BÚT KÝ BÊN CỬA TRÚC
-TRÚC SONG TÙY BÚT-
Tác giả: Đại Sư Liên Trì
Dịch giả: Sa Môn Thích Viên Thành

 

PHẦN III
TRÚC SONG TAM BÚT
(Tiếp theo)

361. SẤM SÉT

Tô Minh Doãn nói rằng:

Phản bội Cha Mẹ, khinh nhờn thần minh thì sấm sét sẽ đánh. Sấm sét cố nhiên chẳng thể đánh hết bọn này, song có lúc chẳng thể lường được.

Lời này của Minh Doãn muốn khiến kẻ ác sợ, nhưng những kẻ lọt lưới sấm sét cũng đông, cuối cùng chẳng thể khiến chúng sợ.

Song làm ác bị quả báo đại để cũng có nhiều đường, có kẻ sinh ác tật mà chết, có kẻ phạm tội bị hình phạt mà chết, có kẻ gặp hùm sói mà chết, có kẻ chết đuối, có kẻ chết thiêu, có kẻ chết vì gươm đao búa rìu, có kẻ chết vì tỳ sương chấm độc, có kẻ chết vì tường đổ đá đè, nhưng quả báo vẫn là một.

Loại giết người bằng tầm vông dao sắc đâu cứ phải hết thảy đều bị sét đánh?

Huống hồ còn có kẻ đời nay bị quả báo, có kẻ kiếp sau bị quả báo, có kẻ thân xác bị quả báo ở dương gian, có kẻ vong hồn bị quỉ báo ở âm phủ.

Chớ nói rằng: Chẳng bị sét đánh, mà vội xưng là đã lọt lưới.

 

362. BẠN CHÂN CHÍNH

Bài cảnh sách của Trung Phong Đại Sư có câu:

Tham Thiền phải đợi tìm Thầy bạn, đảm bảo công phu một đời xong.

Còn nói:

Dù có Đạt Ma và Thích Ca, định thân sớm đã thành khuôn sáo. Đây là lời chí diệu ví như đề hồ, song chẳng thể để hạng hạ sĩ nghe được. Chúng sẽ chấp vào lời này mà tự mãn tự chuyên, chẳng còn biết lợi ích của việc tranh thủ bạn bè. Tranh thủ bạn bè không khó, tìm được bạn chân chính mới là khó. Theo đuổi nhau để mưu cầu ăn uống tiền bạc lụa là, đó là bạn xấu.

Khuyên nhau điều thiện, can nhau điều ác, đó là bạn tốt. Mở cho ta con đường tu hành chân chính, chỉ bảo ta pháp tối thượng thừa, là đèn của ta, là mắt của ta, là Đạo Sư của ta, là y vương của ta. Đó là bạn chân Thiện Tri Thức, là người chẳng thể xa lìa một ngày nào cả.

 

363. HỌC QUÝ CHUYÊN TINH

Người xưa đi học, có người suốt ba năm chẳng dòm đến vườn tược, có người đóng cửa chẳng bước ra ngoài bậu cửa, có người được thư nhà nhìn thấy hai chữ bình an liền ném xuống nước chẳng giở ra xem tiếp, đó là những người dường như chuyên tinh bất nhị.

Thế mà người làm Tăng học xuất thế pháp lại để cho việc thế gian làm rối loạn bản tâm ư?

Bọn ta xem đó, nên toát mồ hôi, ớn xương sống mà cảnh giác trong lòng.

 

364. TRUYỀN ĐĂNG

Các sư được ghi trong Truyền Đăng Lục như các vị đại tôn túc lục đại tương thừa sáu đời nối nhau, ngũ đăng phân diệm năm đèn chia lửa đều là những nhân vật hạng nhất xưa nay trong thiên hạ. Đó là các vị được coi là mới biết ngoài Chu Khổng, còn có anh hùng khác.

Há dễ nói đâu. Thế mà người thời nay có kẻ mới biết được một đôi điều, có kẻ mới khỏi được khinh an, đã tự cho là Đại Ngộ Đại Triệt.

Ấy thế mà hạng Trưởng Lão không có mắt có khi còn dùng ấn vỏ dưa mà ấn chứng cho họ, một người mù cả đám mù, chẳng những vô ích mà còn có hại.

Thật đáng buồn khôn xiết!

 

365. LƯU CÔNG QUẢ THẬT LÀ BỒ TÁT

Lưu Công tên húy là Khoan, làm quan cai tri ở quận, kẻ nào có lỗi đều chỉ dùng roi bằng cỏ bồ mà đánh để tỏ rõ sự sỉ nhục.

Phu nhân muốn thử xem ông có tức giận hay không bèn sai thị tỳ cố ý dùng canh làm bẩn áo triều phục của ông, nhưng ông chỉ nói:

Canh có làm bỏng tay ngươi không?

Rốt cuộc chẳng hề giận dữ. Qua hai việc này thì biết ông quả thực là Bồ Tát, chẳng thể sánh kịp. Hơn nữa, những người trị dân ngày nay dùng hình phạt cực kỳ nghiêm khắc mà vẫn chẳng thể phá án được.

Dùng roi cỏ bồ mà dân tự cảm hóa, nếu chẳng phải là đại uy thần lực thì làm sao tới được mức đó?

Ngày nay đối với người dưới, hơi không vừa ý là dùng hình phạt.

Canh làm bẩn triều phục, lại thương xót mà chẳng quở trách nếu chẳng phải là Đại Từ Bi lực thì đâu được tới mức đó?

Sắp sửa vào triều đang lúc thúc bách mà vẫn ung dung thay áo, tâm chẳng lay động, nếu chẳng phải là đại Thiền Định lực thì làm sao tới được mức đó.

Trong nhà lửa mà có đủ thao lược như vậy, khí lượng như vậy hơn hẳn công phu ba mươi năm trên bồ đoàn của con nhà Xuất Gia.

Bọn ta xem đó lại có thể chẳng xấu hổ ư?

Lại có thể chẳng cố gắng ư?

 

366. TỤC NGUYÊN GIÁO LUẬN

Thuở quốc sơ, chỉ thời kỳ đầu Triều Minh, Hàn Lâm đãi chiếu Thẩm Sĩ Vinh Cư Sĩ làm sách Tục nguyên giáo luận, thiên Tường phẩm danh Nho Học Phật đã nêu đầy đủ các bậc Quân Tử thời Đường Tống như các ông Bạch Hương Sơn, Tô Nội Hàn cho đến Bùi Thừa Tướng, Dương Đại Niên v.v… Thiền học nông sâu, rất là tinh xác.

Ông nói:

Ngay đến các ông Bùi, Dương chẳng nói là không có ngộ nhập, như việc bảo dưỡng thụ trì thì chưa thể biết được.

Há có chuyện thân ở trong trường danh lợi, hơn nữa chẳng phải là quả vị Bồ Tát mà lại có thể không có Tế hoặc rót vào?

Những kẻ chơi rong nơi cửa pháp cố nhiên chẳng cần bàn. Chúng ta bản thân là con nhà Xuất Gia hãy thử tĩnh tâm mà suy nghĩ xem.

 

367. BA HIỀN NỮ

Phụ nữ trong đạo được khen là hiền, ta tận mắt trông thấy có ba người. Một người là ni Xuất Gia họ Nghiêm, thanh tu khổ hạnh, suốt đời chẳng lui tới nhà giầu sang.

Một người Tại Gia họ Triệu tự tay viết Kinh Hoa Nghiêm tám mươi mốt quyển. Một người Tại Gia họ Chu để khuyên chồng bỏ nghề đánh cá, đã nhảy xuống nước. Xét ra Tăng Ni thời Mạt Pháp phần nhiều giao du với thế gia vong tộc.

Khổ hạnh trọn đời, ai được như người họ Nghiêm kia?

Mộ hóa viết Kinh, có khi còn mù mờ về nhân quả.

Tự lực tự chép, ai được như người nữ họ Triệu?

Để cứu Chúng Sinh, chẳng tiếc thân mệnh, cuối cùng đã cảm hóa được chồng, ai được như người nữ họ Chu?

Ta bảo ba người phụ nữ đó là ba đấng trượng phu, là ba đấng đại trượng phu.

 

368. THÍ THỰC SƯ

Diệm khẩu thí thực được khởi giáo bởi Ngài A Nan, đại để thuộc Du Già Bộ. Du Già nhờ hai Tổ Kim Cương Trí và Quảng Đại Bất Không đời Đường mà rất hưng thịnh, có thể sai khiến được Quỷ Thần, dời non chuyển biển, lực uy thần bất khả tư nghi.

Sau khi truyền được mấy đời, không còn có ai kế thừa được nữa, chỉ còn lại một pháp thí thực mà thôi. Tay kết ấn, miệng Trì Chú, tâm làm phép quán, ba nghiệp tương ưng thì gọi là Du Già, việc đó chẳng phải là dễ dàng.

Nay ấn chú chưa tinh, huống hồ là quán lực. Thế thì chắc chắn là chẳng tương ưng. Chẳng tương ưng thì chẳng những chẳng thể lợi sinh mà ngược lại có khi còn hại đến bản thân mình.

Vừa qua trong núi có một vị Tăng người nước ngoài bệnh đã nặng lắm, đêm đó ở ngoài đang thí thực, vị Tăng đó bảo với người khám bệnh rằng:

Có quỷ lôi tôi cùng ra ăn, tôi từ chối chẳng đi.

Lát sau quỷ đó quay lại nói:

Pháp Sư chẳng thành tâm, bọn ta đành quay về không. Ắt có cách trả thù hắn. Thế rồi kéo tay tôi cùng đi.

Bọn chúng cầm câu liêm, thòng lọng nói:

Muốn kéo Pháp Sư này xuống đất. Tôi sợ quá, thất thanh kêu cứu, một lúc chúng mới giải tán. Mấy ngày sau, Tăng đó mất.

Đại để trước khi chưa chết, ông ta đã nhập bọn với quỷ rồi, hôm trước nếu ông ta chẳng sợ mà kêu lên thì Pháp Sư trên đài đã nguy rồi.

Không chỉ có thế mà thôi. Một Tăng chẳng thành tâm, đã bị quỷ khiêng tới giữa sông định dìm chết. Một Tăng quên khóa hòm quần áo, tâm cứ để vào chìa khóa, các quỷ thấy trên cơm thí thực đều là các tấm sắt, nên chẳng được ăn. Một Tăng phơi áo dạ chưa cất, gặp lúc Trời mưa, tâm nghĩ tới áo đó, các quỷ thấy trên cơm toàn là lông thú, nên chẳng được ăn.

Các Tăng đó đều bị hiển báo. Còn có một người vào âm phủ, thấy trong buồng tối có mấy trăm vị Tăng, cơ thể gày còm, nhan sắc tiều tụy, dáng chừng như lo buồn khổ sở chẳng thể chịu nổi. Hỏi ra mới biết đều là thí thực sư.

Thí thực chẳng phải là chuyện dễ! Đúng thay!

 

369. GIẢNG PHÁP SƯ

Có người bảo rằng:

Giảng Pháp Sư có công giáo hóa cho Chúng Sinh, không có trách nhiệm giao tiếp với Quỷ Thần, chắc hẳn ít lỗi chăng?

Đáp: Có khi còn có lỗi ghê gớm là đằng khác. Thí thực chỉ là một pháp mà thôi. Một Pháp còn dễ tinh thông. Kinh Luận rất nhiều, nhất nhất đều muốn tinh thông cả, đó là chuyện khó. Cho nên người xưa nghiệp có chuyên công, đó là như loại Cung Pháp Hoa, Thiện Hoa Nghiêm.

Nay thì không Kinh nào không thuyết, không luận nào không tuyên, những người đó có thật là hơn cả các bậc tiên triết không?

Thế mà có kẻ không biết kế thừa tự Thầy nào, chỉ tự mình ức đoán. Có kẻ thích đặt ra thuyết mới, rồi bàn sằng về các bậc tiên hiền. Có kẻ mới giải thích qua loa, hoàn toàn không phát huy gì cả, tất cả những kẻ đó đều không tránh khỏi lỗi lầm.

Giảng Pháp Sư đòi hỏi phải là người vốn đã nghiên cứu kỹ càng, học rộng biết nhiều một lòng một dạ làm cho đạo được sáng tỏ, chẳng mưu cầu lợi dưỡng cho bản thân mình thì ngõ hầu mới có công và không có tội.

Có người lại bảo rằng:

Trí giả Đại Sư nói rằng:

Vì lợi mà hoằng Kinh, cũng luôn luôn có danh là Bồ Tát, thế là sao?

Ôi. Đây là nói cho người thực hành tuy đã có đủ đức Đại Bi của Bồ Tát nhưng chưa đạt tới quả vị Bồ Tát, chứ chẳng phải là nói cho bọn tham lợi. Chẳng xét ý đó, thì hầu như là sai lầm.

 

370. MỘT LỠ TRĂM LỠ

Xưa nói rằng:

Đời này nếu chẳng tu, một lỡ là trăm lỡ.

Một mà tới trăm, sao lỡ nhiều tới mức đó?

Kinh nói:

Lìa ác đạo được thân người:

Khó.

Được thân người, gặp Phật Pháp:

Khó. Song gặp Pháp Môn Niệm Phật, tín thụ lại càng khó.

Như lời Kinh đã nói:

Con kiến từ thời Thất Phật tới nay chưa thoát được thân kiến, đâu biết ngày nào sẽ được thân người?

Hơn nữa ngày nào gặp Phật Pháp?

Hơn nữa, ngày nào gặp Pháp Môn Niệm Phật mà tín thụ?

Đâu phải chỉ trăm lỡ, mà đại để là ngàn lỡ vạn lỡ tới vô cùng.

Thương thay!

 

371. CẤM GIẾT MỔ

Người thế gian giết nhiều sinh mệnh để cung cấp việc ăn uống sớm tối, để chuẩn bị yến tiệc khao thưởng, để thờ phụng cúng tế và họ đều bảo đó là lẽ đương nhiên. Đã là đương nhiên thế thì sao hạn hán, lụt lội, quan lại cấm giết mổ.

Sau đó mới biết giết mổ là sai trái?

Tuy vậy, đang hạn mới mưa nhỏ, mưa lụt mới hơi tạnh là giò lợn, chân cừu đã treo cao ở chợ búa rồi.

Hơn nữa, phong tục ở Hàng Châu hễ cầu đảo Quán Âm Đại Sĩ, ắt thỉnh tới Chùa Hải Hội và toàn thành mổ giết, vậy thì thành ý ở đâu?

Thật rất đáng than trách. Nếu họ luôn luôn giới sát, nhà nhà trì trai, ắt có thể cảm triệu được thiên hòa, mưa nắng phải thời, lúa đồng được mùa, bốn biển thanh bình, phong tục tốt đẹp thời Cát Thiên, Vô Hoài chắc chắn sẽ tái hiện ở ngày nay.

Ngặt nỗi tập tục theo nhau chẳng thể cứu vãn được.

Buồn thay!

 

372. NUÔI CÁ, HẠC

Thế tục người nuôi cá vàng thì nuôi bằng bọ cơ hà, người nuôi hạc thì nuôi bằng cá con. Nuôi hạc thì một bữa phải đến hàng trăm. Nuôi cá vàng thì mỗi bữa ăn hàng ngàn. Gom ngày thành tháng, gom tháng thành năm, sát nghiệp thật vô biên.

Xét ra chăn tằm, chăn nuôi gia súc, đó là vì no ấm mà gây ra sát nghiệp ấy. Cá và hạc chỉ để nhìn ngắm nhất thời mà thôi.

Than ôi! Thế mà cũng chẳng thể chấm dứt được.

 

373. HÔM NAY MỚI NHÀN

Hàng Châu ta có người họ Lỗ, quên mất tên, vì ông ta mặt rỗ nên người ta gọi là Lỗ Rỗ.

Tới tuổi trung niên, ông bảo với các con rằng:

Việc dựng vợ gả chồng ta đã làm xong, các ngươi cũng đã có thể tự lập được rồi, ta sắp cầu nhàn.

Thế rồi sắm sửa quan quách, phàm kiệu đưa hồn, minh tinh, trống kèn âm nhạc tất cả đều chu biện đầy đủ, các con mặc áo sô chống gậy dẫn quan, bản thân ông ta ngồi kiệu khiêng theo sau, tới biệt thự ở Tây Hồ, đặt áo quan ở giữa sân rồi cho các con về.

Ông treo bảng ở cửa, đề là:

Hôm nay mới nhàn. Hỡi ôi. Kể ra cũng thật thông đạt đấy.

Xét ra kẻ tục sĩ sẵn có đủ gia duyên, bận rộn cũng là phải, thoát ly cảnh bận rộn mà nói:

Hôm nay mới nhàn. Người Xuất Gia vốn nhàn thế mà lại mệt thân khổ chí, chạy vạy vì danh lợi, suốt ngày tất tưởi mà chẳng biết nghỉ ngơi thế thì nên treo bảng đề là: Hôm nay mới bận. Cũng được đấy.

 

374. NHẬP THAI

Kinh nói rằng:

Nhập thai đều trước mười tháng, thế mà thế gian lại đồn rằng đều đến lúc sắp đẻ người kia chết thì sinh người này.

Có người cúng Tăng trong núi, bỗng nhìn thấy Tăng đó đi thẳng vào trong buồng, lát sau được báo là đã ngồi trên cỏ mà đẻ con, vội tới trong núi thăm dò thì Tăng đó đã nhập diệt rồi.

Không khớp với lời Kinh, thế là sao?

Đại để là vì nhập thai trước mười tháng đó là chuyện thường. Còn sắp đẻ mới nhập thai thì trong ngàn vạn trường hợp với chỉ có một hai. Người đời chỉ thấy một hai mà chẳng thấy ngàn vạn.

Song sớm nhập thai mà chẳng thấy hiện hình, thế là thế nào?

Có khi sắp đẻ nhập thì có thể hiện hình, nhập sớm thì chẳng thể hiện hình, Kinh Văn không nói rõ, ta chẳng dám giải thích sằng. Chuyện Chúng Sinh nhập thai chẳng thể nghĩ bàn, để đợi Bậc Thánh Nhân Thiên Nhãn quyết định.

 

375. HỘ PHÁP

Người ta biết việc ngoại hộ Phật Pháp được giao phó cho Vua quan, nhưng chưa biết Tăng là người phải làm công việc hộ trì đó. Không thể không cẩn thận.

Công việc Hộ Pháp có ba:

Một là hưng sùng phạm sái tôn tạo Chùa cảnh, hai là lưu thông đại giáo, ba là khích lệ Tăng Ni.

Hộ sái có nghĩa là phạm sái quả thực vốn là tài sản của Chùa, nếu bị cường hào xâm chiếm thì đoạt lại và khôi phục lại, đó là lý.

Nếu khảo cứu từ bản đồ sổ sách, có điều nghi ngờ chẳng rõ, lưu truyền lâu ngày, thay đổi lẫn lộn, dùng thế mà lấy, liệu có được không?

Hỉ xả thì gọi là đất tốt lành, sức chẳng địch nổi mà phải cho thì gọi là sáu oan nghiệp. Nếu Tăng chỉ khuyến hóa Đại Nhân có lực làm đại công chủ để khôi phục Chùa cảnh cũ, mà chẳng nghĩ Phật vốn coi Chúng Sinh Bình Đẳng như nhau, như La Hầu La gây tai ương cho dân để mà xây dựng Chùa cảnh thì dù có rộng hơn ngàn khoảnh, cao vượt chín tầng mây, dùng chiên đàn làm gỗ, dùng châu ngọc để trang hoàng thì Phật cũng buồn thương mà chẳng hoan hỉ. Thế là có tội không có công, không thể không thận trọng. Đó là một.

Hộ giáo có nghĩa là trước thuật của mình quả nhiên xa thì hợp với tâm Phật, gần thì nắm được tôn chỉ của Kinh, tán thán về truyền dương tôn chỉ đó, đó là lý.

Nếu lại giống như ngoại đạo bàn luận quanh co, chủ quan võ đoán, kiến giải thiên lệch, ca ngợi quá đáng, liệu có được không?

Nếu Tăng chỉ xin các bậc danh công viết lời tựa, đề Lời Bạt mà chẳng nghĩ đến chuyện làm cho hạng hậu học nghi ngờ, lầm lẫn. Thế là có tội không có công, không thể không thận trọng. Đó là hai.

Hộ Tăng có nghĩa là Tăng đó nếu quả thực là chân tham chân ngộ thì tôn lễ họ, nếu là người thực tâm thực hành, thao trì nghiêm túc chính xác thì tin cậy gần gũi họ. Đó là lý.

Nếu là thiền khách đầu óc rỗng tuếch, là hạng kém cỏi tầm thường mà cũng tôn kính tin cậy họ thì liệu có được hay không?

Nếu Tăng chỉ thân mật dựa dẫm các nhà quyền quý, hòng được họ che chở và được bông màn gấm vóc để bọc ung nhỏ, chỉ càng tăng thêm sự độc hại, thế thì có tội chứ không có công, không thể không thận trọng. Đó là ba.

Thế là Vua quan Hộ Pháp, còn Tăng thì hoại pháp.

Buồn thay!

 

376. NHÀ NHO BÀI XÍCH PHẬT GIÁO

Việc các Nhà Nho bài xích Phật Giáo có hiện tượng nhìn hình tích thì dường như giống nhau nhưng thực chất lại khác nhau, không thể nhất loạt coi như nhau.

Nho có ba loại:

Có Nho thành thực, có Nho thiên lệch cực đoan, có Nho siêu thoát. Loại Nhà Nho thành thực vốn không có ác tâm đối với Phật. Nhưng những điều mà họ học chủ yếu là cương thường luân lý, những điều mà ho coi là nhiệm vụ là cách vật, trí tri. Chính tâm, thành ý, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.

Đó là chính đạo của thế gian. Những điều Phật bàn về pháp xuất thế gian đương nhiên chẳng hợp với họ, chẳng hợp với nhau thì thế tất phải tranh, tranh thì có khi tới mức phỉ báng, họ như thế cũng không có gì là lạ cả.

Đó là loại như Y Xuyên, Hối Am. Loại Nhà Nho thiên lệch cực đoan là loại bản tính ngông nghênh kiêu ngạo, cố chấp những điều đã được học từ trước, huyênh hoang những luận điệu sai lầm, phỉ báng hết mức mà chẳng biết mình là sai, đó là những người mà Trương Vô Tận gọi là Nghe Phật tựa giặc thù, thấy Tăng như rắn rết.

Loại Nhà Nho siêu thoát là loại tri thức tinh thông và hiểu rõ đạo lý, chẳng những chẳng bài xích mà còn tin tưởng sâu sắc, chẳng những tin tưởng sâu sắc mà còn ra sức thực hành, đó gọi là chân nho.

Tuy vậy còn có loại chơi đùa nơi cửa pháp mà thực ra không quy kính, bề ngoài làm ra vẻ quy kính, nhưng trong mang lòng dạ khác, đó chẳng phải là chân Nho. Người có mắt hãy phân biệt cho rõ.

 

377. ÁO CHOÀNG CỦA CƯ SĨ

Đầu tròn áo vuông chỉ Tăng Ni thì biết tam y là Tăng phục. Đầu để tóc mà mặc áo Tăng thì chẳng đúng quy chế.

Người xưa bảo rằng:

Làm như vậy sẽ có tội và đã ghi lại thành lời giáo huấn. Người thế gian chẳng xét, Tăng cũng chẳng nói, thật đáng than thở.

Lúc ta còn ít tuổi nhìn thấy những người thụ giới Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di ở giới đàn Chiêu Khánh đều mặc Tam y, đại để là do quen thói đã lâu mà chẳng biết thế là sai. Đây không phải là lỗi của người Tại Gia, mà là do Tăng Xuất Gia chẳng bảo rõ cho họ và chỉ chiều theo nhân tính nên mới đến nỗi thế.

Cho nên ta phải nêu chuyện này ra.

 

378. TÚC MẠNG

Thế gian có người ngẫu nhiên mà biết túc mạng, đó chẳng phải là Túc Mạng Thông của người nhất định đã đắc đạo. Chuyện này đại để xưa nay đều có nhiều.

Tổng nhung Dương Quân kể với ta rằng:

Người anh đã quá cố của ông năm mới mười ba, mười bốn tuổi bỗng nhiên nói tiếng người Bắc rằng:

Hằng ngày chỉ nghe nói phương Nam đẹp, phương Nam đẹp.

Rồi xòe hai bàn tay ra nói:

Nay sinh ở chốn này thật là đẹp, thật là đẹp.

Hỏi thì đáp rằng:

Ta là Tăng ở Hồng Miếu tại chốn mỗ Sơn Đông. Lão Tổng nhung cho là yêu quái, định đập chết, nên chẳng dám nói nữa. Sang năm sau thì mất. Xưa Linh Thụ đời đời là Tăng chẳng mất Túc Mạng Thông. Vân Môn ba đời làm Vua, vì vậy chẳng biết túc mạng.

Lẽ nào Vân Môn lại không giỏi bằng người thời nay ư?

Cho nên nói rằng:

Ngẫu nhiên biết rõ, chẳng phải là thần thông. Nay những người làm Tăng niệm niệm ở trong thế pháp, nhập thai xuất thai làm sao còn có thể nhớ lại được việc trước. Những ai cầu sinh Tây Phương hãy tự mình khẩn trương lên.

 

379. LONG NHÃN

Tông Bá Lục Công thọ chín mươi bảy tuổi mà nghiện long nhãn. Thế là giá long nhãn ở một vùng rất đắt. Quê ta còn có một cụ ông, tuổi thọ còn hơn Tông Bá sáu tuổi mà lại nghiện lợn hấp. Hai cụ bà một cụ nghiện các thứ đồ uống làm bằng gạo, một cụ nghiện xuyên tiên, đều thọ trên chín mươi tuổi, người xung quanh lại bắt chước họ.

Còn một cụ sáng sớm phải uống một chén mật thang, nếu cụ đó thọ mãi thì đàn ông chắc chắn sẽ thiếu ăn.

Than ôi. Việc dưỡng sinh tuy bậc Quân Tử chẳng bỏ, nhưng sống chết có mệnh, lời dạy của Thánh Nhân đã rõ ràng.

Cho nên Khổng Tử chỉ đến tuổi xưa nay hiếm tức bảy mươi, há phải là vì Ngài không có vật gì để dưỡng sinh ư?

Nhan Uyên chết yểu từ tuổi ba mươi, chẳng lẽ lại không có được lẵng cơm để đến nỗi tổn thương tới sinh mệnh ư?

Hơn nữa, có các cụ già tám chín mươi thậm chí tới trăm tuổi vẫn gánh gồng buôn bán trên đường và đã từng ngay cháo não còn bị đứt bữa. Thế thì biết rằng Tông Bá nhờ tính đức mà được kéo dài tuổi thọ, chứ long nhãn có dự gì vào đó, huống nữa là thuốc trường sinh của Kim tiên thị chỉ nhà luyện đan.

 

380. THIÊU LUYỆN TỨC LUYỆN ĐAN

Có người hỏi:

Tính chất lừa bịp của việc thiêu luyện không ai không biết thế mà vẫn luôn luôn có người mắc lừa là vì sao?

Tiên thánh có nói rằng:

Người trí thì chẳng bị mê hoặc, những kẻ mắc lừa bọn đan khác, đó là vì trí tuệ chẳng đủ. Tuy vậy người thế gian chẳng đáng trách, Tăng Xuất Gia mà cũng có kẻ bị chúng mê hoặc, đó mới đáng trách.

Xét ra, người thế gian coi tiền tài là mệnh mà đan sa lại có thể biến hóa thành vàng ròng. Thế thì dẫu là Vua cũng bị mê hoặc bởi thuyết của bọn phương sĩ, cho nên nhà thế tục bị chúng mê hoặc cũng là lẽ đương nhiên.

Còn người Xuất Gia há chẳng nhớ lời Phật dạy ư?

Tám vạn bốn ngàn ánh quang minh trong tướng bạch hào, chỉ dùng một phần quang minh đó chu cấp cho đệ tử Mạt Pháp cũng vẫn chẳng thể hết, vậy thì cần gì phải thiêu luyện?

Tô Thành có một vị lão Tăng để xây dựng Phật điện, ngày ngày đều tụng bảy quyển Kinh Pháp Hoa, niệm Danh Hiệu Phật một vạn tiếng, cầu nguyện cho việc luyện đan chóng thành, nhiều lần bị lừa bịp mà vẫn chẳng chùn nhụt hối hận.

Ông ta nói:

Nếu chùn nhụt hối hận thì chân tiên chẳng thể thỉnh tới được. Chính vì vậy mà chí cũ chẳng sờn, thành tâm ban đầu càng kiên định, nhưng cuối cùng không việc gì thành công cả.

Xét ra, động cơ vì xây dựng Phật điện tuy thuộc hảo tâm, song điện này nếu không có một hai vạn lạng vàng thì chẳng thể làm nổi, hy vọng việc luyện đan thành công để cử sự thì cũng là sai.

Ôi. Giá như đem cái tâm cầu đan ra mà cầu đạo, dùng khoản chi phí để nuôi đan khách mà cung cấp cho các bậc Thiện Tri Thức trong thiên hạ, đem lòng tinh thành muốn đổi mới Phật điện phản chiếu vào Thiên chân Phật từ khoáng đại kiếp tới nay, đem sự siêng năng vất vả trong việc tụng niệm bảy quyển Phảp Hoa, muôn tiếng Phật Hiệu hồi hướng Tây Phương thì chẳng dựng một vì kèo mà việc xây dựng Phật sái Cõi Phật cũng đã xong rồi.

Vậy mà lại dụng tâm vào việc nhất định chẳng thể thành tựu được, hết lòng sùng kính đối với hạng người dứt khoát chẳng đáng tin cậy.

Tiếc thay!

 

381. THỆ NGUYỆN VĂN CỦA NAM NHẠC

Đại Tạng có Nam Nhạc Thiền Sư lập thệ nguyên văn, phần cuối nói rằng:

Nguyện được đan trước và đắc đạo sau, đại để là vì muốn lưu hình trụ thế, trường sinh bất tử và được thành quả ngay trong đời này, chẳng đợi đến kiếp khác.

Nam Nhạc là Bậc Thánh Hiền ứng hóa, nếu quả thực là tự miệng Ngài nói ra, thì ắt phải có duyên cớ, chẳng phải là điều mà người tầm thường nông nổi có thể lường được.

Nếu là do người đời sau thêm thắt vào thì chẳng đáng tin. Hạng hạ sĩ chỉ hạng thấp kém xem bài này có khi sẽ nảy ra dự kiến, thế là nguyện văn làm cho họ mắc sai lầm. Thần Loan đốt Tiên Kinh mà soạn Quán Kinh Nam Nhạc tu đan đạo để cầu Phật đạo, sao hai người lại chẳng hợp với nhau như vậy.

Nam Nhạc chỉ gián kia thêm một chữ Ác vào Khởi tín luận mà thành Cụ Túc nhất thiết thiện ác, đây ắt chẳng phải là ý của Nam Nhạc mà là do người sau bày đặt ra. Chữ Ác còn có thể thêm, kim văn văn thời nay làm sao có thể vội tin ngay được.

Đó cũng là loại Thiền môn khẩu quyết chăng?

 

382. THIÊN THAI TRUYỀN TÂM ẤN PHẬT

Đại Tạng còn có Trí Giả Đại Sư truyền Phật tâm ấn một quyển. Xét ra tâm ấn của Phật nếu bảo rằng do Thiên Thai truyền thụ thì được.

Nhưng nếu bảo chỉ có một mình Thiên Thai truyền thụ còn các Tổ Đạt Ma v.v… đều chẳng được dự vào đấy thì không được.

Bảo rằng sư tử bị hại, sự truyền thụ ấy bị chấm dứt và không có chuyện sáu đời truyền Y bát nữa thì không được.

Sắc thân của sư tử có thể hại được, nhưng đạo thì chẳng thể hại được. Việc Thuyết Pháp của sư tử đã xong, nhưng việc truyền pháp chưa xong, đều do người sau bày đặt ra để đề cao Thiên Thai, nhưng lại chẳng biết cách đề cao. Hơn nữa, người sau nói rằng Pháp Hoa là gốc rễ. Hoa Nghiêm là cành lá.

Thiên Thai có bao giờ nói câu này đâu?

Còn nói:

Tôn chỉ Tính cụ chỉ một nhà có, đó chẳng phải là thứ mà các nhà có thể sánh kịp.

Thuyết của một nhà sao cũng tỏ rõ với người ta là chẳng rộng?

Xét ra lý Tính cụ được thấy ở các Kinh, được các Tổ phát biểu không biết bao nhiêu lần, mà lại chỉ riêng một nhà độc chiếm, đó chẳng phải là điều mà Thiên Thai thích nghe. Thiên Thai là Bậc Thánh Sư, mong đạo mà chưa thấy.

Ngài tự xét mình nói:

Tự thiệt mình để làm lợi cho người, mới chỉ được lên Ngũ phẩm. Thế mà người sau đã ca ngợi đề cao Ngài quá mức, trái với bản tâm chẳng tự coi mình là Thánh của Thiên Thai.

Gộp với một việc trước mà xét, cho nên người xưa nói rằng: Cứ tin hết vào sách thì chẳng thà không có sách còn hơn.

 

383. THỦY LỤC NGHI VĂN

Thế gian đồn rằng Thủy lục nghi văn là do Lương Võ Đế khởi xướng. Xưa Bạch Khởi vì chôn sống một lần bốn mươi vạn người ở Trường Bình, tội ác cực lớn, lâu ngày bị chìm đắm trong Địa Ngục, không có cách nào mà ra được bèn báo mộng cho Lương Võ Đế.

Võ Đế cùng các Ngài Chí Công v.v… bàn cách cứu vớt hắn, biết Đại Tạng có Thủy Lục Nghi Văn, liền cầu xin thế là ánh quang minh tỏa sáng đầy nhà. Do đó mà cử hành, rồi truyền đến đời sau. Nhưng các Bộ Đại Tạng ngày nay đều không có bài văn đó.

Bản Chùa Kim Sơn cũng trước sau sai lầm lẫn lộn chẳng thấy đầu mối đầu cuối. Các Tăng cùng hành giả đương thời cũng lại tùy ý tạo tác, mỗi người mỗi khác. Tranh tượng vẽ ở nhà trên nhà dưới tại Nam Đô cũng tùy theo họa sư truyền lại, rồi được tuân theo coi là quy chế nhất định, thực chẳng đích đáng.

Còn người xây dựng Đạo Tràng thì quyên góp kinh phí, hàng tháng hàng năm mới có thể thành tựu được, rồi bày vẽ ra nghi văn rườm rà, để khiến gái trai già trẻ lũ lượt kéo tới, giống như đi xem cờ, xem hội xuân trong thế tục, chen vai thích cánh, nam nữ hỗn tạp, hàng ngày đông tới cả ngàn mà chẳng tránh khỏi mạo phạm tới Thánh Hiền, xung đột với Quỷ Thần, tổn thất thì nhiều mà tội lỗi lại nặng, chỉ có tai họa mà không có Công Đức, kết quả là phần nhiều Đạo Tràng công việc chẳng xong mà đã chuốc lấy ác báo rồi, thật rất đáng sợ.

Chỉ có nghi văn do Tứ Minh Chí Bàn Pháp Sư biên tập là cực kỳ tinh mật, cực kỳ giản dị, tinh mật mà chẳng tổn hại vì quá rườm rà, giản dị mà chẳng mắc bệnh vẫn còn sót lọt, bản đó chỉ còn ở Tứ Ninh, nơi khác đều chưa hề thấy. Ta đính chính bản này, khắc lại ván in để lưu hành rộng rãi.

Dẫu vậy, cũng chẳng thể cử hành mới một cách khinh dị, cử hành một cách thường xuyên khinh dị thì ắt tới mức thường xuyên, thường xuyên thì tự nhiên sẽ sinh ra khinh dị. Do đó mà ít thành kính, lắm tội lỗi. Thế thì cầu phúc mà lại chuốc họa. May mà hãy cùng nhau thận trọng trong việc này.

 

384. THẦY BẠN

Có vị Tăng ở đất Việt là Đinh Công trung niên Xuất Gia, mặc nạp y áo của người Xuất Gia rách đi khất thực, như mây trôi chim bay, hững hờ với danh lợi. Ông ta chỉ ra sức khổ học tham bốn câu thiên tình nhật xuất Trời hửng Mặt Trời mọc bỗng có tỉnh ngộ. Bấy giờ không có ai là bậc đại tri thức rèn rũa cho. Có ai ấn chứng cho thì trong lòng ông chẳng phục, hằm hằm bỏ đi.

Ông ta có lần bảo với ta rằng:

Tăng đời nay ai dám ấn chứng cho ta. Rồi dẫn Thích Ca Như Lai để làm ấn chứng. Do vậy mà mới được ít đã cho là đủ, nhận than là vàng, thậm chí sùng tín La Đạo, chủ thỉnh ngũ bộ Lục sách của La Đạo trước tác, thế là bị người đương thời chê trách. Giá như ông ta có được Thầy bạn chân chính giỏi giang thì ắt sẽ có thành tựu lớn.

Cho nên, biết công dụng của việc tìm Thầy hỏi bạn, đó là nhiệm vụ quan trọng của người học đạo. Thế mà lại có nhân mà không quả, đánh mất sơ tâm, thật đáng than tiếc.

 

385.TRÀO HẢI
(CHẦU NAM HẢI QUÁN ÂM)

Tăng tục dâng hương Nam Hải có khi có người chẳng đi theo đường chính Tứ Ninh mà đi theo con đường khác vượt qua biển cả và cửa Niết Tử theo một lộ trình hiểm nguy bất trắc, gió bão nổi lên, thuyền trìm, bị chết đuối tới hàng mấy chục, hàng trăm người.

Than ôi. Chẳng ngại xa xôi hàng mấy trăm dặm, hàng mấy ngàn dặm, thành kính mà đi tham yết lễ bái, há chẳng phải là hảo tâm, há chẳng phải là thiện sự, vậy mà đến nỗi mất mạng.

Thế thì chưa hẳn họ lúc lâm chung đã chính niệm, thì thế nào?

Xét ra Kinh nói rằng:

Bồ Tát không cõi nào không hiện thân. Như vậy thì chẳng cần lặn lội đường xá xa xôi tới phương khác. Còn Đại Từ Đại Bi đó chính là đức tính khiến Bồ Tát trở thành Bồ Tát.

Hễ có thể giữ được tâm từ bi của Bồ Tát, học được hạnh bi của Bồ Tát thì chẳng ra khỏi cửa, ra khỏi sàn mà giờ nào cũng luôn luôn triền cận núi Phổ Đà, chẳng diện kiến kim dung của Bồ Tát mà khắc nào cũng đích thân được thờ phụng Quán Tự Tại.

Lại còn có người lao vào sóng to, gọi đó là xả thân, những mong được Bồ Tát tiếp dẫn, tới lúc chết họ ắt nổi giận oán thán, thế thì lại thành đọa lạc, há chẳng buồn ư.

Chẳng phải chỉ thế mà thôi, trên tuyệt đỉnh của núi Thái Sơn cũng có vách xả thân. Bậc Hiền Nhân đời sau đã xây tường ngăn lại, trên đề hai chữ to căng ngu thương sót kẻ ngu si, đó cũng là vô lượng âm đức.

 

386. MIỆT THỊ TÂY PHƯƠNG

Cư Sĩ họ Bão hàng ngày đều tụng Pháp Hoa, Lăng Nghiêm lâu ngày tri giải thông lợi, bèn làm Tây Phương luận giải đáp những câu hỏi của khách, tổng cộng gồm ba thiên. Thiên đầu tiên còn bàn chính luận nhưng dần dần đã nói thêm là Tây Phương chẳng đáng Vãng Sanh.

Hai thiên sau thì ra sức chê trách những người nguyện sinh Tây Phương là sai trái. Có người khuyên ta phản bác, ta nhớ lời Không Cốc Thiền Sư bảo rằng lời của kẻ sai lầm ví như lời ca tiếng hát của tiều phu, mục đồng, chẳng cần tranh luận với họ.

Nay những lời bàn của Bão đều viện dẫn chính lý của Thiền Môn, dễ dàng thâm nhập vào người ta, vì thế sẽ làm cho Chúng Sinh nghi ngờ ngộ nhận, chùn nhạt chí nguyện Vãng Sanh, tác hại không nhỏ, bởi vậy ta chẳng thể cứ im lặng mãi.

Thiên đầu trên của ông chia Tây Phương ra làm ba bậc. Bậc một là Tây Phương của các Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thụ sinh sống.

Bậc hai là Tây Phương của các bậc tri thức như Viễn Công, Vĩnh Minh v.v…, các Bậc Hiền Nhân như Tô Tử Chiêm, Dương Thái Công v.v… sinh sống. Bậc ba là Tây Phương của các hạng tầm thường, ác nhân, Súc Sinh sinh sống.

Thuyết của ông ta tựa như có lý, nhưng Cửu Phẩm Vãng Sanh, Kinh đã có minh văn, rõ ràng như Mặt Trời Mặt Trăng ở giữa Trời, cần gì phải đợi ngươi phân biệt thành ba bậc?

Một Vua sáng lập ra chế độ, muôn nước kính cẩn tôn sùng, kẻ thất phu ở nơi núi non quê mùa đặt ra điều mục qui ước khác, liệu có được không?

Đó là điều sai lầm thứ nhất của ông ta. Phật nói rõ chín phẩm là vì Tây Phương vốn không có hai cõi, nhưng người thì căn cơ khác nhau, cho nên những kẻ Vãng Sanh tự chia thành chín phẩm. Cứ theo thuyết thì Tây Phương vốn có ba hạng nước để đối đãi với ba hạng người. Như vậy thì chẳng hợp với Kinh. Đó là sai lầm thứ hai của ông ta.

Ông ta còn nói:

Các bậc tri thức các Bậc Hiền Nhân như Vĩnh Minh, Viễn Công Vãng Sanh, thực ra chẳng phải là tự lợi, mà thuần là lợi tha. Xét ra cầu sinh ở nước đó chính là để được thân cận Như Lai, mong cầu sẽ được ích lợi hơn.

Từ các Đại Bồ Tát tạm gác lại không bàn, còn như các Bậc Hiền Nhân như Tô Tử Chiêm, Dương Thứ Công há phải là điều đã hết Bồ Tát địa, chỉ Vãng Sanh Cực Lạc để độ sinh, chẳng còn tự lợi nữa?

Hành nguyện phẩm tụng rằng:

Đích thân thấy Như Lai Vô Lượng Quang

Hiện tiền thụ ký Bồ Đề cho tôi

Cầu thụ ký chẳng phải là thụ ký thì là gì?

Đó là sai lầm thứ ba của ông ta.

Ông ta còn nói:

Thánh phàm đồng thể, nhưng vì mê ngộ khác nhau nên tạm thời phân ra làm kẻ hơn người kém. Phản chiếu hồi quang, trở bàn tay mà Bậc Thánh kẻ phàm khác nhau rất xa?

Đã là phản chiếu, cớ sao lại khác nhau rất xa?

Ông ta còn nói

Liệu có đồng thể được không?

Tự mình nói ra mà lại mâu thuẫn lẫn nhau. Đó là sai lầm thứ tư của ông ta.

Ông còn nói:

Chớ chấp ngã tướng muốn sinh ở cõi đó.

Còn Phật lại đinh ninh khuyên nhủ, khuyên Chúng Sinh Phát Tâm cầu sinh ở cõi đó, thế ra Phật dạy người ta chấp ngã tướng ư?

Đó là sai lầm thứ năm của ông ta. Đến các thiên thứ hai, thứ ba thì lại càng ra sức phỉ báng, sai lầm lại càng quá quắt.

Ông ta nói:

Nay người chủ pháp chỉ coi Tịnh Độ là Phật Sự, chỉ cho sự đó là chân thực thế thì Tịnh Độ là giả ư?

Phật Thuyết Tịnh Độ đó là nói dối ư?

Chẳng tin kim sắc Thế Giới, điều này đã bị Lăng Nghiêm quở trách. Bão ngày ngày tụng Lăng Nghiêm mà lại nảy ra đoạn kiến này. Đó là sai lầm thứ sáu của ông ta.

Ông ta còn nói:

Nhất tâm bất loạn chẳng phải là chấp trì Danh Hiệu, niệm niệm chuyên chú. Nếu nói chấp trì thì có chỗ giống như mây giăng.

Tôi đã đích thân nhìn thấy mấy người ngày đêm Niệm Phật, lại được mấy vị Thiện Tri Thức già ấn chứng rồi, thế mà sau đều sa vào lưới ma, chẳng thể nào cứu vớt được.

Xét ra chấp trì Danh Hiệu, đó là Phật Thuyết, thế ra Phật làm cho mấy người đó lầm lỡ sa vào lưới ma ư?

Hiện thấy những người chẳng Niệm Phật chỉ Tham Thiền mà cũng có kẻ bị ma ám, thế thì vì sao?

Kinh nói rằng người Niệm Phật cầu Vãng Sanh sẽ được bất thoái chuyển, ắt được gia nhập dòng Thánh. Phật hứa cho nhập Thánh lưu, mà Bão lại cho là phải là sa vào lưới ma. Đó là sai lầm thứ bảy của ông ta.

Ông ta còn nói:

Cái gọi là Nhất tâm, đó chính là cái tâm vốn có sẵn của người đó, vốn tự linh diệu, vốn tự đầy đủ, ngoài Tâm này ra không còn có pháp nào khác.

Xét ra Kinh Văn đã nói rõ ràng rằng:

Chấp trì Danh Hiệu, nhất tâm bất loạn, làm sao lại có thể bỏ bốn chữ thượng văn đi mà thuyết về nhất tâm?

Nếu không có Kinh Văn, mở miệng bàn suông thì thuyết giải như vậy về tâm, cũng không có gì là không được?

Nhưng đây là lời chân thực. Thế thì chẳng lẽ Phật nói sai. Bão phải cải chính lại ư.

Hơn nữa câu Nhất tâm xưng danh Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ giải thích như thế nào?

Đó là sai lầm thứ tám của Bão.

Ông ta còn nói:

Cứ theo pháp này mà tu thì ắt sẽ nhập tà đạo.

Trước nói:

Sa vào lưới ma.

Nay nói:

Sẽ nhập tà đạo, Niệm Phật có tác hại như vậy ư?

Thế sao Phật chẳng cấm người ta Niệm Phật để phải đợi Bão cấm đoán ư?

Đó là sai lầm thứ chín của Bão.

Ông ta còn nói:

Người thời thượng cổ trước hết khuyên người ta cố được cái gốc, sau mới khuyên Vãng Sanh.

Xét ra:

Niệm Phật Vãng Sanh vốn là chuyện học thấp, xét về lý liệu có thông không?

Lẽ nào lại có chuyện trước đỗ trạng nguyên, làm tới Tể Tướng rồi sau mới tập đọc lục Kinh Luận Ngữ Mạnh Tử, học làm văn bái khoa cử ư?

Đó là sai lầm thứ mười của Bão.

Ông ta còn nói:

Nếu Phật Pháp chỉ có thế thì chỉ cần một quyển Kinh Di Đà là đã đủ rồi.

Chỉ dựa vào Kinh này thì ai chẳng có thể làm Thầy của Người của Trời chỉ Đức Phật, ai chẳng có thể xưng là Thiện Tri Thức?

Xét ra các Kinh Đại Thừa như Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Hoa Nghiêm, Bát Nhã v.v… không ngày nào không tụng, không ngày nào không giảng, có ai chấp riêng một Kinh Di Đà mà bỏ hết các Kinh đâu?

Tuy luận thuyết lệch lạc như vậy?

Tuy vậy chỉ sợ chẳng hề thực sự chuyên dựa vào một Kinh mà thôi.

Chuyên dựa vào một Kinh, đắc Niệm Phật Tam Muội, xưng là Thiện Tri Thức cũng có gì mà phải hổ thẹn đâu?

Đó là sai lầm thứ mười một của Bão.

Bão còn nói:

Cõi Phật vô tận, nếu chỉ dạy người ta cầu sinh một cõi, các Cõi Phật khác há chảng lạnh lẽo vắng vẻ ư?

Biết đâu rằng:

Hết thảy Chúng Sinh nhiều như vi trần đều sinh ở một cõi, cũng chẳng thấy tăng thêm. Hết thảy Chúng Sinh nhiều như vi trần không một ai sinh ở cõi đó, cũng chẳng giảm bớt, làm gì cho chuyện lạnh lẽo hay ấm cúng, làm gì có chuyện vắng vẻ hay náo nhiệt mà lại xảy ra kiến giải con nít, luận thuyết lệch lạc như vậy. Đó là sai lầm thứ mười hai.

Ngàn Kinh Vạn Luận tán thán Tây Phương, ngàn Thánh vạn Hiền cầu sinh ở nước đó, chỉ riêng một mình Bão ra sức phỉ báng, sao mà lại chẳng sợ khẩu nghiệp như thế?

Cư Sĩ Bão lúc đầu tín tâm thành kính, ta rất quý ông, nay như vậy, ta rất lo cho ông.

 

387. TỤNG CỔ, NIÊM CỔ 1

Có người hỏi:

Người xưa đều có tụng cổ, niêm cổ, sao riêng một mình Ngài lại không?

Đáp: Không dám. Người xưa sau khi Đại Triệt Đại Ngộ mới nhả ra nửa bài kệ, phát biểu một đôi lời, đều từ trong tâm địa chân thực Đại quang minh tạng tự nhiên tuôn ra, chẳng cần tư duy, chẳng cần tạo tác, người thời nay có thể như vậy không.

Tôn túc thời quốc sơ chỉ đầu đời Minh nói rằng:

Công ẩn có hai hạng. Một hạng là loại như cẩu tử Phật tính, Phật tính của chó con, vạn pháp qui nhất. Còn có một hạng cuối cùng cực kỳ lẫn lộn, gọi là loại một vồ sau gáy, cực kỳ khó thấu.

Ngay hạng đầu cẩu tử vạn pháp ta còn chưa thể hiểu thấu không còn nghi ngờ, huống chi là hạng cuối. Cho nên ta chẳng dám căn cứ vào ý kiến chủ quan mà niệm, tụng sằng.

 

388. TỤNG CỔ, NIÊM CỔ 2

Có người nói rằng:

Có lẽ Ngài khiêm tốn chăng?

Vì có khả năng đó mà lại tỏ ra là chẳng có khả năng?

Đáp: Chẳng phải là khiêm tốn đâu.

Kinh Lăng Già đã chỉ rõ hai loại thông. Thông về Tông và thông về Thuyết, tức giáo.

Mà Giáo thì nhiều hiển nghĩa, còn Tông thì nhiều mật nghĩa.

Cho nên, lại nói rằng:

Lời vô nghĩa vị. Ta đối với những điều thâm diệu của giáo vẫn còn chưa thể thông hiểu hết, huống chi là những lời trong Tông Môn, tuy nói là lời vô nghĩa vị, song vẫn còn ít phần đạo nghĩa có thể nghĩ bàn, có loại tuyệt nhiên không có đạo nghĩa nào giống hệt như chùy sắt không lỗ chẳng thể khoan thọc vào đâu.

Có loại giống như thái hư không không thể nắm bắt, có loại tựa như chông sắt chẳng thể gặm nhá, có loại như đống lửa to chẳng thể tới gần, có loại tựa như Mặt Trời chói chang chẳng thể để mắt, có loại tựa như tỳ sương, lông chấm chẳng thể dính môi, vậy thì làm sao có thể bàn sằng nêu qua một vài điều của người xưa được?

Thế Tôn niêm hoa, Ca Diếp mỉm cười rạng rỡ, ta nay đã có thể hiểu ngầm tâm Phật như Ca Diếp chưa?

Khách Tụng Kinh Kim cương, Lục Tổ liền lập tức khế ngộ ta nay đã có thể hiểu ngay Kinh sâu như Lục Tổ chưa?

Lâm Tế thấy Đại Ngu, liền nói Hoàng Bá Phật Pháp không nhiều con, ý nói không ai được như Đại Ngu, ta nay đã có thể thực sự được coi là không nhiều con chưa?

Triệu Châu tám mươi còn hành cước và nói:

Chỉ vì trong tâm chưa được yên, ta nay đã có thể trong tâm yên tĩnh chưa?

Hương Nham gõ trúc thành tiếng mà nói:

Đánh một cái quên điều đã biết, ta nay đã có thể thật sự tới được địa vị chẳng nghi chưa?

Cao Phong bị Tuyết Nham hỏi về chủ nhân đang ngủ say không mộng mị, chẳng trả lời được.

Ta nay đã trả lời được câu hỏi đó chưa?

Hơn nữa ba năm mà Đại Ngộ ở chỗ gối rơi xuống đất, ta nay có sự Đại Ngộ này chưa?

Những loại như vậy chẳng thể kể xiết, nếu có một điều chưa hiểu rõ thì các điều khác đều chưa hẳn đã hiểu rõ. Đó là như Đâu Suất Duyệt Công bảo Trương Vố Tận vậy.

Chẳng những người xưa, mà ngay trước tác của người nay, ta cũng chẳng dám bình luận đúng sai một cách khinh suất và chê bai bài bác một cách bừa bãi.

Vì sao vậy?

Vì con người ta có ngồi trên nhà mới có thể phân biệt rõ người dưới nhà thẳng hay còng. Hơn nữa còn vì ta chưa từng được liệt vào loại Thánh Hiền.

Than ôi. Đáp sai một chuyển ngữ, trăm kiếp bị đọa làm thân cáo rừng, cười lời giải đáp của người sáng mắt chỉ người sáng suốt, hiểu biết bị ỉa ngược ba mươi năm.

Vết xe đổ còn rành rành, há có thể không thận trọng mà được ư?

 

389. TIẾP TỤC ĐƯA TRƯỚC TÁC CỦA CÁC  BẬC HIỀN NHÂN VÀO ĐẠI TẠNG

Xưa nay việc đưa các trước tác ở phương này đều phải theo thể thức sẵn có của việc đưa Kinh Luận nhập tạng:

Đó là một số Phạm Tăng, một số Hán Tăng, một số Tể Quan, Đại Thần hàng Tể Tướng thông hiểu Phật Pháp họp lại và cùng bàn định. Có loại đáng nhập mà chưa nhập, như Ngữ Lục của Thiên Mục Cao Phong Thiền Sư thời Nguyên và Ngữ Lục của Kỳ Sở Thạch thiền sư thời Quốc Sơ, đây đều là châu báu bị bỏ sót của kho báu.

Năm gần đây lại nhập thêm hơn bốn mươi hòm nhưng Ngữ Lục của hai Ngài này vẫn bị bỏ sót. Có loại chẳng cần nhập mà lại nhập, vì loại này chỉ do một vài vị Tăng đương thời cùng với một hai người hiển quí trong triều tự định đoạt một cách cẩu thả, còn các bậc cao minh có khi cũng chẳng dự vào việc đó.

Than ôi! Thiên Thai sư có biết bao nhiêu là trước thuật.

Nhưng tới một trăm năm sau mới được nhập tạng, há cũng là do nhân duyên thời tiết sui khiến nên thế chăng?

Sau này nếu còn có trước thuật nhập tạng nữa thì Ngữ Lục của hai Ngài trên sẽ phải là cấp thiết nhất trong số đó. Vậy nên phải đặc biệt nói rõ chuyện này.

 

390. NAM NHẠC, THIÊN THAI TỰ NÓI VỀ MÌNH

Nam Nhạc, Thiên Thai hai Tổ đều nói:

Ta vì lãnh chúng, nên phải chịu thiệt về mình, để lợi cho người. Một vị thì chỉ chứng vòng sắt. Một vị thì chỉ lên ngũ phẩm.

Đó là lời lẽ quyền nghi chăng?

Hay là lời thành thực chăng?

Tôi cho rằng Quyền hay Thực đó chẳng phải là điều mà hạng hậu học có thể phỏng đoán được. Nhưng người thời nay tạm thời chớ hỏi về Quyền, hay cứ coi là Thực mà bàn.

Thánh sư còn phải như thế, huống hồ là hạng phàm phu?

Thế thì sẽ càng thêm tinh tiến hơn?

Chẳng những hai Sư là thế, mà đó là cách tự xử của người xưa.

Có người nói rằng:

Tôi xa lìa Thầy sớm quá, chưa thể học hết điều hay của thầy.

Có người nói:

Tôi sớm trụ viện, chưa được tới mức này. Họ thận trọng đại loại như vậy.

Huống hồ địa vị của Thiên Thai Đại Sư theo sự tự sắp xếp của Ngài vẫn còn chưa tới tín vị, người thời nay dẫu nói là Đại Ngộ, nhưng hỏi họ đã tới địa vị nào, nếu quả thực họ đã nhập trụ vị, thế thì liệu họ đã có thể Bát Tướng Thành Đạo ngay hay chưa?

Chả lẽ họ có thể tự mình chuốc lấy tội lớn nói láo là đã chứng Thánh ư?

Khổng Tử nói rằng:

Ta chẳng phải vừa sinh ra đã biết rồi.

Còn nói:

Nếu Thánh và Nhân thì ta đâu dám.

Còn nói:

Ta có biết ư?

Không biết. Đây tức là ý của hai Ngài, Nam Nhạc, Thiên Thai.

Bọn ngông nghênh kia chiếm ngôi vị của người Thầy ở trên cao, huênh hoang khoác lác mà chẳng biết thẹn định vượt lên hai Ngài đó ư?

Thật đáng sợ vậy.

 

391. ĐẠO CHÊ THÍCH 1
(ĐẠO GIÁO CHÊ PHẬT GIÁO)

Có Đạo Sĩ bảo ta rằng:

Chúng tôi đội mũ cài trâm, các ông gọt tóc.

Xét ra người gọt tóc lẽ ra nên lìa hẳn thế tục, thế mà tại sao nối gót nhau trên đường dài để tiến hành rộng rãi việc mộ hóa?

Ít gặp các Đạo Sĩ mà chỉ thường gặp Tăng Ni, có kẻ tay cầm duyên bạ, sổ ghi Công Đức, trông như tượng phán quan trước Thần Thổ Địa.

Có kẻ gõ mõ bắt nhịp cất cao giọng đồng thanh ca xướng mà giảng giải về nhân duyên như Thầy mù. Có kẻ khiêng tượng Bồ Tát, tượng thần mà nổi trống tấu nhạc ầm ĩ, ca ngợi khuyên khích thí xả như người hát xẩm. Có kẻ cầm nửa mảnh nạo bạt bằng đồng, rồi lấy đũa gõ như trò chơi của trẻ con.

Có kẻ kéo lê xích sắt nặng hàng mấy chục, hàng trăm cân giống như tội nhân. Có kẻ nhấc đá tự đánh vào bản thân mình, như người nuốt hận kêu oan. Có kẻ quần áo chỉnh tề cầm hương, lễ bái suốt dọc đường đi đến từng nhà giống như bọn lý dịch đi khám sổ sách từng nhà.

Pháp Môn thanh tu có thể cũng có vết xấu chăng?

Ta chẳng biết trả lời thế nào, bèn chậm rãi nói:

Việc mộ hóa cũng chẳng như nhau. Có loại phi lý, có loại hợp lý, có loại chính nhân chính quả, có loại nhân dối quả lừa, chưa thể nhất loạt chỉ trích châm biếm được. Chỉ có hạng chẳng chăm lo tu hành mà lại chỉ cầu lợi dưỡng mới đáng giận mà thôi. Bèn ghi lại chuyện này, những mong sẽ cùng nhau cùng lấy đó làm răn.

 

392. ĐẠO CHÊ THÍCH 2

Đạo Sĩ lại nói:

Các cung quán đạo viện cùng các miếu thần đều là chỗ ở của chúng tôi, cớ sao Tăng Chúng nhiều người lại ở trong đó. Ít thấy tín đồ Đạo Giáo ở trong Chùa Phật.

Xét ra, người Quy Y Phật phải ở trong Chùa, người Quy Y Đạo Giáo mới ở cung quán Viện Miếu, nay Tăng ở đó để Quy Y Tam thanh Chư Thiên Tôn chư chân chư thần ư?

Hay là muốn chiếm đoạt sản nghiệp của chúng tôi chăng?

Lời ông có lý, ta không biết trả lời thế nào, bèn từ từ nói:

Các Chùa Thao Quang, Cổ Linh Ẩn, sao tín đồ Đạo Giáo lại ở đó?

Đáp: Đó là các vị Tại Gia tu tập toàn chân mới ở đó, còn các Đạo Sĩ đội mũ cài trâm thì chẳng dự vào đó. Hơn nữa có một vị Tăng đã thế độ chủ trương việc đó. Lời ông nói có lý, ta lại không trả lời được.

Ôi. Những người làm Tăng ngày nay hoặc nương náu ở Tùng Lâm, hoặc ở sâu trong A Lan Nhã, hoặc lấy hang động làm phòng, hoặc dựng lều tranh ở dưới cây, chỗ nào chả được thế mà lại cứ bám vào bọn Đạo Sĩ để làm chủ nhân đình?

 

393. LỢI ÍCH CỦA VIỆC XUẤT GIA

Cổ Đức nói rằng:

Con giỏi nhất, Xuất Gia tốt.

Tục ngữ thường có câu:

Một người Xuất Gia, chín họ sinh Cõi Trời đây là những lời ca ngợi việc Xuất Gia nhưng chưa nói rõ Xuất Gia vì sao được lợi ích.

Phải chăng chẳng cày chẳng dệt mà tự nhiên có cơm ăn, áo mặc, đó là lợi ích?

Phải chăng chẳng tậu nhà, chẳng thuê phòng mà tự nhiên có chỗ an cư, đó là lợi ích?

Phải chăng Vua quan Hộ Pháp, tín thí cung kính, trên chẳng phải phục dịch quan, dưới chẳng bị dân quấy nhiễu và tự nhiên được thanh nhàn sung sướng, đó là lợi ích?

Xưa có bài kệ nói rằng:

Thí chủ một hạt gạo

To tựa núi Tu Di

Nếu vẫn chẳng hiểu đạo

Làm trâu ngựa mà trả.

Còn nói:

Ngày khác, cụ Diêm Vương sẽ tính tiền cơm với ngươi, xem ngươi đối phó ra sao?

Thế thì việc Xuất Gia lại ngầm chứa đựng tai họa lớn, còn nói gì đến lợi ích nữa. Cái gọi là lợi ích của việc Xuất Gia, đó là vì Xuất Gia phá trừ được phiền não, đoạn diệt được vô minh, chứng được vô sinh nhẫn, thoát khỏi nỗi khổ sinh tử. Đó là điều tốt nhất ờ Cõi Trời và Cha Mẹ tông tộc đều được nhờ ơn.

Chẳng thế thì giầu có tới mức chất đống ngàn rương, sang tới mức làm Thầy của bảy Vua, nào có lợi ích gì đâu. Ta thật rất lo rất sợ nên đều đem mách bảo với những ai đồng nghiệp.

 

394. HỨA NGUYỆN CỦA THẾ TỤC

Người thế gian cầu tự, cầu kéo dài thọ mệnh, cầu cho qua khỏi bệnh tật, cầu trừ tai giải ách, cầu để được công danh, cầu cho nhà cửa bình an, cầu để được thêm của cải, các việc như vậy tốt nhất chẳng thể khấn khứa hứa nguyện rằng sẽ giết thịt súc vật để lễ tạ. Đó gọi là ác nguyện, chỉ có nghiệp chứ không có công, dẫu có được toại tâm tốt đẹp nhất thời, sau này sẽ phải chịu khổ báo.

Cho đến hứa cúng áo bào, cúng phướn, hứa xây điện đường, hứa cúng đồ thời tuy chẳng giống như lễ mặn nói trên, song tâm Đại Bi Bình Đẳng mới gọi là Phật, chính trực chẳng thiên lệch mới gọi là Phật, lẽ nào lại có chuyên vì hối lộ mà giáng phúc?

Dẫu có được toại tâm, cũng là do số mệnh của người đó tự xui nên, chẳng phải là nhờ lực hứa nguyện. Theo lý mà bàn, chỉ tại làm nhiều việc thiện mà thôi.

Trung với Vua, hiếu với Cha Mẹ, thương người nghèo, yêu người già, cứu tai thương khổ, giới sát phóng sinh, đủ mọi ân đức, đủ mọi phương tiện, tùy theo năng lực đều ra sức thực hành, công làm điều thiện lẽ tất nhiên sẽ được cảm ứng bằng những điều tốt lành.

Nếu chẳng toại tâm thì nên quy cho mệnh Trời, phó cho túc duyên, chẳng oán chẳng trách, càng làm điều thiện mà không chùn hối.

 

395. ĐẠI HIẾU XUẤT THẾ GIAN

Đạo hiếu của thế gian có ba, đạo hiếu xuất thế gian có một.

Đạo hiếu của thế gian gồm:

Một là hầu hạ khiến Cha Mẹ vui lòng và dùng miếng ngọt bùi để phụng dưỡng. Hai là đỗ đạt làm quan và có tước lộc để làm vẻ vang cho Cha Mẹ. Ba là tu đức rèn hạnh mà thành Thánh thành Hiền để Cha Mẹ được hiển vinh. Ba điều bày là cái mà thế gian gọi là Hiếu.

Đạo hiếu xuất thế gian là khuyên Cha Mẹ trai giới phụng đạo, nhất tâm Niệm Phật, cầu nguyện Vãng Sanh, vĩnh biệt Tử sinh, trường từ Lục Đạo, đầu thai Liên đài, thân cận Di Đà, đắc bất thoái chuyển. Con cái đều đáp công ơn Cha Mẹ, đó là cách đền đáp to lớn.

Xưa ta lúc mới nhập đạo thì Cha Mẹ đã mất, ta có làm bài tự thương bất hiếu văn để giãi tỏ nỗi buồn thương ân hận. Nay nhìn thấy trong hai chúng Tại Gia và Xuất Gia có người được mừng về Cha Mẹ song toàn, thế là ta lại càng thêm xót xa và lệ chảy đầm đìa. Vậy nên cúi đầu rập đầu mà khuyên mọi người.

 

396. KINH PHỤ MẪU ÂN TRỌNG NGỤY TẠO

Có hai Kinh ngụy đề là Phụ Mẫu ân trọng Kinh, trong đó không hoàn toàn giống nhau, nhưng đều giả danh các vị dịch sư thời xưa. Hai người bạn ta mỗi người khắc ván in một Kinh. Hai bạn đó đều là các Bậc Hiền sĩ Trung Hiếu thuần chính, thấy các sách nay khuyên hiếu mà chẳng xét đến tính chất ngụy tạo của chúng.

Có người nói:

Chỉ lấy nội dung đủ để khuyên hiếu của các sách đó mà thôi, dường như chẳng cần phân biệt chúng là thật hay giả.

Ta nói:

Ông chỉ biết một cái lợi mà chẳng biết đến cái hại. Một cái lợi thì đúng như ông nói, khuyên người ta thực hành Hiếu Đạo, há chẳng phải là việc tốt sao?

Cho nên nói là một điều lợi.

Còn hai cái hại là những gì?

Một là những người vốn chẳng tin Phật thấy các sách đó thì càng thêm phỉ báng:

Lời Phật thô kệch quê mùa như vậy, đã biết các Kinh khác thế nào?

Rồi coi chúng ngang với các Pháp Bảo vô thượng rất sâu trong Đại Tạng. Làm cho tội lỗi của họ càng nặng. Đó là một cái hại. Hai là người vốn tin Phật chỉ có tín tâm, chưa từng đọc rộng nội điển, thấy những lời lẽ thô kệch quê mùa đó, cũng lại sinh ra nghi ngờ, vì vậy mà cho rằng những kẻ báng Phật chưa hẳn là sai trái, do đó đã khuấy động hoặc chướng đối với họ. Đó là hai.

Thế là hại nhiều mà lợi ít. Huống hồ khuyên hiếu tự có Đại phương tiện báo ân Kinh cùng Vu Lan Kinh, biết bao nhiêu thứ thật sự do Phật Thuyết lưu thông ở thế gian, cần gì phải dùng thứ ngụy tạo đó.

 

397. TU HÀNH CHẲNG TẠI XUẤT GIA

Xưa lúc tôi đang định Xuất Gia thì có Đạo Sĩ bảo tôi rằng:

Chẳng cần Xuất Gia, chỉ cốt tìm được Thầy tốt mà thôi. Bấy giờ tâm Xuất Gia của tôi đang nôn nóng, nên đã gác lời ông ta lại chẳng bàn. Sau khi Xuất Gia nghĩ rằng nghiệp của người đó là kéo dài tuổi thọ, tu dưỡng sắc thân, được truyền mà lưu hình lâu dài thế là đã đủ rồi.

Người làm Tăng muốn phá hoặc chứng trí, trên cầu Phật Quả, dưới hóa Chúng Sinh thì Cổ Đức đều bỏ nhà lìa tục mà làm Sa Môn. Hơn nữa Đạo Sĩ kia nếu chỉ cần kim đan đại đạo, cũng chẳng cần Xuất Gia.

Thế thì lời người đó chưa hẳn đúng lý. Nhưng quan sát người Xuất Gia thời nay có người trước khi chưa Xuất Gia rất sẵn tín tâm, sau khi cạo đầu nhuộm áo Xuất Gia, dần dần vướng vào thế duyên, trở thành thoái đọa thế thì ngược lại chẳng bằng ở nhà phụng dưỡng Cha Mẹ, dạy bảo con cháu, được một Thầy tốt chỉ bảo cho Chánh Pháp, cứ theo đó mà tu hành.

Đó là đệ tử chân thực Tại Gia của Như Lai, việc gì phải giả danh A Lan Nhã?

Như vậy thì lời người đó cũng rất có lý và cũng không thể không biết.

 

398. KẾ BẤT HỦ

Người thế gian đem thơ văn mà họ sáng tác thủa bình sinh gom lại thành một tập, rồi xin các danh nhân viết lời tựa, Lời Bạt, bảo rằng:

Lấy đó làm kế bất hủ.

Ôi. Người thời xưa ắt phải là người danh vang hoàn vũ, chói lọi trước tai mắt người ta thì trước tác của họ mới được truyền tới ngày nay.

Còn hạng dưới đó thì sau khi họ mất, quá lắm là mấy chục năm, giấy mực có khi đã dùng để đậy liễn sành và ván khắc có khi đã đem đun bếp rồi, còn đâu mà bất hủ?

Nhất định phải khắc vào đỉnh vạc, khắc chữ triện vào bia kệ, nhưng sau mấy trăm năm số còn lại cũng chẳng bao nhiêu.

Ngay đến văn chương của Khổng Tử, điển mô huấn cáo của Nhị Đế Tam Vương truyền tới muôn đời không nát, nhưng lúc Tam tai nổi lên, Đại Địa, Tu Di, cung điện các Cõi Trời tất cả đều nát thành bụi nhỏ, sạch sành sanh thành thái hư thì còn đâu nữa mà bất hủ?

Thứ thực sự bất hủ có lẽ là bản tâm chẳng sinh chẳng diệt chăng. Thế thì trước Trời Đất mà vô thủy, sau Trời Đất mà vô chung.

Loan Pháp Sư nói rằng:

Đó là sự trường sinh của Kim tiên thị, chỉ Đức Phật ta:

Ta cũng bảo:

Đó là thứ mà Đại Hùng thị ta gọi là bất hủ.

Sao chẳng bỏ quách cái thứ đồ dùng Gia Đình vô dụng bất hủ đi mà cầu Chính tri kiến bất hủ thật sự?

Chẳng tính kế đó mà hao tâm bừa phứa, thì đó là kế dở vậy.

 

399. CON NGƯỜI CHẲNG NÊN ĂN THỊT CHÚNG SINH

Kinh nói:

Giầy da, áo lông v.v… các vật đó chẳng nên dùng, vì các thứ đó hàng ngày gần gũi với các Súc Sinh.

Xét ra các thứ này chỉ dùng ờ bên ngoài thân, huống hồ ăn thịt thì vào trong thân.

Người thời nay dùng chó, lợn, bò, dê, ngỗng, vịt, cá, ba ba làm thức ăn, suốt đời chẳng thấy đó là sai, là vì sao?

Xét ra ăn uống vào dạ dày, dư dật tinh khí để qui về tỳ, cặn bã dịch thải bị đưa ra khỏi ruột non ruột già còn chất tinh túy máu mỡ thì mới bồi bổ phủ tạng, tăng trưởng cơ bắp, tích lũy lâu ngày thì toàn thân đều là thân của chó, lợn, bò, dê, ngỗng, vịt, cá, ba ba.

Tấm thân do cha mẻ đẻ ra ngay trong đời này đã thành loài khác rồi, nói chi đến kiếp sau?

Xét ra dùng ngũ cốc để nuôi dưỡng, rau dưa để bổ sung, hoa quả để phụ trợ. Đó là lời trong sách nội Kinh, tức Hoàng Đế nội kinh: tên một loại sách thuốc thời xưa. Những thứ thức ăn của con người cũng đã rồi. Vậy thì cần gì mà phải ăn thịt nữa. Đã gọi là người thì chẳng nên ăn thịt.

 

400. BA CÂU HỎI KHÓ VỀ TỊNH ĐỘ

Một người hỏi:

Thích Ca Như Lai lấy ngón chân ấn xuống đất liền thành kim sắc Thế Giới.

Phật có đủ thần lực như vậy, sao chẳng biến cõi Sa Bà đầy rẫy núi non đất đá nhơ bẩn này thành ngay nước Cực Lạc thất bảo trang nghiêm, mà lại phải khiến Chúng Sinh rong ruổi tới nơi xa xôi ở ngoài mười vạn ức Cõi Phật?

Ôi. Phật chẳng thể độ kẻ không có cơ duyên, ông có biết điều đó không?

Tịnh duyên cảm Tịnh Độ, Chúng Sinh tâm chẳng thanh tịnh, tuy có Tịnh Độ, làm sao mà được sinh ở đó?

Ví dụ như Thập Thiện được sinh ở Cõi Trời, thì lập tức biến Địa Ngục thành Thiên Đường.

Còn Chúng Sinh thập ác kia, Như Lai dù có giơ tay kim sắc ra mà kéo lên, họ cuối cùng vẫn chẳng thể lên tới cửa. Bởi vậy Kim sắc Thế Giới trong một Sát na kia hễ Phật thu thần lực lại thì vẫn cứ là cõi Sa Bà như cũ.

Lại có một người hỏi rằng:

Kinh nói:

Chí tâm niệm A Di Đà Phật một tiếng thì diệt được tội nặng sinh tử tám mươi ức kiếp.

Câu này là bàn về sự hay bàn về lý?

Ôi. Kinh nói rằng:

Một xưng Nam Mô Phật, đều đã thành Phật Đạo.

Còn nói:

Lễ Phật một vái thì từ gót chân tới kim cương tế mỗi hạt bụi là một ngôi chuyển luân vương.

Nay chính chẳng cần bàn về lý và sự của câu đó, chỉ cốt ở hai chữ chí tâm, chỉ lo tâm bất chí, chớ lo tội chẳng diệt. Sự như thế, lý cũng như thế.

Lý như thế, sự cũng như thế, có gì mà phải nghi ngờ?

Lại có người hỏi:

Có người suốt đời tinh tiến cần cù Niệm Phật, lúc lâm chung chỉ một niệm thoái hối, liền chẳng được Vãng Sanh Tịnh Độ. Có người suốt đời tích ác nhưng lâm chung Phát Tâm Niệm Phật, liền được Vãng Sanh.

Thế thì người thiện cớ sao lại bị thiệt, còn kẻ ác cớ sao lại được lợi?

Ôi. Kẻ tích ác mà lúc lâm chung chính niệm thì trong ngàn vạn người chỉ có một người mà thôi.

Nếu chẳng phải là túc thế thiện căn, lúc lâm chung bị đau đớn bức bách, hôn mê rối loạn, làm sao mà có thể phát khởi chính niệm được?

Người thiện lúc lâm chung thoái hối thì cũng trong ngàn vạn người chỉ có một người mà thôi. Dù có đi nữa thì chắc chắn đó là loại người tuy cả đời Niệm Phật nhưng rất nhởn nhơ, chứ chẳng phải là người được gọi là tinh tiến cần cù. Tinh tiến thì tâm chẳng tạp loạn.

Cần cù thì tâm chẳng gián đoạn, do đâu mà sinh thoái hối được?

Thế thì những kẻ làm điều ác phải nên mau mau tu tỉnh, chớ vọng tưởng lúc lâm chung sẽ có sự may mắn đó. Người Chân Tâm cầu Tịnh Độ bản thân hãy cứ càng tinh tiến cần cù hơn, chớ lo lâm chung sẽ thoái hối.

 

401. NIỆM ĐẬU PHẬT

Tăng có chuyện mộ hóa đậu nành của thí chủ, cứ Niệm Phật một tiếng lại bỏ ra một hạt đậu, một người làm thế, những người khác lại bắt chước, gọi là Đậu nhi Phật Sư Phụ.

Xét ra Đức Thế Tôn dạy người ta Niệm Phật, Ngài đã chế ra tràng hạt, sao lại chẳng tuân theo quy chế của Phật, việc đỡ tốn sức chẳng làm, lại làm cái việc tốn sức này?

Hơn nữa một trăm lẻ tám hạt, lần hết một vòng lại lần từ đầu. Cho đến trăm ngàn vạn ức không bao giờ hết.

Nay một hộp đậu, làm hết một vòng lại từ đầu, cũng lại không bao giờ hết, nhưng vì sao những hạt đậu đã dùng xong, lại bỏ đấy chẳng dùng lại mà thay bằng đậu mới?

Những người đó nói rằng:

Niệm tới mức đậu nành được tới một đấu, một thạch thì gửi đến các Chùa am làm đậu phụ cung cấp cho các chúng kể cũng lắt léo thật.

Có người nói:

Thời xưa cũng có người làm chuyện này. Đó là như đã kể trong Vãng Sanh tập.

Ta nói:

Đó chẳng phải là đếm đậu, người bên cạnh thấy số lần Niệm Phật nhiều không thể kể xiết, ước lượng phải chở đầy hai chuyến. Nay thuyền lương loại to chở được mỗi chuyến một ngàn thạch gạo, hai chuyến chỉ là nói cực kỳ nhiều nữa mà thôi, chứ chẳng phải là đếm đậu như người thời nay, ví dụ có thực sự đếm đậu đi nữa thì tâm họ cũng chẳng giống như người thời nay.

 

402. CHÂN CÁO

Về sách Chân cáo, những điều khác tạm thời chẳng bàn, còn như mục nói về Tào Tháo, lại xếp Tháo ngang hàng với các vị Thánh quân như Nghiêu Thuấn Vũ Thang và là Thiên Thần thì ta không thể không nghi ngờ.

Có người nói:

Vua Diêm Vương thoắt lên bảo điện, lúc ấy thì thị vệ oai nghiêm. Thoắt nuốt viên sắt, lúc ấy thì chân tay mình mẩy chảy nát.

Biết đâu Tháo chẳng sớm thì ở Thiên Đường, tối thì tại Địa Ngục?

Đây chẳng phải thế. Diêm Vương là kẻ lúc sống vừa tu phúc lại vừa gây tội, cho nên quả báo như vậy.

Còn Tháo là người chỉ có tội ác, không có điều thiện thì sao mà được tội phúc song báo như Diêm Vương?

Còn có kẻ nói:

Tôi chẳng cần biết điều đó, cứ theo lý mà đánh giá. Nếu quả thực như vậy thì lấy gì để khiến bọn loạn thần tặc tử phải run sợ, để tỏ rõ sự cảnh cáo đối với bọn gian hùng xảo quyệt. Âu cũng là loại tin hết mức ở sách chẳng thà không có sách mà thôi.

 

403. HIỆN BÁO 1

Báo có ba loại:

Một là đời này làm ác, đời này thụ báo.

Hai là đời này làm ác, đời sau thụ báo.

Ba là đời này làm ác, đời sau chưa báo, nhiều đời về sau mới thụ báo.

Làm thiện cũng vậy. Báo nhanh hay chậm đại để đều có duyên nhân. Nhưng người thế gian nhìn thấy kẻ ác chẳng bị quả báo, có khi còn thịnh vượng hơn, bèn uất ức bất bình, vì chưa biết thuyết tam thế.

Xét ra hai loại báo sau, người ta chẳng kịp nhìn thấy, nên chỉ chú trọng hiện báo. Nay tạm ghi mấy chuyện hiện báo tận mắt trông thấy chứ chẳng phải chỉ nghe đồn. Một người dùng roi đánh tôi tớ trai gái, hơi một tý là hàng trăm roi.

Một hôm đem một đầy tớ trai trói cổ buộc vào cột đông, trói chân buộc vào cột tây, khiến không thể co duỗi được, rồi đánh rất đau chẳng ngớt. Cha hắn cả giận, vội tới thả ra và dặn người đầy tớ rằng:

Người đi mau đi, nếu nó kiện người về tội bỏ trốn thì ta sẽ kiện nó về tội ngỗ ngược. Thế là người đầy tớ đó được sống mà về.

Sau người đó cũng đem con mình bán cho nhà khác, còn bản thân hắn thì phải làm người canh cửa cho lý dịch trong làng.

Còn một người nữa bình sinh dùng roi đánh người y như quan phủ, sau cũng bị hình phạt của quan, chết ở trong ngục. Một người gia thế bậc trung, trong nhà lãng phí bậy bạ nhiều vô kể, sau con cái chết hết, già không có ai để nương tựa, phải đi may vá canh cửi thuê cho người.

Một người là con quan sang kiêu căng chơi bời xa phí, chẳng biết hổ thẹn, sau phải đi theo các du Tăng khất thực để kiếm ăn ở các nơi.

Một người báng bổ Thiên Thần không hề kiêng dè, sau bị dân thôn đánh đập thành tật mà chết. Một người chửi rủa Như Lai cùng các Thánh thần, người ta đều chẳng nỡ nghe, ít lâu sau cũng bị chết ở nơi đất khách quê người, chẳng đem về được.

Một người giận mẹ chẳng giao phó cho tất cả của cải lụa là, bẻ luôn tay tượng Quán Âm Đại Sĩ mà mẹ hắn thờ cúng, sau đi ngựa trên bờ hồ, bị ngã gãy tay suýt chết.

Còn có một người sinh được bảy gái bảy trai, hễ sinh một gái vừa mới đẻ ra đã lập tức gần chết, bảy con trai hắn trước sau theo nhau cũng chết, trai gái cả thẩy mười bốn người mà không còn sót một mống nào, chỉ còn trơ lại chồng già vợ già nhìn nhau khóc lóc mà thôi.

Lại còn mấy người Xuất Gia ngã mạn tự cho mình là người hiền, phàm là người đương thời có ai có ngôn luận gì họ đều nhất loạt chê trách cho là sai, thậm chí còn khinh miệt các bậc tiên triết, phỉ báng sằng bậy. Sau họ đều chẳng thọ, có người bị ác tật mà chết. Vậy tạm ghi lại để cảnh cáo bọn ngông cuồng kiêu ngạo.

 

404. HIỆN BÁO 2

Có người hỏi:

Như Lai thần lực chẳng thể nghĩ bàn sao chẳng khiến người ác đều hiện thụ ác báo và ngày ngày run sợ chẳng dám làm ác, sao chẳng khiến người thiện hiện thụ thiện báo và ngày càng chăm chỉ gấp bội để làm điều thiện?

Như vậy thì vô vi mà thiên hạ thái bình.

Sao chẳng nghĩ tới điều này?

Than ôi!

Quả báo có nhanh có chậm, nghiệp báo của Chúng Sinh tự nhiên như vậy, dẫu là bậc Đại Thánh cũng chẳng thể chuyển nhanh thành chậm, biến chậm thành nhanh được, chỉ đành đinh ninh bảo ban rằng:

Nhân quả chẳng sai, thưởng phạt khó tránh mà thôi, nghe mà chẳng tin thì cũng chẳng thể làm gì được.

Hỏi: Vĩnh Gia nói rằng:

Liễu ngộ thì nghiệp chướng vốn đều không.

Không thì làm gì còn có nhân quả thưởng phạt nữa?

Đáp:

Ngươi nay đã liễu ngộ chưa?

Chưa liễu ngộ. Chưa liễu ngộ thì cần phải trả nợ cũ.

 

405. NGƯỜI NIỆM PHẬT CHỈ NHẤT TÂM BẤT LOẠN

Có người hỏi:

Diệu Hỉ nói rằng:

Người ngu suốt ngày lần tràng hạt cầu Tịnh Nghiệp.

Niệm Phật Quả thực là việc của người ngu ư?

Ôi. Xưa ta đã từng biện luận về điều này rồi. Diệu Hỉ chỉ nói người ngu suốt ngày lần tràng hạt cầu Tịnh Nghiệp, chẳng nói người ngu suốt ngày nhất tâm bất loạn cầu Tịnh Nghiệp.

Lại hỏi, bài kệ của Cổ Đức nói rằng:

Người Niệm Phật nhiều, thành Phật ít

Niệm mãi lâu năm lại thành ma

Ông nay muốn được dễ thành Phật,

Cần tâm vô niệm, chẳng kể nhiều.

Vô niệm Niệm Phật, sao lại đem hữu niệm mà Niệm Phật?

Đáp: Đây là lời khuyên phát những người lâu năm nhất tâm bất loạn sẽ thành ma.

Chưa từng Niệm Phật mà đã lo trước về hữu niệm, thế thì giống như người đói thêm cơm, nhưng lại lo trước sợ sẽ no căng mà chẳng ăn nữa.

Lại hỏi:

Lục Tổ nói rằng:

Người phương Đông tạo ác, Niệm Phật cầu sinh ở Tây Phương.

Ý nghĩa thế nào?

Đáp: Lục Tổ nói:

Người ác Niệm Phật cầu sinh, chẳng nói:

Người thiện Niệm Phật nhất tâm bất loạn cầu sinh. Vả lại, kẻ ác ắt chẳng Niệm Phật, chúng dù có Niệm Phật cũng chỉ là giả, chẳng phải là niệm thật. Ví như chuyện kẻ ác tu Thập Thiện cầu sinh ở Thiên Đường, kẻ ác ắt chẳng tu Thập Thiện, chúng dù có tu Thập Thiện đi nữa cũng chỉ là giả, chẳng phải là tu thật. Chưa hề có chuyện người người nhất tâm Niệm Phật mà chẳng sinh ở Tây Phương.

Lại hỏi:

Cổ Đức nói rằng:

Bỏ uế lấy tịnh là nghiệp sinh tử.

Vậy sao lại bỏ cõi Sa Bà mà cầu Cực Lạc?

Đáp: Đó nói bỏ uế lấy tịnh là nghiệp sinh tử, chẳng nói nhất tâm bất loạn, giành lấy Tịnh Độ là nghiệp sinh tử.

Ông chưa bỏ uế mà trước đã lo lấy tịnh, thì cũng giống như cái lo hữu niệm trước đây.

Lại hỏi:

Thiền Tông nói:

Một chữ Phật, ta chẳng thích nghe.

Còn nói:

Phật đến cũng giết, ma đến cũng giết.

Thế thì Niệm Phật làm gì?

Ôi. Đó nói:

Một chữ Phật ta chẳng thích nghe, chẳng nói:

Bốn chữ nhất tâm bất loạn ta chẳng thích nghe.

Đó nói:

Phật đến cũng giết, ma đến cũng giết, chứ chẳng nói nhất tâm bất loạn đến cũng giết. Xét ra về nguồn không hai, phương tiện nhiều món cho nên về nhà chỉ một, thuyền xe đều được. Dùng thuyền chê xe, dùng xe chê thuyền đều thành hí luận. Lý này tự rõ, không cần rườm lời.

Lại hỏi:

Gần đây có người nói:

Tôi chẳng Niệm Phật, thực do trong có tâm năng niệm, ngoài có Phật sở niệm, năng sở chưa quên, sao được gọi là đạo?

Ôi. Đó đại để coi một mình giữ không tĩnh là đạo chăng?

Trong có tâm năng tĩnh, ngoài có cảnh sở tĩnh, chẳng cũng năng sở rành rành ư?

Sao chẳng nói:

Nhất tâm bất loạn thì ai là năng, ai là sở, đâu là trong, đâu là ngoài?

Ta và người đã Tu Tịnh Độ, chỉ buồn vì nỗi chẳng tới được trình độ nhất tâm bất loạn. Nếu nhất tâm bất loạn thì mặc cho kẻ khác tha hồ chê cười phỉ báng cũng vẫn trơ trơ vòi vọi bất động như núi Thái Sơn. Còn gì mà phải nghi ngờ nữa.

 

406. TU PHÚC

Xưa có bài kệ nói:

Tu tuệ chẳng tu phúc

La Hán Ứng Cúng bạc

Tu phúc chẳng tu tuệ

Thân voi đeo anh lạc.

Có người chỉ chấp hai câu đầu, suốt ngày tất bật, chỉ siêng mộ hóa, nói rằng:

Tôi làm Tượng Phật, tôi xây Phật Điện, tôi thiết cơm chay Chư Tăng.

Đây tuy tất cả đều là muôn vạn hạnh, nhưng có hai thuyết:

Một là nhân quả không thể không phân minh. Hai là công việc của mình không thể không làm trước.

Có người hỏi:

Nếu quả như lời ông thì Tượng Phật mai một, ai sẽ là người sửa sang?

Tháp, Chùa đổ nát ai sẽ xây dựng lại?

Tăng đói ở trên đường mà chẳng được ăn, ai sẽ giúp đỡ họ?

Người chỉ làm công việc của mình thì Tam Bảo hẳn sẽ hoang vu.

Đáp: Không đúng. Chỉ lo nhất thể Tam Bảo hoang vu mà thôi. Tam Bảo ở thế gian, từ khi Phật Pháp truyền vào Trung Quốc, các việc tạc Tượng Phật, xây Phật Điện, trai Tăng luôn luôn chẳng ngừng, khắp nơi đều có, đâu phiền đến riêng ông phải lo mà suy tính quá đáng.

Ta chỉ cảm khái về các việc mà Tăng đã làm, họ dối nhân lừa quả, chẳng sợ tội phúc, bớt xén của Thường Trụ, giấu giếm thí chủ, những hạng đó không bàn nữa.

Ngay các Tăng thủ phận mà vẫn chưa am hiểu luật học, chỉ biết ta chẳng dùng riêng vào bản thân mình thế là được, thế là chuyển chỗ này cho chỗ nọ, lấy chỗ này bù cho chỗ kia, hoặc mượn dùng để trả nợ gấp hoặc đem biếu xén nhà thế tục.

Chẳng biết rằng tiền gạch đem dùng mua ngói, lương Tăng đem dùng xây nhà uổng công vất vả, lại thành ác báo. Thế thì Thiên Đường chưa tới mà Địa Ngục đã thành trước. Đó gọi là không công mà có họa.

Trung Phong Đại Sư đã giáo huấn mọi người rằng:

Nhất tâm là gốc, muôn hạnh có thể xếp sau. Thế thì đó gọi là việc mình làm trước vậy. Việc mình làm xong rồi làm việc phúc, thế thì những việc mình làm tự nhiên sẽ thỏa đáng.

Chí lý thay. Lời ấy. Chư Tăng nên ghi lòng tạc dạ lời ấy mới được.

 

407. XÉT NÉT THỬ THÁCH

Thế gian đồn rằng Chung Ly chân nhân đối với Động Tâm đã thử thách mười lần rồi sau mới truyền cho Tiên Đạo. Lược ghi mấy sự:

Lần đầu tiên thử thách bằng tiền tài, lần sau đó bằng sắc đẹp, lần sau nữa bằng thân mệnh, song đó vẫn còn là những việc mà người thực hành ở thế gian có thể làm được.

Còn có một Chân Nhân, cầu người tài luyện thuốc, đã nhiều lần biến hiện đổi khác để thử thách, người vợ thử thách rõ ràng là đã kiên trì, nhưng tới lúc thấy đứa trẻ ẵm ngửa bị rơi xuống đất đã buột miệng kêu lên, thế là hỏng. Song đây vẫn là việc mà người vong tình ở thế gian có thể làm được.

Còn như chuyện của Đức Thế Tôn ngày xưa còn là Bồ Tát có một vị Bà La Môn xin hai vợ chồng Ngài để làm tôi tớ, lúc ấy Thế Tôn bản thân đang là Thái Tử, Ngài liền cùng vợ:

Nam vào đám nam, nữ vào đám nữ, trung thành dốc hết sức, nếm đủ mùi cay đắng, vất vả mà không oán thán. Hơn nữa Ngài còn cắt thịt mình để đền chim ưng, khoét ngàn đèn để cầu pháp. Thế thì đó chẳng những là những việc mà thế gian cho là khó, mà ngay đến Bồ Tát sơ tâm cũng chẳng làm được.

Cho nên Xá Lợi Phất gặp người xin mắt liền rút lui khỏi Đại Thừa, đến với Tiểu Thừa. Bồ Tát đạo khó thành như thế đấy.

Ngày nay, nếu bị thử thách như động tâm thì mười người đã có năm đôi rút lui rồi, huống chi là làm tôi tớ cho người, huống chi là những điều khổ hạnh như cắt thịt, khoét mắt.

Than ôi!

Đây tuy là cảnh giới của bậc Đại Sĩ đắc nhẫn, chẳng phải là mức mà loại hạ phàm có thể vươn tới được, song há chẳng có thể dùng các chuyện đó để khích lệ phàm tâm của họ hay sao?

 

408. LỤC QUẦN TĂNG

Lục quần Tăng bị Như Lai quở trách, bị các đại đệ tử của Phật coi khinh, thế mà thời xưa còn khen Lục quần thời Phật tại thế vẫn còn hiền hơn các Bồ Tát Mã Minh, Long Thụ v.v… sau khi Phật diệt độ.

Vì sao vậy?

Than ôi. Khổng Tử đã từng chê Trọng Do thô kệch, đã từng công kích Nhiễm Hữu, đã từng chê Phàn Tu là tiểu nhân vì Tử đã cho rằng Do tức Trọng Do, tức Tử Lộ và Cầu tức Nhiễm Hữu có đủ phẩm chất làm bề tôi tốt.

Các vị nói trên nếu ở vào thời nay thì đều là các quan thú lệnh tài giỏi kiệt xuất hiếm có trên đời, đều là các quan tể phụ tốt chấn hưng nếp tốt thời xưa, đều là những bậc mà ngay đến các ông Tiêu Hà Tào Tham, Cung Toại, Hoàng Bá, thời Hán, Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối, Diêm Sùng, thời Đường, Hán Kỳ, Phạm Trọng Yêm, Phú Bật, Âu Dương Tu cũng chưa chắc đã có thể sánh kịp, vậy thì có gì mà phải nghi ngờ đối với Lục quần nữa.

Cho nên biết năm trăm năm đầu, thứ đến năm trăm năm sau, thứ nữa đến năm trăm năm sau nữa, từ giải thoát rồi đến đấu tranh, lâu dần mà suy dần, càng ngày lại càng kém, câu Vũ gia Phượng Hoàng, thứ điểu chẳng phải là lời nói sai, há chẳng vì thế mà phải thở than tới ba lần?

Tuy vậy, Tử Dư Thị nói rằng:

Kẻ sĩ hào kiệt dẫu không có Văn Vương vẫn cứ nổi lên. Nếu quả đúng như lời nói ấy thì là điều may mắn lớn, là điều may mắn lớn cho Chúng Sinh. Ta ngày càng mong chờ điều đó.

 

409. GIẢN TẠNG, LUYỆN MA ĐỌC CHỌN KINH TẠNG, RÈN LUYỆN MÀI GIŨA

Một Nho Sĩ bảo với ta rằng:

Bọn tôi vác tráp theo học ắt phải có đủ lễ vật là nắm ruốc để biếu Thầy và phải nộp thóc trợ quán, tức học phí nộp bằng lương thực cho chủ nhân.

Nay Tăng giản tạng xem Kinh Điển của Thường Trụ, không giúp gì cho thường trụ cứ ngồi yên mà thụ cúng, hơn nữa mỗi quý còn được năm tiền cúng thêm, đó là thuyết gì?

Ta cười nói:

Ông vẫn chưa biết hết các công việc trong thời kỳ rèn luyện mài rũa ma luyện ư?

Một kỳ mùa đông, trước hết phải đem một thạch gạo đưa cho thường trụ và ngày đêm bị roi vọt bức bách phải Niệm Phật không một giây phút nào ngừng nghỉ, hàng ngày còn phải vác củi từ ngoài về có khi xa tới mười mấy dặm tới tận giờ Ngọ rồi sau mới được tạm miễn.

Sao chẳng chuyển những thứ cung cấp cho Tăng giản tạng để cung cấp cho những người tu hành đã khổ công làm việc đạo đó?

Tăng đương thời điên đảo tới mức như vậy, chỗ nào cũng đều thế cả.

Ta cũng chẳng biết đó là thuyết gì?

 

410. MỘNG THẾ GIAN

Xưa có câu: Ở đời tựa mộng lớn.

Kinh nói rằng:

Lùi lại xem thế gian, giống như sự trong mộng nói là tựa, nói là như, đó là bất đắc dĩ mà ví dụ như thế. Nói cho đến cùng thì là mộng thật, chứ chẳng phải là ví dụ.

Đời người từ lúc nhỏ tới lúc lớn, từ lớn đến già, từ già tới lúc chết, thoắt cái đã nhập bào thai, thoắt cái đã xuất bào thai, thoắt cái lại nhập lại xuất đến vô cùng.

Vậy mà sinh chẳng đến, tử chẳng biết đi, u u minh minh, ngàn đời vạn kiếp mà chẳng tự biết. Thoắt đã chìm vào Địa Ngục, thoắt cái đã làm quỷ làm Súc Sinh, làm người làm Trời, nổi rồi chìm, chìm rồi nổi, tất bật bận rộn, ngàn đời vạn kiếp mà chẳng tự biết.

Há chẳng phải là mộng thật ư?

Thơ cổ có câu:

Một lát trên gối trong mộng xuân, đi hết Giang Nam mấy ngàn dặm. Ngày nay những người bị danh lợi lôi kéo trở đi trở về hàng vạn dặm đâu phải đã cho câu chuyện trên gối là đúng. Cho nên biết Trang Tử mộng thấy mình hóa bướm, ông ta ngay lúc chưa mộng thấy mình hóa bướm cũng là mộng rồi. Khổng Tử mộng thấy Chu Công, ngay lúc ông ta chưa mộng thấy Chu Công cũng là mộng rồi.

Từ khoáng đại kiếp tới nay không một giờ nào một khắc nào mà chẳng ở trong mộng cả.

Phá hết vô minh, sáng suốt đại giác, nói:

Trên Trời, dưới Trời chỉ một mình Ta là cao quý nhất. Thế thì mới gọi là người tỉnh mộng.

 

411. TÍNH TƯỚNG

Tương truyền sau khi Phật diệt độ, hai Tông Tính, Tướng học giả ai nấy đều chấp sở kiến, thậm chí chia sông ra mà uống nước, cuộc tranh chấp giữa họ như vậy ai đúng ai sai đây?

Đáp: Hễ chấp thì đều sai, chẳng chấp thì đều đúng.

Tính là gì?

Là tính của Tướng.

Tướng là gì?

Là tướng của Tính. Chẳng phải tách bạch làm hai. Cũng ví như một thân vậy. Thân là chủ và có tai mắt miệng mũi, phủ tạng bách hài đều là thân cả. Thân đó là thân của tai mắt v.v… Tai mắt v.v… là tai mắt của thân.

Ví như một căn nhà, nhà là chủ và có xà kèo dui cột, tường vách cửa rả v.v… đều là nhà cả. Nhà đó là nhà của xà kèo v.v… Xà kèo v.v… là xà kèo v.v… của nhà đó.

Há phải là tách bạch thành hai đâu?

Chẳng những chẳng nên tranh chấp mà cũng không có gì đáng để tranh chấp.

Có người bảo rằng:

Vĩnh Gia nói rằng:

Xuống biển đếm cát chỉ nhọc mình.

Còn nói:

Ngắt lá tìm cành ta chẳng thể. Tựa hồ cho Tính là đúng và cho Tướng là sai.

Đáp: Vĩnh Gia không hề cho cái nào đúng cái nào sai cả.

Tính là gốc còn Tướng là ngọn, cho nên nói rằng:

Cứ được gốc là chẳng lo ngọn nữa, chứ chưa hề nói ngọn là thứ có thể phế bỏ. Bởi vậy chỉ nói thiên về Tính thì chẳng được mà nói thiên về Tướng lại càng chẳng được. Nói thêm về Tính có nghĩa là coi gốc là cấp thiết và coi ngọn là khả hoãn, thế thì vẫn là được trong không được. Chuộng cành lá mà bỏ mất gốc cội thì là không được trong không được.

 

412. ĐẠI GIÁM ĐẠI THÔNG 1

Đại Giám Tuệ Năng thiền sư được thế gian gọi là Nam Tông. Đại Thông Thần Tú thiền sư được thế gian gọi là Bắc Tông.

Song Y bát của Hoàng Mai chẳng trao cho Đại Thông luôn luôn chăm chùi phủi, mà chỉ trao cho Đại Giám vốn dĩ không một vật, vậy mà sao sách Tông kính lục lại bảo rằng:

Đại giám chỉ có một con mắt, còn Đại Thông thì đôi mắt viên minh?

Nếu đúng như thế thì vì sao mà lại chẳng được Y bát ?

Xét ra Tào Khê đích thân nối dõi Hoàng Mai xa thì kế thừa Đạt Ma, xa nữa thì kế thừa Ca Diếp, xa nữa thì kế thừa Thích Ca. Còn Vĩnh Minh truyền đạo bởi Thiên Thai.

Triều Quốc Sư vì sao mà lại đặt ra thuyết này?

Đây có lẽ là thuyết tùy thời cứu tệ chăng?

Người xưa nói:

Từ thời Tấn Tống tới nay đua nhau cho thiền quán là cao mà chẳng còn biết đến tôn chỉ trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật nữa, cho nên sư Tổ mới từ Tây Trúc tới.

Tới thời Vĩnh Minh còn có người cho rằng hễ ngộ là xong, cho nên các sách Tông kính lục và vạn thiện đồng quy v.v… ra sức ca ngợi việc tu trì, thế thì dường như Nam Tông chuyên về đốn ngộ, còn Bắc Tông thì đốn ngộ tiệm tu, trí hành song bị, cho nên có ví dụ một mắt, hai mắt.

Vạn Tùng Lão Nhân vung bút viết:

Đây một con mắt. Đó là nói hết cả Đại Địa là Sa Môn một con mắt, đó là chỉ Bả định càn khôn nhãn mắt nắm vững càn khôn, đó là chỉ Đỉnh môn kim cương nhãn mắt kim cương ở đỉnh môn.

Nếu những kẻ kiến thức nông cạn trong hạng tân học cứ chấp những điểu Tông kính lục đã nói, làm Pháp Hội thực thì Đại Giám chỉ là không đế, còn Đại Thông mới là Trung Đạo đệ nhất nghĩa, liệu có được không?

Có người nói:

Tào Khê sáu đời truyền Y, cả thế gian không ai không biết.

Vậy mà đương thời, vì sao chỉ thấy Lưỡng Kinh Pháp chủ, nhị đế môn sư, Bắc Tông rất nổi tiếng trong thiên hạ, thế mà chẳng sánh kịp Tào Khê, đó lại là vì sao?

Đáp:

Tào Khê đã đươc ấn ký, nhưng giấu Y bát đi, làm người giữ lưới cho phường săn, giấu súng ẩn mình, suốt mười tám năm Trời, đạo của Đại Thông thịnh hành, danh của Tào Khê vẫn chưa nổi. Mãi tới sau khi trả lời câu gió, phướn, đạo của Tào Khê mới được truyền bá muôn đời.

Tào Khê như rồng lặn vực sâu, chẳng tự khoe mình. Đại Thông là rồng hiện trên đồng, chẳng hề tự mãn, Ngài nói:

Ngài đó chỉ Đại Giám Huệ Năng là người đích thân được Thầy ta truyền Y bát. Đại để các bậc Thiện Tri Thức hợp tác với nhau để có được thành tựu như vậy đấy.

 

413. ĐẠI GIÁM ĐẠI THÔNG 2

Tôi lại nghĩ Tông Môn thưởng thức, tán đồng, phê phán biểu dương đều vượt cách vượt tính chẳng thể giống như việc khen chê đúng sai của thế pháp.

Thạch Củng đắc sở truyền nói:

Ba mươi năm giương cung chỉ bắn được một nửa Thánh Nhân. Một con mắt của Tào Khê, chính là chỉ một nửa Thánh Nhân đó.

Trung Phong khinh bài Chân Cầu Tán của Cao Phong, bài tán đó nói:

Tướng ta bất tư nghị, Phật Tổ chẳng thể nhìn. Chỉ cho nhóc bất tài, thấy được nửa bên mũi. Một con mắt của Tào Khê, chính là nửa bên mũi đó.

Phổ Hóa nói về Lâm Tế, rằng:

Cô dâu mới Hà Dương, thuyền bà già Mộc Tháp, thằng nhãi ranh Lâm Tế, lại có một con mắt. Một con mắt của Tào Khê chính là một con mắt của Lâm Tế đấy.

 

414. TIỀN TRAI TĂNG DÙNG LÀM TĂNG ĐƯỜNG

Có người nói:

Lương của Tăng là để Tăng ăn. Tăng đường là để cho Tăng ở.

Hai thứ ăn ở đều do Tăng thụ dụng, tại sao dùng tiền trai Tăng để làm nhà ăn lại bị quả báo gông lửa?

Nghĩa này có hai:

Một là thóc gạo rau dưa để giúp cho người ta khỏi đói.

Xà kèo tường vách có thể giúp cho khỏi đói không?

Thế thì vật loại chẳng tương ứng. Hai là thí chủ làm chay, nay người làm nhà, tiền gạch lại đem mua ngói, trái với tâm tín thí. Thế là nhân quả chẳng tương ứng.

Có người hỏi:

Mộ hóa tiền trai Tăng khác, liệu có được không?

Đáp: Người đó trai Tăng tự người đó được phúc, có can hệ gì đến người trước.

Hỏi: Thế thì làm thế nào mới được?

Đáp: Hủy Tăng đường. Cứ đúng số mà trai Tăng thì gông lửa diệt, đã có chứng nghiệm rõ ràng.

Lại hỏi:

Tiền tạc Tượng Phật dùng làm Phật điện đều là cúng Phật cả, liệu có được không?

Đáp: Không được.

Kèo vẽ xà chạm liệu có thể thay được tướng hảo quang minh của Như Lai không?

Lại hỏi:

Tiền làm Kinh dùng làm Kinh trù đều cúng Kinh cả, thế thì có được không?

Đáp: Không được túi gấm, tủ bán liệu có thay thế được miệng vàng tiếng ngọc của Như Lai không?

Hỏi: Như vậy thì thậm chí tiền phóng sinh đem mua ao chuôm, đều là tế vật lợi sinh cả, thế thì có được không?

Đáp: Không được.

Ao trống đầm hoang ngàn khoảnh mênh mông liệu có thể làm thay đổi được tình trạng của trăm ngàn vạn ức sinh linh lúc đó chẳng được cứu vớt, sắp bị đưa vào nồi chảo, sắp bị giết trên dao thớt hay không?

Huống hồ đổi thay khoản nọ dùng làm khoản kia, khiến nhãn quả bị sai trái ư?

Lại có người hỏi:

Tiền tạc tượng còn thừa có thể dùng để làm đồ thờ trước Phật không?

Điều này thì luật có minh văn cho phép. Còn các việc phúc khác không có minh văn. Phải cẩn thận, phải cẩn thận. Chớ tự ý làm bừa mà lại chuốc lấy nghiệp báo.

 

415. LĂNG NGHIÊM VIÊN THÔNG

Hỏi: Lăng Nghiêm nói về viên thông chỉ lấy một nhĩ căn, còn Pháp Môn Niệm Phật chưa từng được chọn, cớ sao đời sau chẳng tuân lời Thánh, khắp dưới gầm Trời phần nhiều đều đua nhau Niệm Phật?

Đáp: Sách Di Đà sớ sao đã phân tích rõ điều này, nhưng điều nghi vấn này quan hệ không nhỏ, vì vậy chẳng ngại rườm lời, nói kỹ hơn cho ông nghe.

Ông đúng là người ở cõi Sa Bà, chỉ biết có Sa Bà mà thôi, há chẳng nghĩ ngoài cõi Sa Bà còn có vô lượng vô biên bất khả thuyết bất khả thuyết Thế Giới?

Nhĩ căn chỉ thu hút được căn cơ của Chúng Sinh ở Thế Giới Sa Bà, Niệm Phật thu hút được căn cơ của Chúng Sinh ở bất cứ khả thuyết bất khả thuyết Thế Giới.

Sự viên thông của nhĩ căn là sự viên thông của một phương Thế Giới. Sự viên thông của Niệm Phật là viên thông của Mười Phương Thế Giới. Phật xuất hiện ở cõi Sa Bà phải tạm thời thích nghi với cõi Sa Bà mà dạy bảo.

Cho nên nói rằng:

Chân giáo thể phương này, thanh tịch tại tiếng nghe, chứ chẳng nói Chân giáo thể Mười Phương.

Ví dụ như những sách mà sĩ tử ở trăm ngàn quận ấp trong nước học tập ngày nay, có khi tại một phương phần nhiều học tập Kinh Dịch, có khi tại một phương phần nhiều học Kinh Thi, có khi tại một phương phần nhiều học Kinh Thư, Xuân Thu, Lễ Ký cũng lại như vậy.

Nhưng nói chung thì trong cả nước sách được học tập nhiều nhất là Chu Dịch. Chu Dịch tức Kinh Dịch chính ví như Pháp Môn Niệm Phật vậy.

Thêm nữa, những thứ thích nghi với đất đai trăm ngàn quận ấp, vùng đồng bằng thì phần nhiều là thóc lúa. Vùng rừng núi thì trồng nhiều cây ăn quả. Vùng sông biển thì phần nhiều bán cá, muối. Lụa, bông, châu, ngọc cũng lại như vậy.

Nhưng nói chung thì thứ được ưa chuông nhất trong cả nước là lúa tẻ, lúa nếp, đậu, kê. Lúa tẻ, lúa nếp, đậu, kê cũng ví như Pháp Môn Niệm Phật đấy. Ông ở cõi Sa Bà tự mình tu nhĩ căn, ai ngăn ông được, song chẳng cần cho môn này là đúng, cho môn khác là sai.

Nếu cứ chấp nhĩ căn mà định bỏ sạch Niệm Phật thì cũng giống hệt như các sĩ tử học các Kinh Sách khác mà định bỏ quách Chu Dịch, cũng giống hệt như thương nhân buôn các vật khác mà định bỏ quách thóc kê. Đâu có lý ấy.

 

416. THIÊN THUYẾT 1

Một vị lão túc nói:

Có người ở cõi khác đặt ra Thiên Chúa Giáo, sao ông không biện luận về việc này?

Ta cho rằng dạy người ta kính Trời, đó là việc thiện, việc gì mà phải biện luận.

Vị lão túc đó nói:

Họ định dùng đạo đó để thay đổi phong tục và thêm nữa để hủy diệt Phật báng pháp, vì các hiền sĩ, lương hữu phần nhiều tín phụng đạo ấy.

Rồi đưa sách của đạo ấy cho ta xem, nên ta mới phải biện luận một đồi điều. Tuy tôn thờ Thiên Chúa, nhưng thực ra chưa am hiểu lý thuyết về Trời. Cứ lấy kinh ra để chứng minh thì thứ mà họ gọi là Thiên Chúa, chính là Thiên Vương ở Cõi Trời Đao Lợi một Tứ thiên hạ là Chúa của tam thập tam thiên.

Một Tứ thiên hạ đó, từ một mà đếm đến ngàn thì gọi là tiểu thiên Thế Giới. Thế thì có ngàn Thiên Chúa. Lại từ một tiểu thiên đếm tới một ngàn nữa thì gọi là Trung thiên Thế Giới thế thì đã có cả trăm vạn Thiên Chúa rồi.

Lại từ một trung thiên đếm tới một ngàn nữa thì gọi là Đại Thiên thế giới. Thế thì lại có vạn ức Thiên Chúa rồi. Thống trị Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới đó là Đại Phạm Thiên Vương. Thiên Chúa mà họ cho là tối cao vô thượng đó đem so với Phạm thiên thì hơi giống như một ngàn tám trăm Chư Hầu so với Chu thiên tử. Vị mà họ biết chỉ là một trong vạn ức Thiên Chúa mà thôi.

Ngoài ra Chư Thiên ở Dục Giới họ đều chưa biết. Trên nữa là Chư Thiên ở Sắc Giới và Chư Thiên ở Vô Sắc Giới, trên nữa họ cũng đều chưa biết. Còn nói Thiên Chúa vô hình, vô sắc, vô thanh. Thế thì cái gọi là Thiên chỉ là lý mà thôi. Vậy thì làm sao mà ngự trị thần dân, thi hành chính lệnh, tiến hành thưởng phạt được?

Họ tuy thông tuệ, chưa đọc Kinh Phật, chả trách lập ngôn sai trái.

Hiện giờ các vị hiền sĩ, các vị lương hữu tín phụng đạo này đều là các bậc chính nhân Quân Tử tiêu biểu một thời, đều là những người được mọi người chiêm ngưỡng coi đó là tấm gương để họ noi theo, nên tôi đâu có thể vì trách mối hiềm trái tai mà chẳng hết lòng trung cáo?

Chỉ mong các bậc cao minh hạ cố lựa lọc những lời quê mùa tựa như lời bọn tiều phu mục đồng này và sáng suốt soi xét cho.

 

417. THIÊN THUYẾT 2

Lại hỏi: Họ nói:

Kinh Phạm Võng nói rằng:

Hết thảy những loài có sinh mệnh đều là Cha Mẹ kiếp trước, giết mà ăn chúng, tức là giết Cha Mẹ ta. Như vậy, thì người cũng chẳng được lấy vợ lấy chồng, vì đó là lấy cha lấy mẹ mình làm chồng làm vợ. Người cũng chẳng được cắt đặt tôi tớ, vì đó là sai khiến Cha Mẹ mình phục dịch.

Người cũng chẳng được cưỡi la cưỡi ngựa, vì đó là cưỡi Cha Mẹ mình?

Sĩ nhân, Tăng nhân chẳng thể đáp được, vậy thì làm thế nào?

Ta nói:

Kinh Phạm Võng nói thế chỉ là để răn đe ngăn ngừa việc sát sinh.

Ý nói:

Từ hằng hà sa số kiếp tới nay đời đờì thụ sinh, đời đời phải có Cha Mẹ, biết đâu:

Đó chẳng phải là Cha Mẹ kiếp trước?

Đại để sợ đó có khi là Cha Mẹ mình, chứ chẳng phải là cả quyết đó chính là Cha Mẹ mình.

Nếu chỉ dùng lời mà làm hại ý, chỉ nêu một mà làm lệ chứng cho cả trăm thì Nho cũng có chuyện ấy:

Lễ cấm người cùng họ lấy nhau, cho nên mua thiếp vợ lẽ, nàng hầu nếu chẳng biết họ thì phải bói.

Đó sẽ nói:

Bói mà chẳng phải cùng họ thế thì lấy nhau đương nhiên là vô hại. Đây cũng nói lấy vợ mà chẳng biết người đó có phải là Cha Mẹ mình hay không thì xem bói. Bói chẳng phải là Cha Mẹ mình thì lấy cũng vô hại.

Lễ nói rằng:

Tuổi lớn gấp đôi mình thì thờ người đó làm cha.

Nay người ít tuổi làm quan thì có hạn định gì đâu?

Lẽ ra phải dùng bọn trẻ để khiêng kiệu kéo xe, che lọng cầm kích mới được. Nếu có người lớn tuổi trong đám đó thế là bắt bố mẹ làm nô lệ lính tráng đấy.

Nếu chuyện đó có thể áp dụng một cách phổ biến mà chẳng trở ngại gì, thì lời Phật há chẳng thể áp dụng một cách phổ biến ư?

Xét ra việc nam nữ lấy nhau cho đến chuyện ngựa xe tôi tớ, đó đều là thường pháp của thế gian chẳng thể ví với tính chất tàn ác của việc sát sinh.

Cho nên Kinh chỉ nói:

Hết thảy mọi loài có sinh mệnh đều không được giết hại, chứ chưa hề nói:

Hết thảy mọi loài có sinh mệnh đều chẳng được lấy nhau, đều chẳng được sai khiến. Đặt ra câu hỏi hiểm hóc đó, đó gọi là bàn luận quanh co lắt léo theo lối tiểu xảo và định phá bỏ lời giáo huấn rành rành của đạo cả làm sao mà có thể được.

Thêm nữa, sách đó toàn lời bịa đặt vô căn cứ, chẳng dễ gì mà hiểu hết:

Như bảo rằng người chết rồi Linh Hồn vẫn tồn tại, chứ không có luân hồi.

Nếu hồn đã luôn luôn tồn tại thế thì sao Vũ Trang Văn Võ chẳng răn đe Giáo Huấn Kiệt Trụ Vu Lệ lấy một lần?

Các Vua Tiêu Tần, Lưỡng Hán, Đường Tống sao chẳng một lần trừng phạt bọn Lý Tư, Triệu Cao, Vương Mãng, Tào Tháo, Lý Lâm Phủ, Dương Quốc Trung, Tần Cối, Thái Kinh?

Nếu đã không có luân hồi, cớ sao Thúc Tử lại có thể biết trước là mình sẽ thác sinh làm con nhà Mỗ, Minh Đạo làm sao có thể nhớ được kiếp trước là Tạng Mẫu Thoa?

Dương Di hóa hổ, Đặng Ngãi làm trâu, những loại như vậy được ghi nhan nhản trong sách Nho, chẳng phải chỉ là một hai truyện người Thiên Chúa Giáo đó đều chưa biết, chả trách lời họ sai trái.

 

418. THIÊN THUYẾT 3

Lại nữa, Nam giao để thờ Thượng Đế, đó là chế độ của Nhà Vua.

Rằng: Kính Trời lớn đó.

Rằng: Kính sùng đạo Trời.

Rằng: Kính thờ Thượng đế.

Rằng: Thượng đế trị ngươi.

Đó là lý do khiến Nhị đế Tam Vương noi theo phép tắc của Trời mà lập cực cai trị thiên hạ vậy.

Nói: Biết Trời.

Nói: Sợ Trời.

Nói: Theo luật của Trời.

Nói: Theo phép tắc của Trời.

Nói: Giầu sang tại Trời.

Nói: Biết ta, đó là Trời.

Nói: Trời sinh ra đức cho ta.

Nói: Có tội với Trời thì không còn có chỗ nào để mà cẩu khẩn cả. Đó chính là Khổng Tử bậc tập Đại Thánh của ngàn Thánh tuân theo chế độ của Nhà Vua.

Nói: Sợ Trời.

Nói: Vui với mệnh Trời.

Nói: Biết Trời, nói:

Thờ Trời. Đó là Á Thánh Mạnh Tử. Thuyết về Trời có chỗ nào chẳng đầy đủ mà phải đợi họ đặt ra thuyết mới.

Những điều trình bày trên đây nếu vẫn bảo là chẳng đúng thì xin cứ khấn với Thiên Chúa, Chúa Trời rằng:

Nếu tôi mang lòng đố kỵ, đặt ra thuyết quỉ quyệt dị đoan, cố phá hoại vương giáo của họ thì Thiên Chúa uy linh soi xét sẽ sai Thiên Thần mạnh mẽ giáng hạ trị tội tôi để chứng tỏ sự trừng phạt của Trời.

 

419. TRIỆU ĐỊNH VŨ LÀM DIÊM VƯƠNG

Quan Thiếu chủng tể là ông Triệu Định Vũ là bạn đồng niên với tuần phủ Vân Nam Trần Ngọc Đài. Ông mất đúng ngày rằm tháng ba năm Bính Thân niên hiệu Vạn Lịch. Bấy giờ Ngọc Đài tại nhậm vì vợ ốm đã phù kê thỉnh Thần, Thần phán là sẽ chết, bèn tha thiết xin cứu giúp.

Thần phán rằng:

Diêm Vương ở Ngũ điện vừa được bổ nhiệm, người đó cương chính, chẳng thể tư túi, không thể làm gì được.

Hỏi người mới được là ai?

Đáp: Là Triệu Mỗ, chỉ Định Vũ mà ông vẫn hằng quen thuộc.

Ít lâu sau thì có tin cáo phó đưa tới, thì thấy ngày Định Vũ được bổ nhiệm vừa khớp với ngày cáo phó. Trần Ngọc Đài rất sửng sốt và lấy làm lạ.

Có người nói:

Người nào vừa mang theo phúc vừa mang theo nghiệp thì làm Diêm Vương.

Định Vũ là Bậc Hiền sĩ thịnh đức mà cũng có nghiệp ư?

Ôi. Địa Tạng Bồ Tát nói rằng:

Ta thấy Chúng Sinh trong cõi Diêm Phù Đề giơ chân cất bước, không gì không phải là tội cả.

Thế thì làm sao mà có thể không có tội lỗi được?

Xưa nghe nói có một vị Tăng bị thiên sứ mang trát tới triệu đi làm Diêm Vương, vị Tăng đó sợ, ra sức tinh tiến, nhất tâm niệm đạo, thế là thiên sứ mang trát không tới nữa.

Than ôi. Xưa Hàn Cầm Hổ lúc sống làm thượng trụ quốc, lúc chết làm Diêm Vương. Thêm nữa gần đây nghe đồn quan Tư Khấu là Thịnh Đang Tuyền làm Diêm Vương, quan thái thú Hàn Châu là Chu Công làm Thành Hoàng. Đó là sự thường.

Cổ Đức có nói rằng:

Tăng tuy có hạnh, nhưng nếu chẳng liễu ngộ về đạo thì phần nhiều làm các Thần Thủy lục.

Đó há phải là lời nói suông đâu?

 

420. ĐỆ TỬ ĐỂ TANG THẦY

Về việc này có ba thuyết:

Một thuyết của Lục Tổ Đàn Kinh, một thuyết của Thích thị yếu lãm, một thuyết của Bách Trượng thanh qui, ba thuyết mỗi thuyết mỗi khác.

Nay biện luận như sau:

1. Đàn Kinh nói rằng:

Sau khi ta diệt độ, chớ làm theo thói thế gian. Khóc lóc thảm thiết, nước mắt như mưa, nhận các thứ điếu phúng của người, bản thân mặc hiếu phục. Thế thì chẳng phải đệ tử của ta, cũng chẳng phải là Chánh Pháp.

2. Yếu lãm nói rằng:

Khảo cứu các Kinh Niết Bàn v.v… đều không có chế độ tang phục, chỉ riêng sách Tăng huy ký dẫn lễ tam phục, trong đó loại thứ ba là Giáng phục, sách Bạch hổ thông nói rằng:

Ơn Thầy như Cha Mẹ, phải nên giáng phục.

Sách Thích thị tang nghi nói:

Ơn Thầy như Cha Mẹ nên để tang ba năm.

Sách Ngũ sam nói:

Quần áo để tang Thầy đều theo pháp phục, chỉ khác là vải hơi thô hơn và áo cộc thuần nhuộm màu vàng.

Tăng huy ký nói:

Chỉ là sơ nhuộm màu xanh hơi khác với thường phục mà thôi.

3. Thanh qui nói rằng:

Tiểu sư mặc áo ngắn vải gai, hai bên mặc áo ngắn bằng đay, người chủ tang v.v… mặc áo ngắn bằng sồi, mọi người cử ai ba tiếng, tiểu sư khóc thảm thiết ở dưới màn.

Như trên đã nói, theo Đàn Kinh thì không để tang cũng không khóc. Theo Tăng huy thì có để tang nhưng không khóc. Và tang phục chẳng dùng vải gai chỉ dùng màu vàng màu xanh mà thôi. Theo Thanh qui thì tang phục và khóc lóc cả hai đều thi hành, giống hệt như thế tục.

Xét ra người làm Tăng tuy nên theo phép của Lục Tổ, nhưng đệ tử ngày nay chẳng nỡ thấy Thầy mất nên phần nhiều để tang Thầy, đó chính là trên thì vâng lời dạy của Tổ, dưới thì thuận theo tình người, linh động châm chước theo các Trung Dung, cứ làm áo tang màu xanh màu vàng theo như sách Tăng huy ký cũng được.

Xưa có câu: Lễ có thể vì nghĩa mà khởi xướng. Xin đợi các bậc cao minh phủ chính.

 

421. BÁCH TRƯỢNG THANH QUY

Nhân nói về tang chế ở trên, mới biết sách Thanh quy do người sau thêm thắt nhiều, chẳng phải toàn là sáng tác Bách Trượng.

Bách Trượng là cháu đích tôn bốn đời của Tào Khê, tang chế của ông sao chẳng tuân theo quy định của Tổ mà lại thay đổi thành pháp của Tổ?

Đại để là trong việc xây dựng Tùng lâm, bắt đầu từ Bách Trượng mới đặt ra thanh quy để khiến tất cả một chúng đều có sự ước thúc mà thôi.

Nhưng tới mức chế độ phồn nhũng, tiết văn tủn mủn, khiến người ta phiền nhiễu, vất vả, tất bật suốt ngày, thì làm sao còn có thể bớt duyên bớt sự để mà toàn tâm nghiên cứu đến cùng đạo này được nữa?

Cho nên nói rằng: Đó là do người sau hiển sự đặt ra, chứ chẳng phải là ý của Tổ Bách Trượng.

 

422. QUẢ BÁO PHẢI LÀM GIỐNG LỢN

Tăng Mỗ vốn chất phác thật thà, nhưng ngu mà lại tự mãn, hễ thấy khen ai tốt là nhất định lại cười mỉa, tỏ ý chẳng đáng khen. Lâu ngày, bỏ đạo hoàn tục, sống chung với một bà già.

Lúc chết báo mộng cho mụ đó rằng:

Ngày mai, tôi sẽ về am bên cạnh.

Bấy giờ có người đem một con lợn tới phóng sinh ở am đó. Mụ biết đó là Mỗ, nhiều lần tới thăm hỏi, thế là tiếng đồn đến tai mọi người xa gần đều cho là sự lạ, người đến xem đông nườm nượp. Mụ xấu hổ, chuyển lợn tới Vân Thê.

Bấy giờ chỗ phóng sinh của Vân Thê hẹp, một Chùa núi xin đem về nuôi. Ít lâu sau đồ đệ đem bán cho đồ tể giết ở giữa ruộng.

Ôi. Đã phải thụ sinh làm Súc Sinh rồi mà vẫn chẳng tránh khỏi hình phạt là bị giết mổ, sao mà tới mức cùng cực như vậy. Bọn ta nên đau lòng mà ghi xương khắc cốt chuyện này.

 

423. NÓI THÊM VỀ THIÊN THUYẾT

Trước đây ít lâu, tôi đã trình bầy Thiên thuyết rồi nhưng có người khách vẫn còn có chất vấn rằng:

Bói về việc lấy vợ, nếu chẳng phải là Cha Mẹ mình thì đã có thể lấy được, sao chẳng nói:

Bói về việc sát sinh, nếu chẳng phải là Cha Mẹ mình thì cũng có thể giết được?

Chẳng lấy vợ để mà sinh con thì loài người sẽ tuyệt diệt, sao chẳng nói:

Nếu bỏ việc sát sinh thì điều lễ tế tự sẽ bị phế bỏ?

Người bị chất vấn lặng im rồi mách lại với tôi.

Tôi nói:

Người xưa có nói:

Bói để giải quyết mối nghi ngờ.

Chẳng nghi ngờ thì việc gì phải bói?

Cùng họ chẳng lấy nhau đó là Đại Kinh đại pháp xưa nay trong thiên hạ, cho nên nghi thì phải bói.

Sát sinh là lỗi lớn, ác lớn xưa nay trong thiên hạ, dứt khoát không được làm, thế thì còn nghi ngờ gì nữa mà phải bói?

Chẳng lấy vợ thì loài người tuyệt diệt, về lý thì đúng thế đấy.

Nhưng vì không sát sinh mà điều lễ tế tự bị phế bỏ thì há chẳng nghe nói hai lẵng lễ vật cũng có thể cúng tế, giết trâu mổ bò chẳng bằng dược tế ư?

Thế thì điều lễ tế tự vốn vẫn giữ nguyên chẳng bị phế bỏ. Nếu có phế bỏ thì phế bỏ những thứ đáng bỏ, như bỏ nhục hình, cấm tuẫn táng. Đó là chính sự tốt đẹp.

Than ôi!

Gọi là bói có nghĩa là mượn sự trước mắt tạm làm ví dụ mà thuyết minh, đại để là dựa vào cái đã sáng tỏ để đả thông điều còn bị che lấp mà thôi.

Nếu ông liền cho đó là thực pháp thì quả thật có thể gọi là câu chuyện tầm phào mượn chén rượu để giúp vui, câu nói pha trò mượn sân khấu để đùa cợt. Song nếu để những câu chuyện đó lọt vào tai, ghi vào lòng đám nam nữ ngu muội thì tác hại chẳng phải là là nhỏ. Vì vậy, lời nói không thể không thận trọng.

Khách còn hỏi vặn rằng:

Sát sinh chỉ đoạn sắc thân, hành dâm mới đoạn cả tuệ mệnh. Ý nói sát sinh tội còn nhẹ. Chẳng biết rằng những kẻ bị giết tuy là sắc thân của kẻ đó, nhưng kẻ làm chuyện sát sinh chỉ cần một niệm tâm tàn ác độc địa là tuệ mệnh của bản thân mình đã đoạn diệt.

Há có thể chẳng buồn ư?

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8