước, đốt đèn, làm xá-la. Nếu Tỳ-kheo khách đến, hoặc bốn vị trở lên thì nên bạch thuyết giới. Nếu có bốn người thì nên nhóm họp bạch thuyết giới. Nếu có hai người thì không được thọ dục, nên mỗi người ba lần nói “Thuyết giới”.

Nói như vầy: Hai Đại đức nhớ nghĩ! Nay ngày mười lăm tăng thuyết giới. Tôi tên …. thanh tịnh. Còn hai người khác cũng ba lần nói như thế. Một Tỳ-kheo đến ngày thuyết giới, lo dọn dẹp chuẩn bị các dụng cụ như trước, đợi khách Tỳ-kheo. Nếu không có người nên nói: Nay ngày mười lăm thuyết giới, tôi tên v.v… thanh tịnh (nói ba lần). Ngũ Bách Vấn Sự nói: Như gia pháp ở trên, người đã có tội, hướng về Tăng bốn phương sám hối, ngồi riêng tụng giới cho đến xong. Tỳ-kheo ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di ni đồng như trên.

****

THIÊN THỨ SÁU: PHÁP CÁC CHÚNG AN CƯ

Bấy giờ, các Tỳ-kheo du hành bất cứ lúc nào, dẫm chết cỏ cây sống, cắt đứt mạng sống chúng sinh, người đời chê trách nói giẫm đạp côn trùng. Phật bảo không nên du hành trong mọi lúc, cho an cư ba tháng có chê trách chung, nên chế luật ni riêng.

Pháp an cư:

Phật bảo có ba thứ an cư: Tiền an cư, an cư, hậu an cư.

– Tiền an cư là ở trước ba tháng. Hậu an cư là ở sau ba tháng.

Luật Thập Tụng nói: Phật chế năm chúng phải an cư. Luật nói: Ni không an cư phạm ba-dật-đề. Tăng đồng với bốn chúng phạm đột-cátla. Luận Minh Liễu nói: chỗ không có năm lỗi được Trung an cư:

  1. Xóm làng rất xa, cầu tìm khó được.
  2. Rất gần thành thị, ngăn sự tu hành.
  3. Nhiều côn trùng như muỗi kiến, cả người và vật đều tổn.
  4. Không có người nương tựa.
  5. Người nương tựa phải có năm tính chất tốt:
  1. Điều chưa nghe làm cho nghe.
  2. Đã nghe rồi làm cho thanh tịnh.
  3. Giải quyết được lưới nghi.
  4. Thông đạt không vướng mắc, có chánh kiến.
  5. Không có thì chủ cung cấp thức ăn, thuốc men thì không thể an cư.

Luật bản nói: An cư có bốn thứ:

  1. Đối thú.
  2. Tâm niệm.
  3. Quên thành.
  4. Đến giới trường đều có duyên y cứ, như trình bày ở dưới:

Pháp Đối thú an cư:

Luật bản nói: Nên bách với người mình nương tựa rằng: Tôi ở chỗ này an cư rồi. Miệng nói: Đại đức nhất tâm niệm: Tôi là Tỳ-kheo nay nương già-lam …., xóm làng … tiền tam ngoạt hạ an cư.

Vì phòng xá hư hoại sửa sang (nói ba lần). Luật Ngũ Phần, Luật Thập Tụng nói: Người kia nói đều bạch rằng: Chớ nên buông lung. Đáp thọ trì.

Luật bản nói: Trong hạ nên y vào đệ ngũ luật sư tụng hai bộ luật. Nếu trái phạm Ba-dật-đề. Mùa xuân, hạ y vào bốn loại luật sư, trái thì phạm đột-cát-la. Lý y cứ theo ý luật. Nên hỏi người kia: Nương vào người trì luật nào?

Đáp: Nương vào luật sự …

Luật sư nói: Có nghi nên đến hỏi.

Luật Ngũ Phần nói: Phật dạy! Phải an cư với người trì luật. Nếu chỗ ồn náo, nên ở chỗ bảy ngày qua lại được, tâm niệm xa nương tựa.

Nếu nương vào phòng xá, núi rừng thôn dã, đàn-việt, v.v… an cư đều đồng với văn trên. Chỉ đổi thành già-lam là khác. Nếu nói sửa sang phá hoại, thì hạn cục trong trụ xứ tăng, tùy việc so lường bốn chúng ấy mà tác pháp. Chỉ đổi là Tỳ-kheo-ni, Thức-Xoa-ma-na-ni, Sa-di, Sa-dini.

Ngoài ra từ đồng với ở trên.

Pháp hậu an cư:

Trong luật nói: Có Tỳ-kheo ngày mười sáu tháng tư, muốn tiền an cư, không đến chỗ ở, ngày mười bảy mới đến. Phật dạy hậu an cư nên y cứ theo văn trên mà nói. Hậu tam nguyệt an cư, văn khác đều như trên.

Nếu ngày mười sáu tháng năm đến, pháp hậu an cư đều y cứ theo trước.

Pháp tâm niệm an cư:

Phật dạy: Nếu không có người nương tựa, để bạch nên văn tâm niệm an cư nói: Tôi là Tỳ-kheo …, y vào Tăng-già-lam …, tiền tam ngoạt hạ an cư (từ khác đồng với ở trên).

Pháp quên kiết liền thành:

Bấy giờ, có Tỳ-kheo, đến trú xứ an cư, mà quên không kết. Phật dạy: Nếu vì an cư mà đến thì thành an cư. Luật nói: Vì Tỳ-kheo khách vốn, có hy vọng, bên ngoài đến nhờ chỗ ở có quên khai kết, sẽ có người không thông hạn cục. Nếu vốn có phương tiện, lý chung cả khách chủ.

Pháp đến giới trường và vườn thành an cư:

Bấy giờ, các Tỳ-kheo đến chỗ khác an cư, một chân vào khuôn viên và giới trường, đến khi minh tướng xuất. Như thế hai chân vào khuôn viên vào giới trường mà minh tướng xuất hiện. Như thế hai chân vào khuôn viên, vào giới trường liền qua minh tướng. Phật dạy đều thành an cư. Nếu y theo người giải, hậu an cư có hai cách nên ở trước sau ngày mười sáu ở trung an cư tùy theo ngày được kết.

Pháp thọ nhật:

Bấy giờ, có việc Phật, Pháp, Tăng, tháp. Và duyên cha mẹ, đànviệt mời thọ giới sám hối và lo người bệnh tìm thuốc, hỏi nghi thỉnh pháp. Các việc như thế không biết làm sao thỉnh. Phật dạy không về kịp trong ngày thì cho thọ.

Đi bảy ngày về không kịp, lại bảy ngày trở về cho thọ thêm, đi mười lăm ngày không kịp về lại về cho thọ thêm. Đi một tháng kịp thì một tháng nên về, ba loại này thọ nhật đều không thông, đêm không đồng với luật. Lại duyên theo việc làm chỉ là việc phá giới, phi pháp, đều chẳng phải chánh duyên không thành thọ nhật, chính là phá an cư.

Luật Thập Tụng nói: Nên năm chúng an cư, năm chúng thọ nhật đi đến đường, vừa hết phải trở lại giới, vì không có pháp.

Trong Luận Minh Liễu nói: Có pháp thọ lại bảy ngày. Tỳ-kheo ni không có pháp Yết-ma thọ nhật. Nếu có duyên thì khai cho bảy ngày.

Pháp việc xong Yết-ma thọ nhật:

Luật Tăng-kỳ quyển thứ bốn mươi nói: Đường xa nhiều duyên như: Vì việc tháp, việc tăng nên cầu cho làm Yết-ma. Việc xong nên trở về có người thêm tăng bằng lòng, đây là vọng thêm thánh giáo. Yết-ma kia lệ đồng.

– Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo … ở chỗ nầy an cư mùa mưa, nếu thời giờ của chúng tăng đã đến, tăng bằng lòng cho Tỳ-kheo … ở chỗ này an cư mùa mưa, vì việc tháp, việc tăng ra ngoài giới, việc xong về lại chỗ này. Các Đại đức tăng nghe, Tỳ-kheo … vì việc tháp, việc tăng, ra khỏi giới xong lại về chỗ này an cư. Vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này như thế mà làm.

Pháp Yết-ma thọ nhật: Phật pháp truyền về phương Đông số bản pháp Yết-ma xin thọ nhật hoàn toàn thiếu sót không đồng, đều tự ý nói, chưa tìm được chánh giáo. Nay học về tông chỉ, y vào luật bản; vốn đã không xin không thể vọng thêm, lại bỏ các bộ, đồng thời xin thêm nên nói tình xong, người yết-ma nói như vầy:

– Đại đức tăng xin lắng nghe, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho Tỳ-kheo … thọ quá bảy ngày, mười lăm ngày, một tháng ra ngoài giới, vì việc …., việc xong trở lại đây an cư, tác bạch như thế.

– Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo …. thọ quá bảy ngày, mười lăm ngày, một tháng ra ngoài giới làm việc …, việc xong trở lại đây an cư. Trưởng lão nào bằng lòng tăng cho Tỳ-kheo … thọ quá bảy ngày (mười lăm ngày, một tháng) ra ngoài giới làm việc …., xong việc trở lại đây an cư thì im lặng. Vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo … thọ quá bảy ngày (mười lăm ngày, một tháng) ra ngoài giới làm việc … xong việc trở lại đây an cư rồi, vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này thực hành như thế.

Pháp đối thú thọ nhật:

Luật, luận chỉ cho thọ bảy ngày, đồng thời không có Chánh pháp truyền dụng, trong bạch yết-ma nghĩa cũng không mất.

Luật Thập Tụng nói: Nếu không có Tỳ-kheo, nên theo bốn chúng mà thọ, nên nói như vầy: Trưởng lão nhất tâm niệm, tôi là Tỳ-kheo …, nay thọ pháp bảy ngày ra ngoài giới làm việc …, xong việc trở lại đây an cư, bạch cho Trưởng lão biết (nói ba lần). Luật Thập Tụng nói: Khai cho Tỳ-kheo ở một mình được tâm niệm, thọ nhật nên y theo văn trên chỉ trừ nói Đối thú.

Pháp hai nạn mạng, phạm ra ngoài giới:

Trong luật nói: Nếu trong an cư vốn có hai người: Đồng nữ và dâm nữ ẩn mình muốn đến dụ dỗ Tỳ-kheo. Lại có ác quỷ, kẻ thù, trùng độc, thú dữ. Thuốc men không được như ý sai người hoặc ở đây, chắc chắn vì tôi tịnh hạnh và mạng để lại nạn. Phật bảo cho đi.

Theo luận Tỳ-ni-mẫu nói: Dời hạ không phá an cư, các bộ đều không có văn khai cho.

Pháp thọ nhật ra ngoài giới gặp nạn:

Trong luật nói: Tỳ-kheo thọ bảy ngày ra ngoài giới, vì cha mẹ, anh chị có ý giữ lại quá ngày, hoặc do đường trở ngại nên quá hạn.

Phật bảo không mất tuổi, Tăng-kỳ nói: Nếu thọ nhật đi đường không được đi xa, nên về trong ngày, xong việc liền trở về giới.

*****

THIÊN THỨ BẢY: PHÁP CÁC CHÚNG TỰ TỨ

Bấy giờ, các Tỳ-kheo ở chung với nhau thực hành pháp câm. Phật quở trách nói: Đây là pháp dê câm của ngoại đạo. Từ nay về sau cùng nhau xem xét, biết có tội hay không có tội. Vì có mười điều lợi, nên làm cho Chánh pháp tồn tại lâu dài, nên ăn cư xong thì tự tứ.

Pháp tăng tự tứ:

Phật dạy: Nên tự tứ ngày mười bốn, mười lăm, mười sáu. Ngoài ra làm các việc như thuyết giới, Tỳ-kheo không biết lúc nào, Phật cho phép tiểu thực, đại thực Thượng tọa xướng bạch:

– Đại đức tăng xin lắng nghe, nay ngày mười bốn trăng sáng. Ngày khác y theo đây chúng tăng nhóm chỗ nào đó tự tứ.

Pháp sai người thọ tự tứ.

Cho lúc tác bạch hoặc đánh kiền-chùy; hoặc nói cho biết. Các Đại đức khi tự tứ, tăng đến nhóm họp rồi, nên trước sai người phải đủ hai thứ năm đức:

1. Tự tứ năm đức: không ái, không nhuế, không sợ, không si, biết tự tứ, chưa tự tứ.

2. Có năm đức nêu tội.

Biết thời như thật lợi ích, từ tâm mềm mại.

Luật Thập Tụng, Ngũ Phần đều sai hai người trở lên. Nếu chúng thì chỉ có năm người lần lượt sai riêng. Nếu có sáu người thì hai thẻ mà làm yết-ma. Nên hòa hỏi đáp rồi bạch:

– Đại đức tăng xin lắng nghe, nếu thời giờ làm việc của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho tăng sai Tỳ-kheo … làm người thọ tự tứ, tác bạch như thế.

– Đại đức tăng xin lắng nghe, tăng sai Tỳ-kheo … làm người thọ tự tứ. Trưởng lão nào bằng lòng tăng sai Tỳ-kheo … làm người thọ tự tứ thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng sai Tỳ-kheo … làm người thọ tự tứ rồi. Vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này thực hành như vậy.

Tác pháp này rồi, hai người có năm đức mới đứng dậy khỏi chỗ ngồi đến trước Thượng tọa lễ dưới chân Tăng rồi, sau đó quỳ xuống bạch pháp tự tứ.

Phật dạy: Khi tự tứ phải biết Tỳ-kheo có đến hay không. Người không đến cho bạch trước rồi, sau đó tự tứ bạch như vầy:

– Đại đức tăng xin lắng nghe, ngày nay chúng tăng tự tứ, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho tăng hòa hợp tự tứ bạch như vầy:

Phật dạy: Tỳ-kheo nên tự tứ vào ngày mười bốn, Tỳ-kheo ni nên tự tứ ngày mười lăm. Hai chúng này nương vào nhau trụ pháp. Nếu không có duyên, thì ba ngày đều được tự tứ.

Pháp chánh tự tứ:

Phật dạy: Nên vén y bày vai phải, cởi giày dép, quỳ thẳng chắp tay, nên mời người làm theo Thượng tọa. Thứ lớp nên là tòa tự tứ.

Luật Ngũ Phần nói: Lấy dép để trên đất hợp lại tự tứ. Người già bệnh tùy ý trờ về bản tòa. Nên đối trước người có năm đức nói:

– Đại đức tăng: Ngày nay tự tứ, tôi là Tỳ-kheo …. cũng tự tứ.

Nếu có thấy tội, nghe tội, nghi tội mong Trưởng lão Đại đức vì thương xót mà nói cho con. Con nếu thấy tội, sẽ như pháp mà sám hối (nói ba lần). Luật bản nói: Nếu nói, quên lầm thì mỗi mỗi đều truyền trao. Hai người năm đức ấy y theo Tăng-kỳ nói: Mỗi người đến chỗ tòa minh tự tứ. Không cần đợi tăng xong, chúng tăng ấy tự tứ rồi. Người năm đức đến trước Thượng tọa nói rằng tăng nhất tâm tự tứ rồi, rồi như thường lệ lễ bái lui ra, xuất xứ từ Luật Thập Tụng.

Pháp lược tự tứ:

Phật dạy: Nếu có tám nạn và duyên khác, như việc trong thuyết giới, lược thuyết tự tứ. nhưng đối thú có hai thứ lược, đơn bạch rồi lược có ba như trong sao nói rõ. Nếu nạn sự có thể, nói rộng thì nói rộng, hoặc nói hai lần, hoặc một lần. Nếu không thì nên đúng như pháp mà trị.

Pháp bốn người trở xuống đối thú:

Phật dạy: Nếu có bốn người không được thọ; người thứ năm muốn thì cùng nhau tự tứ; nên nhóm họp tự tứ. Nếu có bốn người thì nên cùng nhau tự tứ, tác bạch như vầy:

Bạch Đại đức nhất tâm niệm, ngày nay chúng tăng tự tứ, tôi là Tỳkheo …. thanh tịnh (nói ba lần). Nếu có ba người, hai người cũng y theo cách này, chỉ đổi số người đối thú, lại không được riêng chúng, cho đến có phạm, thì không nên y theo cách này.

Pháp một người tâm niệm:

Phật dạy: Nếu ngày tự tứ đến chỗ thuyết giới rưới nước quét dọn, trải đồ ngồi, lấy đồ đựng đầy nước, dụng cụ để rửa chân, đốt đèn, sắp sẵn xá-la, rồi đợi Tỳ-kheo khách. Nếu người không đến nên tâm niệm miệng nói: Ngày nay chúng tăng tự tứ, tôi là Tỳ-kheo … thanh tịnh (nói ba lần).

Pháp ni sai người tự tứ:

Phật dạy: Tỳ-kheo ni hạ an cư xong, cho sai một Tỳ-kheo ni, vì ni chúng mà đến trong đại tăng nói tự tứ. Nếu hai chúng tăng và ni mỗi bên không đủ năm người đến ngày tự tứ, Tỳ-kheo ni đến chỗ Tỳ-kheo lễ bái hỏi han. Nếu chúng đủ người nên đợi xin dục hỏi duyên. Đáp rằng sai người yết-ma tự tứ, nên nói:

– Đại tỷ tăng xin lắng nghe, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho tăng sai Tỳ-kheo-ni … Vì Tỳ-kheo-ni đến trong đại tăng nói ba việc tự tứ thấy nghe nghi bạch như thế:

Đại tỷ tăng nghe tăng nay sai Tỳ-kheo ni …. Vì Ty-kheo ni mà đến trong đại tăng nói ba việc tự tứ thấy nghe nghi. Đại tỷ nào bằng lòng tăng sai Tỳ-kheo …. đó vì Tỳ-kheo-ni mà đến trong đại tăng nói ba việc tự tứ thấy, nghe, nghi thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng sai Tỳ-kheo-ni …. vì Tỳ-kheo-ni mà đến trong đại tăng nói ba việc tự tứ thấy, nghe, nghi rồi. Vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này thực hành như vậy mà làm.

Phật dạy: Người kia đi một mình không có người che chở. Nên sai hai, ba người làm bạn đến trong đại tăng, lễ dưới chân tăng rồi, cúi đầu khom mình, chắp tay nói như vầy.

Tỳ-kheo-ni hạ an cư xong, Tỳ-kheo tăng hạ an cư xong. Tỳ-kheo nói ba việc tự tứ thấy, nghe nghi tội. Đại đức vì lòng từ bi mà nói cho con. Nếu con thấy tội, nên đúng như pháp mà sám hối (nói ba lần) rồi hồi lâu, tăng Thượng tọa nói: Đồ chúng trên dưới mỗi vị đều im lặng. Thật do ni bên trong siêng tu ba nghiệp bên ngoài không có ba việc, cho nên không thấy phạm. Tuy nhiên Thượng tọa có khuyên nhắc, khuyên nhắc ni chúng đúng như pháp tự tứ, cẩn thận chớ buông lung. Sai ni lễ dưới chân tăng thối lui rời về bản tự, nhóm các ni chúng truyền lại lời khuyên nhắc của tăng, như trong pháp thuyết giới có nói rõ. Pháp tự tứ thuyết giới lược pháp giáo thọ. Văn của luật bản thiếu nghĩa rõ ràng trước sau. Nhưng việc đến thì phải lo liệu không nên im lặng. Lại lược nêu một câu, để biểu thị thường thức. Được hành dụng bình đẳng, không hẳn y vào văn.

****

THIÊN THỨ TÁM: PHÁP PHÂN CHIA Y

Ở trong đó tăng được thí có hai loại:

  1. Nghĩa là bảy chúng bố thí là tăng được.
  2. Đạo tục bố thí là hiện tiền.

1. Khi y cứ vào duyên không ngoài sáu loại:

1. Pháp hai bộ tăng được thí:

Bấy giờ có trụ xứ hai bộ tăng, phần nhiều được phân chia y, vật. Tỳ-kheo tăng nhiều mà Tỳ-kheo-ni ít. Phật dạy: Chia làm hai phần: Không có Tỳ-kheo-ni, thuần là Thức-xoa-ma-na, cũng chia làm hai phần. Nếu thuần là Sa-di-ni cũng chia làm hai phần. Nếu không có hai chúng, thì Tỳ-kheo tăng nên phân. Nếu Tỳ-kheo-ni nhiều, Tỳ-kheo tăng ít, hoặc tăng không có nên chia làm hai phần. Hoặc cho đến không có Sa-di, Tỳ-kheo-ni nên chia được vật rồi, đến trong bộ đều phải làm yết-ma phân chia, nên gọi là tăng được. Vì tâm thí chủ trùm khắp, một hóa vật chung cho cả mười phương, chỉ có tăng ni đều trị về phân chia ấy nên gọi là Tăng được. Lại cần phải tăng pháp yết-ma, ngăn cản người ở mười phương đến. Đã tác pháp rồi, hiện tiền tự chia ra yết-ma như sau.

2. Pháp hai bộ hiện tiền được bố thí:

Bấy giờ, Đức Thế tôn ba tháng tĩnh tọa, chỉ trừ một người cúng dường.

Khi ấy, có Tỳ-kheo tu hạnh đầu-đà đi đến chỗ Phật, được Phật khen ngợi. Các Tỳ-kheo chẳng tu đầu-đà xả y thành một đống lớn.

Phật dạy: Nên bố thí cho tăng chúng, nếu cho một người, một Tỳ-kheo thì chẳng phải y. Nếu hành ba-lợi-bà-sa, ma-na-đỏa. Tỳ-kheo nên chia, bảy người yết-ma nên để dưới đất mà cho, hoặc sai người cho, hoặc Sa-di nên cho đồng đẳng, hoặc cho một nửa, hoặc ba phần cho một, người giữ Tăng-già-lam nên cho đồng đều, hoặc bốn phần cho một phần, hoặc không cho không nên chia, hoặc chia nên như pháp mà trị.

3. Pháp thời hiện tiền được bố thí:

Bấy giờ, các Tỳ-kheo ở chỗ khác, kết hạ an cư rồi, lại ở chỗ khác, không biết lấy vật được chia ở chỗ nào. Phật dạy: Cho lấy chỗ nào ở được nhiều ngày. Nếu hai chỗ đều cho thì lấy mỗi bên một nửa. Nếu được nhiều nên chia và tùy theo đếm số người mà chia. Hoặc đếm thẻ mà chia, cho đến một người nên nhiếp lấy, không làm pháp tâm niệm.

4. Pháp phi thời hiện tiền được bố thí:

Bấy giờ, hiện tiền tăng phần lớn được chia y vật. Phật dạy: Cho đếm số người nhiều hay ít, nếu mười người thì chia mười phần. Cho đến một trăm người thì chia trăm phần. Nếu vật tốt xấu lẫn lộn thì nên sai người không thấy ném thẻ mà chia, không cần yết-ma.

5. Pháp thời tăng được bố thí:

Bấy giờ, có Tỳ-kheo chưa chia y hạ liền bỏ đi, sau đó chia mà không đến, lại quên không xuất ra, hành giả chia không biết có thành chia hay không. Phật dạy: Thành chia y, nên đợi nhau cũng nên ra. Người kia chia nên yết-ma mà chia. Nếu như pháp phi thời được bố thí. Phật nói: Nếu một Tỳ-kheo an cư, phần nhiều tăng được y hạ an cư nên tâm niệm miệng nói thọ.

6. Pháp phi thời tăng được bố thí:

Được bố thí có hai thứ: Nếu đạo tục làm, đàn-việt muốn bố thí vật khắp mười phương đều bố thí vì để có phước.

Luật nói: Bấy giờ có hiện tiền tăng trụ xứ khác, phần lớn được chia y vật. Khi chia y có Tỳ-kheo khách thường đến chia y. Khi chia y có Tỳ-kheo khách thường đến chia y rất mệt.

Phật dạy: Nên sai một người chia, bạch nhị yết-ma mà cho, Chánh pháp ấy như nói trong phần vật nhẹ của người chết. Hai là nếu người chết, tất cả y vật cho năm chúng.

Phật dạy: Nên tất cả thuộc về tăng, nhưng vì tăng bốn phương hiện tiền khác nhau, vật thì sang hèn có khác. Lại y cứ theo vật sang hèn mà chia. Chẳng phải chỉ một không đủ như mười đoạn sau. Trước nói rõ y vật của người chết thuộc về năm chúng.

Luật Thập Tụng nói: Có Tỳ-kheo qua đời, y vật rất nhiều. Nhà vua, thân thuộc đều muốn lấy các vật đó. Phật dạy: Nhà vua, thân thuộc thì không được, tăng thì được. Cho đến thời nay tuy nương nhờ Tam bảo, xuất gia thì phải duyên tăng mà được, Phật pháp không phân cho nên nhập vào hai tăng, như trong sao có nói rộng.

2. Chia pháp ra mười thứ:

1. Lấy phẩn tảo. Như luật Ngũ Phần nói: Người bị nước cuốn mà chết.

2. Hiện tiền mà lấy. Như luật Thập Tụng nói: Người học hối, người tẫn xuất, người giữ giới ở chung, chết chung.

3. Đồng thấy mà lấy. Như luật nói: Tất cả hai bộ đều chết.

4. Dùng công năng mà lấy. Như luật nói: Cả ba người chết, đồng nêu tăng yết-ma.

5. Hai bộ tăng lấy. Luật nói không có trú xứ mà chết. Luận Tátbà-đa nói chết khoảng trong hai giới.

6. Hướng về phía mặt mà lấy. Luận nói: Chết ở trong hai giới.

7. Nhập Hòa-thượng. Luật Tăng-Kỳ nói: Sa-di qua đời, y vật phải chỉ cho Hòa-thượng biết.

8. Vào người tại gia thân thích: Luận Tát bà-đa nói: Vật của người diệt tẫn.

9. Tùy theo chỗ ở mà được. Như luật Thập Tụng nói: Gởi người không gởi chỗ.

10. Ở trong chúng chết, làm yết-ma mà lấy. Như trong sao có nói rộng.

3. Pháp đồng sinh hoạt, cùng của cải:

Luật không xử đoán rõ ràng. Hoặc lấy chia riêng tài vật chung, trừ vật tùy thân, ngoài ra phân chia nhập tăng đồng sinh hoạt, thì mặc tình so lường tính toán. Xuất xứ nhiều ít chỉ lấy thật tình, sinh tử đồng chí hướng thì không phạm. Nếu ôm ấp riêng tư thì vời lấy hai lỗi.

4. Pháp mắc nợ:

Phật dạy: Nên hỏi rằng ai nợ vật của người bệnh, người bệnh nợ vật của ai, biết rồi nên đòi lấy. Nếu nợ người thưởng cho y dư. Nếu không thì bán ba y, ngoài ra cho người săn sóc bệnh.

Tăng-kỳ nói: Phải quan sát kỹ người, người đáng tin, có thể chứng minh thì cho, trái lại thì không cho.

5. Nói về dặn dò trao cho:

Phật dạy: Tăng hỏi người săn sóc bệnh rằng: Người bệnh có dặn dò không? Nếu nói: Khi người bệnh qua đời nói: Vật này cho Phật, cho Pháp, cho Tăng, cho tháp, cho người. Hoặc sau khi tôi qua đời thì cho.

Phật dạy: Nêu đòi lấy hiện tiền tăng chia năm phần, hoặc khi sống cho người chưa giữ mà bỏ đi thi tăng nên bạch yết-ma mà cho.

6. Khi chia vật:

Luật Tăng-kỳ nói: Nếu người bệnh chết không đáng tin, thì nên đem móc cửa đến dặn người Tri sự, sau đó cúng dường xá-lợi.

Kinh Tỳ-ni-mẫu nói: Trước chôn cất người chết rồi, tăng về lại chùa lấy vật của người chết mặc trước tăng. Sau đó y theo pháp nhóm tăng phân chia.

7. Đoán vật đắt rẻ:

Luật Thập Tụng nói: Người bệnh chết không có người săn sóc bệnh, thì lấy y vật giặt sạch phơi cuốn lại đem vào trong tăng. Luật nói: Người kia đem y vật của người chết đến trong chúng nói như vầy:

– Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo … ở trú xứ này, đã qua đời, tất cả y vật nên chia cho tăng hiện tiền của trú xứ này. (Nói ba lần).

Kinh Tỳ-ni-mẫu nói: Đồng thời lấy y vật ở trước tăng mặc rồi sai một người phân chia, vật nào có thể chia, vật nào không thể chia, mỗi thứ riêng một chỗ.

Nói về xử phân:

Phật dạy: Nếu Tỳ-kheo chết, hoặc phần nhiều biết, hoặc không biết, tất cả thuộc về tăng. Nếu có ruộng vườn, cây trái, phòng riêng và vật thuộc về phòng riêng: Bình đồng, chậu đồng, rìu đục, đèn, võng, nệm ngồi, nệm nằm, xe cộ.

Người giữ Tăng-già-lam, bình nước, chậu rửa, tích trượng, quạt, bình làm bằng sắt, bằng gỗ, bằng sành, bằng da, bằng tre, và nhiều vật quý, đều không nên chia cho tăng bốn phương.

Nệm dài ba khuỷu tay, rộng năm khuỷu tay, lông dày ba ngón tay, dao cạo. Y bát, đồ ngồi, ống đựng kim, bình cụ-dạ-la, nên chia cho tăng hiện tiền. Văn luật chánh xử đoán như thế. Ngoài ra không có xuất xứ, phải ở trong các bộ luật, luận xếp loại phán đoán.

Phải xem luật bản, ý phán không cho chậm nhanh tự khinh, muốn biết rộng đủ như chỗ lượng nghi thức vật đắt rẻ. Cụ-dạ-la: nghĩa là cái bát nhỏ, bát vừa, bát nhỏ, còn dư thì làm bằng sành.

8. Lượng đức thưởng vật:

Phật dạy: Người có được năm pháp nên cho y vật của người bệnh. Nên biết không đủ năm pháp thì không được thưởng, năm pháp là:

1. Biết món ăn nào người bệnh ăn được hay không ăn được, ăn được thì cho ăn.

2. Không có tâm ác khi người bệnh đại tiểu tiện, nôn mửa.

3. Có tâm từ bi thương xót không vì y nhục, thức ăn.

4. Có khả năng lo liệu thuốc thang cho đến khi hết bịnh, hoặc chết.

5. Có khả năng nói pháp cho người bệnh, nghe làm tăng thêm pháp lành cho mình.

Luật Tăng-Kỳ nói: Có bốn thứ tạm làm: Hoặc tăng sai làm, tự ưa thích phước mà làm, tà mạng mà làm, đều không được thưởng. Nếu vì lợi ích, cho người bệnh, muốn cho mau khỏi, thì dù cho một ngọn đèn, gặp người qua đời liền được vật này.

Luật Ngũ Phần nói: Nhiều người lo bệnh cho đến cùng.

Luật nói: Nên cho thọ trì y. Nếu người không biết nên cho người săn sóc bệnh. Cho ba y thượng, tùy theo y trung hạ cũng như vậy.

Luật Thập Tụng nói: Nếu người không tin cho sáu vật không tốt, không xấu.

Luật Ngũ Phần, Thập Tụng nói: Tỳ-kheo bệnh hai chúng đều được. Tỳ-kheo-ni bệnh hai chúng đều được.

Luận Ma-đắc-lặc-già nói: Người tại gia săn sóc bệnh nên cho chút,ít ba chúng ni đồng như vậy.

Luật Thập Tụng nói: Người săn sóc bệnh ra ngoài xin thức ăn cho người bệnh được y, thuốc, giữ lại đợi trở về giao.

Luật Ngũ Phần nói: Ra ngoài giới săn sóc bệnh thì y theo pháp mà thưởng.

Pháp nói về thưởng:

Phật nói: Nên lấy sáu vật cho người săn sóc bệnh, nghĩa là ba y, bát, tọa cụ, ống đựng kim, đồ đựng y, nên nói như vầy:

– Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo … qua đời, tất cả ba y, bát, tọa cụ, ống đựng kim, đồ đựng y, tùy theo thời, người có thể vào nên chia cho tăng hiện tiền, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho Tỳ-kheo … qua đời tất cả y bát, đồ ngồi, ống đựng kim, v.v… nên chia cho tăng hiện tiền. Nay Tăng cho Tỳ-kheo săn sóc bệnh tên là …, Trưởng lão nào bằng lòng cho Tỳ-kheo săn sóc bệnh tên … ba y bát, đồ nằm, v.v… thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng vì im lặng, việc này như thế mà làm.

Luật bản nói rằng, người có đức được thưởng, nếu người không có đức thì không được, ắt biết sự lao nhọc không có pháp.

Người có ích có thể làm pháp khinh trọng. Sau đó hòa tăng, chỉ nói tùy theo công lao mà thưởng tặng.

9. Pháp phân vật nhẹ:

Kinh Tỳ-ni-mẫu nói: Năm người cùng ở mà một người chết không được chia dần dần. Trong luật nói xuất phát ít không đủ, nay y theo tăng thì thời được thí yết-ma nói dần dần, năm vị trở lên nên dùng pháp này.

Văn luật nói nên sai một người chia bạch nhị yết-ma, cho vật như thế.

Có người tác pháp ba lần. Ở đây suy nghĩ về văn chưa rõ.

Cũng có người tác pháp hai lần. Nay y theo văn yết-ma hợp hai pháp lại mà phân chia. Ngoài ra không có nên không trích ra y theo luật yết-ma nói:

– Đại đức tăng xin lắng nghe, nếu thời giờ của chúng tăng đã đến, tăng bằng lòng cho tăng nay lấy y vật này cho Tỳ-kheo …, Tỳ-kheo … phải đưa lại cho tăng, tác bạch như thế.

– Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo … qua đời, tất cả y vật nên phân cho tăng hiện tiền, nay tăng đem y vật này cho Tỳ-kheo …., Tỳkheo …. đưa lại cho tăng, các Trưởng lão nào bằng lòng Tỳ-kheo …. qua đời, tất cả y vật nên chia cho tăng hiện tiền, nay tăng lấy cho Tỳ-kheo …., Tỳ-kheo đó phải đưa lại cho tăng thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng đem vật này cho Tỳ-kheo …., Tỳ-kheo …. đưa lại cho tăng rồi. Vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này nên làm như vậy. Làm pháp này rồi, tùy theo người nhiều hay ít mà lấy y vật ấy, y vào đếm số để cho, không nên thí riêng lại vời lấy lậu nhiễm, chẳng phải điều Phật chế.

Luật Ngũ Phần nói: Nếu không khắp thì hòa tăng cho một Tỳkheo không có y. Luật Thiện Kiến nói: Nếu một y rất tốt thì không nên cắt phá, chúng đều y theo trên mà thực hành. Cần thì chia thẳng.

Pháp bốn người chia:

Kinh Tỳ-ni-mẫu nói: Nếu chỉ bốn người thì nên yết-ma chia thẳng, thưởng vật ấy cho người săn sóc bệnh, chỉ y theo ba người miệng hòa, lấy y chia nói: Các Đại đức nhớ nghĩ, nay đem y bát của Tỳ-kheo …. đã chết (đồ ngồi tùy theo đó mà nói) cho Tỳ-kheo lo bệnh tên …. (nói ba lần) còn vật không đáng giá y theo cách nên chia thẳng. Yết-ma nói:

– Đại đức tăng xin lắng nghe, nếu thời giờ làm việc của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho tất cả y vật của Tỳ-kheo qua đời tên là …, nên chia cho tăng hiện tiền, tác bạch như thế.

– Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo … qua đời, tất cả y vật nên chia cho tăng hiện tiền, các trưởng lão nào bằng lòng tăng nay chia y vật thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên, tăng đã bằng lòng chia y vật này rồi, vì tăng bằng lòng nên im lặng. Việc này cứ như thế mà thực hành.

(Hoặc xả y, hoặc chia y, hoặc khách đến đều như trên).

Pháp nhiều người phân chia:

Kinh Tỳ-ni-mẫu nói: Bốn người cùng ở mà một người chết nên chia xoay vần, xả y rồi thưởng cho người lao nhọc. Nếu hai người miệng hòa chia nói:

– Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi đem y bát của Tỳ-kheo đã chết (đồ nằm, đồ đựng y) cho Tỳ-kheo săn sóc bệnh tên là ….

(Ba lần nói rồi, y theo vật sang hay hèn). Luật bản nói: Nên nói tất cả ba lần, thọ cùng chia nên nói:

– Hai Đại đức nghe y vật của Tỳ-kheo …. đã chết thuộc về của chúng tôi (nói ba lần), người khác cũng vậy. nếu có ba người cũng phải y theo trên mà thưởng công, ba lần nói chia thẳng. Tuy biết là chia vật, chưa vào tay khách đến thì phải phân chia.

Pháp một người tâm niệm:

Kinh Tỳ-ni-mẫu nói: Một pháp tương ưng, hai người cùng ở, một người chết, người sống lấy y miệng nói:

Vật của Tỳ-kheo qua đời tên là …. thuộc về tôi.

(Nói ba lần rồi, tay cầm vật, cho nên người đến sau không được).

10. Pháp được thọ y:

Luật Tăng-kỳ nói: Nếu xin y phục thuốc men cơm nước cho người bệnh và vì việc tháp, tăng, tuy đương thời không còn cũng nên chia cho.

Luật Thiện Kiến nói: Nếu Tỳ-kheo ngoài giới vào, cũng phải chia cho, nghĩa là khi yết-ma. Trong luật nói có Tỳ-kheo không nghĩ riêng chúng thì không thành chia y. Lại trong bố thí hiện tiền được cho Sa-di, tịnh nhân, chia đồng hoặc một nửa như phân biệt ở trước.

Luật Thập Tụng nói: Tỳ-kheo có y bát gởi cho ni. Nếu Tỳ-kheo chết, người nào tìm thấy trước thì chia. Nếu người tại gia chết vật quý tiện nên tùy năm chúng, hiện tiền chia vật quý mặc ý xa gần. Có chùa tăng pháp nên giao cho. Nếu không có năm chúng, luật nói bảo người đàn-việt tin ưa nên giữ lấy. Nếu không có năm chúng đến thì nên cho tăng ở già-lam gần đó. Ngoài ra như trong sao.

*****

THIÊN THỨ CHÍN: PHÁP SÁM LỤC TỤ

Pháp sám hối:

Luật nói: Có hai loại người:

1. Người ngu si, là người không thấy phạm, dù phạm không sám hối như pháp.

2. Người trí, trái với ở trên.

Kinh Vị Tằng Hữu nói: Trước đây tâm làm ác giống như mặt trời bị mây che. Sau đó, tâm khởi làm lành giống như ngọn đuốc xua tan được bóng tối. Cho nên kinh luật đều nói về sám hối.

Nhưng pháp sám có nhiều loại. Nếu làm sám sự chỉ chiết phục được nghiệp dễ đoạt. Nếu sám lý thì sẽ tiêu nghiệp diệt nghiệp. Trước nói về lợi căn y lý dứt nghiệp.

Như kinh Niết-bàn nói: Nếu có tu tập thân giới tâm tuệ, quán sát các pháp như hư không. Nếu gây ra nghiệp ác mà tư duy quán sát thì chuyển được địa ngục nặng nề, hiện đời chịu nhẹ. Nếu đối với tội nhỏ không thể tự nói ra, tâm ban đầu không sám, không thể tu điều lành hoặc che giấu dấu vết. Tuy có nghiệp lành, nhưng vì tội cấu uế nên hiện đời chịu quả báo nhẹ, chuyển thành quả cực ác ở địa ngục. Đây là người ngu si.

Nếu phạm bốn tội trọng, năm nghịch phỉ báng pháp, gọi là phá giới. Vì có nhân duyên thì có thể cứu giúp. Nếu mặc pháp phục tâm khỏi hổ thẹn, tâm sinh hộ pháp, xây dựng Chánh pháp. Ta nói người nầy không gọi là phá giới.

Luận Thành Thật nói: Người có tâm ngã thì nghiệp phiền não huân tập. Nếu người vô ngã thì các nghiệp không thể bị quả báo, vì không đầy đủ. Kinh Vị Tằng Hữu nói: Hễ người tu phước thì phải gần bậc minh sư, tu tập trí tuệ, sám hối nghiệp ác nặng nề.

Kinh Hoa Nghiêm nói: Thí như nhà ảo thuật có khả năng làm huyễn mắt người, các nghiệp cũng vậy. Nếu biết như thế gọi là thanh tịnh chân thật hối quá.

Hai người độn căn y theo sự sám. Nếu y theo Đại thừa thì Phật gọi là Phương đẳng nêu đủ hành nghi. Y theo pháp sám hối cần phải hiện tướng, y theo giáo mà nghiệm tâm. Nếu y theo luật tông thì phải biết tội gọi là chủng tướng tùy có điệp sám. Nếu nghi không biết, không hợp với gia pháp, chỉ trừ người không học tùy theo phạm mà kết căn bản. Ở đây chỉ diệt tội phạm giới.

Cho nên luận Trí Độ nói: Trong giới luật tuy là sám hối sâu xa mà thanh tịnh. Phạm giới mười điều lành tuy sám ba đường ác tội vẫn không trừ diệt, giống như Tỳ-kheo phạm về tánh giới.

Pháp sám Ba-la-di:

Phật dạy: Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, hoặc phạm tội Ba-la-di rồi đều không có tâm che giấu nên đúng như pháp sám hối, cho yết-ma học giới, giữ ba mươi lăm việc thực hành trọn đời. Nếu khi chúng tăng yếtma thuyết giới đến thì cho, không đến cũng không phạm. Nếu phạm tội trọng lại nên diệt tẫn.

Luật Tăng-kỳ nói: Nếu phạm tội trọng rồi, khóc lóc không muốn lìa ca-sa, lại rất ưa thích Phật pháp thì nên cho học giới. An thức ăn bất tịnh của Tỳ-kheo người kia cũng bất tịnh. Tỳ-kheo ăn thức ăn bất tịnh của người kia thì Tỳ-kheo cũng bất tịnh. Được cho Tỳ-kheo ăn quá trừ năm loại sinh chủng hỏa tịnh và vàng bạc, từ Sa-di mà thọ thực.

Luật Thập Tụng nói: Phật kết giới tất cả phải lãnh thọ thực hành. Dưới Đại Tỳ-kheo không được cho đại tăng qua. Ba đêm không được ở chung với người chưa thọ giới cụ túc. Hai đêm thì được, cho tăng làm bố-tát tự tứ, không được hai loại yết-ma, đủ số trừ chúng pháp, không được, làm thọ tuổi.

Luật nói: Người không nghe không được ở trong chúng tụng luật.

Kinh Tỳ-ni-mẫu nói: Cho học hối pháp rồi, gọi là thanh tịnh trì giới. Nhưng một thân này không được siêu sinh thoát tử, chướng ngại không vào địa ngục.

Pháp sám hối Tăng-già bà-thi-sa:

Phật dạy: Nếu phạm tăng tàn rồi mà che giấu, tùy theo số ngày che giấu, cho ba-lợi-bà-sa, hành ba-lợi-bà-sa rồi, cho sáu đêm ma-nađỏa, hành ma-na-đỏa rồi, phải ở trước hai mươi vị tăng xuất tội. Nếu phạm tội mà không che giấu, tăng nên cho sáu đêm ma-na-đỏa, hành pháp này rồi phải ở trước tăng cho yết-ma xuất tội. Nếu trong hai loại hành pháp phạm trọng thì tùy theo việc phạm mà cho trị bản nhật. Thực hành pháp này rồi, sau đó xuất tội. Nếu hành ba-lợi-bà-sa, được yết-ma thực hành ba mươi lăm việc. Ở dưới tăng thực hành mất tám việc. Ban đêm bạch tăng phát lồ cùng cấp cho chúng tăng trọn ngày, thực hành ma-na-đỏa, cho pháp biệt trụ, chỉ có ngủ ở trong tăng là khác.

Pháp sám hối Thâu-lan-già:

Hai thứ tội duyên, ở trước nói về độc đầu Thâu-lan-già. Có ba thứ khác nhau, như phá pháp luân tăng, trộm bốn tiền, trộm thức ăn của tăng, v.v… gọi là thượng phẩm. Nếu phá yết-ma tăng, trộm ba tiền trở xuống, lại có tướng đụng vào y gọi là trung phẩm.

Nếu có tâm ác mắng nhiếc tăng, trộm một tiền, dùng tóc của người, ăn máu thịt sống, khỏa thân mặc y của ngoại đạo gọi là hạ phẩm.

Nói về tùng sinh.

Luật Thập Tụng nói: Từ thiên đầu sinh trọng, nên ở trong tất cả tăng sám hối. Nếu thiên đầu sinh nhẹ, thiên hai sinh nặng nên bốn Tỳkheo ở ngoài giới vào trong chúng sám hối. Nếu tăng tàn sinh nhẹ nên ở trước một Tỳ-kheo sám hối.

Luận Tát-bà-đa nói: Pháp sám Ba-dật-đề đồng với pháp độc đầu Thâu-lan-già ở trước. Cũng y theo tùng sinh thượng phẩm, trung phẩm sám hối nên biết.

Pháp sám hối ba tội ở trước việc chẳng khinh hối, rườm rà lý phải tinh luyện, tự có thể trì luật thực hành như thường.

Ngoài ra tìm khắp mà thành luống dối, ắt muốn trong sáng tức là người trí. Quán duyên chấp pháp cố nhiên không mất.

Dù thư thái soạn kế bạn không học không biết phí thời gian, công chưa làm việc trước cho nên thiếu mà không ghi, chắc chắn gặp cơ hội cầm giữ, trong Đại sao có nói rõ.

Pháp sám ba-dật-đề:

Vì sám hối chúng, tăng riêng, trước trình bày ba mươi pháp, chỉ y cứ vào đối thú. Sau đó xếp vào chín mươi giới do tham mạn tài sự, hai tâm khinh trọng, chia làm hai giai vị, sám xả hai căn cứ.

Trước sám xả đọa:

Phật dạy: Phạm xả đọa y không được để lại cho người, ba y làm y ba-lợi-ca-la. Nếu y thường mặc dùng, hoặc tịnh thí nên xả rồi, sau đó tác tịnh. Y ni-tát-kỳ này nên xả cho tăng, hoặc nhiều người, hoặc một người, không được xả riêng chúng. Nếu xả không thành xả, phạm Đột-cát-la. Nên biết có ba thứ sám pháp. Lại phạm tăng chung mà, giới rêng, chia hai chỗ đều suy nghĩ tường tận.

Pháp sám hối trong tăng:

Phải năm vị trở lên làm người thọ sám. Trong tăng, xả đọa có ba loại:

  1. Nói về xả tài: là lìa duyên tội.
  2. Nói về xả tâm: là lìa nhân tội.
  3. Nói về xả tội: trừ nghiệp sinh tử.

– Ba pháp sám xả này tông đồ nghĩa loại thông khắp.

1. Nói về xả tài: Trong ba mươi xả đọa xin vải làm y. Ba giới cất chứa, trao đổi của báu, không đối với tăng. Ngoài ra đều chung ba cảnh.

Nay trích lấy số người phạm làm tiêu đầu. Pháp xả có ba:

  1. Năm vật dư.
  2. Lìa thọ y.
  3. Dư tạp xả.

Sắp xếp định ba loại này xong đem đến trong tăng. Phật dạy: Khi xả cho tăng, đem đến trong tăng vén y bày vai phải, cởi giày dép, hướng về Thượng tọa lễ, quỳ thẳng chắp tay nói xả như vầy:

– Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo … việc chứa y dư phạm xả đọa, cố ngủ lìa Tăng-già-lê phạm xả đọa, tự mua được một y phạm xả đọa, nay tôi cho xả tăng (nói một lần). Nếu biết số người tùy theo bao nhiêu mà nói. Nếu y tài nhiều thì nói không nhớ số, chỉ trừ một loại ba y là có số. Nếu y tài nhiều chỗ đều tùy theo chỗ mà xả. Sau đó, sám tội vì chung cho cả phạm nhiễm. Cho đến danh tội bao nhiêu đều đếm rõ. Y theo luật như thế không được si làm.

Nói về tâm xả:

Luận Tát-bà-đa nói:

1. Y đã xả, tội đã hối, tâm cất chứa dứt bỏ, ngày nay ngày mai, hoặc được bản tài và được tài khác đều không phạm.

2. Y đã xả, tội đã hối, tâm cất chứa không dứt, ngày nay ngày mai được bản tài khác đều phạm, vì do tâm nhiễm.

3. Y đã xả, tội chưa hối tâm cất chứa, nếu ngày nay được bản tài khác phạm đột-cát-la. Nay y cứ các luật luận, xả đọa còn tài đều do tăng lượng không tự chuyên, hoặc xả bỏ hẳn, hoặc nhập hẳn vào tăng, hoặc lại cho đạo tục, hoặc thí khắp bảy chúng. Như luật bản về các ví dụ phá hoại vào kho. Cho nên tâm xả quyết dứt, không hề đoái lại. Nếu hoàn lại bản tài thì việc đồng, mới được đúng như thuyết pháp, thuyết tịnh, vốn nên bạch pháp. Nay luật này nói chẳng luống dối, tâm đã xả cho tăng cũng không hệ lụy. Nếu không trả y hoặc mặc dùng, phá hoại thọ, làm ba y chỉ phạm đột-cát-la, chỉ là tội mất pháp.

Pháp xả tội:

Phật dạy: Người kia xả y rồi phải ở trong tăng sám hối.

Pháp xin sám hối:

Y theo luật bản văn sau trích ra phải xin như vầy:

– Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo …. vì chứa y dư (bao nhiêu ….) phạm tội xả đọa, y này đã xả cho tăng, nay phạm tội ba-dậtđề theo tăng xin sám hối, mong Tăng bằng lòng cho tôi là Tỳ-kheo … sám hối. Vì lòng từ bi thương xót (nói ba lần).

Pháp thỉnh chủ sám hối:

Phật dạy: Nếu tất cả tăng trong một trú xứ đều phạm tội, không được hướng về người có tội sám hối. Người phạm tội không được giải tội cho người khác. Nếu có Tỳ-kheo khách đến, thanh tịnh, không phạm thì nên mỗi người hướng về người kia sám hối. Nếu người không đến trong chúng thanh tịnh ở gần đó sám hối. Tỳ-kheo này phải trở lại chỗ ở của mình. Tỳ-kheo khác hướng về Tỳ-kheo này nói danh chủng phạm, sám hối. Nếu được như thế gọi là thanh tịnh.

Ngủ phần luật nói: Nếu có nhân duyên mạng nan, Phật khai đồng phạm, không đồng phạm đều được thọ sám. Nếu không có duyên thì không được.

Cho nên luật nói: Có hai loại si:

  1. Không thấy phạm.
  2. Theo người phạm sám hối, luật thiếu pháp thỉnh, nay y cứ theo nghĩa thì phải nói:

– Đại đức nhất tâm niệm, tôi là Tỳ-kheo tên …, nay thỉnh Đại đức làm chủ sám hối ba-dật-đề. Mong Đại đức vì tôi làm chủ sám hối tội ba-dật-đề, vì lòng từ bi thương xót (ba lần thỉnh chưa được đáp thì có thể không).

Pháp bạch hòa (nên xin giục vấn hòa rồi đáp rằng: Thọ yết-ma sám hối ba-dật-đề):

– Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo … vì chứa y dư (bao nhiêu …) nên phạm xả đọa. Y này đã xả cho tăng, trong đây có tội ba-dật-đề, nay theo chúng tăng xin sám hối. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho tôi Tỳ-kheo tên là …., thọ sám của Tỳ-kheo tên là …, bạch như thế.

(Tác bạch rồi, nói rằng có thể).

Pháp chánh xả tội:

Theo cách thường chỉ tụng nhiều, có liên quan đến lỗi xả, thì không thể không vọng che giấu tội, mặc dùng tùy phạm mới nói ít. Cho nên tiêu trừ có thì nên nói như sau:

– Đại đức nhất tâm niệm, tôi là Tỳ-kheo cố chứa y dư, phạm tội xả đọa, y này đã xả cho tăng, phạm tội ba-dật-đề, nay hướng về Đại đức phát lồ sám hối không dám che giấu, sám hối thì an vui, không sám hối thì không an vui, nhớ nghĩ phạm phát lồ, biết mà không dám che giấu, mong Đại đức nhớ nghĩ tôi thanh tịnh, giới thân cụ túc thanh tịnh bố-tát (ba lần nói rồi, nên nói): Tự trách tâm thầy, nên sinh nhàm lìa. (Đáp: Vâng).

Pháp trả y:

Phật dạy: Y xả đọa của người kia nên trả lại cho Tỳ-kheo này.

Nếu không trả lại thì phạm tội. Pháp trả lại có ba thứ:

Nghĩa là năm vật dư có duyên dần dần trả lại, chẳng phải năm vật dư thì trả ngay. Nếu không có duyên năm vật thì ngày mai trả lại.

Trong luận Minh Liễu nói: Làm cho khoảng một đêm nghĩa phải phân biệt.

1. Pháp ngay chỗ ngồi chuyển giao:

Phật dạy: Nếu chúng tăng nhiều khó nhóm họp, Tỳ-kheo này có việc nhân duyên muốn đi xa nên hỏi rằng: Y vật này của ông cho ai? Tùy theo người kia nói liền cho. Trong đó có y một tháng, y thí gấp. Lời sau này là chứa bát dư, thuốc dư, y dư, năm giới chứa dư này y theo cách này trả lại. Nên tác bạch như vầy.

– Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo … vì chứa y dư phạm xả đọa, y này đã xả cho tăng. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho, nay tăng đem y này cho Tỳ-kheo tên …, Tỳ-kheo … phải trả lại cho Tỳ-kheo này, tác bạch như thế.

– Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo này tên là … vì chứa y dư phạm xả đọa, y này đã xả cho tăng, nay tăng đem y này cho Tỳ-kheo …, Tỳ-kheo tên … phải trả lại cho Tỳ-kheo nầy. Trưởng lão nào bằng lòng tăng đem y này cho Tỳ-kheo …, Tỳ-kheo tên … sẽ trả lại cho Tỳ-kheo này thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng đem y này cho Tỳ-kheo tên …, Tỳ-kheo tên … phải trả lại cho Tỳkheo này rồi, vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này cứ thực hành như thế.

Luật Tăng-kỳ nói: Tỳ-kheo hiểu biết trong tăng được y này rồi ở chỗ khuất phân phó cho.

2. Nói về pháp ngay chỗ ngồi giao thẳng:

Nếu chẳng phải năm vật dư đều y theo pháp này. Nếu là năm vật dư qua đêm cũng y theo văn này.

– Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo … cố ngủ lìa Tăng-già-lê (hai y khác cho đến vật của tăng đều cho mặc) phạm tội xả đọa, y này đã xả cho tăng. Nếu thời giờ của chúng tăng đã đến, tăng bằng lòng cho, nay tăng đem y này trả lại cho Tỳ-kheo tên … tác bạch như thế.

– Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo … cố ngủ lìa Tăng-già-lê phạm tội xả đọa. Y này đã xả cho tăng, nay tăng đem y này trả lại cho Tỳ-kheo … Trưởng lão nào bằng lòng tăng đem y này trả lại cho Tỳkheo … thi im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng trả y cho Tỳ-kheo tên … rồi, vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này thực hành như thế.

Pháp đối bốn người trở xuống đối thú:

Nếu hướng về bốn người sám, văn xả tài đồng với tội sám trên, phải ba người miệng hòa, không được dùng đơn bạch.

Trả tài rồi được giao thẳng yết-ma như trên.

Phật dạy: Nếu muốn ở trước ba Tỳ-kheo sám hối, nên đến chỗ ba Tỳ-kheo thanh tịnh, pháp sám như trước, oai nghi ngay ngắn nói xả như vầy:

– Đại đức tăng nghe, tôi là Tỳ-kheo … cố giữ nhiều y dư, phạm tội xả đọa, nay tôi xả cho các Đại đức, xả như thế rồi nên sám tội của mình. Trước thỉnh chủ sám hối, văn thỉnh như trên, trong tăng không khác là chủ sám.

Nên hỏi: Hai Trưởng lão nghe, nếu Trưởng lão cho tôi nhận sự sám hối của Tỳ-kheo … thì tôi sẽ thọ nhận.

Hai Tỳ-kheo kia đáp: Được. Mới nói sám tội, nói có thể được, trả y đối trước hai người cũng vậy.

Pháp đối với một người xả đọa:

Phật dạy: Nếu ở trước một Tỳ-kheo sám hối, thì đến chỗ một Tỳkheo thanh tịnh nên sám hối đúng như pháp. Thời nay hành sự đối thú sám là nhiều, cho nên phải lập rõ cách thức giúp cho người thường dễ y theo mà thực hành.

Pháp xả y:

Nên đem một Tỳ-kheo đến trong giới tự nhiên, hoặc ở giới trường đều phải nhóm hết. Đem lời phạm tài buộc một chỗ rồi, sửa oai nghi ngay ngắn nói xả như vầy:

– Đại đức nhất tâm niệm, tôi là Tỳ-kheo tên … (cố chứa nhiều y dư, cố ngủ lìa Tăng-già-lê) phạm tội xả đọa, nay xả cho Đại đức (nói một lần).

Pháp thỉnh chủ sám hối:

Văn ấy nói như trên, chủ sám hối nên vì phân biệt danh tội và loại tướng. Danh là loại sáu tụ khác nhau, nghĩa là chứa y. lìa y. Ba mươi việc tướng khác, nghĩa là một nhiều khác nhau. Cho nên luật nói: Một tên nhiều loại, trụ riêng khác.

Phật nói: Nếu phạm tội tăng tàn cho đến đột-cát-la, biết mà che giấu nên trước dạy làm pháp sám hối đột-cát-la. Sau đó, đúng như pháp mà sám. Cho nên biết trước phải hỏi, sau đó mới dạy sám hối, nói rõ pháp sám tội.

Nếu y cứ theo xả đọa thì đủ tám phẩm. Đột-cát-la hai phẩm. Căn bản tùng sinh như sau đây trình bày. Che giấu gồm có sáu phẩm.

Hai phẩm đầu của che giấu vốn đọa sinh khởi. Hai phẩm kế là mặc dùng y bất tịnh mà sinh khởi. Hai phẩm sau là tăng im lặng thuyết giới sinh khởi. Đều trải qua đầu hôm, gần sáng, hai đêm, trở lên là xong. Tám phẩm này tội nhỏ, nên thỉnh chung một chủ sám hối. Văn đồng với văn ba-dật-đề, chỉ lấy chủ sám hối đột-cát-la làm khác. Kế là chính thức sám hối tội che giấu.

– Đại đức nhất tâm niệm, tôi là Tỳ-kheo …. vì chứa nhiều y dư phạm nhiều tội ba-dật-đề, trải qua đêm che giấu, tùy theo đêm dần dần che giấu (đồng thời mặc dùng y phạm xả, phạm tội đột-cát-la. Trải qua đêm che giấu, tùy theo đêm chuyển dần che giấu. Trải qua tăng im lặng thuyết giới vọng nói, phạm tội đột-cát-la. Trải qua đêm che giấu, tùy theo đêm dần dần che giấu đều y cứ có lời). Đều phạm tội đột-cát-la không nhớ số, nay hướng về Đại đức phát lồ sám hối, không dám làm nữa. Mong Đại đức nhớ nghĩ tôi (nói một lần), trị tội khác lập thề đều như trên.

Pháp sám hối hai tội nhỏ căn bản:

Luật Thiện Kiến nói: Phạm y xả đọa, không xả mà mặc, hễ mỗi lần mặc phạm một tội đột-cát-la. Luật nói: Khi tăng thuyết giới, cho đến ba lần hỏi, nhớ nghĩ có tội, mà không phát lồ phạm đột-cát-la.

– Đại đức tăng nhất tâm niệm, tôi là Tỳ-kheo …. phạm tội mặc dùng y bất tịnh và trải qua tăng thuyết giới im lặng nói dối, đều phạm đột-cát-la, số lần không nhớ. Nay hướng về Đại đức phát lồ sám hối không dám làm nữa. Mong Đại đức nhớ nghĩ cho tôi (nói một lần, lời khác đồng ở trên). Ở đây đều y cứ vào người có phạm mà nói. Trên từ căn bản sinh khởi, luật hợp lần lượt hai sám không trích dẫn chánh văn. Nay nghĩa y cứ theo các lý sám ví dụ rất dễ hiểu. Cho nên lập chánh nghi, nghĩ là không nghi lạm.

Pháp sám hối tội căn bản:

Nên đối trước sám chủ nói rằng:

– Đại đức nhất tâm niệm, tôi là Tỳ-kheo … vì chứa y dư không thuyết tịnh phạm xả đọa, y này đã xả cho Đại đức, có nhiều tội ba-dậtđề. Nay hướng về Đại đức phát lồ sám hối không dám che giấu nữa. (Văn khác như trong tăng ở trên. Cho đến các pháp quở trách tự lập thệ trả y các pháp chỉ y cứ theo điều phạm xả tài ở trước, rồi dùng đến khi hư. Nhất định gởi gắm chủng tướng và chín mươi việc đều sám hối).

Pháp sám hậu đọa:

Giống như ba mươi pháp xả đọa, chỉ khác là không xả tài. Nếu sám phẩm trước từ tám thứ sinh khởi, hoặc có hoặc không như lỗi y 80 mới.

Lượng mặc dùng đều phạm, lý phải y theo sám. Như nói dối đào đất, không có nguyên nhân mà phạm cũng không hẳn đều thông. Nên tùy theo phạm nhiều ít, xưng thật sám ở trước không được ở căn bản. Sau Phật chế ở trước. Nếu sám căn bản riêng chúng được khai, khác với ba mươi xả đọa. Văn thỉnh chủ sám hối như trên đã nói. Nếu tâm chân chánh sám hối tội cũ, văn ít có khác nên nói:

– Đại đức nhất tâm niệm, tôi là Tỳ-kheo …, phạm tội nói dối badật-đề (ngoài ra tùy theo mà xưng), không nhớ số (chỉ phạm đơn đọa nhiều không nhớ thật. Người tự nhớ có thì tùy theo điều có mà nói thật, chẳng lầm). Nay hướng về Đại đức phát lồ sám hối không dám che giấu nữa. (Các từ khác như trên, cho đến quở trách lập thệ cũng như vậy).

Pháp sám hối Ba-la-đề-đề-xá-ni:

Nghĩa là ở trong làng xóm theo ni không bà con tự tay nhận lấy thức ăn, hoặc ăn thức ăn do ni trao cho. Các luật bảo thỉnh một người làm chủ nói tên tội, loại tội, nói một lần liền thôi, nói như vầy:

– Đại đức nhất tâm niệm, tôi là Tỳ-kheo … ăn thức ăn do Tỳ-kheoni trao cho, phạm tội Ba-la-đề-Đề-xá-ni, không nhớ số, Đại đức! Tội phạm pháp đáng quở trách, là việc không nên làm, nay hướng về Đại đức sám.

Luật Tăng-kỳ nói: Trước người nên hỏi.

– Ông thấy tội hay không?

– Đáp: Thấy tội, nên quở trách rằng:

– Cẩn thận chớ có làm nữa.

– Đáp: Lãnh thọ vâng làm.

Pháp sám đột-cát-la:

Phật dạy: Nếu người cố làm phạm nên sám hối đột-cát-la. lại phạm không oai nghi đột-cát-la. Nếu không cố làm chỉ phạm đột-cát-la.

Luật bản nói đủ hai tâm cố nhầm, nói hai tội điều riêng. Các sư không chia rẽ luật bộ, chỉ lấy năm thứ sám làm tông, nên dường như đồng một thứ khinh trọng, đồng một sám hối. Lại ngũ sám nói rõ nghĩa chỉ là biệt thời. Thâu-lan-già và xả đọa, có không, nhiều ít, lập pháp chẳng phải một. Lý cần hiển rõ. Phạm nói nạn y vào lời Thánh dễ tin cho nên Kinh Tỳ-ni-mẫu nói: Nếu người cố làm đối một người nói sám, người lầm làm thì trách tâm sám. Ở đây thì các luật đều phù hợp, đâu được có chấp. Như Kiền-độ quở trách trong luật và Luận Minh Liễu, Tát-bà-đa, v.v… mỗi bộ có y cứ rõ ràng, chẳng phải chỉ nghĩa so lường. Cần phải nương tựa, ngoài ra từ căn bản sinh khởi chín phẩm khác nhau, đều y theo lệ như trên mà chọn lấy. Chánh nói về nghi thức sám hối (luật đều không có văn), y theo dùng pháp trước, lý thông trừ diệt. Trước nói rõ người cố làm, trước thỉnh chủ sám nói:

– Đại đức nhất tâm niệm, tôi là Tỳ-kheo …, thỉnh Đại đức làm chủ sám đột-cát-la, mong Đại đức vì tăng làm chủ sám đột-cát-la, vì lòng từ bi thương xót (nói ba lần).

Pháp xả tội:

Từ căn bản sinh khởi nói phải biết hai thứ tướng nhiều ít, đều xem xét rõ. Nên đối trước người nói như vầy:

– Đại đức nhất tâm niệm, tôi là Tỳ-kheo … vì mặc Tăng-già-lê không ngay ngắn phạm tội đột-cát-la, nay hướng về Đại đức phát lồ sám hối không dám tái phạm nữa, mong Đại đức nhớ nghĩ con (nói một lần, quở trách lập thệ như trước).

Pháp lầm tác sám:

Sửa sang oai nghi, tâm khởi hổ thẹn miệng nói: Tôi là Tỳ-kheo … lầm mặc Tăng-già-lê không ngay ngắn phạm tội đột-cát-la, nay con tự trách tâm sám hối tội lỗi (nói một lần).

****

THIÊN THỨ MƯỜI: TRỤ TRÌ TẠP PHÁP

Pháp sáu niệm:

Trong luật đều có việc này.

Mà ý văn tản mác, chánh bản xuất xứ trong luật Tăng-kỳ, mà lời thì lược, ý lại rộng. Lại thời bấy giờ thạnh hành cho nên cần nghĩa thêm văn nói:

Thứ nhất: Nghĩ biết số ngày tháng.

Luật Tăng-kỳ nói: Nghĩ biết ngày đầu tháng cho đến ngày mười bốn, mười lăm, tháng thiếu tháng đủ phải biết.

Luật Ngũ Phần nói: Các Tỳ-kheo nên biết số nửa tháng, đều biết ngày bố tát sám hối thanh tịnh.

Luật nói: Nhớ biết tháng trời tối, tháng trăng sáng hai thứ số. Nếu vào xóm làng trước phải biết điều đó. Đây thì gồm đủ hai pháp đạo tục nên nghĩ vầy: Nay tháng trời tối thiếu, (cho đến ngày mười bốn nói). Nếu đủ thì nói đủ, tháng trăng sáng vì thuần đủ chỉ nói nay ngày một tháng trăng sáng cho đến ngày mười lăm.

Thứ hai: Nghĩ biết chỗ ăn.

Luật Tăng-kỳ nói: Buổi sáng nên nghĩ việc thí thực. Nay vì các bộ đều hội thông, tùy theo sự thật mà nghĩ nói: Tôi thường xin thức ăn, hoặc nói: Tôi thường tự ăn thức ăn của mình, hoặc nói: Tôi thường ăn thức ăn của tăng. Hoặc không thường định, nên nghĩ nói như vầy: Tôi không có chỗ thỉnh, nay xin thức ăn (hoặc ăn thức ăn mình, hoặc đànviệt, hoặc thường ăn thức ăn của tăng, lệ theo mà biết).

Hoặc nói: Nay có chỗ thỉnh nhớ tự đến. Hoặc nói: Tôi có chỗ thỉnh nay y vào trái duyên.

Phật dạy: Nếu trong tháng ca-đề, hoặc thí y, hoặc bệnh u khai cho trái thỉnh.

Nếu nói tôi có chỗ thỉnh, nay xả cho người. Phật dạy: Nếu một ngày thọ nhiều thỉnh, tự thọ nhận một người thỉnh. Ngoài ra thí cho người nói: Trưởng lão tôi nên đến chỗ kia, nay cúng dường cho ông. Luật Tăng-kỳ nói: Nay Tôi được thức ăn cúng dường cho Tỳ-kheo …, cho đến Sa-di-ni.

Hoặc nói: Tôi là Tỳ-kheo … sáng nay đàn-việt thí cho thức ăn chân chánh, trở về cúng dường Tỳ-kheo … Đàn-việt đối với tôi không hệ lụy, tôi phải ăn. (nói ba lần).

Luật Thập Tụng nói: Cách nhớ nghĩ này chỉ có ba hạng người làm được. Nghĩa là: A-lan-nhã, ở một mình, đi xa, bệnh đói nhiều ngày.

Nương vào xóm làng quen biết ở, người như thế được thực hành tâm niệm.

Thứ ba: Nhớ biết số hạ lúc thọ giới.

Luật Tăng-kỳ nói: Mỗi ngày tự nhớ bao nhiêu hạ lạp.

Các bộ luật, luận đều nói như vầy: Tôi năm nào, tháng nào, ngày nào, giờ nào, bóng mặt trời chừng nào, thọ giới cụ túc, nay không có hạ (sau đó nếu có hạ tùy theo nhiều ít mà nói).

Thứ tư: Nghĩ nhớ y bát thọ tịnh.

Luật Tăng-kỳ nói: Phải nhớ thọ trì ba y và không thọ trì làm tịnh thí. Nay Tôi y bát đầy đủ đều thọ trì, của cải dư đều thuyết tịnh. Sau này có người không thọ trì không thuyết tịnh, tùy theo có nhớ thọ trì nhớ thuyết tịnh, nhớ nhiều hay ít.

Thứ năm: Nhớ biết thức ăn giống hay khác.

Luật Tăng-kỳ nói: Nghĩ nhớ ăn riêng chúng, lại nhớ nói:

Tôi không ăn riêng chúng.

Nếu y theo lời Phật thì ăn riêng chúng có tám duyên.

Khai cho nên bạch vào, nếu không có duyên ăn riêng chúng thì bạch ra, hoặc có bạch rằng:

Tôi có duyên ăn riêng chúng (tác bạch rồi được ăn).

Thứ sáu: Nghĩ về thân mạnh yếu.

Luật Tăng-kỳ nói: Nghĩ nhớ hoặc bệnh, hoặc không bệnh.

Nên nói: Nay Tôi không bệnh, có khả năng hành đạo.

Hoặc bị bệnh thì nên nói:

Nếu bị bệnh thì nhớ phải chữa trị.

Pháp bạch đồng lợi thực lần lượt vào xóm làng:

Bấy giờ, trong thành La-duyệt, chúng tăng phần lớn có chỗ thỉnh, đều cẩn thận nên không dám vào thành thọ thỉnh. Phật dạy: Cho các Tỳ-kheo dặn dò nhau vào thành, nên nói cùng thỉnh Tỳ-kheo, nói như vầy:

– Đại đức nhất tâm niệm, tôi là Tỳ-kheo …, trước thọ thỉnh của … Nay có duyên sự …, muốn vào xóm làng, chỗ nào đó, đến nhà nào đó bạch cho Đại đức biết.

Phật dạy: Nếu dặn dò rồi muốn đến trong xóm mà nửa đường trở về, hoặc đi mà không đến chỗ được dặn dò, hoặc dặn dò đến nhà người tại gia. Cho đến kho cất chứa trong chùa ni, hoặc đến nhà người tại gia rồi đi ra. Như thế đều mất sự dặn dò ở trước. Hoặc muốn đến phải dặn dò lại, trừ khi thí y, nghĩa là một tháng năm tháng ca-đề. Ngoài ra trừ trong lúc khuyến hóa làm thức ăn. Đồng thời người thí y, hoặc lúc ca-đề 8 khai cho thông.

Pháp bạch phi thời vào xóm làng:

Phật dạy: Nếu vào xóm làng phải dặn dò Tỳ-kheo ở chung rằng:

Thức ăn tuy sớm xong, nhưng nếu vào thì gọi là phi thời.

Đã không có chánh văn nên ứng nghĩa mà nói:

Thưa Trưởng lão tôi vào xóm làng phi thời.

Luật Thập Tụng nói: Đến thành ấp xóm làng nào đó, nhà nào đó, người trước đáp rằng: Được.

Làm pháp dư thực:

Phật dạy: Thức ăn của Tỳ-kheo có hai thứ:

1. Bất chánh thực: Nghĩa là ăn cành lá, hoa quả, dầu mè, hắc thạch, mật, ma tế mạt, hoặc cháo. Không có chỗ, không có thức ăn, không thỉnh, không đủ ăn.

2. Chánh thực: Nghĩa là cơm, mì, cơm khô, cá thịt, là thỉnh là thức ăn là đủ ăn. Nếu đối với chánh thực, hoặc ăn no đủ rồi, xả bỏ oai nghi, không làm pháp dư thực mà ăn thì phạm ba-dật-đề. Nếu theo luật Tăngkỳ, chỉ trước ăn đủ no, nuốt rồi xả oai nghi, hoặc ăn lại gọi là phạm đủ. Lại y vào luật bản: Các Tỳ-kheo thọ nhận không làm pháp dư thực, thấy Thượng tọa đến nói rằng: Tôi thọ theo không làm pháp dư thực, lại không phải đứng dậy mà được ăn, cho nên biết trước cảnh là đủ, nếu đứng dậy là phải làm pháp dư thực:

Lại trong giới ni kính tăng cũng như vậy. Nên biết ni cũng có pháp dư thực. Nếu phạm đủ, đem thức ăn đến trước người chưa đủ bạch:

Đại đức: Tôi đã đủ thức ăn. Thầy biết là vậy, xem là vậy.

Người kia lấy phần ít thức ăn rồi đưa cho người kia. Nếu người không có thức ăn cũng được cho nói:

Trưởng lão tôi đã có thức ăn. Thầy ăn thức ăn ấy đi.

Người kia liền lấy thức ăn. Luật nói: Một Tỳ-ni đủ thưc ăn tác pháp rồi, thông tất cả người đủ thức ăn đồng ăn.

Pháp quở trách đệ tử.

Bấy giờ, các đệ tử không thuận theo pháp của đệ tử, không vâng theo hạnh của Hòa-thượng, A-xà-lê, không hổ thẹn, không thọ giáo, làm điều phi oai nghi, không cung kính, làm bạn với người ác, thích đến nhà dâm nữ, nhà phụ nữ, nhà đồng nữ, nhà huỳnh môn, tinh xá Tỳkheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di ni, thích đến xem rùa, ba ba. Phật dạy:

Hoà thượng, A-xà-lê quở trách:

  1. Gọi đệ tử đến trước.
  2. Xuất tội làm cho hàng phục.
  3. Lượng tội mà quở trách.

Lại tự lượng vui buồn không phân được ý, lại khinh chê có năm loại nên nói:

Nay Tôi quở trách ông, ông đi đi.

Hoặc nói: Ông đừng vào phòng tôi.

Hoặc nói: Ông đừng làm sứ cho tôi.

Hoặc nói: Ông đừng đến chỗ tôi.

Hoặc nói: Tôi không nói chuyện với ông.

Đây là pháp Hòa-thượng quở trách đệ tử.

Lời A-xà-lê quở trách cũng vậy. Chỉ đổi từ quở trách thứ tư: Ông đừng nương tôi.

Đệ tử bị trách rồi phải một ngày ba thời sáng, trưa, chiều sám hối Hòa-thượng, A-xà-lê. Phải sám hối như vầy:

Vén y bày vai phải, cởi giày dép, gối phải sát đất, chắp tay nói như vầy:

Đại đức Hòa-thượng, tôi tên … nay sám hối không dám làm nữa, nếu cho thì tốt, còn không cho thì ngày ba thời sám hối như trên.

Còn không cho nữa nên phải hạ ý thuận theo cầu phương tiện để giải thích điều đã phạm. Nếu hạ ý thuận theo mà sư không chấp nhận sự sám hối ấy thì đúng như pháp mà trị. Cũng bảo các Tỳ-kheo đem sự thuận theo đó bảo cùng đến chỗ Hòa-thượng A-xà-lê, điều hòa làm cho sớm nhận sự sám hối. Hòa-thượng kia nếu trọn đời quở trách rồi, an cư quở trách, lại quở trách người bệnh, không xuất tội, không hiện tiền, đều gọi là phi pháp, trái lại phải trị vị thầy ấy. Nếu vị đệ tử bị trị phạt chưa sám hối mà thọ sự cung cấp và y chỉ là phi pháp, cần phải trị phạt vị thầy ấy. Nếu đệ tử bị quở trách nhẹ mà không chấp lao phục dịch cho Hòa-thượng xà-lê và Tỳ-kheo khác, Phật dạy phạm tội nên đúng như pháp mà trị.

Pháp đệ tử bạch tạ từ Hòa-thượng:

Phật dạy: Nếu đệ tử thấy năm thứ phi pháp của Hòa-thượng, nên sám hối tạ lỗi mà đi, bạch Hòa-thượng: Con đúng như Pháp mà Hòathượng không biết.

Hoặc nói: Con không đúng như Pháp Hòa-thượng không biết.

Hoặc nói: Con phạm giới Hòa-thượng xả bỏ, không dạy bảo quở trách.

Nếu đệ tử phạm tội, Hòa-thượng xả bỏ được. Nay y cứ vào quở trách thích hợp và si, không trách, không hỏi.

Hoặc có phạm cũng không biết.

Hoặc nói: Nếu phạm mà sám hối cũng không biết.

Luật Tăng-kỳ nói: Nên ôn hòa can ngăn thầy. Nếu Hòa-thượng không chấp nhận nên bỏ đi xa, chỉ sư, cầm y bát ra ngoài giới ngủ. Ngày mai trở lại y chỉ Tỳ-kheo khác.

Luật Thập Tụng nói: Có bốn loại Hòa-thượng:

1/ Nếu dạy và cho ăn thì gọi là thích ở.

2/ Nếu dạy mà không cho ăn nên tìm chỗ khác ăn, gọi là khổ ở.

3/ Nếu cho ăn mà không dạy nên sám hối tạ lỗi mà đi.

4/ Nếu không dạy, không cho ăn ngày đêm không hỏi han thì nên bỏ đi.

Do xuất gia ý chí vốn là thành tựu đạo nghiệp. Còn thế tục luẩn quẩn trong sinh tử.

Luận Thành Thật nói: Đắm nhiễm quyến thuộc, mê theo trụ xứ, sẽ đọa sinh trong loài Ca-lăng-già, ngạ quỷ. Như trong sao có nói rộng.

Pháp can ngăn làm phạm:

Bấy giờ có Tỳ-kheo muốn phạm Ba-la-di, cho đến ác thuyết.

Phật dạy: Các Tỳ-kheo nên đúng như pháp can ngăn, nói như vầy:

Đại đức chớ làm điều không nên làm. Việc làm của Đại đức là phi pháp, phi luật, chẳng phải lời Phật dạy.

Nếu Tỳ-kheo này nói nay tôi mới biết pháp này là giới kinh, nửa tháng tụng xuất xứ từ trong giới kinh, Tỳ-kheo khác nên can ngăn như vầy: Trưởng lão! Thầy từng hai, ba lần ngồi trong chỗ thuyết giới, huống chi nhiều lần. Nay thầy không được lợi, bất thiện. Vì sao? Vì khi ông thuyết giới, không để tâm suy nghĩ, không nhất tâm lắng tai nghe.

Nhưng Tỳ-kheo này tự biết việc làm ấy người khác can ngăn sai cho nên làm phạm căn bản không vâng theo, phạm đột-cát-la.

Nếu tự biết việc làm của mình là sai, cho rằng người khác can ngăn là đúng, cố làm phạm pháp, căn bản không nghe theo phạm badật-đề. Tỳ-kheo vô tri không hiểu, tùy theo việc làm mà phạm tội, đúng như pháp trị tội lại cộng thêm tội vô tri, ba-dật-đề. Nếu bị người vô tri can ngăn trở lại nói rằng:

Ông hãy hỏi Hòa-thượng A-xà-lê của ông, phải học hỏi tụng kinh, biết pháp can ngăn rồi sau đó mới can ngăn.

Luật Tát-bà-đa nói: Nếu người can ngăn ở trước có sáu loại:

  1. Tâm có yêu ghét.
  2. Độn căn vô trí.
  3. Thấy biết ít.
  4. Vì tiếng tăm lợi dưỡng.
  5. Vì pháp lạc hiện đời chỉ muốn tự nhiếp.
  6. Hoặc mới xuất gia luyến ái vợ con.

Sáu hạng người như vậy can ngăn thì có tổn hại. Hoặc phát lời dạy khuyên vô bổ. Nên nói lại như vậy, chỉ tự xem thân làm lành hay không lành, cũng không để ý xem người khác làm hay không làm. Nếu trái sáu điều trên thì nên thay nhau can ngăn.

Pháp can ngăn đừng phạm:

Bấy giờ, các Tỳ-kheo không học giới, không khen ngợi giới.

Phật dạy: Tỳ-kheo khác nên can ngăn đúng như pháp. Người kia nói như vầy:

Đại đức phải học giới, khen ngợi giới, không tự mình phá hoại, không phạm tội, không bị người trí quở trách, thọ phước vô lượng, đêm dài an vui.

Nếu Tỳ-kheo kia nói: Trưởng lão cần gì hỏi văn tạp nhạp này với Tỳ-kheo trí luật có trí tuệ khác, Tỳ-kheo khác lại nên can ngăn rằng: Đại đức muốn diệt pháp cho nên nói như vậy, Đại đức đã không học giới, không khen ngợi giới, cũng tự phá hoại, đã phạm nhiều tội, bị người trí quở trách, đêm dài chịu khổ không được an vui. Nếu người kia can ngăn, Tỳ-kheo ngu si không hiểu điều can ngăn này, Tỳ-kheo nên nói với người kia rằng:

Ông hãy hỏi Hòa-thượng của ông.

Văn khác như trên, như pháp can ngăn rồi. Nếu là người trí nên hỏi vặn.

Phật dạy: Có năm thứ trì luật: Hoặc tụng tựa giới cho đến ba mươi giới ni-tát-kỳ ba-dật-đề. Đó là trì luật bậc nhất.

Hoặc tụng tựa giới cho đến chín mươi việc là trì luật thứ hai.

Nếu tụng rộng giới Tỳ-ni là trì luật thứ ba.

Thứ tư: Hoặc tụng rộng hai bộ luật Tỳ-ni.

Thứ năm: Hoặc tụng rộng Tỳ-ni.

Trong đó mùa xuân, mùa đông, y chỉ bốn thứ trì luật. Nếu trái phạm đột-cát-la. Hạ an cư nên y chỉ thứ năm. Nếu trái, phạm ba-dậtđề.

Phật dạy: Người trì luật được năm công đức:

  1. Giới phẩm bền chắc.
  2. Khéo thắng các kẻ thù.
  3. Ở trong chúng quyết đoán không sợ hãi.
  4. Có nghi ngờ thì được khai mở.
  5. Khéo trì Tỳ-ni làm cho Chánh pháp an trụ lâu dài.

Phật dạy: Có bốn loại người đoán việc:

  1. Ít học không hổ thẹn.
  2. Học rộng không hổ thẹn.
  3. Ở trong tăng xử đoán việc tăng.
  4. Nêu các thứ khổ thiết quở trách, làm cho người không hổ thẹn không còn làm nữa.

Nếu người có hổ thẹn học rộng, hoặc người có hổ thẹn ít học, ở trong chúng nói đoán việc tăng nên chỉ bày các thứ trợ giúp.

Hoặc tùy theo lời người kia khen ngợi lành thay!

Phật nói: Có năm thứ Chánh pháp nhanh chóng hủy diệt.

1. Có Tỳ-kheo không rõ thọ nhận luật sư, ưa quên câu cú lại dạy người khác, vì văn không đủ nên nghĩa có thiếu.

2. Làm Thượng tọa hơn người ở trong tăng. Nhưng phần nhiều không giữ giới chỉ làm việc bất thiện, kẻ hậu sinh học theo buông lung giới hạnh.

3. Có Tỳ-kheo trì pháp, trì luật Ma-di, không dạy dỗ đạo tục, sau đó qua đời, làm cho Chánh pháp đoạn diệt.

4. Có Tỳ-kheo khó có thể làm Giáo thọ, không nhận những lời hay tốt của Tỳ-kheo thiện khác, đều bỏ qua một bên.

5. Mắng nhiếc lẫn nhau, tìm ưu khuyết lẫn nhau thì Chánh pháp hủy diệt.

Phật dạy: Nếu Thượng tọa đã không học giới, cũng không khen ngợi giới. Nếu có Tỳ-kheo khác, thích học giới, khen ngợi giới, cũng không thể khuyên nhủ khen ngợi. Tôi không khen ngợi Thượng tọa như thế. Vì sao? Vì nếu tôi khen ngợi thì làm cho các Tỳ-kheo gần gũi, học tập pháp ấy đêm dài chịu khổ. Tôi thấy Thượng tọa như thế có lỗi, cho nên không khen ngợi.

Hoặc Trung tòa, Hạ tọa cũng làm câu như trên. Kế có Thượng Trung Hạ tòa đáng khen ngợi. Thượng tọa như thế làm cho câu văn trái với trên.

Phật dạy: Tỳ-ni có năm thứ đáp:

  1. Đáp tựa.
  2. Đáp chế.
  3. Đáp trùng chế.
  4. Đáp tu-đa-la.
  5. Đáp tùy thuận tu-đa-la.

Luật Tăng-kỳ nói: Muốn được năm việc lợi thì nên trì luật.

  1. Xây dựng Phật pháp.
  2. Làm cho Chánh pháp tồn tại lâu dài.
  3. Không muốn có nghi hối nên thỉnh hỏi người khác.
  4. Tăng ni phạm tội sợ hãi, nên làm chỗ nương tựa cho họ.
  5. Muốn du hóa các phương mà không có trở ngại.

Đây là năm điều lợi của người dốc tin trì luật.

Luật Thập Tụng nói: Các Tỳ-kheo bỏ học tỳ-ni, mà tụng đọc Tuđa-la, A-tỳ-đàm. Đức Thế tôn quở trách đủ thứ rồi khen ngợi tỳ-ni. Phần lớn có Tỳ-kheo Trưởng lão đến chỗ Ưu-ba-ly học luật. Phật bảo Tỳ-kheo, có mười thứ pháp ở đời làm cho Chánh pháp mau diệt. có Tỳkheo vô dục, độn căn, tuy tụng cú nghĩa nhưng không thể thọ lãnh chân chánh, lại không hiểu rõ, không thể làm cho người lãnh thọ cung kính oai nghi. Cho đến không thích pháp a-luyện-nhã, lại không theo giáo pháp. Không kính Thượng tọa, không có oai nghi, làm cho hàng hậu sinh không học tỳ-ni, dẫn đến buông lung, mất các pháp lành, thích làm văn tụng, chương cú trang nghiêm, thích pháp thế tục, Chánh pháp mau diệt thật đáng lo sợ. Các Tỳ-kheo nên biết như vậy.

Thiện Kiến Tỳ-bà-sa nói: Phật bảo A-nan! Sau khi ta diệt độ có năm thứ pháp giúp cho chánh pháp an trụ lâu dài.

  1. Tỳ-ni là thầy của ông.
  2. Dù cho chỉ có năm người trì luật ở đời.
  3. Nếu có mười người ở thành phố, năm người ở biên địa thọ giới đúng pháp.
  4. Cho đến hai mươi vị xuất tội.
  5. Vì Luật sư trì luật nên Phật pháp trụ thế năm ngàn năm.

Luận Tát-bà-đa nói: Tỳ-ni có bốn nghĩa, kinh khác không có.

  1. Đất bằng Phật pháp, muôn điều lành do đây sinh ra và lớn lên.
  2. Tất cả đệ tử Phật đều nương vào giới mà trụ. Tất cả chúng sinh do giới mà có.
  3. Cửa đầu tiên hướng về Niết-bàn.
  4. Là anh lạc của Phật pháp, có công năng trang nghiêm Phật pháp.

Đủ bốn nghĩa này thì có công đức mạnh như vậy.

Phật dạy: Có bốn thứ nói rộng.

Nếu Tỳ-kheo nói như thế, các Trưởng lão tôi đối với thôn nào đó, thành nào đó, đích thân theo Phật pháp nghe thọ trì pháp như thế, đây là Tỳ-ni, là lời Phật dạy. Nếu nghe lời Tỳ-kheo kia nói, không nên sinh nghi ngờ, cũng không nên quở trách.

850

Nên xét rõ văn cú rồi, nên tìm tòi nghiên cứu Tu-đa-la, Tỳ-ni so sánh pháp luật. Hoặc nghe lời Tỳ-kheo kia nói không tương ứng với Tu-đa-la, Tỳ-ni pháp luật, trái với pháp, nên nói với Tỳ-kheo kia lời ông nói không phải Phật nói. Hoặc là Trưởng lão không xét định được lời Phật. Vì sao? Vì Tôi tìm tòi nghiên cứu Tu-đa-la, Tỳ-ni, pháp luật, không cùng tương ưng, trái với pháp. Trưởng lão không khéo tụng tập, cũng nhớ dạy Tỳ-kheo khác. Nay nên xả bỏ đi! Nếu nghe lời của Tỳkheo kia tìm tòi nghiên cứu Tu-đa-la hoặc Tỳ-ni, pháp luật, cùng nhau tương ưng, nên nói: Lời trưởng lão nói là lời Phật nói, xét rõ được lời Phật. Vì sao? tôi tìm tòi nghiên cứu Tu-đa-la, Tỳ-ni, pháp luật tương ưng mà không trái, Trưởng lão nên khéo thọ trì tụng tâp, dạy Tỳ-kheo khác chớ để quên mất. Đây là nói rộng đầu tiên.

Câu thứ hai theo hòa hợp tăng Thượng tọa nghe. Câu thứ ba, theo ba Tỳ-kheo biết pháp, Tỳ-ni, trì Ma-di mà nghe. Câu thứ tư theo một Tỳ-kheo biết pháp, Tỳ-ni, Ma-di mà nghe. Câu văn trái thuận thọ xả cũng giống như vậy. Đây là bốn điều thuyết rộng. Cho nên Tỳ-kheo các ông phải thuận theo văn cú, chớ làm thêm bớt, trái pháp Tỳ-ni, phải học như thế. Phật nói như vậy rồi, các Tỳ-kheo nghe vui mừng tin ưa thọ trì.

TỨ PHẦN LUẬT SAN BỔ TÙY CƠ YẾT-MA

QUYỂN HẠ (HẾT)

****

Văn Tỳ-kheo già bệnh chứa gậy, túi lụa, xin yết-ma, mong cho tôi là Tỳ-kheo … chứa gậy, túi lụa. Vì lòng từ bi (nói ba lần).

Pháp yết-ma tăng và Tỳ-kheo bệnh chứa gậy, túi lụa.

– Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo … già bệnh, không thể không có gậy, đãy lụa mà đi. Nay theo tăng xin chứa gậy, túi lụa. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho Tỳ-kheo … chứa gậy, túi lụa tác bạch như vậy.

– Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo … già bệnh không thể không có gậy, túi lụa mà đi. Nay theo tăng xin chứa gậy, túi lụa. Nay Tăng cho Tỳ-kheo … chứa gậy, túi lụa. Trưởng lão nào bằng lòng tăng cho Tỳkheo … chứa gậy, túi lụa thì im lặng, ai không bằng lòng thì nói. Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo … chứa gậy, túi lụa rồi. Vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này nên thực hành như vậy.

Tỳ-kheo Đạo Tuyên vào niên hiệu Trinh Quán đời Đường đến các nói giảng luật, tìm rộng quyết biệt, chỉ thấy văn tụng, tin nói sự trật tự của bộ thành tông cho về thảo luận đến sự then chốt, từng chưa chánh cơ bèn căn dặn, văn chương y vào tông bản mà soạn.

Tuy không nghiên cứu tận nguồn, ngõ hầu quyết định việc thực hành, mong lấy chút hạt cát ở núi biển chiếu soi muôn đời, chí đạt đến cũng rất xa.

Văn luật Thập Tụng thọ ba mươi chín đêm yết-ma.

– Đại đức tăng xin lắng nghe, các Tỳ-kheo tên … thọ việc tăng ba mươi chín đêm, cố ra ngoài giới, chỗ này an cư tự tứ. Nếu thời giờ của chúng tăng đã đến, tăng bằng lòng cho các Tỳ-kheo … thọ việc tăng ba mươi chín đêm, cố ra ngoài giới, tự tứ an cư ở chỗ này, tác bạch như vậy.

– Đại đức tăng xin lắng nghe, các Tỳ-kheo v.v… thọ việc tăng ba mươi chín đêm, cố ra ngoài giới, an cư tự tứ ở chỗ này. Các Trưởng lão nào bằng lòng cho Tỳ-kheo … thọ việc tăng ba mươi chín đêm, cố ra ngoài giới ở đây an cư thì im lặng, ai không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo …. thọ việc tăng ba mươi chín đêm, cố ra ngoài giới, ở chỗ này an cư tự tứ rồi. Vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này thực hành như vậy.

Luật Thập Tụng thọ pháp tàn đêm.

Nếu Tỳ-kheo thọ bảy đêm chưa xong, mà việc chưa xong. Phật dạy: Cho thọ pháp tàn đêm.

Tôi thọ pháp bảy đêm, bao nhiêu đêm, đang bị sự đuổi ra của người kia (nói một lần).

Văn luật Tăng Kỳ hai mươi bảy việc xin yết-ma.

– Nếu vì việc tháp, việc tăng nên làm, yết-ma Cầu Thính.Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo … ở hai chỗ này an cư. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho Tỳ-kheo … ở hai chỗ này an cư. Vì việc tháp, việc tăng đi ra khỏi giới, việc rồi trở về chỗ này.

– Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo … vì việc tháp, việc tăng đi rõ ràng ngoài giới việc xong về lại chỗ này an cư. Vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này thực hành như thế.

Như thế mà đi phải có chỗ được, như thế xong đêm về lại. Các bộ luật thọ nhật mỗi bộ khác nhau.

Các sư sau này mỗi vị chấp một bộ, không dùng bộ khác, đây cũng là một nhà. Nay xét kỹ văn của các bộ luật này cùng các bộ trước đây dùng qua lại đều được. Sở dĩ như vậy, nếu nhất định biết việc ấy trước, cần một đêm thì luật Thập Tụng cho thọ pháp một đêm, cho đến bảy đêm cũng như thế. Hoặc phải ba mươi chín đêm, cũng dùng pháp yếtma thọ nhật của Thập Tụng, hoặc dùng bảy ngày, ngày mười lăm, một tháng, tức dùng pháp thọ nhật văn của Tứ phần. Hoặc không định việc như trước bao nhiêu ngày nên rõ, tức dùng pháp thọ nhật văn của Tăng Kỳ. Sau này có người không hiểu, liền tụng văn yết-ma của Tứ Phần, vì người khác chấp nhận việc của luật Tăng-kỳ, không tụng ba mươi chín đêm, đây đều là phi pháp không thành. Vì sao biết? Trong văn yết-ma ghi việc khác nhau cho nên biết không thành. nay sợ mọi người dùng lầm bộ sao chung cho các bộ luật, văn chính yết-ma lựa chọn các bậc hiền, mặc tình thấy tác pháp tùy việc được dụng.

– Đại đức tăng xin lắng nghe, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho các Tỳ-kheo nhóm họp kết tiểu giới, tác bạch như vầy:

– Đại đức tăng xin lắng nghe, từng ấy các Tỳ-kheo nhóm họp kết tiểu giới, Trưởng lão nào bằng lòng cho Tỳ-kheo nhóm họp kết tiểu giới thì im lặng, ai không bằng lòng thì cứ nói lên, Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo nhóm họp kết tiểu giới rồi. Vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này thực hành như thế.

Nếu giải giới chỉ đổi chữ kết thành chữ giải, nói các văn như tiểu giới, tự tứ trước đó.

– Đại đức tăng xin lắng nghe, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho các Tỳ-kheo chỗ ngồi đã đủ, đồng chỗ ngồi của Tỳ-kheo kết tiểu giới như thế, tác bạch như vầy:

– Đại đức tăng xin lắng nghe, đồng chỗ ngồi của Tỳ-kheo ở trong đó kết tiểu giới, Trưởng lão nào bằng lòng đồng chỗ ngồi của Tỳ-kheo kết tiểu giới thì im lặng, ai không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng cho đồng chỗ ngồi của Tỳ-kheo kết tiểu giới rồi, vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này thực hành như thế.

 

Pages: 1 2