Thiền Tông Đốn Ngộ
Tỳ Kheo Thích Thông Phương
Lời Mở Đầu
Quyển THIỀN TÔNG ĐỐN NGỘ này do chúng tôi biên tập những bài giảng chuyên về thiền và hệ thống lại cho người học tiện tham cứu. Trong đây, chúng tôi không dám phô trương kiến giải, chữ nghĩa với người, chỉ với tâm nguyện đem chút ít chỗ kinh nghiệm chia xẻ cùng mọi người một lẽ thật ngay trong thế gian này mà người người hằng bỏ quên.
Qua Thiền tông Trung Hoa, về yếu chỉ đã khiến người học khó lãnh hội, cộng thêm cách khai thị của chư Tổ người Trung Hoa, càng khiến người học thấy xa lạ, đau đầu. Ở đây, với chỗ nhận hiểu ngay bản thân chính mình, chúng tôi diễn đạt lại bằng chính ngôn ngữ của người Việt Nam để gần gũi với người Việt chúng ta hơn, đồng thời cho thấy “lẽ thật này” chúng ta vẫn có phần không thua kém.
Tuy nhiên, Thiền vốn không thuộc ngôn ngữ, văn tự, vượt hẳn con đường suy nghĩ phân biệt thì đâu thể diễn đạt bằng lời mà thấu tột! Song, từ sức sống nội tâm ứng ra ngôn ngữ văn tự, thì ngôn ngữ văn tự hẳn nhiên cũng không luống uổng. Chỉ mong người học khéo đạt ý quên lời, chữ chữ, câu câu luôn xoay lại chính mình là gốc, thì ngay một dấu chấm (.), một nét phẩy (,) cũng sáng ngời ánh sáng chân thật kia, đâu từng thiếu sót!
Thiền tông vốn không trọng lý luận nhiều, bấy nhiêu lời buông ra e đã làm nhơ tai mắt Tổ sư, với bậc quá lượng hẳn bịt tai cười ngất! Cơm ngon chẳng cần với người đã no bụng.
Một chút phương tiện này kính xin lưu lại cho người trên đường tìm về quê cũ. Nếu có chút thích thú hãy ném quách vào trong ấy, xem xem, chính là gì?
Bao nhiêu lời lẽ hay khéo không ngoài một tiếng “À!” lên, là xong tất cả.
Chưa có tiếng “À!”, chớ bảo là không tất cả!
Xin trao lại cho người!
Thiền viện Trúc Lâm
Mùa an cư năm Nhâm Ngọ – 2002
Kính ghi
THÍCH THÔNG PHƯƠNG
Dẫn Nhập
Một đạp vỡ tung vô lượng cõi
Lắc mình pháp giới bặt tăm hơiNói đến thiền tông là nói đến đốn ngộ. Tức chóng ngộ ngay bản tánh chính mình cùng Phật không khác, không trải qua thứ lớp, không do tu hành mới được. Đây là phá tan cái thấy còn kẹt trên thứ lớp, vượt qua giáo nghĩa phân biệt, ngộ thẳng tự tâm.
Điển hình, Đức Sơn vốn là một giảng sư kinh Kim Cang nổi tiếng mà ban đầu Sư còn không hiểu nổi và đã phát nguyện: “Kẻ xuất gia muôn kiếp học oai nghi của Phật, vạn kiếp học tế hạnh Phật còn chẳng được thành Phật, ta phải ruồng tận hang ổ của chúng, diệt sạch những giống ấy để đền ơn Phật”. Kịp đến khi Sư gặp bà già bán bánh, nghe bà hỏi một câu, đáp không trôi, mới thấy lại: Còn có cái gì nữa? Rồi khi Sư gặp Long Đàm, đưa đèn thổi tắt, liền chợt ngộ “Trí vô sư vốn vượt ngoài chữ nghĩa đã học được”.
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa. Nhưng tại sao có người đành quay lưng từ chối không nhận?
Kìa, Phật thành đạo là thành ở đâu? Có lẽ nào lại ở dưới cội bồ đề hay trên sao mai? Thấy như thế, thì đến tột mé vị lai hẳn cũng chưa gặp. Rồi chư Tổ tỏ ngộ là tỏ ngộ ở đâu? Quyết không thể ở nơi bộ kinh này, bộ kinh kia hay ngữ lục nọ. Moi móc kiếm tìm trong đám rừng chữ nghĩa đó thì đời đời kiếp kiếp vẫn không bao giờ gặp chư Tổ.
Kìa gió thổi thông reo, lá rung trước mắt, ánh sáng vĩnh hằng đang hiển bày ra đó. Sức sống này làm sao ghi chép chú giải?
Kìa, Tuệ Hải đến Mã Tổ toan cầu pháp vi diệu, Mã Tổ bảo ngay:
Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì? Ta trong ấy không có một vật, cầu Phật pháp cái gì?
Sư lễ bái thưa: Cái gì là kho báu nhà mình của Tuệ Hải?
Mã Tổ nghiêm nghị bảo thẳng: Chính ngươi hiện đang hỏi ta, đó là kho báu của ngươi, đầy đủ tất cả không hề thiếu thốn, tự do sử dụng, đâu nhờ tìm cầu bên ngoài.
Ngay câu nói này, Sư tự nhận bản tâm không do hiểu biết, liền vui mừng lễ tạ.
A! Kho báu từ vô thủy bỗng chốc hiện bày trước ra mắt, còn gì vui sướng hơn? Nhưng đặc biệt ‘không do hiểu biết’, chỗ này chữ nghĩa làm sao ghi chép được.
Thực vậy, Thiền tông chỉ thẳng là chỉ thẳng ngay đây, khỏi phải quanh co trên lý luận dài dòng. Người nhận thì nhận liền, không cho suy nghĩ chần chờ. Phải chộp lấy thời cơ kịp lúc, nhảy qua cả ông thầy, tự sống dậy không thể nghĩ bàn. Chính vì thế, Thiền tông thường lưu truyền:“Cái thấy bằng Thầy, còn kém Thầy nửa đức, cái thấy vượt hơn Thầy mới kham truyền trao”. Phải vậy chớ, “Kia đã trượng phu, ta đây cũng vậy”. Đâu thể tự khinh mình mà đành lui sụt. Hãy tin chắc, ÁNH SÁNG TÂM TÔNG đang tỏa chiếu trong ta. Nói năng qua lại, đi đứng tới lui, mọi động dụng hằng ngày có thiếu thốn bao giờ đâu. “Trường An ồn náo, nước con vẫn an ổn”, ai ai đều có sẵn một chỗ bất khả xâm phạm ấy, sao không tự nhận đi, chạy tìm kiếm nơi người thì bao giờ mới được an? Chân lý thì rất đơn giản, mà con người tưởng tượng quá nhiều thành rắc rối, lạ lùng, xa lạ, đáng thương! Đây này, ngay một niệm hiện tiền bặt cả ba đời trước sau. Còn ai dối được mình? Chớ học theo Chu Kim Cang, đối diện bà già đưa bánh tới tận miệng, lại đành ôm bụng đói ra đi. Thật đáng tiếc! Đáng tiếc!
Một chút xíu đó mà xưa nay nói hoài cũng không hết. Bởi vậy, Thiền tông nêu cao tông chỉ:
GIÁO NGOẠI BIỆT TRUYỀN,
BẤT LẬP VĂN TỰ,
TRỰC CHỈ NHÂN TÂM,
KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT.
Dịch:
TRUYỀN RIÊNG NGOÀI GIÁO,
CHẲNG LẬP VĂN TỰ,
CHỈ THẲNG TÂM NGƯỜI,
THẤY TÁNH THÀNH PHẬT.
Ý Chỉ Giáo Ngoại Biệt Truyền
Trỏ tay vô tận hư không nát Đưa mắt hằng sa cõi biệt tămI. THẾ NÀO LÀ GIÁO NGOẠI BIỆT TRUYỀN?
Nói “Giáo ngoại biệt truyền” tức truyền riêng ngoài giáo, vậy có một pháp thật ngoài kinh giáo để truyền không? Đây là điểm cần thấu rõ, không thì dễ đưa đến hiểu lầm.
Rồi trở thành hiểu méo mó lệch lạc rất nguy hiểm. Bởi thiền tông vốn đề cao “giáo ngoại biệt truyền” nên có lúc bị hiểu lầm là quái thai của Phật giáo, là sản phẩm của Trung Hoa, do các thiền sư Trung Hoa mới tạo ra sau này. Song nếu hoàn toàn như thế thì đó là pháp tạo tác, là cái mới có, thời Phật không có. Thế là nó thuộc về pháp sinh diệt, có gì đặc biệt?
Hơn nữa, nói truyền riêng ngoài kinh giáo, rồi cho rằng có một cái gì đó đặc biệt để truyền riêng thì chính cái thấy đó đã đi quá xa với Thiền tông. Vì đó là thấy ngoài tâm có pháp, và tưởng là có trao có nhận, tức đã bị lừa gạt. Đồng thời, có cái thấy đó là có tâm lấy bỏ. Bỏ kinh lấy thiền, vẫn y nguyên rơi vào trong đối đãi, đâu thể đạt ý Tổ. Đây chính là ý nghĩa sâu xa, người đứng ngoài cửa Tổ không dễ gì lý luận đến được.
Thực ra, nói “ngoài giáo”, nói “truyền riêng” nhưng ý đó đã nằm sẵn trong kinh, không phải là cái mới đặt ra. Chẳng qua vì người dùng tâm suy nghĩ khó nhận thấy, kẻ dùng thức tâm phân biệt khó khám phá.
* Trước hết, dẫn kinh để chứng minh cho mọi người thấy rõ:
– Kinh Kim cang: Phần mở đầu: Tôi nghe như vầy: một thuở nọ, Phật ở vườn Cấp Cô Độc, rừng Kỳ Đà thuộc nước xá Vệ, cùng chung với 1250 Đại Tỳ kheo. Bấy giờ đến giờ ăn, Thế Tôn đắp y, ôm bát đi vào thành xá vệ khất thực. Trong thành đó theo thứ lớp khất thực rồi, ngài trở về chỗ mình, thọ thực xong, thu xếp y bát, rửa chân và trải tòa mà ngồi. Lúc đó Truởng lão Tu Bồ Đề ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trích áo vai phải, chấp tay cung kính bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thật hiếm có, Như Lai khéo hộ niệm các vị Bồ tát, khéo phó chúc các vị Bồ tát.
Qua đọan kinh này, chúng ta thấy có gì lạ? Chính “ý giáo ngoại” đã nằm sẵn trong đó mà mấy ai thấy được. Rõ ràng trong đó, Phật chưa nói câu nào, ngài chỉ đi khất thực về thọ trai rồi xếp y bát… chưa từng mở miệng. Vậy Trưởng lão Tu Bồ Đề tán thán “thật hiếm có…” là hiếm ở chỗ nào? Hộ niệm phó chúc cái gì? Trưởng lão đã thấy gì mà tán thán như thế. Đây là chỗ rất sâu kín, nên trưởng lão nói “KHÉO”, tức không thể hời hợt mà thấy được.
Bởi Như Lai là bậc đã chứng Vô thượng chánh đẳng chánh giác, tức lúc nào ngài cũng sống trong ánh sáng chánh giác không gián đoạn, không thiếu vắng. Nếu có gián đọan thiếu vắng thì không thể gọi là Như Lai. Vậy thì ngay nơi chỗ Thế Tôn đi khất thực, thọ trai v.v… hẳn ánh sáng Như Lai hay Kim Cang Bát nhã vẫn ngầm hiển lộ trong đó. Nghĩa là trong nhật dụng của Thế Tôn, ánh sáng Như Lai luôn sáng ngời. Chính đây là chỗ Như Lai thầm hộ niệm, thầm phó chúc cho các Bồ tát. Tức Bồ tát phải luôn nhớ trong ánh sáng đó không để cho gián đọan. Phật pháp còn mãi ở thế gian cũng chính từ đó. Sức sống chân thật của Phật đạo, gốc cũng ở chỗ này. Song chỗ này ngôn ngữ làm sao nói hết được, hai tròng mắt này làm sao nhìn thấu đến được. Trưởng lão Tu Bồ Đề thầm nhận được chỗ này nên mới khen là “hiếm có”
Hơn nữa, Phật cũng chưa nói ra lời nào thì nó nằm ở kinh nào? Ở giáo nào? Không phải ý giáo ngoại đã nằm sẵn trong đó hay sao, còn nghi ngờ gì nữa.
Kinh Tạp A Hàm II, bài kinh 404: Đức Phật khi ở tại nhà Phước Đức, nơi rừng trúc thành Vương Xá, nước Ma kiệt đà, ngài ở đêm tại đây. Rồi thế Tôn bảo các Tỳ kheo:
– Các thầy nên cùng ta đến rừng Thân Thứ.
Thế Tôn và đại chúng đến rừng Thân Thứ, ngồi dưới gốc cây, lúc đó ngài nắm một nắm lá trong tay, đưa lên hỏi các thầy Tỷ kheo:
– Lá cây trong tay nhiều hay lá cây trong rừng nhiều?
Các thầy Tỳ kheo bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn lá cây trong tay rất ít, lá cây trong rừng nhiều gấp trăm ngàn muôn ức lần tính toán thí dụ cũng không thể so sánh.
Phật bảo:
– Này các Tỳ kheo! Ta thành Đẳng chánh giác, những pháp do ta tự thấy rồi vì người giảng nói chỉ ít như lá trong nắm tay. Vì sao? Vì pháp ấy có ích lợi về nghĩa, về pháp, về phạm hạnh và minh tuệ chánh giác, thẳng đến niết bàn.
Cũng vậy, chánh pháp ta tự tri khi ta thành Đẳng chánh giác mà ta không nói ra, cũng giống như lá trong rừng cây. Vì sao? Vì pháp ấy không có lợi ích về nghĩa, về pháp, về phạm hạnh và minh tuệ chánh giác, thẳng đến niết bàn.
Thế nên các Tỳ kheo đối với Tứ thánh đế chưa được hiện quán thì nên siêng năng phương tiện, khởi ý muốn tăng thượng, tu học hiện quán.
Đây là bài kinh thuộc hệ Nguyên thủy. Đọc kỹ, bài kinh cho ta thấy điều gì? Rõ Ràng Phật đã nói: Kinh điền nói ra chỉ như nắm lá trong tay. Tất cả kinh điển ghi chép lại cũng chỉ là nắm lá trong tay. Còn cả rừng lá kia thì không thể ghi chép. Điều đó Phật nói “Phật chưa nói”. Vậy chúng ta hài lòng với nắm lá trong tay đó sao? Dù chúng ta có học hết kinh điển thì cũng chỉ là học nắm lá trong tay. Vậy Phật muốn nói điều gì? Phật muốn nhắc chúng ta phải học suốt qua kinh điển giáo nghĩa, phải thực hiện một cái nhảy nhảy qua khuôn khổ chết đó mới có thể hiểu hết ý ngài. Đây chính là “ý truyền riêng ngoài giáo”. Nó đã nằm sẵn trong kinh từ buổi đầu. Chính miệng Phật đã xác nhận điều đó.
Kinh Tương Ưng Bộ, bài kinh “Có pháp môn nào”: Ở đây này các Tỳ kheo! Các Tỳ kheo khi mắt thấy sắc hoặc nội tâm ta có tham sân si, biết rõ nội tâm ta có tham sân si. Hoặc nội tâm không có tham sân si, biết rõ nội tâm ta không có tham sân si… (với các căn còn lại cũng như vậy)
Này các Tỳ kheo! Biết rõ chúng có mặt hay không có mặt trong tâm của vị ấy. Có phải chúng là những pháp do lòng tin được hiểu biết, hay do ưa thích được hiểu biết, hay do lắng nghe được hiểu biết, hay do suy tư về phương pháp mà được hiểu biết, hay do kham nhẫn mà được hiểu biết, hay do thích thú biện luận mà được hiểu biết?
– Thưa không, bạch Thế Tôn!
– Có phải các pháp này do thấy chứng với trí tuệ nên được hiểu biết?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn!
– Này các Tỳ kheo! Đây chính là pháp môn, do pháp môn này, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài suy tư về phương pháp, ngoài kham nhẫn thích thú, biện luận, có thể xác chứng với chánh tri, vị ấy biết rõ sanh tử đã tận, việc làm đã xong… Không còn sanh lại đời nào khác nữa.
Như vậy ở đoạn kinh này Phật cũng xác định: Cái biết, biết trong tâm mình có tham sân si hay không tham sân si v.v… cái biết đó không thuộc suy tư biện luận v.v… chỉ có thể xác chứng với chánh tri. Vậy cái biết đó nằm trong bộ kinh nào. Sách vỡ nào ghi chéo được cái biết này? Nhưng nó có hay không? Phật đã xác nhận có thể xác chứng với chánh tri, tức mở sáng mắt đạo liền thấy rõ, chớ không phải là điều mơ hồ hay chỉ có trên lý thuyết.
Giờ đây, nếu sáng tạo một chút thì nói: Có vọng biết có vọng, không vọng biết không vọng. Hoặc, có niệm biết có niệm, không niệm biết không niệm. Cái biết có niệm không niệm đó là gì? Đâu phải cứ khư khư cố định ở cái tên tham sân si. Chủ yếu là ở cái biết. Nếu chấp cứng nơi cái tên tham sân si thì cũng chết trên nắm lá trong tay, làm sao có thể cảm nhận được đám lá trong rừng?
Đến trong nhà thiền: ý này càng được ứng dụng linh diệu tuyệt vời. Chính từ đó, Thiền tông có một nét đặc thù nổi bật, có sức sống vươn lên, không theo dấu mòn lối cũ, không kẹt trong hình thức khuôn mẫu chết.
Tướng Bùi Hưu trỏ hình vẽ cao tăng trên vách hỏi Hoàng Bá:
– Hình ở đây còn cao tăng ở đâu?
Hoàng bá gọi: – Bùi Hưu!
Bùi Hưu ứng: – Dạ.
Hoàng Bá bảo: Ở đâu?
Ngay lúc đó Bùi Hưu liền nhận ra cao tăng sống. Ban đầu, cứ đuổi theo hình vẽ bên ngoài, nên mong muốn tìm thấy chỗ chỉ. Qua tiếng gọi “dạ”, Hoàng Bá đánh thẳng vào cái thực tại đang hiện hữu bằng cách nhấn mạnh “Ở đâu?” Liền đó cao tăng lộ bày sờ sờ. Vậy cái BIẾT “dạ” đó nằm ở bộ kinh nào? Máy móc tiến bộ bao nhiêu cũng chỉ có thể ghi được tiếng dạ, không thể ghi được cái biết. Đó là “truyền riêng ngoài giáo”.
Mã Tổ cùng Hoài Hải dạo núi thấy bầy le le bay trên trời. Mã Tổ lấy tay trỏ bầy le le hỏi:
– Là cái gì?
– Bầy le le.
Đợi bầy le le bay qua, Mã Tổ hỏi tiếp:
– Bay đi đâu?
Hoài Hải thưa:
– Bay qua mất rồi.
Mã Tổ thuận tay nhéo mạnh lỗ mũi Hoài Hải. Sư đau quá la lên, Mã Tổ nói:
– Sao không nói bay quá mất đi!
Hoài Hải liền đại ngộ “vốn chẳng mất đi đâu”. Cái BIẾT KÊU ĐAU đó nằm ở bộ kinh nào? Chính nơi đó, Hoài Hải nhận được: Tánh chân thật vốn sẵn nơi mình từ thưở nào. Truyền ngoài kinh giáo là đó. Chính đó mới là sức sống chân thật, đó là nguồn sáng vĩnh viễn không bao giờ mất. Ở đây, thiền sư không lý luận dài dòng, không giải thích danh từ loanh quanh mà muốn khơi dậy cái thực tại đang sống sáng ngời, nhưng người người tự bỏ quên. Vì bỏ quên cái này mà đi vào sáu trần, trôi trong sanh tử, lang thang khấp nẻo luân hồi, càng đi càng xa. Giờ đây nhớ lại là xong. Chỗ này moi móc trong chữ nghĩa làm gì có?
Tổ Lâm Tế từng bảo: «Người học thời nay không nhận được, là bởi bám vào chữ nghĩa làm hiểu biết, ghi chép những lời của mấy lão già vào một cuốn sổ to, bọc kỹ lại năm ba lớp không cho người khác thấy, nói đó là huyền chỉ, giữ như làm của quý. Bọn mù! Các ông nhằm trên khúc xương khô tìm sao ra nước?» Đó là tổ Lâm Tế đánh mạnh vào những đầu óc học đạo quen sống trong khuôn khổ chết, hoặc giam mình trong đống chữ nghĩa cũ mòn mà quên mất “người đang phóng quang nhìn đây”. Chính người này đang soi sáng cả đống chữ nghĩa kia mà ít ai nhớ đến. Thấy lại chỗ này mới thấy nguồn sống chân thật. Chúng ta học Phật là phải học cái sống đó. Thiền nhấn mạnh «truyền riêng ngoài kinh giáo», là nhằm đánh thức người trở về với sức sống này. Vì vậy nói truyền riêng mà sự thật không có cái gì khác để truyền, chỉ là nhắc người nhớ lạ sức sống sẵn có nơi chính mình, thôi chạy tìm kiếm bên ngoài. Phật Thích Ca thành đạo khi sao mai mọc, là thành đạo trong chỗ này, không phải ở đâu khác. Tam tạng giáo điển cũng từ trong sức sống này mà tuôn ra. Chúng ta hãy lắng nghe đoạn nhân duyên này sẽ thấy rõ:
Một hôm thiền sư Hành Tư hỏi Hy Thiên:
– Có người nói Lãnh Nam có tin tức.
Hy Thiên thưa:
– Có người chẳng nói Lãnh Nam có tin tức.
Thiền sư Hành Tư hỏi:
– Nếu thế ấy thì Đại Tạng, Tiểu Tạng từ đâu mà ra?
Hy Thiên thưa:
– Thảy từ trong ấy mà ra.
Thiền sư Hành tư gật đầu.
Lãnh Nam là chỗ Lục Tổ. “Có tin tức” là có việc lớn ấy. Đây là gạn xem Hy Thiện còn kẹt vào hiểu bên ngoài không. Sư đã thấy rõ nên đáp: “Có người chẳng nói Lãnh Nam có tin tức”, là ngầm tự nhận nơi mình, chẳng kẹt nơi người. Thiền sư Hạnh Tư lại gạn thêm: “Vậy thì Tam tạng của Đại thừa, Tam Tạng của Tiểu Thừa từ đâu mà ra?” Không nhận tin tức tức từ bên ngoài thì tam tạng kinh điên từ đâu ra, bỏ hết hay sao? Sư đã nhận rõ đâu còn lầm nữa nên đáp ngay: “Thảy từ trong ấy mà ra”, không thể tìm nơi nào khác. Nếu rời trong ấy mà có là thuộc văn tự chữ nghĩa, thuộc suy lý tưởng tượng không phải thật. Người học Phật nên nhớ rõ điểm này.
Đạt ý quên lời:: Với ý nghĩa “giáo ngoại biệt truyền” đó, Thiền nhấn mạnh người học phải “Đạt ý quên lời”, không thể bám chết trên ngôn ngữ. Tại sao? Vì ngôn ngữ luôn có giới hạn và dẫn khởi tâm thức đi vào con đường suy nghĩ đối đãi. Nhất là nó lừa con người vào cuộc sống khái niệm, quay lưng với thực tại hiện tiền. Do đó người tham thiền phải thấu qua ngôn ngữ, nghe nói ở đây, phải thấy ý ở kia. Câu chuyện Viên Ngộ tỏ ngộ nói lên ý nghĩa này rất rõ.
Sư tham thiền với hòa thượng Pháp Diễn thời gian lâu mà không tỏ ngộ. Một hôm sư hầu thầy rồi có việc đi ra ngoài, lúc đó quan đề hình đến thăm ngài Pháp Diễn. Hai bên luận đạo, Pháp Diễn hỏi:
– Đề Hình lúc trẻ có đọc thơ Tiểu Diễm chăng?
Trong đó có 2 câu:
Tần hô Tiểu Ngọc nguyên vô sự,
Chỉ yếu đàn lang nhận đắc thinh
Dịch:
Luôn kêu Tiểu Ngọc nguyên không việc,
Chỉ cốt anh chàng nhận được tiếng
Vừa lúc sư trở về hầu thầy. Chợt nghe chuyện liền hỏi:
– Nghe hòa thượng nhắc lại thơ Tiêu Diễm, Đề Hình có lãnh hội chăng?
Pháp Diễn bảo:
– Ông ấy chỉ nhận được tiếng.
Sư thưa:
– “Chỉ cốt anh chàng nhận được tiếng”, vậy ông đã nhận tiếng, vì sao lại chẳng phải?
Pháp Diễn bảo:
– Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang? – Cây bách trước sân ấy!
Viên Ngộ chợt tỉnh ngộ.
Ai thấy Viên Ngộ đã ngộ gì? Giờ tóm lại câu truyện trên:
Cô tiểu thư có tình ý với anh chàng ở gần nhà. Vào một chiều tối, anh chàng lân la tới bên nhà cô tiểu thư, ý muốn dò tìm phòng cô ở chỗ nào mà không biết. Cô tiểu thư ở trên gác nhìn xuống thấy, không biết làm sao cho anh chàng biết phòng mình ở phía này. Chợt cô nghĩ ra một kế, cô gọi đứa hầu gái tên Tiểu Ngọc:
– Tiểu Ngọc! Tiểu Ngọc! Hãy mang bình trà lại phòng này cho cô!
Tức thì anh chàng ở dưới kia nghe thấy liền biết ngay phòng cô ở.
Như vậy, cô gọi Tiểu Ngọc nhưng thật ra không có việc gì, mà cốt là muốn cho anh chàng ở dưới kia nhận ra được tiếng của mình thôi. Nên nói: “Luôn kêu Tiểu Ngọc nguyên không việc. Chỉ cốt anh chàng nhận được tiếng”. Thiền sư dẫn ra để ngầm chỉ nhà thiền cũng như vậy, nói ở đây mà ý ở kia, người nhận phải khéo nhận được cái ý vượt ngoài lời nói đó.
Hỏi: – Thế nào là ý tổ sư từ Ấn độ sang?
Đáp: – Cây bách trước sân.
Tuy nhiên như bám vào cây bách để hiểu là lầm qua mất.
Có một vị tăng hỏi thiền sư Hành Tư ở Thanh Nguyên:
– Thế nào là đại ý Phật pháp?
Sư đáp:
– Gạo ở Lô Lăng giá bao nhiêu?
Hỏi “ Đại ý Phật pháp” thì không trả lời thế nào, lại đi hỏi ngược lại hỏi “giá gạo ở Lô Lăng bao nhiêu thì giống như lạc đề. Người ngoài cuộc nghe đến đây không làm sao hiểu nổi. Bởi thiền không phải nói để hiểu mà nhằm đánh thức cho người sống dậy trong chỗ không hiểu. Nếu cứ theo lời sanh hiểu, lo suy tìm giá gạo là chết trong chỗ mắc rẻ, bị ngôn ngữ lừa một cách đáng thương. Người khéo, là người ngay đó dừng niệm phân biệt hai bên, bặt chỗ nghĩ ngợi đây kia, liền tự rõ đại ý Phật pháp đang hiện tiền sáng rỡ.
Vua Trần Nhân Tông đã thầm hiểu ý này nên đã nói trong bài phú Cư Trần Lạc Đạo: “Chợ Lư Lăng gạo mắc quá ư? Chẳng cho mặc cả”. Nghĩa là ngay đó nhận thì nhận liền, không nhận thì qua mất, không thể trả giá tới lui. Vì vậy, hỏi giá gạo mà ý không ở giá gạo. Người có con mắt thiền tự nhận ra ngay không qua giải thích.
Có vị tăng hỏi hòa thượng Tào Cơ
– Vật gì là quý nhất trên đời?
Sư đáp:
– Cái đầu con mèo chết.
Tăng hỏi:
– Đầu con mèo chết vì sao lại quý?
Sư Đáp:
– Vì không ai trả giá.
Nếu cứ theo thường tình, chỉ lo suy nghĩ xem cái đầu con mèo chết vì sao lại quý, thì suy nghĩa muôn kiếp cũng không ra. Đâu ngờ ý sư không phải ở cái đầu con mèo chết, mà ở chỗ “không ai trả giá”. Có trả giá tức có mắc rẻ, là rơi vào ý niệm đối đãi sanh diệt, đó là sự tầm thường của thế gian. Trái lại, chính chỗ “không ai trả giá”, tức bặt ý niệm đối đãi, tình thức phân biệt không thể biết tới, đó mới là chỗ quý nhất trên đời, là chỗ sáng của thiền. Bởi vậy, nói ở đây mà phải thấy ý ở kia, người học thiền phải bén nhạy thấy suốt qua lời nói.
Có một vị tăng hỏi thiền sư Hiểu Thông ở Động Sơn:
– Nghe nói bậc đại thánh ở Thất Châu gần đây xuất hiện ở Dương Châu. Đã là bậc đại thánh ở Thất Châu, vì sao lại xuất hiện ở Dương Châu.
Sư đáp:
– Quân tứ mến của lấy đó làm đạo.
Am chủ Liên hoa Phong nghe được, thắp nhan bảo:
– Con cháu Vân Môn vẫn còn.
Tại sao chỉ nghe một câu nói như vậy mà am chủ Liên Hoa Phong cảm biết được chỗ thấy siêu xuất của ngài, nên ngầm khen ngợi như thế. Trong đây nếu cứ theo chữ “của” mà hiểu hay suy nghĩ thì càng nghĩ lại càng rối. Bậc quân tử sao lại quý của cải mà nói lấy của làm đạo? Không ngờ điều quan trọng là, cốt thấy “người quân tử” là xong. Đã thấy người quân tử thì dùng cái gì cũng là người quân tử. Cũng vậy, cốt thấy bậc đại thánh thì xuất hiện ở đâu cũng được, cũng là đại thánh, có gì quan trọng? Cứ lo thắc mắc chỗ nơi mà quên mất bậc “đại thánh” mới là chính yếu. Học thiền phải nhận thấy ý ngoài lời là vậy.
Có vị tăng hỏi ngài Vân Môn:
– Thế nào là Phật?
Vân Môn đáp:
– Que cứt khô.
Có người bàn: Thiền sư nói sao thô tục quá! Nhưng xét lại xem, là Thiền sư nói thô tục hay chính ý mình nghĩ thô tục? Đây gọi là đem phàm tình mà đo ý thánh, ý thánh cũng thành phàm. Đâu biết rằng, ngài Vân Môn ngay lúc đó, hỏi xong là đáp liền, nào có nghĩ là thô là tế. Chính câu đáp rất sáng tỏ: Hỏi Phật là thanh tịnh. Đáp que cứt khô là nhơ nhớp, tức khiến người ngay đó bặt niệm nhơ sạch thì chính là Phật chứ gì? Còn nghe que cứt khô hiểu là que cứt khô, trong đầu liền nghĩ dơ sạch, tức bị ngôn ngữ chuyển, rơi vào tình phàm, thành ra ngay trước mặt mà lầm qua.
Qua đó, cho thấy thiền là phải thể nghiệm ngay chính mình, không thể lý luận, bàn bạc trên ngôn từ, phân tích trên chữ nghĩa. Do đó thiền luôn luôn có một sức sống sáng tạo, không thể bắt chước theo lối mòn.
II. MỘT SỨC SỐNG SÁNG TẠO
Học Phật nói chung, học thiền nói riêng, là phải học cái sống, học cái linh diệu sáng ngời luôn hiện hữu, không thể học cái chết, cái đóng khung con người khiến mất đi sức sống tự tại. Chính bản hoài của đức Phật ra đời là nhằm khai thị cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật, đó gọi là một nhân duyên của việc to tát nhất thế gian – đại sự nhân duyên. Song tri kiến Phật đó ở đâu mà khai thị? Rõ ràng không thể tìm nó trong sách vở, giấy mực hay văn tự chữ nghĩa, vì đó là những khuôn chết. Chính ngay buổi đầu khi Phật thành đạo, Ngài đã định nhập Niết bàn không muốn nói pháp, vì thấy chỗ đó rất khó hiểu, ngôn ngữ không thể nói đến được. Phải đợi Phạm thiên thỉnh cầu ba lần Phật mới tùy thuận hứa khả. Vậy có nói ra là Phật bất đắc dĩ, là phương tiện mà nói, không thể cho đó là chỗ cứu cánh.
Trong bài kinh Thánh Cầu thuộc kinh Trung Bộ, Phật đã tự thuật như sau: “Này các Tỳ kheo! Rồi ta suy nghĩ như sau: Pháp này do Ta chứng được thực là sâu kín khó thấy, khó chứng, tịch tĩnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người trí mới thấu hiểu.”
Trong đó Phật đã tự nói rõ, Pháp do Ngài chứng được, nó vượt ngoài lý luận, sâu kín khó thấy, không thể tìm trong văn tự chữ nghĩa. Đó là Phật ngầm nhắc trước rồi, vậy mà đệ tử sau này vẫn cứ kẹt, chỉ lo phân tích câu văn, chia chẻ ngôn cú, vạch tìm chữ nghĩa, lấy đó làm sự nghiệp.
Trước kia Thiền sư Thần Tán đã từng đánh thức vị bổn sư của mình khi vị này đang ngồi xem kinh bên cửa sổ. Lúc đó, có con ong chui đầu vào tấm giấy dán ở cửa sổ để tìm lối ra nhưng ra không được. Sư trông thấy, chợt nói:
– Thế giới thênh thang như thế mà chẳng chịu ra, cứ vùi đầu vào giấy cũ, biết năm nào mới ra được!
Sư liền nói bài kệ:
Cửa không chẳng chịu ra
Quá ngu chui cửa sổ
Trăm năm dùi giấy cũ
Ngày nào mới được qua?
Xem kinh mà không sáng được ý kinh là đang vùi đầu vào giấy cũ, vào ý nghĩa chết mà Phật đã nói hơn hai ngàn năm rồi. Cần nhận rõ: Ánh sáng chân thật đang phóng qua sáu cửa, chiếu khắp mọi nơi, mọi lúc, giấy mực đâu thể ghi được ánh sáng này. Kìa, ngay khi xem kinh thì cái gì đang rọi vào quyển kinh đó? Cái gì đang lật từng trang, từng trang kia? Thấy lại điểm sáng này mới là then chốt. Chỗ này phải có một sức sống sáng tạo, vươn lên mới cảm thông được với Phật Tổ.
Trong kinh Kim Cang, khi Trưởng lão Tu Bồ Đề hỏi tên kinh, Phật đáp: “Kinh này tên là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật.” Song vừa nói tên kinh xong Phật liền bảo: “Nói Bát Nhã Ba La Mật tức chẳng phải Bát Nhã Ba La Mật.” Tại sao lạ vậy? Thông thường giáo lý ở thế gian, vị chủ xướng nói ra thì phải bảo xem đây là khuôn vàng thước ngọc, là lời thánh thiêng liêng, không được đụng đến, không được phủ nhận. Trái lại ở đây, Phật vừa nói xong liền phủi ngay, vậy nói làm gì? Nhưng đó mới là chỉ lẽ thật. Bởi cái tên Kim Cang Bát Nhã đó đâu phải là bản thân Bát Nhã thật. Phải nhảy qua cái tên đó, thấy lại nơi chính mình, mở mang trí tuệ nơi tâm mình, mới cảm được ánh sáng Kim Cang Bát Nhã chân thật. Lời thánh thiêng liêng là thiêng liêng ở chỗ đó, đâu phải thiêng liêng ở những trang, những hàng chữ kia. Nhà Thiền nói “giáo ngoại biệt truyền” chính là ý này! Như Tổ Lâm Tế từng bảo: “Như 12 phần giáo đều là lời nói biểu hiện bên ngoài, người học chẳng lãnh hội, liền nhằm trên những câu nói biểu hiện bên ngoài sanh hiểu, đều là nương tựa, rơi vào nhân quả, chưa khỏi sanh tử trong ba cõi. Nếu ông muốn sống chết đi ở thong dong tự tại thì ngay đây hãy nhận rõ “người nghe pháp” không hình không tướng, không gốc không rễ, không chỗ trụ, tự nhiên sống động, ứng ra có muôn thứ phương cách hành động, chỗ dùng chỉ là không chỗ.”
Rõ ràng ngay hiện tiền đây, ai cũng có sẵn “người đang nghe” ấy. Người này không có trong sách vở, kinh điển, giấy mực, không có gì ghi chép được nó, mà nó luôn có mặt với chúng ta. Đó mới là bộ kinh sống, là lời Phật sống. Nhưng chú ý: Nó ứng ra muôn thứ hành động song chỗ dùng chỉ là “không chỗ”. Sao gọi là chỗ dùng chỉ là không chỗ? Vì nó ứng dụng ra tất cả mà không ở một chỗ nào, không trụ vào đâu hết nên nó vẫn nguyên vẹn là nó, vẫn luôn hiện tiền không mê. Nếu vừa có chỗ tức liền vắng mặt ngay chỗ đó!
Vì nhận được chỗ này nên thiền luôn luôn sáng tạo, không bắt chước theo lối mòn, không đạp theo dấu cũ đã chết.
Chẳng hạn về TÁNH THẤY. Kinh Pháp Hoa khai thị tri kiến Phật qua tánh thấy bằng hình ảnh Phật phóng quang giữa chân mày soi suốt đến các cõi ở phương đông, trên thấu trời sắc cứu cánh, dưới thấu cả địa ngục, nhưng chỉ người trong pháp hội thấy thôi, người ngoài không thấy được.
Trong nhà Thiền, thì Thiền sư Thiện Đạo một hôm thượng đường cầm cây gậy chỉ và nói: “Chư Phật quá khứ thì cũng chỉ thế ấy!” “Chư Phật quá khứ cũng chỉ thế ấy” là ở cây gậy sao? Ở kinh Pháp Hoa thì phóng quang, ở đây thì cầm gậy chỉ, có gì khác? Song chính khi cầm gậy chỉ đó, tức đã phóng quang soi đến tròng mắt của mỗi người đang có mặt rồi! Chỗ này người ngoài cuộc làm sao thấy được? Phải mở con mắt thiền thôi.
Hoặc kinh Lăng Nghiêm, Phật giơ tay xòe nắm, phóng ánh sáng qua bên phải bên trái A Nan để khai thị tánh thấy. Thiền sư thì giơ phất tử, chỉ lồng đèn, giơ ngón tay, đâu bắt buộc phải y khuôn phóng hào quang mới được.
Như có vị tăng hỏi Hòa thượng Càn Phong:
– Mười phương Bạc già phạm đều đồng một con đường Niết bàn, thế nào là đầu đường?
Sư lấy cây gậy vạch một đường trong hư không, bảo:
– Đây này!
Vậy ngay khi vạch đường gậy đó, có phóng quang chăng? Phải thấy hào quang đó, nó không thuộc tướng xanh, vàng, đỏ, trắng. Chỗ này vốn vượt ngoài chữ nghĩa, không thể suy nghĩ bắt chước.
Về TÁNH NGHE, như trong kinh Lăng Nghiêm, Phật bảo La Hầu La đánh chuông khai thị cho A Nan: “Tiếng có, tiếng không, tánh nghe vẫn thường trụ.”
Thiền sư thì gọi dạ vẫn đánh thức cho người.
Như bà già đến Thiền sư Đại Đồng thưa:
– Nhà tôi vừa mất trâu, thỉnh thầy bói cho một quẻ xem!
Sư gọi:
– Bà lão!
Bà ứng:
– Dạ!
Sư bảo:
– Đây rồi!
Bà liền vui vẻ ra về, nhận rõ trâu chẳng mất đi đâu. Trâu mất là do theo tiếng mà quên mình. Nghe gọi liền dạ, thì trâu vẫn sẵn đó, rất là ngoan!
Hoặc có vị tăng đến hỏi Hòa thượng Huyền Sa:
– Học nhân mới vào tòng lâm, xin thầy chỉ cho đường vào!
Sư bảo:
– Ông có nghe tiếng nước khe Yển chảy chăng?
Tăng thưa:
– Dạ nghe.
Sư bảo:
– Từ trong ấy mà vào.
Rõ ràng cũng ý đó nhưng Thiền sư dùng rất sáng tạo, đâu cố định phải đánh chuông mới được. Tôn giả A Nan từ tiếng chuông mà vào, thì ở đây ông tăng từ tiếng nước khe mà vào. Bởi then chốt là ở ngay người đang có mặt, không phải ở tiếng chuông hay tiếng nước.
Bởi vậy đối trong nhà Thiền, không thể bắt chước theo lối mòn của người mà phải có chỗ sống chân thật. Bắt chước để nuôi dưỡng tập khí của mình, đó là bệnh không phải thiền.
Như trường hợp hai huynh đệ Tarzan và Ekido đang đi đến ngã quẹo trên con đường lầy lội sau cơn mưa, hai người gặp cô gái xinh xắn trong chiếc áo kimono đứng tần ngần trước khoảng đường lầy. Tarzan không nghĩ ngợi bảo ngay:
– Đi thôi này cô bé!
Tarzan đưa tay nhấc bổng cô gái đưa qua quãng đường lầy.
Từ đó về đến chùa Ekido không buồn nói chuyện một tiếng. Đến chùa Ekido chịu hết nỗi bèn nói với Tarzan:
– Chúng ta là người tu hành, không được gần người nữ, sao sư huynh lại làm như vậy?
Tarzan cười bảo:
– À, tôi đã bỏ cô ấy xuống bên đường đó rồi, còn anh anh mang về tới đây sao?
Giờ đây người học thiền đọc qua chuyện này thấy thích thú rồi cũng bắt chước làm lại để tỏ ra mình là người tự tại, không ngờ chính đó là đã rơi vào cái khuôn của người xưa. Có người đã làm rồi, nay làm lại là đã bắt chước, trong đó chỉ ngầm biểu lộ cái ta, cho thấy ta là người đạt lý thiền sâu xa, tự tại nhưng ở mặt trái là che đậy tâm phóng túng của mình. Như vậy tức đã lộ bản ngã trong đó, lại lầm cho là thiền. Rất nguy! Phải biết chúng ta học ở đó là học yếu nghĩa: Qua rồi liền thôi, không mang theo mãi trong lòng để chịu khổ. Làm rồi không để lại dấu vết trong tâm. Chứ không phải bắt chước y khuôn ở hình tướng.
Người học thiền từng đọc chuyện Thiền sư Thiên Nhiên ở Đơn Hà, thấy đoạn Sư đến chùa Huệ Lâm gặp lúc trời rét, Sư bèn thỉnh tượng Phật bằng gỗ xuống đem đốt để sưởi ấm. Viện chủ Hướng thấy vậy liền quở trách:
– Sao đốt tượng Phật của tôi?
Sư lấy gậy bới tro nói:
– Tôi đốt để lấy xá lợi.
Viện chủ bảo:
– Phật gỗ làm gì có xá lợi?
Sư nói:
– Nếu như thế sao ông lại trách tôi?
Ngay đó Viện chủ rụng lông mày. Sau có bài kệ:
Đơn Hà đốt Phật gỗ
Viện chủ rụng lông mày.
Giờ đây cũng bắt chước thỉnh tượng Phật đem đốt, hoặc bảo là tượng gỗ, tượng đá rồi khinh thường không lễ lạy, là mang họa! Đã có người làm rồi, mình làm lại là thừa, hơn nữa trở thành ngã mạn tội lỗi mà không hay biết thì càng đọa sâu. Khó cứu!
Trên đây là ngài Đơn Hà đánh thức ông Viện chủ, khiến ông vượt qua những phương tiện bên ngoài, thấy lại Phật sống ngay chính mình. Người học thiền cốt đạt được ý sống đó, chớ bắt chước theo việc làm e thành lố bịch.
Để rõ thêm ý này, chúng ta đọc kỹ câu chuyện sau đây:
Trong hội chúng của Thiền sư Bạch Ẩn, có một tăng điên nghĩ rằng mình đã chứng đạt nhất tính với Phật. Ông xé kinh sách và dùng làm giấy vệ sinh. Những thầy khác bắt ông phải sám hối nhưng ông không chịu nghe, còn ngạo nghễ vặn lại:
– Có lỗi gì khi dùng kinh Phật chùi đít Phật?
Có người mách việc này với Bạch Ẩn. Ngài bèn hỏi ông ta:
– Người ta nói anh dùng giấy kinh để đi cầu, phải không?
– Vâng! Chính tôi là Phật. Có lỗi gì khi dùng giấy Phật lau đít Phật?
Bạch Ẩn bảo:
– Anh lầm rồi! Nếu là đít Phật tại sao dùng giấy cũ đã viết rồi? Anh phải chùi bằng giấy trắng sạch.
Vị tăng điên xấu hổ và sám hối.
Câu nói của ông tăng điên “kinh Phật chùi đít Phật”, mới nghe qua tưởng chừng như phải, song với người mắt sáng thấy rõ chỉ là người nói rỗng. Đã là đít Phật thì phải dùng giấy trắng sạch, tức là thấy thấu trước khi nói năng phân biệt, chưa rơi vào chữ nghĩa thì mới khế hợp. Còn ở đây ông bắt chước theo lối mòn cũ rích, tâm ông còn phàm phu thì đít ông là đít chúng sanh chứ đít Phật gì? Đây là gạt người thôi! Bởi vậy người học thiền phải thật sự mở sáng mắt tâm, tự có sức sống chân thật rõ ràng mới không lầm lẫn.
III. TÓM KẾT
Thiền sống hay Phật pháp sống là ở ngay nơi người, trong tự tâm người, luôn luôn sẵn sàng sáng ngời đây, còn phải đợi truyền cái gì nữa? Nói “truyền riêng ngoài giáo” tức ngầm chỉ “Phật pháp chân thật” vốn không nằm nơi những giáo lý bên ngoài. Tất cả những gì vay mượn hãy trả về cho vay mượn, mọi thứ trả về cho mọi thứ, ngay đây thấy biết đúng như thấy biết, nguyên vẹn như nó là nó, không thêm bớt chút gì trong đó xem! Còn ai dối gạt được mình nữa?
Đây nhắc lại đoạn nhân duyên Thiền sư Chân Tịnh ở trong thất hỏi vị tăng:
– Xong hay chưa?
Tăng thưa:
– Chưa xong.
Sư hỏi:
– Ông ăn cháo xong chưa?
Ông thưa:
– Đã ăn xong.
Sư bảo:
– Sao nói chưa xong?
Sư lại hỏi:
– Tiếng gì ở ngoài cửa?
Tăng thưa:
– Tiếng mưa rơi.
Sư bảo:
– Sao nói chưa xong.
Sư hỏi tiếp:
– Trước mặt là cái gì?
Tăng thưa:
– Cái bình phong.
Sư bảo:
– Sao nói chưa xong?
Sư lại hỏi:
– Lãnh hội chăng?
Tăng thưa:
– Chẳng lãnh hội.
Sư bảo hãy nghe bài tụng này.
Theo duyên mọi việc xong
Hằng ngày dùng đâu thiếu
Tất cả chỉ tầm thường
Tự nhiên hết điên đảo.
Tùy duyên ngay chỗ ứng dụng bình thường hằng ngày, thấy nghe vốn đầy đủ tất cả, còn tìm cái gì khác nữa. Cái này đâu thể tìm trong ngữ lục, sách vở, ngữ lục, kinh điển mà có? Hỏi ăn cháo xong chưa? Đáp ăn xong. Hỏi ngoài cửa là tiếng gì? Đáp tiếng mưa rơi. Hỏi trước mặt là gì? Đáp cái bình phong. Mỗi mỗi trả lời rành rõ đó, sao còn chưa tỉnh? Truyền riêng ngoài kinh giáo chính ở đây. Song tối kỵ khởi tâm động niệm. Vừa khởi tâm động niệm liền khuất ngay.
Nói thẳng, thiền là tâm chứng: Phải chứng nghiệm nơi tâm, không thể tìm kiếm từ bên ngoài, không thể chết trên cái khuôn của ngôn ngữ văn tự, không đạp trên dấu vết của người hay theo lối mòn cũ rích, mà phải tự mở một con đường sống. Nghĩa là phải tự sống dậy, vươn lên, tự mở trí vô sư vốn có nơi mình, từ đó ứng dụng ra mới luôn luôn mới mẻ, có sức sống linh diệu, không ở trong một cái khuôn chết nào.
Kính Sơn có 500 chúng mà ít người thưa hỏi. Hoàng Bá sai Nghĩa Huyền đến đó và bảo:
– Ông đến đó sẽ làm thế nào?
Nghĩa Huyền thưa:
– Con đến đó sẽ tự có phương tiện.
Sư đến Kính Sơn tự mang hành lý lên pháp đường gặp Kính Sơn. Kính Sơn vừa ngẩng đầu lên Sư liền hét. Kính Sơn toan mở miệng, Sư phẩy tay áo bỏ đi.
Có vị tăng hỏi Kính Sơn:
– Vị tăng vừa rồi có ý nghĩa gì mà hét Hòa thượng?
Kinh Sơn bảo:
– Vị tăng ấy từ trong hội Hoàng Bá đến, ông cần biết chăng? Hãy đi hỏi y!
Sau đó 500 chúng ở Kính Sơn, hơn phân nửa giải tán. Bởi chính Nghĩa Huyền đã có sức sống chân thật rồi nên tự mình có chỗ tin tưởng, đến đó sẽ tùy duyên ứng dụng, không có cái khuôn sắp đặt sẵn. Kính Sơn vừa ngẩng đầu lên, Sư liền hét vì đã thấy trước ngôn ngữ, không đợi nói ra đã sớm biết rồi. Đúng như hai câu kệ của Thiền sư Quảng Nghiêm:
Làm trai có chí xông trời thẳm
Thôi giẫm Như Lai dấu đã đi.
Mình phải có một sức sống vươn lên,vượt khỏi khuôn khổ tầm thường của thế gian, tự mở một lối đi sáng ngời cho mình, không đạp theo dấu vết chết của Như Lai. Cho nên thiền có một sức sống sáng tạo kỳ diệu không thể nghĩ bàn, chỉ người chứng nghiệm mới cảm nhận được rõ. Đó cũng chính là sự thức tỉnh cho người tu Phật chúng ta: Phải có một sức sống chân thật, vượt ra khuôn khổ chết của ngôn ngữ văn tự sắp đặt sẵn.
Bởi Phật giáo Trung Hoa đến thời Tổ Bồ Đề Đạt Ma thì người học Phật phần nhiều đắm mắc trên giáo nghĩa chết, không thấy được Phật pháp sống, nên Tổ đến Trung Hoa nêu cao lá cờ “giáo ngoại” để đánh thức cho người tỉnh dậy, mở một cái nhìn sáng ngời, vượt qua những hình thức giáo nghĩa, thấy lại mặt thật xưa nay của chính mình, thật không thể nghĩ bàn! Bài kệ của Thiền sư Bạch Ẩn tóm tắt ý này:
Trong hang Tất bát la Chưa kết tập kinh này Đồng Thọ không lời dịch A Nan đâu được nghe Gió bắc qua song cửa Nhạn nam tuyết rơi đầy Trăng núi dáng như gầy Mây lạnh dường mưa rây Ngàn Phật dù xuất thế Không thêm bớt một lời.(Hân Mẫn dịch)
Gió bắc, nhạn nam, trăng núi, mây lạnh, cả một sự lạnh lẽo cô đơn, bặt mọi ý duyên, không có dấu vết cho ngôn ngữ tìm đến. Xin để dành lại nguyên vẹn bộ kinh tinh nguyên này cho người tự mở ra xem vậy!
Ý Chỉ Bất Lập Văn Tự
Song song với “giáo ngoại biệt truyền”, Thiền tông truyền dạy cho nhau là tông “bất lập văn tự”, tức chẳng lập thành chữ nghĩa ngôn từ. Với ý nghĩa này, Thiền tông có một sức sống vươn lên, khó nắm bắt, khiến nhiều người nghiên cứu đến thiền phải đau đầu, bóp trán. Vương Thường Thị một hôm đến thiền viện hỏi Ngài Lâm Tế:
– Cả tăng đường có xem kinh chăng?
Lâm Tế đáp:
– Chẳng xem kinh.
Hỏi: Có học thiền chăng?
Đáp: Chẳng học thiền.
Hỏi: Kinh cũng chẳng xem, thiền cũng không học, vậy cuối cùng làm gì?
Đáp: Thảy dạy họ làm Phật làm Tổ.
Như vậy dạy làm Phật làm Tổ là dạy cái gì mà kinh chẳng xem, thiền chẳng học? Nói thế có kiêu ngạo lắm không? Chính đây là chỗ khiến người đắm mắc chữ nghĩa khó chấp nhận nổi. Tuy nhiên ý nghĩa này cần phải chân thật thấu suốt, không thể lầm lẫn trở thành chê bai chánh pháp, nghiêng lệch vào đường tà, rất nguy hiểm!
* Ngôn ngữ văn tự là tướng vọng tưởng, chẳng phải thật nghĩa.
Đã có nói ra thành lời, có lập thành chữ nghĩa, là từ động niệm rồi kích động khí bên trong, đưa lên môi răng v.v… phát ra tiếng vang, sau đó ghi lại. Đây là tướng vọng tưởng, thuộc vô thường sanh diệt, là cái khuôn chết. Người lầm lẫn chấp chặt vào đó, phân tích chia chẻ, rốt cuộc chỉ đi theo vọng tưởng, không rời khỏi tâm phan duyên, làm sao đạt được thật nghĩa? Kinh Lăng Già, Phật bảo Bồ tát Đại Huệ: “Thế nào là ngữ (lời nói)? Nghĩa là, lời nói do vọng tưởng hòa hợp, y nơi cổ họng, môi lưỡi, răng nướu, cằm má, nhân đó ta nói vọng tưởng tập khí sanh, đó gọi là ngữ. Đại Huệ! Thế nào là nghĩa? Nghĩa là, lìa tất cả tướng vọng tưởng, đó gọi là nghĩa.”
(Lăng Già Tâm Ấn 234-235)
Trong đây, “nghĩa” theo Phật nói là lìa tướng vọng tưởng, không phải cái bị duyên. Trong khi đó, lời nói là tướng vọng tưởng, và khi nói ra là phải có nghĩ tưởng mới nói, và nói thì hẳn là “nói về cái gì đó”, chưa phải chính ngay nghĩa thật. Người nghe rồi theo đó mà khởi hiểu, cũng là hiểu về nó, cũng nằm trong khái niệm thôi. Bởi vậy, không phải có nói ra là có tánh thật, không phải cố định có ngôn ngữ mới thành tựu mọi sự nghiệp(1). Thực tế có những người câm, họ vẫn làm thành tựu sự nghiệp của thế gian, đôi khi còn trội hơn những người đã nói được. Kinh Duy Ma Cật nói trên nước Chúng Hương chỗ Phật Hương Tích chỉ dùng mùi hương làm Phật sự. Kinh nói:
“Lúc ấy ông Duy Ma Cật hỏi các Bồ tát ở nước Chúng Hương rằng:
– Đức Như Lai Hương Tích thuyết pháp bằng cách nào?
Các Bồ tát ấy đáp:
– Đức Như Lai ở cõi chúng tôi chẳng thuyết pháp bằng văn tự, Ngài chỉ dùng các mùi thơm làm cho các trời và người được vào Luật hạnh, Bồ tát thì mỗi vị đều ngồi nơi cội cây thơm, ngửi mùi thơm vi diệu kia liền chứng được tam muội “nhất thiết đức tạng”. Được tam muội đó rồi thì bao nhiêu công đức của Bồ tát có, thảy đều đầy đủ hết”
(Phẩm Phật HươngTích)
Và tiếp theo ở phẩm Bồ tát, Phật Thích Ca đã bảo A Nan: “Hoặc có cõi Phật dùng quang minh của Phật làm Phật sự. Có cõi dùng các Bồ tát làm Phật sự. Có cõi dùng người biến hóa của Phật làm Phật sự. Có cõi dùng cây bồ đề làm Phật sự. Có cõi dùng cơm và đồ ăn làm Phật sự. Có cõi dùng vườn hoa, rừng cây, đền đài làm Phật sự”. Đây là dẫn chứng cho thấy “thật nghĩa của Phật pháp” không cố định ở trong ngôn ngữ, văn tự. Mọi thứ có lập bày ra đều chỉ là phương tiện thôi, người học phải từ đó thấy lại nơi chính mình mới là yếu chỉ. Trong nhà Thiền, các Thiền sư rất điêu luyện về những thủ thuật này. Các Ngài hoặc chỉ giơ ngón tay, đưa đốm lửa, nhìn thẳng nhau cũng khiến người học tỏ ngộ chân lý thiền. Như Hòa thượng Đả Địa, ai đến hỏi đạo Sư chỉ lấy cây gậy đập xuống đất, sau có người giấu gậy đi thì Sư chỉ hả miệng(2). Huệ An trả lời cho Thản Nhiên về “tác dụng thầm kín” bằng cách “nhắm mắt, mở mắt” cũng thành thuyết pháp(3).
Con người vốn lệ thuộc chữ nghĩa quá nhiều, tưởng chừng như ngoài chữ nghĩa là không còn gì nữa! Do đó, phần nhiều người học Phật bị chết trên chữ nghĩa không thoát nổi. Chẳng hạn đã đặt thành chữ “PHẬT”, rồi cứ bám vào đó tìm cầu, phân tích, coi đó là thiêng liêng hơn cả con người. Pháp Dung bị Tứ Tổ Đạo Tín vẽ chữ PHẬT lên chỗ ngồi liền kinh sợ. Tổ đánh thức Sư: “Ông còn có cái ấy”. Phật ở cái chữ đó sao?
Hoặc đặt thành chữ CHÂN NHƯ, PHẬT TÁNH, lại cũng bám vào mấy chữ đó mà đua nhau chú giải, luận bàn thế này thế nọ khiến người học chứa đầy khái niệm trong đầu, cho đó là hiểu biết. Song chân như, Phật tánh ở mớ chữ đó sao? Bởi vậy, Chu Kim Cang – sau này là Hòa thượng Đức Sơn, một Thiền sư nổi tiếng ngang hàng với Ngài Lâm Tế, Sư vốn từ một Pháp sư giảng kinh Kim Cang, khi được bà già bán bánh chỉ đến Hòa thượng Long Đàm – Sùng Tín, qua việc đưa đèn thổi tắt liền tỏ ngộ. Sau khi tỏ ngộ, Sư đem bộ sớ giải kinh Kim Cang từng quý trọng, đi đâu cũng mang theo, chất trước pháp đường châm lửa đốt quách không tiếc, và còn nói: “tột cùng mọi thứ biện luận siêu huyền giống như sợi lông ném trong hư không, tột hết thảy các thứ trọng yếu ở đời in hệt một giọt nước gieo trong hồ to”. Trước kia thì Sư thấy nó quý như của báu, khó ai đụng tới được. Giờ đây mở mắt sáng tỏ mới thấy rõ, dù bao nhiêu lý luận cao siêu huyền diệu, bao nhiêu yếu chỉ quan trọng thế này thế nọ, cũng thuộc sách vở bên ngoài, có dính dáng gì đến “ánh sáng chân thật đang hiện tiền” đây! Nghĩa là, huyền diệu, yếu chỉ đó cũng chỉ là huyền diệu, yếu chỉ chết thôi. Do đó, sau này khi Sư ra giáo hóa, thông cảm với cái bệnh của người mà mình từng trải qua, nên Sư mới có những lời nói mạnh bạo để đánh thức, thúc đẩy cho người sống dậy giữa đám rừng chữ nghĩa khô khan kia. Như có lần Sư thượng đường bảo: “Này các Ngài! Lão Hồ chẳng phải Thánh, Phật là cục cứt của Lão Hồ. Cần thiết các Ngài biện rành tốt xấu, chớ mắc kẹt nhân ngã thì khỏi bị chư thánh cột, bồ đề cột, giải thoát, thù thắng, danh ngôn, diệu nghĩa nhận chìm, trói buộc. Vì sao? Vì một niệm vọng tâm chẳng sạch tức là sanh tử tiếp nối”.
Mới nghe qua chúng ta thấy Sư nói sao thô bạo quá! Song nghiệm kỹ, nghiệm sâu thì thấy rõ ý Sư rất là tha thiết với người. Cứ nhận cho Thánh, cho Phật là thân tướng ông già mấy chục ký người Ấn Độ, có sanh ra, có già nua, có chết đi đó sao? Như vậy là phỉ báng Phật rồi! Là cho Phật cũng thuộc về vô thường sanh diệt như ai! Thế thì sao gọi là Thánh? Sư bảo: “Phật là cục cứt của Lão Hồ” tức chữ Phật đó là danh từ gán cho Lão Hồ đấy thôi, đâu phải chính Ngài! Sư muốn đánh thức cho người học Phật phải thấy rõ “cái gì là Phật kìa?”, chớ chết trên cái chữ đó; cũng chớ theo đó mà mắc kẹt trên cái thấy nhân ngã, ta người, phân chia mình là phàm, kia là thánh, bị những danh từ bồ đề, giải thoát nó cột, ở trên đó mà sanh hiểu, dù hiểu được cũng thuộc duyên sanh, đâu là bồ đề thật? Đây là ngài Đức Sơn muốn đưa người thẳng vào sức sống chân thật, thoát ra gông cùm xiềng xích của chữ nghĩa khô chết, tự cảm nhận thánh thiêng liêng ngay chính mình mới không phụ lòng Phật ra đời!
Thiền sư Hiểu Thuấn cũng từng nói lên ý này, Sư bảo: “Nghe nói hai chữ Phật pháp sớm đã làm nhơ tai mắt của ta rồi. Mọi người chưa nhảy qua cửa Vân Cư(4), dưới gót chân khéo cho 30 gậy. Tuy nhiên như thế là hết sức vì chúng rồi”.
Tại sao hai chữ “Phật pháp” mà làm nhơ tai mắt? Đó là nhắc người phải xoay lại mình, thấy chính chắn cái gì là Phật pháp thật? Nên bảo: “Chưa nhảy qua cửa Vân Cư thì dưới gót chân khéo cho 30 gây”, tức là hãy nhìn xuống dưới gót chân mình, chớ chạy tìm đâu khác! Chữ nghĩa không giải thích được chỗ này. Bởi thế, Lục Tổ Huệ Năng hiện thân anh chàng tiều phu không biết chữ mà đạt đạo, được truyền y bát, kế thừa Tổ vị, nhằm đánh mạnh vào những tâm hồn còn đang giam mình trong chữ nghĩa hoặc hài lòng với trí thức vay mượn bên ngoài kia. Chính Lục Tổ từng bảo Bà Ni Vô Tận Tạng khi bà đem kinh Niết Bàn đến hỏi nghĩa rằng:
– Chữ thì tôi không biết, nghĩa thì cô cứ hỏi.
Bà Ni nói:
– Chữ còn không biết, nghĩa làm sao hiểu?
Lục Tổ bảo:
– Diệu lý của chư Phật chẳng quan hệ gì đến văn tự.
Bà mới kinh ngạc đi báo cho mọi người biết là có bậc đạo sĩ đáng cúng dường.
Ban đầu bà Ni vẫn theo chỗ hiểu biết thông thường của tri thức thế gian, không biết chữ thì làm sao hiểu được nghĩa, nói nghe quá trái tai? Không ngờ bị Tổ đâm thẳng cho một câu mới giật mình “Diệu lý của chư Phật chẳng quan hệ gì đến văn tự.”. Đây là điểm nhức nhối cho nhiều người học Phật, may là lời của Tổ! Quả thực, lý mầu nhiệm không riêng của Phật Thích Ca thôi, mà của hết thảy chư Phật vốn ở ngay tâm người, đâu phải ở mấy đám chữ nghĩa kia. Người sáng đạo là sáng ngay tự tâm, đâu thể tìm trong sách vở, ngữ lục nào? Tâm sáng thì lý thông suốt, lẽ thật rõ ràng như thế; song người quen sống theo chữ nghĩa khó chịu nỗi. Vì thế, một anh chàng nhà quê không biết chữ mà đạt đạo, lãnh y bát mang đi thì đa số người không thể chấp nhận được, phải đuổi theo giật lại thôi! Nhưng Tổ đâu phải ở cái y, cái bát đó! Chính đây là điểm nhắc cho người tu Phật chân thật cần nghiệm kỹ!
* Những tiếng sấm im lặng
Đối trong nhà Thiền, chỗ IM LẶNG của Thiền sư là chỗ hết sức khó vượt qua, phần nhiều người học mắc kẹt trongđó. Tuy nhiên đây là những cái IM LẶNG SẤM SÉT CHẾT NGƯỜI, phải một phen từ trong đó sống dậy mới cảm thông chỗ nhiệm mầu của Phật pháp quá sức suy nghĩ!
Ngoại đạo hỏi Phật: Có vị ngoại đạo đến gặp Phật và hỏi:
– Chẳng hỏi có lời, chẳng hỏi không lời.
Thế Tôn im lặng giây lâu. Ngoại đạo tán thán:
– Thế Tôn đại từ đại bi vẹt mây mờ cho con khiến con được vào.
Ngoại đạo đi rồi, tôn giả A Nan hỏi Phật:
– Ngoại đạo chứng được cái gì mà nói được vào?
Phật bảo:
– Như ngựa hay ở đời, thấy bóng roi liền vọt.
Xem đấy, Thế Tôn chỉ im lặng mà ngoại đạo tán thán là đại từ đại bi vén mây mờ, vậy đại từ đại bi ở chỗ nào? Rõ ràng trong chỗ im lặng đó có “ý sâu”, không phải tầm thường qua suông. A Nan thắc mắc ngoại đạo nhận được cái gì trong đó mà nói được vào? Phật thố lộ: “Như ngựa hay thấy bóng roi liền vọt”. Đây là ngầm chỉ: im lặng đó, chỉ là bóng roi, người nhạy bén phải ngay đó liền vọt mới cảm được lợi ích vi diệu không thể nghĩ bàn. Cho nên trong chỗ im lặng đó, thật đầy đủ muôn ngàn diệu nghĩa diễn tả không hết. Ngoại đạo quả đúng là tâm cơ đến lúc chín muồi, đỡ cho Phật nhọc nhằn biết mấy! Trong khi đó, hiện giờ người người đợi roi quất trúng thật đau, vẫn còn chưa vọt! Tức nói mạnh, nói chát tai mà chưa tỉnh. Tuy nhiên chớ nghe tán thán như thế mà bám vào chỗ im lặng đó để tìm ngộ là lầm. Cho nên sau này Hòa thượng Thường đến tham vấn với Ngài Pháp Nhãn, Pháp Nhân dạy Thường khán câu này. Một hôm Pháp Nhãn hỏi Sư:
– Ông khán nhân duyên gì?
Thường thưa:
– Nhân duyên ngoại đạo hỏi Phật.
Pháp Nhãn bảo:
– Thử thuật lại xem!
Thường vừa định mở miệng thuật lại, Pháp Nhãn bảo:
– Dừng, dừng! Ông toan nhằm chỗ im lặng lãnh hội ư?
Ngay đó Sư đại ngộ.
Nếu nghe nói ngoại đạo nhân Phật im lặng mà được đường vào, rồi cứ nhằm chỗ im lặng đó mà suy tìm, mà khởi hiểu là chết chìm không hay. Pháp Nhãn khéo giúp cho Hòa thượng Thường vượt qua ngôn ngữ văn tự, liền đó vọt ngay mới bắt theo kịp ngoại đạo kia, khiến chuyện cũ cả ngàn năm vẫn sáng ngời. Giờ đây, có ai nghe đến chỗ này mà biết “vọt” như thế chăng?
Chẳng hỏi có lời, chẳng hỏi không lời, vậy cái gì nói đó?
Ngay đây xin tạ lỗi với người xưa!
– Duy Ma Cật im lặng, Văn thù tán thán: phẩm Pháp Môn Không Hai, khi các Bồ tát nói xong, kế Bồ tát Văn Thù nói:
– Theo ý tôi thì, đối tất cả pháp không nói, không lời, không chỉ, không biết, lìa mọi hỏi đáp, đó là vào pháp môn không hai.
Xong ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật:
– Chúng tôi mỗi người đã tự nói xong, tới phiên ông hãy nói những gì là Bồ tát vào pháp môn không hai?
Khi đó ông Duy Ma Cật im lặng. Ngài Văn Thù liền khen ngợi:
– Hay thay! Hay thay! Cho đến không có văn tự, ngữ ngôn mới là chân thật vào pháp môn không hai.
Ồ! Cái im lặng của ông Duy Ma Cật cho đến ngày nay, qua bao nhiêu nhà giải thích nhưng vẫn không chỉ ra được hết. Phải nói, chính đây là chỗ tri âm gặp nhau: ông Duy Ma Cật im lặng, phải có Bồ tát Văn Thù khen ngợi mới thành vi diệu, mới vang đến tận ngày nay; nếu không thì nó đã bị im lìm quên lãng theo thời gian mất rồi! Song Bồ tát Văn Thù thấy gì trong đó mà khen ngợi? Hẳn là trong chỗ im lặng đó, vốn vang như sấm. Ngay đây có ai chợt nghe được “tiếng sấm im lặng” này chăng? Nếu chỉ dừng ngay chỗ im lặng đó để hiểu, là dễ chết trong chỗ lờ mờ, tối tăm. Vì im lặng cũng là đối với nói năng, vẫn y nguyên là tướng sanh diệt, có gì mà khen ngợi? Quả là, trong chỗ im lặng đó, có con mắt của ngài Văn Thù trong ấy. Im lặng mà sáng ngời, ngôn ngữ làm sao nói hết? Cần vượt qua chỗ im lặng này, thì thấu rõ ý chỉ “Bất lập văn tự” sáng như ban ngày!
Phó Đại Sĩ giảng kinh Kim Cang: Một hôm Lương Võ Đế thỉnh Phó Đại Sĩ vào cung giảng kinh Kim Cang. Đại Sĩ lên tòa ngồi, vỗ xuống bàn một cái, rồi bước xuống tòa. Võ Đế ngạc nhiên, Hòa thượng Chí Công hỏi:
– Bệ hạ có lãnh hội chăng?
Vua đáp:
– Chẳng lãnh hội.
Chí Công bảo:
– Đại Sĩ đã giảng kinh xong.
Dễ hiểu chăng? Đại Sĩ giảng kinh ở chỗ nào mà Chí Công bảo giảng xong? Chính ngay chỗ mọi người chẳng suy đến, chẳng hiểu đến, đó là gì? Chớ vội lầm qua chỗ này! Nếu cứ giảng kinh Kim Cang Bát Nhã là trí tuệ sắc bén như kim cương, hay phá vỡ tất cả vô minh, tình chấp ngã…, thì có phải là Kim Cang Bát Nhã chưa? Ở đây cần thấy, ngay chỗ Vua Lương chẳng hiểu đó, là gì? Cái gì Biết chẳng hiểu? Kim Cang Bát Nhã sẵn ngay đó thôi. Đây là thay cho cái im lặng bằng cái vỗ bàn, đưa người vượt thẳng qua ngôn ngữ, văn tự bên ngoài.
Nơi Bá Trượng: Có vị tăng đến hỏi Sư:
– Thế nào là Phật?
Sư bảo:
– Ông là ai?
Tăng thưa:
– Là con.
Sư hỏi:
– Ông có Biết chăng?
Tăng thưa:
– Con Biết rõ ràng.
Sư đưa cây phất tử lên hỏi:
– Ông thấy chăng?
Tăng thưa:
– Dạ thấy.
Sư im lặng.
Ồ! Ai phá tan được cái im lặng này? Tại sao đến đó Sư chỉ im lặng, là có trả lời thỏa đáng cho vị tăng chăng? Kìa, hỏi – đáp rõ ràng đó, đối diện Biết rành rẽ, thấy nghe đầy đủ không chối cãi, vậy còn phải nói gì nữa đây? Ngay đó im lặng mà như một quả đấm trời giáng, một tiếng sấm vang chát tai, còn chưa tỉnh thì phải đợi đến bao giờ?
Đây này, Tuyết Phong tiển Song Phong có câu: “Sấm dứt, tiếng chẳng dừng”. Linh Vân Chí Cần nói lại: “sấm vang, chẳng nghe tiếng”. Tại sao sấm đã dứt mà tiếng chẳng dừng? Tiếng đó ở đâu? Làm sao nghe? Tại sao sấm vang lại chẳng nghe tiếng? Chẳng nghe, sao bảo là sấm vang? Chỗ này làm sao thấu được? Nếu người còn kẹt ở tai mắt thì hẳn là khó thấu qua. Trong đây, phải thấy thấu qua hai tròng mắt này! Phải nghe thấu qua hai màng nhĩ này! Nghe đến không chỗ nghe thì nó nghe mãi không bao giờ dứt. Đến đây, văn tự bám vào đâu để lập?
* Phải thấy ý ngoài lời
Đến chỗ tột cùng là phải quên lời đạt ý, thấy thẳng trước khi mở miệng: Giáo ngoại biệt truyền cũng chính đó! Bất lập văn tự cũng chính đó!
Kìa, trong hội Mã Tổ, Hoài Hải sau khi bị vặn mũi tỏ ngộ, hôm sau Mã Tổ thượng đường xong, Sư ra cuốn chiếu, Mã Tổ trở về phương trượng. Buổi thuyết pháp rất đơn giản, ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Sau có vị tăng đem việc này ra hỏi Thiền sư Tỉnh Niệm ở Thủ Sơn:
– Ý đó thế nào?
Thủ Sơn đáp:
– Áo rồng vừa phất toàn thể hiện.
Trong đây, tại sao Mã Tổ mới thượng đường chưa nói gì, Hoài Hải lại cuốn chiếu, có thô lỗ chăng? Bởi thượng đường tức là sắp nói pháp, nhưng đối với Hoài Hải, Sư đã thấu việc này vốn sẵn vậy rồi, khỏi phải đợi nói thêm! Tức Sư đã thấu qua trước khi ngôn ngữ lập bày. Vì vậy Thủ Sơn đáp: Áo rồng vừa phất thôi thì biết rõ Vua đã hiện rồi!
– Đến Thiền sư Duy Nghiễm ở Dược Sơn: Lâu ngày Sư chẳng thăng đường nói pháp, Viện chủ thưa:
– Đại chúng lâu ngày nghĩ nhớ Hòa thượng chỉ dạy.
Sư bảo:
– Hãy đánh chuông đi!
Khi đánh chuông xong, chúng vừa nhóm họp. Sư liền xuống tòa trở về phương trượng. Viện chủ theo sau hỏi:
– Hòa thượng đã hứa vì chúng nói chuyện, vì sao chẳng nói một lời?
Sư bảo:
– Kinh có Thầy giảng kinh, luận có Thầy giảng luận, đâu trách được lão tăng.
Có lạ chăng? Dược Sơn đã hứa thượng đường, nhưng lên pháp tòa, chúng nhóm họp xong liền xuống tòa, vậy đã nói cái gì?
Có phải ngầm bảo: “việc ấy” mỗi nguời đã sẵn đủ, còn đợi cái gì? Nếu không có việc đó, sao mọi người Biết đến nhóm họp đây? Đợi mở miệng ra e người dễ theo lời hiểu, là tự trái bỏ chính mình! Ý chỉ “Bất lập văn tự” thật đã sáng ngời trong đó quá rồi!
Và kia, Bàng Uẩn hỏi Mã Tổ:
– Thế nào là người chẳng cùng muôn pháp làm bạn?
Mã Tổ bảo:
– Đợi ông hớp một hớp cạn hết nước Tây giang, ta sẽ nói cho ông.
Nước Tây giang làm sao uống cạn trong một hớp? Nếu nghe nói uống, rồi nghĩ uống thì bao giờ uống cho xong? Đợi nói ra để hiểu, tức đã có bạn, là nuớc đầy tràn lênh láng rồi, làm sao uống? Trong đây, dù nói hay cách mấy, cũng không bao giờ nói đến chỗ rốt ráo không bạn kia. Chỉ ngay đây hết chỗ duyên, tức liền sáng tỏ, khỏi phải nhiều lời.
* Dùng được văn tự một cách sáng tạo
Nói “Bất lập” không có nghĩa là bỏ hết ngôn ngữ, im lặng mãi suốt đời. Nếu hiểu như thế lại thành kẹt theo ngôn ngữ “bất lập”, vẫn y nguyên nằm trong lưới văn tự. Cần rõ, đây là muốn nhắc cho người học, phải NHẢY qua văn tự, khi đã qua văn tự rồi, trở lại dùng văn tự một cách sáng tạo, không còn lầm lẫn. Đó mới thực là không kẹt văn tự. Còn nghe nói “chẳng lập” rồi dẹp bỏ hết, tức là đã chấp kẹt vào chữ nghĩa “chẳng lập”, thành ra rơi vào đoạn diệt, cũng thuộc hai bên đoạn thường. Hơn nữa, Lục Tổ đã nói trong phẩm Phó Chúc, Kinh Pháp Bảo Đàn như sau: “Người chấp không sẽ có chê bai kinh, nói thẳng chẳng dùng văn tự. Song đã nói chẳng dùng văn tự, người ấy cũng chẳng nên nói năng. Chỉ lời nói này, chính là tướng văn tự rồi! Lại bảo rằng nói thẳng chẳng lập văn tự, chính hai chữ chẳng lập cũng là văn tự, mà thấy người nói ra liền chê bai người ta, nói là dính mắc văn tự.”
Đây là Lục Tổ chích thẳng vào người nói suông mà không có thực sống, miệng cứ nói chẳng dính mà tâm thì kẹt cứng. Đó là chính mình tự mâu thuẫn với chính mình, ló cái đuôi cho người thấy! Quả tang không phải là Thiền giả thứ thiệt.
Có Luật sư Pháp Minh đến nói với Thiền sư Tuệ Hải:
– Các Thiền sư phần nhiều rơi vào không.
Thiền sư Tuệ Hải bảo:
– Trái lại, các giảng sư, pháp sư phần nhiều rơi vào không.
Pháp Minh hoảng sợ hỏi:
– Tại sao rơi vào không?
Tuệ Hải bảo:
– Kinh luận là giấy mực, văn tự; giấy mực, văn tự đều là không (duyên hợp không thật thể), dù là trên tiếng dựng lập danh cú, văn thân (câu nói, nghĩa lý) đâu chẳng phải là không, mà tọa chủ bám chặt vào giáo thể thì hẳn là rơi vào không chứ gì!
Pháp Minh hỏi:
– Thiền sư rơi vào không chăng?
Sư đáp:
– Chẳng rơi vào không.
Pháp Minh hỏi:
– Sao lại chẳng rơi vào không?
Sư đáp:
– Văn tự…, đều từ trí tuệ mà sanh, đại dụng hiện tiền đâu thể rơi vào không!
Cho thấy, với Thiền sư đã thông suốt thì ứng dụng văn tự một cách tự tại không lầm, sáng suốt không mê, dùng mà không chấp, không kẹt, chẳng đồng với người còn trong tình chấp, nghe đâu vướng đó. Cho nên, ban đầu Pháp Minh theo sự suy tưởng cho là Thiền sư rơi vào không, chẳng ngờ bị Thiền sư lật lại, chính ông mới lọt vào không mà không hay biết. Bởi, Thiền sư là đã mở mắt trí tuệ, từ trí tuệ ứng dụng ra nên dùng văn tự mà vẫn sáng ngời, ngay lúc dùng đó vẫn có mặt ánh sáng chân thật rõ ràng thì “không” ở chỗ nào?
Chính Hòa thượng Triệu Châu nhân một hôm đang tham thiền ban đêm, Sư bảo tăng:
– Sáng lại chưa sáng, nói tối thì sắp sáng, ông ở bên nào?
Tăng thưa:
– Chẳng ở hai đầu.
Sư bảo:
– Thế ấy tức ở khoảng giữa.
Tăng thưa:
– Nếu ở khoảng giữa, liền ở hai đầu.
Sư bảo:
– Ông tăng này bao lâu rồi ở nơi lão tăng, trong này nói năng thế ấy chẳng ra khỏi ba câu. Song dù cho ra được cũng ở trong ba câu, ông làm sao?
Tăng thưa:
– Con sai khiến được ba câu.
Sư bảo:
– Sao chẳng nói sớm thế ấy?
Tại sao dù ra khỏi ba câu, vẫn ở trong ba câu? Đây là chỗ phải có con mắt Thiền sư mới thấu nổi. Theo ngôn ngữ mà hiểu là không thể hiểu thấu. Bởi, khi nói “ra khỏi ba câu” thì ở đâu mà ra khỏi? Tức là ở trong ba câu chứ gì? Thì chỗ thấy vẫn chưa rời khỏi ba câu! Trong đây, ông tăng tự có chỗ sống thật, nên đáp vững vàng: “con sai khiến được ba câu”. Quả thực như thế mới là tự tại! Người đạt ý chỉ “bất lập văn tự” không thể thiếu con mắt này!
Và đây, vị tăng tên Minh Giáo đến tham vấn Thiền sư Đạo Nhàn ở La Sơn, Sư hỏi:
– Ông tên gì?
Tăng thưa:
– Dạ, tên Minh Giáo.
Sư bảo:
– Lại có lãnh hội Giáo hay chưa?
Tăng thưa:
– Tùy phần.
Sư dựng nắm tay lên bảo:
– Trên hội Linh Sơn gọi cái này là gì?
Tăng thưa:
– Là Giáo nắm tay.
Sư cười bảo;
– Nếu thế ấy gọi là giáo nắm tay thì – Sư bèn duỗi hai chân ra nói: – Cái này là giáo gì?
Tăng không nói được. Sư bảo:
– Phải chăng là Giáo bàn chân?
Đấy, Thiền sư khéo léo nhân tên Minh Giáo(5) của ông tăng, Sư muốn khai thị lẽ thật nơi ông. Đáng tiếc ông tăng chưa qua khỏi cái hiểu bên ngoài, đành để lầm qua trước mắt. Nếu ông khéo thấy, thì chính ngay khi Thiền sư Đạo Nhàn giơ nắm tay lên bảo: “Trên hội Linh Sơn gọi cái này là gì?”, liền thưa: “Cảm ơn Hòa thượng chỉ dạy” là xong, đâu nhọc phải nói Giáo bàn tay làm gì? Người còn kẹt trên kiến giải cần nghiệm kỹ điểm này!
* Chú thích
(1). Dẫn Kinh Lăng Già, Phật bảo Bồ tát Đại Huệ:
Đại Huệ! Chẳng phải tất cả cõi nước có ngôn thuyết. Ngôn thuyết là tạo tác vậy. Hoặc có cõi Phật nhìn xem mà hiển bày pháp, hoặc có cõi Phật làm ra hình tướng, hoặc có cõi nước nhướng mày, hoặc có cõi nước chớp mắt, hoặc cười, hoặc ngáp, hoặc tằng hắng, hoặc có cõi nước suy nghĩ, hoặc dao động. Đại Huệ! Như thế giới Chiêm Thị và Hương Tích, cõi nước Phổ Hiền, Như Lai chỉ dùng nhìn xem khiến các Bồ tát được vô sanh pháp nhẫn và các tam muội thù thắng. Thế nên, chẳng phải ngôn thuyết có tánh, có tất cả tánh. Đại Huệ! Thấy ở thế giới này ruồi lằn, trùng kiến, các chúng sanh ấy không có ngôn thuyết mà mỗi loài đều làm việc xong xuôi.
(Kinh Lăng Già Tâm Ấn, trang 200)
(2). Hòa thượng Đả Địa nhận được ý chỉ nơi Mã Tổ, Sư thường ẩn danh. Mỗi khi có người tham học đến hỏi đạo, Sư chỉ lấy gậy đập xuống đất chỉ đó nên gọi là Hòa thượng Đả Địa. Một hôm bị vị tăng giấu cây gậy đi, sau đó hỏi Sư, Sư chỉ há miệng.
Có vị tăng hỏi môn nhân của Sư:
– Chỉ như Hòa thượng mỗi này có người hỏi liền đập đất, ý chỉ thế nào?
Môn nhân liền lấy một mảnh củi trong bếp ném vào trong nồi.
(Ngũ Đăng Hội Nguyên)
(3). Thản Nhiên đến hỏi Quốc Sư Huệ An:
– Thế nào là ý Tổ Sư từ Tây sang?
Quốc Sư đáp:
– Sao chẳng hỏi ý của chính mình?
Thản Nhiên hỏi:
– Thế nào là ý của chính mình?
Quốc Sư đáp:
– Nên xem tác dụng thầm kín.
Thản Nhiên hỏi:
– Thế nào là tác dụng thầm kín?
Sư liền “nhắm mắt”, “mở mắt” chỉ đó.
(Ngũ Đăng Hội Nguyên)
(4). Nơi Sư ở.
(5). Sáng tỏ được giáo.
II. TINH THẦN THỂ NGHIỆM CỦA THIỀN
Nói “giáo ngoại biệt truyền”, nói “bất lập văn tự”, với tinh thần đó, thiền luôn luôn đòi hỏi người học phải tự thể nghiệm thực sự nơi chính mình, bằng một sức sống chân thật ngay trong lòng mình, chớ không thể chỉ hiểu suông. Phật pháp sâu xa mầu nhiệm đã trải qua thời gian dài của sự truyền bá, mà phương tiện truyền bá ở cõi Ta bà này lại là ngôn ngữ văn tự, vì vậy con người dần dần lọt vào cái khuôn chữ nghĩa, thiếu mất sức sống chân thật nơi tự tâm, đó là điều Phật Tổ hằng lo lắng. Nếu không có sự thể nghiệm ấy, thì làm sao có sức chuyển hóa tập khí chính mình, có sức thắng được phiền não sanh tử? KHẨU ĐẦU THIỀN, Thiền đầu môi, là câu mà các Thiền sư thường quở trách, mình có vượt khỏi được chưa?
Hòa thượng Châu Hoằng, một hôm Sư đang chép kinh Thập Thiện, có ông tăng đến nói với Sư:
– Trong pháp của tôi thì một hạt bụi chẳng lập, đâu bày ra mười hạnh (thập thiện) làm gì?
Hòa thượng Châu Hoằng liền bảo:
– Năm uẩn lăng xăng, bốn đại dẫy đầy, sao bảo là không hạt bụi?
Tăng nói:
– Bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng phải có.
Bất ngờ Sư tát cho ông một tát tai bảo:
– Hạng học nói suông như mè, như lúa, chưa đúng hãy nói lại!
Tăng không đáp được bực bội đứng dậy. Sư cười bảo:
– Bụi bặp đã lấp đầy mặt rồi, sao ông chẳng phủi đi?
Nói “một hạt bụi chẳng lập” nghe hay qua nhưng bị tát một cái liền bực bội thì có lập hay không? Ngay đó thì “bốn đại vốn không, năm ấm chẳng phải có” đã bay đi đâu mất rồi! Do đó, Hòa thượng Châu Hoằng mới bảo: “Bụi bặp đã lấp đầy mặt rồi, sao chẳng phủi đi?” Chớ nói suông vô ích!
Bởi vậy, Thiền tông rất chú trọng đến sự thể nghiệm, thường quở trách Thiền trên chót lưỡi, và hay đả phá kiến giải suông, đưa người thẳng vào. Na-in, một Thiền sư Nhật thuộc thời Minh Trị Thiên Hoàng (1868 – 1912), nhân một hôm có vị giáo sư đại học đến hỏi về thiền. Thiền sư rót trà mời ông. Tách trà đã đầy, nhưng Thiền sư cứ tự nhiên rót tiếp không ngừng. Nước tràn ra ngoài. Vị giáo sư không kềm được nữa, phải thốt lên:
– Đầy tràn rồi! Xin thầy đừng rót nữa!
Thiền sư Nan-in thong thả bảo:
– Cũng giống như tách nước này, trong ông cũng đầy ắp những quan niệm, những tư tưởng của ông thì làm sao tôi còn có chỗ để tỏ bày thiền cho ông được, trừ khi ông chịu cạn cái tách của ông trước đi!
Thật là một ý nghĩa thâm thúy! Câu chuyện ngầm nói lến, người đến với thiền mà trong đầu còn chứa đầy ắp những kiến thức vay mượn, ôm một khối to khái niệm hiểu biết thì còn mong gì tiếp nhận được nữa! Như thế là đến để phô bày kiến thức, đâu phải đến để học thiền!
* Thiền nhổ đinh tháo chốt, không lập một pháp.
Chính vì lẽ trên, thiền vốn không lập một pháp thật, không có gì để cho người nhận, chỉ cốt nhổ đinh tháo chốt, cởi mở tình chấp cho người, khiến người tự sống dậy. Hỏi: Thế nào là Phật. Đáp: Ba cân gai. Thì có gì để hiểu? Có gì để nhận? Chừng nào trong đầu bạn còn có một khái niệm, cón có một kiến giải chắc thật thì Thiền sư vẫn còn đập phá để cho trong lòng bạn thật rỗng rang không một vật mới mong khế hợp cơ thiền. Hãy nhìn Huệ Nam bị Từ Minh mắng chửi! Sư ở pháp hội của Thiền sư Thê Hiền được cử làm thư ký. Chợt Thê Hiền tịch, quận thú mời Từ Minh đến trụ trì. Được tin này Sư rất vui mừng, có cơ hội để nghiệm xét lời Văn Duyệt nói với Sư trước kia, lúc ở Tây Sơn, Duyệt đã thúc đẩy Sư đến gặp Từ Minh.
Khi Từ Minh đến, Sư trông thấy ngài thì thân tâm đều cung kính. Kế nghe Từ Minh luận nói, phần nhiều ngài chê các nơi, mỗi điều đều trách là thuộc tà giải. Chính chỗ Sư được mật chỉ nơi Phần Đàm cũng bị bác bỏ. Sư nhớ lại lời nói của Văn Duyêt lúc trước rất đúng. Sư liền thay đổi quan niệm nói:
– Đại trượng phu trong thâm tâm cứ nghi ngại hoài sao?
Sư liền vào thất Từ Minh thưa:
– Huệ Nam tối dốt, trông đạo mà chưa thấy. Giờ tham thiền khi hôm, nghe thầy dạy, như người đi lạc đường được xe chỉ nam. Cúi xin Hòa thượng đại từ bố thí pháp khiến cho con được hết nghi ngờ?
Từ Minh cười bảo:
– Thư ký đã lãnh đồ chúng và du phương nổi tiếng khắp tùng lâm, nếu còn có nghi ngờ thì chẳng cần khổ cầu như vậy, hãy ngồi mà thương lượng (bàn bạc).
Từ Minh liền gọi thị giả đem ghế mời Sư ngồi. Sư vẫn từ chối và thành khẩn tha thiết cầu chỉ dạy.
Từ Minh bảo:
– Thư ký học thiền Vân Môn ắt thông được yếu chỉ ấy. Như nói: “Tha Động Sơn ba gậy”, Động Sơn khi ấy nên đánh hay chẳng nên đánh?
Sư thưa:
– Nên đánh.
Từ Minh nghiêm nghị bảo:
– Nghe tiếng “ba gậy”, liền cho là nên ăn gậy, vậy ông từ sáng đến chiều nghe chim kêu, trống đánh, tiếng chuông, tiếng bảng cũng nên ăn ba gậy. Thế thì ăn gậy đến lúc nào mới thôi?
Sư chỉ nhìn sững mà thôi.
Từ Minh lại bảo:
– Tôi lúc đầu nghi không thể làm thầy ông. Giờ đây đã đủ tư cách làm thầy ông. Ông hãy lễ bái đi!
Sư lễ bái xong, đứng dậy. Từ Minh nhắc lại lời trước:
– Nếu ông lãnh hội được ý chỉ Vân Môn thì, Triệu Châu thường nói: “Bà già ở Đài Sơn bị ta khám phá, thử chỉ ra chỗ khám phá xem?”
Sư mặt nóng hực, mồ hôi xuất hạn, không biết đáp thế nào, bị Từ Minh đuổi ra.
Hôm sau Sư lại vào thất, bị từ Minh mắng chửi. Sư hổ thẹn nhìn những người bên cạnh nói:
– Chính vì chưa hiểu mới cầu quyết nghi, mắng chửi đâu phải quy củ từ bi thí pháp!
Từ Minh cười bảo:
– Đó là mắng chửi sao?
Ngay câu này, Sư đại ngộ.
Như vậy Từ Minh mắng chửi Huệ Nam có gì lạ? Bởi Huệ Nam đã là thư ký, đã từng chứa một bụng thiền rồi, lại kẹt theo lời, theo tiếng, nên Từ Minh mắng chửi cho nó xẹp, nó bể đi, cho hết còn chỗ để bám, mới bừng dậy sức sống mới. Nếu cứ để nó óc ách trong lòng, nó nặng trĩu trong đầu, thì lại nuôi lớn ngã kiến và luôn bao bọc chung quanh một lớp si mê vô hình này, làm sao có kẻ hở để lóe sáng? Nghe mắng chửi hiểu là mắng chửi, tức là theo tiếng sanh hiểu nữa rồi. Vì vậy Từ Minh đánh thức: “Đó là mắng chửi sao?” Liền đó Huệ Nam chợt tỉnh dậy, vượt qua mọi khái niệm trong đầu.
Còn đây, Tuyết Phong hỏi Hòa thượng Đức Sơn:
– Việc trong tông thừa con có phần chăng?
Đức Sơn đánh cho một gậy bảo:
– Nói cái gì?
Sư liền như thùng lủng đáy.
Thùng lủng đáy tức lọt tuốt tất cả, không còn chứa lại một chút gì. Vậy mà ở Ngao Sơn, Sư còn thú thật với Nam Đầu: “Tôi thật còn chưa ổn.” Và chính nhờ Nam Đầu trợ giúp mới thành đạo tại Ngao Sơn này.
“Chẳng mai một phen sương lạnh buốt
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương”.
Hoàng Bá đã từng nhắc nhỏ, cảnh tỉnh cho người học thiền như thế. Bởi các ngài đã từng nếm qua việc này, từng kinh nghiệm xương máu nên mới nói ra những lời thành thật như trên. Người kiến giải cho đó là tầm thường. Người chứng nghiệm thì cảm sâu tận xương tủy, khó nói hết bằng lời, do đó rất thấm thía!
* Thể nghiệm ở đâu?
Đã biết thiền cần phải thể nghiệm, không thể nói suông, nhưng thể nghiệm ở đâu?
Hỏi ở đâu lại là chưa biết thiền. Có ở đâu là thuộc cái bên ngoài, là đi vào chữ nghĩa nữa rồi. Thiền là phải thể nghiệm nơi tự tâm thôi, không thể có ở đâu khác. Có vị tăng hỏi Hòa thượng Triệu Châu:
– Khi ở ngay tâm, tâm chẳng lường biết thì thế nào?
Sư bảo:
– Lường biết ai?
Sư bảo:
– Không hai kẻ.
Đã ở ngay tâm, còn hỏi gì nữa? Hỏi như thế là chứng tỏ mình đang ở ngoài rồi. Bởi vậy trong đây vừa hỏi ở đâu, là xa mất ngay. Bởi, có ở đâu tức đặt thành chỗ nơi; mà có chỗ nơi tức bị dời đổi, đi vào luân hồi, xoay chuyển không biết ngày dừng!
Bảo Triệt cùng Đơn Hà đi đến núi Ma Cốc, Sư liền nói:
– Tôi đến trong đó trụ.
Đơn Hà bảo:
– Trụ tức lại trở về, có cái này không?
Sư nói:
– Trân trọng!
Đây cho thấy rõ, hễ vừa có trụ tức thành có chỗ, mà có chỗ là rơi lại sanh tử, là quên mất chính mình. Với tâm phàm thì luôn luôn phải tìm chỗ nơi, bởi vì nó đang sống theo duyên, mất duyên thì chới với, mờ mịt. Kinh Lăng Nghiêm Phật đâu chẳng từng bảo A Nan “Nếu thật là tâm tánh ông thì nó phải rời tiền trần mà có toàn tánh. Nếu rời tiền trần mà không có toàn tánh thì không phải thật”. Rõ ràng, tâm duyên thì luôn bám vào tiền trần, nghĩa là luôn luôn tìm có bạn, không bạn thì dường như không có. Đó là sống lệ thuộc, sống nương tựa, vất vưởng nên gọi đó là sống trong hư vọng. Trong khi đó, chính mình đang hiện hữu ngay mọi hành động hằng ngày lại không hay biết.
Hòa thượng Huyền Sa dạy chúng:
– Những bậc lão túc các nơi trọn nói tiếp vật lợi sanh, bỗng gặp người có ba thứ bệnh đến thì làm sao tiếp?
Bệnh mù thì cầm chùy, dựng phất họ chẳng thấy. Bệnh điếc thì ngôn ngữ tam muội họ chẳng nghe. Bệnh câm thì dạy họ nói lại nói chẳng được. Vậy thì phải làm sao tiếp? Nếu tiếp chẳng được người này thì Phật pháp không còn linh nghiệm.
Có vị tăng đem việc này hỏi ngài Vận Môn. Vân Môn bảo:
– Ông lễ bái đi!
Tăng lễ bái xong đứng dậy. Vân Môn lấy cây gậy đưa tới, tăng lùi lại sau, Vân Môn bảo:
– Ông chẳng phải bệnh mù.
Vân Môn gọi:
– Lại gần đây!
Tăng tiến lại gần, Vân Môn bảo:
– Ông chẳng phải bệnh điếc.
Vân Môn dựng cây gậy lên hỏi:
– Lãnh hội chăng?
Tăng thưa:
– Chẳng lãnh hội.
Vân Môn bảo:
– Ông chẳng phải bệnh câm.
Vị tăng liền tỉnh ngộ.
Người có ba thứ bệnh đó ở đâu? Có phải là chúng ta đây chăng? Hiện tại “Thấy, Nghe, Đáp” rõ ràng có thiếu chỗ nào đâu? Trái lại, ngay đó lầm qua mất thì có khác gì đui, điếc, câm! Cần thể nghiệm ngay chỗ này, chớ tìm đâu khác. Chính đó là bài pháp sống! Thiền sư luôn đánh thức người sống lại trong ấy.
Có một Thiền sư Nhật Bản tên Nhất Hưu, lúc Sư ở dưới núi Tỉ Duệ, một hôm thấy tín đồ ùn ùn kéo nhau lên núi nhân đến kỳ tự viện trên đây phơi Tạng kinh. Theo truyền thuyết thì khi phơi Tạng kinh, nếu ai được làn gió thổi trên trang kinh phất qua mình sẽ được tiêu trừ tai ách, tăng trưởng trí tuệ. Vì lẽ đó mà mọi người đua nhau lên núi để mong đón được ngọn gió đó. Thiền sư Nhất Hưu biết vậy, Sư cũng nói:
– Tôi cũng cần phơi tạng kinh.
Nói xong, Sư vạch áo bày trần hông bụng nằm trên bãi cỏ phơi dưới ánh mặt trời. Nhiều tín đồ xem thấy rất khó chịu, cho là thiếu lịch sự. Vị Pháp sư ở tự viện trên núi nghe nói, bèn đến khuyên Nhất Hưu chẳng nên làm việc mất oai nghi như thế.
Thiền sư Nhất Hưu rất thật tình giải thích:
Các ngài phơi Tạng kinh đó là Tạng kinh chết, nó biết sanh mối mọt mà chẳng biết hoạt động. Còn Tạng kinh của tôi phơi là Tạng kinh sống, nó biết nói pháp, biết làm việc, biết ăn cơm; người có trí tuệ phải nhận rõ Tạng kinh này mới quý giá!
(Tinh Vân thiền thoại)
Đó là Thiền sư muốn đánh thức cho người hãy xoay lại chính mình, phải thể nghiệm được sức sống chân thật ngay chính mình đây, chỗ đó mới là chỗ đáng quý, mới có giá trị thực sự, không phải hiểu suông, không thể chết ở trên hình tướng bên ngoài.
* Làm sao thể nghiệm?
Chỗ này phải chính chắn, chớ để bị ngôn ngữ chuyển. Nếu có “làm sao” tức thành tạo tác rồi, và như vậy là không thể có thể nghiệm. Vì đã thành tạo tác, là thuộc pháp sanh diệt, đó là cái có thể suy nghĩ, có thể hiểu biết, là vẫn nằm trong tình Mê!
Thiền sư Pháp Diễn ở Ngũ Tổ có lần thượng đường bảo:
– Hôm qua lão tăng vào trong thành thấy một cái giàn có người gỗ máy, luiền đến gần xem, thì thấy hoặc đẹp đẽ lạ lùng hoặc xấu xí vô kể, động chuyển đi ngồi, xanh vàng đỏ trắng, mỗi mỗi thấy xong, đến khi chín chắn xem kỹ lại, vốn là miếng vải xanh bọc lại, bên trong có người. Lão tăng nhịn không nổi, bèn đến hỏi: Ông tên họ gì? Kẻ ấy bảo: Ông Hòa thượng này, xem thấy liền xong, hỏi tên họ làm gì? Đại chúng! Lão tăng bị kẻ ấy hỏi một câu, liền không lời có thể đáp, không lý có thể bày, trong đây có ai vì lão tăng nói được chăng?
Hôm qua trong ấy rơi cành,
Ngày nay trong đây nhổ gốc.
Đó là một bài pháp Thiền. Hãy xem Thiền sư Pháp Diễn nói: “Lão tăng đến hỏi: – Ông tên họ gì? Kẻ ấy đáp:- Ông Hòa thượng này, xem thấy liền xong, hỏi tên họ làm gì? Liền đó Sư không lời có thể đáp, không lý có thể bày”. Điểm trọng yếu là: “Trong đây chỉ cần Thấy là xong, khỏi hỏi tới lui”. Đã Thấy thì tự biết ngay, còn hỏi tên, hỏi họ làm gì? Muốn diễn tả bằng lời để hiểu là tự trái xa rồi. Bởi Hiểu được nó thì nó thành cái bị hiểu, là thuộc cái bóng thứ hai, không phải thật. Muốn đặt tên cho nó, là gượng ép dán nhãn hiệu vào nó, biến nó thành vật để hiểu, tức ngay trước mặt lầm qua! “Hôm qua trong ấy rơi cành, ngày nay trong đây nhổ gốc”, quét sạch hết mọi chỗ cho ông có thể duyên, tự trong ấy sống dậy liền gặp nhau.
Để rõ thêm, chúng ta hãy nghe đoạn nhân duyên Hòa thượng Tùng Sơn với cư sĩ Bàng Uẩn uống trà, cư sĩ đưa tách trà lên hỏi:
– Mỗi người trọn có phần, vì sao nói chẳng được?
Tùng Sơn đáp:
– Sở dĩ nói chẳng được, chỉ vì mỗi người đều trọn có.
– Tại sao A huynh nói được?
– Chẳng thể không lời.
– Rõ ràng! Rõ ràng!
Sư bèn uống trà. Bàng Uẩn nói:
– A huynh uống trà sao chẳng mời khách?
– Ai?
– Bàng Công!
– Sao lại phải mời!
Đưa tách trà lên, người người đều trọn thấy rõ, còn phải nói thế nào? Việc này đâu ai dối gạt được ai. Uống trà đi, là xong. Đã là chính mình, sao còn phải đợi mời? Chỗ này ngôn ngữ làm sao nói hết? Chỉ phải một phen xông thẳng vào, tự sống dậy vỗ tay cười to ha hả là xong. Như Thủy Lạo hỏi Mã Tổ:
– Thế nào là ý Tổ Sư từ Ấn Độ sang?
Mã Tổ tống cho một đạp té nhào. Ngay đó Thủy Lạo đại ngộ, đứng dậy vỗ tay cười to nói:
– Trăm ngàn pháp môn, vô lượng diệu nghĩa, chỉ ở trên đầu sợi lông đủ hết thảy.
Đó là đưa người thẳng vào thể nghiệm, không giải thích “làm sao?” “thế nào?” theo chữ nghĩa dài dòng. Thủy Lạo tự cảm nghiệm lấy trực tiếp cũng ra ngoài chỗ suy nghĩ tính trước. Người đứng bên ngoài khó hiểu nổi, dù có hiểu cũng hiểu méo mó theo ngã kiến.
Đạt Quán Dĩnh ở chỗ Hòa thượng Cốc Ẩn, sau khi được thầm khế hội, Sư nói:
– Như Thạch Đầu nói: – Chấp sự nguyên là mê, khế lý cũng chẳng phải ngộ.
Cốc Ẩn hỏi:
– Ông cho là lời nói thuốc hay lời nói bệnh?
Sư thưa:
– Lời nói thuốc.
Cốc Ẩn quở:
– Ông lấy bệnh làm thuốc, lại đâu có thể được thay!
Sư nói:
– Sự như phong thư được gói kín. Lý như mũi tên thẳng đầu nhọn. Chỗ nhiệm mầu đâu có thêm mà còn cho là bệnh, thật chưa rõ yếu chỉ?
Cốc Ẩn bảo:
– Chỗ nhiệm mầu đến thế đó, cũng chỉ gọi là lý sự. Chỗ ý chỉ của Tổ Sư, trí biết không thể đến được, huống nữa là sự lý mà hay cùng tột đó sao? Cho nên đức Thế Tôn nói:
– Lý chướng, ngăn ngại cái thấy biết đúng. Sự chướng, tiếp nối các sanh tử.
Sư dường như chợt tỉnh cơn mộng thưa:
– Làm sao thọ dụng?
Cốc Ẩn bảo:
– Lời nói chẳng rời khỏi khuôn sáo cũ, làm sao ra khỏi ràng buộc?
Sư than:
– Vừa dính môi lưỡi, liền rơi vào ý nghĩ, trọn là cửa chết, rốt cuộc chẳng phải con đường sống vậy.
Chỗ “ý chỉ của Tổ sư” trí biết không thể đến được. Dù người thấy hiểu cao siêu đến đâu mà còn thấy có cái “lý” để khế hợp, là vẫn chưa phải thật hiểu, vì còn bị trí soi đến, còn luận bàn được, chưa gọi là nhiệm mầu. Đến chỗ thật nhiệm mầu thì vượt ngoài ngôn ngữ luận bàn, bỏ xa trí suy luận, chỉ có thể Phật cùng Phật biết đựơc thôi. Đó là chỗ chánh định tự thọ dụng, thiền chứng nghiệm chính ở trong ấy.
Hòa thượng Triệu Châu đã ngầm chỉ ý này qua đoạn nhân duyên có vị tín đồ đến hỏi Sư:
– Tham thiền thế nào mới hay ngộ đạo?
Chợt Sư đứng dậy khỏi tòa nói:
– Tôi cần đi tiểu xong đã.
Sư đi mấy bước, quay đầu lại bảo:
– Ông hãy xem đó! Việc nhỏ như đi tiểu thế ấy mà tôi cũng cần phải tự đi, người khác không thể thay thế được.
Ý Triệu Châu muốn chỉ việc này mình phải tự thể nghiệm ngay chính mình, không thể tìm nới người. Không ai thể nghiệm thay cho mình được. Còn hướng ra ngoài tìm cầu thì chỉ là đạp trên cảnh giới của người khác, chưa thể có sự chứng ngộ chân thật.
Nói thẳng, thiền là ở ngay đây, tại đây! Không thời gian! Vừa kẹt thời gian, liền có không gian, tức cách biệt ngay. Có vị tăng đến hỏi một Thiền sư:
– Thế nào là đại ý Phật pháp?
Thiền sư bảo:
– Hãy đến gần đây!
Tăng đi đến gần. Sư bảo:
– Ông lãnh hội chăng?
Tăng thưa:
– Dạ không.
Sư bảo:
– Như một ánh chớp đã qua bao A-tăng-kỳ kiếp!
Trong đây là phải thấy nhanh hơn làn chớp, không cho niệm thứ hai kịp xen vào. Chậm một chút là đã trải qua vô số kiếp rồi. Nhưng nhanh một chút cũng vượt qua vô số kiếp một cách dễ dàng. Bảo: Hãy đến gần đây! Liền đi đến gần. Ngay đây sẵn đủ tất cả! Chỉ phải trống lòng, sạch mọi kiến chấp, thẳng đó liền nhận, không trải qua thứ lớp. Thiền thể nghiệm là VƯỢT KHÔNG GIAN, THỜI GIAN.
III. TÓM KẾT
Thiền tông nhắm thẳng tâm người, khiến người sống ngay thực tại sáng ngời luôn hiện hữu, không cho dừng trụ trên bất cứ hình thức chữ nghĩa nào. Đi qua và đi qua tất cả mọi ngôn ngữ lập bày, Thiền có một sức sống chân thật ngay chính mình. Bao nhiêu khuôn khổ KHÁI NIỆM sẵn sàng bỏ lại đằng sau không nuối tiếc. Chính thế, Thiền có những lời nói trái tai, ngược đời, những thủ thuật khai thị cho người thật táo bạo, vượt ngoài sức hiểu biết của tâm thức phân biệt thông thường. Do đó, người mới đến với Thiền cảm thấy dội ngược, đôi khi nghi ngờ, vì thấy trái với cái khuôn mình được truyền dạy, học hiểu bấy lâu. Từ đó, khiến có người trở lại chê bai, chỉ trích Thiền.
Song xét kỹ lại, không hiểu nỗi rồi chê bai, chỉ trích thì đâu là chân lý? Trong khi đó, với Thiền sư thì nói một chữ “Thiền” đã là dư rồi, vậy người sẽ bám vào đâu để chỉ trích? Nói cho cùng thì cũng lẩn quẩn trong vòng văn tự, chữ nghĩa thôi. Trong nhà Thiền thường nhắc “không vào hang cọp sao bắt được cọp con?”; hoặc “cởi đầu cọp cũng phải khéo nắm đuôi cọp”, không để lọt hở có chỗ cho người dòm lén. Hòa thượng Đức Sơn bảo: “Này các ông! Khoảng này không có một pháp cho các ông giải hội, tự mình cũng chẳng hội thiền, ta cũng chẳng phải thiện tri thức, mọi việc đều không hiểu, chỉ biết đi ỉa, đi đái, ăn cơm, mặc áo, còn có việc gì?” Như vậy, trong đây còn có chỗ nào để chất chứa chữ nghĩa, kiến thức hiểu biết? Lo bám vào lời Tổ, moi móc trong ngữ lục để hiểu, có dính dáng gì?
Nói thẳng, học thiền là học ý nghĩa sống, không phải học theo chữ nghĩa chết. Kìa, người người cứ lo tham cứu con mèo của Nam Tuyền, cây bách, chữ “không” của Triệu Châu, cái bánh của Vân Môn. Nhưng Nam Tuyền không có trong con mèo, cũng không có trong chiếc giày đội đầu của Triệu Châu. Triệu Châu không ở trong cây bách trước sân, cũng không có trong chữ “không”, Vân Môn không có trong cái bánh. Mọi người muốn thấy Nam Tuyền, Triệu Châu, Vân Môn chăng? Chính ngay chỗ chẳng hiểu này, hãy xoay lại trong ấy, chớ tìm đâu khác!
Tóm lại, với “ý chỉ bất lập văn tự”, Thiền đòi hỏi người học một sức chứng nghiệm chân thật, không lệ thuộc trên chữ nghĩa. Dù nghiên cứu, học hiểu hay giỏi đến đâu mà thiếu chứng nghiệm thì vẫn đứng ngoài cửa thiền. Do đó, người muốn thấu triệt bản thân thiền, quyết phải thực hành thiền, không thể chỉ y cứ trên hình thức phân tích lý luận mà có thể đến được. Nghĩa là, phải thực sự là một HÀNH GIẢ THIỀN chớ không thể là học giả. Đây là điều trọng yếu không thể bỏ qua đối với Phật đạo nói chung, Thiền nói riêng.
Ý nghĩa này đi đôi với “giáo ngoại biệt truyền”, ngầm đánh thức sức sống chân thật chính ở ngay trong tự tâm mỗi người. Cần phải từ trong đó mà sống dậy, mới cảm nghiệm được chỗ truyền trao của chư Phật, chư Tổ, đừng giam mình trong ngục tù của ngôn ngữ văn tự mà đánh mất đi cái “sanh mạng tuyệt đối” hằng có nơi mình. Có sống được với sanh mạng tuyệt đối này, từ đó chúng ta ứng dụng ra ngôn ngữ văn tự thì dùng nó mới đúng ý nghĩa, không lầm lẫn. Chính chỗ này Thiền đòi hỏi hành giả phải MINH TÂM KIẾN TÁNH, tức SÁNG được TÂM, TỎ được TÁNH. Và đây, để tóm tắt lại ý nghĩa trên bằng câu chuyện thiền giả ngồi thiền tại Tàng Kinh Lâu:
Tại một Tàng Kinh Lâu, có một thiền giả ở trong đó nhưng chẳng xem kinh, đọc sách chi cả, trái lại mỗi ngày vị ấy chỉ ngồi thiền thôi. Vị Tạng Chủ trông coi Tàng Kinh Lâu này bèn hỏi:
– Đại Đức vì sao mỗi ngày chỉ ngồi thiền mà không xem kinh?
Thiền giả thản nhiên đáp:
– Vì tôi chẳng biết chữ.
Tạng Chủ bảo:
– Vì sao chẳng thưa hỏi người?
Thiền giả hỏi:
– Phải thưa hỏi với ai?
Tạng Chủ nói tự nhiên:
– Ông có thể thưa hỏi với tôi đi?
Thiền giả liền đứng dậy làm lễ rồi khoanh tay hỏi:
– Xin hỏi cái này là gì?
Tạng chủ bị một câu hỏi này chỉ biết ngậm miệng, mờ mịt không biết trả lời thế nào.
Ôi Tạng chủ trông coi cả một tạng kinh thì phải biết ông đã đầy một bụng chữ nghĩa không ít, nhưng bị một câu hỏi này, đành ngậm miệng không lời đáp được, vậy lúc đó bao nhiêu chữ nghĩa đang cất ở đâu? Hành giả cần nghiệm kỹ, chớ vội bỏ qua chỗ này!
Thực Tại Sáng Ngời Muôn Thuở
I. THỰC TẠI THẾ NÀO?
Lâu nay bao người cứ bàn về thực tại, nói về thực tại, luận về thực tại và cãi về thực tại rất nhiều, song thế nào là thực? Thực tại có hay không? Ở đâu? Dường như câu hỏi vẫn còn đang…! Bởi lẽ, thực tại là cái luôn luôn hằng hữu chưa từng thiếu vắng mà luận về nó, bàn về nó thì sao? Có thực tại chưa?
Chính đây là điểm lầm lẫn mà người không hay biết. khi chúng ta nói về nó, tức đã gián tiếp với nó rồi. Thí dụ có người hỏi về anh A, ta trả lời: Anh A cao lớn, mắt to, da trắng, tiếng nói sang sảng v.v… thì lúc đó có mặt anh A ở đó chăng? Nếu lúc đó đang có mặt anh A thì ta chỉ cần trỏ ngay anh, bảo: Đây này! là xong, khỏi diễn tả dài dòng.
Kinh Lăng Nghiêm, đoạn nói về tánh thấy lìa nghĩa TỨC PHẢI và CHẲNG PHẢI, Phật bảo Bồ tát Văn Thù:
– Như ông chính là Văn Thù, vậy còn có Văn Thù nào TỨC PHẢI VĂN THÙ hay không Văn Thù nữa chăng?
– Bạch Thế Tôn! Đúng như thế! Con chính là Văn Thù rồi, không còn cái gì tức phải Văn Thù nữa. Tại sao? Nếu có cái TỨC PHẢI thì thành ra có hai Văn Thù rồi, song ngay đây con không phải là không Văn Thù. Trong đó, quả thật không có hai tướng: TỨC PHẢI hay CHẲNG PHẢI TỨC PHẢI.
Đến chỗ thực tại rốt ráo này mà còn nói TỨC, nói PHẢI, là có cái bóng thứ hai rồi. Chẳng hạn nói TỨC TÂM TỨC PHẬT, đó cũng là phương tiện nói, chưa phải tột lý. Nếu người tỏ ngộ mà còn chưa quên chữ “TỨC”, là còn ngăn cách, còn một chút khái niệm trong đó chưa quên. Đây là chỗ đặc biệt của Thiền, không thể bắt chước hay học lóm.
Cũng chuyện ngài Văn Thù. Một hôm Phong Can sắp đi núi Ngũ Đài bèn nói với Hàn Sơn và Thập Đắc:
– Các ông cùng ta đi viếng Ngũ Đài tức là cùng bọn với ta, nếu chẳng đi tức chẳng phải cùng bọn với ta.
Hàn Sơn hỏi:
– Ông đi Ngũ Đài làm gì?
Phong Can đáp:
– Lễ Văn Thù.
Hàn Sơn bảo:
– Ông chẳng phải cùng bọn với ta.
Phong Can bèn đi một mình đến Ngũ Đài, gặp ông già liền hỏi:
– Có phải là Văn Thù chăng?
Ông già đáp:
– Há có hai Văn Thù sao?
Phong Can liền lễ bái, chưa kịp đứng dậy thì ông già bỗng biến mất.
Hàn Sơn chính là Văn Thù rồi, còn rủ đi lễ Văn Thù, là một lần Phong Can lầm qua. Ông già ở Ngũ Đài cũng chính là Văn Thù hiện, Phong Can đang đối diện Văn Thù lại còn hỏi có “phải Văn Thù chăng?”, tức là hai lần lầm qua, nên hết thấy Văn Thù. Thực tại cũng vậy, hỏi về thực tại là không biết thực tại. Huống nữa, trong đó còn tranh cãi về thực tại thì quả là còn cách xa thực tại, chứng minh cả hai chưa biết gì thực tại, chỉ là tướng thực tại thôi. Nói rõ hơn là, cùng SỐNG TRONG KHÁI NIỆM.
Trong kinh Niết Bàn có câu chuyện về đám người mù rờ voi: Một hôm ông vua muốn thử chỗ nhận biết của những người mù, bèn cho đem ra trước sân, đồng thời gọi một số người mù đến, bảo mỗi người hãy diễn tả con voi xem nó thế nào. Trong đám người mù đó lăng xăng đến rờ con voi, người rờ trúng lỗ tai voi, nói: con voi giống cái quạt. Người rờ trúng bụng voi, nói: con voi giống cái lu. Người rờ trúng chân voi, nói: con voi giống cột cái. Người rờ trúng đuôi voi, nói: con voi giống cây chổi v.v… Mỗi người nói mỗi khác, tranh cãi nhau inh ỏi. Trong khi đó ông vua nhìn thấy chỉ cười thôi.
Câu chuyện thật ý vị! Mỗi người đều rờ trúng con voi thật sự, nhưng vì chỉ rờ trúng một bộ phận, không thấy được toàn thể con voi nên có tranh cãi nhau, ai cũng cho mình đúng hơn hết. Ngay lúc đó ông vua thấy rõ toàn thân con voi thì chỉ cười. Nếu ông vua cũng nhảy vào cãi với đám người mù kia thì sao? Tức cũng mù luôn. Cho thấy còn tranh cãi là còn thấy trong khía cạnh, thấy một bên chưa phải là chân lý trọn vẹn. Bởi vậy thiền ít trọng hý luận, cốt đưa người thẳng vào.
Chính bài CHỨNG ĐẠO CA của Thiền sư Huyền Giác mở đầu bằng câu: “Anh thấy chăng?” Người học thường bỏ qua chỗ này, nhưng chính đây là cốt tủy của toàn bài ca. Chưa nói gì mà bảo: “Thấy chăng?” là thấy cái gì? Bởi đây là chỗ chứng đạo, chỗ đó đã sẵn vậy rồi, trước khi nói năng đã có, đâu đợi mở miệng? Tức Thiền sư Huyền Giác muốn nói, với người đã chứng đạo thì ngay đó tự cảm thông rồi, bao nhiêu ngôn ngữ về sau cũng chỉ giải thích chỗ ấy, song cũng làm sao giải thích đến được? Người có mắt thiền, ngay đó liền thấy xong!
II. THỰC TẠI CÓ HAY KHÔNG?
Khi người đặt câu hỏi này, chính là đang quay lưng với thực tại. Câu hỏi tự nó đã sai rồi, nếu chúng ta không khéo thấy lại theo đó giải thích thì càng trái xa thực tại.
Kinh Pháp Hoa, phẩm Tùng Địa Dũng xuất có đoạn: “Khi ấy vô số các Bồ tát từ lòng đất vọt lên đến chỗ Phật Đa Bảo và Phật Thích Ca lễ bái, đi quanh tán thán, cúng dường… lúc đó Phật Thích Ca im lặng ngồi yên, hàng tứ chúng cũng im lặng trải qua 50 tiểu kiếp; do thần lực của Phật khiến hàng tứ chúng cho là như nửa ngày.”
Hãy xem, các Bồ tát từ lòng đất vọt lên, đi quanh, tán thán, cúng dường Phật Đa bảo và Phật Thích Ca, thời gian trải qua 50 tiểu kiếp mà do thần lực Phật, tứ chúng cảm thấy như “nửa ngày”. Như vậy, từ khi Phật nói kinh đến nay mới hơn 2000 năm, vậy cảnh đó có còn chăng? Tức pháp hội Linh Sơn vẫn đang hiện hữu đâu thiếu! Đặc biệt chúng hội tưởng như nửa ngày. Bởi khi tâm định thì quên thời gian, trong đấy đã bặt ý niệm về thời gian, thì ba đời ngay trong một niệm thôi. Kinh nghiệm thực tế, khi chúng ta ngồi thiền, tâm an định thì cảm thấy ba, bốn tiếng đồng hồ như chừng chốc lát. Người đứng ngoài nghe thật khó tin. Vậy làm sao nói có hay không? Họ không hay biết chút gì, làm sao nói có với họ? Chính mình chứng nghiệm rõ đây thì làm sao nói không? Cho nên, chỗ này không phải là chỗ để lý luận không, cần nhất là người có “thể nghiệm” được chưa?
Trong nhà thiền, có một Thiền sư bảo với chúng: “Này các thầy! Hãy xem kìa! Ánh sáng rực rỡ đang tỏa khắp cả đại thiên thế giới, cùng lúc hiển hiện mọi xứ sở, hiển hiện tất cả núi Tu Di, những mặt trời, mặt trăng, những bầu trời, cõi đất… nhiều đến trăm ngàn ức số. Này các thầy! Các thầy có thấy ánh sáng đó chăng?”
Với người chưa chứng ngộ, nghe nói thế có tin được chăng? Hẳn sẽ cho là Thiền sư đang nói với ai đó, ở một cõi xa lạ ngoài cõi Ta bà này. Nhưng chính Thiền sư nói là đang nói ở thế gian này. Tại sao ngài thấy mà ta không thấy. Ta không thấy có có thể bảo là nó hoàn toàn không có được chăng?
Quả thật, THỰC TẠI SÁNG NGỜI ĐANG HIỆN HỮU khắp nơi. Chỉ người chịu MỞ mắt tuệ liền thấy rõ, không chút nghi ngờ. Cứ nhắm mắt mà lo cãi thì cãi bao giờ đến?
Nơi Thiền sư Duy Chánh, có vị tăng hỏi:
– Thầy mang danh là Thiền sư sao không nói thiền?
Sư bảo:
– Ngày đêm nhờ vạn tượng diễn bày mà thôi, ngôn ngữ có gián đoạn mà pháp này vô tận, nên gọi “Tạo Hóa Vô Tận Tạng”.
“Pháp này” mà Thiền sư Duy Chánh nói là kho Tạo Hóa Vô Tận, đó là pháp gì? Chính ngay đây, THẤY NGHE tất cả mà chẳng mê thì có chỗ nào thiếu vắng ánh sáng ấy? Lời nói ra thì có lúc nói, lúc im, còn cái biết đang hiện hữu đây, biết hết mọi thứ mà không lẫn lộn với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì có bao giờ gián đoạn? Có chỗ nào không diễn bày ánh sáng đó? Cái sờ sờ muôn thuở là đây!
Chính Lục Tổ khi đại ngộ trong thất Ngũ Tổ liền la lên:
“Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh
Đâu ngờ tự tánh vốn không sanh diệt… “
Tức tự tánh xưa nay vốn thanh tịnh hiện tiền chưa bao giờ mất, nhưng chúng ta đành bỏ quên không nhớ tới. Giờ chợt nhận ra, thật không ngờ! Lời “đâu ngờ” là nói lên một cái thấy vượt ngoài suy tưởng. Nói theo đây là: THỰC TẠI ĐÂU NGỜ!
III. THỰC TẠI Ở ĐÂU?
Đây là một điểm nữa cần thấu triệt để không lầm ngôn ngữ. Tâm người quen sống có CHỖ đã lâu, không chỗ thì chới với nên luôn hỏi chỗ. Với thực tại mà hỏi ở đâu, tức xa thực tại rồi, đâu còn là thực tại! Có ở đâu là bị chỗ đó CHUYỂN, là đi vào luân hồi. Còn đợi câu trả lời để hiểu nữa là càng đi quá xa.
Có vị tăng hỏi Thiền sư Tự mãn:
– Chẳng rơi vào xưa nay, xin thầy nói thẳng!
Sư bảo:
– Đã biết ông lờ mờ rồi!
Vị tăng muốn hỏi thêm, Sư liền bảo:
– Sẽ cho là lão tăng rơi vào xưa nay.
Ông tăng hỏi thẳng mà Sư bảo lờ mờ, ai thấy ông tăng lờ mờ ở chỗ nào? Hãy chín chắn lại xem: Đã chẳng rơi vào xưa nay mà còn đợi nói ra thì sao? Có nói ra tức rơi vào xưa nay rồi. Ngay chính câu hỏi đã kẹt vào ” RƠI – CHẲNG RƠI “, là trái thực tại không hay. Nếu thực chẳng rơi XƯA NAY, sao còn đợi chỉ? Người kẹt chữ nghĩa dễ lầm chỗ này!
Còn đây, Thiền sư Huệ Minh cất am trên núi Đại Mai, có hai thiền khách đến am, Sư hỏi:
– Thượng tọa ở đâu đến?
ThIền khách đáp:
– Ở đô thành đến.
Sư bảo:
– Thượng tọa rời đô thành đến núi này thì ở đô thành thiều Thượng tọa, ở núi này dư Thượng tọa. Dư thì ở ngoài tâm có pháp, thiếu thì tâm pháp chẳng khắp. Nói được đạo lý thì ở, chẳng hội nên đi.
Cả hai không đáp được.
Thiền sư Huệ Minh khéo thêm THIẾU DƯ để gạn hai Thượng tọa kia. Đúng ngay hai ông còn kẹt “đây kia”, chỗ nơi, quên mất thực tại hằng hữu nơi mình nên bị ngôn ngữ lừa. Chính cái đang đối diện hỏi đáp đó, có đây kia gì đâu? Thấy đây thấy kia là kẹt trên thân tướng giả hợp này. Y cứ trên thân tướng này thì có chỗ nơi nên có ở đây thì vắng ở kia. Đã kẹt chỗ nơi, đây kia nên cũng vướng mắc thiếu dư thành bị ngại.
Lâm Tế cũng từng thể hiện ý này rất tế nhị. Sư từ giã Hoàng Bá đi, Hoàng Bá hỏi:
– Ông đi về đâu?
Sư đáp:
– Chẳng về Hà Nam liền về Hà Bắc.
Chỉ một câu đáp nhẹ nhàng nhưng biểu hiện sức sống thực tại luôn hiện hữu nơi Sư. Nghĩa là, với Sư thì sức sống chân thật đó luôn luôn hiện hữu nơi mình không lúc nào vắng mặt, không dừng ở một chỗ nào, không thuộc ở hà Nam cũng không htuộc ở Hà Bắc. Chính Sư luôn sống trong ấy mới trả lời được như thế. Nếu người còn nhớ chỗ kia, chỗ này hoặc ở Hà Nam hoặc ở Hà Bắc, tức còn kẹt trên cái ta này, đó là chưa thấy TÁNH, chưa SỐNG NGAY THỰC TẠI ĐANG LÀ!
Chính vua Lý Thái Tông vì muốn biết chỗ sống của Thiền sư Thiền Lão nên một hôm vua vào núi hỏi Sư:
– Hằng ngày Hòa thượng làm gì?
Sư đáp:
Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác
Trăng trong mây bạc lộ toàn chân.
Hỏi hằng ngày làm gì, tức hỏi chỗ sống của Thiền sư. Với Thiền Lão thì tất cả trước mặt đều hiện bày ánh sáng chân thật ấy không chỗ nào thiếu vắng, không có thêm cái gì khác nữa để làm. Vì vậy, trăng trong, mây bạc, trúc biếc, hoa vàng đều lộ bày toàn thể tánh chân, Sư thấy cái gì cũng sáng ngời không mê. Đó là thực tại luôn hiện hữu, còn phải tìm đâu nữa?
Cũng như có ông tăng hỏi Hòa thượng Triệu Châu:
– Khi tiên nhân Tỳ Mục cầm tay đồng tử Thiện Tài liền thấy vi trần Phật thì thế nào?
Triều Châu liền cầm tay ông tăng bảo:
– Ông thấy cái gì?
Trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới nói, khi đồng tử Thiện Tài đến tham học với tiên nhân Tù Mục, được tiên nhân cầm tay thì liền đó thấy vô số đức Phật nhiều như bụi nhỏ. Ở đây ông tăng thắc mắc, trong cái cầm tay có gì đặc biệt mà thấy vi trần Phật như thế? Không ngờ Triệu Châu là bậc mắt sáng, Sư đâu theo cái khuôn chữ nghĩa để giải thích, mà trực tiếp đưa ông tăng vào chỗ thực tại đó! Chính ngay khi Sư cầm tay, ông tăng liền cảm nhận chưa trôi vào niệm thứ hai, trong ấy thiếu cái gì? Phật Phật vô lượng, vô số có ngoài ánh sáng ấy đâu? Nghe nói tiên nhân Tỳ Mục, lo nhớ đến ở thuở nào, về mấy ngàn năm trước, là đánh mất ánh sáng tực tại đây rồi!
IV. THIỀN SƯ ĐÁNH THỨC THỰC TẠI
Đến đây, chúng ta hãy lắng lòng xem Thiền sư đánh thức thực tại cho người.
* Hòa thượng Nam Tuyền, một hôm đi qua nhà tắm thấy vị trưởng phòng tắm đang đốt lửa nấu nước, bèn hỏi:
– Ông làm gì?
Trưởng phòng tắm thưa:
– Nấu nước tắm.
Sư bảo:
– Nhớ gọi con trâu đực đi tắm với!
Trưởng phòng tắm đáp:
– Dạ!
Đến chiều, trưởng phòng tắm vào phương trượng, Sư hỏi:
– Làm gì?
Trưởng phòng tắm thưa:
– Mời con trâu đực đi tắm.
Sư bảo:
– Đem được dây thừng đến chăng?
Trưởng phòng tắm không đáp được.
Sau đó, Triệu Châu đến thăm hỏi, Nam Tuyền thuật lại việc trên, Triệu Châu thưa:
– Con có lời.
Nam Tuyền bảo:
– Đem được dây thừng đến chăng?
Triệu Châu liền đến gần trước chợt nhéo mũi Nam Tuyền. Nam Tuyền bảo:
– Phải thì phải mà thô quá!
Xem đó, trưởng phòng tắm biết mời trâu mà không nắm mũi được. Có đầu mà không đuôi, trước như lanh lợi, sau bị ló đuôi. Triệu Châu khéo léo, ngay cái nhéo mũi, trâu bị dẫn tới rồi, hết chạy đâu khỏi! THỰC TẠI ĐÃ HIỆN RA ĐÓ!
* Thạch Củng nhéo mũi Trí Tạng. Một hôm Sư cùng Trí Tạng đi dạo chơi, Sư hỏi Trí Tạng:
– Sư đệ biết bắt hư không chăng?
Trí tạng đáp:
– Biết bắt.
Sư hỏi:
– Làm sao bắt được?
Trí Tạng lấy tay chụp hư không. Sư bảo:
– Làm thế ấy đâu bắt được hư không?
Trí Tạng hỏi lại:
– Sư huynh làm sao bắt?
Sư liền nắm mũi Trí Tạng vặn mạnh. Trí Tạng đau quá la lên:
– Giết chết lỗ mũi người ta! Buông ngay!
Sư bảo:
– Phải làm như thế mới bắt được hư không.
Trí Tạng về đến khuya mới nhận ra ý chỉ ấy.
Trong đây, Trí Tạng lấy tay chụp hư không, rất dễ làm lầm người. Chụp cái gì trong đó.
Thạch Củng nhéo mũi, Trí Tạng đau la lên, người cứ tưởng trong ấy trống rỗng không có gì, vậy cái gì la lên đó? Quả tang là đang hiện tiền bị tóm lấy rồi! Chính đó là cái KHÔNG VI DIỆU, là THỰC TẠI KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN. Tuy nhiên kỵ nhất sanh tâm động niệm. Ngay đây vừa động niệm là rơi vào ba thời, tức mờ đi thực tại rồi!
* Tăng hỏi Quy Tỉnh về cây bách của Triệu Châu. Có ông tăng đến hỏi Sư về cây bách của Triệu Châu, Sư bảo:
– Ta chẳng tiếc nói với ông, mà ông có tin chăng?
Tăng thưa:
– Lời của Hòa thượng quý trọng, con đâu dám chẳng tin.
Sư bảo:
– Ông có nghe giọt mưa rơi trước thềm chăng?
Tăng hoát nhiên đại ngộ, thốt:
– Chao!
Sư hỏi:
– Ông thấy đạo lý gì?
Tăng làm tụng:
Thiềm đầu thủy đích
Phân minh lịch lịch
Đả phá càn khôn
Đương hạ tâm tức.
Nghĩa:
Giọt mưa trước thềm
Rành rã rõ ràng
Đập nát càn khôn
Liền đó tâm dứt.
Như vậy ông tăng ngộ cái gì? Từng giọt, từng giọt mưa, nghe rõ ràng rành rẽ không sót một giọt, không để lọt một giọt ra ngoài ánh sáng ấy. Thì không phải hằng hữu luôn luôn đó sao? Nếu có gián đoạn thì đâu rành rõ từng giọt, trái lại là đã có giọt bị mê mất rồi. Cốt là ngay đó: “Đập nát càn khôn, liền đó tâm dứt”. Nghĩa là bặt mọi chỗ hiểu biết, không tướng để duyên, thì chính đó ánh sáng thực tại sờ sờ hết còn chạy trốn đâu được. Vậy còn gì mà nói có, không, thế nào ở đâu?
Quả thật, chúng ta đang sống trong thực tại nhưng lại đi tìm thực tại. Thiền sư đã cảm nhận được điều đó nên các ngài luôn dùng mọi cách hay khéo để đánh thức cho mỗi người chúng ta tỉnh lại chỗ này. Nói sáng tâm, nói tỏ tánh, không ngoài sáng tỏ được việc này. Vậy thì có ai dám can đảm, ngay đây buông hết mọi khái niệm hiểu biết nào tâm tánh, nào thực tại, nào bản lai diện mục… buông và buông sạch, xem lại chính đây là gì?
Xưa nay trước mắt sờ sờ,
Có gì thiếu thốn mà quơ thêm vào.
Khiến cho đã sáng từ lâu,
Trở thành mờ tối, còn đâu thuở nào!
Tâm Yếu Nhà Thiền
I. TÂM YẾU LÀ GÌ?
Người tu, nhất là tu thiền phải nắm vững chỗ này thì trên đường tu hết còn nghi ngờ và không sợ lạc vào lối tẻ, đường ma. Vậy tâm yếu là gì? Nói thẳng ra, tâm yếu hay yếu chỉ của người tu thiền là nhận rõ bản tâm chính mình chứ không gì khác. Chính nhận rõ bản tâm là yếu chỉ vào đạo. Bởi vì bao nhiêu phương tiện của Phật nói ra, của Tổ chỉ dạy không ngoài mục đích đánh thức cho người nhận ra bản tâm thôi. Người học đạo mà không nhận ra bản tâm thì vẫn học loanh quanh bên ngoài, vẫn lăng xăng chạy tìm trên chữ nghĩa, chưa thể vào cửa Tổ, nói theo thiền; hay là chưa vào được nhà Như Lai, nói theo giáo.
Lâm Tế từng bảo: “Nếu các ông hay thôi được niệm niệm rong ruổi chạy tìm liền cùng Phật Tổ không khác. Các ông muốn biết được Phật Tổ chăng? Chỉ là người đang nghe pháp ở trước mặt ông đó! Người học tin chẳng kịp bèn hướng ra bên ngoài chạy tìm kiếm, dù cho tìm kiếm được, đều là tướng thù thắng của văn tự, trọn chẳng được ý Tổ sống.”
Nghĩa là bỏ bản tâm mà tìm kiếm bên ngoài, dù cho tìm kiếm được Phật Tổ cao siêu để hiểu, cũng là hiểu theo chữ nghĩa, là Phật Tổ trong sách vở, kinh điển để lại, không phải là Phật Tổ sống. Muốn thấy Phật Tổ sống, chỉ phải xoay lại chính mình, ngay người đang nghe pháp trước mặt ông đó, chớ tìm đâu xa! Ngài Lâm Tế nổi tiếng là hét. Đúng cũng hét, chẳng đúng cũng hét, hét cho chết cái tâm chạy tìm, không chỗ để dò hiểu; nhưng ở đây ngài nói thật rõ, nói thật tình, trút hết gan ruột, người còn chưa chịu nhận thì biết nói sao đây? Ý Tổ sống là ở ngay bản tâm mình, thấy được chỗ đó là chỗ cùng Phật Tổ không khác. Bởi, đã là bản tâm chính mình sao lại chạy ra ngoài tìm kiếm? Ngay đó đủ thấy sự mê lầm của chúng ta quá đổi. Hơn nữa, bản tâm không nhận lại đi nhận những thứ buồn vui, giận ghét để sanh phiền não đau khổ, lấy đó làm sự sống của chính mình, rồi lại đi tìm cầu hạnh phúc, thật là mâu thuẫn dài dài. Phật gọi đó là nhận giặc làm con, sẽ bị phá tan gia tài sự sản, bị nó nhận chìm trong tam đồ khổ não thôi.
Trong kinh Pháp Bảo Đàn, Ngũ Tổ đã bảo Huệ Năng: “Chẳng biết bản tâm, học pháp vô ích. ”Và“ từ xưa Phật Phật chỉ truyền bản thể, thầy thầy thầm trao bản tâm, y là đầu mối tranh giành, hãy dừng nơi người chớ truyền nữa.”
Ngũ Tổ chỉ dạy rất rõ, gốc là nhận bản tâm để sống, Phật Phật, Tổ Tổ nói thầm trao, nói mật truyền, chỉ là trao truyền bản tâm, đó là lẽ thật muôn thuở. Trái lại người không biết, cứ tưởng truyền y bát là làm Tổ, rồi lo giành giựt y bát để được làm Tổ, nhưng Tổ đâu phải ở cái y, cái bát vô tri đó! Người chân thật học đạo phải lưu ý điểm này!
Chính Lâm Tế khi từ giã ngài Hoàng bá đi, Hoàng Bá bảo thị giả đem thiền bảng, kỷ án là tín vật của Tiên sư Bá Trượng ra để trao cho Sư nhưng Sư liền bảo thị giả đem lửa đốt quách không màng tới. Nếu là người khác, được trao tín vật tiêu biểu cho sự kế thừa Tổ vị thì rất hãnh diện, dùng gấm lụa tốt gói kỹ không cho người thấy, sợ người giành giựt mất. Với Lâm Tế thì Sư đã tự có chỗ sống chân thật rồi, được kế thừa là kế thừa từ chỗ chân thật ấy, còn vật bên ngoài Sư thấy không quan trọng. Chỉ lo bám vào cái bên ngoài đó, rồi tranh giành giết hại nhau thì còn có ý nghĩa gì mà gọi là kế thừa? Trong khi đó, chỗ sống chân thật nơi chính mình đây thì ai giành giựt được? Hành giả cần sáng tỏ chỗ này!
II. AI KHÔNG BẢN TÂM?
Đã là bản tâm tức bản thể của chính mình thì ai không có? Không có nó hẳn thành khúc gỗ còn gì? Song hỏi bản tâm là gì lại lúng túng không trả lời thông suốt! Vậy là sao? Đây là chỗ người học đạo cần chín chắn nghiệm xét không thể hời hợt bỏ qua.
Xưa kia, Đại Điên đến chỗ Hòa thượng Thạch Đầu, Thạch Đầu hỏi:
– Cái gì là tâm ông?
Sư thưa:
– Nói năng đó là tâm.
Bị Thạch Đầu nạt đuổi ra. Hơn một tuần, Sư lại đến hỏi:
– Trước đó đã chẳng phải, trừ ngoài cái này, cái gì là tâm?
Thạch Đầu bảo:
– Trừ ngoài nhướng mày, chớp mắt, đem tâm lại.
Sư thưa:
– Không tâm có thể đem lại.
Thạch Đầu bảo:
– Nguyên lại có tâm, sao nói không tâm? Không tâm tức trọn đồng chê bai rồi.
Sư liền tỏ ngộ.
Hỏi: “Gì là tâm?” Đáp: “Nói năng là tâm.” Mới nghe qua dường như phải, không tâm thì cái gì biết nói năng. Tuy nhiên, chỗ này rất dễ hiểu lầm, thành xen lẫn với tướng sanh diệt. Nếu chỉ nhận nói năng là tâm, vậy khi không nói năng thì sao? Không có tâm chăng? Vì vậy Hòa thượng Thạch Đầu nạt đuổi ra để gạn lại chỗ thấy của Đại Điên. Sau đó Đại Điên hỏi lại: “Cái nói năng đó đã chẳng phải thì ngoài cái này ra, cái gì là tâm?” Tức ngoài cái nói năng này còn có cái gì riêng là tâm nữa? Thạch Đầu bảo: “Tức ngoài nhướng mày, chớp mắt, đem tâm lại! Ngài gạn kỹ lại xem Đại Điên đã thấy thấu qua cái dụng kia chăng? Quả tang Đại Điên chỉ kẹt trên cái dụng đó, chưa thấu được thể thật, nên đáp: “Không tâm có thể đem lại.” Vậy là Sư chỉ thấy tâm ở chỗ nhướng mày, chớp mắt đó thôi sao? Vì thế Hòa thượng Thạch Đầu bảo: “Nguyên lai có tâm sao nói không tâm? Nói không tâm tức đồng với chê bai rồi.” Ông đáp không tâm có thể đem lại, vậy cái gì đang trả lời đó? Trong đây cần rõ: Biết nói năng, biết nhướng mày, chớp mắt, nếu thực không có tâm thì cái gì biết làm những việc đó? Song người mê chỉ nhận trên tướng nói năng, tướng nhướng mày chớp mắt tức nhận lầm tướng sanh diệt làm tâm. Chỗ này dễ lẫn lộn với thần ngã của ngoại đạo. Ngoại đạo cũng nói có thần ngã bên trong mới khiến thành ra có nhướng mày chớp mắt, động dụng, khổ vui v.v… Vậy làm sao phân biệt chân giả? Chỗ này cốt phải nhận thấy thấu tột ngay đầu nguồn phát ra mọi tác dụng kia! Chính đó mới là tâm thể thường hiện tiền không thuộc động tịnh. Chỉ nhận nơi tác dụng đó, khi không tác dụng liền lờ mờ lại rơi vào đoạn diệt, nên gọi “trọn đồng với chê bai”. Thần ngã thuộc chỗ này.
Để rõ thêm chỗ này, chúng ta hãy nghe Tổ Tăng Già Nan Đề, một hôm nhân gió thổi trước điện Phật, tiếng linh khua, Tổ hỏi Già Da Xá Đa:
– Linh kêu hay gió kêu?
Già Da Xá Đa đáp:
– Chẳng phải linh kêu, chẳng phải gió kêu mà tâm con kêu.
Tổ hỏi:
– Tâm như thế nào?
Già Da Xá Đa đáp:
– Đều lặng lẽ.
Tổ Tăng Già Nan Đề muốn gạn xem chỗ thấy của Già Da Xá Đa thế nào nên hỏi: “Linh kêu hay gió kêu?” Già Da Xá Đa đáp: “Tâm con kêu.” Vậy kêu như thế nào? Tâm biết kêu sao? Quả thực nếu không phải là người đã hằng sống trong đó, hẳn đã theo tiếng linh, tiếng gió mà đáp, là rơi vào cái bẫy của Tổ rồi! Linh và gió là cảnh bên ngoài, theo cảnh phân biệt là quên mất mình đang hiện hữu. Chính chỗ này mà hai ông tăng ở chùa Pháp Tánh cãi nhau về gió động và phướn động mãi không thôi, khiến Lục Tổ đang trong hình thức cư sĩ nhịn không được phải xuất hiện để lộ tung tích bảo: Tâm ngài động!”
Ở đây, Già Da Xá Đa bị Tổ gài linh với gió nhưng Sư vốn thường sống trong ấy, luôn luôn có mặt không mê nên đáp rõ: “Tâm con kêu.” Tức nói lên sự hiện hữu chính mình ngay đó! Dù có tiếng gió, tiếng linh nhưng cái gì đang có mặt nhận rõ tiếng kêu đó? Tổ Tăng Già Nan Đề hỏi tiếng gió, tiếng linh nhưng chính đây mới là chỗ nhắm. Vậy là có tâm hay không? Nếu không tâm thì cái gì biết gió thổi linh kêu. Song nếu chỉ nhận cái biết theo tiếng gió, tiếng linh làm bản tâm thì khi gió im tiếng lặng sẽ ra sao? Tâm kêu ở chỗ nào? Hẳn sẽ là chới với mờ mịt! Do đó Tổ Tăng Già Nan Đề gạn thêm cho tột cùng tâm thể: “Tâm như thế nào?” Đến đây nếu không phải người thực sống trong đó hẳn khó trả lời cho thông. Biết có tâm kêu nhưng cái gì là thể của tâm? Không thể lờ mờ trên tướng sanh diệt kia!
Già Da Xá Đa đáp rõ: “Đều lặng lẽ.” Biết kêu là động, là đối tiếng mà có, nếu không đối tiếng liền không, chưa tột được thể. Ở đây, Già Da Xá Đa biết mà đều lặng lẽ, hằng lặng lẽ, tức biết mà lặng. Biết mà lặng là biết nhưng lìa tiếng biết, biết tất cả nhưng vẫn không rời tự thể, đó mới chính là cái biết nhiệm màu, cái biết chẳng thể nói, chẳng thể nghĩ bàn, vượt ngoài mọi hý luận. Cho nên bản tâm phải đủ hai chữ tịch mà tri, lặng mà biết, biết mà lặng. Do đó nói biết cũng được, nói chẳng biết cũng được, vì có tướng hay không có tướng vẫn hằng biết, không lệ thuộc đối tượng bị biết.
Đi sâu vào thêm, chúng ta nghiệm kỹ đoạn nhân duyên về Bồ tát Quan Thế Âm ngàn tay ngàn mắt. Đạo Ngô hỏi Vân Nham:
– Đức Quan Thế Âm ngàn tay ngàn mắt, vậy mắt nào là mắt chánh?
Vân Nham đáp:
– Như người ban đêm với tay lại sau mò chiếc gối.
Đạo Ngô nói:
– Tôi hội rồi.
Vân Nham hỏi:
– Hội thế nào?
Đạo Ngô đáp:
– Khắp thân là tay mắt.
Vân Nham nói:
– Nói tột lời chỉ nói được tám phần.
Đạo Ngô hỏi:
– Sư huynh thì sao?
Vân Nham đáp: Toàn thân là tay mắt.
Như vậy, Đạo Ngô nói khắp thân là tay mắt, Vân Nham nói toàn thân là tay mắt, có gì đặc biệt? Giữa đêm tối, với tay lại phía sau mò chiếc gối, thì con mắt ở đâu mà thấy chiếc gối khiến mình đụng biết? Mắt này đâu cần tròng? Song người nghe nói khắp thân là tay mắt, liền tưởng tượng khắp cả thân mình chỗ nào cũng mọc tay, mọc mắt có ngón, có tròng đầy đủ; Vậy dưới lòng bàn chân cũng phải có hai tròng mắt thì khi đi, đạp xuống đất hẳn bị bụi lấp đầy mắt làm sao thấy? Hơn nữa, một người mà khắp thân mọc đầy tay, đầy mắt thì thân đó phải to đến cỡ nào mới chứa đủ ngàn cánh tay, ngàn con mắt? Và người đó là người sẽ thế nào? Chắc hẳn đó là một quái nhân, ai yếu tinh thần gặp phải cũng té xỉu! Cho nên Vân Nham bảo: “Nói tột lời nói chỉ nói được tám phần” không thể nói hết.
Vân Nham nói “toàn thân” là muốn đánh thức người vượt qua chữ nghĩa đó. Đây là ngầm chỉ thể giác tròn khắp, toàn thân đụng đến đâu liền thầm cảm biết ngay, tức chỗ nào cũng có tánh giác biểu lộ không thiếu thì đâu đâu chẳng là tay mắt? Người đã thể nhập bản tâm thì toàn thể đều giác, đụng đến đâu cũng là thể giác hiện bày chưa từng mê, tất cả đều thành diệu dụng sáng ngời nên biểu trưng bằng ngàn cánh tay, ngàn con mắt: sẵn sàng ứng khắp! Người học phải đạt ý ngoài lời, không thể bám theo lời sanh hiểu.
Cảm nhận được chỗ này, vua Đường Trang Tông nói với Thiền sư Tồn Tương ở Hưng Hóa:
– Thẩm thâu Trung Nguyên nhận được hòn ngọc quý mà chưa từng có người trả giá.
Thiền sư Tồn Tương hỏi:
– Xin bệ hạ cho xem!
Vua lấy hai tay vuốt từ đầu đến chân.
Sư nói:
– Ngọc quý của đấng quân vương ai dám trả giá.
Xem đấy, Thiền sư xin cho xem ngọc quý, vua lấy tay vuốt từ đầu đến chân, là trình ngọc xong. Toàn thân vuốt tới đâu, cảm biết tới đó, rõ ràng không mê thì chính đó là gì? Nghĩa là, tánh giác luôn luôn hiện hữu nơi người, sờ sờ chưa từng vắng mặt mà người người bỏ quên không nhận, lại đi nhận những tướng sanh diệt bên ngoài, nhận cái bóng dáng suy nghĩ theo duyên chợt có chợt không, khiến đành chịu lưu chuyển mãi. Một lẽ thật một trăm phần trăm như vậy còn nghi ngờ gì nữa? Người đã có, sao chúng ta không có? Sa di Cao bảo: “Chỉ là người chẳng chịu nhận thôi!”
Tuy nhiên đã biết có bản tâm đó rồi nhưng phải thấy ở đâu?
III. TÂM YẾU BÌNH THƯỜNG GIẢN DỊ
Sự thật tâm yếu này rất bình thường giản dị, ngay chỗ dùng hàng ngày của chúng ta đây thôi, không phải ở đâu xa. Bởi chúng ta quen sống theo ý thức, rồi tưởng tượng quá nhiều, gán cho nó đủ thứ lạ lùng kỳ bí, thành tự cách xa. Cách xa là tự cách chứ không ai xen vào trong đó.
Có vị tăng hỏi Trần Tôn Túc:
– Hằng ngày ăn cơm mặc áo làm sao khỏi được?
Sư bảo:
– Mặc áo ăn cơm.
Tăng thưa:
– Con chẳng lãnh hội.
Sư bảo:
– Chẳng lãnh hội thì ăn cơm mặc áo.
Thực là Thiền sư không nhọc công phí sức chút nào! Người học cứ muốn tìm cái gì khác lạ, phi thường ngoài cuộc sống này mới cho là quý. Nhưng có cái khác tức thành cái khác rồi. Không ngờ chỗ sống chân thật chính ngay nơi mình, ở trong mình, hằng ngày sống trong ấy, lại luôn chạy tìm. Này nhé! Nghe đánh bảng biết mặc áo đi ăn cơm, cơm dọn xong biết sớt vào bát, vào chén mà chưa qua niệm thứ hai thì đó là gì? Phật thành đạo nhưng hằng ngày vẫn đắp y, ôm bát, ăn cơm, uống nước như người, vậy trong đó cái đạo Ngài sống ở chỗ nào? Trong đây kỵ nhất là theo tiếng, theo sắc, ngay đó liền mất mình!
Có vị tăng hỏi Hòa thượng Tịnh Không đời thứ 10 dòng Vô Ngôn Thông Việt Nam:
– Ý Tổ sư và ý kinh là đồng hay khác?
Sư đáp:
– Muôn dặm nhờ thuyền đều đến triều vua.
Tăng hỏi:
– Hòa thượng có việc kỳ đặc, tại sao không nói cho con?
Sư đáp:
– Người thổi lửa, ta hốt gạo, người khất thực, ta ôm bát, có gì cô phụ ngươi?
Tăng nghe liền tỉnh ngộ.
Chỗ này giống nhân duyên giữa ngài Đạo Ngộ với Sùng Tín. Sùng Tín xuất gia với ngài Đạo Ngộ và theo hầu hạ thầy. Một hôm Sư thưa với Đạo Ngộ:
– Từ ngày con vào đây đến giờ chưa được thầy chỉ dạy tâm yếu?
Đạo Ngộ bảo:
– Từ ngày nhà ngươi vào đây, ta chưa từng chẳng chỉ dạy tâm yếu cho ngươi.
Sùng Tín thưa:
– Thầy chỉ dạy ở chỗ nào?
Đạo Ngộ bảo:
– Ngươi dâng trà lên, ta vì ngươi mà tiếp. Ngươi bưng cơm đến, ta vì người mà nhận. Ngươi xá lui ra thì ta gật đầu, chỗ nào chẳng dạy tâm yếu cho ngươi?
Sùng Tín cúi đầu lặng thinh giây lâu. Đạo Ngộ bảo:
– Thấy thì thẳng đó liền thấy, suy nghĩ liền sai.
Ngay câu nói đó, Sùng Tín tỏ ngộ.
Vậy Sùng Tín cũng như ông tăng trên đã ngộ cái gì? Ngộ cái thổi lửa hốt gạo, khất thực ôm bát, dâng cơm cuối đầu chăng? Trong ấy, tâm yếu ở chỗ nào? Quả thực, không tâm thì cái gì biết thổi lửa hốt gạo, dâng cơm, xá chào? Tuy nhiên vừa có cái TA xen vào liền thành mờ tối, nghi ngại! Có TA xen vào, ngay đó liền có đây kia, ta người có TA dâng cơm, TA thổi lửa, TA cúi đầu, TA xá chào v.v… Một dọc dài TA và TA và TA… còn đâu thấy tâm yếu?
Ngay đây loại hết mọi cái TA BIẾT sai biệt đó, chỉ còn nguyên vẹn một cái BIẾT TINH THUẦN, RÒNG RẶC xem nào! Trong đó có gì sai khác, chẳng phải? Tức là, phải trở về cái biết trước động niệm, trước khi có cái ta xen vào thì cùng Phật Tổ gặp nhau ngay trong cái xá chào, cái mặc áo, ôm bát! Chính đó là chỗ thầy trò tâm tâm in nhau, truyền trao cho nhau. Yếu chỉ thiền ngay sẵn chỗ bình thường hằng ngày ấy chớ không xa đâu.
Có vị tăng hỏi Hòa thượng Triệu Châu:
– Con mới vào tòng lâm, xin thầy từ bi chỉ dạy.
Sư hỏi:
– Ông ăn cháo xong chưa?
Tăng thưa:
– Dạ ăn cháo xong rồi.
Sư bảo:
– Rửa chén đi!
Hãy nói Triệu Châu đã chỉ dạy cái gì? Giống như Sư chỉ nói chuyện bình thường, nhưng chính tâm yếu thiền là ở chỗ đó! Đã ăn cháo xong thì rửa bát đi, còn chạy hỏi lăng xăng làm gì? Chính ngay chỗ ăn cháo, rửa bát mà chưa từng mê thì đó là gì? Còn đòi hỏi chỉ dạy thêm nữa sao? Bởi Triệu Châu vốn ngộ từ “tâm bình thường là đạo” nên chỗ chỉ dạy của Sư cũng rất bình thường, nhưng xác thật. Không nói lời đạo lý cao siêu, không dùng từ ngữ kiêu kỳ, không chuộng văn chương chữ nghĩa màu mè, song mỗi lời nói ra đều sáng ngời ánh sáng chân thật không thể nghĩ bàn! Với Sư thì tâm yếu hiện bày sáng ngời sờ sờ trong chỗ ăn cháo, rửa bát đó rồi. Tuy nhiên với Sư nói như thế thì được, với mọi người nói thì đó là tâm luân hồi, không phải tâm yếu. Đây là chỗ cần phải chín chắn, không thể bắt chước!
Kinh Kim Cang nói: “Như Lai là nghĩa như của các pháp.” Nghĩa là, ngay các pháp trước mắt thấy rõ tất cả đúng như nó là nó không chút sai lầm, không thêm bớt gì trong đó, thì thấy cái gì cũng Như Lai hiện tiền, cũng là Như Lai thấy. Thấy như thế thì chỗ nào cũng có thiền, không còn phân biệt kia đây. Trái lại vừa động niệm liền hết như.
Có một bà nọ đến dự một buổi thuyết giảng của Thiền sư Bạch Ẩn và được nghe Sư bảo rằng: “Tâm tịnh thì cõi nước thanh tịnh. Đức Phật trong mỗi chúng sanh: Một khi đức Phật xuất hiện, mọi vật trên thế gian đều chiếu ánh quang minh. Nếu ai muốn nhận được điều này, phải phản quan tự kỷ, đến chỗ nhất tâm bất loạn. Vì tâm tịnh tức độ tịnh, thì làm sao để trang nghiêm tịnh độ? Vì Phật vốn sẵn trong mỗi chúng sanh thì tướng tốt và vẻ đẹp của Phật là gì?”
Nghe xong, bà nghĩ: “Điều đó không quá khó.” Trở về nhà, bà bắt đầu quán chiếu suốt ngày đêm, đeo đuổi mãi trong tâm dù ngủ hay thức.
Rồi một hôm khi đang rửa nồi, bà thình lình tỏ ngộ. Ném cái nồi qua một bên, bà đến gặp Bạch Ẩn, bà nói:
– Tôi bỗng gặp đức Phật trong thân tôi. Mọi vật rạng ngời ánh sáng. Thật kỳ diệu! Kỳ diệu!
Bà hết sức vui mừng. Ngay đó Bạch Ẩn liền bảo:
– Bà nói như thế nhưng còn cái hầm phân thì sao? Nó có chiếu sáng không?
Bà bước lên đấm vào Bạch Ẩn nói:
– Ông già này chưa ngộ.
Bạch Ẩn cười to.
Với người đã thật ngộ thì luôn luôn sáng ngời, thấy cái gì cũng sáng, thấy hầm phân cũng sáng. Nếu nghe đến hầm phân liền nghĩ nhơ nhớp làm sao sáng, thì bị đuổi ra khỏi cửa, chưa phải thứ thiệt. Bà này đã thực có chỗ sống, không bị ngôn ngữ bên ngoài che mờ, nghe nói đã thấu qua ý Bạch Ẩn ngay nên thoi Bạch Ẩn nói: “Ông già này chưa ngộ.” Đó là chứng minh chỗ thấy của mình rõ ràng không nghi ngờ. Chính đây là cách trình kiến giải khéo, người bên ngoài không hiểu, tưởng bà chê bai Bạch Ẩn là lầm!
IV. TÂM YẾU BẶT ĐỐI ĐÃI KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN
Nó đơn giản, bình thường ngay trong chỗ sống hằng ngày nhưng lại bặt đối đãi, không thể phân biệt nghĩ bàn đến được. Vì nghĩ đến được thì nó thuộc đối tượng bị hiểu rồi. Bởi vậy khi hỏi đến chỗ cứu cánh của thiền, các Thiền sư thường im lặng,hoặc đánh hoặc hét, từ bi hơn thì các ngài nói đông nói tây, đánh lạc hướng ý thức không cho có chỗ bám.
Như Đạo Ngộ hỏi Hòa thượng Thạch Đầu:
– Thế nào là đại ý Phật pháp.
Thạch Đầu đáp:
– Chẳng được, chẳng biết.
Hỏi: Đại ý Phật pháp. Đáp: Chẳng đựơc chẳng biết. Vậy làm sao hiểu? Song, đã chẳng biết sao biết trả lời là chẳng được? Cái gì đáp chẳng được, chẳng biết? Đó thật là chỗ thật khó thấy, khó nghĩ, vì dù có nghĩ cũng nghĩ không tới. Bởi nghĩ là luôn nghĩ về một cái gì, tức có đối tượng để nghĩ, còn chính bản thân cái nghĩ, làm sao nghĩ? Đây là yếu chỉ quan trọng mà ít ai nhớ lại!
Lục Tổ bảo:
Ngơ ngơ chẳng tạo dữ,
Ngốc ngốc chẳng làm lành.
Lặng nghe dứt thấy nghe,
Thênh thang tâm không dính.
Chú ý! Không làm lành nhưng cũng không tạo dữ, tức vượt qua hai đầu lành dữ, không chỗ để niệm sanh, không dấu cho quỷ xem thấy, nên nói ngơ ngơ, ngốc ngốc. Đến chỗ lặng lẽ dứt thấy nghe, không chỗ để duyên, để bám thì tâm thênh thang không bờ mé. Song dứt thấy nghe đây, không phải bảo bịt tai, bịt mắt lại không cho thấy gì, nghe gì mà chính là thấy nghe tất cả nhưng không dừng trụ ở cái bị thấy, bị nghe. Tức đi qua tất cả mà không dừng lại ở một cái gì. Được vậy thì, tâm thênh thang không có bờ mé. Trái lại vừa dừng ở một chỗ nào là bị giới hạn ngay chỗ đó. Nghĩa tâm thênh thang là như thế. Người không hiểu nghe nói thênh thang rồi tưởng tâm mình bao trùm cả vũ trụ, che lấp hết không gian, đó là tưởng thôi, lại kẹt vào tướng thênh thang, cũng thành giới hạn. Chỗ này phải người ở trong tam muội tự thọ dụng thầm biết thôi, không phải chỗ để tranh cãi, lý luận.
Như vậy, chỗ rốt ráo của tâm yếu thiền là bặt đối đãi, không thể suy tư, nghĩ bàn. Còn có đối đãi là còn chỗ suy nghĩ đến được, tức còn chỗ bị thấy, chưa phải tâm yếu. Bài pháp đầu tiên của Lục Tổ chỉ bày cho Thượng tọa Huệ Minh là: “Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, cái gì là mặt mày xưa nay của Thượng tọa Minh?” Tức là dứt bặt niệm thiện ác, ngay đó tự sống dậy. Tuy nhiên nhiều người thường mắc kẹt ở chỗ chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, chỉ dừng ngay đó cho là phải. Đây là chết chìm trong chỗ lặng lẽ, bị kẹt cứng ở chỗ không hai, không tiến lên được. Đâu biết rằng ý Tổ không phải dừng ở chỗ chẳng nghĩ thiện ác đó, mà cần phải tiến một bước nữa là xem cái gì là mặt mày xưa nay? Chưa thấu qua chỗ này thì chưa có con mắt giáo ngoại biệt truyền. Cho nên, thiền phải đi qua và đi qua tất cả là vậy, không cho dừng lại ở bất cứ cái gì!
Thiền sư Đạo Ưng sau khi tỏ ngộ bèn cất am ở Tam Phong. Có lần trải qua mười ngày Sư không đến trai đường. Động Sơn thấy bèn gặp hỏi:
– Mấy ngày nay sao không đến thọ trai?
Sư thưa:
– Mỗi ngày có thiên thần cúng dường rồi.
Động Sơn bảo:
– Ta sẽ bảo ông là kẻ vẫn còn kiến giải, ông rảnh chiều hãy đến đây!
Chiều Sư đến. Động Sơn gọi:
– Am chủ Ưng!
Sư đáp ngay:
– Dạ!
Động Sơn bảo:
– Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, là cái gì?
Sư về am ngồi lặng lẽ, trải qua ba ngày thiên thần tìm không thấy mới thôi cúng dường.
Với người thông thường nghe đến đây đều không khỏi thắc mắc. Tại sao tu đến chỗ được thiên thần dâng cơm cúng dường là hay quá mà còn bị quở là vẫn còn kiến giải? Vậy là thế nào mới phải? Bởi vì, với người tu thiền, còn có chỗ cho thiên thần cúng dường tức còn có chỗ bị thấy, là dấu vết tâm chưa sạch, nên bị quở: “vẫn còn kiến giải”.
Đến khi ngồi yên, bặt niệm thiện ác tức không còn dấu vết tâm thì thiên thần bám vào đâu để thấy? Không còn có chỗ bị thấy, đó mới thật là tâm yếu thiền.
Bởi vậy, đối trong nhà thiền, người học còn kẹt trong niệm đối đãi hai bên là còn bị gạn lại. Như Động Sơn khi còn đi hành cước tham học, trên đường gặp bà già gánh nước, Sư đến hỏi xin nước uống. Bà già nói:
– Nước thì chẳng ngại cho uống, nhưng tôi có một câu hỏi cần hỏi qua trước: “Hãy nói nước có đủ mấy trần?”
Sư đáp:
– Chẳng đủ các trần?
Bà bảo:
– Thôi, thầy hãy đi! Chớ làm nhơ gánh nước của tôi.
Vậy Động Sơn đã làm nhơ gánh nước ở chỗ nào? Chính bà già hỏi thế là muốn gạn xem Sư có kẹt hai bên chăng? Các trần nói đủ là sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp. Sư đáp chẳng đủ, vì nước làm sao đủ sáu trần. Không ngờ chính Sư còn kẹt trong cái thấy “đủ, chẳng đủ”. Đó là kẹt nơi trần rồi nên bà bảo: “Làm nhơ gánh nước của tôi.” Nước chỉ là nước thôi, nói gì là đủ, chẳng đủ? Vừa thấy đủ, chẳng đủ là có xen cái tôi vào trong đó nên đành phải nhịn khát ra đi! Vậy thì làm sao uống được bát nước của bà già này? Xin để dành lại cho người!
Và đây, Lâm Tế đi lễ tháp Tổ Đạt Ma, vị chủ tháp, tức người trông coi tháp bèn hỏi:
– Trưởng lão lễ Phật trước hay lễ Tổ trước?
Sư đáp:
– Phật Tổ đều chẳng lễ.
Chủ tháp hỏi:
– Phật Tổ có oan gia gì với Trưởng lão?
Sư phủi tay áo đi ra.
Ông tăng chủ tháp hỏi như thế là theo thường tình, còn kẹt trước sau thứ lớp. Gặp ngay Lâm tế là bậc mắt sáng, tự có chỗ sống vững vàng, cái thấy vượt qua đối đãi, chủ tháp không bắt theo kịp. Sư đã đánh thức ông: “Phật Tổ đều chẳng lễ” để ông tỉnh lại, vậy mà ông cứ bám chặt vào câu lỗi phải, cố hỏi thêm: “Phật Tổ có oan gia gì với Trưởng lão?” Sư đành phủi tay áo ra đi, bỏ lại một mình ông ở đó, ông còn chưa tỉnh! Giờ đây mọi người đang làm chủ tháp hay làm Lâm tế? Coi chừng mũi tên đằng sau ót!
V. PHẢI TỰ CHỨNG NGHIỆM
Vì đến chỗ tột cùng của tâm yếu là bặt đối đãi, không thể nghĩ bàn, cho nên người muốn thấu suốt là phải tự chứng nghiệm thôi, không thể có con đường nào khác. Mong cầu giải thích cho hiểu càng vô ích. Càng cố hiểu lại càng lầm! Do đó, Lâm tế đại ngộ, Đại Ngu gạn lại: “Mới đó nói có lỗi, không lỗi, giờ lại nói Phật pháp của Hoàng Bà rất ít, ông thấy gì nói mau! Nói mau!” Sư liền thoi vào hông Đại Ngu ba thoi, trả lời xong.
Nếu người nghe bảo “nói mau” liền suy nghĩ tìm lời để nói là bị đánh đuổi ra rồi. Lâm tế chỉ thoi ba thoi, thấy cái gì ngay đó liền biết, khỏi giải thích dài dòng. Làm sao nói được chỗ thấy đó?
Chỗ này, Vân Môn gặp Tuyết Phong cũng chỉ cúi đầu thôi. Vân Môn ở tại trang sở của Tuyết Phong, Sư bảo vị tăng:
– Thượng tọa lên núi, gặp Hòa thượng thượng đường, chúng vừa nhóm họp liền ra nắm chặt cổ tay nói: “Ông già này trên cổ mang gông sao chẳng cởi đi?” nhưng không được nói là lời của Sư.
Vị tăng lên núi gặp Tuyết Phong làm đúng theo lời Sư bảo. Tuyết Phong xuống tòa, thộp ngực ông bảo:
– Nói mau! Nói mau!
Vị tăng không đáp được. Tuyết Phong buông ra bảo:
– Chẳng phải lời của ông.
Tăng thưa:
– Lời của con.
Tuyết Phong gọi:
– Thị giả hãy đem dây gậy đến đây!
Vị tăng thưa:
– Chẳng phải lời của con, là của một Thượng tọa ở Chiết Trung, hiện đang tại trang sở dạy con nói.
Tuyết Phong bảo:
– Đại chúng! Hãy đến trang sở rước vị thiện tri thức của 1500 người lên đây!
Hôm sau Sư lên núi, Tuyết Phong hỏi:
– Nhân đâu được đến chỗ ấy?
Sư bèn cúi đầu.
Xem Vân Môn có gì đặc biệt? Tại sao Tuyết Phong hỏi Sư: “Nhân đâu được đến chỗ ấy?” Sư không trả lời, chỉ cúi đầu? Sư không biết trả lời chăng? Đâu biết, bấy nhiêu đó Sư đã trả lời xong. Nghe hỏi “nhân đâu” liền ham giải thích cho nhiều để người hiểu, e rằng chưa phải, lại còn bày ra cái ta kiến giải! Đó là ló đuôi cho người nắm được. Yếu chỉ này quả thực không thể đoán mò, nói suông, mà bắt người học phải thực sự là hành giả đúng nghĩa của nó.
VI. TÓM KẾT: CÓ TÂM LÀ CÓ THIỀN
Như vậy xét cho tột cùng, tâm yếu thiền ở đâu? Chỉ là ở ngay tự tâm người thôi. Có tâm tức có thiền, khỏi nói ở đâu. Vừa thấy có chỗ là hết tâm yếu.
Trong Huyết Mạch Luận, Tổ sư đã chỉ rõ: “Ca Diếp chỉ là ngộ được bản tánh. Bản tánh tức là tâm, tâm tức là tánh. Tánh tức là tâm đồng với chư Phật này, Phật trước Phật sau chỉ truyền tâm này hẳn không Phật có thể được.”
Đây Tổ sư xác quyết rõ ràng. Tổ Ca Diếp ngộ chỉ là ngộ bản tánh thôi. Bản tánh đó tức là tâm, cái tâm tức tánh này, chính là tâm đồng với chư Phật, là chỗ truyền của Phật Phật, không thể có gì khác nữa.
Song phải rõ tâm tức tánh này là tâm gì? Tức là tâm bặt đối đãi. Nhận được tâm này là yếu chỉ vào đạo, rời ngoài tâm này chắc chắn sẽ đi vào đường tà. Tuy nhiên chớ lầm với cái tâm có đủ thứ mà cho là tâm đồng với chư Phật, rồi bám vào đó mà sống bừa bãi không pháp tắc, là đi vào địa ngục nguy hiểm! Phải là tâm thể sờ sờ sáng ngời chưa từng mê, đó mới thực là tâm yếu thiền.
Đã rõ thiền là ở tâm, cuối cùng tự tin là chính yếu, thiếu tự tin là chưa hiểu thiền.
Động Sơn hỏi Hòa thượng Hưng Bình:
– Thế nào là tâm Phật?
Hưng Bình đáp:
– Chính là tâm ông.
Động Sơn thưa:
– Tuy nhiên như thế chính là chỗ con nghi.
Hưng Bình bảo:
– Nếu thế ấy, hãy hỏi lấy người gỗ đi!
Hỏi tâm Phật, đáp chính là tâm ông, nếu ông còn nghi thì hãy đến người gỗ mà hỏi. Người gỗ sẽ trả lời thế nào? Sẽ được câu đáp gì? Ngầm ý bảo phải tự xoay lại chính mình thôi. Còn muốn hướng ra ngoài tìm chỗ để hiểu là tự cách xa.
Lâm Tế dạy: “Người học đạo cốt phải tự tin, chớ tìm kiếm bên ngoài, thảy là lên trên cảnh trần rỗng của người khác, đều chẳng nhận rõ tà chánh. Chẳng hạn có Phật, có Tổ đều là việc trong kinh giáo để lại.”
Rõ thật, Tổ Lâm Tế cũng bảo tự tin trở lại chính mình thôi. Ngoài đây mà tìm Phật Tổ bên ngoài, cũng là Phật Tổ trong kinh giáo, sách vở để lại, không phải Phật Tổ thật. Bởi ngoài tâm thì lấy gì giác? Lấy gì ngộ?
Linh Huấn hỏi ngài Quy Tông:
– Thế nào là Phật?
Quy Tông bảo:
– Ta nói cho ông nhưng ông có tin chăng?
Linh Huấn thưa:
– Lời chân thật của Hòa thượng con đâu dám chẳng tin.
Quy Tông bảo:
– Chính là ông đó.
Xét cho tột thì bao nhiêu phương tiện của Phật, Tổ lập bày ra, không ngoài một việc, giúp cho người tự tin trở lại chính mình là gốc. Chính bản thân đức Thế Tôn sau bao năm tầm thầy học đạo, công phu đạt đến những tầng thiền cao nhất ở thế gian, nhưng Ngài vẫn thấy chưa an, cuối cùng Thế Tôn quyết buông tất cả, đến ngồi dưới cội tất bát la thiền định xoay lại chính mình mà thấu tột cội nguồn sanh tử, dứt sạch vô minh, phá tung lưới sanh tử luân hồi, tự thành đạo Vô thượng Chánh giác. Cho nên lời Phật thốt lên: “Lạ thay! Lạ thay! Tại sao chúng sanh ở trong thân có đầy đủ trí tuệ Như Lai mà không tự thấy biết? Ta phải dạy cho các chúng sanh ấy giác ngộ Thánh đạo, để chúng lìa hẳn sự trói buộc của vọng tưởng điên đảo, thấy đầy đủ được trí tuệ Như Lai ở trong thân họ cùng với Phật không khác.” (Phẩm Thánh Khởi, kinh Hoa Nghiêm). Đây là tiếng chuông cảnh tỉnh cho tất cả chúng ta đấy! Ai ai cũng đều có đủ phần thành Phật đó, nhưng vì bỏ quên không nhận, lại nhận những thứ vọng tưởng điên đảo, đành chịu luân hồi kiếp kiếp. Giờ đây chỉ cần nhớ lại thì tự đầy đủ cùng Phật không khác! Bỏ chỗ này mà chạy tìm đạo giác ngộ ở đâu khác là không bao giờ có!
Bài kệ truyền pháp của Phật:
Pháp bổn pháp vô pháp,
Vô pháp pháp diệc pháp.
Kim phó vô pháp thời,
Pháp pháp hà tằng pháp?
Dịch:
Pháp gốc pháp không pháp,
Pháp không pháp cũng pháp.
Nay đây trao không pháp,
Pháp pháp đâu từng pháp?
Cái “pháp gốc” chính là pháp “không pháp”. Nghĩa là, tuy tạm nói là pháp nhưng thực sự nó không là một pháp gì, không thuộc cái bị biết, không chỗ cho người bám hiểu. Song, chính cái cái không là pháp gì hết đó mới là thật pháp, chứ không phải hoàn toàn không ngơ, chẳng có gì. Cốt là người phải vượt lên có và không. Vậy pháp gốc đó là gì? Không thể chỉ là gì, mà chính là tâm thôi! Vì vậy, nay trao là trao cái tâm pháp này chứ không gì khác. Người nhận được tâm pháp này liền sáng tỏ mọi pháp đều không thật, không riêng có một cái thứ hai nữa! Rốt lại, chỉ là tâm tâm truyền nhau, nếu còn thấy có một pháp thật ngoài tâm để được, để truyền, tức lọt ngoài cửa Tổ.
Bởi thế, Thiền sư Hồng Tiến ở viện Địa Tạng vừa thượng đường, có hai vị tăng ra lễ bái, Sư liền bảo:
– Cả hai đều lầm!
Tại sao hai vị tăng mới ra lễ bái chưa thưa hỏi điều gì mà Sư bảo là lầm? Vậy lầm ở chỗ nào? Vì ra lễ bái là muốn thưa hỏi cái gì đó, tức đã quên mình rồi! Lầm ngay chỗ đó! Đây là Sư muốn đánh thức hai người tự nhớ lại là xong. Yếu chỉ thiền nằm ngay đó!
Song, nói tự tin, nhưng tự tin cái gì? Tức tự tin tâm thể sờ sờ sẵn có đây thôi. Tâm thể này vốn vượt ngoài mọi tướng đối đãi so sánh. Trong Tín Tâm Minh, Tam Tổ Tăng Xán gọi là:
Tín tâm bất nhị,
Bất nhị tín tâm.
Ngôn ngữ đạo đoạn,
Phi khứ lai kim.
Nghĩa:
Tin tâm chẳng hai,
Chẳng hai tin tâm.
Dứt đường nói năng,
Chẳng phải xưa nay.
Nghĩa là, tin tâm vốn bặt niệm đối đãi, luôn luôn hiện tiền vượt ngoài thời gian, không gian, không thể nói năng suy nghĩ luận bàn. Tin được như thế thì hết còn bị ngoại vật chuyển, tự có chỗ sống vững vàng muôn thuở.
Tuy vậy, phải chú ý! Tin tâm, nhưng phải là tâm chẳng hai, tức tâm bặt đường nói năng suy nghĩ, vượt ngoài thời gian, không gian, không chỗ để hý luận; quyết không thể nhận bừa cái tâm suy nghĩ lăng xăng là nguy!
Điều này Tổ sư đã nói rõ trong Huyết mạch Luận: “Tâm lượng rộng lớn, ứng dụng không cùng, ứng mắt thấy sắc, ứng tai nghe tiếng, ứng mũi ngửi mùi, ứng lưỡi nếm vị, cho đến mọi cử chỉ hành động đều là tự tâm, ở trong tất cả thời chỉ dứt đường ngôn ngữ, chính là tự tâm.”
Quả là chỗ thấy của bậc đạt đạo vốn không hai. Ngay trong chỗ thấy nghe hằng ngày này, ngay trong mọi hành động đó, đều không ra ngoài tự tâm. Nhưng phải là “ở trong tất cả thời chỉ dứt đường ngôn ngữ, chính là tự tâm.” Tức phải vượt qua chỗ nói năng suy nghĩ mới đúng! Đến đây, Tổ sư đã chỉ hết tình, không giấu diếm chút gì, phần còn lại là người có đủ tự tin hay chưa vậy thôi.
Tóm lại, thiền là của chung tất cả, không phải của riêng ai. Ai có tâm đều có thiền, đây là chân lý muôn thuở! Bởi vậy tâm yếu thiền luôn hiện khắp trong mọi động dụng của chúng ta đang sống, rất bình thường giản dị, sát với chúng ta đến nỗi bất ngờ! Chỉ có điều, người muốn sáng tỏ được tâm yếu này thì phải quên niệm đối đãi phân biệt, bặt đường nói năng, hiểu biết. Vì nó không phải là cái bị biết, bị hiểu, bị nói! Hãy chín chắn xem lại: Giơ tay, bước chân, cúi đầu, xá chào… đó là gì?
Kỵ nhất, Đạo Ngô bảo Sùng Tín: “Nhận liền thì liền nhận, suy nghĩ liền sai.” Tâm yếu là đây!
Một Cái Biết Suốt Cả Xưa Nay
I. MỘT LẼ THẬT KHÔNG HAI
Lâu nay người học đạo thường bị lúng túng, do dự khi đụng đến cái biết. Hoặc nghe nói: Biết là vọng giác; hoặc nghe nói: Biết vọng cũng là vọng; hoặc nghe nói Biết là động, là mê, là sanh diệt hoặc có lúc nghe nói: Biết là nhiệm mầu, Biết huyễn tức lìa huyễn v.v… Vậy làm sao thấu rõ không lầm? Chính đây là điểm thiết yếu, người học đạo chúng ta cần phải nắm vững để xác quyết trên đường tu không thối chuyển.
Thực ra, xét cho thấu đáo thì xưa nay Phật, Tổ nói nhiều kinh luận, tạo lập bao nhiêu phương tiện, hoặc phá chấp hoặc chỉ thẳng, hoặc đánh hoặc hét… cũng không ra ngoài một cái BIẾT. Dù người có cố bài bác nó, trừ bỏ nó nhưng vẫn không làm sao bài bác, trừ bỏ được. Bởi bài bác nó thì lấy cái gì bài bác. Chính khi bài bác nó là đã dùng nó rồi! Không biết làm sao bài bác? Dùng cái biết để bài bác cái biết, chỉ tự mâu thuẫn thôi, đâu là thật nghĩa? Trừ bỏ cũng thế.
Tăng hỏi Tào Sơn Bổn Tịch:
– Thế nào là mênh mang bát ngát chuốc họa ương?
Sư đáp:
– Chỉ là cái ấy.
Tăng hỏi:
– Làm sao khỏi được?
Sư đáp:
– Biết có liền được, dùng khỏi làm gì? Chỉ là bồ đề, niết bàn, phiền não, vô minh v.v… thảy đều chẳng cần khỏi. Cho đến việc thô trọng ở thế gian cũng thế, miễn biết có là được, chẳng cần khỏi; khỏi tức đồng biến dịch (dời đổi) rồi.
Ông tăng muốn biết có cách gì để khỏi họa ương mênh mang bát ngát kia. Tào Sơn chỉ đáp gọn: “Biết có” là xong, khỏi phải cầu khỏi. Còn muốn cầu khỏi tức là còn ý niệm kia đây, muốn bỏ đây để tìm kia, bỏ cái biết này tìm cái biết khác, đó cũng là dời đổi, là sanh diệt thôi. Chỉ ngay đây Biết có việc ấy, hết mê là xong. Tuy nhiên phải chín chắn thấu tột cội nguồn của nó chớ không vội dừng trên tướng sai biệt mới là người khéo. Như sóng và nước, trở về nguồn nước là Giác, theo từng lượn sóng là Mê. Bởi, chính Tâm vốn là Biết, thì bỏ nó sẽ sống với cái gì? Cốt yếu đừng lầm nó là điểm quan trọng! Ngoài ra, dù cố bỏ nó, trừ nó, cũng không ra khỏi nó. Cả đến người nhập diệt tận định, khi xuất định cũng ở trong nó.
Có vị tăng hỏi Hòa thượng Triệu Châu:
– Khi học nhân hoàn toàn chẳng lãnh hội thì thế nào?
Sư đáp:
– Ta cũng trọn chẳng hội.
Tăng thưa:
– Hòa thượng Biết có hay không?
Sư bảo:
– Ta chẳng phải khúc gỗ, làm sao chẳng biết?
Tăng thưa:
– Rất khéo chẳng hội.
Sư vỗ tay cười.
Hòa thượng Triệu Châu là vị đại Thiền sư nổi tiếng đời Đường, người tham công án thường tham những công án của Sư như “cây bách”, “chữ KHÔNG”…, song với Sư có chối bỏ cái Biết chăng? Trong đây Sư đã xác nhận rõ ràng: “Ta chẳng phải khúc gỗ, làm sao không biết?” Ông tăng tinh mắt thấy được Sư nên nói: “Rất khéo chẳng hội.” Bởi khi nói “chẳng hội” thì cái gì “Biết chẳng hội”. Nói chẳng hội không hẳn là chẳng biết gì. Người học thiền lanh lợi phải khéo nhận trong ấy, không thể chết trên lời “chẳng hội”. Như vậy cho thấy, dù ai có cố phủ nhận nó, chê trách nó, cũng không ra khỏi nó, đó là một lẽ thật không thể chối cãi được.
II. TỪ KINH ĐẾN THIỀN
Để cho người học thấy rõ hơn, lẽ thật này xưa nay một mạch thông suốt không hai, chúng ta đi qua từ kinh đến thiền xem nào!
* KINH TƯƠNG ƯNG: Trong bài kinh “Có Pháp Môn Nào”, Phật bảo các Tỳ- kheo: “Ở đây, này các Tỳ- kheo! Tỳ- kheo khi mắt thấy sắc, hoặc nội tâm có tham sân si, Biết rõ ‘nội tâm ta có tham sân si’, hoặc nội tâm không có tham sân si, biết rõ ‘nội tâm ta không có tham sân si’. Này các Tỳ kheo! Khi mắt thấy sắc, hoặc nội tâm có tham sân si… Biết có tham sân si.., nội tâm không có tham sân si, biết không có tham sân si. Này các Tỳ kheo! Biết rõ chúng có mặt hay không có mặt trong tâm vị ấy, có phải chúng là những pháp do lòng tin được hiểu biết, hay do ưa thích được hiểu biết, hay do lắng nghe được hiểu biết, hay do suy tư về phương pháp được hiểu biết hay do kham nhẫn được hiểu biết, hay do thích thú biện luận được hiểu biết?
– Thưa không, bạch Thế Tôn!
– Có phải các pháp này, do thấy chúng với Trí tuệ nên được hiểu biết?
– Thưa phải, bạch Thế Tôn!
– Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng như vậy.
Cuối cùng Phật xác định: “Đây chính là pháp môn, này các Tỳ-kheo, do pháp môn này, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài suy tư về phương pháp, ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận, có thể xác chứng với chánh trí, vị ấy biết rõ sanh tử đã tận, việc làm đã xong… không còn sanh trở lại đời nào khác nữa.”
Trong đây Phật đã xác định rõ: Cái Biết nơi nội tâm có tham sân si, không tham sân si khi sáu căn đối tiếp sáu trần, cái biết đó, là chỗ xác chứng với chánh trí, nghĩa là có thể chứng nghiệm trong chánh trí chớ không phải là điều nói suông. Cái Biết đó biết suốt đến tận ngày nay, có niệm Biết có niệm, không niệm Biết không niệm, có gì cách biệt? Đâu phải cố định dùng chữ “tham sân si” mới được?
* KINH THANH TỊNH, TRƯỜNG A HÀM Phật bảo: “Pháp ta tự chứng chỉ người trí mới BIẾT”. Vậy Phật có bác bỏ cái Biết chăng? Chỉ là chỗ đó người trí mới Biết thôi, tức là cái Biết vượt ngoài chỗ biết của thức tình sanh diệt, chớ đâu phải thành đạo rồi vô tri như cây đá không biết gì! Mà điều này, ai không có? Nó vốn nằm trong suy tư, lý luận, không ở trong bộ kinh này, bộ kinh nọ; trái lại nó ở chính ngay tự tâm người thì tại sao chúng ta lại chối bỏ nó?
* KINH KIM CANG: Phật bảo Trưởng lão Tu Bồ Đề: “Có những chúng sanh ở trong vô lượng vô số cõi nước như số cát sông Hằng, những chúng sanh ấy có bao nhiêu thứ tâm, Như Lai thảy đều biết hết. Vì sao? Như Lai nói các tâm là chẳng phải tâm, đó gọi là tâm. Bởi cớ sao? Vì tâm quá khứ chẳng thể được, tâm hiện tại chẳng thể được, tâm vị lại chẳng thể được.”
Vậy thì Như Lai có Biết chăng? Chẳng những Ngài Biết rõ và Biết nhiều hơn chúng ta nữa kìa, nhưng đặc biệt là Ngài không ở trong cái bị biết như chúng ta đang sống. Chúng ta nếu biết tất cả nhưng ở trong Như Lai mà biết, thì gặp Phật Biết liền. Bởi chúng sanh dù có bao nhiêu thứ tâm đi nữa, Như Lai đều biết rõ tâm đó là chẳng phải tâm. Tại sao chẳng phải tâm? Vì những tâm đó đều thuộc tâm ba thời, hoặc tâm quá khứ hoặc tâm hiện tại, hoặc tâm vị lai, mà tâm ba thời đều không thể được, tức không thật có, là tâm sanh diệt, do đó đâu thể qua mắt Như Lai.
Rồi hỏi Phật có đủ năm mắt là nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn chăng? Tu Bồ Đề đáp có đủ hết. Không những Phật có đủ mắt Phật, mắt pháp, cũng có đủ luôn mắt thịt không chối bỏ. Song với mắt thịt của Phật, Phật thấy tất cả vật như chúng ta mà không lầm theo vật, thấy suốt qua mọi vật không bị che mờ chánh giác, đó là THẤY BIẾT CỦA PHẬT. Nếu chúng ta ngay cái thấy biết này, thấy biết tất cả không lầm mê tức cùng Phật gặp nhau, đâu phải tìm thấy biết nào khác nữa. Cốt là đúng như nghĩa NHƯ mà Thấy Biết thì không có gì lầm qua mắt được. Trái nghĩa NHƯ mà biết, đó là cái biết của phàm phu sanh tử.
Chẳng hạn, ngay đây chúng ta vừa động niệm lên thì trong đó cái gì Biết liền? Mới vừa động niệm thì chưa có cái thứ ba chen vào, không phải chính đó là Như Lai biết sao? Tại sao mình lại chối bỏ nó, rồi đi nhận bao nhiêu cái biết kia là cái bị biết? Cho đến đi chỉ trích người này, đi phê bình người nọ, đó là cái Biết gì? Chính là cái tâm bị biết, là cái biết sanh tử, nhận cái biết này mà tự thích thú là nhận đi trong sanh tử luân hồi không có ngày ra. Đây là điểm không thể lầm lẫn!
* KINH DUY MA. Trong phẩm Phật Quốc, có hai câu kệ:
Năng thiện phân biệt chư pháp tướng,
Ư đệ nhất nghĩa ư bất động.
Nghĩa:
Hay khéo phân biệt tướng các pháp,
Nơi nghĩa đệ nhất vẫn chẳng động.
Như vậy là có biết chăng? Đây bảo, phân biệt rõ hết tất cả mọi pháp không sót cái gì thì đâu chối bỏ cái Biết? Chỉ là, tuy Biết hết tất cả nhưng không rời nghĩa đệ nhất, tức không rời thể chân thật thường trụ, đó là điểm quan trọng! Nghĩa là, không phủ nhận cái Biết, không bác bỏ phân biệt, song phải phân biệt mà không lệ thuộc theo duyên, không dừng trên cảnh bị phân biệt. Phân biệt như thế thì phân biệt tất cả cảnh duyên mà không rời tự tánh chính nó, do đó phân biệt mà đâu từng mê, đâu theo sanh diệt, làm sao bác bỏ nó? Thiền sư Huyền Giác bảo: “Phân biệt mà không phải Ý.” Quan trọng là không có “Ý” xen vào. Song có người sẽ thắc mắc hỏi: “Không có ý thì làm sao biết phân biệt?” Đây là hỏi theo tình mê, cứ nghĩ rằng phải có ý thì mới biết phân biệt, không có ý thì lấy gì, nương vào đâu mà phân biệt được? Đó là bám chặt theo cái phân biệt thuộc sanh diệt, có ý thì có phân biệt, không ý thì không phân biệt. Hơn nữa, có “Ý” là có “TA” rồi, nên phân biệt cũng méo mó theo TA. Còn trong đây, là tự thể vốn đủ tánh phân biệt không nhờ cái gì khác, nên cái gì thoáng qua là biết ngay, đâu cần thêm ý. Thêm “Ý” là thêm cái “TA” vào, đó là chỗ bị quở trách!
Tăng hỏi Thiền sư Hoài Nhượng ở Nam Nhạc:
– Như gương đúc thành tượng, sau khi thành tượng, chẳng biết ánh sáng đi về đâu?
Sư đáp:
– Như ông hiện giời, tướng mạo lúc còn bé ở đâu?
Tăng hỏi:
– Chỉ như sau khi tượng thành vì sao chẳng chiếu soi?
Sư đáp:
– Tuy nhiên chẳng chiếu soi, mà dối y một điểm cũng không được.
Gương chưa đúc thành tượng là còn trong dụng công chiếu soi phân biệt mà biết.
Gương sau khi đúc thành tượng là quên công phu, bặt chiếu soi phân biệt, nhưng đâu phải không biết gì. Người cứ sợ hết chiếu soi phân biệt thì không còn biết, nên hỏi: “Ánh sáng đi về đâu?” Không ngờ, tướng mạo lúc bé tuy hiện giờ không thấy, nhưng đi đứng tới lui đó là gì? Có biết chăng? Tại sao cứ lại bám vào tướng mạo cũ đó mới chịu? Bởi cái Biết do có chiếu soi mà có, khi không chiếu soi liền không có. Đó là cái biết sanh diệt, còn trong dụng công, chưa phải THẬT BIẾT, THẬT TRÍ. Cái thật Biết của Thật Trí dù có chiếu soi hay không chiếu soi vẫn biết không mất, không hạn cuộc chỗ nơi. Đây là TOÀN THỂ HẰNG BIẾT nên đụng đến đâu cũng rõ ràng, vốn hằng như vậy thì có cái gì thoáng qua mà dối gạt được nó? Đến đây mới chính là chân tâm hiện tiền. Chỗ này đem cái Biết của phàm phu mà phê bình được sao?
Thiền sư Bị ở Huyền Sa, một hôm có vị tăng đang đứng hầu, Sư lấy cậy gậy chỉ chấm trắng trên nền đất ở trước mặt hỏi:
– Có thấy chăng?
Tăng thưa:
– Dạ thấy.
Sư hỏi lại:
– Có thấy chăng?
Tăng đáp:
– Dạ thấy.
Sư nhấn mạnh lại lần nữa:
– Có thấy chăng?
Tăng thưa:
– Dạ thấy.
Sư liền bảo:
– Ông cũng thấy, ta cũng thấy, vì sao nói chẳng lãnh hội?
Hãy nghe kỹ: “Ông cũng thấy, ta cũng thấy, vì sao nói chẳng lãnh hội?” Ai thấy được điểm cách biệt này? Thấy được chỗ này thì hết tranh cãi. Thiền sư Bị cũng thấy điểm trắng, sao Sư sáng tỏ không mê. Ông tăng cũng thấy điểm trắng, sao lại tối tăm không sáng? Chỉ tại ông thấy chấm trắng liền trụ ngay chấm trắng, chỉ biết có chấm trắng. Còn Sư thấy chấm trắng vẫn không rời tự tánh thấy! Một chút xíu đó thôi mà cách biệt hằng sa kiếp số tới giờ vẫn chưa sáng tỏ! Rõ chỗ này thì vượt hằng sa kiếp trong chớp mắt! Chỗ này ngôn ngữ muôn đời không bao giờ tới được, làm sao bài bác nó!
KINH LĂNG NGHIÊM: Trong kinh Phật từng chỉ rõ:
Tri kiến lập tri tức vô minh bổn,
Tri kiến vô kiến tư tức Niết bàn.
Nghĩa là:
Thấy biết mà lập thêm thấy biết tức là gốc vô minh,
Thấy biết mà không có thêm thấy biết đấy là Niết bàn.
Vậy Niết bàn có biết hay không? Đây nói rõ: Thấy biết mà không có lập thêm cái thấy biết nữa thôi, không phải bảo hoàn toàn không biết. Vậy tại sao chúng ta bài bác thấy biết, chúng ta hơn Phật, Tổ sao? Hay chính chỗ thấy của chúng ta còn chưa theo kịp Phật, Tổ? Đây là điểm cần tự xét lại!
Một đoạn khác trong kinh Lăng Nghiêm Phật bảo A Nan và đại chúng:
Những người tu hành chẳng thể thành tựu Vô thượng Bồ đề cho đến riêng thành Thanh văn, Duyên giác và quyến thuộc của ma, đều do chẳng biết hai thứ căn bản, tu tập lầm lộn. Thế nào là hai thứ?
1. CĂN BẢN SANH TỬ TỪ VÔ THỦY: Tức chính ông hiện nay và các chúng sanh dùng TÂM PHAN DUYÊN làm tự tánh.
2. THỂ BỒ ĐỀ NIẾT BÀN THANH TỊNH SẴN CÓ TỪ VÔ THỦY: Tức chính ông hiện nay, cái “thức thể tự sáng ngời” (thức tinh nguyên minh) nó hay sanh các duyên, mà bị các duyên bỏ sót nó. Do các chúng sanh bỏ sót cái “sáng suốt sẵn có” này nên tuy trọn ngày tu hành mà chẳng tự giác, uổng đi vào các thú.”
Ai thấy cái đau đớn của chúng ta chưa? Chỉ lo nhận cái “tâm phan duyên” làm tự tánh nên đi lang thang mãi trong vòng luân hồi không biết đâu là cùng! Trong khi đó, thể Bồ đề Niết bàn thanh tịnh sẵn có tự bao giờ vẫn ở ngay đấy lại bỏ quên. Sao quá phủ phàng!
Đây Phật chỉ rõ: Cái thức tinh nguyên minh tức “cái thức thể sẵn tự sáng ngời”, nó hay sanh các duyên, rồi bị các duyên bỏ sót nó đi. Do chúng ta bỏ sót cái “sáng suốt sẵn” có này cho nên dù trọn ngày tu hành khổ nhọc mà chẳng tự giác được, đành chịu trôi lăn trong các thú một cách đáng thương!
Điểm quan trọng là: cái thức thể sẵn tự sáng ngời, nó hay sanh các duyên, là sanh như thế nào? Và nó bị các duyên bỏ sót nó, là bỏ sót thế nào? Trước nhất phải hiểu cái “Thức thể sẵn có tự sáng ngời” là cái gì? Đừng mắc kẹt trong chữ nghĩa! Tức cái THỂ BIẾT SỜ SỜ chúng ta đang sống trong nó đây. Nó biết khắp tất cả các duyên, các cảnh, đó gọi là sanh! Nghĩa là nó biết cái nào liền có cái đó hiện. Nhưng chính khi nó biết các duyên rồi, lại chỉ nhớ các duyên thôi, đồng hóa với các duyên, quên mất chính nó, đó là bỏ sót chứ gì! Chính chỗ này là nguồn gốc đi vào luân hồi, lang thang trong sáu nẻo. Trọn ngày tu hành mà mà chỉ NHỚ cái Biết theo duyên, theo cảnh, lấy đó làm gốc tu hành, THẤY BIẾT “mất mình trong duyên” nên đi mãi trong sanh tử, không ra khỏi, có lạ gì! Bởi sống bằng TÂM PHAN DUYÊN nên luôn luôn đuổi theo cảnh, cảnh này qua rồi lại suy tìm cảnh khác để duyên, để biết, vì sợ rằng không có cảnh thì không biết? Đem Biết đi tìm Biết, trách gì không bị Phật quở là MÊ.
Chính bám vào cái THẤY BIẾT này nên thấy “có biết, không biết”, có duyên thì biết, không duyên thì không biết. Sự thật, THỂ BIẾT vẫn thường hằng chưa từng vắng mặt bao giờ. Nói có biết, không biết là do có đối tượng hay không có đối tượng, hoặc có duyên hay không có duyên vậy thôi, đâu thể lầm lẫn với cái THỂ BIẾT này! Cho nên ngay đây chúng ta chỉ cần: BIẾT TẤT CẢ CẢNH DUYÊN MÀ KHÔNG QUÊN là xong, là nó vẫn hằng có mặt rõ ràng đó thôi, dù ai có bài bác, có đả phá cách gì cũng không dính dáng.
Hòa thượng Cảnh Thanh một hôm hỏi vị tăng:
– Ngoài cửa có tiếng gì?
Tăng thưa:
– Tiếng mưa rơi.
Sư bảo:
– Chúng sanh điên đảo quên mình theo vật.
Tăng thưa:
– Hòa thượng thì sao?
Sư bảo:
– Vẫn chẳng quên mình
Tăng thưa:
– Vẫn chẳng quên mình, ý nghĩa đó thế nào?
Sư bảo:
– Xuất thân còn là dễ, thoát thể nói rất khó.
Hỏi: Tiếng gì ngoài cửa? Theo đó mà đáp, quên mất chính mình đang đối diện đây, là MÊ, là điên đảo. Trái lại, vẫn nghe tiếng mưa rơi, vẫn biết rõ ràng từng tiếng mưa rơi rành rẽ mà không đồng hóa với tiếng mưa, không bỏ sót chính mình, thì ông chủ vẫn có mặt sáng ngời đó, có lầm lỗi gì? Tuy nhiên “xuất thân còn là dễ”, tức thấu qua chỗ đó còn tạm nói được, tạm chỉ bày được, nhưng “thoát thể nói rất khó”, nghĩa là thể nhập trong đó thì không còn là chỗ có thể nói đến, bàn đến được, chỉ phải thực sự chứng nghiệm qua thôi. Vậy thì làm sao thức tình dò đến nỗi mà gọi là thức? Chỗ này không thể hời hợt bỏ qua!
* KINH PHÁP HOA. Trong phẩm Phương Tiện, Phật bảo Trưởng lão Xá Lợi Phất: “Đức Phật Thế Tôn chỉ do một đại sự nhân duyên mà hiện ra nơi đời. Đại sự nhân duyên đó là gì? Tức vì muốn cho chúng sanh KHAI TRI KIẾN PHẬT để được thanh tịnh mà hiện ra đời; Vì muốn CHỈ Tri Kiến Phật cho chúng sanh mà hiện ra đời; Vì muốn cho chúng sanh tỏ NGỘ Tri Kiến Phật mà hiện ra đời; Vì muốn cho chúng sanh CHỨNG VÀO đạo Tri Kiến Phật mà hiện ra đời.”
Trong đây Phật thổ lộ bản hoài của chư Phật hiện ra đời, chỉ vì một việc KHAI THỊ cho chúng sanh NGỘ NHẬP Tri Kiến Phật thôi, ngoài ra thì tất cả đều là phương tiện. Nhưng Tri Kiến Phật là gì? Tức cái THẤY BIẾT GIÁC NGỘ. Song cái THẤY BIẾT GIÁC NGỘ đó ở đâu mà khai thị? Chính ngay sáu căn này chớ không đâu khác. Ngay đây mà thấy biết theo duyên để chịu sanh diệt là cái thấy biết chúng sanh, thấy biết MÊ. Ngay đây mà THẤY BIẾT lìa duyên, không theo sanh diệt, là cái THẤY BIẾT PHẬT, THẤY BIẾT GIÁC, không ngoài cái thấy biết này riêng có cái gì khác, không bỏ đây tìm kia, đó mới là cái “thấy biết chân chánh” vượt ngoài đối đãi.
Đây nhắc lại vị tăng hỏi Thiền sư Tiểu Nham:
– Trong kinh nói: “Chư Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên.” Xin hỏi Hòa thượng thế nào là đại sự nhân duyên?
Sư đáp:
– Ăn cơm, mặc áo, đi ỉa, đi đái.
Vị tăng không chấp nhận, chẳng thèm lễ bái, liền đi ra. Sư gọi lại, nói bài kệ:
A thỉ tịnh phóng niệu
Cơ xan khốn đả miên
Mục tiền khẩn cấp sự
Nhân chỉ dục thướng thiên
Đàm huyền cọng thuyết diệu
Tạo tội phục thâu tiền.
Nghĩa:
Chư Phật hiện ra đời
Chỉ vì nhân duyên lớn
Đi ỉa cùng đi đái
Đói ăn mệt ngủ khò
Trước mắt việc gấp rút
Người chỉ muốn lên trời
Bàn huyền cùng nói diệu
Mắc tội lại thua tiền.
Ông tăng thiết tha hỏi “nhân duyên việc lớn”, ông cứ tưởng đó là một cái gì thật phi thường cao xa, vượt ngoài cõi đời này. Không ngờ Thiền sư đáp một cách bình thường, hết sức bình thường: “ăn cơm, mặc áo, đi ỉa, đi đái”, thì làm sao chấp nhận được? Bởi nó không đúng với chỗ tưởng tượng của mình. Đâu biết, lẽ thật vốn sờ sờ nơi mình, rất đơn giản gần gũi với mình, nhưng vì chúng ta chấp nhận theo danh từ khởi tưởng nên thành xa. Bởi vậy, Thiền sư Tiểu Nam nói kệ đánh thức ông tăng trở lại. Chính chỗ ông sống hằng ngày đây, chỗ ông ăn cơm, mặc áo, đi ỉa, đi đái đó, là chỗ gấp rút cần thức tỉnh. Trái lại ông không chịu tỉnh, còn muốn đòi hỏi xa xôi, muốn lên trời để bàn huyền bàn diệu, nói lý cao siêu thì quả là TRƯỚC MẮT LẦM QUA trước mắt lầm qua, chỉ uổng mất công phu khổ nhọc thôi. Cũng may ông tăng còn biết hổ thẹn, nếu không, chẳng biết tâm kiêu mạn đó sẽ dẫn ông đi đến đâu?
Như vậy, đại sự nhân duyên đó ở đâu? Tức ngầm chỉ: ngay cái BIẾT HIỆN TIỀN đây thôi, khéo nhận thì đầy đủ hết!
Cũng trong kinh Pháp Hoa, phẩm Như Lai Thọ Lượng, Phật bảo: “Như Lai chẳng như ba cõi mà thấy ba cõi, Như Lai thấy suốt không có sai lầm.”
Sao là chẳng như ba cõi mà thấy ba cõi? Tức Như Lai thấy suốt tất cả không thiếu sót nhưng thấy tất cả mà không là gì hết nên ngài thấy suốt không có sai lầm. Trái lại, chúng ta thấy cái gì thì “là cái đó” ngay, tức liền đồng hóa với cái đó, nên chỉ biết có cái đó mà quên mất chính mình, do đó luôn mê lầm. Giờ đây chúng ta chỉ cần ngay thấy biết này, thấy tất cả mà không là gì hết thì thấy chỉ là thấy, nguyên vẹn như nó là nó, chính đó là Như Lai thấy rồi! Ngay đó liền gặp NHƯ LAI! Phật xuất hiện ra đời liền đó! Khỏi lo nghĩ thắc mắc về biết – chẳng Biết.
Xưa, các bậc A la hán khi chứng đạo đều bảo: “Tự biết, tự ngộ, tự thân tác chứng, thành tựu an trú, biết đúng như thật: Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.”Trong các kinh A Hàm, Nikaya, đều xác định rõ điều này. Vậy rốt ráo các ngài có rời Tánh Biết chăng? Các Ngài đã xác nhận rõ: “Tự biết, tự ngộ, tự thân tác chứng” thì rõ ràng đâu phải vô tri như cây đá. Thế nhưng, tại sao ngày nay chúng ta lại có chê trách cái Biết? Vậy là lỗi tại cái Biết? Hay lỗi tại ai? Đây là điểm cần thấu rõ!
Chính bởi chúng ta còn mang cái thấy sai biệt, nên mới phân chia cái Biết này là cái Biết vọng, cái Biết kia là cái Biết chân, cái Biết này là cái Biết thức, cái Biết kia là cái Biết trí v.v… song sự thật ngoài cái Biết Thức lại có thêm cái Biết Trí nữa sao? Đó là thêm một cái Ta nữa rồi!
Thấy như vậy là còn niệm lấy bỏ hai bên, còn sống trong cái thấy kia đây, tức thành dời đổi (biến dịch) rồi, sao gọi là thiền? Sao gọi là thấy đạo?
Chúng ta hãy nghe vị tăng hỏi Quốc sư Huệ Trung:
– Thiền là tên khác của tâm, mà tâm là chơn như Phật tánh ở Phật chẳng thêm, ở phàm chẳng bớt, các Tổ sư Thiền tông đem tâm đổi tên là tánh, xin hỏi thầy tâm và tánh khác nhau thế nào?
Quốc sư Huệ Trung đáp ngay:
– Khi mê thì có sai khác, khi ngộ thì không sai khác.
Vị tăng hỏi thêm:
– Trong kinh nói: “Phật tánh là thường, tâm là vô thường”, vì sao thầy nói không sai khác ư?
Sư nêu thí dụ giải rõ:
– Ông chỉ y cứ theo lời mà chẳng y theo nghĩa. Ví như khi lạnh thì kết nước thành băng, khi nóng thì chảy băng thành nước; khi mê thì kết tánh thành tâm, khi ngộ thì chảy tâm thành tánh. Tâm tánh vốn đồng, y nơi mê ngộ mà có sai khác.
Vị tăng ngay đó liền khế hội.
Cho thấy, còn mê thì kẹt theo lời, theo chữ sanh hiểu nên chia thành sai biệt. Do thấy sai biệt nên làm nghi cho mình và cho người. Nếu tỏ ngộ chân thật, một tâm còn không thể nói, huống nữa chia hai!
Có vị tăng hỏi Hòa thượng Triệu Châu:
– Châu sáng ở trong tay, có chiếu soi hay không?
Sư đáp:
– Gọi cái gì là châu?
Thiền sư không lý luận nhiều, cũng không phí công tranh cãi. Nếu hạt châu đã thực ở trong tay mình, tại sao mình không biết, còn đi hỏi có chiếu soi hay không? Có chiếu soi là có biết, không chiếu soi là không biết. Lo hỏi chiếu soi mà không biết đâu là châu, cũng là hý luận thôi. Cần nhất rõ được “châu” thì việc có chiếu soi hay không tự rõ, khỏi lý luận, tranh cãi vô ích.
Cũng vậy, cứ lo bàn thức, bàn trí, bàn tâm, bàn tánh, còn “cái gì đang bàn đây”, lại mê! Thử hỏi đó là đang bàn trên cái gì? Người mắt sáng cần hỏi lại nữa chăng?
III. TẠI SAO NHÀ THIỀN NHẤN MẠNH CHỖ CHẲNG BIẾT?
Qua những điểm trình bày trên đây cho thấy rõ, từ kinh đến thiền đều không chối bỏ cái Biết hiện hữu, nhưng tại sao trong nhà Thiền có lúc lại không cho biết? Hoặc chê trách Hiểu Biết?
* MẮT PHẬT CŨNG CHẲNG THẤY
Chẳng hạn nhà thiền bảo rằng: “Chỗ đó mắt Phật cũng chẳng nhìn thấy”. Mắt Phật còn nhìn chẳng thấy, chúng ta làm sao thấy biết?
Như ngài Đơn Hà đến Quốc sư Huệ Trung, gặp thị giả Đam Nguyên liền hỏi:
– Quốc sư có ở nhà chăng?
Thị giả đáp:
– Ở thì có ở mà chẳng thấy khách.
Đơn Hà bảo:
– Rất là sâu xa thay!
Thị giả nói:
– Mắt Phật cũng chẳng nhìn thấy.
Hỏi: “Quốc sư có ở nhà chăng?” Đáp: “Ở thì có ở mà chẳng thấy khách.” là sao? Đây là một câu hỏi mà hai ý. Tức Quốc sư đang ngủ, ngủ thì đâu tiếp khách, tiếp duyên. Nhưng chính chỗ không đối duyên, không tiếp khách, đó là gì? Đó là chủ trong chủ, chỗ đó đâu có dấu vết gì thấy được? Nên Đơn Hà bảo: “Rất sâu xa thay!”, tức thật khó thấy. Song ông thấy sao mà khen? Thị giả này đâu dễ dàng để cho ông dòm thấy được, vì đó không phải là chỗ bị thấy, có thấy được tức có khách rồi. Do đó thị giả nói: “Mắt Phật cũng chẳng nhìn thấy”, nói gì sâu cạn! Tuy nhiên trong đây vẫn còn ló đuôi. Đã bảo mắt Phật cũng chẳng nhìn thấy, sao ông biết mà nói là: “Ở thì có ở mà chẳng thấy khách”? Và sao ông biết mà trả lời: “Chỗ đó mắt Phật cũng chẳng nhìn thấy”? Người học thiền phải thấu qua chỗ này, chớ không thể dừng ở trên lời “chẳng thấy” kia.
* NGÀN THÁNH CHẲNG BIẾT
Hoặc có lúc trong nhà thiền bảo rằng: “Chỗ đó ngàn Thánh cũng chẳng biết?”
Như Dược Sơn một hôm ngồi trên tảng đá, Hòa thượng Thạch Đầu trông thấy hỏi:
– Ông ở đây làm gì?
Sư thưa:
– Tất cả chẳng làm.
Thạch Đầu hỏi:
– Tại sao ngồi yên?
Sư đáp:
– Nếu ngồi yên tức làm.
Thạch Đầu hỏi:
– Ông nói chẳng làm, là chẳng làm cái gì?
Dược Sơn đáp:
– Ngàn Thánh cũng chẳng biết.
Hòa thượng Thạch Đầu hỏi: “Làm gì?” là muốn gạn xem Dược Sơn có niệm gì chăng? Trong lòng Sư còn có vấn đề gì không? Nếu chúng ta đáp làm cái này, làm cái nọ là nguy rồi! Dược Sơn quả thực trong lòng rỗng rang vô sự nên đáp: “Tất cả chẳng làm”, tức không một niệm gì khác chen vào trong ấy. Tuy nhiên Thạch Đầu chưa chịu còn gạn lại: “Tại sao ngồi yên?” Đã vô sự thì ngồi yên để làm gì? Đó là ngồi rỗng suông vô ích chăng? Ở đây Dược Sơn có chỗ sống chân thật nên đáp rõ ràng: “Ngồi yên tức làm”. Chính chỗ ngồi yên dứt hết mọi duyên đó, là chỗ sống chân thật, không phải ngồi suông. Tuy vậy cũng chưa xong, Thạch Đầu còn gạn tiếp: “Chẳng làm cái gì?” Chỗ này dễ chết như chơi. Ông nói ngồi yên chẳng làm là chỗ sống chân thật của ông, nhưng trong đó đâu là chỗ chẳng làm? Nếu còn thấy một chỗ chẳng làm, tức bị người thấy rồi, Dược Sơn đã thực sự sống trong ấy, không để hở cho người ngoài dòm lén nên đáp chắc nịch: “Ngàn Thánh cũng chẳng biết”. Song đã bảo ngàn Thánh cũng chẳng biết, sao ông lại biết mà trả lời? Cũng ló đuôi nữa rồi! Người mắt sáng phải thấy thấu qua lời chẳng biết đó, không thể một bề nghe nói chẳng biết, hiểu là chẳng biết, thì vẫn còn ở ngoài cửa.
Một dịp khác ngài Đạo Ngộ hỏi Hòa thượng Thạch Đầu:
– Ý chỉ Tào Khê người nào được?
Thạch Đầu đáp:
– Người lãnh hội Phật pháp được.
Đạo Ngộ hỏi:
– Thầy được chăng?
Thạch Đầu đáp:
– Ta chẳng hội Phật pháp.
Lạ chưa? Tại sao ở người lãnh hội thì được, còn Sư lại chẳng lãnh hội? Bởi, với người chưa lãnh hội nên cần lãnh hội, còn Sư đã lãnh hội rồi, lại lãnh hội thêm cái Phật pháp gì nữa? Còn thấy có cái Phật pháp để lãnh hội, tức y nguyên chưa lãnh hội. Tuy nhiên Sư bảo chưa lãnh hội, song cái gì biết chẳng hội? Thế là Sư cũng hết giấu giếm được!
Hoặc như vua Lương hỏi Tổ Bồ Đề Đạt Ma:
– Đối trẩm là ai?
Tổ đáp:
– Chẳng biết.
Nói chẳng biết vậy ai đáp đó? Chính đây là chỗ thầm kín, nếu người đừng ngoài cửa mà phê bình, chỉ trích thế nào chăng nữa vẫn không dính dáng. Đây là muốn đưa người thẳng vào chứng nghiệm. Cho nên, nói chẳng biết mà không phải là không biết gì, là phá bỏ cái biết thành như gỗ đá. Vì thể biết thì ai phá được? Đem cái gì phá? Chính Tổ Huệ Khả đã xác nhận với Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma:
– Con từ đây dứt hết các duyên.
Tổ Đạt Ma bảo:
– Chớ rơi vào đoạn diệt!
Sư thưa:
– Chẳng rơi.
Tổ Đạt Ma bảo:
– Con làm thế nào?
Sư thưa:
– Rõ ràng thường biết nói không thể đến.
Tổ Đại Ma bảo:
– Chính đây là chỗ truyền của chư Phật, chớ nên nghi ngờ!
Quả thực, tuy dứt hết các duyên không chỗ bám, nhưng trong ấy không phải ngu ngơ không biết gì, trái lại vẫn sáng ngời: “RÕ RÀNG THƯỜNG BIẾT, chỉ là NÓI KHÔNG THỂ ĐẾN”. Bởi vì chỗ đó ngôn ngữ không thể nói tới, thức tình suy nghĩ cũng không thể thể suy tới, nghĩ tới. Đơn giản: vì nó không phải là cái Bị Biết!
Đây chính là chỗ đồng tử Thiện Tài lên ngọn Diệu Phong tìm Tỳ kheo Đức Vân suốt bảy ngày mà không thấy. Qua bảy ngày liền thấy Tỳ kheo Đức Vân ở bên Biệt Phong, tức ngọn núi khác. Song Tỳ kheo Đức Vân từ lâu vẫn chưa từng xuống núi. Đó là điểm thực khó hiểu! Tại sao đã lên Diệu Phong mà không thấy Đức Vân? Đức Vân chưa từng xuống núi bao giờ, sao lại thấy ở Biệt Phong? Chỗ này đem thức tình suy nghĩ để hiểu được chăng? Bởi Diệu Phong là chỉ chỗ chân thật cứu cánh không hai. Trên đó vốn không có hai kẻ cùng lúc. Có Đức Vân thì không có Thiện Tài. Có Thiện Tài thì không có Đức Vân. Nếu ở trên đó Thiện Tài gặp Đức Vân thì thành có hai người, có chủ có khách đối đãi, tức bị người ngoài xem thấy rồi, đâu còn gọi là Diệu Phong? Nhận thấu chỗ này, chính là chỗ sống vĩnh viễn, còn bao nhiêu thứ ở thế gian đều có lúc phải bỏ lại, không phải là chỗ nương tựa lâu nay. Người học Phật phải mở con mắt này. Chưa mở con mắt này, dù lý luận cao siêu cách mất, vẫn còn xa với đạo.
IV TÓM KẾT: TIN CHẮC KHÔNG NGỜ
Bởi cái Biết này vốn là chỗ CHẲNG BIẾT của thế gian, cho nên dù ai có bảo nó là không, là vọng cũng chẳng dính dáng gì. Vì lời nói không thể đến nó! Mà nó lại ở ngay chính mình thì làm sao bài bác, phá bỏ nó? Người sống được chỗ này thì dù thế gian đến kiếp hỏa có bị cháy tiêu sạch, Tam bảo có vắng bóng, nhưng NÓ vẫn là NÓ, vẫn hiện hữu đó thôi! Bởi vì thế gian có thành KHÔNG, nhưng đâu thể không đến chỗ này! THỂ BIẾT thì làm sao cho nó không? Nó CÓ tướng mạo bao giờ đâu mà thành không? Nó chưa từng CÓ là một cái gì, thì sao thành không? Thấu suốt đến như thế thì tin chắc vững vàng trước mọi ngôn luận kia đây, đúng sai, một mực thẳng tiến.
Đây là một kinh nghiệm! Thiền sư Nghĩa Thanh ở Đầu Tư, sau khi Sư được Thiền sư Viên Giám trao tông chỉ và dạy Sư đến nương Thiền sư Tú hiệu Viên Thông. Sư bèn đi đến Viên Thông, không thưa hỏi gì, chỉ ăn cơm xong, rồi ngủ. Tri sự thấy vậy, bạch ngài Viên Thông:
– Ở trong tăng đường có vị tăng cả ngày lo ngủ, xin thực hành theo quy chế.
Viên Thông hỏi:
– Người nào?
Tri sự thưa:
– Thượng tọa Thanh.
Ngài Viên Thông bảo:
– Khoan! Hãy đợi ta xét qua!
Viên Thông liền cầm cây gậy đi vào tăng đường, thấy Sư đang nằm ngủ, liền gõ vào giường quở:
– Ở trong đây tôi không có cơm dư cho Thượng tọa ăn xong rồi ngủ.
Sư thưa:
– Hòa thượng dạy tôi làm gì?
Viên Thông bảo:
– Sao chẳng tham thiền?
Sư thưa:
– Món ăn ngon không cần với người đã no bụng.
Viên Thông bảo:
– Tại sao có nhiều người chẳng chấp nhận Thượng tọa?
Sư thưa:
– Đợi họ chấp nhận để làm gì?
Viên Thông hỏi:
– Thượng tọa đã gặp ai rồi đến đây.
Sư thưa:
– Đã gặp ngài Phù Sơn.
Viên Thông bảo:
– Lạ! Được cái gì mà lười biếng!
Bèn nắm tay, hai người cười rồi trở về phương trượng.
Cho thấy, với người đã nhận thấy rõ ràng rồi, thì có chỗ tự tin chắc chắn không nghi ngờ – “Đợi họ chấp nhận để làm gì?” Tự mình đã có chỗ sống, dù người chấp nhận hay không chấp nhận có dính dáng gì! Đâu phải do họ chấp nhận mình mới có. Họ không chấp nhận mình thành không. Còn lo nghĩ người không chấp nhận mình, tức nói lên chỗ thấy của mình còn lờ mờ chưa rõ! Bởi chưa thật sáng tỏ nên sợ người chê mình không phải. Như hạt châu quý, mình đã nắm trong tay, có người bảo rằng: “Hạt châu ấy vốn chỉ có tên thôi, không thật có”, thì sao? Mình chỉ cười, biết rằng người nói câu đó cũng chưa thật sự nhận biết châu, khỏi phải tranh cãi có không.
Để thấu triệt chắc chắn rõ ràng, xin hỏi lại: Cuối cùng CÁI BIẾT HIỆN TIỀN đây là thức hay trí?
Nếu người dùng Thức mà hiểu thì nó là Thức.
Nếu người dùng Trí mà hiểu thì nó là Trí.
Nếu người dùng Thiền mà hiểu thì nó là nó.
Đơn giản, tùy theo người muốn thấy sao thì thấy. Thiền sư Tùng Thẩm ở Triệu Châu từng bảo: “Người chánh nói pháp tà, pháp tà cũng thành chánh. Người tà nói pháp chánh, pháp chánh cũng thành tà.” Một lẽ thật sáng ngời đó, nhưng dùng tâm đen tối của chúng sanh để hiểu thì nó cũng thành đen tối. Dù cảnh giới Phật mà đem tâm phàm phu yêu ghét để hiểu thì cũng thành cảnh phàm. Người mắt sáng lại lầm lẫn chỗ này hay sao?
Đây nhắc lại Quốc sư Huệ Trung nói với Tam Tạng Đại Nhĩ:
Lần thứ nhất Quốc sư hỏi:
– Ông hãy nói xem, hiện giờ lão tăng đang ở đâu?
Tam Tạng đáp:
– Hòa thượng là thầy một nước sao lại đến bến đò Tây Xuyên xem đò đua.
Lần thứ hai Quốc sư hỏi:
– Ông hãy nói xem, hiện giờ lão tăng đang ở đâu?
Tam Tạng đáp:
– Hòa thượng là thầy một nước sao lại đến cầu Thiên Tân xem khỉ giỡn?
Lần thứ ba Quốc sư hỏi:
– Ông hãy nói xem, hiện giờ lão tăng đang ở đâu?
Tam Tạng lặng thinh không biết chỗ đi. Sư nạt:
– Cáo tinh! Tha tâm thông chỗ nào!
Nếu người cứ Biết theo Tam Tạng, đó là biết theo sanh diệt, bị quỷ thần xem thấy, chưa phải chỗ truyền của Phật, Tổ.
Còn ngay chỗ Tam Tạng không thể thấy đó, Quốc sư Huệ Trung có biết chăng? Ngài vẫn đang đứng sờ sờ đấy, chứ có chết đi đâu? Biết tột đến chỗ này thì ai sánh kịp? Trên thế gian này còn có gì vượt hơn chỗ này? Xưa nay đâu từng cách biệt? Thấu suốt chỗ này là nhận rõ chính mình không còn ai dối gạt được nữa. Thần thông vẫn chưa thấy đến, thì lo chi ngôn ngữ thế gian phê bình, chia sẻ?
Đấy là sinh mạng vĩnh viễn của chúng ta, chớ sanh niệm khác!
Nắm tay thâu trọn cả đất trời,
Nhấc bước mười phương lùi dưới gót.
Tổ Sư Thiền
I. TỔ SƯ THIỀN CÓ TỪ BAO GIỜ?
Thông thường, người nghiên cứu trên mặt chữ nghĩa cho rằng, Tổ Sư Thiền là Thiền đặc biệt của chư Tổ Thiền sư Trung Hoa, do Trung Hoa sáng tạo ra. Như nói: “Với Thiền tông, có thể nói là sản phẩm của Trung Hoa, do quan hệ địa lý, nó chứa đựng hầu hết tư tưởng Trung Hoa, đấy là sự thật không thể phủ nhận” (Thiền Học Giảng Thoại). Nếu quả thật hoàn toàn như vậy, tức trước đó chưa có, vậy là nó thuộc về pháp tạo tác, mới thành lập sau này, thì hẳn không phải chân thật rồi. Hơn nữa, nó là sản phẩm sau này, thời Phật không có, là của riêng của Tổ Sư, tức nó thuộc ngoài Phật giáo, thuộc cái gì khác nữa rồi! Chính cái thấy này là cái thấy còn trong sai biệt, làm sao vào cửa Tổ?
Chúng ta hãy nghe Chân Tịnh hỏi thiền sư Đạt Quán:
– Về kinh luận con hiểu chút ít, về Thiền thực không hiểu nổi, mong thầy giải quyết nghi ngờ cho con.
Đạt Quán bảo:
– Đã chẳng tin Thiền đâu thể rõ được kinh. Thiền là giềng mối của kinh, kinh là màng lưới của thiền, nắm được giềng mối là lưới theo, rõ được thiền mới hiểu được kinh.
Chân Tịnh thưa:
– Xin thầy vì con nói thiền?
Đạt Quán bảo:
– Về sau văn dài.
Chân Tịnh thưa:
– Thế ấy kinh và thiền là một thể?
Đạt Quán bảo:
– Phật và Tổ chẳng phải hai tâm, như bàn tay co lại thành nắm tay, nắm tay xòe ra thành bàn tay.
Nhân đây Chân Tịnh có tỉnh.
Xem đấy! Với cái nhìn của thiền sư chân thật, đâu chia kia đây sai biệt? Người mê, nhìn trên tướng thì thấy thiền khác, kinh khác, Phật khác, Tổ khác, có Thiền có Giáo riêng rẻ, cách biệt nhau. Người ngộ, thì rõ suốt kinh và thiền chỉ đồng một tâm. Kinh cũng từ Tâm Như Lai nói ra, Thiền là chỗ Tâm Sống của Như Lai. Cốt dứt cái thấy sai biệt, liền tự sáng tỏ không lầm.
Có người hỏi Thượng Sĩ Tuệ Trung:
– Ý Tổ và ý Giáo là đồng hay khác?
Thượng Sĩ đáp:
– Sóng nước tên tuy khác,
Búp nở một đoá hoa.
Tăng hỏi thiền sư Qui Nhân:
– Ý Tổ và ý Giáo là đồng hay khác?
Sư đáp:
– Trâu ngựa đồng bầy thả.
Rõ ràng chỗ thấy của người mắt sáng vốn không kẹt một bên đồng hay khác. Cứ khăng khăng chấp chặt vào một bên, đó là cái thấy của thức tình, chưa phải con mắt Tổ Sư. Người hỏi ý Tổ, ý Giáo đồng hay khác, là đang sống trong niệm sai biệt. Thượng Sĩ cắt đứt niệm đó ngay: sóng và nước tuy có tên khác, nhưng vẫn là thể ướt. Cũng như hoa búp, hoa nở thấy như khác, song vẫn là một đóa hoa, làm sao nói cố định là đồng, là khác? Thiền sư Qui Nhân thì bảo: “Trâu và ngựa đồng bầy thả”. Trâu và ngựa là khác, nhưng vẫn thả chung một bầy, không cho thấy một bên hoặc đồng, hoặc khác. Chỗ thấy của người chân thật sáng đạo là như thế.
Sự thật, có chúng sanh là có Tổ Sư Thiền, không thể một bề xác định ở đâu khác. Bởi vì, nếu ngoài chúng sanh mà có, thì có đó là để cho ai? Phật, Tổ cũng từ chúng sanh mà thành. Nếu quả thực ngoài chúng sanh mà có, đó là Tổ Sư Thiền trong sách vở, trong lý luận, trong tưởng tượng, là Tổ Sư Thiền chết, không phải Tổ Sư Thiền chân thật.
Kìa, Tổ Sư đã tuyên bố: “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”, nghĩa là chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Vậy nếu ngoài chúng sanh mà có, thì “chỉ thẳng tâm người” là chỉ ở đâu? Nói thẳng ra, hễ Ai ngộ được đều có phần, không nói ở đâu, không phải của riêng ai, không thuộc một cái TA nào! Chỉ có thể nói, tên “TỔ SƯ THIỀN” là mới có sau này thì dễ hiểu, vì tên thì tùy thời đặt ra, còn bản thân Tổ Sư Thiền quyết không phải mới có, không phải “thuộc cái tên đặt ra”.
Có vị tăng hỏi thiền sư Hưu Phục:
– Thế nào là chỗ xuất thân của học nhân?
Sư đáp:
– Ngàn thứ so chẳng kịp, muôn điều sánh chẳng kịp.
Tăng hỏi thêm:
– Thỉnh Hòa Thượng nói!
Sư bảo:
– Xưa cũng có, nay cũng có.
Hỏi chỗ xuất thân tức chỗ siêu thoát, vượt ra tình mê này. Chỗ đó làm sao so sánh, phân biệt được? Bảo nói thì nói thế nào đây? Thiền sư chỉ tạm gợi ý: “Xưa cũng có, nay cũng có”, mà không chỉ ra cái gì. Nói xưa cũng có, nay cũng có, nhưng cái gì xưa cũng có, nay cũng có? Đó là để dành phần lại cho người tự hiểu!
Song, như thế thì hiện nay có hay không? Sáng được chỗ này, là Sáng được Tổ Sư Thiền chứ gì? Khỏi nói đồng nói khác, khỏi xác định từ bao giờ. Vì chúng ta có thể gặp Tổ Sư ngay trong chỗ nói năng, tới lui, qua lại đây. Điều quan trọng là, chưa rơi vào niệm thứ hai.
II. THẾ NÀO LÀ TỔ SƯ THIỀN?
Đúng ra, đặt câu hỏi này là chưa biết gì về Tổ Sư Thiền. Tại sao? Bởi có thế nào là không phải rồi! Vì Tổ Sư Thiền không phải là cái để hiểu. Như Thôi Tề Công hỏi thiền sư Thần Hội:
– Thiền sư ngồi thiền, một phen định thì về sau bao lâu sẽ được xuất định?
Sư đáp:
– Thần không có chỗ nơi, có gì là định ư?
Ông lại hỏi:
– Đã nói không có định, sao gọi là dụng tâm?
Sư đáp:
– Nay tôi ở trên định còn chẳng lập, ai nói là dụng tâm?
Ông hỏi:
– Tâm và định đều không, vậy thế nào là đạo?
Sư đáp:
– Đạo là “đạo như thế”, cũng không có “đạo thế nào”.
Ông hỏi tiếp:
– Đã nói là “không có thế nào”, thì chỗ nào có được “đạo như thế”?
Sư đáp:
– Nay nói “đạo như thế”, là vì có “đạo thế nào”; nếu nói không có “thế nào”, thì “như thế cũng không còn.
Hỏi: “Đạo thế nào?” là muốn hiểu nó, muốn định nghĩa nó ra, nhưng Đạo đâu phải là chỗ bị hiểu, mà nói thế này, thế nọ càng xa. Cho nên Sư chỉ đáp: “Đạo như thế”. Nói “như thế” cũng là tạm nói, là không cho có thêm chút gì trong đó; vì nó như thế là như thế thôi, có thêm là hết như thế. Cuối cùng, nói “như thế” cũng là đối với “thế nào” mà tạm lập, nếu bám vào lời đó để sanh hiểu cũng là cách xa. Trong đây, chỉ phải tự chứng nghiệm thôi. Thế gian thì cứ muốn định nghĩa để hiểu, đã định nghĩa tức đóng khung nó vào trong chữ nghĩa, làm sao thấy được chân thật?
Hãy xem, Thủy Lạo hỏi Mã Tổ:
– Thế nào là ý Tổ Sư từ Ấn Độ sang?
Mã Tổ bảo:
– Lễ bái đi!
Thủy lạo vừa lễ bái, Mã Tổ bèn tống cho một đạp ngay ngực té nhào. Sư bỗng đại ngộ, đứng dậy vỗ tay cười to ha hả bảo:
– Trăm ngàn tam muội, vô lượng diệu nghĩa, chỉ nhằm trên đầu sợi lông nhận biết được cội nguồn tất cả.
“Ý Tổ” mà hỏi thế nào, tức muốn hiểu nó. Nếu hiểu được liền thành ý chúng sanh rồi! Vì vậy cho một đạp té nhào, cho ông biết thế nào! Ngay khi té nhào đó, quên hết thế nào, cũng bặt luôn niệm kia đây, không còn nhớ có TA nữa, tức liền đại ngộ Ý Tổ, đứng dậy vỗ tay cười to vui sướng. Không thể ngờ!
Một vị tăng hỏi thiền sư Khế Trù:
– Thế nào là nghĩa đệ nhất?
Sư đáp:
– Đâu nhọc hỏi lại.
Nghĩa đệ nhất tức chỗ rốt ráo không hai, thì trước khi động niệm liền nhận ngay là xong. Chỗ này không cho hỏi tới hỏi lui, không phải là chỗ mua bán trả giá mắc rẻ mới chịu mua. Trong đó, vừa hỏi lại tức thành nghĩa đệ nhị rồi. Tổ Sư Thiền là như thế.
Lâm Tế một hôm đang làm công tác cuốc đất, thấy Hoàng Bá đến, Sư liền chống cuốc mà đứng. Hoàng Bá bảo:
– Gã này mệt ư?
Sư thưa:
– Cuốc cũng chưa dở lên, mệt cái gì?
Hoàng Bá liền đánh. Sư chụp cứng cây gậy, cho một đạp té nhào. Hoàng Bá gọi:
– Duy Na! Duy Na! Đỡ ta dậy!
Duy Na tới trước đỡ Hoàng Bá dậy và nói:
– Hòa Thượng đâu dung được gã điên này vô lễ!
Hoàng Bá vừa đứng dậy, liền đánh Duy Na. Sư cuốc đất, nói:
– Các nơi thì hỏa táng, còn tôi trong đây một lúc chôn sống.
Với Lâm Tế là thẳng tắt dùng liền, tự có chỗ sống sáng ngời không do dự. Hỏa táng, tức đợi chết rồi mới thiêu, thì thiêu đó là thiêu xác chết thôi. Chôn sống, là ngay hiện tiền đây đập liền, thẳng vào sức sống chân thật, không phải đợi qua rồi, theo sau cái chết, tức dấu vết ngôn ngữ, chữ nghĩa để lại – không qua trung gian nghĩ ngợi. Người học làm sao có thời giờ để hiểu?
Đến Hòa Thượng Triệu Châu, vị tăng hỏi:
– Thế nào là ý Tổ Sư từ Ấn Độ sang?
Sư đáp:
– Cây bách trước sân.
Tăng thưa:
– Hòa Thượng chớ đem cảnh chỉ người.
Sư bảo:
– Ta chẳng đem cảnh chỉ người.
Tăng hỏi lại:
– Thế nào là ý Tổ Sư từ Ấn Độ sang?
Sư đáp:
– Cây bách trước sân.
Trong đây, người hiểu theo thức tình dễ lầm với ông tăng. Xem Sư, hỏi ra liền đáp ngay không chút nghĩ ngợi thì có cảnh gì? Chính Sư trong lòng rỗng rang không một niệm, không một vật lưu dấu, rõ ràng đang đối diện sờ sờ đó không thêm thắt chút gì! Tiếc thay, ông tăng trong lòng còn chứa đựng các niệm, bị kiến giải trong đầu sanh hiểu, nghĩ đó là mượn cảnh để đánh thức lại tâm, hẳn rơi vào KHÁI NIỆM rồi. Có Khái niệm tức bị đóng khung trong quá khứ cũ xưa, chết cứng, làm sao thấy được sức sống sáng ngời? Chỗ này, phải thực sự trống sạch mọi KHÁI NIỆM về thiền, ngay đó liền thấy Tổ Sư hiện tiền, rất thực tế!
III. THẦM NHẬN VƯỢT QUA MỌI LÝ LUẬN
Đến chỗ chân thật rốt ráo này, Tổ Sư Thiền đòi hỏi người học phải tự thầm nhận thôi, không thể lý luận, dù lý luận hay khéo đến đâu, cũng không lý luận đến được trong đây.
Như có vị tăng hỏi thiền sư Quảng Trừng ở Đại Đồng:
– Thế nào là người xưa nay?
Sư đáp:
– Ngồi chung mà chẳng biết nhau.
Tăng thưa:
– Thế ấy thì học nhân lễ bái vậy.
Sư bảo:
– Thầm viết lòng buồn biết gởi cho ai?
Tại sao ngồi chung mà chẳng biết nhau? Nếu biết tức thành hai người rồi. Tuy nhiên ông tăng nếu đã nhận thì lễ bái liền, còn nói làm gì? Nói lễ bái mà chưa lễ, cũng là dây dưa trên chữ nghĩa. Sư bảo: “Thầm viết lòng buồn biết gởi cho ai?”, trong đó cũng không có chỗ cho ông lễ, hết đường lý luận, nếu không phải chính mình ở trong ấy, đừng mong hiểu nổi.
Một thiền sư muốn gạn trong chúng, bèn hỏi:
– Có hai người đi trong mưa, vì sao một người chẳng ướt?
Một vị nói:
– Vì một người đi ngoài mưa, một người đi dưới mái hiên.
Một vị nói:
– Vì một người mặc áo mưa, một người không mặc.
Một vị nói:
– Vì mưa có giới hạn, mưa bên này mà không mưa bên kia.
Thiền sư bảo:
– Nói một người không ướt đó, không phải chính là cả hai đều ướt hết sao?
Nghe nói một người chẳng ướt, liền suy nghĩ theo lý luận của thế tình đều không dính dáng. Trong đây, thiền sư nói: “một người chẳng ướt”, nhưng ý chỉ vốn không ở một người nào, nếu theo ngôn ngữ hiểu là một người, tức lầm to! Người lanh lợi chỉ ngay đó khéo tự thầm nhận là xong, khỏi phải nhiều lời. Đây không phải là chỗ để nghĩ bàn, suy lý.
Chuyện Pháp Hội hỏi Mã Tổ:
– Thế nào là ý Tổ Sư từ Ấn Độ sang?
Mã Tổ bảo:
– Hãy nói nhỏ, ông đến gần đây ta nói cho nghe!
Pháp Hội đến gần trước, Mã Tổ tát cho một tát, bảo:
– Chẳng thể cho người thứ ba biết. Đi đi! Ngày mai đến!
Hôm sau Pháp Hội một mình vào pháp đường thưa:
– Thỉnh Hòa Thượng nói!
Mã Tổ bảo:
– Hãy đợi lão tăng thượng đường ra hỏi, ta sẽ vì ông chứng minh.
Sư bỗng nhiên có tỉnh, liền thưa:
– Lễ tạ đại chúng chứng minh.
Pháp Hội ban đầu bị Mã Tổ gạt mà không hay. Nghe bảo “nói nhỏ, lại gần đây”, Sư tưởng thật đến gần, liền bị Mã Tổ tát cho tỉnh mà chưa tỉnh. Bảo nói nhỏ, là ngầm chỉ việc này chỉ phải tự thầm nhận thôi, chớ để người thứ ba xen vào gây chuyện. Người thứ ba tức ý thức suy nghĩ phân biệt. Có ý thức xen vào là bị che mờ bởi duyên ngoài.
Hôm sau, Sư một mình vào pháp đường thỉnh nói, Mã Tổ lại bảo đợi thượng đường giữa đại chúng sẽ chứng minh cho, Sư liền tỉnh ngộ. Bởi lúc đầu Sư cứ tưởng Mã Tổ có gì bí mật giấu giếm không chịu nói, đâu ngờ việc ấy vốn hiện bày sờ sờ trước mặt đây thôi. Bí mật đã bật mí đó rồi, chỉ người có khéo nhận hay không vậy thôi. “Lễ tạ đại chúng chứng minh”, đến đây hết còn che giấu được nữa, mọi người chưa tỉnh còn đợi chừng nào?
Nếu chưa tỉnh, hãy nghe thêm đoạn nhân duyên Huyền Tắc với Pháp Nhãn.
Ban đầu Sư hỏi Hòa Thượng Thanh Phong:
– Thế nào là tự kỷ của học nhân? (có chỗ ghi: “Thế nào là Phật”)
Thanh Phong đáp:
– Đồng tử Bính đinh đến xin lửa.
Sau Sư đến gặp Pháp Nhãn, Pháp Nhãn hỏi:
– Ông từ đâu đến?
Sư thưa:
– Từ Thanh Phong đến.
Pháp Nhãn hỏi:
– Thanh Phong có lời gì chỉ dạy?
Sư thuật lại việc trước. Pháp Nhãn hỏi:
– Thượng Tọa hiểu thế nào?
Sư thưa:
– Bính đinh thuộc lửa mà lại đi xin lửa, như đem chính mình cầu chính mình.
Pháp Nhãn bảo:
– Hiểu thế ấy làm sao được?
Sư thưa:
– Con chỉ thế ấy, chưa biết Hòa Thượng thế nào?
Pháp Nhãn bảo:
– Ông hãy hỏi ta, ta sẽ nói cho!
Sư hỏi:
– Thế nào là tự kỷ của học nhân? (tự kỷ: chính mình)
Pháp Nhãn đáp ngay:
– Đồng tử Bính đinh đến xin lửa.
Sư liền đốn ngộ.
(Ngũ Đăng Hội Nguyên Tiết dẫn).
Ai thấy trong đây có gì đặc biệt? Cũng một câu nói, tại sao lúc đầu Huyền Tắc đáp thì không phải, sau đó Pháp Nhãn đáp thì thật ngộ? Làm sao phân biệt được thật giả? Người chưa thấu qua chỗ này, dễ bị tri giải lừa gạt. Bởi lần đầu Huyền Tắc đáp, là đáp theo thức tưởng, do khái niệm chứa sẵn trong đầu tưởng là đã hiểu, nhưng chỉ hiểu qua khái niệm. Lần sau Pháp Nhãn đáp, là đáp trong lúc bất ngờ, Huyền Tắc không kịp suy nghĩ trước, đó là chỗ cần nghiệm kỹ! Ngày nay, cũng có nhiều người trong chúng ta rơi vào trường hợp này. Cứ tưởng là mình đã ngộ, không ngờ chỉ là Hiểu về nó thôi, chưa phải giáp mặt với sự thật. Người học đạo cần phải chân thật với chính mình như Huyền Tắc, chớ vì bản ngã bám chặt vào cái hiểu của riêng mình mà tự ngăn bước tiến!
IV. THẤY TÁNH
Nói gì thì nói mà chưa Thấy tánh tức vẫn là kẻ ở ngoài cửa bàn chơi vậy thôi, chưa vào được nhà Tổ. Trong Huyết Mạch Luận, Tổ Sư bảo: “Nếu chẳng thấy tánh tức chẳng gọi thiện tri thức”. Song tánh có hay không mà thấy? Đây là chỗ không thể lờ mờ!
Có vị tăng tên Kế Tông hỏi thiền sư Trí ở Vân Cư:
– Thấy tánh thành Phật, nghĩa ấy thế nào?
Sư đáp:
– Tánh thanh tịnh xưa nay trong lặng, không có lay động, chẳng thuộc có không, nhơ sạch, dài ngắn, lấy bỏ, thể tự thanh thoát, thấy như thế mới gọi là Thấy tánh. Vì tánh tức Phật, Phật tức tánh nên gọi thấy tánh thành Phật.
Hỏi: – Tánh đã thanh tịnh chẳng thuộc có không, nhân đâu có thấy?
Đáp: – Thấy không chỗ thấy.
Hỏi: – Đã không chỗ thấy, đâu được có thấy?
Đáp: – Chỗ thấy cũng không.
Hỏi: – Khi thấy như thế là ai thấy?
Đáp: – Không người hay thấy.
Hỏi: – Rốt ráo lý ấy thế nào?
Đáp: – Ông biết chăng? Vọng chấp là có tức có năng sở, mới có danh bày; theo cái thấy sanh hiểu bèn rơi vào sanh tử. Người thấy rõ ràng tức chẳng vậy, trọn ngày thấy mà chưa từng thấy, tìm cầu tên, chỗ, thể, tướng chẳng thể được, năng sở đều bặt gọi là Thấy tánh.
Như vậy, tuy nói “Thấy Tánh” mà thực không có chỗ thấy, vượt ngoài ý niệm có không đối đải, tự mở một lối đi siêu thoát, không lệ thuộc nơi người. Cuối cùng đến trong ấy, hai chữ “Thấy Tánh” cũng không còn dấu vết.
Hòa Thượng Thạch Đầu bảo: “Thế ấy cũng chẳng được, chẳng thế ấy cũng chẳng được, thế ấy chẳng thế ấy thảy đều chẳng được, ông phải làm sao?”
Thế ấy là có, chẳng thế ấy là không, thế ấy chẳng thế ấy là gồm cả có không, tất cả đều chẳng thể được, vậy người sẽ bám vào đâu để hiểu? Để thấy? Vừa có chỗ thấy liền rơi bên ngoài. Vừa có chỗ hiểu liền tự ngăn cách. Phải vượt lên tất cả chỗ, bặt mọi so sánh, tự rõ không do ai cả. Hòa Thượng Nam Nhạc bảo: “Nói giống một vật tức không trúng”, sẵn sàng buông hết mọi chỗ nương tựa so sánh liền tự thấy.
Thiền sư Trọng Nguyên thượng đường bảo: “Một mảnh đất Phước Thắng (chỗ Sư ở) đi cũng mặc tình cho ông đi, đứng cũng mặc tình cho ông đứng, bước bước đạp đến mới biết chỗ rơi. Nếu chưa vậy, phải liền lui bước, xem lại dưới gót chân đi!”
Mảnh đất đó là mảnh đất gì mà mặc tình đi đứng trong ấy? Tất cả mọi người đi đứng tới lui ở trong đó, nhưng không hay biết là sao? Giờ đây, nghe nói đến, lại tưởng tượng cái gì xa lạ, rồi muốn tìm biết. Song, dù ông biết được, hiểu được cũng không dính dáng. Cốt phải từng bước, từng bước đạp đến sáng ngời mới không lầm. Nếu chưa được vậy, chỉ cần ngó xuống gót chân là xong, chớ vội suy tìm! Hãy xét kỹ: không có tánh thì cái gì đi đứng, tới lui? Dù người có cố phủ nhận nó nhưng nó vẫn luôn luôn hiện hữu. Cái gì Biết phủ nhận? Làm sao tự phủ nhận nó?
Có vị tăng hỏi Hòa Thượng Nam Tuyền:
– Ngay khi đi đông, đi tây toàn không suy nghĩ là phải chăng?
Nam Tuyền đáp:
– Khi ấy, ai nói là phải chẳng phải?
Ông tăng quả là mở mắt mà chiêm bao. Đã biết đi đông, đi tây hoàn toàn không suy nghĩ thì còn Ai xen vào trong đó mà nói phải chẳng phải? Vừa nghĩ phải chẳng phải là có suy nghĩ rồi, là bầu trời trong đã kéo mây đen. Chính đó là chỗ mọi người cần sáng tỏ!
Lại, Hòa Thượng Huệ Nam thượng đường bảo:
– “Tâm toan nghĩ liền sai, động niệm liền trái. Chẳng nghĩ chẳng động, đất cây không khác. Người hành cước cần được một con đường chuyển thân.”
Sư liền giơ cây phất tử lên bảo: “Mọi người các ông làm sao chuyển? Nếu như chuyển được thì một làm vô lượng, vô lượng làm một. Nếu chuyển chẳng được, con nhạn trong túi vải, tuy sống cũng như chết.”
Chú ý! Ngay đây chẳng động niệm thì đất cây, hoa cỏ trước mắt đều hiện bày “Tự tánh xưa nay” khỏi tìm đâu xa. Tuy nhiên, làm sao liền đó có con đường chuyển thân? Ngay đất cây đó, ngay cây phất tử đó, THẤY RÕ không chút sai lầm, THẤY NGUYÊN VẸN LÀ THẤY, không lẫn lộn với đất cây, không lầm lẫn với phất tử, mà cũng không tự mê xem! Đó là trong mê tự chuyển thân, quên bặt dấu Trần. Muôn vật đâu còn lừa được nữa? Cốt là, phải THẤY đến chỗ KHÔNG THẤY, vựợt qua tất cả chỗ nơi, không dừng lại bất cứ một chỗ nào. Vừa dừng lại tức liền Bị thấy!
Chúng ta hãy nghe vị tăng hỏi thiền sư Hồng Chẩn:
– Khi trừ sạch trần thấy Phật thì thế nào?
Sư bảo:
– Phật cũng là trần.
Tại sao Phật cũng là trần? Bởi, đã trừ sạch hết trần, mà còn có Phật để thấy, thì Phật đó cũng là cảnh, tức thuộc trần bị thấy chứ gì! Người Thấy tánh phải thấu tột qua chỗ này, không thể lầm lẫn.
Hòa Thượng Vân Môn cũng từng bảo: “Ông nếu tương đương rồi thì hãy tìm con đường vào. Các Đức Phật nhiều như số bụi nhỏ đang ở dưới gót chân ông. Tam Tạng Thánh giáo ở trên đầu lưỡi ông, chẳng bằng ngộ quách đi là xong!”
Người người học đạo cần phải khám phá chỗ này, chớ chạy tìm hiểu đâu đâu, cũng đừng moi móc trong đám rừng chữ nghĩa. Ánh sáng chân thật chính ngay dưới gót chân mình. Hãy chính chắn ngó xuống xem! Kỵ nhất cúi đầu trầm ngâm là nguy!
V. TRỰC TIẾP ĐẢM ĐANG
Yếu chỉ của Tổ Sư vốn nhắm thẳng tâm người, không qua văn tự ngôn ngữ. Do đó, người học thiền phải dọn sẵn tâm mình, sẵn sàng tiếp nhận ngay, thẳng tắt như gương đối gương, khoảng giữa không chút gì xen vào.
Thiền sư Đại Huệ ở trong thất hỏi tăng: “Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, là cái gì?”
Ai thấy chăng? Chính đó Sư đã vạch bày gan ruột phơi trước người, nếu tâm người đã dọn sẵn, tức liền đó thẳng vào không phí sức! Đã chẳng phải tâm, cũng chẳng phải Phật và chẳng phải vật luôn, vậy là cái gì? Xin thưa:
– Hòa Thượng vừa nói đó! Còn mê gì nữa?
Một vị tăng khác hỏi thiền sư Thiệu Tu:
– Thế nào là tâm của học nhân?
Sư đáp:
– Ai hỏi thế ấy?
Quả là thiền sư đi thẳng vào nhau. Hỏi TÂM mình, thì CÁI GÌ VỪA HỎI? Rất thực tế, chính xác vô cùng, không giải thích danh từ dài dòng. Người tri âm liền đó thấu hiểu ngay. Nếu còn chứa đựng một chút khái niệm trong đầu liền thoáng qua mất.
Một vị tăng khác hỏi thiền sư Chánh Cần:
– Thế nào là lời nói hợp đạo?
Sư đáp:
– Ông hỏi ta nói.
Rất là thẳng tắt! Chính ngay ông hỏi, ta nói, khéo nhận liền hợp đạo. Chính đó mới là Đạo Sống, còn giải thích danh từ thế này, thế nọ, thấy như hay, như dễ hiểu, lại là Đạo Chết, Đạo trong chữ nghĩa thôi.
Và đây, Hưu Phục đến nương với Hòa Thượng Địa Tạng nhiều năm mà chẳng khế hợp, rồi bệnh và vào nằm nhà Niết bàn. Một đêm ngài Địa Tạng đến thăm, bèn hỏi:
– Thượng Tọa Phục được an vui chăng?
Sư thưa:
– Con vì nhân duyên trái với Hòa Thượng.
Địa Tạng liền chỉ lồng đèn bảo:
– Thấy chăng?
Sư thưa:
– Dạ thấy.
Địa Tạng bảo:
– Chỉ cái ấy cũng chẳng trái.
Ngay lời đó, Sư có tỉnh.
Ai thấy cái ấy là cái gì mà chẳng trái? Nếu hiểu cái lồng đèn là lầm! Chính ngay khi Địa Tạng đưa tay chỉ đó, phải chộp đúng thời cơ không bỏ lở, liền rõ: Trước khi chỉ đã có nó! Ngón tay, lồng đèn đâu làm lầm được? Tuy nhiên người mắt sáng chớ bị hai lão lôi về quá khứ, quên mất sức sống đang hiện hữu!
Đặc biệt, Thượng Tọa Định hỏi Lâm Tế:
– Thế nào là đại ý Phật pháp?
Lâm Tế liền bước xuống giường thiền nắm đứng, cho một tát, rồi xô ra. Thượng Tọa Định đứng sững không biết làm gì. Vị tăng bên cạnh liền nhắc:
– Thượng Tọa Định sao chẳng lễ bái đi?
Thượng Tọa Định vừa lễ bái, bỗng đại ngộ.
Cho thấy thủ thuật của Lâm Tế nhanh nhẹn, thẳng tắt không thể lường! Hỏi đại ý Phật pháp, liền nắm đứng, cho một tát, xô ra, chính ngay chỗ đó đã đưa Thượng Tọa Định vào Phật pháp sống đang hiện tiền. Cái gì bị nắm đứng? Đứng sững hết đường nghĩ ngợi, ngay đó có Biết chăng? Vậy mà chưa tỉnh, phải đợi ông tăng nhắc, là cũng còn hơi chậm! Người học Tổ Sư Thiền phải mở con mắt này.
Sau đây là thiền sư Trí Tung thượng đường dạy chúng: “Nóng lạnh, ấm mát, mặc áo, ăn cơm, tự mình chẳng thiếu thốn, lại lăng xăng tìm cái gì? Chỉ là mọi người chẳng chịu nhận, hiện nay có ai tiếp nhận chăng? Có thì chẳng được cô phụ núi sông cõi đất. Kính chào!”
Rõ ràng Tổ Tổ đều chỉ thẳng lẽ thật ngay chỗ sống hằng ngày của chính mình đây thôi. Ánh sáng Tổ Sư luôn biểu lộ nơi mình, ngay trong mọi hành động đều tỏ rõ không thiếu vắng. Tại sao chúng ta lại lăng xăng đi tìm trong câu thoại này, lời Tổ nọ, rồi tranh cải kia đây, cao thấp, hơn thua? Chỉ cần ngay đây chưa trải qua động niệm thì lúc nào cũng sáng ngời! Tổ Sư luôn hiện rõ!
VI. TÓM KẾT
Tóm lại, Tổ Sư Thiền chân thật quyết không nằm trên chữ nghĩa danh từ, trên tiếng hét, cây gậy, không thuộc kia đây. Còn mang cái thấy sai biệt kia đây trong đầu, là còn đi trên con đường sai biệt của sanh diệt, chưa thể vào trong nhà Tổ.
Tông chỉ “Giáo ngoại biệt truyền, Bất lập văn tự” mà Tổ Sư đã nêu cao, vốn ngầm chỉ: “việc ấy sẵn ở ngay tâm người, trong chính mình đây thôi, không có ở đâu khác.” Trên THỂ mà nói, quyết chắc ai ai cũng đều có phần, khéo nhận thì đầy đủ, đều cảm thông không phải lý luận nhiều. Đến trong ấy thì chỗ thấy không hai; trái lại, nếu người còn có chỗ thấy sai biệt, tức còn phải xét lại! Tổ Lâm Tế từng bảo: “Chỗ thấy của sơn tăng hiện nay chẳng khác Phật, Tổ.” Nếu ai tự cho mình đã ngộ, đã sáng, mà còn chia đây là chỗ thấy của Phật, đây là chỗ thấy của Tổ, đây là chỗ thấy của ta, mỗi cái cách biệt nhau thì biết ngay chỗ ngộ đó có thật thấu triệt chưa?
Đây, chúng ta hãy nghiệm kỹ đoạn nhân duyên này:
Tăng hỏi thiền sư Ưng Phu Quảng Chiếu ở Trường Lô:
– Người xưa nói “Như Lai Thiền thì cho là lão huynh hội, Tổ Sư Thiền vẫn còn chưa mộng thấy”, chưa biết Như Lai Thiền với Tổ Sư Thiền là đồng hay khác?”
Sư bảo:
– Một mũi tên bay qua Tân La.
Vị tăng nghĩ ngợi, Sư liền hét.
Ông tăng này cũng có hiểu biết về thiền nên dẫn lời Ngưỡng Sơn đến khám nghiệm Hương Nghiêm Trí Nhàn để hỏi. Vốn là Trí Nhàn ở Nam Dương nghe tiếng hòn sỏi văng trúng bụi tre vang ra tiếng liền đại ngộ, làm bài tụng “Nhất kích vong sở tri, Cánh bất giả tu trì…”, Qui Sơn nghe được liền nói với Ngưỡng Sơn:
– Kẻ này đã triệt.
Ngưỡng Sơn thưa:
– Đây là tâm cơ ý thức trước thuật được thành, hãy đợi con đích thân tự khám nghiệm qua mới biết.
Ngưỡng Sơn bèn đến gặp Trí Nhàn và hỏi:
– Hòa Thượng khen ngợi sư đệ đã phát minh đại sự, hãy thử nói cho tôi nghe xem!
Trí Nhàn thuật lại bài tụng trước cho Ngưỡng Sơn nghe, Ngưỡng Sơn bảo:
– Đó là do trước kia học tập ghi nhớ mà thành, nếu thực tế có chánh ngộ hãy nói lại bài khác xem!
Trí Nhàn nói ngay bài tụng:
Khứ niên bần vị thị bần,
Kim niên bần thủy thị bần.
Khứ niên bần du hữu trác chùy chi địa,
Kim niên bần chùy dã vô.
Nghĩa:
Năm trước nghèo chưa phải nghèo,
Năm nay nghèo mới thật nghèo.
Năm trước nghèo còn có đất cắm dùi,
Năm nay nghèo dùi cũng không.
Ngưỡng Sơn nghe xong bảo:
– Như Lai Thiền thì cho sư đệ hội, Tổ Sư Thiền thì vẫn chưa mộng thấy.
Trí Nhàn lại nói bài tụng:
Ngã hữu nhất cơ
Thuấn mục thị y
Nhược nhân bất hội
Biệt hoán sa di.
Nghĩa:
Ta có một cơ,
Chớp mắt nhìn y,
Nếu người chẳng hội,
Riêng gọi sa di.
Ngưỡng Sơn gật đầu và trở về báo cho Qui Sơn.
– Hãy mừng sư đệ Nhàn đã lãnh hội Tổ Sư Thiền.
Như vậy đã ngộ Như Lai Thiền sao còn chưa ngộ Tổ Sư Thiền? Chính chỗ này khiến cho người đứng bên ngoài luôn thắc mắc không hiểu nổi. Ông tăng này cũng ở trong trường hợp đó. Song hỏi như thế là rơi vào cái lưới ngôn ngữ của người xưa rồi. Đâu ngờ, chính đây là thủ thuật khéo léo của Ngưỡng Sơn dùng khám nghiệm Trí Nhàn, không cho ý thức lanh lợi bắt kịp. Với thiền sư Ưng Phu Quảng Chiếu thì đâu dễ bị câu “đồng khác” lừa gạt được! Cho nên ông tăng hỏi đồng khác, Sư liền bảo: “Một mũi tên bay qua Tân La”. Nghĩa là, ông vừa nghĩ đồng khác, là xa mất hút rồi. Còn có niệm đồng khác, là vẫn còn chưa mộng thấy Tổ Sư. Quên niệm đồng khác thì Tổ Sư hiện ngay trước mắt! Người mắt sáng chớ để bị lừa trong ấy!
Để tóm kết lại, xin nhắc đoạn nhân duyên của Thủ tọa Linh Thao với Hòa Thượng Lặc Đàm. Sư tham thiền với Hòa Thượng Lặc Đàm thời gian lâu, một hôm Lặc Đàm hỏi:
– Tổ Sư từ Ấn Độ sang, riêng truyền tâm ấn, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật, ông làm sao lãnh hội?
Sư thưa:
– Con chẳng lãnh hội.
Lặc Đàm hỏi:
– Khi ông chưa xuất gia đã làm việc gì?
Sư thưa:
– Chăn trâu.
Lặc Đàm hỏi:
– Làm sao chăn?
Sư thưa:
– Sáng sớm cởi đi ra, chiều tối lại cởi về.
Lặc Đàm bảo:
– Ông rất tốt, chẳng hội!
Sư liền đại ngộ.
Ồ! Mỗi người chân thật tự kiểm điểm lại xem, chính mình có giống như thế chăng? Kìa, ngày ngày cứ sáng sớm thức dậy liền cởi trâu đi ra rửa mặt, súc miệng, rồi húc đông, húc tây, giẫm vào cỏ mạ của người. Chiều tối lại cởi trâu về ngủ. Ngày nào cũng như ngày nấy, đều đặn như vậy không sót một bửa, vậy còn chưa ngộ nữa sao? Cứ cởi đi ra, rồi cởi về mãi để làm gì? Không chán sao? Có lúc nào cởi đụng Tổ Sư chăng? Rất tốt, như thế mà chẳng hội!
Có ai đã thấy Tổ Sư Thiền chưa? Tuy nhiên, từ trước đến đây đã nói quá nhiều. Nếu thẳng thắn thì hỏi: – Tổ Sư Thiền là gì? Chỉ bảo: – Tham đi! là xong. Ai còn thắc mắc thì cứ đi gặp Tổ Sư mà hỏi!
Bảo Nhậm
Đốn ngộ tuy đồng Phật,
Đa sanh tập khí thâm.
Phong đình ba thượng dũng,
Lý hiện niệm du xâm.
Nghĩa:
Đốn ngộ tuy đồng Phật,
Nhiều đời tập khí sâu.
Gió dừng sóng còn vỗ,
Lý hiện niệm vẫn vào.
Lẽ thật sờ sờ không chối cãi, nhưng làm sao một phen sáng phải sáng mãi không cùng tận! Bởi ngộ thì trong chớp mắt không kịp suy nghĩ, song từ đó về sau thời gian còn dài, sức sống của mình chưa trải qua, đâu thể đem công phu trong một thoáng mà sánh kịp! Do đó cần phải có sự bảo nhậm, gìn giữ, khiến cho LÝ TỨC NHƯ THẾ, SỰ CŨNG NHƯ THẾ mới thật sự có sức sống không dối.
Hãy nghe Quy Sơn sau khi tỏ ngộ, lễ tạ trình bày với Tổ Bá Trượng, Bá Trượng liền bảo: “Đây là con đường rẻ tạm thời. Kinh nói: “Muốn thấy Phật tánh, phải quán thời tiết nhân duyên, thời tiết đã đến, như mê chợt ngộ, như quên chợt nhớ, mới tỉnh vật của mình không từ bên ngoài được”. Cho nên Tổ sư bảo:- “Ngộ rồi đồng chưa ngộ, không tâm cũng không pháp”. Chỉ là không tâm hư vọng, phàm thánh v.v… Xưa nay tâm pháp nguyên tự đầy đủ. Nay người đã vậy nên tự khéo gìn giữ.”
Và Ngưỡng sơn bảo Quang Dũng: “Phàm thánh cả hai đều quên, tình dứt thể hiển bày. Ta lấy đây để nghiệm xét người, hai mươi năm không kể đến, ông nên gìn giữ đó.”
Bài “Bảo Cảnh Tam Muội” do ngài Vân Nham truyền cho Động Sơn Lương giới, mở đầu bằng bốn câu:
Như thị chi pháp,
Phật Tổ mật phó.
Nhữ kim đắc chi,
Nghi thiện bảo hộ.
Nghĩa:
Pháp ấy như vậy,
Phật Tổ thầm trao.
Nay ông được đó,
Nên khéo gìn giữ.
Cho thấy, chư Tổ luôn luôn dặn dò gìn giữ kỹ lưỡng như thế, đâu thể hời hợt xem thường! Song, bảo nhậm như thế nào?
I. TÂM VÔ TRỤ
Chúng sanh chúng ta luôn luôn sống với “tâm có trụ”, do đó hằng mất mình trong chỗ trụ. Chỗ trụ tức các duyên trần, cũng gọi là bạn bè. Tâm chúng ta không bao giờ sống không bạn bè, trái lại cứ luôn luôn tìm bạn để duyên, để biết, không bạn bè thì tưởng chừng như không còn có mình. Sống từ kiếp này qua kiếp nọ, cứ lang thang nơi đất khách quê người, chính vì TÂM CÓ CHỖ TRỤ này.
Giờ đây đã sáng được bản tâm, tỏ được bản tánh, thấy rõ được nguồn sống chân thật của chính mình rồi, có lẽ nào lại chịu sống theo nếp cũ đường mê đó sao? Kinh Kim Cang Phật dạy, nếu muốn AN TRỤ TÂM VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC, phải bố thí cả sáu căn. Nghĩa là muốn tâm không chạy lang thang nữa, phải buông xả, không trụ vào sáu trần, thì tự nhiên AN TRỤ thôi. Tâm đối trước sáu trần, tức là thường hiện diện trước thế gian này, nhưng không trụ vào một trần nào, là đi qua tất cả mà không dừng lại trên bất cứ thứ gì, thì chính đó là luôn luôn có mặt hiện hữu không mê. Bảo nhậm là chỗ đó!
Có vị tăng hỏi Thiền sư Bổn Tịch:
– Học nhân trong mười hai giờ, thế nào bảo nhậm?
Sư đáp:
– Như người đi qua làng cổ độc, một giọt nước cũng chẳng được thắm môi.
Muốn giữ gìn suốt ngày không để vắng mất, phải như người đi qua làng cổ độc, thì cái gì trong đó, từ ngọn cỏ, cọng rau, giọt nước đều có chất độc, quyết không được đụng vào một chút gì. Cũng vậy, người bảo nhậm không mất, phải luôn luôn sáng ngời, đi qua tất cả cảnh trần mà không dừng lại trên bất cứ chỗ nào, thì có mất đi đâu? Trong ấy, chỉ cần vừa động niệm là để chạy lọt rồi.
Thiền sư Hân ở Dũng Tuyền từng bảo: “Ta bốn mươi năm tại chỗ này còn có chạy lọt, các ông chớ mở miệng to. Kẻ kiến giải thì nhiều, người hạnh giải thì trong muôn người mới có một.”
Đây là lời nói thành thật của người đã từng kinh nghiệm qua. Kẻ mới sáng, thoáng thấy lẽ thật ngay hiện tiền, tưởng chừng như mình đã sống trong ấy. Không ngờ giây phút đột biến xuất thần ấy qua rồi, tâm niệm quen theo đường cũ, lối mòn vẫn nổi dậy theo duyên, tình yêu ghét lấy bỏ vẫn chưa sạch.
Thiền sư Đại Huệ bảo: “Thường thường người lợi căn thượng trí được nó chẳng phí sức, bèn sanh tâm khinh dễ mà không tu hành; họ phần đông bị cảnh giới trước mắt cướp đoạt mang đi, làm chủ tể chẳng được, ngày qua tháng lại mê man chẳng tỉnh, đạo lực không thắng được nghiệp lực, nên ma được dịp thuận tiện phá hoại, chắc chắn bị ma nắm quyền sai sử, đến lúc mạng chung cũng chẳng đắc lực.” (Trích Kho Báu Nhà Thiền)
Người lanh lợi nhận được dễ dàng tưởng là xong, là tự tại, không cần công phu gì thêm, lâu ngày sức yếu, đạo lực lại chưa có, hẳn bị nghiệp lực làm chủ dẫn đi, đụng cảnh yêu ghét vẫn yêu ghét như thường, mới biết THẬT CHƯA PHẢI.
Thiền sư Vô Văn Thông ở Hương Sơn, nối pháp ngài Thiết Sơn Quỳnh, đã từng kể lại kinh nghiệm của mình: “Tuy kiến giải về thiền đã rõ ràng và đầy đủ nhưng vọng tâm vẫn còn ẩn kín sâu sa chưa hoàn toàn dứt sạch. Thế rồi tôi lại lánh mình vào trong núi sáu năm ở Châu Quang, kế sáu năm nữa ở Lục An và sau rốt lại ba năm ở Châu Quang nữa, bấy giờ mới thật được thảnh thơi.”
Cho thấy, người có thực sống đàng hoàng thì lời nói ra có đầy đủ hạnh giải thiết thực, không đồng với người chỉ nghiêng một bên lý. Lời nói thì giải thoát ngay trước mắt không cần trải qua thứ lớp công phu bên ngoài, nhưng thực tế có thực giải thoát hay không là một việc khác. Đâu phải nói giải thoát là thành giải thoát.
Chúng ta hãy nghe Hòa thượng Viên ngộ nói: “Thuở xưa, bậc đạo cao đức dày bảo người đã thoát căn trần nên hoằng mật ấn hai ba mươi năm dụng công một cách lạnh lẽo, lặng lặng, vừa có mảy may tri kiến liền quét sạch, cũng chẳng lưu lại dấu vết càn quét, ở trên bờ kia buông tay, quên hẳn toàn thân thì chắc chắn được sống rất thích thú. Chỉ sợ khởi cái biết về hành động ấy thì cái biết đó là tai họa vậy.” (Trích Kho Báu Nhà Thiền)
Nghĩa là, người thực sự sáng đạo và sống đạo thì phải âm thầm gìn giữ cho quên hẳn tướng ngã, không phải chưa gì đã lo phô trương cho người biết TA đã ngộ, bày hiện tri kiến này, tri kiến nọ. Đâu biết, trong ấy vừa khởi một chút thấy biết là dư rồi. Nếu lại khởi cái biết về hành động ấy, tức có bóng dáng cái ta xen vào, BIẾT TA ĐÃ NGỘ. Lục Tổ đâu chẳng từng bảo:
Ngơ ngơ chẳng tạo dữ,
Ngốc ngốc chẳng làm lành.
Lặng lẽ dứt thấy nghe,
Thênh thang tâm không dính.
Tổ nhắc, phải như ngu như ngốc, không một chút dấu vết cho quỷ thần xem thấy, không cần ai biết tới mình. Nên nhớ, muốn tỏ bày cho người biết mình đã ngộ, đã sáng, là trình cái TA ra rồi! Chúng ta đang mang thân phàm phu này, ai dám bảo rằng ngay đây mình đã sạch tướng ngã? Dù ngộ cao sâu cách mấy, nhưng tập khí chấp ngã nhiều đời vẫn còn đó, chưa hẳn sạch hết hoàn toàn, mà nó vẫn ngủ ngầm trong ta. Thiếu ánh sáng chánh giác là nó lộ ra ngay! Kinh nói, chỉ Phật mới là “Tri tập khí vĩnh đọan”, tức Phật mới thật sự biết rõ chính mình dứt sạch hẳn không còn tập khí. Người có công phu thực sự cần nghiệm kỹ!
Ở một đoạn khác, ngài Viên Ngộ bảo: “Sau khi nhận được ý chỉ, phải miên mật tương tục giữ gìn khiến không cho gián đoạn để trưởng dưỡng thánh thai. Dẫu có gặp cảnh giới ác mà vẫn có khả năng dùng đựơc định lực chánh tri kiến dung nhiếp nó khiến thành một phiến thì cơn biến đổi lớn sanh tử chẳng đủ làm động lòng mình, hàm dưỡng được lâu năm sẽ thành con người vô vi, vô sự, đại giải thoát, đâu chẳng phải là chỗ làm đã xong, việc hành cước đã rồi ư! (Trích Kho Báu Nhà Thiền)
Tức một phen đã sáng phải sáng mãi không cùng tận, dù trong nghịch cảnh vẫn không mất, trong cơn sanh tử vẫn sáng tỏ, mới có sức sống chân thật. Chỗ này không thể nói suông, ngộ suông mà được. Trái lại công phu miên mật, liên tục giữ gìn không gián đoạn. Kinh nghiệm của người đi trước là như thế, chúng ta đâu dám tự hào với chỗ thấy hiểu riêng ư?
Hòa thượng Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
– Này Huệ Tích! Tâm thức ông vi tế lưu chú không đến, nay đã được mấy năm rồi?
Ngưỡng Sơn chưa vội đáp, hỏi vặn lại:
– Hòa thượng không đến, đã được mấy năm rồi?
Lúc đó Quy Sơn đã bảy mươi tuổi, Sư đáp Ngưỡng Sơn:
– Lão tăng không đến đã bảy năm rồi.
Ngưõng Sơn thưa:
– Huệ Tịch con chính đang náo loạn!
Lời bình của ngài Đại Huệ: “Lấy đây mà xét, chỗ này lấy thô tâm nói không để mà dối nhau được chăng? Thật ra, phải là người có lực lượng lớn mới được!” (Trích Kho Báu Nhà Thiền)
Vi tế lưu chú tức dòng sanh diệt nhỏ nhiệm ngấm ngầm trong tâm. Ngưỡng Sơn như thế mà còn đáp: “Con chính đang náo loạn!”, thử hỏi ngày nay chúng ta công phu được tới đâu mà dám vỗ ngực nói mình tự tại? Hãy nghe kỹ lời bình của Thiền sư Đại Huệ: “Lấy đây mà xét, chỗ này lấy thô tâm nói không để mà dối nhau được chăng?” Chưa gì đã hấp tấp bảo tất cả đều không, nhưng thực sự đã không chưa? Dùng “lý hay” để dối người mê thì được nhưng đâu thể dối Phật, dối Tổ, dối Diêm Vương! Hành giả chân chính không thể không xét kỹ!
Cho nên, chính vô trụ là trả lại “tâm bình thường là đạo”, sạch hết mọi kiến giải sai biệt, chỉ một sức sống chân thật luôn hiện hữu.
Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
– Chư Thánh từ trước hướng chỗ nào đi?
Ngưỡng Sơn đáp:
– Hoặc ở trên trời hoặc ở nhân gian.
Vậy, đâu là chỗ đi của chư Thánh? Có chỗ nào, là bị người khám phá ngay, là bị quỷ thần có cơ hội thuận tiện, thì cùng phàm phu khác gì? Ngưỡng Sơn trả lời: “Hoặc ở trên trời, hoặc ở nhân gian” ý chỉ không có chỗ cố định để tìm, để thấy, bặt dấu vết của tâm. Chỗ đi của chư Thánh là như thế như thế, người còn “có tâm” làm sao bắt theo kịp? Do đó không bao giờ có thể bắt chước.
Như vậy, chỉ một TÂM VÔ TRỤ mà sống đúng nghĩa chân thật của nó, tức luôn luôn sáng tỏ không mê, không gián đoạn. Ở trong đó thì một hạt bụi nhỏ cũng không lầm qua được. Như Tổ Lâm tế bảo: “Giả sử có Văn Thù, Phổ Hiền, mỗi vị hiện mỗi thân đến hỏi pháp, vừa mở miệng ‘Thưa Hòa thượng…’, tôi sớm biết rồi. Huynh đệ vừa đến gặp nhau, tôi đã trọn khác. Bởi vì chỗ thấy của tôi riêng khác, ngoài chẳng trụ phàm Thánh, trong chẳng trụ căn bản, thấy suốt trọn không có nghi ngờ.”
Tại sao ngài biết tinh tế như vậy? Chính vì tâm vô trụ, không trụ trong tâm, không trụ ngoại cảnh, trong ngoài phàm thánh đều bặt, không chỗ bám dừng, nên hằng sáng ngời, không có chút gì có thể làm lầm được. Vừa mở miệng “Thưa Hòa thượng…” là biết ngay trong tâm ông có vấn đề gì rồi! Người vừa đến gặp nhau, cũng biết là có việc rồi! Đến đây mới thực là “trâu trắng sờ sờ”. Chưa được vậy, đừng vội ăn to nói lớn, khó tránh khỏi nhân quả.
II. Ý CHỈ TÙY DUYÊN
Sùng Tín ngay khi được Hòa thượng Long Đàm khai thị tâm yếu, Sư liền tỏ ngộ, sau đó bèn hỏi thêm:
– Làm sao gìn giữ?
Long Đàm bảo:
– Mặc tánh tiêu dao, tùy duyên phóng khoáng, chỉ hết tâm phàm, chẳng có Thánh giải khác.
Con đường bảo nhậm rất đơn giản như thế. Đã sáng được việc lớn ấy rồi, thì cứ ngay đó mà sống, không mong cầu thêm gì khác nữa. Vẫn sống bình thường trong cuộc sống hàng ngày, tùy duyên mà đối tiếp, ăn cũng ăn, mặc cũng mặc, làm việc cũng làm việc như mọi người, song không trụ vào một cái gì để mất mình trong đó. Điểm quan trọng là trong đây không tạo thêm nghiệp mới, mà nghiệp cũ phải tiêu mòn vì không có duyên để tiếp nối, lâu ngày thuần thục mới thành tự tại. Trái lại rồi tùy duyên tha hồ tạo nghiệp mới, nghiệp cũ lại tiếp tục tăng trưởng, đó là sai lạc đường tà, đó không phải là tùy duyên chân chánh. Tùy duyên như thế là mặc tình buông thả theo duyên, theo cảnh, chính đó là bị duyên cuốn, là tùy duyên tiêu sự nghiệp quý báu, rất nguy hiểm! Tùy duyên đúng lý cần phải thấu rõ:
* THỨ NHẤT THẤU RÕ TÁNH KHÔNG
Muốn thấu lý tùy duyên, phải rõ suốt Tánh Không trong Bát Nhã. Nghĩa là, phải mở con mắt Bát Nhã, thấy rõ tất cả pháp trên đời không có gì thật cố định. Từ bản thân mình cho đến sự vật bên ngoài đều là tánh không, do duyên khởi tạm có. Thân thì đất nước gió lửa hợp thành, tế hơn thì từng tế bào từng tế bào chung họp lại. Tâm thì từng niệm từng niệm thiện ác, có không, buồn vui, giận ghét v.v… chung hợp. Cảnh thì từng nguyên tử từng nguyên tử kết lại thành. Trong đó có cái gì là thật thể cố định? Chính vì TÁNH KHÔNG mới có thể tùy duyên mà hiện khởi tất cả. Như gương, vì nó vốn không một cái gì nên nó có thể hiện đủ tất cả mọi thứ, nếu thật có một hạt bụi thì ngay hạt bụi đó nó không thể hiện cái khác. Cũng vậy, hư không vì nó không một cái gì nên nó có thể hiện đủ mọi vật. TÂM, không một cái gì nên nó có thể nghĩ đủ hết tất cả.
Năm ấm, vì tánh không nên có thể tùy duyên mà hiện lớn, hiện nhỏ, hiện mập, hiện ốm, hiện đen, hiện trắng, hiện trẻ, hiện già, hiện nam, hiện nữ… Nếu nó cố định là nam thì đời đời là nam không thể hiện nữ. Cố định là nhỏ thì suốt đời là đứa bé, không thể hiện thành người lớn. Cố định là người thì hiện người mãi, không thể hiện trời, hiện A tu la v.v… Vậy Bồ tát Quan Thế Âm làm sao có ba mươi hai ứng thân, khi hiện nam, khi hiện nữ?
Đã rõ không một cái gì cố định thì bám chặt một chỗ làm gì để chịu khổ? Như vậy, tùy duyên là do rõ được TÁNH KHÔNG của các pháp, nên tùy duyên luôn luôn có ánh sáng Bát nhã đi theo, do đó không mê lầm. Trái lại, nhắm mắt mà tùy duyên là đi xuống hố, vào chỗ u minh tối tăm hiểm nghèo.
Xưa ngài Tăng Triệu bị tội sắp hành hình, Sư thản nhiên nói bài kệ:
Ngũ ấm nguyên phi hữu,
Tứ đại bổn lai không,
Tương đầu lâm bạch nhẫn,
Nhất tự trảm xuân phong.
Nghĩa:
Năm ấm vốn chẳng có,
Bốn đại xưa nay không,
Đem đầu đến dao bén,
Giống hệt chém gió xuân.
Đó mới là thực sự biết tùy duyên. Với Sư, dù bị tử hình, vẫn không thấy buồn khổ, không sợ hãi, vì biết rõ năm ấm vốn không, bốn đại vô ngã, trong đó không thật có một cái gì để chết, một cái gì bị chém, nên chém đó như chém gió xuân vậy thôi. Thấy được như vậy là tùy duyên hết khổ. Nghĩa là, còn duyên thì làm Phật sự tiếp, hết duyên thì ra đi, không cố ghì lại để chịu khổ, không oán trách để tạo thêm nghiệp mới. Đây là thực sự BIẾT TÙY DUYÊN.
* NHẬN RA BẢN TÁNH
Người nhận ra bản tánh chính mình luôn luôn hiện hữu, đây là của báu sẵn có nơi mỗi người, nên tùy duyên để sống trở về trong đó, đối mọi cảnh không lấy không bỏ, chỉ thuận với tánh mà sống không để mất nó, chính là khéo bảo nhậm.
Bài kệ tóm tắt bài phú Cư Trần Lạc Đạo của vua Trần Nhân Tông đã nói:
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên,
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
Nghĩa:
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên,
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền,
Báu sẵn trong nhà thôi tìm kiếm,
Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.
Muốn sống trong lòng đời mà được vui với đạo thì phải khéo biết tùy duyên. Duyên đến thì làm, duyên qua liền thôi, không bám víu, không ghì níu, cũng không chối bỏ, không xua đuổi, khiến sạch hết dấu vết cái TA xen vào trong đó. Đói thì ăn, mệt thì ngủ giống như người đời nhưng không phải người đời, đòi hỏi ăn thế này thế nọ, nằm trằn trọc tính toán đủ điều mà chỉ một lòng rỗng rang vô sự. Sở dĩ được như vậy là vì nhận biết rõ trong nhà có sẵn của báu vô giá, không gì ở thế gian sánh kịp, đâu còn phải dong ruổi tìm kiếm theo bên ngoài nữa. Chính ngay đây, đối trước ngoại cảnh, mọi duyên mà vô tâm, không khởi niệm trụ vào cảnh, đó là thiền rồi. Tức là đối trước cảnh mà không mất mình, vẫn luôn luôn giữ của báu trong nhà. Đấy là tùy duyên mà thường sáng tỏ, không mê mờ, lúc nào cũng có ánh sáng chân thật đi theo, không đặt thành một cái TA trong đó: Nên ăn hay chẳng nên ăn, nên ngủ hay chưa?
Thiền sư Nghĩa Hoài ở Thiên Y có bài kệ:
Nhạn quá trường không,
Ảnh trầm hàn thủy.
Nhạn vô di tích chi ý,
Thủ vô lưu ảnh chi tâm.
Nghĩa:
Nhạn bay qua trên trời,
Bóng chìm dưới nước lạnh.
Nhạn không ý để dấu lại,
Nước không có tâm giữ bóng kia.
Tức là đi qua tất cả cảnh mà không để lại dấu vết gì, không lưu giữ trong tâm một bóng dáng. Đó mới thật là tùy duyên tự tại. Gọi là vào nước không quậy sóng, vào rừng không động lá. Chỗ này có thể bắt chước được sao?
Có vị tăng hỏi ngài Triệu Châu:
– Thế nào là cầu đá Triệu Châu?
Sư đáp:
– Độ lừa độ ngựa.
Đây hỏi cầu đá, nhưng ngầm ý muốn chỉ chỗ sống kia. Triệu Châu đáp rất bình thường: “Độ lừa độ ngựa.” Nghĩa là nó sẵn sàng đưa lừa, đưa ngựa đi qua, lừa ngựa đi qua trên đó, nó không khởi niệm thuận cho hay chối bỏ, ngăn cản; không cố chấp đưa người sang quý, đưa hàng Bồ tát Thánh hiền còn thú vật thì bỏ lại. Nếu thấy như thế thì chưa thật thấy cầu đá Triệu Châu trong đây rồi. Chỉ có điều là, nó độ lừa, độ ngựa bình đẳng nhưng không đồng hóa mình với lừa, với ngựa, khiến mất mình trong chỗ lừa ngựa đó, là nguy! Thế là tùy duyên mà không đòi hỏi theo một cái TA, không sanh niệm lấy bỏ để tạo thành nghiệp mới, tự tánh luôn sáng ngời trong mọi duyên. Bảo nhậm như thế mới thật sự là MỘT PHEN SÁNG HẰNG SÁNG MÃI!
* CỐT HIỂU RÕ THẾ GIAN TƯƠNG ĐỐI
Để biết tùy duyên, cốt phải hiểu rõ lẽ thật của hế gian là luôn luôn tương đối, tất cả đều nằm trong đối đãi mà thành, không có một cái gì cố định hoàn toàn, thì cố bám chặt một chỗ để làm gì? Dù bám cũng không thể được! Hãy xem thiện thì đối với ác, phải đối với quấy, vui đối với buồn, Thánh đối với phàm, cha đối với con, nam đối với nữ, ta đối với người v.v… không có một cái gì đứng riêng lẻ mà thành. Vậy mà chúng ta cứ đòi hỏi một chiều, đòi hỏi cái toàn mỹ, làm sao có? Không thể có mà đòi hỏi, khi không được liền khổ! Nhưng tâm lý con người, ai ai cũng muốn toàn mỹ, đó là mê. Bởi chính mình còn chưa toàn mỹ mà muốn mọi người toàn mỹ làm sao được? Ngay nội tâm mình cũng thường tự mâu thuẫn với chính mình. Có khi ngoài mặt thì vui vẻ, mà trong lòng đang buồn bả đau khổ. Mới đó muốn xả hết để tu hành, kế lại đổi ý tiếc thế gian! Vừa muốn đi nghe pháp, kế đổi ý muốn đi chơi v.v… Ngay mình với mình còn trái ngược như vậy, mà đòi hỏi bên ngoài phải toàn mỹ, phải toàn như ý là điều không thể có. Không thể có mà cứ đòi hỏi là khổ thôi! Là không biết tùy duyên!
Kìa! Phật cũng có người chê! Kẻ uống rượu say sưa, kẻ trộm cắp vẫn có người khen! Ai khen? Tức đồng bọn với nhau đó! Kinh Pháp Cú có câu:
Xưa, vị lai và nay,
Đâu có sự kiện này.
Người hoàn toàn bị chê,
Người trọn vẹn được khen.
Lẽ thật từ xưa tới nay, trên thế gian này không có ai là người hoàn toàn được khen, dù là bậc Thánh; nhưng cũng không có người hoàn toàn bị chê, dù là kẻ xấu. Do đó, người hiểu đạo thì bình tĩnh trước lời khen chê của thế gian.
Đó là nói về khen chê, về “được mất” cũng vậy, có được thì có mất, nếu người biết tùy duyên khéo chuyển thì vẫn an vui, trái lai thì buồn khổ. Như chuyện bà Tỳ Xá Khư, một nữ thí chủ quan trọng trong thời đức Phật. Một hôm bà khoác cái áo choàng rất quý giá để đi chùa. Khi đi đến cổng tịnh xá, bà cởi áo choàng ra đưa cho người hầu gái cầm giữ. Lúc ra về, cô hầu gái vô ý, bỏ quên lại. Về đến nhà sực nhớ, bà bảo đứa hầu gái quay trở lại tìm, nhưng dặn rằng nếu đã có vị Tỳ kheo nào đã đụng đến chiếc áo đó thì thôi, không nên lấy về. Cô hầu gái đến tịnh xá hỏi thăm thì biết Đại đức A Nan Đà đã cất giữ cái áo choàng, nên trở về báo lại cho bà. Bà Tỳ Xá Khư liền đến gặp Phật và tỏ ý muốn làm một việc thiện với số tiền bán chiếc áo choàng quý giá ấy. Đức Phật khuyên bà nên xây dựng một ngôi tịnh xá cho chư tăng có nơi trú ngụ. Vì không có ai đủ tiền mua chiếc áo đắt giá ấy, cuối cùng bà bỏ tiền ra mua lại và dùng số tiền ấy xây dựng một ngôi tịnh xá khang trang dâng lên chư tăng. Sau khi làm lễ dâng ngôi tịnh xá xong, bà gọi cô hầu gái đến và bảo: “Nếu không có con vô ý bỏ quên chiếc áo choàng thì hẳn ta không có cơ hội để tạo nên phước báo này. Vậy thì ta xin chia phần phước này với con.”
Đây là chuyển MẤT thành ĐƯỢC. Nếu như người khác, cứ bám chấp vào cái ta đã mất hẳn sanh tâm tức giận, chửi mắng, đánh đập người hầu gái, thế là tự mình vừa bị lửa sân đốt khổ, lại vừa tạo thêm nghiệp dữ cho đời sau chịu khổ tiếp. Vừa gây khổ cho mình, vừa làm khổ cho người. Con ngay đây biết chuyển trở lại như bà Tỳ Xá Khư, thì chẳng những bà đựơc niềm vui cúng dường, người hầu gái cũng vui, chư tăng cũng vui và ngày nay chúng ta nghe nhắc lại cũng vui theo!
Vì vậy, người biết rõ thế gian đều tương đối, không có cái gì hoàn toàn, thì không một bề cố chấp theo ý mình, không bám chặt vào cái TA cố định để chịu khổ, mà khéo biết tùy duyên sống an lành giữa dòng đời tương đối.
* PHẢI BIẾT LINH ĐỘNG KHÔNG CỐ CHẤP
Đã hiểu rõ lẽ thật như trên, cần có một cuộc sống cởi mở linh động và sáng ngời, tùy duyên không khư khư ôm lấy một chiều. Như chuyện ông Lưu Ngưng Chi đi giày, có người đến nhận là giày của họ, ông liền cởi giày đưa cho người ấy ngay. Sau đó, người ấy tìm được giày mình, vội đem giày trả lại cho ông, ông nhất định không nhận. Thẩm Lân Sĩ cũng đi giày, có người đến nhận là giày của họ, ông cũng cởi đưa cho họ. Sau, người ấy tìm thấy giày của mình, liền đem giày đến trả lại cho ông, ông nói: “Không phải giày của bác à!” Ông cười và nhận lại.
Tô Thức nói:- Việc này tuy nhỏ mọn, song ở đời ta nên cư xử như ông Lân Sĩ, không nên như ông Ngưng Chi. (Cổ Học Tinh Hoa)
Giày mình đang mang, người đến nhận là của họ, liền cởi ra đưa cho họ, thực là một việc ít có khó làm! Song, người đã biết lầm. Đem trả lại thì cũng phải thông cảm nhận lại cho người, khiến người giải tỏa lỗi lầm. Nếu cứ khư khư giữ lấy cái phải của mình, e rằng chưa trọn tốt!
Đó là câu chuyện của nhà Nho. Đến trong nhà Thiền, chúng ta thấy tinh thần tùy duyên của thiền rất cao tuyệt. Thiền sư Bạch Ẩn Huệ Hạc, lúc tiếng tăm Sư đã lên cao, người người đều ca tụng Sư sống rất trong sạch. Bỗng một hôm ở gia đình bán thực phẩm gần đó có một cô con gái xinh đẹp, bất chợt họ phát hiện cô có thai. Cha mẹ cô nổi giận trách mắng cô và gạn hỏi ai là tác giả bào thai đó. Cô nói tên: Bạch Ẩn. Cha mẹ cô liền đến chùa tìm Sư tặng cho đủ những lời không tốt của thế gian. Sư chỉ nói: “THẾ À!”
Khi đứa bé được sanh ra, nó được mang đến chùa giao cho Sư. Từ đó, danh dự của Sư bị xuống dốc hẳn, Sư vẫn thản nhiên. Sau cô gái không chịu nỗi sự ray rứt nơi cõi lòng, thú thật với cha mẹ rằng: – Cha đứa bé không phải là ngài Bạch Ẩn mà là chàng thanh niên bán cá ngoài chợ. Cha mẹ cô bật ngửa, lo sợ, vội vàng đến sám hối với Sư và xin nhận lại đứa bé. Sư cũng chỉ tốt lên: “THẾ À!”
Chúng ta thấy tinh thần tùy duyên của Thiền sư Bạch Ẩn thật là tuyệt diệu! Được tiếng tăm không hãnh diện, mất tiếng tăm không chút buồn khổ, xem sự đựơc mất như trò chơi. Người nói oan, người biết lầm, vẫn thản nhiên như không cò chuyện gì, không chút bận lòng. Khi nhận đứa bé không buồn giận, không oán hờn. Khi trả đứa bé, không trách mắng, không nặng lời, chỉ một câu: “THẾ À!” trước sau trong lòng vẫn bằng phẳng không chút gợn sóng. Chỗ này dễ bắt chứơc được sao? Nếu không phải người thực sự có sức sống chân thật sâu dày bên trong, không thể nào làm được.
Còn đây, Thiền sư Chơn gặp thời vua Võ Tông hủy diệt Phật giáo, bắt tăng trẻ phải hoàn tục, Sư cũng hoàn tục. Lúc đó, Sư có bài kệ dạy chúng:
Nhẫn tiên lâm hạ tọa thiền thì,
Tằng bị Ca Vương cát tài chi.
Huống ngã thánh triều vô thử sự,
Chỉ linh hưu đạo diệc hà bi?
Nghĩa:
Nhẫn tiên thiền toạ ở rừng sâu,
Từng bị Lợi Vương chặt cắt đau.
Huống nay Thánh chúa không việc ấy,
Chỉ bắt thôi tu đáng buồn đâu?
Đây là Sư hằng có sức sống chân thật nơi nội tâm, nên tùy hoàn cảnh mà thuận sống, không có gì trái nghịch, không có gì ngăn chướng. Sư đã thực sự có sức sống thiền.
* TÙY DUYÊN LÀ PHÁ NGÃ KIẾN
Với tinh thần tùy duyên là phá cái kiến chấp ngã, tức luôn luôn thấy có TA thật, vật thật, cái thấy có ta là trên hết, hằng có một cái TA ngự trị nơi mình. Do đó, cứ chấp chặt một là một, hai là hai, không thể thay đổi. Ta nghĩ thế nào thì bảo vệ tối đa cái nghĩ ấy, vì nó là TA mà! Sợ mất cái TA! Đấu tranh, chết chóc, đau thương, không dừng, cũng vì đó! Song hãy xét kỹ: Cái gì là cái nghĩ của ta? Đem chỉ ra xem! Kinh Kim Cang Phật dạy: “Nói ngã kiến tức chẳng phải ngã kiến, đó gọi là ngã kiến.” Phật xác định định rõ, nói là ngã kiến tức là cái kiến chấp ngã, mà thực không cố định có cái kiến chấp ngã. Chấp ngã chỉ là một KHÁI NIỆM về TA vậy thôi. Tìm đâu ra cái kiến chấp để chỉ? Mở sáng con mắt Bát nhã, nhận rõ cái thấy sai lầm đó, liền hết lầm, không chỗ để chấp.
Hãy xem một viên kim cương, ta thấy là quý, đứa bé thấy là món đồ chơi, tùy tâm tưởng sai biệt mà thấy thành quý, thành tiện, có gì cố định đâu mà khăng khăng bám chặt không chịu buông, để chịu khổ!
Trong Tuyệt Quán Luận có đoạn nói lên ý nghĩa tùy duyên này.
Hỏi: – Con thấy có người học đạo, phần nhiều chẳng chuyên ròng giữ giới, chẳng chăm lo gìn giữ oai nghi, chẳng giáo hóa chúng sanh, cứ mặc tình thoải mái là ý gì?
Đáp: – Là muốn quên tất cả tâm phân biệt, muốn dứt tất cả kiến chấp có, tuy tợ mặc tình thoải mái mà bên trong thực hành không gián đoạn.
Tức là, ở đây vì phá niệm SẠCH NHƠ, thấy ta đây tu hành thanh tịnh, nếu bị người chê liền buồn giận, đó là chưa thật thanh tịnh, cho nên Thiền sư mới có những hành động khó hiểu như trên. Bởi tướng thanh tịnh cũng không cho chấp, không cho để lại dấu vết ở trong tâm thể kia. Tuy nhiên, chỗ này dễ bị hiểu lầm bắt chước. Người chưa thật có công phu, nghe nói sống thoải mái để phá kiến chấp “CÓ” trên hình thức, rồi cũng bắt chước sống buông lung, ngang bướng, làm như vẻ tự tại, mà thực trong lòng chưa phải. Đó là bệnh!
Trong đây cần chú ý! “Tuy bên ngoàii như vậy nhưng BÊN TRONG THỰC HÀNH KHÔNG GIÁN ĐOẠN”. Nghĩa là, bên trong luôn luôn sáng ngời không mê, không để một chút lọt hở khiến niệm khác xen vào. Nhất là không để cái TA xen vào liền thành bệnh hoạn.
Nên nhớ, thuận tánh mà sống tùy duyên để quên mọi kiến chấp phân biệt, không sanh tâm tạo tác thêm nghiệp mới, đó là bảo nhậm. Trái lại, làm như tự tại để tỏ ra TA đây không chấp, bèn thành CHẤP CÁI KHÔNG CHẤP, vẫn là bệnh nặng khó chữa. Vì bệnh mà không biết, tưởng mình là lành nên đâu chịu uống thuốc!
Song hãy nhớ kỹ! Làm để phá tâm phân biệt, tức là chưa sạch hết phân biệt mới phá! Nếu đã sạch thì còn phá cái gì? Vì vậy, khi nói: “Tôi làm để phá tâm phân biệt” thì biết ngay trong lòng đang còn có tâm phân biệt chưa thật sạch, chưa thật phải tự tại, chớ vội lầm mà sanh tâm kiêu mạn! Cũng như nói: “Tôi phá chấp cái này, phá chấp cái kia…” tức là “tôi còn chấp” mới phá! Chỗ này rất tế nhị, chớ lầm!
* TÙY DUYÊN KHÔNG LẬP DỊ
Một điểm quan trọng nữa cần thấu rõ là, vì tùy duyên nên không làm khác người, không lập đị để tỏ ra mình là bậc đạt đạo khiến người cung kính, chính đó là tướng khác của tướng ngã. Ở đây, cần làm tất cả, cũng ăn, cũng mặc, cũng ngủ, cũng sống như mọi người, song luôn luôn không rời tự tánh, không để vắng mặt ánh sáng tự tâm thì tùy duyên mà không biến đổi, không làm tiêu sự nghiệp.
Hòa thượng Quán Khê khi đến chỗ Mạt Sơn, Sư hỏi bà ni Liễu Nhiên:
– Thế nào là chủ Mạt Sơn?
Liễu Nhiên đáp:
– Chẳng phải tướng nam nữ.
Sư bảo:
– Sao chẳng biến đi?
Liễu Nhiên đáp:
– Chẳng phải thần, chẳng phải quỷ, biến cái gì?
Sư kính phục, ở lại mạt Sơn làm tri viên ba năm.
Hỏi chủ Mạt Sơn, đáp chẳng phải tướng nam nữ. Vì cái ấy đâu thuộc tướng trạng gì, song bảo biến đi là lầm. Bởi nó vốn sẵn như vậy, không phải do biến mất tướng nam nữ mà thành. Biến tướng nam, tướng nữ cho mất đi, cũng là ở trên tướng mà bàn, vẫn thuộc lấy bỏ, đâu thể thấy được người chủ kia! Trong khi đó, người chủ kia vẫn ở ngay tướng nam nữ này, mà không phải tướng nam nữ, vẫn đi đứng tới lui mà không tướng tới lui, hiện trong mọi hành động mà không rời tự tánh, đó mới là chân thiền. Vì vậy, trong đây vừa có một chút tình chấp là không biết tùy duyên.
Có vị ngoại đạo đến hỏi Phật:
– Hôm qua ngài thuyết pháp gì?
Phật đáp:
– Hôm qua ta thuyết pháp định.
Ngoại đạo hỏi:
– Hôm nay ngài thuyết pháp gì?
Phật đáp:
– Hôm nay ta thuyết pháp bất định.
Ngoại đạo hỏi:
– Hôm qua giảng pháp định, vì sao hôm nay giảng pháp bất định.
Phật nói:
– Hôm qua định, hôm nay bất định!
Phật đáp quá hay! Ai thấy chăng? Ngoại đạo chấp theo ngôn từ, nghe nói định hiểu là định, nghe nói bất định hiểu là bất định nên thắc mắc sao Phật nói lạ. Không ngờ Phật phá cái chấp cố định của ông, không cho ông chấp chặt một chỗ thành pháp chết. Tại sao hôm qua nói pháp định, hôm nay nói pháp bất định? Bởi vì, nếu một bề là pháp định thì đâu có ngày hôm nay. Có hôm qua, có hôm nay thì rõ ràng là bất định rồi. Nên Phật nhấn mạnh: “Hôm qua định, hôm nay bất định.” Như vậy, nếu cứ một bề chấp chặt hôm qua là hôm qua, hôm nay là hôm nay, đó là mê, là sống với quá khứ chết, thiếu sức sống sáng tạo. Cũng vậy, nghe nói định pháp, chấp định pháp, tức là mê, là kẹt trên ngôn ngữ khái niệm.
* TÙY DUYÊN LÀ SÁNG TẠO
Bởi khéo tùy duyên, không bám chặt vào một cái TA cố định nào đó, do đó mới có sức sống sáng tạo vi diệu, không đóng khung vào một chỗ chết.
Thiền sư Pháp Diễn từng có một bài pháp thiền nói về ăn trộm. Sư bảo: “Ta trong đây, thiền giống cái gì? Như có người giỏi nghề ăn trộm, anh có một đứa con, một hôm đứa con gnhĩ rằng: ‘Sau thời của cha ta, ta làm sao để nuôi sống gia đình? Ta cần phải học theo sự nghiệp của người mới được.’ Đứa con bèn đem ý nghĩ đó thưa với người cha. Người cha bảo: ‘Tốt lắm.’ Đêm nọ, anh dẫn người con đến một ngôi nhà đồ sộ, khoét vách vào trong nhà. Gặp cái rương to anh mở nắp rương ra, bảo đứa con vào trong đó lấy đồ. Đứa con vừa chui vào trong rương thì bất ngờ anh đóng ập nắp rương lại, rồi khóa luôn. Xong, anh ra ngoài sân đập cửa ầm lên đánh thức người trong nhà. Người nhà tỉnh dậy, vội thắp đuốc báo động thì biết rõ có ăn trộm nhưng tìm khắp nơi không thấy, cho rằng đã đi khỏi rồi. Đứa con trong gương tự nghĩ hận cha mình, không biết làm sao hành động như thế. Nó chợt nghĩ ra một kế, bèn cào vào thành rương giả tiếng chuột gặm. Người nhà nghe tiếng, gọi đứa ở thắp đèn xem xét lại cái rương. Rương vừa được mở ra, đứa con ấy tung mình phóng ra, thổi tắt đèn, xô ngã chị ta, chạy ra ngoài. Người nhà đuổi theo đến giữa đường, đứa con ấy thấy bên đường có cái giếng, bèn ôm một tảng đá to gần đó ném vào trong giếng. Mọi người vội bao quanh miệng giếng để tìm tên trộm. Đứa con chạy thẳng về nhà gặp người cha vừa định trách, người cha vội bảo: ‘Khoan khoan, con hãy nói vì sao mà chạy được về đây? Đứa con thuật lại xong, anh ta liền cười bảo: ‘Như vậy thì ngươi đã thành nghề rồi!’”
Thiền sư nói thiền như vậy đó. Cho thấy ăn trộm là pháp xấu của thế gian nhưng qua tay Thiền sư cũng thành pháp thiền khai thị cho người. Nếu một bề cho là pháp xấu, là cái bị chê trách, nghe nói liền tỏ ý chê bai, khinh khi, tức bị khái niệm cũ kỹ lấp bít trong đầu, làm cho mất ánh sáng chân thật.
Bảo nhậm đến đây là đã thành một sức sống thật sự tuyệt diệu, khó nghĩ bàn!
Tóm lại, tùy duyên là gì? Tức là KHÔNG CHỖ BÁM. Đã rõ tất cả pháp có ra, từ pháp thế gian đến pháp xuất thế gian đều là nhân duyên đối đãi thành, không có một pháp thật thì tại sao lại bám chấp vào một chỗ để chịu khổ? Để đóng khung mình một cách đáng thương!
Người biết tùy duyên chân chánh, tức là quên tướng ngã, luôn luôn tự tánh hiện hữu sáng ngời không gián đoạn, không chết trong một khuôn khổ nào, do đó không thể bắt chước. Vì đã tùy duyên tức không cố định, vậy làm sao bắt chước? Bắt chước là thành có cái khuôn rồi!
Điểm cần chú ý là: Tùy duyên mà còn có tướng ngã xen vào, tức là bệnh, không phải thực.
Phải nhớ rõ: Tùy duyên là tiêu nghiệp cũ mà không tạo thêm nghiệp mới. Trái lại, tùy duyên mà tạo thêm nghiệp mới, nghiệp cũ lại đậm hơn là nguy! Đó là con đường đi xuống, gọi là bị duyên chuyển, chìm mãi trong sanh tử, là phiêu linh lãng tử lang thang trong các nẻo luân hồi.
Có câu chuyện để cảnh tỉnh: Xưa có một Thiền sư ăn uống hỗn tạp, không chọn lựa chay mặn, nhiều đệ tử thấy vậy bắt chước theo. Một hôm Sư bày một bữa cúng ngay chỗ thiêu xác chết, rồi lấy thịt thiêu còn sót lại đem gộp chung vào thức ăn mà ăn. Đệ tử đều ói mửa, chạy mất, Sư bèn bảo: “Ta nhiều đời thanh tịnh mới không chọn lựa. Các ông có thể cùng ta ăn món này mới nên duy trì việc ăn uống.” Từ đó, cả chúng sợ hãi, lo vâng giữ giới luật, nghiêm chỉnh tu hành.
Để thấy, người bắt chước mà trong tâm còn dấy niệm phân biệt nặng nề, còn đủ tình yêu ghét chưa quên, còn thích ăn ngon mặc đẹp, còn chán dở ghét xấu, mà bảo tùy duyên không ngại, đó là tự dối mình, dối người thôi, nhưng không thể dối người mắt sáng, không thể dối được nhân quả. Với Thiền sư, tâm phân biệt đã sạch, có sức sống chân thật sâu dày bên trong mới tùy duyên tự tại để cảnh tỉnh người.
Như vậy, với một ý nghĩa tùy duyên này, nếu người thấy đạt chỗ cùng tột để sống, tức đã cởi mở tình chấp rất nhiều, là thành tựu công phu bảo nhậm vững vàng, không phải dễ dàng như cái hiểu thông thường, không phải tùy duyên là gặp gì làm nấy để mất mình trong duyên. Hoặc tùy duyên để tỏ ra ta đây tự tại, ta đây không vướng mắc, chính ngay đó đã vướng mắc rồi! Vướng mắc cái gì? Vướng mắc ngay lý tùy duyên. Đó là bệnh cần phải tránh.
Để tóm tắt lại ý nghĩa này: TÙY DUYÊN LÀ LUÔN LUÔN SÁNG NGỜI, TỰ TẠI KHÔNG CHỖ NÀO ĐỂ BÁM, KHÔNG CÓ XEN TƯỚNG NGÃ VÀO. Đó là TÙY DUYÊN, tức VÔ TRỤ: Một công phu thiết thực của người đạt đạo.
II. TÓM KẾT
Nói đơn giản, bảo nhậm là tùy duyên sống trở lại trong đời sống hằng ngày mà không để gián đoạn ánh sáng chân thật kia. Một phen đã sáng tỏ VIỆC LỚN rồi, sao cho trong bất cứ trường hợp nào, trong bất cảnh duyên nào, dù nghịch dù thuận, dù trong chỗ nguy hiểm ngặt nghèo vẫn không mất là thành tựu, ngoài ra không có thêm gì khác nữa. Muốn vậy, tâm phải luôn luôn đi qua tất cả mà không dừng lại ở bất cứ cái gì. Vừa có chỗ dừng liền không phải rồi. Vẫn sống bình thường như mọi người nhưng trong ấy luôn sáng ngời ánh sáng tự tâm, không để thói quen nghiệp cũ sống lại. Đi qua không ngó lại! Cuối cùng tìm một chỗ trụ trọn vẹn không thể được, còn chỗ nào để đi? Để chạy lọt? Vô trụ xứ Niết bàn là đây!
Tu Thiền Có Chứng Đắc Hay Không?
I. ĐẶT LẠI VẤN ĐỀ CHỨNG ĐẮC.
Thường thường với tâm lý người thế gian hễ làm việc gì cũng mong muốn có kết quả, được thành tựu cái gì đó mới chịu, mới hăng hái làm. Trong đạo, người tu thì muốn đắc quả, muốn chứng đạo, cho nên có những danh từ đắc đạo, đạt đạo, chứng đạo, thành đạo v.v… Vậy thật sự có đạo để chứng, để thành hay không? Đây là điểm cần phải nhận định kỹ, không để bị lầm lẫn, bị gạt khiến rơi vào đường tà.
Nếu bảo là không: thì tại sao có CHỨNG ĐẠO CA? Tức khúc ca nói lên sự chứng đạo của Thiền sư Huyền Giác rất nổi tiếng trong nhà thiền.
Hoặc như Hòa thượng Câu Chi lúc ở am có bà ni tên Thật Tế đến am của Sư bèn đi thẳng vào chẳng giở nón, cầm gậy đi quanh giường thiền ba vòng và nói:
– Nói được thì tôi giở nón!
Hỏi ba lần Sư không đáp được. Vị ni từ giã đi. Sư cầm lại:
– Trời đã chiều, cô hãy ở lại nghỉ tạm.
Vị ni nói:
– Nói được thì ở lại.
Sư cũng không nói được. Vị ni liền đi. Sư tự than:
– Ta tuy mang hình tướng trượng phu mà không có khí trượng phu!
Liền phát phẫn, quyết rõ việc này. Sư định bỏ am đi các nơi thưa hỏi. Đêm đó Sơn thần báo mộng:
– Thầy chẳng cần đi đâu khác. Ngày mai có nhục thân Bồ tát đến, sẽ nói pháp cho thầy.
Hôm sau quả nhiên có Hòa thượng Thiên Long đến, Sư lạy thỉnh vào am, kể lại rành rẽ việc hôm qua. Nghe xong, Thiên Long liền đưa ngón tay lên chỉ đó!
Câu Chi bỗng nhiên đại ngộ.
Sau này, khi sắp tịch Sư bảo chúng:
– Ta được một ngón tay thiền của Hòa thượng Thiên Long, cả đời dùng chẳng hết. Cần hiểu chăng? Sư đưa ngón tay lên rồi tịch.
Hãy xem ngài Câu Chi tuyên bố giữa chúng: “Ta được một ngón tay thiền của Hòa thượng Thiên Long, cả đời dùng chẳng hết.” Chỉ một ngón tay thiền mà suốt đời dùng không hết. Là có được hay không?
Hay như Hòa thượng Tuyết Phong, có vị tăng từ giã Sư đi. Sư hỏi:
– Ông đi đâu?
Tăng thưa:
– Con đi Hồ Nam.
Sư bảo:
– Ta có người bạn đồng hành ở Nham Đầu, gửi ông một lá thư đưa hộ cho. Thơ viết: “Tôi gởi thơ lên sư huynh, từ ngày tôi thành đạo ở Ngao Sơn về sau cho đến nay vẫn còn no chưa đói.”
Một phen thành đạo về sau no mãi chẳng đói, là có được hay không?
* NẾU NÓI CÓ: Sao có vị tăng hỏi Hòa thượng Tuyết Phong:
– Hòa thượng gặp Tuyết Phong được cái gì liền thôi?
Sư đáp:
– Ta đi tay không về tay không.
Xem Sư, đi tay không, về tay không thì có được cái gì?
Và chuyện Động Sơn Y Bát. Có vị tăng hỏi Động Sơn:
– “Thường xuyên lau chùi” vì sao chẳng được y bát kia? Chưa biết người nào nên được?
Tăng thưa:
– Chỉ như người chẳng vào cửa, lại được hay không?
Sư đáp:
– Tuy nhiên như thế, không thể chẳng cho y.
Sư bèn hỏi lại:
– Nói thẳng “xưa nay không một vật” vẫn còn chưa thể gọi là được y bát kia, ông hãy nói người nào nên được? Trong đây nên hạ một chuyển ngữ, hãy nói là chuyển ngữ gì?
Bấy giờ có vị tăng nói 96 chuyển ngữ đều không khế hợp, đến một chuyển ngữ cuối cùng mới hợp ý Sư.
Có vị tăng rình nghe nhưng không nghe được một chuyển ngữ cuối cùng đó, ông bèn theo hỏi vị tăng ấy. Vị tăng ấy cũng chẳng chịu nói. Suốt ba năm như thế theo hỏi mà chẳng được vị tăng ấy thuật lại câu đó. Một hôm vị tăng ấy bị bệnh, ông tăng này liền bảo:
– Tôi ba năm nay xin được thuật lại lời trước kia mà chẳng được. Thượng tọa từ bi nói, dùng lành chẳng được thì phải dùng dữ.
Ông bèn cầm con dao bén bảo:
– Nếu Thượng tọa chẳng thuật lại cho tôi nghe, tôi giết Thượng tọa ngay!
Vị tăng ấy tỏ vẻ run sợ nói:
– Xà lê! Hãy đợi tôi thuật lại cho!
Bèn nói: – Dù cho đem đến cũng không chỗ để!
Ông tăng này liền lễ tạ.
Hãy nghe kỹ câu nói “Dù cho đem đến cũng không chỗ để” trong ấy vốn là “xưa nay không một vật” thì có chỗ nào bám?
Vậy cuối cùng là có chứng đắc hay không? Rồi việc truyền tâm ấn trong nhà thiền là thế nào?
II. TU CHỨNG TỨC CHẲNG KHÔNG, NHIỄM Ô CHẲNG THỂ ĐƯỢC.
Để rõ việc chứng đắc, chúng ta nghe câu chuyện ngài Hoài Nhượng đến tham vấn Lục Tổ liền sáng tỏ.
Sư đến gặp Lục Tổ, Tổ hỏi:
– Ở đâu đến?
Sư thưa:
– Từ Tung Sơn đến.
Tổ hỏi:
– Vật gì thế ấy đến?
Sư không đáp được. Trải qua tám năm Sư có tỉnh bèn đến Tổ thưa:
– Con có chỗ lãnh hội.
Tổ hỏi:
– Lãnh hội thế nào?
Sư thưa:
– Nói giống một vật tức chẳng trúng.
Tổ gạn lại:
– Có tu chứng chăng?
Sư thưa:
– Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô chẳng thể được.
Tổ bảo:
– Chỉ cái “chẳng nhiễm ô” này, là chỗ hộ niệm của chư Phật, ông đã như thế ta cũng như thế.
Qua chỗ đối đáp của ngài Hoài Nhượng, cho thấy Sư đã thật sự có chỗ sống đàng hoàng, không phải chỉ hiểu trên lý suông. Xem Sư trả lời: “Nói giống một vật tức chẳng trúng” chỗ chân thật đó vốn vượt ngoài mọi sự so sánh hiểu biết của thức tình phân biệt. Có chỗ so sánh tức thành cái bị biết rồi. Song Tổ còn e rằng Sư chỉ hiểu trên lý giải thôi mà chưa có chỗ thực chứng, nên gạn lại: “Có tu chứng chăng?” nếu là người kiến giải suông sẽ đáp ngay: “Không có tu chứng.” Vì nó không giống một vẫt thì tu chứng cái gì? Song với Sư thì trả lời chắc thật: “Tu chứng tức chẳng không, nhễm ô chẳng thể được.” Nghĩa là, tuy trong ấy nói giống một vật cũng không trúng, không thể so sánh hiểu biết được, mà không phải là chỗ nói suống, chỉ có trên ngôn ngữ. Trái lại, trong đó có thể chứng nghiệm rõ ràng, người có công phu chân thật khế hợp thì tự cảm nhận không nghi ngờ. Chỉ có một điều là “nhiễm ô nó chẳng thể được”, xưa nay nó vốn chưa từng bị nhiễm ô, cũng không có cái gì làm nhiễm ô được nó. Nếu làm nhiễm được nó, nó thành cái vô thường rồi! Đã nhiễm ô chẳng thể được thì nói tu chứng mà thực không có cái gì khác để tu, để chứng. Lời đáp rất đầy đủ cả hạnh và giải, vì vậy Lục Tổ vừa nghe qua liền ấn chứng ngay: “Chính cái chẳng nhiễm ô này là chỗ hộ niệm của chư Phật, ông đã như thế ta cũng như thế.” Nghĩa là, ông thấy thấu được như thế, là thấu được chỗ sống của chư Phật. Chư Phật thành Phật là do giác ngộ chỗ này và sống viên mãn, trọn vẹn trong đó mà thành thôi. Rời chỗ đó thì Phật hết là Phật, nên nói là chỗ “hộ niệm”, tức giữ gìn không thể sót mất. Ông đã như thế thì ta cũng như thế, tức chỗ thấy của ông khế hợp chỗ thấy của ta, không còn cách biệt, đó là ấn chứng, là truyền tâm ấn. Người đứng bên ngoài nghe nói truyền tâm ấn, liền tưởng tượng có cái gì đặc biệt để trao truyền khiến mình không hiểu nổi, từ đó nảy sinh ra những cách truyền lạ lùng bí mật. Quả là lầm lẫn ý Tổ, trở thành xuyên tạc và dối gạt lẫn nhau. Người học thiền phải chín chắn nhận rõ chỗ này!
* KHI NÓI KHÔNG CHỨNG ĐẮC
Trong nhà thiền khi nói vô sở đắc là có ý chỉ sâu xa trong đó.
+ Thứ nhất, là ngầm chỉ cái sẵn có. Nghĩa là, thể chân thật vốn là tự tánh sẵn có, không do công phu tạo tác bên ngoài mà thành, không do ai truyền trao cho được. Bởi vậy, với ngài Thần Tú: “Luôn luôn siêng lau chùi” là chỗ thấy còn trên hình thức công phu tạo tác bên ngoài, chưa thấu được chỗ “vốn chẳng thể nhiễm ô” nên chưa được vào cửa Tổ. Lục Tổ: “Xưa nay không một vật” thì có gì được mất trong ấy nữa? Liền đó được vào cửa.
Còn kia, Bá Trượng hỏi Mã Tổ:
– Thế nào là chỉ thú Phật pháp?
Mã Tổ đáp:
– Chính là chỗ ông bỏ thân mạng.
Muốn biết chỉ thú hay yếu chỉ Phật pháp, chính là chỗ bỏ thân mạng của ông. Chỗ đó làm sao hiểu? Tức phải bặt hết mọi chỗ nương tựa, không còn gì để bám víu, để suy nghĩ hiểu biết. Trong đó còn ai được? Được cái gì?
Xưa có vị Tỳ kheo hỏi Thế Tôn:
– Theo chỗ thấy của con thì đối trong pháp của Thế Tôn, vừa có chỗ chứng là chưa phải, vậy Thế Tôn sẽ chỉ dạy cái gì?
Thế Tôn bảo:
– Này Tỳ kheo! Ta sẽ chỉ dạy cái gì? Chính đó là câu hỏi của ông.
Lời Phật thật sâu xa thay! “Ta sẽ chỉ dạy cái gì? Chính đó là câu hỏi của ông”. Ngay câu hỏi đó chính là câu trả lời rồi, còn suy tìm cái gì khác nữa đều chẳng phải. Câu hỏi rất hay, câu đáp rất chính xác, người nhạy bén liền đó tự nhận là xong.
Kinh Kim Cang, Phật bảo Trưởng lão Tu Bồ Đề: “Thật không có pháp Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nếu có pháp Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, Phật Nhiên Đăng tức chẳng thọ ký cho ta: ông ở đời sau sẽ được thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni. Do thật không có pháp được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì vậy Phật Nhiên Đăng thọ ký cho ta, nói lời thế này: ông ở đời sau sẽ được thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni.”
Tức lúc đó Phật còn là vị Bồ tát, hiện thân làm đồng tử Thiện Tuệ cúng dường phật Nhiên Đăng năm cành hoa sen xanh, trải tóc lót bùn cho Phật đi qua, được Phật Nhiên Đăng thọ ký trải qua chín mươi mốt kiếp sau sẽ thành Phật ở cõi Ta bà này, hiệu là Thích Mâu Ni.
Người học trên văn nghĩa liền hiểu, do Phật Nhiên Đang thọ ký nên Phật Thích Ca mới được thành. Không ngờ đây là một ý nghĩa sâu xa vượt ngoài văn tự. Nếu thực sự có cái Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác để trao cho được, tại sao Phật Nhiên Đăng không trao cho ngay lúc đó đi mà phải thọ ký xa tít chín mươi một kiếp về sau này, lúc đó ai trao cho ai mà thành? Rồi thành với một cái hiệu là “Thích Ca Mâu Ni”. Phật ở cái hiệu đó chăng? Rõ ràng trong đây có ngầm ý chỉ: “Thành đó” là thành cái vốn sẵn có của phật Thích Ca thôi, Phật Nhiên Đăng không có trao cho một cái gì khác. Thọ ký chỉ là một phương tiện để xác chứng niềm tin vững vàng cho người, chớ không phải do thọ ký mới có được. Nếu thực sự có cái Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác để trao cho, thì ngay lúc đó Phật Nhiên Đăng đã trao cho đồng tử Thiện Tuệ rồi, đâu đợi phải thọ ký xa xôi về sau! Người tu Phật không thể lầm trên điểm này!
+ Thứ hai, nói không chứng đắc là trừ sạch tướng ngã. Bời người tu mà thấy có được Đạo, được ngộ, liền có tự đắc, tự mãn, tự kiêu trở thành thiền bệnh. Đâu biết, vừa thấy có được tức có nhiễm ô rồi! Là rớt bên ngoài cửa Tổ. Do đó, nhà thiền rất cẩn thận điểm này.
Như Hòa thượng Nam Tuyền, một hôm cúng trai Mã Tổ, Sư bèn hỏi trong chúng:
– Cúng trai Mã Tổ mà Mã Tổ có đến chăng?
Không ai trả lời được. Lúc đó Lương Giới còn là Sa di, liền bước ra thưa:
– Đợi có bạn liền đến.
Nam Tuyền bảo:
– Chú nhỏ tuy là hậu sanh rất dễ giũa gọt.
Sư liền thưa:
– Hòa thượng chớ ép kẻ lành thành đứa giặc.
Cúng trai Mã Tổ, hỏi: “Mã Tổ có đến chăng?” là hỏi Mã Tổ nào? Đây là ngầm chỉ pháp thân. Pháp thân thì không hình tướng nên đâu có đến đi. Nhưng nếu một bề trống rỗng không ngơ thì để làm gì? Lương Giới đáp: “Đợi có bạn liền đến.” Nghĩa là, tuy pháp thân vốn vô tướng mà không phải là rỗng suông, không ngơ. Trái lại nếu có bạn, tức đủ duyên, người có công phu khế hợp, thì nó liền hiện, liền tự cảm nhận ngay. Sư đáp rất khéo, nên ngài Nam Tuyền khen: “Tuy là hậu sanh rất dễ giũa gọt.” Nếu là người khác nghe vậy hẳn tự thấy hài lòng, thành mắc kẹt. Lương Giới tự biết mình, không bị lời nói bên ngoài lừa, nên thưa: “Chớ ép kẻ lành thành đứa giặc.” Nếu lầm nhận tiếng khen đó để lộ tướng ngã ra, tức liền thành bệnh, chớ vội vui mừng!
Cũng như trường hợp Thiền sư Nghĩa Huyền lúc còn ở với Hòa thượng Hoàng Bá. Một hôm Sư đang ngồi trước tăng đường, thấy Hoàng Bá đến, Sư liền nhắm mắt lại. Hoàng Bá làm thế sợ, rồi trở về phương trượng. Sư đi theo đến phương trượng lễ tạ. Thủ tọa đứng hầu bên cạnh, Hoàng Bá nói với Thủ tọa:
– Vị tăng này tuy là hậu sanh lại biết có việc này!
Thủ tọa nói:
– Ông Hòa thượng gót chân chẳng chấm đất, lại đi chứng cứ cho kẻ hậu sanh.
Hoàng Bá liền tự vả miệng một cái. Thủ tọa nói:
– Biết là được.
Chỗ đặc biệt trong nhà thiền là thế. Hoàng Bá cảm hứng, thuận tiện bên cạnh có Thủ tọa liền thốt lời khen Nghĩa Huyền. Thủ tọa không khen hùa theo mà nhắc khéo. Hoàng Bá tự thấy đã nói hớ rồi, nên tự vả miệng, không để cho người tự mãn, tự đắc. Đây là những kinh nghiệm cảnh tỉnh cho người, chưa gì đã tự mãn cho mình đã ngộ cao, ngộ sâu, cần nghiệm xét.
Có vị tăng hỏi Thiền sư Cư Độn:
– Người xưa được cái gì liền thôi đi.
Sư đáp:
– Như giặc vào nhà trống.
Sở dĩ được chỗ thôi dứt, được an ổn thật sự là do đâu? “Như giặc vào nhà trống” vậy là có được cái gì? Thấy có được cái này, có được cái nọ, chứa đầy một bụng là nguy. Nếu thấy có được là phải có mất, vì đó là chỗ cho giặc vào lấy của, thì hẳn là chưa “thôi đi” được. Phải tâm trống sạch như giặc vào nhà trống, không có gì để lấy thì nó tự bỏ đi. Cũng vậy, tâm bặt mọi niệm được mất, không chứa giữ một chút gì thì tự nó an, khỏi lo trừ dẹp. Trái lại,cứ lo tìm cầu chứa đựng đầy trong đó mà muốn an thì khó an. Ngươi muốn An phải nghiệm sâu, nghiệm kỹ chỗ này!
* KHI NÓI CÓ CHỨNG ĐẮC
Trong nhà thiền có lúc chư Tổ cũng thường nhắc nhở người tu: Phải thật tu, thật ngộ, thật chứng. Như Thiền sư Phật Giám bảo: “Tham phải thật tham, ngộ phải thật ngộ, hãy tham cứu cùng tột suốt đến đáy của giáo lý.” Vậy là thật có chứng chăng? Bởi đây là ý các ngài muốn nhắc người học, phải có công phu thực hành chân thật, có chỗ sống vững vàng, tránh rơi vào chỗ nói lý suông, thiền trên môi lưỡi. Tức là, chỉ lấy cái hiểu của chư Tổ làm cái hiểu của mình, chỉ lo lý luận mà không được mà không có thực sống. Để gõ tỉnh cho hạng người này nên các ngài bảo phải thực tu, thực chứng đàng hoàng mới có đạo lực thắng được nghiệp phiền não. Không phải nói thế là bảo chúng ta thấy thật có chỗ chứng, chỗ đắc.
Như Vương Thường Thị đến chỗ Lâm Tế, ông đi đến trước tăng đường xem xong, bèn bảo:
– Tăng cả nhà này có xem kinh chăng?
Lâm tế đáp:
– Chẳng xem kinh.
Ông hỏi:
– Có học thiền chăng?
Lâm tế đáp:
– Chẳng học thiền.
Ông hỏi:
– Kinh chẳng xem, thiền cũng chẳng học, cuối cùng làm cái gì?
Lâm tế đáp:
– Thảy dạy họ làm Phật, làm Tổ.
Người mới nghe qua, thấy có cao mạn hay không? Chỉ dạy làm Phật, làm Tổ thôi là sao? Đây là đánh thức tâm niệm lo đeo đuổi theo bên ngoài, bám vào công phu rỗng suông sanh diệt, phải thực sống trở lại sức sống chân thật. Làm Phật, làm Tổ đâu phải là chuyện nói suông mà được? Người không hiểu, lầm chấp theo chữ nghĩa, cho ta là tu cao làm Phật làm Tổ thôi, trở thành kiêu mạn, tự đắc, đó là bệnh. Cho nên chư Tổ thường nhắc: “Mạt vàng tuy quý, rơi vào tròng mắt cũng thành bệnh.” Mắt vốn là trong sáng, không chấp nhận chứa thêm một chút gì nữa. Bụi rơi vào cũng bệnh mà mạt vàng rơi vào cũng bệnh. Kinh Lăng Nghiêm Phật đã ân cần nhắc rõ: “Nếu khởi cái hiểu Thánh tức rơi vào bọn tà. Chẳng khởi tâm Thánh tức là cảnh giới lành.” (Nhược tác thánh giải tức thọ quần tà. Bất khởi thánh tâm tực thiện cảnh giới.)
Vừa khởi tâm chứng Thánh. Thấy mình là Thánh tức đi lệch ra ngoài rồi, là tạo cơ hội cho bọn ma xen vào, phá hoại huệ mạng của mình. Đó là điều phải luôn luôn nhớ! Do đó, các ngài nói “được” nhưng không cho chúng ta chấp có “được”, nhằm khiến mình quên công phu tạo tác, tự thể nhập tự tánh sẵn có muôn thuở. Bởi vậy, tuy thực chứng thực đắc không nghi ngờ, mà không thể lầm cho là thật có chỗ được, người học phải nhận kỹ!
Hòa thượng Hoáng Bá từng bảo: “Giả sử ông tu hành trải qua ba vô số kiếp, qua các địa vị, cùng người do một niệm chứng được, chỉ là chứng cái SẴN CÓ” Ngài Hoàng Bá xác định rõ ràng, dù người công phu lâu dài trải qua thời gian cả ba vô số kiếp, cùng người ngay một niệm hiện tiền đây chứng được, cũng chỉ là chứng cái sẵn có nơi mình thôi, kỳ thật không có cái gì thêm bớt sai khác. Bởi bao nhiêu công phu lâu dài kia cũng chỉ là “trở về chỗ sẵn có” này thôi. Nếu khởi một niệm “TA có cái riêng được hơn người” tức liền mê ngay!
III CĂN BẢN ĐÁNH THỨC TRỞ LẠI CÁI ĐANG HIỆN HỮU MÀ BỎ QUÊN
Nói “được”, nói “không có được” cũng là lời nói hai đầu, điểm cốt yếu trong đây là đánh thức cái chân thật đang hiện hữu nơi mình mà người tự bỏ quên. Nhận ra chỗ này liền ró nói “được”, nói “không có được” cũng thừa.
Kinh Lăng Nghiêm có dẫn chuyện Diễn Nhã Đạt Đa quên đầu. Một hôm Diễn Nhã Đạt Đa soi gương, thấy đầu mình trong đó đáng yêu biết mấy, chợt úp gương lại, không thấy bóng đầu mình đâu nữa, bèn phát cuồng chạy kêu: “Tôi mất đầu! Tôi mất đầu!” Câu chuyện chắc chắn có nhiều người nghe quá quen thuộc, có thể không muốn nghe lại. Song người thật sự có cảm nhận được ý nghĩa sâu xa trong ấy không mới là điều quan trọng! Đầu ở trong gương, úp gương lại không thấy, la mật đầu, phải nói sao đây? Đó là người gì? Chúng ta hiện tại có giống như thế chăng? Khi tâm nghĩ ngợi lăng xăng nói có tôi. Nghĩ ngợi lăng xăng lặng yên, liền bảo “mất tôi” rồi suy tìm! Thật quá lầm to! Có khác nào Diễn Nhã Đạt Đa ôm đầu chạy la mất đầu? Vậy ngay khi Diễn Nhã Đạt Đa chạy la mất đầu đó, làm sao cho y tỉnh lại? Chỉ cần “cú” mạnh vào đầu y bảo: “Đây là gì?” liền tự biết đầu vẫn còn nguyên có mất đi đâu! Như vậy, chính khi y chạy la mất đầu đó, cái đầu có mất chăng? Khi bị cú đầu tỉnh lại, có được chăng? Rõ ràng được mất chỉ là lời thừa.
Thanh Nhuệ, một hôm đến thưa với Hòa thượng Tào Sơn:
– Thanh Nhuệ nghèo thiếu xin thầy cứu giúp!
Tào Sơn bảo:
– Xà Lê Nhuệ! Hãy đến gần đây!
Thanh Nhuệ đến gần, Sư bảo:
– Ba chén rượu nhà họ Bạch ở Thanh Nguyên đã uống xong, còn nói chưa dính môi.
Thanh Nhuệ bảo nghèo thiếu, nhưng gọi đến gần, BIẾT đi đến gần thì có thiếu cái gì, lại than nghèo? Vì vậy Tào Sơn bảo: “Đã uống xong ba chén rượu, còn nói chưa dính môi” thật mâu thuẫn! Việc ấy quá rõ ràng như vậy, tại sao lại chối bỏ chẳng nhận? Nhận ra thì tự đầy đủ khỏi nói được mất.
Nếu người còn chưa rõ thì hãy nghe Hy Thiên đến gặp Thiền Sư Hành Tư ở núi Thanh Nguyên. Hành Tư hỏi:
– Ông từ phương nào đến?
Hy Thiên thưa:
– Dạ, con từ Tào Khê đến?
Hành Tư hỏi:
– Đem được cái gì đến?
Hy Thiên thưa:
– Chưa đến Tào Khê cũng chẳng mất.
Hành Tư bảo:
– Mặc tình dùng đi, đến Tào Khê làm gì?
Hy Thiên thưa:
– Nếu không đến Tào Khê đâu biết chẳng mất.
Quả thật, việc ấy vốn sẵn có, không đợi đến Tào Khê đợi chư Tổ chỉ bày mới có. Tuy nhiên nếu không đến Tào Khê, không nhờ chư Tổ chỉ bày, các thiện tri thức khơi dậy cho thì cũng không biết. Điều quan trọng là nếu trong đây thấy thật được, thật mất đều mê.
Như vậy, việc này không thể một bề nói cố định là có được, cũng không thể một bề nói cố định là không được, cốt yếu là người “NHẬN RÕ việc này” là xong, khỏi kẹt có không hai đầu.
IV. BẶT NIỆM PHÀM THÁNH, SẠCH KIẾN GIẢI.
Đến chỗ tột lý thiền là dứt bặt hết ý niệm phàm thánh, sạch mọi kiến giải có không đối đãi, trả lại tâm bình thường như thuở ban đầu chưa sanh, chưa có chút gì vay mượn. Đến đây mà còn một niệm phàm thánh đọng lại trong ấy tức còn bị quét.
Hãy nghe Hòa thượng Nam Tuyền sắp tịch, vị Đệ nhất tòa hỏi:
– Sau khi Hòa thượng trăm tuổi, sẽ đi về đâu?
Sư bảo:
– Làm con trâu dưới núi.
Đệ nhất tòa thưa:
– Con theo được chăng?
Sư đáp:
– Nếu ông muốn theo ta, phải ngậm theo một bó cỏ.
Ngươi mới nghe, có thấy lạ chăng? Tại sao tu hành như Sư mà sau khi chết lại làm con trâu? Thật là khó hiểu! Song chính chỗ không hiểu nổi của người, lại là chỗ sống của các ngài. Bởi Sư trong lòng thật rỗng rang sạch hết niệm phàm thánh mới nói được như thế. Đâu phải nói làm con trâu liền thành con trâu. Người theo ngôn ngữ sanh hiểu là lầm. Trong đây, người muốn thấy được chỗ đi của Sư lòng phải rỗng sạch mọi niệm sở đắc mới cảm thông được. Vì vậy vị Đệ nhất tòa hỏi: “Con theo được chăng?” thì Sư bảo ngay: “Nếu muốn theo phải ngậm theo bó cỏ”. Tức là, cũng phải sạch mọi kiến giải phàm thánh, có không, được mất trong lòng. Nói trắng ra, trong tâm không còn dấu vết để thấy.
Trong kinh Duy Ma Cật, Tôn giả Xá Lợi phất hỏi thiên nữ:
– Còn bao lâu nữa thì cô sẽ đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?
Thiên nữ đáp:
– Nếu như ngài Xá Lợi Phất trở lại làm phàm phu, chừng đó tôi mới thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Tôn giả nói:
– Tôi làm phàm phu, không có lẽ đó.
Thiên nữ nói:
– Tôi được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng không có lẽ đó. Tại sao? Vì Bồ đề không có chỗ trụ cho nên không có chỗ được ấy.
Tôn giả hỏi:
– Hiện nay chư Phật được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chư Phật đã được, chư Phật sẽ được nhiều như số cát sông Hằng, những việc như vậy sẽ nói thế nào?
Thiên nữ đáp:
– Thảy đều do văn tự thế tục ghi chép nên nói có ba đời, chớ chẳng phải Bồ đề có đời quá khứ, hiện tại, vị lai.
Chú ý! Nói có Phật quá khứ, Phật hiện tại, Phật vị lại đựơc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là do văn tự thế tục mà nói, không phải lý cứu cánh. Bởi Bồ đề mà có đã được, đang được và sẽ được tức thuộc về vô thường theo thời gian, không phải chân thật Bồ đề. Nói sẽ được, tức hiện giờ chưa có, sau này mới có hay sao? Cho nên người vừa thấy có được Bồ đề, liền mất Bồ đề. Đây là khiến người quên bặt niệm được mất, sạch hết kiến giải về Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì tự sống trong đó rồi, còn được gì nữa? Vì Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ở ngay tâm người, không có ở đâu khác mà được. Người chưa quên cái hiểu về Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tức còn cách biệt với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không thể chối cãi.
Với ý nghĩa trên, khi Linh Huấn từ giã Hòa thượng Quy Tông đi, Quy Tông bảo:
– Ông đi đâu?
Linh Huấn thưa:
– Đi về Lãnh Trung.
Quy Tôn bảo:
– Ông ở đây nhiều năm, sửa soạn hành lý xong hãy đến đây, ta sẽ nói cho một câu Phật pháp cao tột.
Linh Huấn thu xếp hành lý xong, liền đến trước Quy Tông. Quy Tông bảo:
– Hãy đến gần đây!
Linh Huấn đến gần. Quy Tông bảo:
– Trời lạnh, đi đường hãy bảo trọng!
Sư nghe lời này liền quên hết chỗ hiểu trước.
Ai thấy Phật pháp cao tột ở chỗ nào? Bởi Linh Huấn ở đây nhiều năm, tức đã có nhiều kiến giải rồi. Hòa thượng Quy Tông khéo léo khêu gợi lòng mong mỏi của Linh Huấn. Nghe nói Phật pháp cao tột, Sư hẳn tưởng sẽ nghe được một câu gì đó thật tuyệt điệu. Không ngờ đến lúc ấy, chỉ nghe một câu bình thường giản dị, dường như không có gì là Phật pháp cả, chỉ là lời chúc lên đường thôi! Bao nhiêu mong đợi liền cắt đứt. Ngay đó Sư quên hết mọi chỗ hiểu từ trước, trả lại một tâm nguyên vẹn thuở nào, chưa từng xen ý niệm gì khác. Chỗ sống của Thiền là đấy! Còn đòi hỏi cái gì thêm nữa? Ai ai cũng đều có một chỗ sống chân thật nguyên vẹn ấy, sao lại không nhận, lại cứ lo đuổi tìm Hiểu Biết này nọ lăng xăng để Tạo Thành cái tri kiến ngã mạn, kiêu căng, rồi tự hào trên đó lấy làm của mình? Nên nhớ, đối trong lý tột của Phật pháp, vừa thấy có TA HIỂU, TA BIẾT, là ngay đó rơi vào đường tà rồi. Không tỉnh ngộ, lại còn bảo vệ nó nữa, là cách xa Phật pháp dù nói hay cách mấy! Người có đạo tâm chân thật không thể mê mờ điều này!
V.TÓM KẾT
Tu thiền là sống lại ngay chính mình từ thuở nào, không có thêm cái gì khác nữa. Dù nói chứng, nói đắc cũng là danh từ thôi, không thể ở trên những cái tên đó mà sanh tâm chứng đắc là Mê. Bởi ai ai cũng đều đang sống trong cái Ngã Tướng, nên luôn luôn thấy có một cái TA đi theo bên mình, do đó thường thấy có được, có mất. Cái gì được mất? TA được, TA mất chứ gì? Nếu thật sự quên cái TA đi, dứt sạch ý niệm sai lầm đóng khung trong cái ta tưởng tượng ấy, đã không có ta thì lấy gì được mất? Ngay đó liền tự giải thoát, tự tại đi trong thế gian không thể nghĩ bàn.
Kìa, Động Sơn hỏi Hòa Thượng Long Sơn:
– Hòa thượng được đạo lý gì bèn về ở núi này?
Hòa thượng Long Sơn đáp:
– Ta thấy hai con trâu đất húc nhau nhào xuống biển, thẳng đến nay bặt hết tin tức.
Vậy là Hòa Thượng Long Sơn đã được cái gì? Động Sơn hỏi được gì, là muốn nghiệm xét chỗ chứng, chỗ sống của Sư thế nào. Gặp Sư thì chỗ thấy dứt bặt dấu vết, tin tức cho người thấy được. Hai con trâu húc nhau nhào xuống biển mất hết tin tức, là bặt dấu vết chủ khách, chỗ nào có thể dòm lén? Chính đó mới là chỗ sống thực của thiền sư. Còn người cứ lo phô bày kiến giải của mình, khiến người vừa nghe đã thấy tin tức rồi, đó là dấu vết tướng Ngã lộ bày, phải khéo soi trở lại !
Chuyện Nam Tuyền thăm Trang sở là một ý nghĩa sâu sắc để cảnh tỉnh chỗ này. Một hôm Sư đến thăm Trang sở, Trang chủ chuẩn bị nghinh đón đàng hoàng. Sư hỏi:
– Lão tăng bình thường ra vào chẳng cho người biết, tại sao hôm nay có việc bày biện thế này?
Trang chủ thưa:
– Hôm qua thổ địa mách sáng nay có Hòa thượng đến.
Sư nói:
– Vương lão sư tu hành vô lực, bị quỷ thần trộm thấy.
Thị giả hỏi:
– Hòa thượng là thiện tri thức, vì sao bị quỷ thần trộm thấy?
Sư bảo:
– Trước thổ địa để một phần cơm.
Như vậy Nam Tuyền tu hành còn dở phải chăng? Người nhiều kiến giải sẽ cho là như thế, vì còn bị quỷ thần trộm thấy. Không ngờ chính mình còn mê! Bởi nghe Nam Tuyền bảo: “Vương lão sư tu hành vô lực, bị quỷ thần trộm thấy.” bèn sanh hiểu, nghĩ là Sư tu còn dỡ, vậy mình hay hơn chớ gì? Đâu biết, Nam Tuyền nói như thế, là ý ngầm nhắc người tu thiền chớ có thấy theo chỗ thổ địa thấy đó, mà phải thấy đến chỗ thổ địa không thể thấy kia kìa! Thấy được chỗ này mới thật thấy được ta! Bởi vì thổ địa thấy đó, là có thật thấy Nam tuyền chăng? Đó chỉ là cái thấy bóng của Sư thôi. Nếu người đến với Sư mà cứ thấy theo thổ điạ là thấy trộm, là dòm lén, tức thấy tà, chớ không phải thật thấy được Sư. Yù Nam Tuyền là như thế! Chớ vội đem tâm phân biệt của phàm phu mà phê bình hay dở, là phô bày chỗ mê của mình!
Vậy cuối cùng tu thiền có chứng đắc hay không? Đây xin dẫn vị tăng với tôn giả Nghiêm Dương để mọi người tự rõ.
Tăng hỏi Tôn giả Nghiêm Dương:
– Phật là gì?
Sư đáp:
– Cục đất.
Hỏi: – Phật là gì?
Đáp: – Đất lăn.
Hỏi: Tăng là gì?
Đáp: Ăn cháo, ăn cơm.
Mặc cho mọi người có bao nhiêu kiến giải hiểu biết hãy đem ra hiểu xem! Cuối cùng, câu trả lời ở đâu? Đây là phần để dành lại cho mọi người!
Thiền Bệnh
Thiền vốn không bệnh, có bệnh sao gọi là thiền? Tuy nhiên, do người thực hành công phu nghiêng lệch, tâm vội vàng hấp tấp không thể nhận sâu lý thật, được ít cho là đủ, tạo cơ hội cho tính chấp ngã được nuôi dưỡng sống còn nên trở thành bệnh hoạn trên đường tu, nếu không kịp thời tỉnh giác thì nhân quả sẽ đến khó lường trước được!
Bởi lý thiền quá gần gũi, xác thật, người nhận ra chỉ trong chớp mắt nhưng sống được trong ấy hẳn không phải một ngày, hai ngày là xong. Người mới thấy dễ lầm Phật nhân thành Phật quả.
Thiền lại chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật, lấy tự tin làm gốc, nên người không khéo nhận dễ thành kiêu mạn, cho TA là trên hết. Trong đây chỉ nêu một ít bệnh thường gặp, thường có để giúp cho người thực hành ngừa tránh, không rơi vào lối tẻ, đường ma mà thành tựu sức sống trọn vẹn.
I. BỆNH CHẤP LÝ BỎ SỰ, NGHIÊNG LỆCH MỘT BÊN
Người học thiền hấp tấp cứ nghĩ thiền là vượt ngoài đối đãi, không tu không chứng, vốn không có một pháp thật cho người thì có gì để làm, để học? Do đó, thấy người ngồi thiền thì chê là chấp tướng, thấy kẻ lễ Phật thì cười là hình thức, thấy kẻ nghe giảng thì bảo là mê chữ nghĩa v.v… trái lại tự mình sống buông thả như người tầm thường không tu, cho đó là TA đạt thiền. Đây là bệnh nghiêng lệch bên lý, thiếu sức sống thật.
Hãy xem Lục Tổ gạn hỏi Hoài Nhượng:
– Có tu chứng chăng?
Hoài Nhượng thưa:
– Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô chẳng thể được.
Với chỗ thấy của ngài Hoài Nhượng thì không hoàn toàn bác bỏ tu chứng đã biết chỗ rốt ráo đó vốn không một vật gì có thể so sánh nhưng phải công phu thực hành sâu xa mới chứng nghiệm được, đâu phải để tự nhiên mà biết. Song tuy nói tu chứng nhưng thực ra nó vốn chưa từng có gì nhiễm ô được nên cũng không có chỗ để tu, để chứng, để được gì thêm nữa. Đây, chính là người có công phu thực sự mới nói lên được rõ ràng như thế. Nếu người kẹt trên lý suông thì khi bị gạn hỏi như thế hẳn sẽ đáp: “Không có tu chứng” vì không có một vật gì có thể so sánh thì tu chứng cái gì? Tuy nhiên với người có chỗ sống chân thật, nghe nói thế liền biết ngay, người này chỉ thấy một bên lý, chưa có sức sống thật sự. Người tu thiền chân chánh cần xét kỹ điểm này, chớ để nhân lành thành quả dữ!
II. BỆNH TRI GIẢI – THIỀN NÓI
Hòa thượng phù Sơn Pháp Diễn nói với Đạo Ngô Chân rằng: “Người học đạo chưa đến nơi đến chốn, tự khoe thấy nghe, đuổi theo hiểu biết, dùng miệng lưỡi để hơn thua nhau, khác nào nhà xí bồi đồ nhơ nhớp chỉ làm tăng thêm mùi hôi thối mà thôi.”
Đây là, cứ lo hơn thua trênc ái miệng, đề cao cái Hiểu Biết của mình mà quên mất công phu thực tu, thực chứng. Đó là bệnh NÓI THIỀN, cần phải tránh!
III. BỆNH KIÊU NGẠO NGÔNG CUỒNG
Người có công phu thấy được chút ít lẽ thật, vội chấp vào đó là sở đắc của mình, chưa có sức sống chân thật sâu xa nên sanh tâm kiêu mạn. Thấy mình là hơn tất cả, vì ít ai có chỗ thấy được như mình. Nếu không sớm tỉnh, lâu ngày thành thói quen, thấy trước mắt như không người, chẳng có ai BIẾT ta, chỉ TA biết TA thôi, bèn trở thành ngông cuồng, xem thường nhân quả, rất nguy hiểm.
Như trong hội chúng của Thiền sư Bạch Ẩn có một ông tăng điên nghĩ rằng mình đã chứng đạt nhứt tính với Phật. Ông xé kinh sách và dùng làm giấy vệ sinh bị Bạch Ẩn quở trách (xem phần Một Sức Sống sáng tạo).
Thiền sư Quảng Trí bảo: “Miệng nói niệm Phật, tụng kinh, lễ lạy là Tiểu thừa chấp tướng, dạy người tu tập, còn chính mình thì ngồi chơi. Hoặc suốt năm chẳng lạy một vị Phật nào, chẳng một lần lễ sám hối, chẳng tụng một bộ kinh. Trái lại, những sách vỡ thế gian không cần thiết thì ghi chép, hạnh người tu không làm việc thế tục mà làm, xưng là bác học. Khinh rẻ quả Phật không chịu tu, cũng không cần làm chút điều lành. Khiến cho trẻ nhỏ hậu sanh ra vẻ thông minh, chỉ tìm kiến giải, vừa có chỗ hiểu biết liền cho là một nhảy thẳng vào, còn gì phải nói. Rồi ngông cuồng, ngạo mạn, cống cao trừng trợn, miệng nói bừa bãi, thân không chọn bạn. Chẳng nghĩ đến tình dục thế gian vẫn đầy tràn không ngằn mé, thế nào lại dùng lời hoạt bát mà phá vỡ cửa nhân quả! Tự làm, làm lầm mọi người, đâu tránh khỏi bị chìn đắm. Nếu chẳng bị ma thâu nhiếp, nhất định phải đọa mãi nơi tam đồ, chịu cảnh núi đao rừng kiếm để đền lại cái nhân trước kia và mang lông đội sừng để đáp trả cái quả sau đó.”
Người biết rõ nhân quả, nghe đến chẳng rùng mình sao?
IV. BỆNH CHẤP KHÔNG, KHINH THƯỜNG NHÂN QUẢ
Bởi chấp lầm theo kiến giải thô cạn, nghe chỗ lý tột của thiền là bặt niệm đối đãi, không tướng phàm thánh, thiên đường địa ngục có thể được, bèn mặc tình mắng Phật, chửi Tổ, chê kinh. Song, đó chỉ là nghe hiểu, mà Tâm thật chưa đến, vội đi chê bai tất cả, không ngờ thân mình lọt vào lưới mà mà không hay biết.
Thiền sư Quảng Trí bảo: “Những người học đạo, nếu như hiện hành chưa đoạn, tập khí phiền não lại sâu đậm, ghé mắt sanh tình, chạm trần thành trệ, dù rõ xong ý nghĩa sanh tử, mà sức kia chưa đủ, chẳng thể chấp rằng: Ta đã ngộ xong, phiền não tánh là không, nếu khởi tâm tu lại là điên đảo. Thế nhưng, tánh phiền não dù không, mà hay khiến thọ nghiệp. Nghiệp quả không tánh, mà cũng tạo nhân khổ. Khổ đau tuy hư dối, vậy mà khó nhẫn là sao?”
Nghĩa là miệng nói không mà tâm chưa không thì đâu tránh khỏi nhân quả, chớ bảo là hoàn toàn không có gì.
Ở một đoạn khác, thiền sư Quảng Trí lại bảo: “Người xưa nói: – Kẻ học đạo dòm thấy một chút pháp không, rồi nghe người tụng kinh, niệm Phật, lễ bái, thực hành các thứ hạnh, liền bảo: pháp lìa danh tự, nếu theo danh giả thuyết quyền, càng thêm hư vọng. Đây là hạng người trong tâm ngoài miệng trái nhau. Đâu chẳng thấy kinh Lăng Nghiêm nói: Nếu ở trong định kia, các thiện nam thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm sáng tỏ, tự cho mình đã đủ, thì có một phần đại ngã mạn, bị ma nhập tâm phủ. Họ bảo, một niệm vượt qua ba vô số kiếp, trong tâm còn xem thường cả mười phương Như Lai, huống chi hàng Thanh Văn, Duyên Giác ở bậc dưới. Chẳng lễ tháp miếu, khinh thường kinh tượng, cho đây là đồng, vàng, gỗ, đất. Và bảo nhục thân là chân thường mà chẳng tự cung kính, lại đi sùng mộ gỗ đất, thật là điên đảo. Quả làm nghi lầm người sau vậy. Phải biết, chấp không mà phá tướng như thế, đều là quyến thuộc của ma. Mặc cho tất cả đều không, sanh không, tử cũng không, nhưng vua Diêm La chẳng không thì làm sao đây? Thật đáng thương xót!”
Đó gọi là Si không, mê lầm nhân quả, là bệnh chẳng phải thiền, cần phải tránh!
V. BỆNH TỰ MÃN DỪNG BƯỚC GIỮA ĐƯỜNG
Người học được một ít lý thiền, hiểu được một vài công án, liền tưởng mình đã đạt thiền, đã đủ vốn liếng không cần học hỏi, tìm hiểu, thưa thỉnh gì thêm. Không ngờ tập khí ngã mạn ngấm ngầm nổi dậy, thấy TA hơn người, TA tự đầy đủ, TA biết hết rồi..v.v… thành mở đường cho cái TA sống dậy mà không hay biết. Sự thật cái hiểu của mình có được bao nhiêu, so với mười trí của Phật đã được mấy cái mà vội tự mãn quá thế? Đây là bệnh chẳng phải thiền.
Thiền sư Tâm ở Hoàng Long, sau khi đại ngộ, Sư vẫn sống chung lộn với chúng và thường hay tìm hiểu dứt khoát về lời nói của Vân Môn. Hòa Thượng Huệ Nam thấy vậy bèn hỏi:
– Đã biết việc này rồi thì thôi, ông còn dụng nhiều công phu nữa để làm gì?
Sư thưa:
– Dạ, chẳng đúng. Hễ còn một mảy may nghi ngờ là chưa đến hàng vô học, đâu thể tự do tung hoành xoay trời chuyển đất được.
Hòa Thượng Huệ Nam công nhận.
Kinh nghiệm của người thực sống, thực hiểu đầy đủ là như thế. Người chân thật có đạo tâm cần thấy rõ!
VI. TÓM KẾT
Thiền sư Quảng Trí bảo: “Pháp tánh không bờ mé, biển hạnh khó đo lường. Vì vậy, hoặc trong sát na hành đủ vô số kiếp, hoặc hằng hà sa kiếp chưa hết một niệm. Đều bởi, người có hiền ngu, căn cơ có lợi độn, mà ngộ có chậm mau vậy. Hoặc đã ngộ nhập thôi dứt quá sớm, trí chẳng vào tới đạo vi diệu, thì khó thắng nổi tập khí. Nếu một niệm chẳng hết sạch, tức là cội gốc sanh tử, sẽ bị gió nghiệp lôi đi, trở lại vào trong bào thai thân sau.”
Nói chung, người tu thiền phải luôn luôn thấy rõ chính mình trong mọi trường hợp, không để một chút bóng tối chen vào khiến che mờ chân tánh. Điều nên nhớ là, mình đang sống trở về tánh chân, thì phải chân thật với chính mình , không thể dối mình bằng lý này, lý nọ. Một điểm quan trọng nhất không thể lầm lẫn là, phải luôn luôn sáng ngời không để tướng ngã xen vào mà không hay biết. Có tướng ngã vào, nhất định là bệnh, dù lý luận bao che cách mấy cũng không khỏi! Mà chúng ta đều là những người hiện còn đang tu, chưa phải đến quả cứu cánh thì ai dám bảo là hoàn toàn sạch hết tướng ngã? Đã chưa thật sạch hết thì dám tự hào hay sao? Vừa có niệm tự hào, thì chính nó đã hiện ra rồi, đâu thể che mắt được bậc thiện tri thức! Cần phải một phen sáng, là sáng mãi tột mé vị lai không cùng tận, chẳng dừng lại ở bất cứ chỗ nào. Mong huynh đệ chúng ta hãy cẩn thận!