BÚT KÝ BÊN CỬA TRÚC
-TRÚC SONG TÙY BÚT-
Tác giả: Đại Sư Liên Trì
Dịch giả: Sa Môn Thích Viên Thành

 

PHẦN I

(tiếp theo 3)

101. GỐC RỄ LUÂN HỒI

Kinh Viên Giác bảo rằng:

Gốc rễ của luân hồi là ái dục. Mà ái dục này, dù dùng trăm kế để chế ngự cũng không thể nào trừ diệt được. Vì Bôn, Dục cũng không có chỗ mà thi thố sức dũng mãnh. Lương, Bình cũng không có chỗ vận dụng trí mưu. Mà Ly Lâu, Công Thâu cũng không có chỗ để trổ tài sáng suốt khéo léo.

Tuy Bất tịnh quán chính là thứ đối trị nó, nhưng phàm phu khắp nơi chướng nặng nhiễm sâu chỉ thấy nó sạch, chẳng thấy nó, chỉ ái dục bất tịnh. Quán pháp tinh vi, ít ai thành tựu được.

Thế thì rốt cuộc sẽ làm thế nào đây?

Kinh nói rằng:

Dục sinh bởi ý ngươi, ý do tư tưởng sinh.

Nay quán tưởng này lại sinh từ đâu?

Nghiên cứu điều này, cứ nghiên cứu mãi, nghiên cứu không ngừng, thì sẽ ví như chuột chạy cùng sào, ắt tới điểm mút.

Nguyên văn: Chuột vào sừng trâu ắt sẽ tới chỗ ngã gãy.

 

102. BỆNH LÀ THUỐC HAY CỦA CHÚNG SINH

Người có câu ví:

Như rắn thành rồng, chẳng đổi được da. Như người thành Phật, mặt vẫn chẳng đổi.

Người thế gian cho bệnh tật là khổ, nhưng Tiên Đức nói:

Bệnh là thuốc hay của Chúng Sinh.

Xét ra thuốc chống lại bệnh, sao lại coi bệnh là thuốc?

Bởi vì tấm thân hữu hình, không thể không có bệnh. Đó là lý thế tất nhiên.

Vậy mà khi không có bệnh, vui chơi phóng túng, ai mà thấy được?

Chỉ khi bệnh tật ốm đau bức bách đến thân, mới biết Tứ Đại chẳng thực, nhân mệnh vô thường. Đó là một dịp để hối ngộ và là một sự trợ giúp cho việc tu tiến.

Ta từ khi Xuất Gia tới nay đã ba lần ốm nặng suýt chết và mỗi lần ốm lại càng hối ngộ, tăng phần tu tiến. Do đó, tin câu bệnh là thuốc hay, đó quả thật là lời chí lý.

 

103. RẮN THÀNH RỒNG

Người có câu ví:

Như rắn thành rồng, chẳng đổi được da. Như người thành Phật, mặt vẫn chẳng đổi.

Đây là đả phá việc ngu phu trước tướng cầu Phật. Đại để na ná như tỷ dụ, chứ chẳng phải là thí dụ đích thực. Cắt chương lấy nghĩa, đó chẳng phải là toàn dụ.

Còn có câu nói:

Rắn phục trong đất, do tu luyện mà thành rồng. Chẳng biết rằng đó là bẩm tính xui khiến nên như thế, chẳng phải tu luyện mà đạt được.

Cho nên, trong nước bẩn trùng hóa mà thành muỗi, trong nhà xí trùng hóa mà thành ruồi, bọ hung hóa thành ve sầu, con tằm hóa thành con Ngài, chim trĩ hóa thành con thẩn, chim sẻ biến thành con sò, cá mập hóa thành con hổ, cá côn hóa thành chim bằng, những chuyện như vậy nhiều không kể xiết, há phải là chúng có thuật tu luyện?

Lại chẳng thấy cỏ hóa thành đom đóm, cơm hóa thành ốc, ngói hóa uyên ương, loài vô tình mà hóa thành loài Hữu Tình, thế thì tu luyện ở đâu?

Ta sợ kẻ không hiểu rõ đạo lý, tiếng là học đạo, nhưng lại ngầm gây tà nhân, mong sằng tà quả, nên không thể không biện giải rõ.

 

104. DANH LỢI

Danh vang, lợi lớn là thứ mà thế gian đều cùng tranh cạnh, vậy mà Tiên Hiền lại nói:

Cầu cạnh nó đã chẳng thể được, khước từ nó cũng chẳng tránh được.

Câu Khước từ nó cũng chẳng tránh được cực kỳ kuyền diệu. Người xử thế nên tin tưởng sâu sắc, nghiên ngẫm thật kỹ. Đại để cầu cạnh nó chẳng thể được có người còn biết.

Khước từ chẳng tránh được, ai biết điều ấy?

Nếu biết chẳng thể tránh được, thì cầu cạnh mà làm gì?

Hơn nữa cầu mà chưa được, ấm ức khôn xiết. Tới khi được rồi, vui mừng khôn xiết.

Nếu biết chẳng thể tránh được thì vui mừng mà làm gì?

Hơn nữa mình được thì mừng, người khác được thì ghen ghét.

Nếu biết chẳng thể tránh được thì việc gì mà phải ghen ghét?

Ngõ hầu thông đạt cái lẽ túc duyên tự nó đưa tới, hiểu rõ muôn cảnh đều như không thì dù thành bại, sắc cùn cũng thờ ơ lạnh nhạt không còn thấy thú vị gì nữa. Cho nên biết câu đó huyền diệu.

 

105. LÂM CHUNG CHÍNH NIỆM

Kinh nói rằng:

Con người ta lúc sắp mất nghe tiếng chuông khánh thì tăng chính niệm. Thế mà phong tục Hàng Châu, người chết tắt thở đã lâu mới mời Tăng tới gõ khánh, thế là không kịp nữa rồi.

Lại còn nói sai ngoa rằng:

Tiếng khánh vang lên sẽ thúc giục vong nhân đi tới Diêm La. Sao mà sai lầm đến thế.

 

106. MÙI THƠM CỦA HOA

Hoa bách hợp trong sân nở, ban ngày dẫu có thơm, cũng chỉ thoang thoảng, đêm đến thì mới thơm ngào ngạt. Xét ra mũi chẳng phải là đờ đẫn vào ban ngày mà nhạy bén vào ban đêm.

Ban ngày náo động, các cảnh nhốn nháo, mắt nhìn vào đấy, tai nghe vào đấy. Lực của mũi bị tai mắt chia sẻ mà chẳng được chuyên. Dùng trí chẳng phân tán, mới ngưng ở thần, đúng vậy thay.

 

107. TRUYỆN HỔ NGƯỜI

Sách Thuyết hải có đăng truyện hổ người:

Một Tăng đùa khoác da hổ ở giữa đường núi, có người nhìn thấy sợ hãi bỏ chạy, vứt lại túi đẫy, Tăng đó liền lấy. Da hổ bỗng dính vào người, thế là thành hổ, chẳng dám về Chùa, nhưng tâm vẫn nhớ rành rành mình là người. Dần dần bị đói, chẳng thể đừng được phải ăn thịt cáo thỏ dê chó.

Thế rồi bắt được người, sắp sửa ăn thịt, nhìn kỹ thì ra là Tăng. Vô cùng hối hận, hối hận hết mức thì gào khóc thảm thiết, quăng mình vật vã, da bỗng rơi xuống đất, lại trở lại thân người.

Nhân cảm động trước sự kỳ dị này, mới mặc Cà Sa rách đi khất thực, tham học khắp cả các bậc Thiện Tri Thức, quyết tâm tu đạo, sau rốt cuộc đã trở thành một bậc danh đức.

Kinh nói rằng: Hết thảy do tâm tạo. Xem truyện trên lại càng tin.

 

108. SÁU ĐƯỜNG ĐỦ LOẠI

Trong sáu đường lại có sáu đường.

Hãy lấy người mà nói:

Có người là Trời, đó là các Quốc Vương, Đại Thần. Có người là người, đó là loại các tiểu thần quan nhỏ cùng hạng bình dân áo cơm sung túc, an nhàn ở đời. Có người là A Tu La, đó là loại cai ngục, đồ tể, đao phủ.

Có người là Súc Sinh, đó là loại phải phục dịch mang vác nặng nhọc, thường bị đánh đập. Có người là Ngã Quỷ, đó là loại những người nghèo túng, ăn mày ăn xin đói rét gào khóc.

Có người là Địa Ngục, đó là loại bị hình phạt giết chóc mổ xẻ. Năm đường khác như đường Trời v.v… cũng lại như thế. Sở dĩ như vậy là vì xưa nhân Trì Giới tu phúc, nay được làm người.

Mà việc Trì Giới tu phúc có ba loại Thượng, Trung, Hạ. Trong ba loại này lại có ba loại, rất nhiều vô tận, thảy đều theo tâm, cảm báo khác nhau.

Kinh nói rằng: Hết thảy do tâm tạo. Xem vào đó, lại càng tin.

 

109. TRÍ TUỆ

Kinh Tăng nhất A Hàm nói:

Phật dạy:

Giới Luật thành tựu, đó là thường số thế tục. Tam Muội thành tựu cũng là thường số thế tục. Thần túc phi hành thành tựu cũng là thường số thế tục.

Chỉ có trí tuệ thành tựu là đệ nhất nghĩa. Như vậy thì biết rằng Tam Học là Giới, Định, Tuệ. Lục Ba La Mật là Bố Thí v.v… chỉ có trí tuệ là quan trọng nhất, chẳng thể coi khinh. Chỉ có trí tuệ là đứng đầu, chẳng thể để sau. Chỉ có trí tuệ là quán triệt mọi Pháp Môn, không thể không sánh bằng.

Kinh nói:

Nhân giới sinh định, nhân định phát tuệ. Đại để đó là nói về thứ tự sinh phát thì đúng, nhưng phải biết thứ quan trọng, thứ đứng đầu, thứ quán triệt mới được. Tuy vậy, trí tuệ này lại chẳng phải là chỉ thông minh tài biện, như trong bài thế trí nên ngộ trước đây đã nói.

 

110. NGOẠI HỌC

Sa Môn Tuệ Toàn ở Lương Châu thời Tùy có năm trăm đồ đệ, trong đó có một người rất thô lỗ kỳ dị, vốn không được Toàn thu nạp, bỗng dưng tự nói:

Đã chứng được quả A La Hán. Toàn ốm, đóng cửa. Người đó tới thẳng trước sập hỏi thăm, thế mà cửa vẫn đóng như cũ. Hôm sau lại thế.

Nhân bảo Toàn rằng:

Thầy sau khi mất đi sẽ sinh vào nhà Bà La Môn.

Toàn nói:

Ta cả đời ngồi thiền, sao lại phải sinh vào chỗ đó.

Đáp:

Thầy tin đạo chẳng hết mức, chưa chứng được ngoại học, tuy có phúc nghiệp, chẳng dược cao thăng.

Tăng đời nay có người học Lão Trang, có người học Kinh Sách khoa cử, có người học Mao thi, Sở tao, tức Kinh thi, Sở từ, cùng từ phú cổ. Họ lấy thiền làm nghiệp vụ, nhưng ngoại học chưa dứt, vẫn vì những thứ đó mà lụy đến đạo.

Nay theo ngoại học một cách bừa bãi, còn thiền thì xếp xó không học, như vậy đâu có được.

 

111. LINH DỤ PHÁP SƯ

Dụ Pháp Sư Thuyết Kinh, có khi chỉ một chữ mà giảng đi giảng lại mất hết cả ngày, có khi chỉ trong chốc lát đã giảng hết mấy quyển, có khi phân khoa đã định, tới lần giảng sau, lại đổi khoa trước, tăng giảm xuất nhập, tùy cơ ứng biến. Người học sinh nghi.

Dụ nói: Đây là quy tắc lớn của Đại Sĩ, há có thể lấy thường tình mà xét đoán được. Dụ Đại Sư đại để đã chứng được vô ngại biện tài, gần như được tự tại về pháp.

Thế thì những kẻ câu nệ chấp trước vào danh tướng, lấy văn hại từ, lấy từ hại ý và bọn tham cứu câu chết, làm sao có thể biết được người thời nay chẳng thể chấp trước kiến giải của mình mà miệt thị những bậc cao minh, bàn luận Kinh suất ngang bướng, lại cũng chẳng thể chẳng biết tự lượng sức mình mà học đòi tiên đức, tự phụ tự mãn sằng.

 

112. HÀNH CƯỚC, TRỤ SƠN

Người thời nay thấy Huyền Sa chẳng vượt qua núi, Bảo Phúc chẳng vượt qua cửa ải, liền chắp tay ngồi yên, coi khinh bốn biển. Tới khi nhìn thấy Thuyết Phong ba lần trèo lên núi Đầu Tử, chín lần lên núi Động Sơn, Triệu Châu tám mươi tuổi rồi còn hành cước, họ liền chạy vạy đôn đáo khắp cả Nam Bắc, lang thang một đời. Cả hai loại đó đều sai.

Tâm địa chưa tỏ thì đúng là nên lặn lội ngàn dặm muôn dặm, thân cận Thiện Tri Thức, sao được giữ ngu ngồi suông, ngã mạn tự cao?

Đã vì sinh tử, thăm Thầy hỏi đạo, đâu còn được ngắm non ngắm nước, chỉ khoe khoang đi nhiều biết rộng mà thôi. Người tu sĩ chính nhân hành cước đương nhiên chẳng như thế.

 

113. LĂNG NGHIÊM DO PHÒNG DUNG SÁNG TÁC

Có người thấy Lăng Nghiêm chẳng những nghĩa sâu mà văn cũng lại hay bèn ngờ rằng đó là do Thừa Tướng Phòng Dung sáng tác.

Xét ra Tăng người Phiên người Hán ở Dịch Kinh quán cùng từ thần, Cư Sĩ v.v… không dưới mấy ngàn người mà rồi sau mới thành được một Bộ Kinh, Dung chẳng qua chỉ nhuận sắc lời văn, chứ chẳng phải chuyên chủ nghĩa Kinh.

Giả sử Dung tự đưa ra ý mình, sáng tác Kinh này thế thì Dung vốn đã là Trời của Trời, Thánh của Thánh rồi.

Mà xét các bộ sử về đời Đường thì tài trí của Dung còn chẳng sánh được với Liễu Tông Nguyên, Hàn Dũ, Nguyên Chẩn, Bạch Cư Dị, làm sao mà sáng tác được Kinh Lăng Nghiêm?

Lại vượt lên trên cả Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử, Trang Tử được?

Than ôi! Ngàn đời trăm kiếp mới được gặp một Bộ Kinh chí tinh chí vi, chí huyền chí cực như vậy, chẳng quyết tâm tín thụ mà lại nảy ra tư tưởng nghi ngờ trái khoáy này, thật đáng buồn thay, thật đáng buồn thay.

 

114. QUẢ BÁO

Kinh nói:

Muôn pháp do tâm. Kẻ hiểu lầm câu này thì cho là không tâm thì không nhân không quả, nên chẳng lo có nghiệp, chỉ sợ có tâm.

Có nghiệp không tâm thì cụ Diêm Vương làm gì được ta?

Thế rồi điềm nhiên tạo nghiệp, không còn kiêng dè gì nữa.

Chẳng biết rằng:

Không tâm có hai loại:

tư duy đúng như lý, dụng tâm hết mức rồi tự nhiên mà nhập vào vô tâm Tam Muội, đó thật sự là không tâm. Còn một loại là khởi tâm chế tâm, dường như được không tâm, nhưng tâm lại thành có. Tâm có thì nghiệp có.

Gậy sắt của cụ Diêm Vương vẫn chưa tha cho ngươi đâu?

 

115. QUẢ BÁO

Kinh còn nói:

Bồ Tát đầy đủ trí tuệ, giả sử có bị đọa lạc trong loài Súc Sinh thì làm Vua Súc Sinh, trong loài Ngã Quỷ thì làm Vua Ngã Quỷ.

Kẻ hiểu lầm câu này cho rằng có trí thì có thể chuyển nghiệp, nên chẳng lo có nghiệp, chỉ sợ không trí.

Có nghiệp nhưng có trí, cụ Diêm Vương làm gì được ta?

Bèn điềm nhiên tạo nghiệp, không còn kiêng rè gì nữa, chẳng biết rằng Kinh khen trí tuệ chẳng phải là chỉ thế trí tầm thường.

Hơn nữa ngươi trí tuệ liệu có được như Văn Thù, Thân Tử hay không?

Dẫu chẳng bằng họ, liệu có được như Thiện Tinh, Điều Đạt là hạng dưới họ hay không?

Thiện Tinh học rộng các pháp tụ do mười tám con voi hương tượng chuyên chở, Điều Đạt chứng được La Hán thần thông vậy mà đều chẳng tránh khỏi bị sa xuống Địa Ngục ngay lúc còn sống.

Huống hồ ngươi trí tuệ chưa hẳn hơn được hai người này. Một chén nước chẳng thể dập tắt lửa của cả xe củi, ánh sáng đom đóm chẳng thể xua tan sự tối tăm của hang tối, trí mọn ngày nay hiện diệt được bao nhiêu nghiệp. Gậy sắt của cụ Diêm Vương vẫn chưa tha cho ngươi đâu.

 

116. TÁI ÔNG

Được mất không có định hình, họa phúc dựa dẫm lẫn nhau, một đoạn nhân duyên của Tái Ông mọi người đều biết nhưng chưa hẳn đã tin. Tôi trượt chân vào nước sôi, gân bị co chẳng duỗi ra được, phải dùng đôi nạng làm hai thằng hầu, dường như sẽ phải dùng suốt đời.

Tôi đã làm bài ca Pháp Sư què chân để tự diễu mình, trong đó có câu:

Chỉ lo chân này chẳng què mãi. Thế rồi chân lại duỗi được như cũ, tôi bèn cười mà cho là thi sấm, sấm ký bằng thơ và còn coi đó là thi quy. Lời răn bằng thơ.

Vừa cảm vừa sợ, nguyên không quên câu chuyện bắn móc câu. Câu chuyện Tề Hoàn Công xưa đã bị Quản Trọng bắn trúng cái móc dây lưng suýt mất mạng, nhưng sau chính Quản Trọng đã giúp Tề Hoàn Công lập nên nghiệp bá.

 

117. THẦN THÔNG

Thần thông đại để có ba.

Một là báo đắc.

Hai là tu đắc.

Ba là chứng đắc. Báo đắc là do phúc nghiệp tự dẫn tới, đó là Chư Thiên đều có khả năng nhìn thấu, nghe thấu cùng quỷ cũng có thần thông. Tu đắc là do học tập mà thành, như Đề Bà Đạt Đa học thần thông ở A Nan Tôn Giả.

Chứng đắc là chuyên tâm học đạo, vô tâm học thần thông, đạo đủ thì thần thông tự đủ, chỉ là nhanh hay chậm mà thôi, đó là như các Tổ các vị Thiện Tri Thức từ xưa tới nay. Nếu so ra thì đắc đạo chẳng lo không có thần thông, còn chứng đắc thần thông chưa chắc đã có đạo.

Tiên đức có nói:

Thần thông diệu dụng chẳng bằng A Xà Lê, nhưng Phật Pháp vẫn cần Lão Tăng.

Trong đó là có ý đấy.

Thử lấy ví dụ:

Tước lộc, áo mão, dinh thự, nghi vệ v.v… của quan lại thế gian cũng như thần thông cũng có ba loại:

Loại báo đắc như loại công huân tập ấm, tự nhiên mà có. Loại tu đắc đó là loại do sức người dựa dẫm chạy chọt để thẳng tiến, bị người xưa ghét, vì chẳng đúng với đạo của họ.

Loại chứng đắc đó là loại đạo sáng đức lập, ngôi vị tự nhiên sẽ kèm theo, như lời Trọng Ni đã nói:

Sự học. Trong đó có lộc đấy. Ba loại này hơn kém thế nào có thể biết được.

 

118. ĐẠI HÀO QUÝ NHÂN

Đại hào quý nhân phần nhiều từ trong tu hành mà ra, nhưng có ba hạng:

Hạng thứ nhất là hạng Trì Giới tu phúc và Bát Nhã chánh trí niệm niệm chẳng quên thì kiếp sau tuy ở ngôi cao, ngũ dục đầy đủ nhưng tâm thì luôn luôn tại đạo, đúng là loại gọi là Tăng có tóc.

Hạng thứ hai là hạng Trì Giới tu phúc nhưng niệm Bát Nhã hơi thưa thì kiếp sau sẽ chỉ chơi bời ở cửa pháp mà thôi.

Hạng thứ ba là hạng Trì Giới tu phúc, nhưng dường như coi thường chẳng nghĩ gì tới Bát Nhã thì kiếp sau sẽ bị mê mẩn vì thuận cảnh, bỏ thiện theo ác, thậm chí có kẻ còn báng Phật, huỷ Pháp, diệt Tăng.

Xét nhân địa của đại hào quý nhân thì đều là người tu hành cả. Thế mà sai biệt như vậy, kiếp sau rồi kiếp sau nữa, sự sai biệt ấy còn ra sao nữa. Thật đáng sợ thay.

 

119. THIÊN THAI THANH LƯƠNG 1

Người ta thường nói:

Thiên Thai và Hiền Thủ, tồi đã từng nghiên cứu. Nam Nhạc chỉ nêu những điều khái quát mà muôn mục đều được sáng tỏ hết, thế thì không gì đầy đủ bằng Thiên Thai. Hiền Thủ cầm ngọc hành, một dụng cụ Thiên văn mà ngàn sao hiện ra la liệt, thế thì không gì đầy đủ bằng Thanh Lương.

Đại để là từ khi có Phật Pháp tới nay, Thiên Thai là tập đại thành của Phật Pháp. Cho nên phải lấy hai sự đối đãi với nhau mà đặt tên Tông.

Có người nói:

Đối với tông Thiên Thai thì người ta không hề dị nghị gì.

Nhưng đối với tông Hiền Thủ có người còn chê, đó là vì sao?

Đáp: Chê Hiền Thủ thì trăm điều cũng chỉ đúng một điều mà thôi.

Hơn nữa, trước đây há chẳng nói rồi sao?

Đạo của Hiền Thủ tới Thanh Lương mới đầy đủ.

Thế thì hai Sư Thiên Thai, Thanh Lương ơn như Cha Mẹ, đạo cũng như Cha Mẹ, hơn nữa Thanh Lương mà còn có thể dị nghị được ư?

Người đó chưa đáp.

Tôi cười bảo:

Không cần ngươi phải suy nghĩ cho mệt. Sau Thiên Thai có Thanh Lương, cũng giống như sau Nghiêu Thuấn có Khổng Tử vậy. Thế thì còn gì mà dị nghị nữa.

 

120. THIÊN THAI THANH LƯƠNG 2 

Có người nói:

Kia là Tứ giáo, đây là Ngũ giáo rõ ràng là hai Tông rồi, thế mà cũng có chỗ giống nhau ư?

Đáp:

Chớ cho là hai. Tứ kia với ngũ cũng giống như Ngũ Uẩn, Lục Căn, chỉ là sự chia ra hay gộp lại mà thôi. Tiểu giáo của ngũ giáo đã được đưa vào Tạng Giáo trong Tứ giáo.

Nhưng gọi là Tạng Giáo thì vẫn còn hỗn độn, nên tách riêng ra mà gọi là Tiểu giáo. Đốn Giáo của Ngũ giáo đã được đưa vào trong Viên Giáo của Tứ giáo. Nhưng trực chỉ của Đạt Ma chính là thuộc Đốn giáo, vì muốn cho nó nổi bật lên, nên nêu riêng ra gọi là Đốn giáo. Viên Giáo của hai tông là một.

Còn ý nghĩa thập huyền của Hoa Nghiêm thì Viên Giáo của Tứ giáo vẫn bao hàm ý đó nhưng chưa hết, nên sau tiểu giáo, Chung Giáo, Đốn giáo còn đưa một mình Viên Giáo của nhất thừa lên đứng đầu, đó là có thâm ý như vậy.

Vì mỗi thứ đều có mục đích nhất thời của mình và đều là trình thức của muôn đời, vì vậy mà gọi là hai Tông. Tông thường hai, nhưng đạo chỉ một. Nếu chia rẽ tách bạch ra làm hai thì đó là sai đấy.

 

121. UẤT ĐƯỜNG SƠN CƯ THI

Các vị đại lão là Vĩnh Minh, Thạch Ốc, Trung Phong đều có Sơn cư thi, thơ ở núi, phát minh tự tính, vang dội ngàn xưa. Còn gộp thêm cả khí cách hùng hồn, câu chữ tinh tế thì bốn mươi bài thơ uất đường lại càng tuyệt tác trong các nhà.

Sở dĩ như vậy là vì các bài thơ đó đều xuất phát từ chân tham thực ngộ, tràn trề ở trong mà toát ra ngoài.

Như gió nhẹ lướt qua cây báu ở cõi Cực Lạc, như tiếng đàn cầm bằng ngọc dao của Càn Thát Bà làm rung động trái tim Thượng Đế, chẳng khua mà vang, chẳng vỗ mà kêu. Đó là mực tuyệt duyệt của thơ mà lại chẳng thể đánh giá bằng thơ.

Chẳng chăm cái gốc mà chỉ bắt chước cái ngọn, suốt đời đẽo gọt câu chữ thì có ích gì?

Mong người ở núi hãy học đạo của người xưa, chớ học thơ của người xưa.

 

122. SẮC NÚI

Gần ngắm sắc núi thì màu xanh rờn, trong như màu lam. Xa ngắm sắc núi thì màu xanh biếc, như màu lam ngả sang màu đen.

Sắc núi quả có biến đổi chăng?

Sắc núi như cũ, nhưng tầm mắt thì có dài ngắn xa gần. Từ đây mà xa dần thì màu xanh đổi thành màu biếc, từ xa mà gần dần thì màu biếc đổi thành màu xanh. Thế thì xanh nhờ duyên hội mà xanh, biếc nhờ duyên hội màu biếc.

Chẳng những biếc là huyễn mà xanh cũng là huyễn. Đại để muôn pháp đểu như vậy.

 

123. MỘNG THẤY CUỘC SỐNG

Trong mộng ban đêm phần nhiều thấy các sự vật trong cuộc sống hiện tại, hiếm khi mộng thấy kiếp trước, vì sao vậy?

Đại để là vì mộng do Tưởng mà thành, Tưởng phần nhiều thấy cuộc sống hiện tại, chẳng tới kiếp trước.

Ngay đến Bậc Hiền Thánh Tam Thừa cũng còn có chuyện bị hôn mê chốc lát lúc cách âm xuất thai, huống chi là hạng phàm phu bị đủ thứ trói buộc vừa thoát khỏi một lớp vỏ này, đã vào trong một lớp vỏ khác, từ trong bụng mẹ lộn ngược mà xuống thì làm sao mà còn nhớ được kiếp trước?

Chỉ căn cứ vào những sự vật bời bời trước mắt, ban ngày thì là Tưởng, ban đêm thì là mộng mà thôi.

Còn lúc những vật chưa thấy, những việc chưa làm, những ngôi vị chưa hề trải qua hiện ra trong mộng thì đó là cảnh trí vô thủy, tùy theo sự xoay vần mà như thế, cũng không ai biết vì sao lại như thế. Tưởng ấm đã phá rồi thì thức ngủ luôn luôn là một, may mà cùng nhau dốc sức vào đó.

 

124. TĂNG LỄ SÁM

Có người Tu Tịnh Độ Sám Pháp, một vị Tăng bảo rằng:

Kinh chẳng nói rồi ư:

Nếu ai muốn sám hối thì ngồi ngay ngắn niệm thực tướng.

Cớ sao lại lạy như búa bổ thế?

Sám giả hỏi:

Thế nào là thực tướng?

Tăng đáp:

Tâm chẳng khởi vọng tức là thực tướng.

Lại hỏi:

Tâm là vật gì, còn vọng là vật gì?

Thứ chế ngự được tâm là vật gì?

Tăng không trả lời được.

Sám giả nói:

Tôi nghe nói:

Sám lấy Lý làm chính, lấy Sự làm phụ trợ, tuy niệm thực tướng mà ba nghiệp vẫn siêng thì cũng chẳng trở ngại gì đến nhau.

Vì sao vậy?

Vì người tu hành sơ cơ chưa thể bỗng chốc tương ứng ngay với thực tướng được, cần phải mượn ngoại duyên phụ trợ.

Đó chính là điều mà Pháp Hoa đã nói là:

Ta dùng phương tiện lạ để giúp cho việc hiển thị đệ nhất nghĩa.

Khởi tín luận cũng nói:

Chúng Sinh Mạt Pháp mà tu pháp này tự sơ chẳng thường xuyên gặp Phật. Như Lai Thế Tôn có phương tiện lạ bảo họ Niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ.

Cho nên biết Tịnh Độ Sám Pháp của Từ Vân Đại Sư đã cân nhắc cổ kim, cực kỳ tinh mật, cùng các sám pháp của Pháp Hoa, Quang Minh đều sự lý cả hai đều đầy đủ, người Trời đều khâm phục. Đó là đuốc báu lớn soi sáng con đường tối tăm thời Mạt Pháp.

Hơn nữa, trị sinh sản nghiệp chẳng trái với thực tướng, đó có phải là lời Phật dạy hay không?

Tăng đáp: Đúng thế.

Hỏi: Thế thì lễ sám chẳng bằng trị sinh sản nghiệp ư?

Tăng lại không trả lời được.

 

125. CHỈ QUÁN CỦA NAM NHẠC

Trong Đại Thừa chỉ quán của Nam Nhạc có dẫn lời văn Khởi tín luận nói:

Ba là tác dụng to lớn, vì có thể sản sinh ra nhân quả thiện ác thế gian và xuất thế gian. Khởi tín luận vốn không có chữ ác, đọc Đại Thừa chỉ quán khiến người ta sửng sốt.

Hơn nữa, tính ác tuy là tông chỉ của cả tông Thiên Thai, nhưng Từ Vân bảo rằng:

Nam Nhạc xa thì kế thừa Ca Diếp, thứ nữa thì kế thừa Mã Minh. Mà Mã Minh là Cổ Phật thị hiện là Bát Địa, còn Nam Nhạc là bậc dị đức tên được liệt vào hạng Thần Tăng, chẳng nên Thánh trước Thánh sau trái ngược với nhau.

Hơn nữa, Khởi tín luận lời gọn nghĩa nhiều, từ tinh lý cực, tổng quát các Kinh liễu nghĩa của Đại Thừa, mỗi chữ mỗi câu không thể tăng giảm tùy tiện được. Ngài Nam Nhạc kia chỉ tự mình sáng tác ra chỉ quán mà thôi, nay dẫn khởi tín chính là đưa ra cội nguồn, chứng minh là có căn cứ, vậy mà lại thêm thắt vào chữ mà bản văn không có.

Liệu có lý này không?

Ắt chỉ là do người sau làm chuyện đó mà thôi. Có người bảo sách này do Từ Vân tự mình khắc in, hẳn không lẫn lộn.

Ôi. Biết đâu chẳng phải sau Từ Vân, còn có người sau thêm vào. Ta dẫu chí ngu, cũng biết chắc rằng Nam Nhạc chẳng sửa khởi tín. Xin các bậc cao minh giải thích rõ thêm.

 

126. HÀN XƯƠNG LÊ TỨC HÀN DŨ

Thế gian đồn rằng Xương Lê ban đầu bài Phật, sau gặp Đại Điên, bỗng có sự ngộ nhập.

Song nghiên cứu văn tập của ông, thấy có đoạn viết:

Gần đây đồn rằng dũ này hơi tin thích thị, tin đồn này là sằng bậy. Người Triều Châu không có ai để có thể trò chuyện được, Tăng Đại Điên khá thông minh, biết đạo lý, nên Dũ chơi với ông ta.

Khi ông về đã lưu lại y phục để từ biệt, đó là tình của con người, chứ chẳng phải là sùng tín đạo của ông ta, cầu phúc điền lợi ích.

Xem đoạn này thì thấy ông ta vẫn chẳng tin như cũ, vậy thì ngộ nhập ở chỗ nào?

Tuy vậy nếu căn cứ vào ảnh hưởng thị hiện, nghịch thuận tán dương thì cũng chẳng thể lường được, biết đâu chẳng phải là Xương Lê cố ý làm điều này để dẫn phát nhân duyên?

Nếu chẳng có Xương Lê bài Phật, thì từ đâu mà có chuyện Minh Giáo phê phán cái sai của Hàn?

Chuông nhân đánh mà tiếng mới to, nến nhờ cắt mà càng thêm sáng. Cho nên chưa thể mạnh miệng cao đàm khen chê nhân vật được.

 

127. TỈNH TỊCH

Chỉ quán quý chuộng quân bình, thế là đúng đấy. Dẫu Bậc Thánh Nhân có nổi dậy lại, cũng chẳng thể thay đổi được.

Có người hơi triết trung nói:

Kinh nói:

Nhân định phát tuệ. Thế thì chỉ là quan trọng. Vì vậy cứ dập khuôn theo nhau mà thành nếp, người tu hành phần nhiều chủ trương tịch tĩnh.

Chỉ có Vĩnh Minh đã đưa ra thuyết tinh trinh tỉnh táo, tịch tịch vẳng lặng, tịch tịch tinh tinh để thuyết minh về quân bình và đoạn văn sau nói:

Tinh tinh tỉnh táo là chính, tịch tịch vẳng lặng là phụ trợ.

Thế thì đó rõ ràng là kiến giải độc đáo, từ xưa tới nay, không hề có ai nói đến. Từ đó về sau Tông Môn dạy người ta khán thoại đầu, mà Diệu Hỉ quở trách mặc chiếu là tà thiền, chính là ý này.

Cho nên Phật được gọi là Đại Giác, Chúng Sinh bị gọi là bất giác. Giác là Tinh tĩnh vậy. Ý của Vĩnh Gia vi diệu thay.

 

128. NGUỒN GỐC CỦA ĐẠO

Có người hỏi:

Đạo Đức Kinh nói:

Ta chẳng biết tên nó, dùng chữ mà gọi nó là đạo. Thế thì cái từ đạo bắt đầu từ Lão Tử, rồi muôn đòi cứ theo như thế. Cái gọi là Đạo trong Kinh Phật cũng không gì trái được.

Thế thì thế nào?

Đáp:

Gắn vào Kinh Dịch thì có câu:

Lý đạo thản thản, đi đường bằng phẳng.

Ghi ở Kinh Thư thì có câu:

Tất cầu chư đạo, ắt cầu ở đạo.

Vịnh ở Kinh Thi thì có câu:

Chu đạo như chỉ, đường Nhà Chu bằng phẳng như đá mài.

Năm ngàn lời chưa xuất hiện, danh từ đạo đã được đặt ra trước rồi.

Huống hồ cái mà Đạo Đức Kinh kia gọi là Đạo lại là theo phép tắc của tự nhiên. Nếu như đó là trống rỗng không có nguồn gốc, tự nhiên mà sinh ra Đạo thì Thanh Lương phê phán là vô nhân không có nguyên nhân.

Nếu như đó có nguồn gốc từ tự nhiên, rồi mới sinh ra Đạo thì Thanh Lương phê phán là tà nhân. Vô nhân tà nhân thì đều là dị đoan mà thôi, chứ chẳng phải là cái mà Phật gọi là Đạo. Phật đạo thì muôn pháp do ở tự tâm, chẳng phải là tự nhiên, chẳng phải chẳng tự nhiên.

Cái mà Kinh gọi là A Nậu Đa La Ta Miệu Tam Bồ Đề là đạo cả vô thượng. Chính giác, còn chẳng phải là tự nhiên, huống chi là thứ theo phép tự nhiên.

 

129. BỔ TÁT CHẲNG HIỆN THỜI NAY

Trộm thấy làm lạ vì thấy thời nay kẻ tạo nghiệp thì nhiều, người tin Đạo thì ít, Bồ Tát độ sinh không ngừng, cớ sao chẳng phân thân thị hiện để hóa dụ quần mê?

Hơn nữa, xưa Phật Pháp truyền sang phương Đông, từ Hán Ngụy cho tới Tống Nguyên, các bậc Thiện Tri Thức ra đời đông như vảy cá. Cuối Nguyên đầu Minh, còn thấy một vài vị.

Gần đây cớ sao im ắng không thấy một ai?

Như Ngài Địa Tạng nguyện độ hết mọi Chúng Sinh, Ngài Quán Âm tự xưng không cõi nào không hiện, há nỡ bỏ rơi các Chúng Sinh chưa được độ và cũng có cõi chẳng hiện ư?

Ngẫm nghĩ thật lâu mới biết Bồ Tát tùy duyên độ sinh, Chúng Sinh vô duyên thì chẳng thể độ. Ví như trăng ở trên Trời vốn không có tâm đoạn tuyệt với nước, tự nước chẳng trong thì trăng chẳng hiện.

Huống hồ ngày nay Mạt Pháp dần sâu, tâm cấu, cáu bẩn trong tâm ngày càng quá quắt, Bồ Tát vốn lúc nào cũng độ sinh nhưng Chúng Sinh không có đất để được độ.

Thế thì bên dòng nước đục mà cầu trăng sáng, đâu có thể được?

 

130. NHƯ LAI CHẲNG CỨU NGHIỆP SÁT SINH

Lại nữa, thời nay tạo nghiệp, chỉ có nghiệp sát sinh là ghê gớm nhất. Không kể bốn biển rộng lớn, chỉ riêng một ấp này trong một ngày số sinh mệnh như bò dê chó lợn, ngỗng, vịt, cá mú, ba ba bị giết đã có tới hàng ngàn hàng vạn rồi, hạng bé nhỏ thì không sao đếm xuể.

Còn xuân thu nhị kỳ, cúng Trời Đất, thờ Quỷ Thần, cúng tế Tổ Tiên, báo đức báo công với Tiên Thánh Tiên Hiền, số sinh vật bị giết để sử dụng vào việc thờ cúng không biết bao nhiêu mà kể. Vậy mà Trời Đất chẳng xót, Quỷ Thần chẳng thương, Tổ Tiên chẳng biết, Tiên Thánh Tiên Hiền chẳng ngầm ngăn cấm.

Đến như Như Lai lòng nhân che khắp Trời Đất, đức từ bao dung cả Quỷ Thần, ơn vượt Tổ Tiên, đức trên Hiền thánh, sao chẳng thị hiện một chút thần thông, hoặc khiến kẻ sát sinh phải chịu ác báo nhãn tiền, hoặc khiến ác báo giáng trả lại ngay chính bản thân người đó. Như thế thì ai mà chẳng run sợ hối cải.

Vậy mà lại thờ ơ dường như không hề hay biết là nghĩa làm sao?

Ngẫm nghĩ hồi lâu, mới biết lũ bò dê v.v… ngày nay vì xưa kia tạo nghiệp sát sinh, nên bị quả báo tại loài Súc Sinh. Còn bọn đồ tể kia chính là những kẻ trước kia bị giết đã chuyển làm kẻ hay giết, nhân duyên hội ngộ, mới thỏa tấm lòng. Định nghiệp sui khiến nên thế, không ai có thể cứu được, chờ khi nghiệp tận rồi báo mới đứt.

Dẫu là Trời của Trời, Thánh của Thánh cũng chẳng làm gì được. Huống hồ báo cũ mới bình, hoạ mới lại gây, nhân quả theo nhau, ta chẳng biết tới lúc nào mới kết thúc.

Vả lại, sự đã qua không ai khuyên can được, nhưng sự chưa tới thì còn có thể kịp. Thế thì nay hãy đoạn trừ cái nhân sát sinh, sau này sẽ không bị quả báo của việc sát sinh.

Lời giáo huấn rõ ràng của Như Lai sáng tỏ như Mặt Trời như sao sáng, vì Chúng Sinh mà cứu sát nghiệp, há chẳng hết mức ư?

 

131. THÊM BỚT VĂN TỰ NGƯỜI XƯA

Ngẫu nhiên đọc một tập dã sử cùng các bài thơ bài kệ răn đời của các bậc tiền bối ở chỗ người bạn, thấy có nhiều chỗ thêm bớt vào văn cũ.

Nhân nghĩ tới trước thuật cổ kim, thư tịch Nho Gia trừ Sáu Kinh, Luận Ngữ, Mạnh Tử, Kinh Điển Nhà Phật trừ Kinh Luận của Phật, Bồ Tát cùng các thứ có xuất xứ từ các vị đại lão nổi tiếng hiển hách nhất thì chẳng dám động đến.

Số còn lại cũng hay bị tuỳ ý thêm bớt. Xét ra lưu thông thiện pháp, lợi tế Chúng Sinh, đó là quả thực là xuất phát từ tâm ý tốt đẹp.

Thế mà lại uỷ nhiệm cho người khác, sai họ hiệu thù, để đến nỗi như vậy.

Nguyện tự mình đích thân việc đó. Nếu có tâm cẩn trọng, ắt sẽ có người giúp đỡ.

 

132. VÍ DỤ RẮN ĐỘC

Xưa Phật đi giữa ruộng đồng, nhìn thấy cái đãy rơi ở dưới đất, bèn trỏ vào đó và nói:

Rắn độc. Rắn độc. Nói xong, đi thẳng. Có người dân cày vác cuốc tới đánh thì lại là cái đãy bị đánh rơi, y bèn cầm lấy mang về, được mấy dật vàng, rất đỗi vui mừng vì đã vượt quá cả điều mà y ước mong.

Ít lâu sau, chuyện đó đến tai Vua, Vua ra lệnh bắt phải nộp quan, cho là dâng ít giấu nhiều, đánh đập tra khảo khiến y bị khổ sở đủ điều, Vua cứ đòi hỏi mãi không thôi, khiến ngay cả gia sản của y cũng đều bị hết sạch.

Bữa khác gặp Phật, y bèn khóc lóc sụt sùi nói:

Cù Đàm nói dối tôi. Cù Đàm làm tôi bị lầm lỡ.

Phật nói:

Nói với ngươi là rắn độc, thế thì đó có phải là rắn độc hay không?

Than ôi!

Những người bị rắn độc cắn ngày nay rất đông. Bị rắn cắn mà không hối và những kẻ lại bị cắn nữa cũng rất đông. Há chẳng chỉ có một mình người dân cày đó đâu.

 

133. ĂN THỊT (1)

Có vị Tăng học Kinh Lăng Già, ngẫu nhiên hội họp cùng Tăng Tục. Một vị Cư Sĩ là Nho Sinh, đã bỏ thịt ăn chay, bè bạn xúm lại đùa bỡn trêu chọc.

Vị Tăng học Kinh Lăng Già kia chẳng những chẳng hiểu dụng lý đùa bỡn trêu chọc của mọi người, trái lại còn phụ hoạ theo khuyên mời vị Nho sinh đó ăn thịt. Vị Nho sinh này chẳng thể đừng được, nể cũng phải gắp một gắp.

Ôi. Vị Tăng đó ngày khác đọc Kinh Lăng Già tới chỗ Phật dạy rằng:

Có vô lượng nhân duyên chẳng nên ăn thịt thì chẳng biết còn mặt mũi nào nữa.

 

134. ĂN THỊT (2)

Người thế gian đối với bạn bè thân thuộc nếu thấy có ai bỏ thịt ăn chay thì nếu chẳng kinh ngạc cho là kỳ cục thì cũng chê cười cho là ngu.

Xét ra con người cùng với súc vật đều cùng là một đống thịt như nhau cả. Người thịt chẳng ăn thú thịt, đó là thiên lý nhân tình ắt phải như thế, cũng có gì là lạ, huống hồ lại cho đó là ngu.

Ôi. Chúng Sinh thật là mê muội hết mức.

 

135. TÀO KHÊ CHẲNG ĐOẠN TƯ TƯỞNG

Có người tụng kệ của Lục Tổ nói rằng:

Huệ Năng không tài cán, chẳng đoạn trăm tư tưởng. Đối cảnh, tâm số khởi.

Bồ Đề sao tăng trưởng?

Bèn dương dương tự cho là đã nắm được ý nghĩa, liền định buông thả thân tâm, không hề ngần ngại.

Trong cử toạ có một vị Cư Sĩ mắng rằng:

Bài kệ đó của Đại Sư, đó là dược ngoạ luân cố thể đoạn trừ được bệnh tư tưởng. Ngươi chưa có bệnh này, uống bậy thuốc này thì thuốc này lại thành ra bệnh đấy.

Lành thay. Lời ấy.

Nay lại ví dụ thêm nữa:

Việc Tào Khê chẳng đoạn tuyệt trăm tư tưởng cũng ví như gương sáng chẳng đoạn trăm tư tưởng ví như lụa trắng chẳng đoạn tuyệt với năm màu. Tào Khê tâm số khởi lên trước cảnh cũng ví như hang trống gặp tiếng hô thì âm thanh dậy lên.

Người nay tâm số khởi lên trước cảnh cũng ví như cây khô gặp lửa thì bốc khói. Những kẻ chẳng suy nghĩ về mình mà tự mình phục thuộc vào Tiên Thánh lúc rảnh hãy thử nghĩ một chút xem.

 

136. TỨ TRI

Trời biết, đất biết, ông biết, tôi biết, đó là lời Dương Bá Khởi. Người bình luận bảo rằng cái biết của người và của mình khác hẳn nhau, Trời Đất thì không có hai cái biết. Lúc ít tuổi, tôi cũng cho là thế, sau đọc Phật mạ ý Kinh trong nội điển có thuyết tứ tri đúng là giống với lời này.

Vì trong đó nói rằng:

Thiên Thần biết, Địa Thần biết, tâm kẻ đó biết, tâm ta biết.

Phẩm Thế chủ Kinh Hoa nghiêm:

Chủ Trời, chủ đất, chủ ngày chủ đêm, chủ núi, chủ biển v.v… thảy đều có thần. Thế thì thuyết của Bá Khởi chẳng phải là sai. Cho nên biết lời tiên hiền chẳng thể bình luận khinh suất được.

 

137. TỨ ĐẠI NGŨ HÀNH

Ngũ hành tại thế gian, đó là xuân, hạ, thu, đông và trung khí, đông Tây Nam Bắc và Trung Phương, là sợi dọc của Trời, là sợi ngang của đất, là lý tự nhiên và cũng là thế tất nhiên. Thế mà Kinh Phật chẳng gọi là Ngũ Hành, mà lại gọi là Tứ Đại.

Người thuyết giải nói:

Địa, thuỷ, hoả thế là đã có ba hành trong ngũ hành rồi. Kim thì đưa vào Địa, Mộc đưa vào Phong. Thế thì Tứ Đại chưa hẳn là không phải Ngũ hành. Thuyết này quả là đúng, nhưng chưa hết. Trong vũ trụ thì liệt kê ra Ngũ hành là đủ rồi.

Nhưng bàn chung cả ngoài vũ trụ và tóm tắt tất cả quá trình:

Thành, trụ hoại, không tới hết mức thì Tứ Đại mới đủ để khái quát, nhưng mà vẫn chưa hết. Phải là Địa, Thuỷ, Hoả, Phong, rồi tiếp theo là không, thức, niệm nữa mà thành ra thất đại.

Vì sao mà nói thế?

Vì chất của đại đọng chắc nhất, chất của thuỷ chẳng rắn chắc nhưng lại trôi chảy, chất của hoả đại tuyệt đối chẳng thể cầm nắm sờ mó được, còn phong thì có khí nhưng không có chất, không thì ngay cả khí cũng không có, sau đó họp về ở thức, phát động ở Niệm, từ thô Tháp tới vi tế, gọi chung là thất đại thì mới hết.

Ngũ hành kia Địa, Thuỷ, Hoả Phong phân bố mà thành Trời, thành đất, thành nhân vật. Ngũ hành hẹp, còn Tứ Đại thì rộng.

 

138. THẾ GIỚI

Nhớ xưa thời còn là trẻ con, cùng các trẻ con chơi đùa có hỏi đố nhau rằng:

Chỗ tận cùng của Trời Đất trạng thái ra sao?

Có phải là khoảng không tất cả đề cực kỳ trống rỗng chăng?

Nếu phải, thì khoảng không ấy dừng lại ở đâu?

Có phải là khối rắn chắc như tường vách chăng?

Nếu phải thì khối rắn chắc ấy dừng ở đâu?

Bọn trẻ đều không trả lời được, đều cười xoà rồi thôi. Riêng ta trong bụng vẫn cứ thắc mắc. Cái mà sách Sơn Hải Kinh kia gọi là Đông Tây cách nhau hai ức dặm, Nam Bắc cách nhau một ức năm vạn dặm, chỉ chiếm cứ một phương, quả thực chỉ như lấy ống dòm Trời mà thôi.

Sau đọc nội điển, chỉ Kinh Phật, tới câu:

Hư không chẳng thể hết, Thế Giới chẳng thể hết, ý mới sáng ra và cho rằng nếu chẳng phải là Phật thì chẳng thể nói được.

Ôi. Câu đó không dễ nói.

 

139. NIÊN KIẾP

Nhân Thế Giới mà suy ra niên kiếp, từ thời nay ngược trở lại thời xưa thì thời xưa bắt đầu từ đâu?

Từ nay suôi về mai sau thì mai sau kết thúc ở đâu?

Thái cực đồ kia nói:

Thái cực sinh lưỡng nghi, sinh ngũ hành, sinh vạn vật. Thế thì thái cực là bắt đầu. Sách Kinh thế thư ước tính số của một nguyên tổng cộng là mười hai ức chín ngàn sáu trăm năm. Thế thì nguyên sơ là bắt đầu.

Nhưng thái cực lại bắt đầu từ đâu?

Nguyên sơ lại bắt đầu từ đâu?

Giả sử giống như thứ tự của thời gian thì trước năm nay có năm ngoái, rồi đến năm ngoái của năm ngoái, vậy ai là Thuỷ tổ tối sơ đâu là điểm đầu tiên?

Hơn nữa, lúc nào là thời điểm rốt ráo tận cùng, là điểm kết thúc mãi mãi chẳng còn bắt đầu trở lại nữa?

Nếu hỏi thế thì ta mù mờ như say. Sau đọc nội điển tới chỗ Phật nói là vô thuỷ, lại nói là kiếp số chẳng thể hết thì ta mới sáng tỏ và cho là ngoài Phật ra chẳng ai có thể nói được cái ý này.

Ôi. Đó cũng lại là những điều không dễ nói.

 

140. HỌC ĐẠO KHÔNG GÌ ƯU TIÊN BẰNG TRÍ

Hàn Tín là kẻ sĩ nước Sở, đã phản bội Sở mà theo Hán, Sở cuối cùng đã khốn đốn vì Tín, còn Hán thì nhờ Tín mà hưng thịnh. Xét ra trước sau chỉ một Tín đó mà thôi, vậy mà sự thịnh suy của hai nước đều vì con người đó, thế thì do khéo dùng hay chẳng khéo dùng vậy.

Lục căn ở người nếu chẳng khéo dùng thì gọi là Lục tặc, nếu khéo dùng thì sẽ là đủ thứ diệu dụng thần thông.

Phiền não tức Bồ Đề, há chẳng đúng sao?

Tuy vậy Cao đế đối với Hàn Tín thoạt đầu thì đối đãi với Tín vẫn coi là người tầm thường, nhưng Tiêu tướng quốc đã coi là bậc kỳ tài. Rồi sau này khi Tín xin được làm giả vương, Cao đế không cho, suýt nữa thì hỏng việc, nhưng sau nhờ Lưu Hầu tác thành cho.

Thế thì việc bổ cứu những điều thiên lệch tệ hại, ngấm ngầm chuyển hóa duy trì, đó chính là lực của người bề tôi mưu trí. Học đạo không gì ưu tiên bằng Trí cũng lại như vậy.

 

141. ĐẠO TRÀNG PHÓNG XÁ

Việc phóng xá trong Đạo Tràng hai môn Tăng Đạo cũng có khi làm.

Xét ra Đạo Giáo tôn thờ Thiên Đế, chẳng biết làm việc xá này là người nào?

Việc thống lĩnh người thế gian ở dưới hạ giới là cung Trời Đao Lợi, nay Đạo Sĩ tự làm chuyện này, há chẳng phải gần như là giả truyền Thánh chỉ ư?

Tăng thờ Phật, mà Phật thì ở trong Thường Tịch Quang, rốt cuộc làm Vua nước nào, đóng đô ở thành ấp nào, thống lĩnh thần dân nào, chiếu sắc chế cáo do quan liêu nào viết ra. Thế mà Tăng lại bắt chước bọn Đạo Sĩ làm ra xá thư, đó thật là chuyện rất đáng nực cười.

Tăng chẳng ai biết điều đó là sai, trai gia nhà làm chay cũng không ai biết điều đó là sai, thế là nghĩa làm sao?

Nếu không thôi được thì có một cách:

Tâu xin với Trời, xin Trời ban xá, còn cho hay không, chỉ có Trời chủ trì việc ấy mà thôi.

Còn như Phật thì từ bi che khắp giống như hư không, không một Chúng Sinh nào không độ, còn cần gì đến phóng xá nữa.

 

142. THỦY LỤC NGHI VĂN

Nghi thức và văn cúng ở đàn chay Thủy Lục.

Đàn chay Thủy Lục là nghi lễ long trọng để phổ độ Chúng Sinh.

Kim sơn nghi văn tương truyền xưa ở Đại Tạng Phóng quang:

Bộ Đại Tạng ngày nay không có bài văn này.

Thời đại xa rồi, chẳng thể khảo cứu được, chưa biết có phải đều do Lương Võ Hoàng Hưu Luật Sư viết ra hay không?

Còn như điều mục trước sau, cặn kẽ thành chương, phàm Thánh cùng bày, gọn mà bao quát hết được, lời lẽ nghĩa lý cả hai đều được thì vãn của Tứ Minh Bàn sư biến tập gồm sáu quyển là thỏa đáng hơn cả.

Huống hồ Kim Sơn thì tốn kém nhiều mà lại khó cử hành, còn Tứ Minh thì tốn ít mà dễ thành, chính là nên lưu thông vô tận. Vậy mà tất cả thế gian không ai thi hành theo Tứ Minh.

Các quận vùng Triết Giang cũng không ai thi hành, chỉ có vùng này thi hành, nhưng lại chẳng trực tiếp theo đúng nguyên bản, đã thêm văn thừa, pha tạp thêm việc thừa vào, còn những chỗ quan trọng thì lại sơ lược, thật đáng cảm khái.

Chỉ có chỗ Thuyết Pháp khai đạo ở quyển thứ năm đã trình bày đầy đủ ý nghĩa của Tam Quán, nhưng dường như hơi quá phồn mật. Giá như được giản trực dễ hiểu hơn thì âm dương ngu trí đều được lợi cả không sót một ai.

Như vậy thì chắc chắn tận mỹ, hơn nữa còn tận thiện.

 

143. THẤY LỖI CỦA TĂNG

Thế gian có câu:

Con người ta chẳng nên thấy lỗi của Tăng. Thấy lỗi của Tăng là đắc tội. Song Khổng Tử là Bậc Thánh Nhân may mà người ta biết lỗi của ông. Quý Lộ là người hiền vui mừng được nghe nói đến lỗi lầm của mình.

Cớ sao Tăng lại sợ người ta biết và chẳng muốn nghe?

Đại để chẳng thấy lỗi của Tăng, đó chỉ là lời nói của bạch y Phật Tử Tại Gia mà thôi chứ chẳng phải là lời của Tăng. Tăng ỷ vào câu này làm bậy mà không còn kiêng kỵ gì. Thế thì lời này là thuốc hay của bạch y, nhưng lại là thuốc độc của Tăng rồi.

Buồn thay.

 

144. TÂM CHẲNG Ở TRONG

Lăng Nghiêm Trừng Tâm nói rằng tâm chẳng ở trong, đó là chỉ Chân Tâm. Nếu là vọng tưởng tâm thì cũng có thể nói là ở trong. Ý này vi diệu, chưa dễ gì nói với kẻ chẳng biết.

Sách thế gian nói rằng:

Tâm chứa thần. Thần tức là tên gọi khác của vọng tưởng, thứ mà sách đó gọi là tâm đó là chỉ cục thịt mà thôi. Có người Nghĩa Học nghe ta nói thế, lắc đầu chẳng tin.

Nay xin lấy sự mà chứng minh:

Người ngủ say, nếu đùa lấy vật gì đè lên tâm họ thì họ cũng bị ếm bóng đè ngay. Hoặc tự tay họ úp nhầm lên tâm cũng bị ếm. Lại đùa mà vẽ lên mặt người đang ngủ thì có khi thậm chí bị ếm chết. Đó là bằng chứng rõ ràng chứng minh là tâm ở trong.

Nghĩa Học nói:

Như thế thì Chân Tâm, vọng tâm thành ra hai vật rồi.

Ta nói:

Ông chỉ biết Chân Vọng chẳng phải hai, chẳng biết Chân Vọng một mà thường hai, hai mà thường một.

Ông chẳng xem nước và băng ư?

Nước, băng chẳng phải là hai, ai chẳng biết thế. Thế mà khi nước đã thành băng, nước trôi chảy mà không có phương hướng nhất định, còn băng đóng chắc và có nơi chốn thường xuyên.

Chân không phương, vọng có chỗ, cũng giống như vậy. Vọng khởi theo Chân, ngoài Vọng không Chân, do nước hết băng, ngoài băng không nước, cho nên Thể của nó thường là một, mà Dụng của nó thường là hai vậy.

Nghĩa Học nói:

Đó là ý kiến của ông, rốt cuộc trái với Lăng Nghiêm, phải có chứng cứ mới được.

Ta nói:

Có chứng cứ. Chứng cứ ở ngay trong Kinh Lăng Nghiêm. Chỉ tại các ông chẳng xem xét kỹ mà thôi.

Kinh nói rằng:

Hễ mê là tâm, quyết định hoặc là ở trong sắc thân. Tuy ở trong sắc thân, không trở ngại gì đến việc thể hiện ra ở khắp Mười Phương. Đúng vào lúc ở khắp Mười Phương đó, cũng chẳng trở ngại gì đến việc thị hiện ở trong thân.

Ý này ai vọng tưởng phá hết thì mới có thể chứng được, tôi và ông vẫn còn ở trong vọng tưởng. Vậy hãy chấm dứt việc tranh luận đi.

 

145. GỐC RỄ CỦA SINH TỬ

Hoàng Lỗ Trực nói:

Thâm cầu thiền duyệt, chiếu phá gốc rễ của sinh tử thì lo sợ dâm giận không còn có chỗ nào mà đặt chân được, cứ làm cho gốc rỗ khô đi thì cành lá sẽ phải tự héo.

Đây là lời bàn chí lý, nhưng chưa nói rõ cái gì là gốc rễ của sinh tử. Thêm nữa dưới Thiền duyệt, quan trọng là ở chữ chiếu phá.

Nếu đắc thuyền duyệt rồi, liền cho là đã đủ hết mức, rồi nội thủ u nhàn thì đó chính là gốc rễ của sinh tử đấy. Cần phải ra sức tham cứu đến cùng, nhìn thấy rõ ràng bản tính của mình, thế thì sinh tử mới không có chỗ mà đặt chân được.

Sinh tử còn không có chỗ đặt chân thì lo sợ dâm giận do đâu mà sinh được.

 

146. NGƯỜI TỀ

Tử Dư thị đặt ra câu chuyện ví dụ về người nước Tề, rõ ràng tựa như một cuộn tranh, lại giống như một tấm tuồng. Cách miêu tả hình dung thể hiện đầy đủ mọi vẻ xấu xa của người nước Tề đó. Ai đọc bài này mà chẳng cảnh tỉnh hối ngộ thì kẻ đó là gỗ đá.

Tuy vậy, danh lợi vốn là sự thường tình của thế gian đối với người Tại Gia cũng chẳng đáng để trách cớ nặng nề.

Nhưng người Xuất Gia mà lại như người nước Tề, thì ta chẳng biết tâm họ là gì nữa.

Than ôi!

Thương thay.

 

147. CHÍ THÀNH CẢM ĐỘNG ĐƯỢC NGƯỜI KHÁC

Dương Hựu gửi tặng rượu cho chủ soái quân địch, mọi người bên địch đều nghi ngại, chủ soái địch uống mà chẳng nghi, nói:

Đâu có chuyện Dương Thúc Tử, tức Dương Hựu đầu độc người khác?

Nếu chẳng phải là sự Chân Thành vốn được tin cậy, thì làm sao có thể cảm động được người tới mức đó. Nay những ai đã mang Danh Hiệu là Phật Tử thì việc thủ tín với Chúng Sinh sáu đường phải như vậy mới được.

Lại còn chuyện Đường Văn Hoàng thả tử tù, hẹn ngày phải quay lại, họ đã quay lại đúng hẹn. Dẫu người sau có bàn luận bài bác việc này.

Nhưng tóm tắt lại là việc làm này của Văn Hoàng quả thực là việc ngàn xưa hiếm có, làm sao có thể chê trách được?

Chẳng phải là sự Chân Thành vốn đã được tin cậy thì làm sao có thể cảm hóa người đến mức ấy.

Những người mang Danh Hiệu Phật Tử ngày nay cũng phải không nghi Chúng Sinh sáu đường giống như vậy thì mới được.

Kinh Dịch nói rằng: Trong lòng thành tín cảm hóa được ngay cả lợn, cá thì đó là điều tốt lành. Lấy hai sự kiện nói trên mà xét thì ta thấy đúng là như vậy.

 

148. THÂN VỚI THIỆN TRI THỨC

Tiên đức nói rằng:

Thí dụ như người ăn mặc rách rưới cầm đuốc, chẳng vì người đó ăn mặc rách rưới, mà chẳng cần người đó soi sáng cho. Đây tức là ý câu chẳng vì người mà bỏ lời của Khổng Tử.

Những kẻ tạ khẩu vin vào đó bèn bảo rằng:

Thầy chẳng nhất định phải chọn người hiền, chỉ nhờ học thức ngôn luận của Thầy là đủ rồi. Nếu bản thân Thầy chẳng có đức thì cũng có can dự gì đến ta đâu. Thế rồi cứ theo mà chẳng trái. Nào có biết chi lau, cá, mắm tiêm nhiễm dần dần thì thành tính.

Luận Ngữ nói: Chẳng vì người mà bỏ lời.

Lại nói: Nương tựa đúng người đáng thân, điều đó cũng đáng noi theo. Sao chẳng gộp lại mà xem.

 

149. NIỆM PHẬT CHẲNG CHUYÊN NHẤT

Xưa lúc ta đang trong trường rèn luyện, bấy giờ Phương Trượng bảo với mọi người rằng:

Ngày Trung Nguyên rằm tháng bảy sẽ làm chay Vu Lan Bồn. Ta tưởng là sẽ bầy lễ cúng. Thế rồi không bày biện gì cả, chỉ Niệm Phật ba ngày mà thôi.

Lại nghe nói xưa có viện chủ bị quan nha bắt. Viên thủ tọa trong trường bèn họp mọi người lại để cứu hộ. Mọi người tưởng là trì tụng, cũng chỉ cất cao giọng Niệm Phật mà thôi. Hai sự này khác hẳn thường tình, có tác phong của bậc Đại Nhân, thật đáng học tập.

Nay họ Niệm Phật tiếng là chuyên tu, nhưng để cầu thọ mệnh thì niệm Kinh Dược Sư, để giải tội khiên thì niệm Lương Hoàng Sám, để trừ ác nạn thì niệm Tiêu Tai Chú, để cầu trí tuệ thì niệm Quán Âm văn, còn những điều Niệm Phật trước kia thì họ gác hẳn lại, dường như không bổ ích gì cho sự việc.

Họ chẳng nghĩ Phật đó thọ mệnh vô lượng, huống chi là trăm năm thọ mệnh?

Chẳng nghĩ Niệm Phật đó có thể diệt trừ được tám mươi ức kiếp tội nặng, huống chi là tội cấu ách nạn trước mắt?

Chẳng nghĩ tới lời Phật dạy:

Ta dùng ánh trí tuệ, chiếu rộng vô lượng cõi, huống chi là thứ mà người đời gọi là trí tuệ?

Thuốc A Già Đà, tổng trị muôn bệnh. Tâm kia chẳng chuyên, chẳng chịu tín phục. Thần thánh khéo léo, há làm chi được.

 

150. TRÒ VUI 

Có người nói rằng:

Chẳng làm trò vui và chẳng tới xem nghe. Đó là Luật Sa Di, chứ chẳng phải là Bồ Tát đạo. Xưa có quốc vương Đại Thần đem trăm ngàn trò vui tới cúng Phật, Phật chẳng từ chối. Thế là nghĩa làm sao.

Tôi bảo việc này có ba nghĩa:

Một là Thánh phàm chẳng thể bình luận nhất loạt như nhau, hai là tà chính chẳng thể bình luận nhất loại như nhau, ba là tự tha chẳng thể bình luận nhất loạt như nhau.

Ta ở đây chỉ Phật là Pháp Vương, tự tại đối với pháp, nghịch hành thuận hành, Trời còn chẳng lường được, hành vi của bậc Đại Thánh Nhân chẳng phải là thứ mà hạng phàm phu có thể bắt chước được. Đó là một lẽ.

Biên soạn sự tích cổ kim làm thành trò vè. Hạng trên thì là Hương Sơn, Mục Liên cùng Đâm Hoa v.v… thời gần đây, dùng chính pháp xuất thế gian để cảm ngộ người đời. Hạng dưới thì là trung thần, Hiếu Tử, nghĩa sĩ, trinh nữ v.v… dùng chính pháp thế gian để cảm ngộ người đời, những loại như vậy xem vốn không hại.

Sở dĩ như vậy là vì sao?

Vì những thứ này mà chẳng đáng xem thì thư, sử, truyện ký cũng chẳng đáng xem. Vì đó chỉ thư sử truyện ký thì dùng người mà hiển thị sự việc, dụng ý đều là một cả.

Còn như chuyện hoa nguyệt vui đùa, can qua đấu đá, dạy trò dâm dật, bày cách giết tróc, khêu gợi lòng dục, tăng thêm bi lụy, tuy tựa hồ can gián hôn mê, nhưng thực ra là nuông uống thói phóng túng dâm dật, thì ngay đối với người tạii gia còn nên răn giới, huống hồ là Tăng ni. Đó là hai lẽ.

Ngẫu nhiên tự mình xem thì còn được, cứ bảo người ta xem thì không được. Đó là ba lẽ. Hãy cẩn thận trong chuyện này.

 

151. THÂN LÀ DI THỂ CỦA CHA MẸ

Trong mộng bỗng nhớ lại Cha Mẹ ốm nặng, rất buồn.

Thế rồi nói:

Vẫn còn chữa được thì tự thấy hơi yên lòng. Đang định ra sức chữa trị thì lát sau lại mộng, lại rất buồn.

Thế rồi lại tự an ủi rằng:

Vẫn còn chữa được. Ngày nay thân này của ta chính là di thể của Cha Mẹ. Nhân lúc ta vẫn còn tồn tại, bằng di thể của Cha Mẹ, ta cố gắng làm việc thiện, thế là Cha Mẹ ta diệt mà chẳng diệt, huống hồ lại gắng học đạo vô sinh.

Bỏ mất cơ hội ngày nay chẳng tự tôi luyện rèn rũa, thế thì sẽ là điều đáng ân hận lớn.

Hoành ơi. Ngươi sao có thể nhởn nhơ được.

 

152. VÍ DỤ RA KHỎI HANG MỘT

Kinh Thi vịnh chim, nói rằng:

Ra khỏi hang tối, dời lên cây cao. Đại để đây là bàn về sự phân biệt đúng sai, thận trọng trong việc lựa chọn lấy hay bỏ.

Xưa Đức Sơn viết sách Thanh Long Sao cho rằng phải trải qua ba A tăng kỳ tu luyện mới được thành Phật.

Và Nam Phương Ma Tử đã bảo rằng:

Hễ liễu ngộ rốt ráo rồi là ta sẽ đi diệt giống đó ngay để đền ơn Phật. Giữa lúc bấy giờ, tấm lòng hảo tâm thành thực này, cứ canh cánh trong lòng, chỉ vì chẳng biết sở kiến của mình sai lầm mà thôi.

Tới khi được Bà Tử chỉ giáo, được đích thân tham kiến Long Đàm, bèn vứt bỏ những điều mà mình đã quý đã báu lâu năm như vứt cỏ mục, cho nên cuối cùng đã trở thành bậc đại trí, chấn hưng làm vẻ vang cho Phật Giáo thời Mạt Pháp.

Giả sử cứ cố chấp ý kiến chủ quan, ngã mạn, tự cho mình là tài giỏi, ví như người nghèo kiết quê mùa quý báu giấu kín viên đá ở đất yên, lại chê lái buôn người Hồ, nói rằng người này đã ghen với báu vật của mình, thế thì dẫu có trăm Bà Tử, ngàn Long Đàm cũng có làm chi được.

 

153. VÍ DỤ RA KHỎI HANG HAI

Các A La Hán, Tam Ca Diếp, Mục Kiền Liên thoạt tiên học ngoại đạo cũng đã có thành tựu hiệu nghiệm nên vô cùng tự phụ. Nhưng vừa được nghe Phật, được thấy Phật liền thay đổi hẳn, đã vứt bỏ những thứ mà mình tôn sùng nhiều năm như vứt lông hồng, cho nên đã có thể nối tiếp tuệ mệnh của Phật, làm Thầy muôn đời.

Giả sử cứ khư khư giữ chặt những lời lẽ đã lọt tai trước ở trong lòng, ngang ngạnh ương bướng, ra sức bảo thủ, ví như người ốm cố sống cố chết giữ cách chữa cũ, dẫu có phương thuốc mới, cũng quay đi chẳng thèm nhìn, thế thì dù có ngàn Phật xuất thế, cũng có làm gì được?

 

154. VIÊN BÁNH LỪA TRẺ

Nhớ lại khi còn Tại Gia, có một đứa trẻ tối đòi bánh trôi. Bấy giờ cửa chợ đã đóng, người nhà không biết làm thế nào, bèn về viên bột gạo lại rồi đưa cho nó. Đứa trẻ hờn khóc chẳng thèm đoái hoài, mẹ nó giận lắm.

Tôi nói:

Dễ ợt. Cứ lấy viên bột ấn bẹp đi. Đứa trẻ cầm lấy, nín bặt rồi cười.

Bấy giờ bảo trẻ dễ lừa như thế. Nhân đó biết những người ngày nay khinh Tịnh Độ trọng Thiền Tông cũng giống như thế, nói vói họ về Tịnh Độ như bánh trôi viên tròn thì họ khóc, thay đổi bằng Thiền Tông như viên bột nặn bẹt thì họ cười.

Thế thì có khác gì kiến thức của trẻ con đâu.

Than ôi!

 

155. LO, SƯỚNG

Người nghèo lo vì không có của, hâm mộ người giầu, cho họ là sướng mà chẳng biết người giầu có nỗi lo của người giầu. Kẻ hèn hâm mộ người sang, cho họ là sướng mà chẳng biết mối lo của người sang.

Người nghèo, người hèn, người giầu, người sang ai nấy đều lo về thứ mà mình chẳng đủ nên đều hâm mộ người làm Vua cả thiên hạ, cho người đó là sướng hết mức của người thế gian, mà chẳng biết người làm Vua thiên hạ có nỗi lo của người làm Vua và vẫn chẳng biết nỗi lo ấy cực kỳ ghê gớm, vẫn chẳng biết người đó ngược lại đã hâm mộ quần thần trăm họ, cho họ là sướng.

Than ôi!

Đều là vọng cả. Chỉ có bậc trí nhân mới có thể lo, sướng cả hai đều không. Nhưng trụ ở không lo, không sướng cũng lại là Vọng. Chẳng phải đại triệt đại ngộ thì không có phần tự do.

 

156. CỘI NGUỒN CÀNH LÁ

Người thời Mạt Pháp học Kinh Luận phần nhiều ưa chuộng các loại danh tướng phồn tạp khó thể ghi nhớ, nghĩa lý sâu tối khó thể phân tích, văn cú trúc trắc khó thể lý giải, lấy đó mà trổ tài biện bác, khoe khoang tân kỳ, còn một đại sự nhân duyên ngay dưới gót chân người Tăng Sĩ thì bỏ đấy không học.

Họ đâu có biết các danh tướng nghĩa lý văn cú kia đều từ trong này mà chảy ra. Thế là chăm lo cành lá mà chẳng biết cội nguồn. Đó chính là nguyên nhân khiến Ngài Vĩnh Gia phải thở vắn than dài vậy.

Cho nên nói rằng: Cứ được gốc, chẳng lo ngọn. Chỉ sợ người đời chẳng tin câu này, chẳng bỏ được thói cũ mà thôi.

 

157. TƯỞNG THẤY CÔN LÔN

Trang Bá Vi thời Hán mỗi khi Mặt Trời lặn lại ngoảnh mặt về hướng Tây Bắc, tưởng tượng tới núi Côn Lôn.

Lâu ngày được thấy người trên ở Côn Lôn truyền pháp cho và được độ. Đây dường như giống với phép Tây Phương nhật quán. Nhưng đó chỉ thuộc vọng tưởng, chẳng tu chính quán mà thôi.

Vọng tưởng tích lâu, nhờ tinh thành hết mức, còn được thỏa lòng mong muốn ao ước được thấy, huống hồ nhất tâm chính quán, Tam  muội thành tựu mà lại chẳng được vãng sinh Tây Phương Cực Lạc ư?

 

158. THUYỀN DƯ KHÔNG ĐẾ BIỆN NGỤY VẠCH TRẦN TÍNH CHẤT NGỤY TẠO CỦA SÁCH THUYỀN DƯ KHÔNG ĐẾ

Ngô quận khắc in một sách gọi là sách Thuyền Dư Không Đế, dưới đề tên kẻ bất tài này, nói là Vân Thê Chu Hoành trước tác.

Kẻ khắc in sách này cốt để trục lợi, vốn khồng có ác tâm, nên dường như chẳng cần biện luận. Song sợ Tăng mới học cả tin cho đó là tác phẩm của kẻ bất tài này, rồi cứ thế mà truyền đi thì tác hại sẽ không nhỏ. Cho nên không thể không biện luận.

Trong sách liệt kê ra các cuộc u thưởng trong bốn mùa xuân hạ thu đông, tất cả gồm ba mươi ba điều. Tạm trích một hai điều để làrn ví dụ cho số còn lại.

Một điều là dưới trăng Cô Sơn xem hoa mai, trong nói hoàng hôn trăng sáng, cầm chén ngâm thưởng. Xét ra con nhà Xuất Gia đêm khuya thanh vắng chẳng Tọa Thiền mà lại mang rượu thưởng hoa, đó chỉ là tao nhân hiệp khách mà thôi.

Kẻ bất tài này là Tăng Nhân một mực thủ phận, đâu có được phong vị đại giải thoát đó. Đây là một điều nực cười. Một điều là Đông Thành xem dâu, lúa.

Tôi ở trong núi sâu ở phía Tây Nam, cách Đông Thành cực xa, chẳng xem tùng trúc bản sơn mà lại tới đó để xem dâu, lúa ư?

Lại là một điều nực cười.

Một điều nói là:

Tam Tháp cơ xem cỏ xuân. Bình sinh tôi chẳng biết tam Tháp cơ ở chỗ nào. Lại là một điều nực cười nữa. Một điều nói là Sơn mãn lâu xem liễu, trong đó nói lầu này do tôi dựng lên.

Xưa nay, tôi không có lấy một tấc đất một viên ngói ở Tây Hồ, vậy duyên vào đâu mà có được biệt nghiệp này?

Lại thêm một điều nực cười. Một điều nói là Tô Đê xem hoa đào, trong đó lấy hoa đào ví với người đẹp, những lời dâm dật diễm tình ấy, phải là những điều mà người cạo tóc nhuộm áo Xuất Gia tu Phật nên nói tới. Kẻ bất tài này ngay khi chưa Xuất Gia cũng chẳng làm như vậy.

Thật là một điều nực cười. Một điều đề là Tô Đê ngắm liễu, trong dẫn nếu thơ chẳng thành thì phạt số chén rượu như lệ ở Kim cốc viên. Kẻ bất tài này từ khi Xuất Gia, chưa từng liên ngâm cùng ai, huống chi là còn đấu rượu nữa. Lại là một chuyện nực cười.

Một điều đề là đêm tuyết nướng khoai đàm thiền, những lời đàm luận trong đó đều thô thiển hủ lậu, người nào bị y gọi đây?

Thực là một điều nực cười.

Các vị Xuất Gia nên biết:

Kẻ bất tài này dứt khoát không có những lời này. Đã làm người Xuất Gia, ắt phải giữ gìn thanh quy, tu thân sửa hạnh, chớ nhận lầm phong lưu phóng khoáng là Cao Tăng.

Chu Hoành kính cáo.

 

159. ĐỦ LOẠI PHÁP MÔN

Ví như quân Vua đánh giặc, ra trận chiến đấu lấy việc giết được giặc làm toàn thắng. Còn người giết giặc thì tùy ý sử dụng đủ thứ hoặc gươm, hoặc giáo, hoặc chùy hoặc kích, cho đến mũi tên hòn đá, cốt sao tinh thông một món mà thôi.

Lấy đó mà ví với người học thì vô minh hoặc chướng, như bọn giặc kia. Đủ loại Pháp Môn ví như gươm giáo v.v… phá diệt hoặc chướng ví như được toàn thắng. Thế thì biết rằng bất kể là loại sát cụ nào, cứ giết được giặc là được. Giặc đã giết rồi, thế là việc lớn đã xong. Cái gọi là sát cụ, đều như bè qua sông mà thôi.

Chẳng cứ to nhỏ và cứ nằng nặc nói rằng kiếm giết được người, giáo chẳng thể giết, đâu có lý ấy.

Người Tham Thiền chê Niệm Phật là trược tướng, người rèn hạnh chê tu định là lạc không, cũng giống như thế.

Cho nên Kinh nói:

Quy nguyên không hai đạo, phương tiện có nhiều môn.

Tiên Đức nói: Như người đi xa, cốt sao tới đích, chẳng cần cứ phân tích dọc đường khó dễ.

Trang 1 2 3 4 5 6 7 8