SÁM ÐẠI TỪ
(Thập phương diễn nghĩa I)
Mười phương cõi Phật hằng sa,
Pháp vương thứ nhứt Di Ðà lớn thay,
Cảm oai đức Phật cao dày,
Ao sen chím phẩm độ nay phàm tình.
Tôi tin có Phật gởi mình,
Một bề lánh dữ theo lành mà thôi,
Phước lành bằng chút mảy chồi,
Gắng làm cho trọn lòng tôi không rời.
Nguyện đồng niệm Phật mỗi người,
Cầu cho cảm ứng theo thời hiện ra,
Mãn duyên thấy Phật Di Ðà,
Tây phương chói rạng sáng lòa mắt tôi.
Kẻ nghe người thấy tiếc ôi,
Rủ nhau tin tưởng lần hồi tu theo,
Tỏ đường sanh tử các điều,
Y như Phật dạy, dắt dìu chúng sanh.
Dứt lòng phiền não mê tình,
Không lường pháp nhiệm nguyện hành học tu,
Thệ nguyện độ hết phàm phu,
Ðều nên đạo Phật ngao du độ đời.
Lòng này chẳng dám lộng khơi.
Hư không mòn hết nguyện tôi còn hoài,
Nguyện cho cây, cỏ, đá, chai,
Bò, bay, máy, cựa, các loài thung dung,
MỘT là nguyện Phật thần thông,
Chứng minh đệ tử thành công lâu dài.
HAI là nguyện lạy Như Lai,
Cầu cho già trẻ gái trai làm lành.
BA là phát nguyện chí thành,
Cúng dường Tam Bảo tứ sanh khỏi nàn.
BỐN là nguyện dứt nghiệp oan,
Vượt qua biển khổ ba đường thoát qua,
NĂM là nguyện học Thiền na,
Bạn lành nương cậy thầy tà lánh xa.
SÁU là nguyện Phật nói ra,
Xoay vần chánh pháp khắp tòa đặng nghe.
BẢY là nguyện Phật chở che,
Ở lâu dạy bảo người nghe tỏ lòng.
TÁM là nguyện bạn ở chung,
Những lời Phật dạy học cùng với nhau.
CHÍN là nguyện trước nhớ sau,
Thuận theo thế tục dám đâu trái lời.
MƯỜI là nguyện khắp trong đời,
Quay mình bước tới thẳng dời Lạc bang.
Tôn sư diễn nghĩa ít hàng,
Cầu cho bá tánh Tây phương mau về.
– Bài sám của Tổ Ðại Từ trước tác- Chưa rõ xuất xứ của Tổ – Ðược in trong hầu hết các kinh Nhựt Tụng từ xưa đến nay – Là bài sám Thập phương nghĩa, biên giả đặt cho mã số thống kê trong các dị bản là I.
SÁM THẬP PHƯƠNG (II)
Mười phương chư Phật ba đời,
Di Ðà bực nhứt chẳng rời quần sanh,
Sen vàng chín phẩm sẵn dành,
Oai linh đức cả đã đành vô biên.
Nay con dưng tấm lòng thiền,
Qui y với Phật sám liền tội căn,
Phước lành con có chi chăng,
Ít nhiều quyết cũng nguyện rằng về Tây.
Nguyện cùng với bạn tu đây,
Tùy thời cảm ứng hiện nay điềm lành.
Biết giờ biết khắc rõ rành,
Lâm chung tận mặt cảnh lành Tây phương.
Thấy nghe chánh niệm hơn thường,
Vãng sanh lạc quốc đồng nương hoa vàng,
Hoa nở thấy Phật rõ ràng,
Thoát vòng sanh tử độ an muôn loài.
Phiền não vô biên thệ dứt trừ,
Pháp môn tu học chẳng còn dư,
Chúng sanh nguyện độ bờ kia đến,
Phật đạo cùng nhau chứng trí như.
Hư không cõi nọ dẫu cùng,
Nguyện trên còn mãi chẳng cùn, chẳng thiên.
Không tình cùng với đồng nguyền,
Trí mầu của Phật đồng viên đồng thành.
Nay con lại nguyện tu hành,
Phổ Hiền nguyện lớn sẵn dành mười môn.
Một là nguyện lạy Thế Tôn,
Hiện thân trước Phật hết lòng kính tin.
Hai khen Phật đức rộng thinh,
Lời hay tiếng tốt tận tình ngợi ca,
Ba thời sắm đủ hương hoa,
Tràng phan bảo cái dâng ra cúng dường.
Bốn vì mê chấp lầm đường,
Tham sân nghiệp chướng con thường sám luôn.
Năm suy công đức vàn muôn,
Của phàm của thánh con đồng vui ưa.
Sáu khi Phật chứng thượng thừa,
Pháp mầu con thỉnh đã vừa truyền trao.
Bảy lòng chẳng chút lãng xao,
Cầu xin chư Phật chớ vào Vô dư.
Tám thường tu học Ðại thừa,
Bao giờ bằng Phật mới vừa lòng con.
Chín thề chẳng dám mỏi mòn,
Dắt dìu muôn loại đều tròn pháp thân.
Mười đem tất cả công huân,
Mọi loài cùng hưởng khắp trần cùng vui.
Mười điều nguyện lớn nguyện rồi,
Nguyện về Cực lạc nguyện ngồi tòa sen.
– Bài sám Thập phương diễn nghĩa này chưa rõ xuất xứ – chỉ biết được sử dụng trong hầu hết kinh Nhật Tụng miền Trung và miền Nam. Có thể do hai Ngài : Tổ Bích Liên hoặc Tổ Huệ Ðăng trước tác?
– Theo thứ lớp sắp đặt, Biên giả cho mã số diễn nghĩa là II.
SÁM THẬP PHƯƠNG (III)
Thập phương diễn nghĩa một trương,
Ai dùng thời chép để thường tụng kinh.
Tụng rồi quỳ trước Phật đình,
Âm thanh tán thán độ mình nhiều phương,
Phật truyền khắp hết mười phương,
Thấy trong ba cõi cảm thương vô cùng.
Chín từng hoa nở đơm bông,
Các hàng Phật tử phụng rồng xung quanh.
Con nay sám tán hiệu danh,
Mãn duyên thời đặng chẳng thành lẽ đâu,
Tấm lòng chí quyết kính cầu,
Trước thời tưởng Phật sau hầu về Tây.
Muốn cho trả đặng ơn dày,
Phải toan thẳng đến tầm Thầy cầu duyên.
Bổn sư là Phật hiện tiền,
Ðạo làm đệ tử cầu nguyền hỏi han,
Nhờ Thầy chỉ dẫn Tây phang.
Thành công đắc quả biết đàng mà đi,
Bồ đề là đạo từ bi.
Liễu đường sanh tử hết nghi tấm lòng,
Chớ đừng trễ nải long đong,
Dứt tâm phiền não chứa lòng pháp môn.
Di Ðà đức Phật Thế Tôn,
Từ bi độ chúng không môn thẳng vào.
Lời Phật như thể non cao,
Ai mà theo Phật khỏi vào Diêm La.
Trời cao đất rộng hằng sa,
Hư không mòn hết nguyện ta còn hoài.
Một là lạy Phật hôm nay,
Các vì chư Phật kim đài chứng tri.
Hai là thọ phái quy y,
Thích Ca Văn Phật Mâu Ni độ đời.
Ba là tín nhiệm Phật trời,
Chúa tôi phải đạo đáng nơi cúng dường.
Bốn là lạy Phật mười phương,
Xin cho nghiệp chướng tai ương lánh mình.
Năm là các vị thần linh,
Vui cười cả thảy quỉ tinh yêu tà.
Sáu là với huyễn thân ta,
Linh hồn theo Phật liên hoa hiền tiền.
Bảy là lạy Phật ở yên,
Dứt đường sanh tử lưu truyền hưng long.
Tám là Phật ở nơi trong,
Phàm tình chẳng thấy, dẫy đầy Phật đâu.
Chín là tỏ đặng pháp mầu,
Trường sanh bất tử độ đời chúng sanh.
Mười là bỏ dữ làm lành,
Khắp trong sa giới quốc thành đặng an.
Tôn sư diễn nghĩa ít hàng,
Cầu cho bá tánh Tây phương mau về.
– Bài sám Thập phương diễn nghĩa nầy do Tổ Huệ Ðăng trước tác – Theo lời xác nhận của Hòa thượng Pháp Lan chùa Khánh Hưng TPHCM. Vào khoảng năm – 1930 tại chùa Thiên Thai – Bà Rịa.
– Biên giả cho mã số diễn nghĩa là III.
SÁM THẬP PHƯƠNG NGHĨA (IV)
Bích Liên Pháp Sư
Mười phương cả Phật ba đời,
Di Ðà thứ nhứt tột vời quang minh.
Phân làm chín phẩm độ sanh,
Oai thần đức thánh minh minh khôn cùng.
Tôi nay rộng phát một lòng,
Qui y sám hối ba vòng nghiệp khiên.
Hễ phàm có mấy phước duyên,
Hết lòng hồi hướng mà chuyên làm lành.
Nguyện người niệm Phật với mình,
Lúc nào cảm ứng quang minh cho tường.
Lâm chung nguyện cảnh Tây phương,
Hiện ra trước mặt rõ ràng chẳng sai.
Kiến văn tinh tiến cả hai,
Ðồng về cõi Phật trong đài Liên hoa.
Thấy Phật sanh tử liễu qua,
Như Phật độ hết những là chúng sanh.
— Nguyên tác của Hòa Thượng Bích Liên, do Hòa Thượng Khánh Anh sao lục trong “Phật hóa gia đình”, Sao Mai ấn hành 1951. Thư viện Phật học Xá Lợi tàng bản.
Bài chỉ thấy chép có như thế, không biết có mất đoạn cuối chăng? Nếu theo chánh văn thì còn bốn câu nữa của Tứ hoằng thệ nguyện.
SÁM THẬP PHƯƠNG NGHĨA (V)
Khánh Anh Pháp Sư
Cả ba đời cùng mười phương Phật,
A Di Ðà bậc nhất vì duyên,
Uy thần phước đức vô biên,
Dựng đài cửu phẩm độ miền cầu sanh.
Con chí thành nghiêng mình sám hối,
Ý khẩu thân hết tội ngu hèn,
Có bao phước quả thiện căn,
Hướng về Tịnh độ hay rằng tịnh bang.
Nguyện đồng đàn những trang niệm Phật.
Cảm ứng theo hiện thật chứng cho,
Thân sắp mãn, cõi Phật phò,
Thấy nghe tiến tới, nức nô sanh về.
Trông Bồ đề thoát bề sanh tử,
Như Phật đà độ thảy vong, tồn,
Lắm phiền não, nhiều pháp môn,
Bao phiền cũng đoạn mấy tôn cũng trì.
Với điều ni loài chi cũng độ,
Và đều thành Phật hộ “Tứ hoằng”,
Cõi không tội nguyện không ngằn,
Tình với không tình đều thành giống trí.
— Trích trong “Phật hóa gia đình” của Hòa Thượng Khánh Anh soạn, Nhà in Sao Mai ấn hành, Sài Gòn, 1951. Thư viện Xá Lợi tàng bản.
— Người soạn có sửa lại câu cuối cho hợp số chữ song thất lục bát.