TAM ĐÀN TRUYỀN GIỚI
Thích Thiện Phước dịch
Lời Người Dịch
Kinh Niết Bàn chép: “Tại gia chật hẹp giống như lao ngục, tất cả những phiền não đều do đây mà sanh; xuất gia rộng rãi như hư không, hết thảy pháp lành nhờ đó mà tăng trưởng”. Tuy là như thế, nếu như không có tịnh giới, thì các công đức lành đều không do đâu mà được.
Nói đến lẽ cốt yếu của việc xuất gia, thì giới hạnh làm đầu; nhân duyên chánh để thọ giới, thì y bát là gốc. Bởi do dáng dấp của đệ tử Phật, khác xa trần tục; tâm lượng của đệ tử Phật, chẳng giống thường tình. Phàm người xuất gia tu học, muốn hoằng pháp lợi sanh báo Phật ân đức, hướng về nẻo chơn, rửa sạch thể phàm, luyện thành pháp khí, cắt sạch cỏ ái, phát khởi tâm hoa, bừng khai tánh giác, thì điều trước hết phải viên thành cụ giới. Vì giới là cửa ngõ ban đầu để tiến vào cửa ngõ Niết Bàn tịch tĩnh.
Tuy rằng bản thể giác ngộ luôn tròn sáng, vốn không sanh diệt, nhưng vì bị tình trần che lấp đã lâu, nên mới có phân thánh phàm riêng biệt. Vì thế, việc gấp là cần phải sớm giác ngộ, tiến tu trong mọi thời khắc. Nếu chưa dứt nhiễm tâm, thì ác nghiệp theo đó mà sanh; còn định niệm khi đã hiện tiền, thì phạm hạnh mới lập.
Muốn được vậy, thì bước đầu tiên phải đàn nghi truyền thọ như pháp. Ngõ hầu được dự vào hàng tối thắng, bước lên ngôi vị cao siêu. Để rồi từ đây thâm nhập thiền định, khơi mở cội gốc trí tuệ; quán thân tâm như huyễn, năng sở rỗng không; rõ biết tự tánh chơn thường, các pháp xưa nay không thật; một niệm tương ưng, lý quán sạch làu; thật chứng vô sanh, tội hoa rụng hết; thoát khỏi hố sâu tình ái, thân cận pháp mầu ly dục; rõ suốt nhất chơn, trọn thành phật đạo. Nhưng tất cả không ngoài ba môn giới định huệ. Vì tuệ do định phát, định nhân giới sanh.
Quyển Tam Đàn Truyền Giới Chánh Phạm nầy thật là khoa nghi của bảy chúng, nội dung nói về những nghi tắc lúc lâm đàn sư tư truyền thọ. Ngõ hầu giúp cho hàng tân học viên thành giới hạnh, chứng nhập vô sanh.
Ngày Phật thành đạo Kỳ Sửu
Thích Thiện Phước
LỜI TỰA
BỘ TRUYỀN GIỚI CHÁNH PHẠM
Hay thay, Liễu Hà Đông nói: “Nho lấy lễ lập nhơn nghĩa, Phật lấy luật giữ định huệ”. Cho nên đức Phật Thế Tôn ta, năm thời xướng giáo, trước Phạm Vương ở nơi các kinh; tại rừng Song Thọ thu ánh sáng, gởi lời vàng nói giới học.
Cho nên giới là con mắt của trời người, là bến bờ của phàm thánh, thật không có thuyết nào khác vậy. Giờ pháp mai một đã lu, đến nỗi giới đàn trở nên đóng kín. Tổ phụ tôi là Linh Cốc, Thiên Hoa, hai vị lão nhơn nầy nương sức đại nguyện, lại mở ra rộng ri, khắp nơi đều biết vâng thọ, đạo của Nam Sơn nhờ vậy mà được phát triển hưng thạnh. Nhưng đến khi tiên sư về Tây, chủ luật không người, ba học chao đảo, chẳng biết tông chỉ để kính nương. Giáo thọ bổn sư tôi, là Hòa thượng Kiến Nguyệt Độc Thể, tâm kiên cố như sắt đá, đ đầy đủ cốt cách kim cang, tinh tường năm bộ, nên đã kế thừa làm chủ chốn Thin Hoa. Ngày nay, ở trong hải hội truyền giới, khai đàn nhiều nơi, nhưng khi khảo hạch về học xứ thì lờ mờ, dường như chưa từng nghe đến, xem oai nghi khuôn phép, thì biếng nhác mất đi chuẩn tắc, lo lắng suốt bảy ngày mới xong ba đàn. Đại tiểu thừa không phân biệt, hai bộ Tăng Ni không khác; tâm khinh thường việc phát lộ sám hối, cho Yết Ma là chuyện lỗi thời. Không hiểu pháp khai giá, vấn nạn thì làm qua loa cho có chuyện, nhận thấy rằng khi giải tán xong một đợt thì chỉ là việc nêu tên và được đắp y phước điền; ba nghiệp uổng phí, giới bổn tóm về để ở gác cao, xem giới pháp của các bậc thánh sánh đồng với trò hề trẻ con, nhân thế mà Tỳ Ni bại hoại vậy. Hòa thượng thương xót tình cảnh ấy, nên bên trong thì kính trọng vâng làm, bề ngoài thì nghiêm trì tác pháp, và gồm cả việc miệt mài trước thuật, để lại lợi ích cho người sau. Còn việc bố tát của hai thừa, trong luật chế nhằm ngăn hành nghi bên ngoài của Tăng. Ngài lại soạn tập bộ Truyền Giới Chánh Phạm, làm phép tắc của ba đàn, lớn nhỏ có điều lệ, và làm khoa nghi của bảy chúng, rõ ràng không rườm rà. Chuyên cần khai thị nên trí ngu đều lấy đề hồ rưới,vì kính cẩn Yết Ma mà việc khinh trọng chọn lựa từng li từng tí, không trái bổn xưa, siêng năng ra tên hình như bảy việc của Hô Đà, qua giáp chợt vậy mà đổi mới, giúp thêm ánh sáng cho ba quân, tinh kỳ một biến. Thật l, Nam xa cho thiên tụ, mặt trời sáng cho Mộc Xoa vậy.
Bổn này lưu truyền dùng làm chương trình, chẳng phải riêng chuyên môn dành cho người hoằng luật, răn bảo có phép tắc, tức thiền luật đều hành trì, đều biết qui củ, đàn pháp từ đây hình thành, lại chẳng phải là những điều vạt vạnh dài dòng.
Người xưa nói: “Ba đời lễ nhạc đều ở đây vậy”. Phàm căn cứ vào đây mà đăng đàn, thế còn hai lợi ích, nên mến mộ luật tinh nghiêm; pháp sợ thất phi ác, thì sự giản lậu của giới sư căn cứ theo đây mà đến được vậy.
Ngày tỵ thượng tuần tháng ba Âm lịch năm Canh Tý đời vua Thuận Trị, Thiên Hoa đồng môn đệ tử là Giới Hiển cúi đầu bái đề tại núi Vân Cư Nam Khang.
Lời Chú:
Thất phi: Phi pháp phi tỳ ni, phi pháp biệt chúng, phi pháp hoà hợp, như pháp biệt chúng, pháp tương tợ biệt chúng, pháp tượng tợ hoà hợp, ha bất chỉ.
Cô Tẩy: Nguyên bản khắc là “Thỉ Tẩy” chỉ đầu tháng ba âm lịch. Tháng ba gọi là cô tẩy, là vì cô là củ vậy, còn tẩy là mới mẽ. Ý nói muôn vật đều bỏ cũ mà được mới, đâu chẳng xanh tươi sáng rỡ. (Theo Hán Ngữ Đại từ điển quyển 4, trang 316).
Thượng Tỵ: Là tên gọi thời tiết khi xưa. Đời Hán lấy ngày tỵ của thượng tuần tháng ba Âm lịch, cho là Thượng Tỵ. Nhưng kể từ đời Ngụy Tấn trở về sau, thì dùng ngày mùng ba tháng 3 Âm lịch, không hẳn lấy nhằm là ngày Tỵ (Theo Hán Ngữ Đại từ điển quyển 1, trang 226).
TAM ĐÀN TRUYỀN GIỚI CHÁNH PHẠM
Núi Bảo Hoa đất Kim Lăng Ti luật sa môn Độc Thể soạn.
QUYỂN MỘT
Đàn thứ nhất trước khi muốn trao giới Sa Di, trước hết là thỉnh giới sám hối.
1. PHÁP TỊNH ĐƯỜNG TẬP CHÚNG
Phàm muốn tác pháp, trước hết phải kết giới, nếu ba lớp giới tướng như pháp, không có các chướng ngại, thế mới thành tựu tất cả. Cho nên trong luật Phật dạy, phàm nơi Tăng ở, nhất định phải nương vào pháp kết giới, như vậy Tăng là người hoằng luật chế, sao dám vượt qua?. Người mới phát tâm, vào già lam theo Tăng xin giới, trước phải tập Tăng xướng phương hướng kết giới xong. Kế đến là thỉnh hòa thượng hứa khả ấn định ngày rồi mới thỉnh bạch dẫn lễ sư, tập chúng ở tịnh đường. Kế đó khải bạch hai vị A Xà Lê rồi mới được vào tịnh thất lễ thỉnh. Lúc ấy nên đuổi người cầu giới ra đến chỗ mắt thấy tai không nghe. Nếu trú xứ đã hành trì luật lâu, giới trường đã ấn định sẳn, thì không cần phải xướng tiêu tướng kết giới nữa.
Mấy ngày trước khi thọ Sa di giới, dẫn lễ sư sai tịnh nhơn bao sái, quét dọn pháp đường, ở chính giữa trải một tòa, thắp nhang đèn cúng dường. Đến giờ sai tịnh nhơn đánh kiền chùy, nếu không có tịnh nhơn thì sai Sa di cũng được, đánh kiền chùy định số, nên căn cứ theo Tăng pháp trong luật. Tất cả đều có chuẩn mực nhất định, nay chỉ tập tiểu chúng, chỉ cho ba người trở lại, ngoài ra như trong luật chế không cho nhiều hơn. Những người cầu giới nghe tiếng kiền chùy đánh, tập họp đại chúng xong, trước hết chọn bốn người đến chỗ dẫn lễ sư lạy một lạy, sau đó thỉnh lên pháp đường, chúng cầu xin thọ giới, cùng nhau lạy ba lạy, đứng dậy. Trong đó chọn ra một người quỳ gối chắp tay bạch rằng:
Chúng con mỗ giáp… nay phát tâm, dốc lòng cầu thọ tịnh giới, do vì trần tình từ lâu che lấp, không rõ phép tắc, cúi xin chư dẫn lễ sư, không từ lao nhọc, dũ lòng hướng dẫn cho chúng con.
Dẫn lễ đáp:
Lành thay! Các vị là những người mới vào cửa giới luật, nghi tắc không rành, tôi nay giúp các vị khải bạch hai thầy. Nên cung kính đến phương trượng lễ thỉnh hòa thượng để được khai đạo, chờ đến lúc lên tòa, trao cho các vị mười giới Sa di. Vậy bây giờ trong chúng nên chọn ra một người, hướng dẫn bốn người nữa theo tôi để khải thỉnh hai thầy, còn bao nhiêu thì đứng nguyên vị trí.
(Tất cả đại chúng đều hướng đến dẫn lễ sư lạy một lạy, đứng dậy chia ra 2 bên phải trái).
2. KHẢI THỈNH HAI THẦY.
Nếu căn cứ theo luật chế, người thọ mười giới Sa di, chỉ cầu thỉnh Hòa Thượng và Yết Ma A Xà Lê, không có thuyết thỉnh Giáo Thọ A Xà Lê, nhưng luật dạy khi độ Sa di thập giới nói tóm có ba loại:
1.Từ 7 tuổi đến 13 tuổi, thuộc loại Khu Ô Sa Di.
2.Từ 14 tuổi đến 19 tuổi, thuộc loại Ứng Pháp Sa Di.
3.Từ 20 tuổi trở lên, đều thuộc loại Danh Tự Sa Di.
Ngày nay các người cầu thỉnh giới, tuổi đã ngang hàng với danh tự, bổn ý muốn thọ cụ giới làm Tăng, cho nên nhờ danh vị của Sa di để tăng tiến lên đại giới tỳ kheo. Nếu chẳng có giáo thọ, thì oai nghi chẳng rành, cho nên cần phải thỉnh. Giả như chỉ có hai loại thọ Sa di trước, thì vẫn tuân thủ theo luật chế, chỉ thỉnh hai thầy xuống pháp đường tới lui kia đây, chớ nên tạp lộn lẫn nhau, nhằm dễ bề răn dạy người mới học.
Vị dẫn lễ đem hai người đến liêu Yết Ma sư, đến đó xong, dẫn lễ trước hết là hướng đến Yết Ma sư lạy một lạy rồi đứng sang bên trái, bảo hai giới tử ấy lạy ba lạy. Sư nhận lời cầu thỉnh rồi bèn đi theo đến pháp đường, còn việc thỉnh Giáo Thọ cũng giống y như vậy.
Dẫn lễ bảo:
Này các thiện nam tử, các vị cùng nhau lạy ba lạy, quì gối chắp tay (Dẫn lễ bạch thay cho giới tử rằng).
Nay có các tịnh nhơn mỗ giáp… này, muốn đến đây xin hầu, cầu thọ mười giới Sa Di. Nay thỉnh Yết Ma sư đồng đến phương trượng, khải bạch hòa thượng đại từ dũ lòng giúp đỡ, cúi xin Yết Ma Sư dũ lòng phương tiện, xót thương hứa khả.
Yết ma sư bảo:
Này các thiện nam tử! Lòng tin vào giới khó phát, còn việc giữ gìn chí hướng càng khó hơn. Các vị đã phát tâm thọ giới, mong muốn thanh tịnh hành trì, đều là do đời trước có trồng nhân lành. Cho nên nay gặp thắng hội này, tôi sẽ vì các vị đi đến phương trượng khải bạch hòa thượng, thành khẩn cầu thỉnh, để ngài trao cho các vị mười giới Sa di.
Dẫn lễ bảo:
Các giới tử nghe tiếng khánh đứng dậy lạy ba lạy sau đó phân ban.
Người nghinh thỉnh đưa Yết Ma sư trở về liêu, sau đó đi thỉnh Giáo Thọ sư. Cách thức giống như trên, chỉ trong văn bạch sửa đổi chữ Yết Ma thành Giáo Thọ mà thôi.
Giáo Thọ sư nói:
Này các thiện nam tử! Lòng tin là cội nguồn để vào đạo, còn giới chính là gốc rễ để thành tựu thiện nghiệp. Các vị đã bỏ nhà thế tục, cầu thọ tịnh giới, thì cội nguồn có căn cứ, công đức xuất thế tự nhiên phát sanh. Vậy phải dốc lòng siêng năng, cẩn thận trước sau. Đây thật là duyên lành khó hội ngộ, hạt giống lành do đây mà sanh trưởng. Tôi sẽ vì các vị đến phương trượng khải bạch hòa thượng, cầu thỉnh ngài trao cho các vị mười giới Sa di.
(Cách thức hành lễ cũng giống như trên).
3. THỈNH GIỚI SƯ KHAI ĐẠO.
Xét Tát Bà Đa, Tỳ Bà Sa luận chép:
Phàm người muốn thọ giới, trước phải thuyết pháp cho họ nghe, hướng dẫn mở bày cho họ hiểu, chủ yếu là để sách tấn tâm chí, nhằm muốn cho người biết ý chỉ qui về của giới. Nay thì chỉ lấy tướng của y bát mà chung làm việc trao nhận giới thể. Thật gọi là chấp nơi sự mà mê nơi lý, nào không biết việc làm đó cốt yếu là để bền giữ cái tướng y bát mà thôi, còn quan trọng nhất là hiển bày cái diệu dụng của chỉ trì và tác trì. Nếu hay bên trong thì nghiêm tu giới thể, nghiệp nhân ô nhiễm tự nhiên đoạn trừ, bên ngoài thì nhờ y bát oai nghi mới được an tỉnh, rồi sau tánh tướng đầy đủ, trong ngoài in họp, được vậy thì định tuệ và phạm hạnh mới mong vẹn toàn.
Cho nên Đại Luận chép: “Hàng Thích tử thọ cấm giới đó là tánh, cạo tóc, đắp y, cắt rọc đó là tướng”. Chính là ý này vậy. Vì thế, nay ở trước những người chưa thọ giới Sa di, lễ thỉnh hòa thượng khai thị cho họ. Còn nghi chánh thức để thỉnh pháp, lại là ở lúc trao nhận, không ghi chép ở đây.
Thỉnh Hòa thượng thì cần chín người, một người đi đầu cầm hương, Thầy dẫn lễ đánh kiền chùy, hướng dẫn tám người còn lại đi theo sau, hai Thầy lại đi ở cuối cùng. Khi đến phương trượng xong, dẫn lễ và người thỉnh đứng nép sang hai bên, hai Thầy đến trước Hòa thượng đảnh lễ rồi thì cũng đứng ra hai bên hải trái. Người thỉnh bước ra lạy ba lạy, cung nghinh Hòa thượng đến pháp đường thăng tòa, hai Thầy trước hết lạy Hòa thượng ba lạy, sau đó mới trở về chỗ ngồi.
Dẫn lễ nói:
Dâng hương, trở lại vị trí, tất cả cùng nhau xếp hàng, nghe tiếng khánh lạy ba lạy, lạy xong quì gối chắp tay.
Thầy yết ma bảo:
Này các thiện nam! Các vị đã phát lòng tin cầu thọ tịnh giới, nếu như có lời chi thì cử người đứng đầu chí thành tác bạch.
Người đứng đầu bạch rằng:
Ngưỡng bạch Hòa thượng từ bi nhiếp thọ, đệ tử chúng con hình mạo tuy xuất gia đã lâu, nhưng thẹn chưa đượm nhuần giới pháp, luống mang dòng họ Thích, lạm xen vào hàng Tăng bảo. Cho nên nay chí thành quì trước cao tòa, cúi xin thương xót ban cho giới tử chúng con giới phẩm thanh tịnh, để như pháp mà chuyên tinh tu tập, vâng theo lời Phật dạy hành trì, hồi hướng về ba cõi, dốc lòng chí thành tha thiết cầu xin.
Thầy dẫn lễ bảo:
Các vị lạy một lạy.
Hòa thượng vỗ xích nói:
Phàm người tại gia xuất gia, bên trong vốn không có hai lẽ, đắc niệm hay thất niệm, trong ấy chưa mảy may nào loạn động. Thấy nghe hiểu biết đều là pháp thân thanh tịnh, sáng tối sắc không, vốn là cõi mầu viên dung, điều này người người đầy đủ, ai nấy thảy vậy, đã không có sự khác biệt về nhiễm tịnh, thì nào có các tướng thủ xả, tại sao ở trong cảnh không ràng buộc mà lại cầu giải thoát. Bởi do chúng sanh mê chướng, thức tánh mờ tối, đem cái thể mầu nhất chơn, lầm chia ra vóc dáng ta và vật, đem giác tràng bất nhị, vọng kể làm cái nhà của mình người. Do đây mà bị cái dây tham ái buộc ràng, buông thả sân si, chìm đắm trần lao, luân hồi chẳng dứt, từ mê chứa mê, không nghĩ suy phản chiếu, đem khổ để vào khổ, mãi không chán lìa. Cho nên tất cả chư Phật xuất hiện ở thế gian thương xót muôn loài chúng sanh đắm chìm, mới cứu vớt như thế. Phật biết sự tham dục của chúng sanh, phần nhiều có nhân duyên ràng buộc, cho nên chỉ bày, lấy việc xa lìa của đạo để khiến xuất gia, biết chúng sanh bị ràng buộc là do ân ái, cho nên lấy giải thoát của đạo chỉ bày, để khiến xả bỏ ái tình.
Kinh Hoa Nghiêm chép: “Nếu có người không biết phép tắc xuất gia, thì sẽ vui đắm ở trong sanh tử, không cầu giải thoát. Thế nên Bồ tát bỏ quốc gia của cải, xuất gia cầu tịch tĩnh”.
Kinh Bảo Tích chép: “Không có đạo của tại gia tu tập vô thượng chánh giác. Vì cớ sao? Vì tại gia thì tham chứa, xuất gia thì xả bỏ. Tại gia thì còn nhân ngã, xuất gia thì bình đẳng. Tại gia thì trần cấu, xuất gia thì tịch tĩnh. Tại gia thì nhiếp ác, xuất gia thì nhiếp thiện. Tại gia thì chìm đắm nơi bùn dơ ái dục, xuất gia thì dứt hẳn bùn dơ ái dục. Do đó mới biết, muốn cầu thánh đạo trước phải xuất gia”.
Cho nên, đức Thích Ca thế tôn của chúng ta, ứng tích tại Trung Thiên, nửa đêm vượt thành, thúc vó ngựa trắng vượt ngàn không, đến thẳng núi xanh mà cắt tóc, sấm vang dậy tiếng, Thiện Lai trước độ năm người, mưa pháp vừa đượm nhuần, Yết Ma phồn hưng nơi bốn biển, loài người từ đó đến nay đều nhận sự ban ơn ấy.
Này các thiện nam tử! Các vị do trước đã trồng nhân lành nên nay được nhờ ân Phật dạy, lìa dục xuất gia, được thành Tăng tướng, đem hảo tâm đăng đàn thọ cụ. Nếu không biết ý nghĩa của giới là gì, thì chuyện đăng đàn cũng chỉ là cái danh suông mà thôi, chứ không phải là chơn thật thọ giới, sẽ uổng phí một đời, thể chất vẫn là bạch y. Cho nên trước khi thọ giới, tôi chỉ bày cho các vị hiểu giới có bốn tầng ý nghĩa: Giới pháp, giới thể, giới hạnh, giới tướng của Sa di. Khiến cho tâm của các vị hiểu rõ ràng, rồi mới trao nhận như pháp, ngõ hầu hành trì có phương hướng, không trái với luật của Phật dạy.
1.Giới pháp nghĩa là Phật dạy Xá Lợi Phất, ban đầu độ La Hầu La xuất gia, chế ra mười tịnh giới, 24 môn nghi tắc, và trong 12 năm Phật vì các vô sự tỳ kheo rộng chế học xứ, gồm chế tất cả những luật nghi của Sa Di vậy.
2.Giới thể nghĩa là đang lúc các vị thọ giới, do vì hiện tiền ý thức thứ sáu, vận tưởng qui y tam bảo xong, biến tất cả các duyên tình cảnh phi tình cảnh. Ở nơi duyên cảnh trên có công năng phát khởi lời thề muốn ngăn ác, thề muốn có tu thiện vậy. Các vị chẳng nên thích buông thả mà sợ lao nhọc, chán rườm rà mà nghĩ đơn giản.
3.Giới hạnh nghĩa là khi mới vào đạo, ban đầu thì nên sửa sang lễ tiết thờ thầy, kế đến thì chấp lao phục dịch cho Tăng già, nhẫn đến sớm tối động tĩnh, hạnh nghiệp vi tế, đều nương vào giới mà làm, cho nên mới gọi là giới hạnh.
4.Giới tướng nghĩa là các vị chẳng nên để tục đế sanh trưởng, khiến cho hình chất sánh đồng với phàm phu. Nay may mắn được lên giới phẩm, bèn trong thì đầy đủ đức từ hòa, ở ngoài thì mặc y hoại sắc không điều tướng. Lại nữa, khi ở thì đồng với đại chúng, lúc đi thì tất cả chuộng ung dung, đạo nghiệp xuất thế nhân giới mới thành, có chút ít gì sai trái thì gọi là can phạm, cho nên gọi là giới tướng.
Các vị nếu hay tin nghe theo mà suy nghĩ, suy nghĩ rồi thọ trì, vâng theo luật chế, giữ bồi gốc đức. Ngõ hầu trên khế với ý chỉ của Như lai, dùng giới để nhiếp thọ chúng sanh, dưới thì không thẹn cái danh dứt bỏ nhiễm ô, hành từ cứu giúp. Vậy các vị có thể chí thành lãnh thọ như pháp mà vâng làm không?
Cùng đáp: Y giáo phụng hành.
Hòa thượng nói: Các vị đã nói y giáo phụng hành thì ta nay sai các dẫn thỉnh sư vì các vị trước thỉnh giáo thọ A Xà Lê kiểm tra y bát. Kế đến thỉnh yết ma A Xà Lê, để các vị sám hối gột rửa thân tâm. Nếu y bát đúng pháp, thân không có chướng ngại, thì ngày sau đăng đàn trao cho các vị 10 giới Sa Di, để làm cái thềm bậc của giới Tỳ kheo.
Dẫn thỉnh xướng:
Này các thiện nam tử! Các vị cùng đứng dậy, nghe tiếng khánh lạy tạ ba lạy, phân ban, trước hết những người nghinh thỉnh xuất ban đưa hòa thượng trở về phương trượng.
Hai Thầy chuyển xuống dưới lạy ba lạy xong, cùng dẫn đại chúng đưa Hòa thượng trở về phương trượng. Sau đó giới tử lại trở về pháp đường lễ tạ hai Thầy xong, trong chúng cử hai người đưa sư trở về liêu. Kế đến lễ tạ chư dẫn thỉnh sư, đại chúng tuần tự giải tán.
4. NGHIỆM Y BÁT THỨ TƯ.
Nếu luận về cách thức y của Sa di. Xét bộ Tát Bà Đa, Tỳ Ba Sa Luận chép: “Sa di được chứa hai y thượng và hạ, một đảm nhận y An Đà Hội, hai đảm nhận y Uất Đa La Tăng, khiến cho thanh tịnh vào trong chúng và đắp lúc đi lại”.
Lại bộ căn bản chép: “Sa di thọ y man điều, nếu tuổi đủ 20 có thể thọ cận viên, vị thầy mới sắm đưa cho Sa di ba y và bình bát.
Sở dĩ nói chữ đảm nhận là chẳng đồng với tỳ kheo. Y năm điều là một lằn dài một lằn ngắn, y bảy điều là hai lằn dài một lằn ngắn, cắt rọc may thành như bờ ruộng. Ở đây chỉ mượn cái danh năm điều, bảy điều để thọ trì mà may thành, chứ thật ra không dùng tướng của năm điều bảy điều.
Còn nói là “man điều” nghĩa là không có lằn vậy. Đến lúc cận viên, vị thầy mới sắm y cắt rọc thành điều tướng. Ý nghĩa về cách chế thì tụ hội cả luật luận, đại khái là như vậy. Nhưng ngày nay không luận ba loại Sa di, liền cho đắp ba y có tướng phước điền, cũng không biết phát khởi từ lúc nào, thói quen đã lâu chưa thể thay đổi liền.
Từ năm Bính Tuất tôi truyền giới, tạm diễn tỳ ni, đến mùa đông năm Giáp Ngọ mới bắt đầu “trái nay chuộng xưa” tuy cố gắng làm đúng theo luật dạy, nhưng trong khoảng đó vẫn còn dùng phương tiện.
Nếu năm từ 7 tuổi đến 19 tuổi muốn thọ giới Sa di, nhất định phải đắp man y. Như đủ 20 tuổi sắp lên, người quyết chí đăng tam đàn giới pháp, thì chẳng hạn cuộc đơn thuần hành trì pháp của Sa di, chẳng qua chỉ là theo thứ tự dần dần thăng tiến, không vượt qua giai cấp vậy. Cho nên ở trong phạm vi nội giới, tạm thời cho thọ trì hai y có tướng phước điền, nhưng không được đắp Tăng già lê.
Thế nên, ngày nay lúc trao giới cho Sa Di ba y thiếu một cũng không được, đợi sau khi đầy đủ oai nghi mới thỉnh giới, hòa thượng trước bảo thỉnh giáo thọ sư kiểm nghiệm y bát cho rõ ràng. Kế đến khiến thỉnh yết ma sư nghiêm tịnh thân khí. Xét trong luật, lúc thọ tỳ kheo giới, sai giáo thọ sư ở chỗ khuất hỏi: Ba y một bát này là của ông có, đúng không? Đó gọi là nghiệm y bát.
Nay ở trong lúc thọ giới Sa di mà nghiệm ngay điều đó thì dường như hơi quá sớm, nhưng duyên thì chẳng phải thuần cổ, lòng người giả trá ngày càng nhiều, vốn vì mượn y bát đem lại. Hỏi ra thì đáp rằng đã có, nhưng sau khi thọ giới rồi trở về thì đều trả hết cho chủ nhơn, làm rối loạn qui củ của Phật để lại. Nay thánh chúng ở trong đàn giới, nếu không khám nghiệm trước, thì lỗi của hai thầy trò khó mà trốn tránh. Cho nên nay thiết nghi này thật là việc gấp.
Hòa thượng khai đạo xong, nghỉ ngơi giây lát, lại đánh kiền chùy, những người xin thọ giới đem y bát đến chỗ tác pháp. Dẫn lễ bảo đại chúng đứng theo thứ lớp, đem y bát để trên án, nhưng phải nhớ chỗ để khỏi lấy nhầm y, rồi đứng kế đó, chớ để lộn lạo làm mất oai nghi. Hai vị dẫn lễ dẫn năm người đi thỉnh sư, một người cầm lư hương, bốn người còn lại thì theo sau, đến giới tràng lên tòa xong, dẫn lễ bảo:
Dâng hương, trở về vị trí cũ, nghe tiếng khánh lạy ba lạy, quì gối chắp tay, hai vị dẫn lễ tiến đến phía trước vấn tấn xong, sau đó trở lại chỗ cũ chắp tay bảo rằng:
Này các thiện nam tử! Các vị hình dáng tuy giống Sa di nhưng tâm chưa đượm giới pháp, đã cầu luật chương Tức Từ, nên mặc pháp phục xuất thế. Cho nên vâng theo hòa thượng sai bảo, tôi sẽ thỉnh sư kiểm tra y bát cho các vị, nếu tôi có nói ra lời chi, các vị phải lắng nghe cho kỹ.
Sư vỗ xích bảo:
Nói đến lẽ cốt yếu của việc xuất gia thì phải lấy giới hạnh làm đầu, nhân duyên chánh để thọ giới y bát là gốc. Bởi do dáng dấp của đệ tử Phật khác xa trần tục; tâm lượng của đệ tử Phật chẳng giống với phàm tình. Ba y nếu đủ, mới có thể tánh tướng giúp nhau; y bát không lìa, mới đủ ít mưu cầu để làm xong việc đạo. Các vị ngày hôm nay muốn cầu giới phẩm. Nếu không y bát, mà đi mượn của người khác, thì cho dù có thọ giới rồi cũng không đắc giới. Nếu như giới sư biết mà cố trao giới cho các vị, thì việc thọ giới sẽ rơi vào phi pháp. Thế nên tôi kiểm tra kỹ lưỡng, trước khi cho các vị thọ giới. Nếu chánh duyên của các vị được đầy đủ, tướng xuất gia thành tựu, thế mới gọi là như pháp, như luật, như lời Phật dạy, khiến cho các vị đều được giới pháp thanh tịnh. Thế mới thật là đệ tử Phật (vỗ xích một tiếng).
Nay đã có y bát hiện tiền, thế y bát nầy có phải của các vị không?
Chúng đáp: Phải.
Giới sư nói: Đã có thì rất tốt, chỉ e rằng trong đó xen tạp, cố phá ba y, nhẫn đến dùng lụa mỏng, năm sắc chính. Nay tuy chỉ cho Sa di thọ trì hai y, nhưng vì các vị tuổi đã đủ, không bao lâu nữa sẽ lên bảo đàn, cầu mong tròn đầy giới cụ túc. Cho nên cần phải kiểm nghiệm trước, chẳng để đến khi có việc mới lật đật. Lại nữa, nếu bát đã đủ thì nhất định khiến cho họp với cách thức mới được thọ trì. Nếu như mới lìa trần vâng giữ giới pháp, liền đắp ca sa cũ rách, thế thì biết tâm cầu giới thật tha thiết không lường. Nếu mới chán tục bỏ nhà, liền tìm loại lụa mỏng quí, nhất định là còn tâm yêu thích, tập khí chưa trừ. Ngay cả ba y của Đại Ca Diếp còn vá 100 mảnh, Kiều Trần như mặc vải thô năm tiền, đến như ngài Hành Nhạc trọn đời mặc vải thô, ngài Nam Sơn dứt hẳn tơ lụa. Các vị sư Tây thiên Đông Độ, còn sống đời trong sạch tiết kiệm như thế, chúng ta là hạng tầm thường thì không nên kiêu ngạo. Nay tôi rời khỏi chỗ, đi kiểm tra cho rõ y bát của các vị để tiện bạch lên Hòa thượng.
Dẫn lễ nói:
Các thiện nam tử lạy một lạy rồi đứng dậy, mỗi người đến chỗ y bát của mình đợi giới sư đích thân đến để nghiệm cho rõ.
Sư rời khỏi chỗ ngồi, chư vị dẫn lễ đi theo, tất cả đều kiểm tra rõ, giả như y cũ rách, cho đến bằng chất tơ lụa và năm sắc chính, giới sư nên khéo dùng lời dạy bảo khiến họ sanh lòng hoan hỷ, như luật đã dạy rõ. Nếu xuôi theo tình mà trái luật, thì chẳng phải là phép tắc của giới sư, người biết được phép tắc há không cẩn thận ư? Khi kiểm tra xong, giới sư và dẫn lễ đều trở về chỗ.
Giới sư vỗ xích bảo:
Ta vì các vị kiểm tra y bát xong, thật may mắn cho các vị, y bát đã đầy đủ, đúng pháp thì duyên thành, ngõ hầu có thể thọ được tịnh giới. Bây giờ cần phải chí thành sám hối, để tiện cho việc ngày sau lâm đàn lãnh thọ giới pháp.
Dẫn thỉnh bảo:
Các thiện nam tử nên xếp hàng nghe tiếng khánh lạy ba lạy, đứng lên phân ban, những vị trong ban dẫn thỉnh nên đưa giới sư trở về liêu, còn bao nhiêu vẫn đứng nguyên vị trí.
Như pháp thường đưa về xong, để y lại chỗ cũ, tất cả đều lạy tạ dẫn lễ sư một lạy, mọi người nhận lấy y bát của mình, thứ lớp cầm trở về chỗ cũ, dẫn thỉnh đi sau cuối.
Việc kiểm nghiệm y bát nhằm đề phòng những đồ vật phi pháp, nhưng không nhân vì y bát của Tăng qua đời rồi mà thành ngăn vậy. Gần đây ngoa truyền bảo rằng, y bát của Tăng qua đời thì không nên trì đắp, những hạng người nầy đều là chưa học tập tỳ ni, không biết nguyên do.
Xét trong luật về việc Yết ma chia y vật của Tăng qua đời rằng: “Phàm các thầy tỳ kheo, tuy nương vào tam bảo xuất gia, nhưng tài vật nhất định phải theo Tăng mà được. Phật pháp vốn chẳng có phần. Cho nên phải vào trong hai bộ Tăng Yết ma mà phân chia. Nếu trước khi chưa Yết ma mà riêng lấy, thì mắc tội với mười phương Tăng. Nếu ngay trong lúc Yết ma mà riêng lấy, thì mắc tội với hiện tiền Tăng. Nên tập Tăng hòa họp, như pháp bạch nhị Yết ma mà cho”. Vậy ai bảo rằng không được dùng? Nếu bảo y của người đã mất thì không dùng, vậy sao của người mất bỏ ở giữa bãi tha ma. Đức Phật dạy: “Người thực hành hạnh đầu đà nên lượm về giặt sạch chằm vá lại, làm y phấn tảo”. Ý này lại hiểu thế nào? Bởi do ngày nay vật của Tăng qua đời, ít thấy, ít nghe có ai noi theo luật mà Yết ma, để việc đắp dùng được thanh tịnh.
Thời nay thường thấy người làm đệ tư, hễ khi thầy tổ vừa qua đời, để y vật lại thì xem như con kế thừa sự nghiệp của cha, không đem chia cho trong đại chúng, há không biết như thế là trộm vật của Tăng, đem tài sản của Tăng về làm của riêng mình. Thuốc độc nhưng lại cho là cam lộ, thật đáng thương thay, nhân vì ngoa truyền trong đời cho nên chép thêm ở đây.
5. SÁM HỐI PHÁT LỘ:
Tân giới tử phát lộ lỗi lầm, về sự thì có sai khác, xứng lượng nhơn pháp, căn cứ theo nghĩa thì có bốn:
1.Khi mới xuất gia liền cầu thọ giới.
2.Cạo tóc đã lâu, nay mới cầu thọ giới.
3.Xuất gia nhiều năm nhưng chỉ thọ năm giới, nay nghĩ tiến tu, mới cầu thọ cụ giới.
4.Hoặc ở tại gia từng thọ năm giới và thọ Bồ tát Ưu Bà Tắc giới, nay lại xuất gia cầu thọ đại giới, gom cả bốn loại trên đến lúc tác pháp nên phân ba môn, chớ nên qua loa hàng loạt, sẽ rơi vào trường hợp mắc căn bệnh này mà cho loại thuốc kia, nhơn pháp sự cả ba đều bị phi pháp.
– Xét về hạng thứ nhất cầu giới, nếu căn cứ theo “Nam Sơn Yết Ma Thọ Thập Giới Pháp,” nên hỏi già nạn, đây thì chỉ hỏi về năm tội nghịch, đó gọi là giới chướng, hễ có thì liền ngăn đuổi, vì luật chế không cho thọ. Tội căn bổn tứ khí giết hòa thượng, Xà Lê v.v… không cần thiết phải hỏi hết. Vì cớ sao? Vì người kia vừa xuất gia liền xin thọ giới, mà ba thầy đã chưa thỉnh chưa biết, bốn tội trọng cũng chưa thọ trì, thế thì không có thầy để giết, không có giới để phá, chỉ xét về năm tội nghịch chứ, không hỏi bảy tội nghịch.
– Xét về hạng thứ hai xin thọ cụ giới, những điều đã hỏi về giới chướng, tuy không đủ bảy tội nghịch mà căn cứ theo nghĩa thì có sáu tội nghịch. Bởi do lìa tục đã lâu, hầu thầy nhiều năm, theo luật thì nên hỏi thêm một câu là giết A Xà Lê. Hơn nữa, trong luật có năm loại A Xà Lê thì trước hết là thầy cạo tóc, nếu có phạm thì theo pháp là không dung thứ, lý họp với ngăn đuổi.
– Xét về hai loại ba và bốn, cầu xin thọ cụ giới, căn cứ vào các kinh luật, tội nặng thất nghịch, bốn tội căn bổn, theo lý thì nên cật mvấn nghiêm ngặt. Do vì người ấy ở dù xuất gia, tại gia nếu từng lên giới phẩm, thì Hòa thượng, A Xà Lê ai ai đều có, bốn tội căn bổn mỗi việc phải vâng giữ, đã không thuộc hai hạng người trước thì nên xếp riêng thành một loại để xét rõ.
Bốn cách hỏi trước, tuy tuân theo luật chế, nhưng ngày nay thì chẳng phải thời Phật còn tại thế, năm trược giao tranh, hoặc liên can bởi quốc cấm, hoặc gá mượn cửa không. Nếu không hỏi tra xét kỹ lưỡng, sao gọi là nội hộ pháp môn. Cho nên, nay thuật chung khoa này, riêng thêm mười ác để hỏi rõ, phàm giữ chức vụ trọng đại, rất nên cẩn thận.
Còn việc sám hối tác pháp, hoặc trong ngày, hoặc cách đêm, nếu luật đường vắng lặng u tĩnh cách xa quán chợ ồn náo, người cầu giới ít, lại không có những duyên khác, thì ngay trong ngày trước hết là thẫm xét sám hối, sau đó mới truyền thọ giới pháp. Nếu luật đường tuy ở chỗ hẹp hòi, mà người cầu giới thì nhiều, hoặc nhóm cả 1000 người vân tập thỉnh giới, cho đến gấp bội hoặc có nhân duyên tam bảo cùng những việc khác, thì có thể cách đêm sám hối, đến sáng thọ giới. Nếu luật đường kề cận với thôn xóm thành thị, không luận là người cầu giới nhiều ít, thì phải xứng lượng cơ nghi, có thể tùy tiện trong ngày hay cách đêm tác pháp cũng được.
Nếu cách đêm mà thẫm xét sám hối, thì vào đầu hôm chia ra, ở Yết Ma đường trãi một tòa, dùng hương hoa cúng dường, lại ở phía sau tòa chánh, thiết lập một bàn án ở bên cạnh, để thư ký sao chép nhơn sự, nhưng cần phải khiến cho đèn đuốc rực rỡ, sáng suốt như ban ngày, nhang trầm thơm ngát, nghi ngút như tán mây. Nương vào thắng cảnh trang nghiêm nầy, mà khiến cho lòng giới tử kinh sợ, tự nhiên tội lỗi từ trước không dám che giấu nữa, bày tỏ hết tất cả những tội lỗi. Trong lúc tác pháp nếu có bạch y lẫn vào, thì vị dẫn lễ nên dùng phương tiện đuổi ra, nhưng khiến họ sanh lòng hoan hỉ.
Đến giờ đánh kiền chùy, nhóm họp các giới tử, cách thức thỉnh Yết Ma sư giống như thường lệ, sư đến Phật đường lễ Phật xong lên tòa, niêm hương cử bài tán hương.
Dẫn lễ xướng.
Dâng hương.
Vị nghinh thỉnh ra ban, lạy ba lạy, lạy xong trở về chỗ chắp tay. Các vị nghe theo lời tôi, cùng nhau đọc rõ ràng thần chú Đại Bi, nương nhờ năng lực của thần chú này, để đàng tràng trong sạch, xa lìa các ma chướng.
Lúc tụng chú đừng nên nín miệng trộm an, nên biết người người đều có đàn tràng, ai ai đều có ma chướng, nếu không chí thành trì tụng rõ ràng, trái lại tăng thêm tội lỗi, tụng chú xong tiếp đọc:
Nam Mô Cam Lộ Vương Bồ Tát Ma Ha Tát (ba lần).
Dẫn lễ nói.
Các thiện nam tử, cùng một lúc xếp hàng nghe tiếng khánh lạy ba lạy, quì gối chắp tay lắng nghe lời tôi nói, chẳng nên nghĩ ngợi gì khác. Hôm nay Hòa thượng sai chúng ta nghiêm tịnh pháp đường, đốt hương, trải tòa cung thỉnh mỗ giáp… luật sư, để thực hiện xét tội sám hối cho các vị.
A Xà Lê là tiếng Phạn, Trung Hoa gọi là Quỉ phạm, cũng gọi là Chánh hạnh. Quỉ phạm là luôn luôn làm khuôn phép cho hậu học, đúng theo oai nghi phép tắc mà hành. Chánh hạnh nghĩa là hay khiến cho đệ tử làm đúng qui củ, chánh tâm chánh hạnh để đi về nẻo chơn, rửa sạch thể phàm, luyện thành pháp khí, cắt sạch cỏ ái, phát khởi tâm hoa, nhưng tất cả đều nhờ luật sư đúng như trong luật mà khai đạo, nương vào pháp Phật mà sám hối. Nếu không có những vị thầy trừ sạch ba nghiệp, giúp hiển bày chánh nhân, thì do vì thấy biển Phật pháp quá mênh mông mà thối lui. May mắn thay! Nay đã gặp được, giống như bệnh gặp thuốc, thế nên các vị phải chí thành, ân cần bày thỉnh. Lời thỉnh sư thì các vị phải tự bạch, mọi người đều xưng tên mình, còn những lời khác thì nói theo tôi.
Bạch Đại đức một lòng nghĩ, đệ tử chúng con là mỗ giáp… nay thỉnh đại đức làm A Xà Lê xét tội sám hối, cúi xin đại đức vì con làm A Xà Lê xét tội sám hối, con nương theo đại đức được sám hối như pháp. Xin thương xót cho chúng con (Thỉnh ba lần như thế, mỗi lần thỉnh xá một xá).
Sư vỗ xích nói:
Nói về thể tánh thì luôn tròn sáng, vốn không sanh diệt, nhưng vì bị tình trần che lấp, nên mới có thánh phàm riêng biệt. Thế nên, việc gấp là cần phải sớm giác ngộ, tiến tu trong mọi thời khắc, nhưng cửa ban đầu vào đạo cốt là ở chỗ chuyển nhiễm thành tịnh. Nếu chưa dứt nhiễm tâm, thì ác nghiệp theo đó mà sanh, còn định niệm đã hiện tiền, thì phạm hạnh mới lập. Tôi nay lên giới đường, để hướng dẫn cho các vị sám hối ba nghiệp, đây chính là phương pháp chuyển nhiễm thành tịnh. Vì lẽ trong bốn châu thiên hạ thì có sáu đường, nhưng chỉ có nhơn đạo ở cõi Nam Diêm Phù Đề là tối thắng, thể chất gần lên bậc Phật, dễ bề tu tiến. Nay may mắn được dự vào hàng tối thắng, ngõ hầu chứng được ngôi vị cao siêu, nhưng e rằng các vị từ trước đến nay ở trong các cõi, có người làm nghiệp nhân bất thiện sâu dày, làm ngăn chặn đại đạo xuất thế, lại trái với thắng duyên thọ giới, vậy cần phải súc sạch bình lưu ly mới có thể đựng sữa sư tử. Nay thì trước nhà sám hối, như mặt trời sáng rỡ ở giữa hư không, chẳng thể giấu được hình bóng, như đối mặt ngay đài gương sáng, mắt mi sẽ hiện đủ. Các vị mỗi người phải dốc lòng gột rửa, thay cũ đổi mới, nên ở trước tôi trong mọi khoảnh khắc mà chí thành bày tỏ, nếu biết tội thì bỏ đi cái hổ thẹn, còn như im miệng che giấu, thì cho dù có thọ được giới cũng không đắc giới. Do vì nhiễm tịnh xen nhau, tội phước lẫn lộn, ở nơi đạo vô ích, biết theo hướng nào mà chứng đạo. Vì vậy, nói sám hối là việc cốt yếu có đầy đủ sức tin lớn, sanh đại tàm quí.
Kinh Niết Bàn chép: “Có hai pháp bày tỏ hay cứu vớt chúng sanh, một là tàm, hai là quí. Tàm là bên trong, tự hổ thẹn, quí là hướng đến người để phát lồ.”
Kinh Tạp A Hàm chép: “Thế gian không có hai pháp tàm và quí thì trái với đạo thanh tịnh, nhất định sẽ hướng đến con đường sanh lão bệnh tử”.
Thế nên, phải sanh tâm tàm quí, tin sâu nghiệp quả. Các vị nay mới vào cửa giới luật không biết danh tướng, giới chướng. Danh tướng không biết, cùng những điều khác không thắc mắc. Cho nên tôi noi theo kinh luật, phân biệt chỉ bày cho các vị, các vị phải nhất nhất phải nghe và suy nghĩ kỹ, xét biết có không. Giờ đây, các vị theo thứ lớp xếp hàng, như thật mà phát lồ (vỗ xích một tiếng).
Còn nói đến giới chướng tức là các vị từ xưa đến nay, ý căn chấp trì nhớ nghĩ.
Ngũ nghịch thập ác, là tội nghiệp cực trọng (Đây là xét nêu chung về hạng người thứ nhất, văn nghĩa sau đây sẽ giải thích. Chỉ lấy số hiệu hình tròn O dùng nêu chung ở văn này).
Lục nghịch thập ác, là tội nghiệp cực trọng (Đây là xét nêu chung về hạng người thứ hai, văn nghĩa sau sẽ giải thích. Chỉ lấy số hiệu hình tam giác ∆ dùng nêu chung ở văn này.
Thất nghịch thập ác và bốn loại tội trọng căn bản. (Đây là xét nêu chung về hai hạng người ba và bốn, văn nghĩa sau sẽ giải thích, thuận theo văn mà dùng chung, không họp với hiệu số).
Nếu có phạm mỗi một điều thì gọi là giới chướng, đây chính là luật chế cấm ngăn, không cho thọ giới. Dù có nhân duyên cho cứu vớt, nhưng phân cơ giáo để ứng với sám môn. Nếu là người lợi căn thượng trí, thì nhất định phải thâm nhập thiền định, khơi mở cội gốc trí tuệ, quán thân tâm như huyễn, năng sở đều không, rõ biết tự tánh chơn thường, các pháp không thật, một niệm tương ưng, hợp với lý như như, chứng nhập vô sanh. Đây là nhiếp về huệ môn, thuộc về lý sám. Chẳng nên gọi là trần lao tạm hết, rồi liền cho rằng lên trường giải thoát, nghiệp tánh chưa trống, rồi cho là đã vào biển tịch diệt. Nhất định phải lý quán sạch làu, thật chứng vô sanh, mới được tội hoa rụng hết. Nếu người căn cơ bậc trung bậc hạ, phải tuân theo đại thừa Phương Đẳng, huân tu sám pháp, quán tam luân thể vốn là không, dứt sáu trần duyên theo ảnh, đúng hẹn tiến đạo, bảy ngày, mười bốn ngày, cho đến một tháng, một năm, cầu thấy hảo tướng, nếu không thấy hảo tướng, càng thêm khắc khổ, bội phần thành khẩn. Nhẫn đến suốt đời như vậy, tất phải lấy việc thấy hảo tướng làm kỳ hạn, đây là nhiếp về định môn, là thuộc về sự lý sám vậy. Chẳng phải gọi là thân thì lễ bái tâm thì tán loạn, ứng theo sự mà bày danh, đâu thể đem chút ít thiện của vài ngày mà tránh khỏi nghiệp nặng cực ác. Cho nên nói ngũ, lục, thất nghịch nghĩa là không thuận với lý, trái ân, quên đức, lại càng thêm hại, pháp thế gian và xuất thế gian, đều khó mà tránh.
(Văn sau chính là thuận kể ra thất nghịch, nếu xét về ngũ nghịch, lục nghịch, riêng lấy hiệu số hình tròn O, hình tam giác ∆ để họp dùng).
THẤT NGHỊCH
1/ Làm thân Phật ra máu.
O Ở hàng thứ năm trong ngũ nghịch.
∆ Ở hàng thứ nhất trong tội lục nghịch.
Phật chính là trời trong hàng trời, thánh trong hàng thánh, muôn đức trang nghiêm, mười hiệu đầy đủ, từ vô lượng kiếp đến nay, ngài vì chúng sanh tu hành mà chứng được phép mầu vô thượng, từ bi hỷ xả cứu giúp khắp chúng sanh. Nay khiến cho ba cõi, chín loài hữu tình đều thành đạo chánh giác, bốn loài sáu nẻo dứt sạch luân hồi. Như vậy núi Tu di có thể nghiêng, đại hải có thể cạn, ân nặng của đức pháp vương, trọn kiếp khó báo đáp. Vậy mà không tri ân báo đức, đầu đội cúng dường mà lại thêm nghịch hại, làm thân Phật ra máu thì tội chẳng thể cứu.
Thế cho nên Phật dạy: “Làm thân Phật ra máu gọi là giới chướng”. Tội nghịch này căn cứ vào các kinh luật, thường gọi là Đề Bà Đạt Đa vì đem tâm ác mà ném đá hại Phật, nhưng chỉ có một miếng nhỏ văng làm tổn thương ngón chân Phật thôi. Nay tướng tốt của Phật đã tịch diệt từ lâu, nhưng pháp sám hối vẫn còn hỏi như xưa. Giả như có người sanh lòng sân ác, hủy hoại tất cả tượng Phật, bảo tháp thờ Xá lợi Phật, và các kinh điển đại thừa thì tội ấy cũng giống nhau, cũng thuộc về tội cực ác.
2/ Giết cha.
3/ Giết mẹ.
O Ở vào hàng thứ nhất, thứ hai trong ngũ nghịch.
∆ Ở vào hàng thứ hai, thứ ba trong lục nghịch.
Giết là kẻ dưới giết người trên. Cha mẹ là ông trời của con cái, theo lý thì nên hết sức mà hiếu thuận không trái ý. Mùa đông thì đắp lạnh, mùa lạnh thì quạt mát, sớm thăm tối viếng, hết lòng phục dịch chẳng gián đoạn, hãy nên hết lòng hiếu đạo, mới mong đền đáp ơn sanh thành dưỡng dục trong muôn một, vậy mà trái lại đem ác tâm, sân tâm càng quấy giết hại.
Kinh Địa Tạng chép: “Nếu có chúng sanh không hiếu thảo với cha mẹ nhẫn đến giết hại, sẽ đọa vào địa ngục Vô gián”. Thế nên, chư Phật dạy giết cha giết mẹ là giới chướng.
4/ Giết Hòa thượng.
Trong ngũ nghịch, lục nghịch đều không có hỏi câu này.
Hòa thượng Trung Hoa dịch là Lực Sanh, nghĩa là ba thừa đạo lực, năm phần pháp thân đều nhờ oai đức của vị Thầy này mà sanh, tức là vị Bổn sư đắc giới vậy. Hơn nữa, cha mẹ ở thế gian chỉ sanh sắc thân, ân ấy còn vô cùng, huống hồ cha mẹ xuất thế, khiến cho phát sanh giới thể, thì ân ấy còn gì sánh bằng?. Cho nên Phật dạy đệ tử pháp hầu thầy Hòa thượng, trong luật hướng dẫn nghiêm ngặt rõ ràng. Bởi do ân của hòa thượng rất là sâu rộng, phải nên biết luật mà vâng thờ, vậy mà trái lại đem sân tâm, ác tâm giết hại. Thế nên Phật dạy giết Hòa thượng gọi là giới chướng.
5/ Giết A Xà Lê.
Tiếng Phạn gọi là A xà lê, Trung Hoa dịch là Quỉ phạm. Căn cứ theo luật chế, có cả thảy năm bậc, đều là bậc thầy mô phạm, sách tấn cho hàng hậu học tu hành.
1.Thế phát A xà lê: Hay khiến cho được thoát ly trần tục, chán khổ não trở về tịnh lạc.
2.Yết ma A xà lê: Hay khiến cho thanh tịnh đạo khí, cảm phát giới thể.
3. Giáo thọ A xà lê: Hay khiến cho biến hóa thô tế, oai nghi tề chỉnh.
4. Y chỉ A xà lê: Hay khiến cho thông đạt Tỳ ni, rành về pháp khai giá, cho đến y chỉ một đêm.
5. Dạy kinh A xà lê: Hay khiến cho “văn” đượm nhuần trí huệ, “tư tu” ngộ nhập, cho đến tiếp nhận một câu kinh.
Đây chính là năm bậc A xà lê, quí ngài đều có những ân đức như trên, thật là con đường lành xuất thế, thật là tri thức của tuệ mạng. Cho dù có dốc hết thân tâm phụng thờ nhiều năm, ân pháp nhũ còn chưa đền đáp trong tơ tấc, vậy mà còn đem sân tâm ác tâm làm việc giết hại. Thế nên, Phật dạy giết A xà lê gọi là giới chướng.
Ở trong thất nghịch dùng văn này. Nếu nói rõ điều thứ tư trong lục nghịch, thì có thể dùng văn sau. Vì sự nghĩa bất đồng, nên kể riêng một khoa.
Thứ tư giết A xà lê: Tiếng Phạn là A xà lê, Trung Hoa gọi là Quỉ phạm. Vấn đề được hỏi ở đây, chẳng phải hai bậc Giáo thọ, Yết ma thọ giới A xà lê.
Cũng chẳng phải là A xà lê y chỉ sau khi thọ giới. Ý nói người thầy cạo tóc cho các vị, nhẫn đến hai bậc A xà lê truyền trao kinh điển. Nhưng hai bậc A xà lê này, hay khiến cho các vị ra khỏi hố sâu tình ái, thân cận tam bảo, nghe pháp mầu ly dục, rõ suốt nhất chơn, ân đức như thế không nhớ nghĩ báo ân, mà lại đem sân tâm ác tâm giết hại. Thế nên Phật dạy A xà lê gọi là giới chướng.
6/ Phá Yết Ma Chuyển Pháp Luân Tăng.
O Trong ngũ nghịch giới này ở thứ tư.
∆ Trong lục nghịch giới này ở thứ năm.
Yết ma là các Tỳ kheo thanh tịnh, nương vào một cương giới để ở, giữ sáu phép hòa kính như sữa hòa với nước, cùng một Bố Tát, cùng một Yết Ma, gọi là chuyển tịnh giới pháp luân, hoặc tùy phương nhiếp hóa theo duyên tiếp vật, tuyên diễn giáo quán, như thuyết tu hành, gọi là chuyển định huệ pháp luân. Đây đều là bạn đạo xuất trần, bậc trí tuệ cứu đời, giữ gìn ba học, là rường cột cho pháp môn, hóa lợi quần sanh, làm thuyền bè cho biển khổ. Thế gian nếu không có Tăng bảo, Phật pháp lấy gì để mở rộng lưu thông, huệ mạng lấy ai để tiếp nối. Do đó mà Tỳ ni trụ, thì chánh pháp cửu trụ, cho nên khiến trời người tăng thạnh, nẻo ác tiêu trừ, vậy mà không biết quy kính thỉnh cầu, lại đem ác tâm sân tâm mà phá hoại. Thế nên Phật dạy phá Yết Ma Chuyển Pháp Luân Tăng là giới chướng.
7/ Giết A La Hán.
O Trong năm tội nghịch thì ở vào hàng thứ ba.
∆ Trong sáu tội nghịch thì ở vào hàng thứ sáu.
A La hán là khéo vượt khỏi các cõi, quả chứng vô sanh, thuyết pháp mở bày sự si mê trong muôn cõi, phó duyên khiến cho chúng sanh gieo trồng phước huệ, hay khiến cho hiện tiền giúp ích, hưởng phước báo ở tương lai. Nếu không khởi tâm kính ngưỡng thì khó gặp, lại thêm khởi độc tâm sân ác giết hại, thế nên Phật dạy giết A La hán gọi là giới chướng. Đây chính là danh nghĩa của năm, sáu, bảy tội nghịch.
Vỗ một tiếng xích.
THẬP ÁC
Còn nói mười ác là: Ác tức là không thiện, do chúng sanh mê chơn theo vọng, tình thức so đo, đối cảnh trái nghịch. Lúc động tĩnh đều bị buộc ràng, ở trong ba nghiệp tạo ra mười tội ác, nghiệp nhân sâu dày, thì sẽ chiêu cảm đến quả báo khổ ở mai sau.
1. Thứ nhất là cái ác của sự sát sanh.
Sát sanh nghĩa là tự mình sát hại, dạy ngưới khác sát hại, tất cả chúng sanh đều lấy ba thứ thần thức, hơi thở, hơi ấm tức là noãn làm mạng căn. Cả ba thứ này khi chưa tan mất thì mạng căn còn, nếu ba thứ này đã lìa thì mạng căn đoạn. Nếu ở trong chúng sanh đồng loại, hoặc nhân oán thù kết hận để hành việc sát sanh, hoặc đối với chúng sanh khác loại, hoặc nhân vì tham đắm mùi vị thơm ngon giết ăn để nuôi dưỡng thân mình. Như thế là tổn thương đến lòng từ, tăng trưởng điều sát hại. Nếu cố đoạn mạng sống của chúng sanh, thì chẳng họp với cái đức cứu độ chúng sanh của thánh hiền, có tổn đến lòng nhân đồng thể của mình. Thế nên thứ nhất là cái ác sát sanh.
2. Thứ hai là cái ác của sự trộm cắp.
Trộm cắp nghĩa là trộm lấy tài vật của người khác. Bởi lẽ người đời tiền của là nhân duyên để nuôi sanh mạng, gọi là ngoại mạng, nhưng tài vật này có chia ra tại gia và xuất gia bất đồng. Vật ở tại gia hoặc là của cha mẹ tông thân, hoặc là của đàn việt quen biết nhau, cho đến chẳng phải thân thuộc, chẳng phải tri thức… phàm là vật của người khác, thuộc về vật có chủ thì đều không được trộm lấy. Còn vật của người xuất gia là vật của Phật pháp, hoặc là vật của chúng Tăng. Vật của Phật pháp nghĩa là điêu khắc tượng thơm, họa vẽ kim dung, in ấn tạng điển, hoặc viết kinh văn. Trong đó tất cả những vật trang nghiêm thờ cúng. Vật của chúng Tăng, căn cứ theo bộ Nam Sơn Sao phân ra làm bốn loại.
a.Vật thuộc thường trụ thường trụ: Nghĩa là chùa chiền, nhà kho, nhà bếp của chúng Tăng, tất cả hoa quả, cây cối, vườn rừng, tôi tớ, súc vật… không cho đem sang cương giới khác, chỉ được thọ dụng, không cho chia bán, cho nên nói lặp lại hai lần từ thường trụ thường trụ.
b.Vật thuộc thập phương thường trụ: Nghĩa là những vật thực cúng Tăng, thể thì thông cả mười phương, tùy thời mà thọ dụng, chỉ hạn cuộc ở chỗ đó.
c.Vật thuộc hiện tiền Tăng: Nghĩa là vật mà chư Tăng được thí chủ cúng, thì chỉ cúng cho hiện tiền ở trú xứ đó, không thông dụng đến mười phương Tăng.
d.Vật thuộc mười phương hiện tiền Tăng: Nghĩa là như những vật thường của năm chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Thức xoa ma na, Sa di, Sa di ni… tuy là Tăng ở mười phương, nhưng hễ hiện tiền thì đều có phần. Nếu yết ma chưa xong, người đến sau kể như là không có. Nên biết tài vật của tam bảo đều có ra từ của tín thí, họ cầu phước báu ở mai sau. Cho nên đời nay gieo trồng vào ruộng phước, nhân quả một khi sai lầm thì nghiệp quả trở về thân, huống chi trộm lấy làm của riêng. Thế nên gọi thứ hai là cái ác của việc trộm.
3. Thứ ba là cái ác của việc dâm.
Dâm nghĩa là dâm dật, là việc rất bỉ ổi, nham nhở ở thế gian, đây chính là căn bổn luân hồi sanh tử của chúng sanh, hoặc nam nữ trong lục thân và nam nữ chẳng bà con mà làm chuyện bất tịnh, hoặc phá phạm hạnh của người khác. Cho đến làm nhơ nhuốc Tăng già lam, hoặc xâm phạm trinh tiết, hoen ố thanh danh của người khác, do đây mà tự rơi vào địa ngục vô gián, chịu đủ các khổ. Thế nên gọi thứ ba là cái ác của việc dâm.
4. Thứ tư cái ác của việc vọng ngữ.
Vọng ngữ nghĩa là ngụy tạo hư ngôn khiến cho người tin tưởng, nhưng vọng ngữ có đại tiểu khác nhau. Đại vọng ngữ nghĩa là chưa đắc đạo nói đã đắc, chưa chúng nói đã chứng, do vì luống tham danh lợi, hiển bày dị tướng để mê hoặc mọi người, cho nên thành đại vọng ngữ vậy. Tiểu vọng ngữ nghĩa là không thấy nói thấy, nghe nói không nghe, không nghe nói nghe. Do vì khinh mạn tập tành giả bộ dối trá, phỉnh gạt người, siễm nịnh không thật. Thế nên gọi cái ác thứ tư là vọng ngữ.
5. Thứ năm cái ác của việc lưỡng thiệt.
Lưỡng thiệt nghĩa là tuyên truyền kia đây, tranh đấu thị phi, hoặc nhân hiềm khích mà báo thù, hoặc nhân chướng ngại bởi người khác hơn mình, hoặc làm cho hai bên khiêu khích nhau, sáng thì khen tối thì hại, khiến cho trên dưới đấu tranh nhau, ly gián thân duyên, oán hận mà vu khống tố cáo, đức mình toàn khuyết. Thế cho nên gọi cái ác thứ năm là lưỡng thiệt.
6. Thứ sáu là cái ác của việc ác khẩu.
Ác khẩu nghĩa là nói lời thô tục, mạ nhục người khác, hoặc nhân không toại lòng tham muốn, hoặc nhân đùa giỡn sanh nóng giận, mờ tối cang thường, mất hết luân lý, không thuận theo tôn ty, mặc tình mắng nhiếc, khiến người không vui, sướng thích tâm mình. Thế nên gọi cái ác thứ sáu là ác khẩu.
7. Thứ bảy là cái ác của việc ỷ ngữ.
Ý ngữ nghĩa là trái ngược với chơn lý, trau chuốc ngôn từ, hoặc khoe khoang tài năng mình, mờ tối theo tình trần hoặc làm bại hoại thanh danh đức hạnh người, khéo nói lời đường mật mê người, khiến người thấy nghe tăng thêm tình thức, buông lung tâm trí. Thế nên gọi cái ác thứ bảy là ỷ ngữ.
8. Thứ tám là cái ác của việc tham dục.
Tham dục nghĩa là ái nhiễm vừa ý, nhớ hoài không thôi, tại gia thì do công danh phú quí, xuất gia thì do lợi dưỡng tiếng tăm, tự cam chịu sống đời tà mạng, ở trong tình cảnh thuận thì tham lấy không biết đủ, còn nghe đến việc ban ân cứu giúp thì bỏn xẻn từng li từng tí, thấy dục lạc thì dính khắn như keo sơn, truy cầu các thứ, không sợ nghiệp khổ. Thế nên gọi cái ác thứ tám là tham dục.
9. Thứ chín là cái ác của việc sân khuể.
Sân khuể tức là việc làm cùng với lòng trái nhau, buông lung tánh ác, hoặc nhân ở trong cảnh tại gia danh lợi tài sản cầu mãi không toại ý, khởi các giận bực, còn trong cảnh xuất gia thì nhơn duyên tứ sự, mong muốn không vừa ý liền dấy tâm sân. Kinh chép: “Bồ tát khởi một tâm niệm sân, liền mở ra trăm ngàn vạn cửa chướng”. Thế nên gọi cái ác thứ chín là sân khuể.
10. Thứ mười là cái ác của việc tà kiến.
Tà kiến nghĩa là ngu si không có chánh tuệ, tri kiến nhiều thiên lệch. Do vì không rõ được, pháp tứ đế khổ tập diệt đạo, mà vọng kiến kể chấp vào “hữu vô đoạn thường”, bát bỏ nhân quả không có tịnh nhiễm, hủy diệt căn lành xuất thế, thiêu đốt lòng tin, tà tâm xí thạnh, như Thiên chủ Bạch liên Trung Hoa, chỉ quán vô vi, ngửi mùi hương… các giáo phái tự mê rồi làm mê người, đều sa hầm hố, sống thì bị hoa báo vương pháp gia hình, chết thì bị quả báo luân hồi nơi địa ngục, dù có ngàn Đức Phật ra đời cũng không cho sám hối. Thế cho nên gọi cái ác thứ mười là tà kiến. Đây chính là danh nghĩa của mười điều ác.
Nếu xét về hai hạng cầu giới thứ nhất và hai thì không cần phải hỏi qua bốn tội căn bổn, mà trực tiếp văn sau hỏi rằng: “Thiện nam tử, nay đã nghe đầy đủ những lời tôi nói…. Nếu xét về hai hạng người cầu giới thứ ba và thứ tư thì nên hỏi bốn tội căn bổn”.
Hòa thượng vỗ xích nói.
Nói về bốn tội căn bổn, tức là các vị hoặc khi còn ở tại gia từng thọ năm giới Ưu bà tắc và sáu giới trọng, 28 giới khinh, hoặc sau khi xuất gia từng thọ năm chi tịnh giới, nhưng trong đó bốn loại cấm giới ban đầu: sát, đạo, dâm và đại vọng ngữ, cho đến mười giới sa di, tỳ kheo cụ túc giới, ba tụ đại giới căn bổn của Bồ tát. Nếu sau khi thọ rồi không bền lòng giữ gìn, tùy theo phạm mỗi một giới thì không được thọ lại mười giới, cụ túc giới, và đại giới Bồ tát. Nhưng tội sát đạo dâm vọng nầy so với tội sát đạo dâm vọng trong mười tội ác trước thì khổ báo càng nặng hơn, do vì phá tịnh giới của Phật.
Hòa thượng vỗ thủ xích nói.
Này các thiện nam tử! Các vị đều đã nghe xong lời tôi nói, ai nấy nên biết rõ, như trong các điều ác trên tùy theo phạm một điều nào, thì phải hướng đến tôi dốc lòng sám hối tỏ bày, mảy may không được che giấu. Nếu như có chút tỳ vết thì chính là giới chướng, ví như chiếc áo cũ đã giặt sạch, thì điều tất yếu bản thể đã sạch sẽ, khi chất bẩn dơ đã tẩy hết, thì mới có thể nhuộm được sắc mới. Tôi nay hỏi các vị, các vị nên xếp hàng theo thứ lớp, tất cả một lòng chân thật mà đáp.
Vỗ xích một tiếng.
Dẫn lễ nói:
Này các thiện nam tử! Các vị cùng nhau đứng dậy nghe tiếng khánh lạy ba lạy, lạy xong chia ra hai bên.
Nếu chúng đông thì sai ba người phát lộ một lần, ít thì một người, cứ thứ lớp như thế mà phát lộ.
Nói đến giới sư thì chớ để ngồi lâu sanh mệt, nhưng phải làm đúng theo việc, chớ nên giản lược qua loa, nhất định dạy người cũng không mệt, lòng thương yêu ân cần dạy dỗ. Còn phàm làm dẫn lễ một khi đã phát tâm phụ giúp vào pháp môn, thì nên phục vụ mọi người như phục vụ chính mình, cũng chớ từ lao nhọc, cả đại chúng phân lập xong, trước hết là hàng đứng đầu ba người hướng đến sư sám hối.
Dẫn lễ bảo:
Này các thiện nam tử! Các vị nghe tiếng khánh lạy ba lạy, nếu chúng nhiều thì một lạy cũng được, lạy xong quỳ gối chắp tay.
Giờ này các vị nên lắng trong ba nghiệp, chí thành theo lời tôi mà xưng niệm:
Nam mô Thập Phương Thường trụ Tam bảo (3 lần).
Mọi người đều xưng pháp danh mình….
Nói xong, sư vỗ xích bảo:
Này các thiện nam tử! Trước hết tôi hỏi các vị về ngũ nghịch giới chướng, kế đến là hỏi về thập ác trọng nghiệp (xét hỏi lần thứ nhất là như thế).
Lục nghịch giới chướng, kế đến hỏi các vị về thập ác trọng nghiệp (xét hỏi lần thứ hai là như thế).
Thất nghịch giới chướng, kế đến hỏi các vị về thập ác trọng nghiệp và bốn tội nặng căn bản (xét lần thứ ba, thứ tư hai cách hỏi như thế).
Văn sau nêu chung về thất nghịch, nếu xét ngũ nghịch, lục nghịch thì căn cứ vào dấu hiệu O hoặc ∆.
O Trong ngũ nghịch thì tội làm thân Phật ra máu đứng thứ năm.
∆ Trong lục nghịch thì tội làm thân Phật ra máu đứng thứ nhất.
Hòa thượng vỗ xích nói.
1/ Các vị có từng làm thân Phật ra máu không? (Có thì nói có, không thì nói không, người bên cạnh không được nhắc, hoặc dạy bảo đáp có hay không, vì e rằng đến lúc hỏi không biết. Thế nên từ trước đến giờ đã chỉ bày cặn kẽ mọi điều, giờ đây mỗi người phải tự nói, không được dạy đáp, những điều sau này cũng đồng như thế).
Này các thiện nam tử! Nên biết Đức thích Ca Như Lai, thời chánh pháp 1000 năm đã qua, thời tượng pháp 1000 năm cũng qua. Đây chính là một vạn năm thời mạt pháp, nhưng lại qua hơn 600 năm rồi. Tuy bây giờ không còn có Phật ở đời để làm thân Ngài ra máu, nhưng có thánh dung họa vẽ đúc tạc, cho đến tháp miếu thờ Xá lợi Phật, đại thừa thật tướng Bát Nhã, kinh văn liễu nghĩa viên đốn, từng đem tâm sân ác mà hủy hoại, thì tội ác cũng giống như thế, vậy các vị từng có làm không?
(Có không nên sự thật mà đáp).
O Trong ngũ nghịch thì tội giết cha là thứ nhất, giết mẹ là thứ hai.
∆ Trong lục nghịch thì giết cha đứng thứ hai, giết mẹ đứng thứ ba)
2/ Các vị có từng giết cha không? (Nên sự thật mà đáp như trước).
3/ Các vị có từng giết mẹ không? (Nên sự thật mà đáp như trước).
Con người ta có ba cha tám mẹ, nhưng nhất định là cha mẹ sanh mình ra, mới gọi là nghịch tội. Ngoài ra tuy chẳng thuộc về tội nghịch, nhưng cũng nhiếp ở trong điều hỏi cái ác của việc giết hại.
4/ Các vị có từng giết hòa thượng không? (Nên thật lòng mà đáp như trước, đây là hỏi chỉ nhiếp về thất nghịch, còn ngũ nghịch lục nghịch thì không).
∆ Trong lục nghịch giết A xà lê ở hàng thứ tư.
5/ Các vị có từng giết A xà lê không? (nên sự thật mà đáp như trước).
Trong điều này như năm loại A xà lê đã nói rõ như trước. Lại có năm giới A xà lê, như lúc còn tại gia, từng thọ tám phần trai giới thì có tám giới A xà lê, tùy theo đã từng thọ những giới nào thì hỏi những bậc A xà lê nào.
O Trong ngũ nghịch thì phá Yết ma, chuyển pháp luân Tăng thuộc hàng thứ tư.
∆ Trong lục nghịch phá Yết ma, chuyển pháp luân Tăng ở hàng thứ năm.
6/ Các vị có từng phá chuyển pháp luân Tăng không? (nên sự thật mà đáp như trước).
Trong câu hỏi này có hai loại:
Là phá Tăng luân.
Là phá Yết ma Tăng.
Có chỗ thì cho rằng phá hòa họp Tăng. Nói hòa họp Tăng chính là tổng nhiếp cả hai loại, do vì phá thì không hòa, hòa thì không phá, nay nói phá nghĩa là trái với đạo lục hòa. Phật dạy phá hòa họp Tăng có hai:
Vọng ngữ.
Tương tợ ngữ.
Hoặc yết ma, hoặc hành trù (đếm thẻ).. Nếu phá Tăng luân ít nhất là chín người, một người tự xưng là Phật, nhất định phải là người nam mới được, dù trong cương giới, hay ngoài cương giới đều có thể phá hoại. Còn chỗ phá đó là tục đế Tăng, hạn cuộc ở Nam Diêm Phù Đề, phạm tội nghịch Thâu lan giá không thể sám. Nếu phá Yết ma Tăng ít nhất là tám người, không cần phải có người tự xưng làm Phật, người nữ cũng có thể, nhưng cần ở trong cương giới riêng làm yết ma Bố tát. Còn chỗ phá đó, cũng gọi là phá Tăng đệ nhất nghĩa đế, thông cả ba châu thiên hạ, phạm phi tôi nghịch Thâu lan giá, có thể sám hối. Nói rằng phá Tăng luân, cũng là việc làm của Đề Bà Đạt Đa, nay không có tội này. Còn phá Yết Ma Tăng là việc có vậy.
O Trong ngũ nghịch tội, thì giết A la hán ở hàng thứ ba.
∆ Trong lục nghịch tội, thì giết A la hán ở thứ sáu.
7/ Các vị có từng giết A la hán không? (nên thật tâm mà đáp như trước).
Nếu ngũ nghịch, lục nghịch, thất nghịch đã không, lại còn có mười ác.
Bây giờ tôi sẽ hỏi các vị.
Giới sư vỗ xích bảo.
1. Các vị có từng giết hại sanh mạng đồng loại nam nữ không?
2. Các vị có từng giết hại tất cả sanh mạng dị loại súc sanh không? (thật tâm mà đáp như trước).
Xét về giới này, nếu lúc ở tại gia, từng đoạn mạng người có làm những chuyện quốc cấm, những chuyện nặng có liên lụy đến pháp môn nên phải ngăn, nhưng trong câu hỏi này cần phải nghiên cứu kỹ, chớ làm sơ lược qua loa. Giới sau là tội ác nặng nề của việc trộm, do loại này nếu đoạn sanh mạng của súc sanh cần phải ân cần tha thiết sám hối, không thuộc về loại chướng ngại. Nếu xuất gia rồi, tuy chưa thọ giới, nhưng ở nơi việc sát sanh nhất định không được làm. Nếu đoạn mạng người, nhất định phải ngăn và diệt tẩn. Còn đoạn mạng của súc sanh thì phải sám hối, nếu ở tại gia, xuất gia sau khi thọ giới, hễ có phạm điều này thì nhiếp trong bốn tội căn bản, phân biệt khinh trọng. Hỏi: việc khinh trọng của tội sát sanh đã nhiếp về trong bốn tội căn bản này, thì sao phải phiền phức phân biệt phán xét? Đáp: Vì để thành đủ mười điều ác, nhằm để không loạn pháp số. Nếu nhiếp chung về câu hỏi trong 4 tội căn bản, thì pháp số 10 ác đã khuyết, còn người chưa thọ giới lại có điều gì để hỏi họ.
2/ Các vị có từng trộm lấy tất cả những phẩm vật có chủ của người thế tục không? (Có hay không thì nên như thật mà đáp).
Các vị có từng trộm tài vật của tam bảo Phật Pháp Tăng không? (Có hay không thì nên như thật mà đáp).
Xét trong đây, nếu chưa xuất gia cũng như bọn cướp trộm những trọng vật của quan dân, thì quốc pháp khó dung tha, Phật luật cũng không thu nhận. Nếu trộm lấy vật của tam bảo, thì căn cứ vào bảy loại giới chướng trong kinh Thiện Sanh, còn trộm hiện tiền Tăng vật cũng nên ngăn. Nếu xuất gia rồi lúc mà chưa thọ giới, trộm lấy vật trọng có chủ và tất cả những vật của tam bảo, là do không sợ pháp vua, không tin nhân quả, không sợ đọa địa ngục, chẳng phải là đạo khí chân thật, thì cũng nên ngăn. Nếu ở tại gia, xuất gia, sau khi thọ giới có việc này thì nhiếp sau bốn tội căn bản.
3/ Các vị có từng ở trong lục thân nam nữ mà hành dâm không? (Có hay không thì nên như thật mà đáp).
Các vị có từng phá phạm hạnh của người khác, làm ô uế Tăng già lam thanh tịnh không? (Có hay không thì nên như thật mà đáp).
Xét trong đây nếu lúc chưa xuất gia, thì hành dâm trong lục thân của cha: Bác, chú, anh, em, con, cháu. Lục thân của mẹ: Cô, dì, chị, em, con gái, cháu gái, hoặc phá tịnh hạnh của tỳ kheo ni giới, hai điều này căn cứ vào trong kinh Thiện Sanh. Trong bảy loại giới chướng, ở trong lục thân mà hành dâm, làm nhiễm ô tỳ kheo ni thì phải nên ngăn. Nếu xuất gia rồi tuy chưa thọ giới, thì việc này không được làm, từ lục thân cho đến chẳng phải lục thân, tất cả nam nữ hễ làm việc bất tịnh này, cho đến làm ô uế Tăng già lam thì cũng nên ngăn. Nếu ở tại gia, xuất gia, sau khi thọ giới có thực hiện việc bất tịnh này, thì đều nhiếp vào sau bốn tội căn bản.
4/ Các vị có từng nói dối tự xưng là đã được thiền được định, được thần thông không?(Có hay không thì nên như thật mà đáp).
Ngươi sau khi xuất gia cùng ở trong Tăng, tự thân vốn chưa thọ đại giới, dối trá xưng là tỳ kheo, rồi cùng với chúng Tăng ở một chỗ đồng Bố Tát, đồng Yết Ma, đồng lợi dưỡng, nhận người cung kính lễ bái, có phạm những việc như thế không? (Có hay không thì nên như thật mà đáp).
Xét trong đây, nếu lúc chưa xuất gia, dối nói là ngộ đạo, lừa gạt hiền thánh, xem thường pháp sa môn. Nay tuy xuất gia, chẳng phải là pháp khí chơn thật, cũng khó thọ giới, theo lý nên ngăn. Nếu đã xuất gia, chưa đượm thấm giới phẩm, mà dối xưng là tỳ kheo, cùng chúng Bố Tát, Yết Ma, thọ nhận lợi dưỡng, chưa từng ngộ đạo, dối gạt tất cả, trường hợp nầy cũng phải nên ngăn và diệt tẩn. Nếu đối với người xuất gia sau khi thọ giới, phạm việc này thì nhiếp ở sau cùng trong bốn pháp căn bản.
5/ Các vị từng tuyên truyền thị phi, khiêu khích kia đây, ly gián ân ái, làm tổn hại sản nghiệp người, khiến người sầu khổ, không được an lạc không? (Có hay không thì nên như thật mà đáp).
Các vị sau khi cạo tóc, ở chung trong chúng, từng làm cho hai bên đấu tranh, khiến trên dưới bất hòa? (Có hay không thì nên như thật mà đáp).
Xét trong đây, nếu lúc tại gia từng nói lời đấu cấu ly gián, có liên can sanh mạng con người, khiến họ oán hận trọn đời, mang mãi trong lòng không thể buông thả, vì vậy phải nên ngăn. Nếu hay sửa lỗi biết quấy, sanh đại tàm quí, khổ não ai cầu khẩn thiết, cũng có thể cho thọ. Nếu xuất gia rồi, không luận là hướng đến đạo tục, tạo ra nghiệp lưỡng thiệt, khiến cho người khác bất hòa, có liên can đến gia đình thân thế thì cũng nên ngăn. Cần phải chí thành khiển trách, bỏ đi những thói ác, không làm lại nữa thì mới có thể cho thọ.
6/ Các vị có từng ngỗ nghịch khi mạn tất cả, hủy báng trên dưới, nói lời thô ác, khiến người chịu nhục, phiền não bất an không? (Có hay không thì nên như thật mà đáp).
Xét trong đây không luận là ở tại gia xuất gia, phàm hễ gây ra nghiệp ác khẩu này, thì nên dùng phương tiện mở bày dẫn dắt, tha thiết khuyên bảo, khiến cho họ biết mà sửa đổi lỗi lầm, thường khởi lòng từ nhẫn, không gây ra nghiệp ác khẩu nữa, như vậy mới cho thọ giới.
7/ Các vị có từng giả trá ngôn từ, khéo dùng văn tự, trái nghịch chơn lý, đem người không có đức, tâng bốc cho có đức; còn đối với người có đức, chê gièm không có đức, làm mê hoặc người khác, khiến họ mất chánh trí, tăng trưởng tà kiến không? (Có hay không thì nên như thật mà đáp).
Xét trong đây không luận là ở tại gia xuất gia, thọ giới cùng chưa thọ giới, từng làm những điều thất âm đức, mất nhân luân này, liên can đến quốc gia chính trị, có ngăn ngại đến pháp môn, thì không được thọ giới. Do vì giữ gìn để khỏi bị thế đế chê trách, bảo toàn tôn đức của Tăng đoàn, nếu hay thề nguyện không làm, khổ tâm tiến đạo thì có thể cho thọ giới.
8/ Các vị có từng thuận theo tình cảnh đam mê các thứ dục lạc tâm không chán bỏ, chỉ ham muốn được cho mình, không đoái hoài đến việc tổn người, không ban ân cứu giúp chút nào, làm tan mất lòng từ, cho đến không cung phụng cha mẹ, sư trưởng, quyến thuộc kẻ trên người dưới? (Có hay không thì nên như thật mà đáp).
Xét trong đây, người xuất gia nhất định trước hết nên làm trống không những vật đã có, bặt dứt phan duyên, nếu như tham cầu không chán, chẳng biết đầy đủ, thì bị trần lụy ràng buộc, bặt dứt đường đạo. Nhưng nay thời pháp mạt, Tăng sĩ đa phần giống thế tục, phận mình không xong, mà lại chìm đắm nơi duyên đời. Cho nên trước khiến cho hổ thẹn biết đủ, rồi sau có thể bảo trì giới pháp. Vả lại giới là cội gốc của chánh thuận giải thoát, giả như ở trong các cảnh chưa được giải thoát, thì bạch nghiệp sẽ đi về đâu. Cho nên không thể cho thọ giới một cách dễ dàng, mà phải khiến rửa sạch tâm trước, nhằm để gieo trồng giống đạo.
9/ Ngươi đã từng ở trong những tình cảnh trái ý khời tâm giận hờn, sân não tự thân và người khác, nguyền rủa thần minh, oán hờn thiên địa, mắng nhiếc cha mẹ sư trưởng không?(Có hay không thì nên như thật mà đáp).
Xét trong đây, phàm người xuất gia, nhất định phải nhiếp giữ tự tâm, tu nhiều về hạnh nhẫn nhục, dù gặp trái tình cảnh cũng nên tự điều phục. Khi có nghịch cảnh hiện tiền, liền buông thả tâm ý, để cho lửa sân hận bốc cháy, hoặc nguyền rủa thần minh, hoặc oán hờn thiên địa, cho đến mắng nhiếc cha mẹ sư trưởng. Người trong tục đế, còn phạm cấm hình, còn phận làm người xuất gia tu tập, đâu được dung tha. Đây là việc không biết sân não, cho nên cần phải xét hỏi kỹ càng.
10/ Các vị có từng thân cận thầy tà, theo học tập tà giáo, đọc quyển xướng kệ, coi tay bói toán, lầm giải đế lý, mù mờ dẫn dắt mọi người, tự xưng làm thầy bảo họ làm đệ tử, tự giam hãm rồi giam hãm người không? (Có hay không thì nên như thật mà đáp).
Xét trong đây, phàm là người xuất gia trước phải rõ bốn đế bốn quả, sau nương vào bát thánh đạo tu hành, mới có thể xa lìa pháp tà hư ngụy, nếu tà kiến không bỏ, tịnh giới khó thọ, cho dù có thọ giới rồi, e rằng trở thành phá nội ngoại đạo, cho nên lúc trước khi chưa thọ đại giới, lại nên xét kỷ. Hoặc có người dùng kìm kẹp tinh tấn, nhổ dứt tà căn, khiến cho kiên trì chánh tín, rồi sau mới cho trao nhận. Còn như do dự, sức tin không kiên định, vẫn phải can ngăn, nhằm để bảo trọng pháp môn, nên chọn lựa chánh tín. Gần đây kẻ ngu tà thạnh hành, rất nên nghiêm xét.
Thiện nam tử! Các vị thất nghịch thập ác đã không, còn bốn tội căn bản cầm phải hỏi.
Nếu xét về hai loại ba và bốn, thì mới hỏi tội căn bản, như văn sau sẽ trình bày rõ. Nếu xét về hai loại một và hai, thì không hẳn dùng ở đây, nhẫn đến bốn giới sát đạo dâm vọng ở văn sau, liền kết rằng:
Thiện nam tử! Trước giờ đã hỏi thập ác giới chướng, các vị đã không phạm thì gọi là pháp khí thanh tịnh. Giờ nầy các vị nên đứng dậy mà làm lễ.
(Dẫn lễ bảo lạy một lạy rồi lui ra, lại gọi hàng thứ hai vào)
1. Các vị có phạm giới sát không?
(Có hay không thì nên như thật mà đáp).
Trong đây nếu đoạn sanh mạng đồng loại gọi là phá căn bản, không cho thọ lại. Nếu giết mà mạng không chết thì căn cứ theo luật mà trị, không gọi là phá căn bản tội. Nếu đoạn mạng loài khác, thì bảo sám hối tội Đột Kiết La. Nếu đoạn mà chưa chết, thì cũng mắc tội Đột Kiết La. Nếu tâm không cố ý giết mà trong khi sử dụng máy móc vô ý làm tổn thương, nên sám hối tội Đột Kiết La trách tâm, nhưng về sau phải cẩn thận chớ để việc dáng tiếc xảy ra nữa. Nếu lúc tại gia, thọ 6 giới trọng 38 giới khinh Ưu Bà Tắc, không luận là đồng loại hay chẳng phải đồng loại, hễ khởi tâm sân ác đoạn mạng sống của chúng thì đều gọi là phá căn bản, rộng như trong quyển Đại Thừa Thập Nhị Môn Phân Biệt Quyền Nghĩa có chép rõ.
2. Các vị có phạm giới trộm không?
(Có hay không thì nên như thật mà đáp).
Trong đây nếu trộm 5 tiền, gọi là phá căn bản, không cho thọ lại, nếu ít hơn năm tiền cho đến một tiền phải bảo sám hối tội Đột Kiết La. Nếu trộm hơn năm tiền, thì xét theo số tiền mà định tội, đều không cho sám hối, rộng như trong quyển Đại Thừa Thập Nhị Môn Phân Biệt Quyền Nghĩa có chép rõ.
3. Các vị có phạm giới dâm không?
(Có hay không thì nên như thật mà đáp).
Trong giới nầy, năm chúng xuất gia, đoạn hẳn dâm dục, còn hai chúng tại gia chỉ đoạn tà dâm, đối với thê thiếp mình, lại ngăn ở chỗ phi thời, phi xứ, phi thời là hoặc trong ban ngày, hoặc 6 ngày trai. Bát vương, 3 tháng trai trong năm, hoặc vợ mình có mang, sau khi sinh sản … phi xứ là trừ miệng, đường đại tiểu tiện ra. Nếu kiến cơ thì khai cho, nhưng chỉ đối với hàng Bồ Tát tại gia, xuất gia quyết không cho. Hễ 7 chúng thọ giới, làm hạnh bất tịnh này đều gọi là phá căn bản, hoặc không có tâm hỉ lạc, làm mà không thành, thì căn cứ cứ theo luật mà trị không gọi là phá căn bản, rộng như trong quyển Đại Thừa Thập Nhị Môn Phân Biệt Quyền Nghĩa có chép rõ.
4. Các vị có phạm giới vọng ngữ không?
(Có hay không thì nên như thật mà đáp).
Trong giới nầy nếu tự nói ta được Pháp thượng nhơn, được thiền, được định, được quả chứng, thiên long bát bộ đều đến cúng dường. Nếu nói ở trước mặt người khác mà họ lãnh hội rõ ràng thì gọi là phá căn bản. Nếu nói mà không rõ ràng thì có khai cho, rộng như trong quyển Đại Thừa Thập Nhị Môn Phân Biệt Quyền Nghĩa có chép rõ.
Thiện nam tử, trước giờ tôi đã hỏi về mười ác giới chướng, và bốn tội căn bản các vị đã không phạm. Thì gọi là tịnh khí, nên đứng dậy lui ra.
Dẫn lễ bảo:
Tất cả đứng dậy, nghe tiếng khánh lạy 3 lạy, nếu chúng đông thì lạy 1 lạy cũng được, ra khỏi đường lên chánh điện lễ Phật, đợi đánh kiền chùy đại chúng vào trong giới đường sám hối hồi hướng, mọi người làm lễ lui ra xong, lại bảo:
Hàng thứ hai ra chúng phát lộ sám hối.
Như thế có bao nhiêu hàng cứ theo thứ tự kiểm tra xong, đánh kiền chùy 3 tiếng, những người cầu giới từ từ tiến vào giới đường sắp xếp theo thứ tự như trên.
Dẫn lễ nói:
– Tất cả đều ra trước xếp hàng, nghe tiếng khánh lạy 3 lạy, quỳ gối chắp tay.
Sư vỗ xích nói:
Thiện nam tử! Lúc các vị ở trước tôi, mỗi người đều bày tỏ lỗi lầm của mình, nên tư duy sám hối, trong giới đường trên đất già lam, tam bảo quang lâm, vạn thần thủ hộ, ngũ nhãn đều thấy lục thông đều biết và như có các lỗi lầm khác chưa gột trừ, không ngăn mở bày lòng dạ hướng đến tôi mà nói lại, giống như chuyện giặt y cũ, tuy bỏ vết dơ, nhưng cần phải giặt đi giặt lại, mới có thể dễ dàng thọ y nhiễm sắc. Thế nên bây giờ tôi lại hỏi, các vị lại đáp, giả như không có phạm, thì đáng gọi là pháp khí trong sạch chơn thật, nếu có thì mà bước lên giới phẩm.
Vỗ xích 1 tiếng
Các vị đã nói tội ra hết chưa.
(Có không nên thật tình mà trả lời)
Trong đây có người hoặc trước quên sau nhớ, đáp rằng chưa nói xong. Giới sư vỗ xích hỏi: Các vị có việc gì chưa từng nói ra không? Giờ đây ở trước tôi mà nói sự thật. Căn cứ vào 3 khoa: ngũ nghịch, lục nghịch, thất nghịch, nên xét hỏi kỹ càng, để định cho biết khinh trọng.
Thư ký ghi chép tên người, tội danh đã phạm, sau đó rời khỏi vị trí đến trước chỗ sư xá một xá rồi trình lên sự việc, nếu nhẹ thì ngay nơi tòa suy lường mà trừ bỏ, còn nặng thì trình lên Hòa thượng, hoặc tùy theo căn cơ mà cứu giúp. Căn cứ theo cách tác pháp của Đại Thừa Phương Đẳng mà quyết định chứ chưa thể biết trước được.
Thiện nam tử, các vị tuy đã phát lồ xong, nhưng chỉ là những việc làm ở hiện đời. Tuy nhiên, từ vô thỉ đến nay, lúc chưa biết Phật, chưa nghe Pháp, chưa gặp Tăng, thọ vô lượng thân hình, tạo vô lượng tội nghiệp, hình thức mê mờ, không biết không hay. Chỉ có Chư Phật Bồ Tát, mới thấy biết rõ hết, bao nhiêu tội ác, hoặc nặng hoặc nhẹ. Ngày nay hướng đến 10 Phương Tam Bảo, khát ngưỡng kiều cần, chí tâm tác quán nói theo tôi, dốc lòng sám hối, mỗi người đều xưng pháp danh.
Đại chúng xưng pháp danh xong. Sư cử bài kệ:
(Chúng hòa đảnh lễ)
Con xưa đã tạo bao ác nghiệp
Đều bởi vô thỉ tham sân si
Từ thân miệng ý mà sanh ra
Nay đối trước Phật xin sám hối.
Con xưa đã tạo bao ác nghiệp
Đều bởi vô thỉ tham sân si
Từ thân miệng ý mà sanh ra
Tất cả tội chướng đều sám hối.
Con xưa đã tạo bao ác nghiệp
Đều bởi vô thỉ tham sân si
Từ thân miệng ý mà sanh ra
Tất cả tội căn đều sám hối.
Khi thọ các giới của Phật thường thông dụng bốn câu kệ này, sám hội tội khiên từ vô thỉ, chẳng phải đơn cử hòa theo mà thôi, phàm làm Thầy, nên khởi lòng đại bi, nhổ bật hết nỗi khổ tâm. Người cầu sám hối nhất định đầy đủ lòng tin sâu xa, ý niệm tàm quý. Cất lên một tiếng nầy, âm thanh thấu suốt đến khắp hằng sa cõi nước của chư Phật. Vận một niệm nầy, thân hình biến khắp tòa Chư Phật. Tuy nhiên thân ta chẳng đi qua, Chư Phật cũng không từng đến, cảm ứng đạo giao, năng sở đều vắng lặng.
Lại nguyện đem công đức sám hối này, hồi hướng cùng khắp tất cả chúng sanh trong pháp giới, nghiệp chướng tiêu trừ, mau thoát biển khổ trầm mê, cử hòa như thế mới gọi là hạnh nguyện sám hối chân Thật của Phổ Hiền vậy.
Sám hối công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi hướng
Phổ nguyện trầm nịch chư hữu tình
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát
Thập phương tam thế nhất thiết Phật
Nhất thiết Bồ Tát Ma Ha Tát
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
Trước giờ sám hối đã xong, mỗi người nên định tĩnh tâm tư lự, sám sửa y bát và những điều nên học trong luật, tất cả kinh sách phải nên tìm hỏi, cung kính đợi Hòa thượng, sớm mai thăng tòa, xin thọ 10 giới Sa di. Vậy các vị có thể y giáo phụng hành không?
Đáp: Y giáo phụng hành.
Trong khi xét hỏi nếu không có người phạm tội trọng có thể ngăn, thì như thường lệ mà xuống tòa. Nếu có can phạm tội trọng có thể ngăn, thì sư nên đối với đại chúng nói rằng:
Nay ở trong chúng mỗ giáp… đây có phạm trọng có thể ngăn, tội chướng cực trọng này, trong luật Phật chế phải nghiêm cấm, tôi đây không dám tự quyết. Sớm mai trình bạch Hòa thượng, hội đồng Thượng tòa ư Tăng, nếu có thể đề bạc, thì căn cứ theo giáo ứng cơ, hòa thượng tự có phương tiện. Nếu không kham đề bạt thì dù Chư Phật có ra đời cũng khó mà cứu giúp. Vì vậy phải phát lòng rất hổ thẹn, không thể cho là chuyện thường, nên theo chúng mà lui,
Dẫn lễ nói : Tất cả đứng dậy
Nghe tiếng khánh lạy 3 lạy, lạy xong phân ban.
Người nghinh thỉnh đưa sư trở về liêu
Đưa Sư trở về liêu rồi, lại đến Yết Ma đường người mới cầu giới, lễ tạ các vị dẫn lễ, Thư ký 3 lạy, để đáp tạ sự giúp đỡ tác pháp, công đức thành tựu sám hối.
Dẫn lễ dẫn chúng lên điện, dạy họ suốt đêm lạy Phật, tất cả đều phải kiền thành, chớ sanh lòng lười biếng.
6. TRÌNH TỘI XỨNG LƯỢNG:
Nếu trong khi xét hỏi có người phạm trọng, sớm đến các vị dẫn lễ, hội đồng thư ký. Trước hết nên ở nơi điện đường tra hỏi cho rõ nhân số bao nhiêu, bảo tập trung riêng một chỗ, những người kia hướng đến dẫn lễ và thư ký lạy một lạy rồi đứng qua một bên.
Dẫn lễ nói:
Đêm hôm qua Yết Ma trong giới đường sau khi thẩm vấn, đem những lời phát lồ của các vị ghi chép vào sổ. Nhưng việc này rất quan trọng, tôi nay trước dẫn các vị đến liêu của Thầy Yết Ma, cầu xin thương xót, đồng đến phương trượng, trình bạch Hòa Thượng, các vị phải đi theo tôi.
Người phát lồ theo dẫn lễ, thư ký đến liêu thầy yết Ma, làm lễ như phép thường miệng tự nói ra lời khải thỉnh, khẩn cầu tác pháp cứu bạt.
Thầy Yết Ma nói :
Các vị tự nêu ra lỗi lầm, đáng gọi là người biết tàm quí, nhưng thiện ác do tâm, tội phước tự chọn, may mà các vị quán xét đó là quấy, còn có thể tìm ra phương tiện cứu giúp. Huống chi các vị cầu khẩn chí thành, tôi nay nở lòng nào ngồi nhìn, vì vậy các vị theo tôi đến phương trượng, để biết rõ các việc nên không. Tất cả lắng nghe lời thầy Hòa thượng dạy bảo.
Nghe xong lạy một lạy, đứng dậy, liền theo dẫn thỉnh sư đến phương trượng, dẫn lễ để đương sự đứng đợi ở ngoài cửa. Trước hết là thị giả vào thông tri, bạch lại với Hòa thượng, Hòa Thượng ra phương trượng thăng tòa, thầy Yết Ma lạy một lạy. Kế đến dẫn lễ Thư ký cùng lạy 3 lạy, trình lên danh sách phạm tội, hòa thượng mở xem liền sai thị giả thỉnh chư vị Xà Lê và thủ lảnh của các đường đến phương trượng xong, mọi người đồng lạy Hòa thượng 3 lạy. Phân ra hai bên dẫn lễ gọi đương sự bên ngoài tiến vào đến trước tòa, như phép thường mà đảnh lễ, chắp tay quì gối.
Hòa thượng vỗ xích nói :
Các vị tuy phát lòng tốt, cầu xin giới pháp sao lại tạo trọng tội làm ô uế đạo khí, trong luật chế nghiêm cấm, còn nhơn tình khó mà dung thứ. Nếu như có đầy đủ đại hỗ thẹn, phát đại đạo tâm, tôi nay cùng với hội đồng sư Tăng biết luật, noi theo sám pháp đại thừa Phương Đẳng, phương tiện cứu giúp.
Xét trong kinh Tam thiên Chư Phật Danh. Phật dạy: “Nếu có chúng sanh, muốn trừ diệt bốn tội trọng, muốn sám hối tội ngũ nghịch thập ác, muốn được trừ diệt tội cực trọng, pháp không căn cứ vu báng, thì nên siêng năng đảnh lễ danh hiệu Phật và 3000 vạn đức hồng danh Chư Phật. Bởi do Chư Phật được tôn xưng là Đại sư của 3 cõi, cha lành 4 loài, không có khổ nào mà không cứu, không có niềm vui nào mà không cho. Chúng sanh dù chỉ có một mãi tơ thiện căn, Phật liền duỗi tay cứu vớt. Còn lúc lễ sám cần phải tắm rửa thân mình, giặt giũ y phục, sắm đầy đủ nhang đèn, từ 7 cho đến 49 ngày. Cầu thấy hảo tướng, nếu thấy hảo tướng điềm lành hoa quang hiện, thì biết tội lỗi tiêu diệt hết không còn ngờ gì nữa, liền trở lại đạo khí thanh tịnh. Giả như trong lúc lễ sám, hoặc tâm không chuyên nhất, hoặc oai nghi không cung kính không tin tội phước, không sợ địa ngục. Lòng từ của Phật tuy bủa khắp, cảm ứng đạo giao như mặt trời rực sáng trên không, nhưng nước đục thì không thể nào ảnh hiện. Tại sao chẳng như thế.
Vỗ xích một tiếng:
Các vị có thể y giáo phụng hành không?
Đáp: Y giáo phụng hành.
Hòa thượng hướng đến hai bên đề nghị rằng:
Các đại đức nay căn cứ theo giáo pháp Phương Đẳng cho đương sự sám hối được không?
Đại chúng đều đáp:
Được.
Hòa thượng nói: Các đại đức đã đồng lòng hứa khả đều nói là được. Bổn đường dẫn lễ giúp người ấy chọn chỗ để an trí. Liền phải chí thành nhiếp tâm lễ sám, khi lễ sám xong, lại bạch rằng:
Dẫn lễ dạy họ pháp lễ sư như thường lệ, nhưng vẫn đứng yên bên cửa. Chư vị Xà Lê lễ bái xong, đợi Hòa thượng vào thất, sau đó đều giải tán. Dẫn lễ đem giới tử đến các nơi để lễ tạ. Liền ở trước mỗ giáp… Phật tượng lễ sám. Nếu lễ sám xong, trước bạch dẫn lễ sư ở bổn đường, hoặc thấy hảo tướng hoặc nói không thấy. Kế đến dẫn lễ mới dẫn đến liêu của Yết Ma Sư cũng bạch như thế. Bèn dẫn đến các ty đường lễ thỉnh đại chúng vân tập ở phương trượng, vân tập xong rồi đem người lễ sám đứng ở ngoài cửa, đợi Hòa thượng ra thất thăng tòa xong, sau đó quì xuống. Hòa thượng căn cứ vào chúng hỏi rõ việc lễ sám của người kia, đã thấy hảo tướng chưa. Nếu đáp đã thấy thì vẫn căn cứ vào trong kinh. Lại xét nguyên do của việc thấy hảo tướng đó có được không. Nếu xét kỹ đúng như thật thì liền cho thọ giới, còn như lời nói tương tợ, cho đến nói không thấy hảo tướng, hòa thượng rửa tay đốt nhang, đích thân viết 3 cái thăm:
Một cái viết cho thọ.
Một cái viết cho sám hối lại.
Một cái viết không cho.
Hòa thượng dẫn đại chúng lên chánh điện, đem 3 cái thăm dâng lên trước Phật, hòa thượng niêm nhang đảnh lễ thầm cầu nguyện rằng:
Ngưỡng bạch 10 phương pháp giới đại giác thế tôn tất cả Bồ tát. Nay có mỗ tỉnh… mỗ quận… mỗ giáp… phát tâm. Ở chỗ con là tỳ kheo mỗ giáp… xin thọ tịnh giới, người ấy đã ở nơi hiện đời tạo nghiệp cực ác. Can phạm mỗ… trọng giá hủy phá phạm mỗ… cấm giới. Con tỳ kheo mỗ giáp… không dám trái luật Phật chế mà tự cho thọ giới, đã từng noi theo Đại Thừa Phương Đẳng, bảo họ đảnh lễ hồng danh Chư Phật. Xưng đúng vạn đức Thánh hiệu, cầu thấy bảo tướng, người ấy đã lễ xong, tướng hảo thì chưa thấy, hoặc sợ tội chướng sâu dày lòng tin kém cõi, ba nghiệp không kiền thành, nên nay đối trước chư Phật Bồ tát, thay cho đương sự thành khẩn cầu xin. Cúi mong không bỏ chúng sánh được thọ giới pháp, từ bi nhiếp thọ, khiến cho đạo khí thanh tịnh, tội nghiệp tiêu trừ, được vâng thọ giới pháp, như luật tu hành, và khiến cho tất cả cấm giới đã hủy phá, tạo ác nghiệp hữu tình, cùng vào trong biển tánh Tỳ Lô Như Lai, đầy đủ đoạn đức, pháp Phật tròn đầy, nay lấy 3 lá thăm này làm chuẩn cứ, thánh giám vô tư. Càng thêm xót thương, thùy từ tiếp thọ.
Hòa thượng vận tưởng cầu nguyện như thế, đảnh lễ 3 lạy. Kế đến đại chúng cũng phát lòng đại bi cứu khổ, đảnh lễ 3 lạy, đây chính là pháp nghi hạnh môn của Phổ Hiền chớ khởi ý tưởng tùy chúng. Đại chúng lạy xong đứng sang hai bên dẫn lễ gọi người cầu sám hối tiến vào, dạy khiến phải chí thành phát nguyện, vận tâm tác quán lễ khắp 10 phương thường trụ Pháp giới Tam Bảo. Lạy ba lạy xong quì xuống, ở trước Phật tùy ý bốc một lá thăm rồi mở ra cho đại chúng xem. Nếu bóc lá cho thọ trì thì liền bảo đồng chúng thọ giới. Nếu bốc nhằm lá cần phải sám hối trở lại thì nên như pháp mà lễ sám, sám xong liền cho thọ giới không cần phải bốc thêm thẻ nữa. Nếu bốc trúng lá không cho thọ thì cần phải lễ sám, càng thêm khắc khổ không hạn kỳ số, nhất định phải lấy việc bốc trúng thẻ cho thọ làm kỳ hạn như thế một lần, hai lần cho đến số mười lần. Việc tác pháp tập chúng nhất nhất như trên. Nhưng tất cả những lời điều Phật chế quyết không dị tình. Nếu ban đầu thẩm định sám theo pháp thường, thì sau khi thọ rồi làm sao có thể bền giữ? Cho nên trong nghi này việc tác pháp có sự trùng lặp, nhưng chớ chê là nhiều điều vụn vặt. Tất cả đều khiến cho thầy trò được thanh tịnh, mình và người đều lợi ích. Ngõ hầu, trồng cây quang minh giới tràng thời mạt vận, lắng trong biển pháp Tì Ni đó thôi.