PHẬT GIÁO VỚI  DÂN TỘC

Hòa Thượng THÍCH THANH TỪ

 

 

PHẬT GIÁO TRONG MẠCH SỐNG DÂN TỘC

Là người Việt Nam, bất luận bình dân hay trí thức, chúng ta đều thấy có trọng trách tìm hiểu những gì liên hệ với dân tộc và đất nước thân yêu của mình. Sự tìm hiểu ấy giúp cho chúng ta có nhận thức chính xác về tư tưởng, tánh tình đồng bào ta. Nếu là người trí thức Việt Nam mà không biết gì về truyền thống của dân tộc thì không xứng đáng là trí thức. Thế nên, sự nghiên cứu những mối liên quan với dân tộc, thực là điều kiện tối thiểu của những người yêu dân tộc, quê hương xứ sở.

Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly. Tư tưởng đạo Phật đã thấm nhuần tinh thần dân tộc. Bởi sự liên hệ mật thiết này nên người dân Việt coi đạo Phật là đạo của tổ tiên truyền lại. Đạo Phật bị phá hoại thì tinh thần dân tộc cũng lung lay. Vì thế, để bảo vệ tinh thần dân tộc, gìn giữ tín ngưỡng truyền thống của tổ tiên, người Việt Nam tự thấy có bổn phận bảo vệ đạo Phật một cách hồn nhiên.

Muốn thấy rõ những mối liên quan mật thiết giữa đạo Phật với dân tộc Việt Nam thế nào, chúng ta nên tuần tự phân từ mối một.

Chương I: LỊCH SỬ

A. ĐẠO PHẬT CÓ MẶT TRÊN LÃNH THỔ VIỆT NAM

Đạo Phật có mặt trên lãnh thổ Việt Nam khoảng cuối thế kỷ thứ 2 đầu thế kỷ thứ 3, do các ngài Khương Tăng Hội, Mâu Bác truyền vào. Đến thế kỷ thứ 6, 7, 8, do các ngài Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông chánh thức truyền Thiền tông vào Việt Nam, nền Phật giáo Việt Nam dần dần sáng tỏ. Mãi đến thế kỷ thứ 10, 11 về sau, từ đời Đinh, Lê, Lý, Trần, nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, Phật giáo cũng đã từng góp phần lớn lao xây dựng đất nước, giáo hóa đồng bào.

B. ĐẠO PHẬT VIỆT NAM GẮN LIỀN CÙNG DÂN TỘC VIỆT NAM

1.- THỜI VẺ VANG CỦA DÂN TỘC VÀ PHẬT GIÁO

Đánh đuổi quân Nam Hán, dẹp yên các loạn thần, Ngô Quyền xưng vương năm 939 Tây lịch, nước Việt Nam khởi màn tự chủ từ đây. Nhưng còn phải trải qua cuộc nội loạn của mười hai Sứ quân, đợi đến Đinh Bộ Lĩnh ra tay dẹp sạch, thâu về một mối, lên ngôi Hoàng đế năm 968 Tây lịch. Thời đại này, Thiền sư Ngô Chân Lưu được phong chức Khuông Việt thái sư năm 971 Tây lịch. Thế là, Phật giáo bắt tay vào việc tham chánh.

Qua chức Khuông Việt thái sư của nhà vua phong, chúng ta đã ý thức sự đóng góp quan trọng của Thiền sư trong công cuộc cứu quốc và kiến quốc như thế nào rồi. Người Việt Nam vừa giành lại được chủ quyền, mọi mặt: văn hóa, chánh trị, học thuật… đều thiếu kém, các vị Thiền sư thấy có bổn phận đứng ra góp tay chung sức  xây dựng xứ sở, kiến thiết quốc gia để đưa dân tộc đến chỗ vinh quang. Vì thế, Phật giáo đã có mặt trên chánh trường.

Nhà Đinh mất, nhà Lê thay thế, năm 986 Tây lịch. Tống triều sai bác sĩ Lý Giác sang sứ Việt Nam. Để cho Bắc triều giảm bớt kiêu khí và không còn khinh dân Việt Nam là giống man di, vua Lê Đại Hành nhờ Pháp sư Đỗ Thuận đóng vai người chèo đò đưa sứ sang sông, Khuông Việt thái sư đón tiếp sứ tại triều.

Khi con thuyền rẽ sóng bập bềnh trên mặt nước, ngồi trước mui thuyền, Lý Giác chợt thấy cặp ngỗng thong thả bơi chập chờn trên dòng sông xanh biếc. Vốn sẵn tâm hồn thi sĩ, Lý Giác khẩu chiếm hai câu thơ:

Nga nga lưỡng nga nga,
Ngưỡng diện hướng thiên nha.

Dịch:

Song song ngỗng một đôi,
Ngửa mặt ngó ven trời.

(Thích Mật Thể)

Pháp sư tay cầm chèo, chèo đều theo nhịp sóng, ứng khẩu tiếp hai câu:

Bạch mao phô lục thủy,
Hồng trạo bải thanh ba.

Dịch:

Lông trắng phơi dòng biếc,
Sóng xanh chân hồng bơi.

(Thích Mật Thể)

Lý Giác ngạc nhiên, không ngờ anh chèo đò Việt Nam lại có tài xuất khẩu thành thi một cách thần diệu như vậy.

Tại triều, Lý Giác được sự tiếp đón lịch thiệp tao nhã của Khuông Việt thái sư, ông thêm phần kính nể. Trước khi ra về, Lý Giác làm bài thơ tặng vua Lê Đại Hành để tỏ lòng kính mến của mình:

Hạnh ngộ minh thời tán thạnh du,
Nhất thân lưỡng độ sứ Giao Châu.
Đông Đô tái biệt tâm vưu luyến,
Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu.
Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch,
Xa từ thanh chướng phiếm trường lưu.
Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu,
Khê đàm ba tịnh kiến thiềm thu.

Dịch:

May gặp minh quân giúp việc làm,
Một mình hai lượt sứ miền Nam.
Mấy phen qua lại lòng thêm nhớ,
Muôn dặm non sông mắt chửa nhàm.
Ngựa đạp mây bay qua suối đá,
Xe vòng núi chạy tới giòng lam.
Ngoài trời lại có trời soi rạng,
Vừng nguyệt trong in ngọn sóng đầm.

(Thích Mật Thể)

Khuông Việt thái sư thay triều đình làm một bài thơ tiễn Lý Giác:

Trường quang phong hảo cẩm phàm trương,

Thần tiên phục đế hương.

Thiên lý vạn lý thiệp thương lương (lảng),

Cửu thiên qui lộ trường.

Nhân tình thảm thiết đối ly trường,

Phan luyến sứ tinh lang.

Nguyện tương thâm ý vị nam cương,

Phân minh tấu ngã hoàng.

Dịch:

Trời quang, gió thuận, buồm giương,

Thần tiên chắc đã giục đường Bồng lai.

Mông mênh muôn dặm bể khơi,

Lối về trong bóng chín trời xa xa.

Bâng khuâng trước chén quan hà,

Mến ai, lòng những thiết tha nỗi lòng.

Xin ai về cõi Nam trung,

Rõ ràng gởi lại mặt rồng trước sau.

(Ngô Tất Tố)

Có thể nói từ đây, trên cương vị văn học, người Trung Hoa đã có phần thầm kính người Việt Nam. Những cuộc ngoại giao nổi bật này đều do các vị Thiền sư chủ động.

Nhà Lê xuống, nhường chỗ nhà Lý lên. Người gây dựng sự nghiệp cho nhà Lý và đem lại sự hùng cường cho dân tộc Việt Nam trên hai thế kỷ (1010-1225) chính là Thiền sư Vạn Hạnh. Thiền sư đã chủ trương dời kinh đô từ Hoa Lư ra thành Thăng Long, là nơi trung tâm hệ trọng cho mãi đến hiện nay, và làm cố vấn mọi việc cho vua Lý Thái Tổ. Xã hội Việt Nam được văn minh rực rỡ một thời, phần lớn do Thiền sư xây dựng. Để chứng tỏ tài năng và công đức của Thiền sư, chúng ta có thể thấy qua bài kệ truy tán Vạn Hạnh thiền sư của vua Lý Nhân Tôn:

Vạn Hạnh dung tam tế,
Ưng phù cổ sấm thi.
Hương quan danh Cổ Pháp,
Trụ tích trấn vương kỳ.

Dịch:

Học rộng làu ba cõi,
Lời in tiếng sấm xưa.
Quê làng tên Cổ Pháp,
Dựng gậy vững kinh vua.

Nhà văn Lê Văn Siêu, khi nghiên cứu về văn minh Việt Nam, đã khen:

Không còn có gì nữa để mà nghi ngờ. Nhà kiến trúc sư quan niệm đạo đức rộng rãi và uyên thâm này nhất định phải là sư Vạn Hạnh.

Sư Vạn Hạnh đã làm quan trong triều Lê. Ngài vừa sớm tối không sao nhãng những kinh kệ lại vừa đem tài ra giúp nước yên dân. Ngài là một vị Sư đã thoát được mình ra lề thói tu hành chấp nê của đạo Phật (cả Tiểu thừa lẫn Đại thừa). Hẳn là Ngài đã thấy rõ cách tế độ chúng sanh hiệu quả nhất là ảnh hưởng đến chánh quyền. Ngài đã không theo gương của Khổng Tử xách một túi kinh luân đi khắp các nước mà chẳng được đâu trọng dụng, cũng không theo gương các nho sĩ chỉ ngồi trong lều cỏ dạy đạo cho các môn đồ, lại cũng không theo gương các vị Bồ-tát mà ngồi riêng một nơi Thiền định.

Ngài đã dấn mình vào cuộc sống xã hội, cố nhiên là với một dục vọng dùng chánh quyền để hành đạo.

(Văn minh Việt Nam, trang 77, của Lê Văn Siêu)

Theo nhận xét của Lê quân, nền văn minh Việt Nam thời này có phần vượt hơn văn minh Trung Hoa cũng do sư Vạn Hạnh. Ông viết:

Ở ý thức thâu thái thêm tinh hoa của Phật, Lão, Nho, kết tinh lại với ý thức cố hữu để tạo thành một ý thức hệ mới và riêng biệt của mình.

1/ Vẫn hay Lão và Nho phát sinh ở Trung Hoa, vậy mà cả các nhân sĩ Trung Hoa, cũng như Cao Biền là một nho sĩ có tài, đại diện cho nền văn hóa nước mình, tất cả đều không có ai ứng dụng đạo vào trong nhân sinh. Duy một nhà sư Vạn Hạnh ở Việt Nam làm được việc ấy, mà làm với một ý thức dùng qui mô kiến thức vật chất ảnh hưởng trở lại tinh thần, để thúc đẩy thêm mối đạo và con đường tiến hóa mới.

2/ Những nhà nho đời Tống như Trình Di, Chu Hi v.v… dẫu có viết sách rất nhiều, suy lý rất nhiều nhưng cũng chỉ là ở lý thuyết và ở hoạt động tiêu cực về văn hóa (có khi vì địa vị, vì danh vọng người ta còn chống đối nhau kịch liệt nữa). Duy sư Vạn Hạnh ở Việt Nam nhận thức ra mối tương quan giữa thái thần (genèse de l’esprit), thái sơ (genèse de l’énergie) và thái tố (genèse de matière) để tiến đến thái hòa (harmonie universelle).

Tại sao nói như vậy?

Tại Sư không cần viết sách mà chỉ lo kiến thiết; kiến thiết bằng những chất liệu để bắt nó nói ra một cái gì. Một quyển sách thì chỉ có một người xem, một kiến trúc thì có cả muôn triệu người và muôn đời phải biết đến ý nghĩa. Không viết sách mà chỉ kiến thiết đô thị để gói ghém một ý định, ấy tức là đã thông hiểu năng lực của vật chất, của tinh thần và của thần chất khi tất cả những năng lực ấy giao cảm với nhau,  và đã thông hiểu phương thức giáo hóa vua quan và quần chúng theo tinh thần vô vi của Lão Tử vậy.

3/ Đạo Phật truyền qua Trung Hoa đã lâu và các kinh sách cũng đã rất nhiều. Vậy mà sự thâu thái Phật học của Trung Hoa cũng chỉ đến có nhiều chùa chiền mới dịch được ra nhiều kinh kệ.

Cũng đạo Phật ấy truyền qua Việt Nam thì đã được sư Vạn Hạnh cắm cửa Ô Kim Liên với đầm sen bảy mẫu vào thật đúng giữa chánh điện của nhà vua trông ra, khiến vua ngày đêm, hễ mở mắt là thấy ngay biểu tượng của Phật giáo…

(Văn minh Việt Nam, trang 81-82 của Lê Văn Siêu)

Còn nhiều nữa, chúng tôi e trích nhiều quí độc giả sanh chán, xin dừng ngang đây.

Cứ theo đà tiến triển ấy, mỗi ông vua thời Lý lần lượt thay nhau kế vị, các ngài đều là người Phật tử chân chánh rất thâm hiểu Phật pháp và luôn luôn bên cạnh có những vị Thiền sư làm cố vấn. Cho nên vua thường lấy đức trị dân và giáo hóa dân theo tinh thần Phật giáo. Đây ta hãy nghe vua Lý Thánh Tôn nói với thần dân lúc mùa đông giá rét:

“Ta ở trong thâm cung, sưởi lò than thú, mặc áo hồ cừu mà khí lạnh còn như thế này, huống hồ những kẻ bị giam trong ngục, xiềng xích khổ sở, ngay gian chưa định, bụng không cơm no, thân không áo ấm,  một khi gặp cơn gió lạnh thổi vào, há chẳng bị chết mà nguyên là vô tội ư? Ta rất lấy làm thương xót!” Vua sai Hữu ti đem chăn chiếu trong kho vua ban cho tù nhân và mỗi ngày cho ăn hai bữa cơm. Vua ban cho trong nước một nửa số tiền thuế năm đó.

VSL II. 101 (Nguyễn Đăng Thục dịch)

Nhờ ảnh hưởng Phật giáo nên thời Lý có nhiều vị vua nhân từ rất mực, nhưng không kém vẻ hào hùng. Vì thế, quốc gia hưng thạnh, dân chúng an vui, có thể nói là thời huỳnh kim ở Việt Nam vậy.

Nhà Lý mãn, nhà Trần tiếp tục truyền thống ấy. Phật giáo vẫn ở địa vị quốc giáo, vua chúa đều uyên thâm Phật pháp. Vua Trần Nhân Tông sau khi truyền ngôi cho Thái tử, xuất gia tu hành và là Sơ Tổ phái Trúc Lâm. Nhà Trần ở ngôi ngót hai thế kỷ (1225-1400), nước Việt Nam đã nổi tiếng hùng cường, chiến thắng quân Mông Cổ từ Bắc phương kéo sang xâm chiếm nước ta. Đó là chiến công oai hùng nhất khiến thế giới phải nể danh.

Nhà Trần, trên từ vua chúa dưới đến quan dân, đều một bề sùng ngưỡng Phật giáo. Người Nho cho đó là thời mê tín dị đoan, nhưng đâu ngờ, do toàn dân tin Phật mới có hội nghị Diên Hồng, muôn người như một nhất tâm chống giặc. Khí thế hùng cường, tinh thần dân chủ đâu không nhờ Phật giáo mà có? Ta hãy đọc đoạn văn bi ký ở chùa Thiên Phước tại Bắc Giang của Lê Quát, một nhà nho, tức tối trước việc toàn dân tin Phật sau đây:

Phật thị lấy điều họa phước mà động lòng người, sao mà sâu xa và bền chắc như vậy? Trên từ vương công, dưới đến thứ dân, hễ làm cái gì thuộc về việc Phật, tuy hết cả gia tài cũng không tiếc. Nếu hôm nay đem tiền của để làm chùa, xây tháp thì hớn hở vui vẻ, như trong tay đã cầm được cái biên lai để ngày sau đi nhận số tiền trả báo lại. Cho nên, trong từ kinh thành, ngoài đến châu phủ, đường cùng, ngõ hẻm, chẳng khiến đà theo, chẳng thề mà tin; hễ chỗ nào có nhà người ở thì có chùa Phật; bỏ đi thì làm lại, hư đi thì sửa lại. Lầu chuông đài trống cũng phân nửa của nhà thiên hạ ở, xây cất rất dễ và tôn sùng cũng đà lắm vậy. Ta từ lúc nhỏ đã đọc sách, chăm vào việc cổ kim, cũng rõ được nhiều ít đạo lý Thánh Hiền, để khai hóa từ dân, mà chưa được người trong một làng tin ta. Ta thường di du lãm sơn xuyên, cùng Nam cực Bắc, tìm những chỗ gọi là học cung, gọi là văn miếu, thì rất ít thấy, vì vậy ta lấy làm hổ thẹn với bọn Phật đồ lắm vậy. Cho nên ta mới viết ra bài này.

(Trích truyện Lê Quát trong quyển Việt Nam Nhân Vật Chí Vựng Biên, trang 183 của Thái Văn Kiểm và Hồ Đắc Hàm biên soạn.)

Lê Quát, học trò Chu Văn An ở triều Trần Minh Tông, ông trông thấy lòng tin mộ Phật giáo của vua chúa và dân chúng, đâm ra bực bội mà viết bài văn bi ký này. Nhờ đó, chúng ta càng thấy rõ Phật giáo đời Trần tràn khắp cả mọi nơi, đâu đâu cũng hiện màu sắc Phật giáo.

Tóm lại, ngót năm thế kỷ, Phật giáo luôn luôn có mặt trong guồng máy chánh quyền để tiếp tay xây dựng đất nước, bảo vệ quê hương. Sự có mặt của Phật giáo chẳng những giúp cho vua chúa một đường lối chánh trị sáng suốt, mà còn hướng dẫn dân tộc tiến cao trên con đường văn minh đạo đức. Những vị Thiền sư trong thời ấy, chẳng những thâm đạt về đạo lý giải thoát (xuất thế)  mà còn thấu hiểu cách tổ chức xã hội, đem lại an lạc thực tế cho dân tộc (nhập thế). Vì thế, các ngành văn hóa, học thuật… đều do Thiền sư đảm trách. Sự vẻ vang, oai hùng của đất nước nằm trong sự hưng thạnh của Phật giáo thời ấy.

2.- PHẬT GIÁO BỊ LOẠI RA KHỎI CHÁNH TRƯỜNG

Tuy nhiên, theo luật vô thường, phàm có thạnh thì phải có suy, Phật giáo cũng không thoát khỏi cái luật chung ấy. Đời vua Lý Nhân Tông, vì muốn văn hóa Việt Nam càng dồi dào phong phú, nhà vua cho mở khoa thi Tam giáo để chọn nhân tài. Khoa đầu tiên được mở năm thứ 6 niên hiệu Hội Phong (1097 TL), người chiếm thủ khoa là Thiền sư Viên Thông, sau được phong Quốc sư. Như thế, Nho giáo, Lão giáo đã có cơ tiến bộ, và tư tưởng Tam giáo đồng nguyên dần dần phát đạt, mãi đến đời Trần mới cực thạnh.

Cuối đời Trần, cái học khoa cử đã thành hình; những người giỏi Nho được bổ dụng làm quan. Thế là trong chánh trường, giới nho sĩ dần dần chiếm ưu thế. Giới nho sĩ cho Phật giáo là tư tưởng yếm thế, không đủ điều kiện xây dựng xã hội hùng mạnh, do đó các vị Thiền sư bị loại dần ra khỏi chánh trường. Hoặc giả, những người lãnh đạo Phật giáo lúc bấy giờ kém tài, thiếu đức không giữ nổi địa vị quan trọng của mình, nên phải rút lui về thôn dã.

Nhất là từ đời Hậu Lê (1428) về sau, giới nho sĩ hoàn toàn nắm quyền lãnh đạo quốc gia. Phật giáo lúc này hoàn toàn bị bạc đãi. Chánh quyền muốn hạn chế giới tu hành nên mở những kỳ thi tuyển để loại bớt. Ông Đào Duy Anh đã viết:

Nửa triều Trần, từ đời Chu Văn An đã bắt đầu thắng Phật học mới chiếm địa vị độc tôn. Hai triều ấy đều có pháp luật nghiêm khắc đối với các nhà tu hành Phật giáo và Đạo giáo. Tuy triều Lê có các khoa thi kinh điển riêng cho những nhà tu hành, nhưng đó chính là một cách hạn chế. Đối với Nho học thì các đời vua Lê và Nguyễn đều hết sức tôn trọng.

(Việt Nam Văn Hóa, trang 237 của Đào Duy Anh)

Chúng ta thấy rõ, lúc Phật giáo thạnh, đối với Nho, Lão vẫn được quí trọng. Ngược lại, khi Nho học cực thạnh thì Phật giáo bị kỳ thị hắt hủi. Nhưng nhờ đó Phật giáo có cơ hội sống gần gũi với đồng bào trong thôn dã và gieo rắc một tiềm lực hùng hậu trong toàn dân. Cũng nhờ đó, Phật giáo mới thành đạo của dân tộc Việt Nam và sau này không mang tội phản dân tộc.

Những vị Sư lui về thôn dã, gần gũi thân mật với những người nông dân mộc mạc ở những thôn xóm hẻo lánh xa xôi. Để thích ứng với tánh tình chất phác của họ và hòa nhịp theo tín ngưỡng cổ truyền của dân tộc, Phật giáo dần dần mất tánh cách bác học, trở thành tín ngưỡng bình dân. Những vị Sư phải biết chẩn mạch, bốc thuốc, xem ngày kiết hung… thậm chí phải rành bùa chú để trừ tà, ếm quỉ.

Hết Lê tới Nguyễn, đất nước lắm phen điêu linh vì nạn ngoại xâm, nội loạn, cho đến phải chia đôi Trịnh, Nguyễn. Sự tủi nhục, đau buồn của đất nước cũng là cái tủi nhục đau buồn của Phật giáo Việt Nam. Gia Long thống nhất sơn hà (1802) không bao lâu lại lọt vào tay người Pháp. Nước Việt Nam lại bị lệ thuộc Tây phương.

Đến thời Pháp thuộc, chữ Hán phải thoái vị, nhường chỗ cho chữ Pháp thạnh hành. Phái Nho học bị loại khỏi chánh trường, phái Âu học mang râu đội mũ bước ra, các ông nho sĩ trở về vườn dạy học, chẩn mạch bốc thuốc, coi ngày cưới gả… Những khi nhàn rỗi, cụ đồ sang chùa cùng nhắp những hớp trà sen thơm ngọt, nói chuyện thân mật với các ông sư.

Tuy Tổ quốc đã trải qua bao phen thăng trầm vinh nhục, nhưng tinh thần dân tộc không bao giờ mất. Phật giáo Việt Nam đã bị loại khỏi chánh trường, nhưng sức sống của đạo pháp vẫn còn tàng ẩn trong lòng dân tộc, chỉ chờ cơ hội thuận tiện là tinh thần dân tộc bùng khởi, đạo pháp sống động tràn trề.

3.- PHẬT GIÁO VỪA CHỚM PHỤC HƯNG

Qua bao năm đen tối, dân tộc vừa quật khởi đập tan xiềng xích nô lệ (cuộc Cách mạng năm 1945), giành lại quyền tự chủ. Rồi đến đất nước bị chia đôi, tang tóc cứ mãi gieo rắc trên giải đất thân yêu này. Nhưng tinh thần quật khởi của dân tộc như sóng trào lên cuồn cuộn, không có sức mạnh nào có thể ngăn chặn được. Chính khi ấy, phong trào chấn hưng Phật giáo vừa chớm nở, nhưng lại gặp sự ngăn cản của nhà Ngô gây thành tai nạn xảy ra năm 1963, Phật giáo vẫn bùng dậy như ngọn cuồng phong cuốn sạch tất cả. Bởi Phật giáo nằm sẵn trong lòng dân tộc, nên khi bị khích động mạnh tự dưng trỗi dậy một cách hùng hồn. Chúng ta tin chắc rằng Phật giáo đã gắn liền với dân tộc, nên nhịp tiến triển của dân tộc và Phật giáo đi đều nhau. Ngày mai kia, dân tộc được độc lập thống nhất thì Phật giáo cũng được vinh quang hưng thạnh, bởi sự tương quan mật thiết giữa Phật giáo và dân tộc trên dòng lịch sử cũng như trong tâm tư người Việt Nam.

Chương II: TƯ TƯỞNG

A. TINH THẦN DÂN TỘC

1.- TÁNH BẤT KHUẤT VÀ ĐỘC LẬP

Dân tộc Việt Nam đã sẵn truyền thống bất khuất của tổ tiên lưu lại. Người Việt không chịu cúi đầu làm nô lệ ngoại bang. Dù có những khi thế cùng lực tận bắt buộc phải lệ thuộc họ, nhưng tinh thần bất khuất đã biến thành ngòi thuốc súng cứ cháy âm ỉ trong lòng chiến sĩ cách mạng. Người thanh niên Việt Nam sẵn sàng hi sinh mối tình riêng tư của mình để đem thân ra bảo vệ quê hương dân tộc.

Giặc Tây đánh tới Cần Giờ

Biểu đừng thương nhớ đợi chờ uổng công!

Quê hương xứ sở của mình dù nhỏ nhoi nghèo thiếu, nhưng người Việt vẫn yêu mến nó, quí trọng nó:

Ta về ta tắm ao ta,

Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.

Vì sẵn tinh thần bất khuất nên người Việt không chịu ỷ lại; tự mình phải gây dựng cho mình, dù gian nan cách mấy cũng vui:

Có vất vả mới thanh nhàn,

Không dưng ai dễ cầm tàn che cho.

2.- TÌNH ĐOÀN KẾT

Nếu chỉ có tánh bất khuất thì chưa đủ để chiến thắng quân thù, người Việt còn luôn luôn kêu gọi tình đoàn kết. Trong Hội nghị Diên Hồng, chúng ta thấy muôn người như một, quyết chung lưng đấu cật chiến đấu tới cùng. Tình đoàn kết đó, chúng ta đã nghe văng vẳng từ đồng quê vọng lại:

Khôn ngoan đối đáp người ngoài,

Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.

Thật vậy, nếu người có tài khôn ngoan thì hãy đem tài mình ra chống cự ngoại xâm. Anh em trong nhà cùng chung máu mủ ai nỡ giết hại nhau. Nếu đứng riêng một mình thì người có tài giỏi đến đâu cũng không làm nên việc gì, cần phải góp tay chung sức mới làm nên việc lớn:

Một cây làm chẳng nên non,

Ba cây giụm lại nên hòn núi cao.

Nước Việt Nam nằm bên cạnh nước Trung Hoa, một cường quốc nổi danh thời Trung cổ, người Việt lúc nào cũng lo lắng hồi hộp mình bị xâm lăng, nên lời kêu gọi đoàn kết không dừng. Do đó, tình đoàn kết đã thấm sâu trong tim não người Việt Nam.

3.- BAO DUNG

Trên dải đất Việt Nam nhỏ bé, nhưng rất nhiều giống dân chung sống, nếu thiếu tâm lượng bao dung thì nội loạn sẽ dâng khởi liên miên. Vì thế tâm lượng bao dung của người Việt được biểu lộ cụ thể qua câu ca dao:

Bầu ơi thương lấy bí cùng,

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.

Cùng chung sống trong một đất nước thì khổ vui cũng đồng chịu, chúng ta phải thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Với tinh thần chị ngã em nâng, sự cứu giúp này sẽ làm lành mạnh hóa tổ chức xã hội. Đây, tự đáy lòng người nông dân phát xuất ra những lời tha thiết:

Nhiễu điều phủ lấy giá gương,

Người trong một nước phải thương nhau cùng.

Gặp cơn nguy biến hoạn nạn, tình đồng bào chúng ta đâu nỡ làm ngơ, mà phải ra tay cứu giúp nhau. Người biết chia sớt khổ đau cho nhau thật là một tình thương đáng kính đáng quí. Tình thương ấy đã phát ra ngôn ngữ,  mà người Việt Nam chúng ta không có quyền quên:

Đường xa xin chớ ngại ngùng,

Trèo non, xuống biển ta cùng đỡ nhau.

4.- HIẾU KÍNH

Xã hội Việt Nam xây dựng trên nền tảng gia đình. Gia đình có an vui hạnh phúc thì quốc gia mới vững mạnh. Vì thế, trong gia đình người cha phải từ, người con phải hiếu. Muốn những đứa con khởi lòng hiếu kính,  trước phải dạy chúng nhớ công ơn sanh thành khổ cực của cha mẹ. Công ơn cha mẹ được người bình dân hình dung rộng như biển, cao như núi.

Công cha như núi Thái sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Những ai còn được cha mẹ sanh tiền là có cả một kho tàng quí báu, là được uống những dòng suối ngọt, ăn những thức bùi. Sự thơm ngon quí báu ấy còn dư vị trong cổ họng chúng ta qua lời ca chất phác của người bình dân:

Mẹ già như chuối ba hương,

Như xôi nếp một, như đường mía lau.

Đã biết công ơn cha mẹ nặng nề như vậy, kẻ làm con lúc nào cũng hi vọng đền đáp. Có người cho sự học hành đỗ đạt, làm đẹp mặt nở mày cha mẹ là đền ơn:

Bao giờ cá lý hóa long,

Đền ơn cha mẹ ẵm bồng ngày xưa.

Có người sống trong cảnh nghèo thiếu vất vả, nhưng lòng biết ơn cha mẹ không bao giờ quên. Họ phải nhịn ăn để nhường phần nuôi cha mẹ:

Đói lòng ăn đọt chà là,

Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.

Khi cha mẹ gặp lúc trở trời trái gió, người con hiếu thảo lo sợ cha mẹ chết nên đến trước bàn Phật thắp hương lâm râm khấn vái, cầu nguyện Phật, Trời phò hộ cho cha mẹ sống đời với con:

Lâm râm khấn vái Phật, Trời,

Xin cho cha mẹ ở đời nuôi con.

Công ơn cha mẹ sanh thành nuôi dưỡng rộng sâu như trời bể, người con hiếu thảo lúc nào cũng canh cánh bên lòng, mong ngày đền đáp. Rồi được cha mẹ cho đi học hành, ông thầy sẽ thay thế cha mẹ dạy bảo văn chương chữ nghĩa và cách cư xử ở đời. Người con hiếu ấy đã thấy mang thêm một ơn nặng nữa:

Gươm vàng rớt xuống hồ Tây,

Công cha cũng trọng, nghĩa thầy cũng sâu.

Lớn lên được dịp đi chùa lễ Phật, hoặc nghe các Sư giảng dạy, người con hiếu phát tâm ham mộ đạo đức, muốn dứt khoát cuộc đời thế tục, vào nương mình dưới bóng từ bi. Hoặc những lúc chiều về nghe tiếng trống công phu dồn dập, giọng chuông cảnh tỉnh ngân dài, khiến lòng khoan khoái nhẹ nhàng muốn gởi thân vào cửa Phật. Nhưng còn cha mẹ già yếu chưa đền đáp được chút ơn sanh thành, nên khó lòng cất bước ra đi. Thế là, người con hiếu bị giằng co giữa hai tâm niệm: vừa muốn tìm đường thoát tục, vừa lo đền đáp công ơn sanh thành:

Đến chùa thấy Phật muốn tu,

Về nhà thấy mẹ đi tu không đành.

Nhưng rồi, quan niệm chữ hiếu nặng hơn. Người ta cho rằng đạo hiếu là đạo chân chánh của con người. Người biết thờ cha kính mẹ là người đã tu đúng chánh đạo:

Tu đâu cho bằng tu nhà,

Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.

Hoặc giả người ta đã thần thánh hóa cha mẹ, coi cha mẹ như Phật, biết thờ kính cha mẹ là thờ kính Phật. Cho nên người bình dân đã nói: “Phật trong nhà không thờ, thờ Thích-ca ngoài đường.”

Hiếu thảo là chất liệu thiết yếu trong xã hội Việt Nam. Vì thế, trong tinh thần dân tộc Việt Nam, ai cũng đặt chữ hiếu lên trên tất cả. Những đứa con bất hiếu luôn luôn bị dân chúng Việt Nam chê ghét, nguyền rủa.

B. PHẬT GIÁO THÍCH HỢP VỚI TINH THẦN DÂN TỘC VIỆT NAM

1.- TÙY CƠ

Dù ai quê dốt đến đâu cũng biết đạo Phật phát xuất từ nước Ấn Độ. Thế là, đạo Phật đã đầy đủ tánh chất ngoại lai, sao được gọi là đạo của dân tộc. Muốn thấu hiểu điều này, chúng ta phải chín chắn chiêm nghiệm. Hiện tại, chúng ta thường nghe những danh từ Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo Nhật Bản, Phật giáo Ấn Độ… Tại sao Phật giáo ở nước nào đều được mang tên của nước đó? – Vì Phật giáo không có giáo quyền chung, không lệ thuộc Giáo hội trung ương điều khiển, cho nên truyền bá đến địa phương nào, tùy sự thích hợp của dân tộc địa phương đó, Phật giáo hình thành theo phong tục tập quán của địa phương. Bởi không lệ thuộc Giáo hội trung ương nên tất cả động sản, bất động sản của Phật giáo ở nước nào đều là của dân tộc nước đó. Cho đến cách kiến trúc chùa chiền, cách ăn mặc của các vị Sư cũng đều tùy theo phong tục và tập quán của địa phương cả. Nếu chúng ta phàn nàn Phật giáo có nhiều hình thức phức tạp khó thống nhất, thì chúng ta phải phục Phật giáo đã khéo tùy dân tộc tánh mà biến thành đạo của dân tộc từng quốc gia.

Lại nữa, nói đến Phật pháp là nói đến phương pháp hợp lý, hợp cơ. Đem chánh lý áp dụng thích hợp nơi căn cơ con người hiện thời là Phật pháp. Hoặc nói “Phật pháp bất định pháp”, tức là giáo pháp của đức Phật không cố định, không câu nệ một cách cứng nhắc, mà luôn luôn linh động tùy thời, tùy cơ. Nhưng không phải là tùy cơ là biến mất bản chất Phật giáo. Chủ trương của Phật giáo  là “Tùy duyên nhi bất biến”, hoặc ngược lại, “Bất biến nhi tùy duyên”.  Bản chất từ bi, trí tuệ, giải thoát của đạo Phật không bao giờ thay đổi, nhưng phương tiện thực hiện từ bi… cần phải tùy thời, tùy cảnh và tùy căn cơ chúng sanh. Vì thế, Phật giáo đến nước nào liền có hình thái thích nghi với dân tộc nước ấy. Cho nên, Phật giáo ở nước nào là của dân tộc nước đó và cũng mang tên nước đó.

2.- TỰ TÍN VÀ GIẢI THOÁT

Bước chân vào chùa, chúng ta đã thấy trước chánh điện đề bốn chữ ĐẠI HÙNG BỬU ĐIỆN. Điện báu thờ đức Đại Hùng. Phật được gọi là đấng Đại Hùng, Đại Lực, vì đức Phật đã cương quyết đập tan hết mọi xiềng xích: xiềng xích do xã hội tạo ra như chế độ giai cấp của Bà-la-môn giáo đã đặt ra ở Ấn Độ, xiềng xích tại bản thân con người do ngũ dục trói buộc, xiềng xích ở nội tâm do tham, sân, si sai sử. Tất cả thứ xiềng xích đó, đức Phật đã phá vỡ, nên Ngài là bậc hoàn toàn giải thoát. Đức Phật không bao giờ chịu khuất phục dưới một sức mạnh nào, dù là sức mạnh vô biên của nghiệp lực truyền kiếp lưu lại. Nghiệp lực ấy đã hiển hiện qua hình thức vô số Ma vương bao quanh cây bồ-đề chiến đấu với Ngài, cuối cùng Ngài vẫn chiến thắng chúng và thành bậc Đại Giác Ngộ.

Chủ trương giải thoát của đạo Phật là vượt ra ngoài vòng nô lệ, bất cứ loại nô lệ nào; từ ở ngoài đem đến hay từ ở trong phát sanh. Bởi quyết thoát nô lệ nên Phật giáo luôn luôn phá trừ tánh ỷ lại, dạy Phật tử phải nỗ lực tự cường như câu: “Các người phải tự thắp đuốc lên mà đi.” Vì thế, tinh thần hùng lực và giải thoát của đạo Phật rất thích hợp với tinh thần bất khuất và độc lập của dân tộc Việt Nam. Biết đâu không do ảnh hưởng sâu đậm tinh thần Phật giáo mà người Việt Nam đã viết thành những trang sử oai hùng dưới triều Lý, triều Trần.

3.- TINH THẦN ĐOÀN THỂ

Nói đến Tăng chúng là nói đến bản chất lục hòa. Có hòa thuận mới có tin yêu và đoàn kết. Lục hòa là kích thích tố phát khởi hành động đoàn kết. Thiếu lục hòa, dù chúng ta có lạc giọng kêu gọi đoàn kết cũng không khi nào có đoàn kết. Muốn thành một tu sĩ Phật giáo trước hết phải thành tựu lục hòa. Cho nên tinh thần đoàn kết là then chốt trong đạo Phật. Trước tiên phải có hòa kính, nhiên hậu mới có đoàn kết. Đoàn kết là một sức mạnh phi thường, không việc gì làm chẳng được. Câu chuyện ngài Mục-kiền-liên cầu Phật dạy phương pháp cứu mẹ đang mắc trong vòng ngạ quỉ, Phật bảo Ngài đi thỉnh muời phương Tăng chúng cúng dường, nhờ sức chú nguyện của chúng Tăng, mẹ Ngài sẽ thoát vòng đau khổ. Tại sao ngài Mục-kiền-liên đầy đủ thần thông, đức Phật có vô biên công đức mà không đích thân ra tay cứu độ cho mẹ ngài Mục-kiền-liên, phải đợi đến sức chú nguyện của Tăng chúng? Điều này đủ chứng tỏ Phật dạy đoàn kết là sức mạnh trên tất cả sức mạnh. Vì ý nghĩa này nên Phật giáo chủ trương “Đức chúng như hải”. Bởi Phật giáo chủ trương hòa kính để đi đến đoàn kết nên rất thích hợp với tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam.

4.- TINH THẦN BAO DUNG

Đạo Phật thừa nhận tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Đã có Phật tánh thì dù các chúng sanh do hành nghiệp bất đồng bị quả báo sai biệt, nhưng Phật tánh vẫn đầy đủ như nhau. Bởi hành nghiệp bất đồng nên chúng sanh chiêu cảm thân thể, ngôn ngữ, tư tưởng, hành động khác nhau. Như vậy, ta không thể bắt buộc mọi người đều hiểu biết, hành động như ta được. Lại nữa, trong kinh Phật dạy: “Khi có Phật ra đời giáo hóa, người y theo pháp Phật dạy tu hành chứng quả, gọi là Thanh văn; khi không có Phật ra đời và không còn giáo pháp của Phật, người tự quán sát lý sanh diệt của vạn vật mà ngộ đạo, gọi là Độc giác.” Như thế, không phải chỉ y cứ theo lời Phật dạy tu hành mới thành Thánh quả, mà bất cứ ai biết xét đúng lý sanh hóa của vũ trụ được giác ngộ đều chứng Thánh quả cả. Thế thì, đức Lão Tử, đức Khổng Tử… đâu không phải là hàng Độc giác. Bởi quan niệm này, Phật giáo không bao giờ kỳ thị các tôn giáo khác, trái lại còn dung hòa thân mật là khác. Bằng chứng trong lịch sử Việt Nam, thời Lý, Trần là thời độc tôn của Phật giáo, mà khoa thi Tam giáo vẫn được mở đời Lý Nhân Tôn và chủ trương Tam giáo đồng nguyên thịnh đạt nhất đời Trần Thái Tông, một ông vua rất thâm hiểu Phật giáo. Đây, ta hãy nghe Ngài nói:

Ấy, thân mệnh tuy là chú trọng thật, song cũng chưa trọng bằng chí đạo kia. Thế cho nên Khổng Phu Tử có câu rằng: “Sớm nghe đạo, tối chết cũng cam.” Ông Lão Tử có câu rằng: “Ta có sự lo lớn là vì ta có cái thân.”  Đức Thế Tôn cầu đạo, xả thân cứu khổ, thế chả phải ba đấng Thánh đều khinh thân mà trọng đạo đó sao? 

(Khóa Hư, Thiều Chửu dịch)

(Tuy vân thân mệnh chi chí trọng, do vị túc trọng ư chí đạo giả giã. Cố Khổng Tử viết: Triêu văn đạo tịch, tử khả hỉ. Lão tử viết: Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả vị ngô hữu thân. Thế Tôn cầu đạo, xả thân cứu khổ, khởi phi tam Thánh nhân khinh thân nhi trọng đạo tai!)

Hoặc câu:

Hỏi chi tăng tục, chỉ cốt tỏ tâm; nguyện không gái trai, sao nên nệ tướng. Người chưa hiểu càng chia tam giáo, hiểu đến nơi cùng thấu nhất tâm.

(Hưu biệt tại gia xuất gia, bất câu tăng tục, chỉ yếu biện tâm. Bản vô nam nữ, hà tu trước tướng. Vị minh nhân vọng phân tam giáo, liễu đắc đế đồng ngộ nhất tâm.)

Vua Trần Thái Tông đã có lần đi trốn lên núi xuất gia và đã viết nhiều tác phẩm về Phật giáo, mà vẫn tôn trọng Khổng Tử, Lão Tử, xem hai Ngài cũng là bậc Thánh, đồng hàng với Phật. Đó đủ chứng tỏ tinh thần bao dung rộng rãi của Phật giáo. Không phải như các tôn giáo khác, chỉ trọng ông Giáo chủ của mình là Thánh, còn Giáo chủ của tôn giáo khác là yêu quái, đạo mình là chánh, đạo khác là tà, rồi sanh tâm khinh miệt kỳ thị.

Đến thời Nho học độc tôn, triều Lê Thái Tổ về sau, Phật giáo bị chống báng kịch liệt và bị đẩy lui về thôn dã. Bởi Phật giáo sẵn bản chất bao dung như vậy nên thích ứng với tinh thần dân tộc Việt Nam.

5.- HIẾU KÍNH

Đạo Phật cũng chú ý đặc biệt đến lòng hiếu thảo của kẻ làm con. Những kinh điển chuyên dạy người con phải hiếu kính cha mẹ như: kinh Báo Phụ Mẫu Ân, kinh Thai Cốt, kinh Hiếu Tử, kinh Đại Tập, kinh Nhẫn Nhục, kinh Vu Lan… Ngoài ra, những kinh chỉ đề cập đến chữ hiếu vài tờ, vài đoạn thì bàng bạc khắp Tam tạng Thánh điển, không thể kể xiết. Nhắc lại công ơn cha mẹ không thể tính kể, không thể đo lường, kẻ làm con đền đáp suốt đời vẫn chưa thấm vào đâu. Phật dạy: “Thế gian vạn pháp, mạc quá phụ mẫu cù lao ân đại” (Kinh Thai Cốt), nghĩa là “Muôn việc ở thế gian, không gì hơn công nuôi dưỡng lớn lao của cha mẹ”. Công đức của cha mẹ đã quá lớn lao, nếu kẻ làm con không lo đền đáp, lại ăn ở bất hiếu thì mắc tội không biết đến ngần nào. Phật dạy: “Ân đức cha mẹ vô lượng vô biên, kể không bao giờ cùng.” (Kinh Báo Phụ Mẫu Ân) Kẻ làm con biết sợ điều ác, biết ưa điều thiện thì không gì hơn ăn ở hiếu kính với cha mẹ. Phật dạy: “Cùng tột điều thiện không gì bằng hiếu, cùng tột điều ác không gì bằng bất hiếu.” (Kinh Nhẫn Nhục) Cho đến trong Luật, Phật liệt tội bất hiếu đứng đầu năm tội “ngũ nghịch”.

Bởi Phật giáo đặt trọng chữ hiếu nên thích hợp với tinh thần dân tộc Việt Nam. Như hạt giống tốt gieo xuống thửa ruộng phì nhiêu, lại đủ nước, phân… nên chóng đơm hoa kết quả. Tinh thần hiếu kính của Phật giáo đã hun đúc ăn sâu trong tinh thần dân tộc.

C. TÍN NGƯỠNG

1.- TIN CÓ SỰ CHE CHỞ CỦA PHẬT, TRỜI

Tín ngưỡng của người Việt Nam trước kia cũng giống tín ngưỡng của các dân tộc bán khai thời Trung cổ. Bởi so sánh với thiên nhiên thấy con người bé nhỏ, thiên nhiên mênh mông, sức người tầm thường mà quyền lực thiên nhiên vô hạn, tự nhiên người ta đâm ra kinh sợ thiên nhiên. Một ngọn cuồng phong thổi qua làm sập đổ bao nhiêu nhà cửa cây cối, người ta hoảng sợ cho là thần gió hung hăng phá hại. Một cây mưa lũ cuốn phăng cả xóm làng người vật, người ta tin đó là thần mưa quở phạt nhân dân. Những tiếng sét nổ kinh hồn giết người chết vật, người ta tin đó thần sấm hay thiên lôi ra oai trừng trị yêu tinh, kẻ hung ác… Thế là, người ta thần thánh hóa thiên nhiên. Thiên nhiên đã bị thần thánh hóa thì cũng giống như xã hội loài người. Xã hội loài người thời ấy, trên có vua cai trị, dưới có bá quan thừa hành; xã hội thần thánh cũng được an bài: trên có Trời thống lãnh, dưới có chư thiên thần ngự trị nhân gian. Cho nên, người nhân gian muốn được yên ổn hạnh phúc phải kính thờ Trời:

Dù ai nói ngược nói xuôi,

Ta đây cũng giữ đạo Trời khăng khăng.

Từ khi Phật giáo được thấm nhuần trong huyết quản dân tộc Việt Nam, thì người bình dân cũng tin tưởng đức Phật có đủ quyền năng như ông Trời. Thế là địa vị ông Trời được đặt ngang hàng với ông Phật. Có lắm khi người ta lại thấy đức Phật gần gũi với họ hơn, vì Phật có hình tượng cụ thể, có kinh giáo rõ ràng. Vì thế, mỗi khi có tai biến, người bình dân  liền thắp hương cầu nguyện:

Nghiêng vai ngửa vái Phật, Trời,

Đương cơn hoạn nạn độ người trầm luân.

Người bình dân đã hòa đồng tín ngưỡng Phật giáo và tín ngưỡng cổ truyền của dân tộc thành một mối. Vì thế, trong nhà lập trang thờ Phật, ngoài sân dựng bàn thờ ông Thiên.

2.- TIN PHẬT SẼ BAN CHO NHỮNG ĐỨA CON QUÍ

Sau khi đã tin Phật, người Việt Nam tin tưởng rằng mình thiếu thốn cái gì, chân thành cầu Phật, Phật sẽ ban cho như nguyện. Nhất là những người hiếm con, muốn có một đứa con trai nối dõi thì họ mua nhang, bưng nếp vào chùa cầu khấn để được con:

Tay bưng quả nếp vô chùa,

Thắp nhang lạy Phật xin bùa em đeo.

Chẳng những người bình dân tin đi chùa cầu con sẽ được con, mà hàng trí thức Việt Nam ngày xưa cũng tin như thế. Theo sử chép: “Vua Lý Thánh Tôn đã bốn mươi tuổi mà chưa có con trai, năm 1063 Vua sai lập chùa ở Ba Sơn để cầu tự. Vua đi đến chùa Dâu thuộc làng Siêu Loại gặp Ỷ Lan, tuyển làm cung phi, sau sanh ra Thái tử Càn Đức…” Tin tưởng cầu tự sẽ được con quí có rất nhiều truyền thuyết trong dân gian Việt Nam.

3.- TIN CHẾT RỒI KHÔNG PHẢI MẤT

Người Việt Nam tin rằng sau khi chết thân này tan rã, phần anh hồn vẫn còn. Cho nên chết trong vòng một năm, mỗi bữa cơm, con cháu trong nhà sắm một mâm cơm bưng đặt trên bàn thờ, thắp ba cây nhang lâm râm khấn vái, như mời mọc cha mẹ về nhận những thức dâng cúng của mình. Hoặc trong mỗi bữa ăn chung trong gia đình, người ta vẫn xới riêng một chén cơm, một đôi đũa dành phần cho người chết, tưởng chừng như người chết cũng về ngồi ăn chung với gia đình. Qua những buổi tế lễ hoặc cúng kỵ ở thôn quê, chúng ta càng thấy rõ lòng tin tưởng người chết không phải là mất của người bình dân một cách đầy đủ.

Do lòng tin tưởng chết không phải là hết, người Việt Nam rất dễ chấp nhận lý thuyết luân hồi trong Phật giáo. Tin rằng người chết còn lảng vảng bên cạnh gia đình để phù hộ con cái, hoặc đã đi đầu thai kiếp khác ở cõi này hay cõi kia. Và sự đầu thai ấy sẽ tùy theo tội phước của mình đời này đã gây tạo, kiếp sau được sung sướng hay đau khổ. Cho nên người bình dân hằng khuyên nhủ nhau:

Ai ơi! hãy ở cho lành

Kiếp này chẳng được, để dành kiếp sau.

Người bình dân lại so sánh kẻ biết lo xa và người chỉ nhìn hiện tại. Người chú mục vào hiện tại chỉ thích hưởng lạc thú hiện tiền. Người nhìn xa xôi về tương lai, chẳng những lo cho đời này mà còn lo dành dụm phước đức để đời sau nữa:

Người trồng cây hạnh người chơi

Ta trồng cây đức để đời về sau.

Tin “chết không phải là hết” giúp cho người Việt Nam biết sợ điều ác, biết ham điều lành. Nhờ đó xã hội Việt Nam được nhiều phần nhân nghĩa.

C. TẬP QUÁN

1.- CHÙA ĐÌNH LÀ CHỖ CHE CHỞ CHO DÂN LÀNG

Người Việt Nam đã sẵn lòng tín ngưỡng cho nên mỗi làng xã ở thôn quê tối thiểu đều phải xây dựng một ngôi chùa thờ Phật và một cái đình thờ thần. Vị thần được thờ ở trong làng là để xua đuổi ôn dịch bảo vệ dân làng, trừng trị kẻ gian ác, ủng hộ người lương thiện. Vì vậy những khi trong làng có bệnh dịch, dân chúng trong làng nhóm họp, vào đình thỉnh xác thần đi quanh làng. Hoặc trong làng có xảy ra sự kiện tụng mà các vị hương chức trong làng xử chưa ổn thì họ dắt hai bên lại trước bàn thờ thần vặn cổ gà thề, nếu bên nào gian giảo thần xui con gà nhào lăn bên ấy. Dân chúng trong làng có bổn phận bốn mùa cúng tế thần và mướn một ông từ ở thắp hương, săn sóc quét dọn đình thần. Nếu đình hư hao, dân chúng trong làng phải đóng góp xây cất lại.

Chùa cũng do dân làng xây cất, thỉnh Phật về thờ. Ngôi chùa là chỗ để cho dân làng những ngày sóc vọng qui tụ về tụng kinh sám hối. Hoặc những khi người trong làng gặp tai ách bệnh hoạn thì đến chùa cúng vái, cầu cho tai qua bệnh lành. Đức Phật được thờ trong làng, chẳng những che chở cứu độ dân làng mà còn ban cho họ những điều họ mong ước. Như cầu con, cầu an ổn, cầu siêu rỗi… Để thấy rõ lòng tin tưởng của dân làng đối với ngôi chùa trong làng, ta hãy đọc đoạn này của tác giả Huỳnh Minh nói về chùa Trà Nồng:

Trước kia làng im lìm, vắng vẻ bao nhiêu, nay rộn rịp tưng bừng bấy nhiêu. Mỗi ngày, sáng chiều hai buổi tiếng chuông mõ công phu đánh thức người nông dân ra đồng cho sớm, kẻ buôn bán không trễ buổi chợ mai. Câu kinh, tiếng kệ vang lừng, nam phụ lão ấu ra vào tấp nập trong chùa những ngày rằm, ba mươi hay vía lớn.

Lòng người dân phấn khởi an lạc, một niềm tin dồi dào, nhờ đó sự làm ăn trong dân làng càng ngày càng phát đạt.

Mùa lúa trúng mùa. Mùa cá cá nhiều. Cây trái đơm oằn bông, sự mua bán thạnh hành tấp nập.

(Trích Kiến Hòa xưa và nay, trang 63, tác giả Huỳnh Minh.)

Mỗi làng một ngôi chùa là điều thiết yếu không thể thiếu được. Thiếu một ngôi chùa coi như trong làng đã thiếu sự che chở thiêng liêng, dân làng nơm nớp lo sợ. Cho nên họ đã bảo nhau:

Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt.

Vì chùa là chỗ che chở cho dân làng và do dân làng kiến thiết, cho nên đi đâu lỡ đường lỡ sá thì người ta ghé chùa xin nghỉ nhờ. Những người ăn xin tàn tật, ban ngày đi xin ăn đầu đường xó chợ, tối về hành lang chùa nghỉ.  Nếu ai rầy đuổi sẽ bị họ la: “Cửa chùa mở rộng! cửa chùa là cửa từ bi! chùa là của dân chúng, không ai có quyền đuổi!” Nhiều thầy Trụ trì bực bội về việc ăn ở bẩn thỉu của họ, nhưng rồi cũng không biết làm gì hơn. Bởi vì chùa là của dân tộc thì nó phải bình đẳng che chở cho tất cả. Lại bọn trẻ con trong làng cứ vào chùa hái trộm trái cây, nếu bị mấy ông đạo bắt gặp, chúng lại trút tội rằng: “Của chùa là của chung, đâu phải của riêng các thầy.” Bấy nhiêu đó đủ chứng tỏ người Việt Nam quan niệm chùa là chung của dân tộc, không phải riêng của ai.

2.- HÀNH HƯƠNG TRẨY HỘI

Xã hội Việt Nam là xã hội nông nghiệp. Mùa ướt dân chúng lo cày cấy, mùa khô lo gặt hái. Qua hai mùa này, dân chúng được nhàn rỗi, nên thường hay tổ chức những cuộc hành hương trẩy hội.

Những cuộc hành hương, trẩy hội là khởi hứng trong cuộc sống của xã hội nông nghiệp. Để thấy rõ ý nghĩa hành hương, trẩy hội của dân tộc Việt Nam, ta hãy đọc đoạn văn sau đây trong quyển Tư Tưởng Việt Nam:

Chúng ta thấy xuất hiện ở nông thôn Việt Nam xưa, cái cảnh tượng trẩy hội, già trẻ lũ lượt kẻ gánh kẻ gồng, người bồng người bế, bỏ nhà cửa sau lũy tre xanh để tìm vào các nơi hang động có danh tiếng linh thiêng. Ở Bắc Việt, hang động linh thiêng nhất có động Hương Tích, Đền Sòng, Phố Cát, Phủ Giầy, Kiếp Bạc và Đền Hùng.

Theo lịch trình tiến hóa của đời sống tín ngưỡng bình dân nông nghiệp cổ xưa ở Việt Nam, chúng ta có thể nhận thấy ở động Thẩm Lệ là tình cảm bản năng sinh lý, đem thái độ sống hiện thực để diễn tả cái vũ trụ quan thần bí của nguồn sống tràn ngập, sống của người với sống của cây cỏ, trong ấy tín ngưỡng với tình dục chưa phân biệt. Ở đồi Lim với tục hát giao duyên, quan họ thì tình dục ly khai với tín ngưỡng, mất tính cách thiêng liêng, trở nên tình cảm bồng bột có tánh cách văn nghệ. Và sau đấy là trình độ tình cảm đi đến tín ngưỡng thần bí tập thể. Cả ba trạng thái sinh hoạt tình cảm ấy vẫn lấy thiên nhiên, hang động làm bối cảnh. Cho nên, có thể nói được rằng không có cảnh thiên nhiên thì người dân Việt hầu như không có hứng thú để sinh hoạt, vì thiên nhiên đối với họ là nguồn khởi hứng độc nhất cho tình cảm và tín ngưỡng vậy. Qua thiên nhiên, nhân dân nông nghiệp tìm nối lại cái nguồn sống phân hóa ra cá nhân, xã hội với cái nguồn sống vũ trụ bằng những cuộc biểu diễn văn nghệ tập thể như các cuộc hát giao duyên trong động (Thẩm Lệ), trên đồi (Đồi Lim), hay qua những cuộc trẩy hội hành hương (Phủ Giầy, Kiếp Bạc, Hương Tích).

(Tư Tưởng Việt Nam, trang 86-87, của Nguyễn Đăng Thục.)

Hiện nay chúng ta vẫn thấy, những năm thái bình, vào khoảng tháng giêng, tháng 2, dân chúng đi hành hương tấp nập ở Ngũ Hành Sơn miền Trung, ở núi Điện Bà (Tây Ninh), núi Sam, chùa Tây An (Châu Đốc), Thạch Động (Hà Tiên) miền Nam. Những nơi ấy, khách thập phương kéo nhau như dòng nước lũ, mỗi người mang theo hương đăng để kính lễ nguyện cầu. Con đường vào điện hay lối lên động, hai bên lề khói hương nghi ngút. Người ta đi hành hương với cái vẻ tín ngưỡng linh thiêng, cộng với sự thích thú lâng lâng trong tâm tưởng. Cái hứng thú sống hòa nhịp với thiên nhiên ở động và lòng tin tưởng Phật, Thánh sẽ chứng giám cho tâm thành của họ từ xa xôi về đảnh lễ các ngài, khiến người dân Việt Nam vui vẻ hăng hái đi hành hương.

Nhất là ở miền Nam, khi dân chúng mới di chuyển về sanh cơ lập nghiệp, chỗ ở chỉ là những túp lều tranh trong những cụm rừng, đám sậy, chung quanh là sình lầy nước đọng nên không thể kiến thiết được những ngôi chùa để làm nơi kính ngưỡng. Vì vậy đi hành hương thật là cần thiết đối với họ. Ta hãy nghe ông Sơn Nam nói về tánh cách thiết yếu này:

Từ bấy lâu, đa số làng mạc ở vùng Rạch Giá, Cà Mau chưa có chùa. Nếu có thì nói chung các sư sãi chưa gây được uy tín đáng kể. Thỉnh thoảng, các tu sĩ từ Thất Sơn hoặc từ bên kia biên giới (núi Tà Sơn, Kampot) thường hạ san, giảng đạo, bán thuốc núi, chiêu mộ tín đồ riêng cho cá nhân mình. Điều kiện nhập đạo do các thầy nêu ra thật đơn giản: thường niên đáo lệ, tín đồ chỉ cần lên núi viếng thầy, lưu trú tại am (cốc) đôi mươi ngày để làm công quả. Người hành hương ngạc nhiên như lạc vào bồng đảo thần tiên! Họ thấy tận mắt những loài cây, những cầm thú mới lạ (cây trắc, cây tùng, cây kỳ nam, ngải núi, chim cao các…) cùng là khung cảnh “lững lờ khe yến cá nghe kinh”. Mùa nước, vùng đồng ruộng chung quanh bị ngập nước như thuở mới tạo thiên lập địa… Mùa nắng, lửa cháy đồng khô,  khói bốc cuồn cuộn tứ bề như buổi hoàng hôn tận thế. Chốn núi non khác hẳn vùng phù sa nê địa đầy ô rô, cóc kèn, đước, vẹt ở vịnh Xiêm La hoặc vùng Cù lao xanh mát bóng bần ở sông Cửu Long. Đã thỏa mãn về tinh thần du lịch, khách hành hương còn nghe những vấn đề liên quan đến phần hồn của con người, đến thần linh, vũ trụ, trong quá khứ vị lai. Hoặc các chuyện quốc sự mà nội dung là chống thực dân Pháp bằng… bùa phép.

(Tìm hiểu đất Hậu Giang, trang 112 của Sơn Nam)

3.- LỄ CÚNG

Lễ cúng ở chùa đã thành tập quán của dân tộc. Đầu năm đêm giao thừa, hầu hết người Việt Nam đều tấp nập đến chùa lễ Phật và hái lộc. Người Việt tin rằng nhờ lộc của Phật suốt năm làm ăn phát đạt. Bởi niềm tin này nên nhất định họ phải hái kỳ được một cái hoa, một cành lá đem về nhà vào ngày đầu năm mới hài lòng, dù rằng các cây ở chùa đã trụi lá cả. Chính niềm tin này khiến ta thấy người Việt Nam tin tưởng vô biên vào sức Từ bi của đức Phật. Đời sống của họ trọn năm được an lành, được sung túc đều nhờ vào đức Từ bi của Phật ban bố cho.

Đến lúc trăm tuổi, người Việt nếu không theo tôn giáo khác thì họ phải thỉnh bằng được một hoặc vài ba vị Sư đến tụng kinh và tiễn đưa người chết đến mộ. Nếu thiếu một vị Sư tụng kinh đưa đám, coi như đám ấy rất tẻ lạnh và tang quyến rất đau buồn. Rồi đến những lễ tuần, cũng phải đến chùa hoặc rước Sư về nhà thiết bàn Phật tụng kinh. Dù là vị Sư ấy không đủ tư cách của người xuất gia chân chánh cũng được, miễn biết tụng kinh là tốt. Như thế Phật giáo thật rất thủy chung với người Việt Nam: Khi sống nhờ Phật che chở, khi chết nhờ Phật cứu độ.

Nếu cha mẹ, anh em, quyến thuộc chết rồi, muốn vói đền đáp ân xưa, người Việt đến ngày rằm tháng bảy, không ai rủ ai mà lũ lượt kéo về chùa thiết lễ Vu Lan. Tuy có đa số người không biết lễ Vu Lan là gì, nhưng đến rằm tháng 7 là tự họ thấy có bổn phận phải đi chùa. Ngày rằm tháng 7 đã thành ngày linh thiêng của dân tộc. Nếu không đi chùa được, mỗi người phải thiết lễ cúng tại nhà. Người dân Việt Nam tin rằng ngày rằm tháng 7 là ngày cứu độ vong nhân khỏi vòng khổ đau ở địa ngục và được Phật rước về nơi cõi Tây phương:

Tiết đầu thu dựng đàn giải thoát.
Nước tịnh bình rưới hạt dương chi.
Muôn nhờ Phật lực Từ bi,
Giải oan, cứu khổ, hồn về Tây Phương.

Những vong hồn kẻ chết, đến ngày lễ Vu Lan nhờ nghe tiếng kinh kệ và nhờ phép thiêng của Phật mà họ được siêu thăng tịnh độ.

Sống đã chịu mọi bề thảm thiết,
Ruột héo khô, da rét căm căm.
Dãi dầu trong mấy mươi năm,
Thở than dưới đất, ăn nằm trong sương.
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn,
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra.
Lôi thôi bồng trẻ dắt già,
Có khôn thiêng nhẽ, lại mà nghe kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ,
Bóng hào quang cứu khổ độ u.
Rắp hòa tứ hải quần chu,
Não phiền trút sạch, oán thù rửa không.

Cúng lễ Vu Lan và lập đàn chẩn tế là cứu độ vong nhân thoát khỏi chốn u đồ, cũng đem lại sự ấm no cho họ.

Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo,
Của có chi bát nước nén nhang,
Gọi là manh áo thoi vàng,
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại,
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu,
Phép thiêng biến ít thành nhiều,
Trên nhờ tôn giả chia đều chúng sinh.
Phật hữu tình từ bi phổ độ,
Chớ ngại rằng có có không không,
Nam-mô Phật, Nam-mô Pháp, Nam-mô Tăng.
Nam-mô nhất thiết siêu thăng thượng Đài.

(Văn tế thập loại chúng sinh, NGUYỄN DU)

Quan niệm cúng tế của Phật giáo đã ăn sâu trong lòng dân tộc. Ngày lễ Vu Lan thể hiện đầy đủ ý nghĩa tín ngưỡng dân tộc và Phật giáo hòa hợp thành một.

Bởi tập tục lễ cúng này nên có nhiều nơi người ta chỉ cần có một vị Sư ở giữ chùa làng để cúng lễ trong chùa,  và cúng lễ cho các nhà Phật tử. Muốn vị Sư ấy mắc gốc rễ ở đó, dân làng tổ chức cưới vợ cho sư. Thế là trong chùa có thầy, có cô, có các chú điệu. Ngôi chùa gần biến thành một gia đình. Những vị Sư sống như vậy, người ta đặt cho một tên riêng là “thầy cúng”. Nếu chúng ta căn cứ vào giới luật mà xét, thì những trường hợp này rất tồi tệ, làm mất giá trị Tăng bảo. Nhưng chúng ta cứ y trên tinh thần dân tộc mà bàn, thì những trường hợp trên đủ chứng tỏ người dân Việt mong mỏi bảo vệ Phật giáo, muốn còn mãi mãi bên cạnh họ.

4.- CÂU NIỆM PHẬT ĂN SÂU TRONG LÒNG DÂN TỘC

Người Việt Nam thấm nhuần Phật giáo tận trong huyết quản, trong tủy não. Cho nên, không cần chỉ dạy, không cần khuyên bảo, lòng tin Phật vẫn sẵn ở trong lòng. Như khi chúng ta cùng sang một chuyến đò qua sông. Nếu gặp sóng gió, đò có thể bị nguy hại, mọi người không ai bảo ai đều niệm Phật thầm, hoặc niệm Quan Thế Âm Bồ-tát to lên để cầu cứu khổ. Bất cứ một tai nạn nào sắp hại đến thân, người ta đều to tiếng niệm Phật cầu cứu.

Cho đến ông đồng bà cốt lên xuống khề khà, nếu cô cậu gì nhập vào, mở miệng nói chuyện đều “Mô Phật”. Hình như bất cứ một việc gì có tánh cách linh thiêng đều phải có tiếng niệm Phật. Như vậy, tiếng niệm Phật đã biến thành một thói quen, một tín ngưỡng hồn nhiên của dân tộc.

Chương III: VĂN NGHỆ

A. TỪ NGỮ

Rất nhiều từ ngữ Phật giáo đã biến thành ngôn ngữ thường dùng của người dân Việt. Như khi thấy ai bị hoạn nạn đau khổ, tỏ lòng thương xót, người ta bảo “tội nghiệp quá!” Hai chữ “tội nghiệp” là từ ngữ chuyên môn của Phật giáo, để chỉ tội ác mình đã gây sẽ chiêu cảm nghiệp báo đau khổ rồi mình phải chịu. Hoặc khi gặp một người quá lớn, thấy một vật quá to, người ta liền la lên: ông ấy “Tổ sư Bồ-đề”,  vật đó “Tổ sư Bồ-đề”. Tổ sư Bồ-đề là Sơ tổ Thiền tông tại Trung Hoa, nói đủ là Bồ-đề-đạt-ma (Bodhidharma), người Việt Nam cũng kính thờ Ngài như vị Sơ Tổ. Có thể nói trong phái Thiền tông Trung Hoa và Việt Nam, vị lớn nhất là Ngài. Vì thế, người Việt Nam muốn mô tả cái gì lớn đều mượn danh tự của Ngài mà mô tả. Khi muốn diễn tả một số người quá đông, vật gì quá nhiều, người ta dùng danh từ “hằng hà sa số”. Nếu hỏi “hằng hà sa số” là cái gì, chắc chắn ít có người hiểu chính xác, họ chỉ biết đó là nói rất nhiều. Bởi khi xưa đức Phật thường thuyết pháp gần lưu vực sông Hằng (Ganges) ở Ấn Độ, cho nên khi cần mô tả một con số quá nhiều, Ngài thí dụ như số cát sông Hằng. Hoặc khi có những tiếng động ồn náo, người ta bảo “om sòm bát-nhã”; do khi đến chùa vào những buổi lễ, nhà chùa thường chuyển những hồi trống Bát-nhã. Lại có những người rày đó mai đây, ít khi dừng chân lâu một chỗ, khi có người hỏi anh đi đâu mãi, họ trả lời tôi đi “ta-bà thế giới”. Ta-bà thế giới là thế giới của đức Thích-ca giáo hóa. Theo thế giới quan của Phật giáo thì thế giới ta-bà to gấp mấy lần quả địa cầu này. Còn bao nhiêu từ ngữ khác như hỉ xả, từ bi, giác ngộ…,  người Việt Nam đã quen dùng như tiếng Mẹ, không chút gì ngượng ngập lạ lùng.

B. VĂN CHƯƠNG BÌNH DÂN

1.- TỤC NGỮ, CA DAO

Người nông phu làm việc ngoài đồng, ngoài áng, tay cuốc tay cày trên cánh đồng cỏ xanh lúa mướt, để giải khuây cơn mệt nhọc, đem hứng thú trong công việc làm ăn, họ cất tiếng hát lên:

Ai ơi! hãy ở cho lành

Kiếp này chẳng được, để dành kiếp sau.

Thật là những tiếng như những lời khuyên tha thiết, nhẹ nhàng mà tràn trề đạo đức. Cứ khuyên nhau ăn ở cho lành, dù hiện đời chưa được hưởng quả lành, đời sau sẽ hưởng chớ không bao giờ mất. Lòng tin lý luân hồi nhân quả của người Việt Nam chắc như đá, vững như núi, không khi nào lay chuyển. Lại, xa xa vẳng nghe tiếng vọng lại:

Trách người một trách ta mười,

Bởi ta tệ trước, nên người bạc sau.

Lời nhắc nhở này thật là thâm thúy, kêu gọi nhau hãy tự xét lỗi mình, phải can đảm qui tội về mình, đừng than phiền trách cứ một ai. Người bình dân Việt Nam nhận định rằng không một hiện quả nào mà chẳng phát xuất từ nguyên nhân. Ta bị đối xử bạc ác, đừng vội trách người mà phải tự trách mình. Nếu mình trước không có ăn ở tệ hại với họ, làm gì họ cư xử xấu xa với mình?

Để nói lên tâm hồn sắt đá tôn trọng đạo đức lên trên hết, mặc ai chạy đua theo danh lợi,  mặc ai tham đắm tiền tài, người bình dân tự bảo:

Mặc ai chác lợi mua danh

Miễn ta học được đạo lành thì thôi.

Bởi vì danh lợi chỉ là hạt sương, cái chớp, chợt hiện rồi biến mất có gì lâu dài, thân này là kiếp phù du sớm còn tối mất. Chỉ có đạo đức mới thật lâu dài.

Cuộc đời khác nữa là hoa,

Sớm còn tối mất nở ra lại tàn.

Do nhận định trên, người bình dân Việt Nam cảm thấy người có đạo đức thì tai họa gì cũng qua được. Bằng người không đạo đức tất nhiên phải chuốc lấy tai ương.

Linh đinh qua cửa Thần phù,

Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm.

Đến khi người quyết chí tu hành cũng cần phải có hoàn cảnh thuận tiện. Tức là phải được khung cảnh tịch liêu thanh nhã thì tâm tư mới sảng khoái nhẹ nhàng, sự tu hành chóng đạt kết quả như nguyện.

Dù ai quyết chí tu hành,

Có về Yên Tử mới đành lòng tu.

Trăng thanh gió mát bốn mùa,

Trúc Lâm Tam Tổ từ xưa còn truyền.

Thật vậy, có được cảnh thanh lịch, có gương chư Tổ truyền thừa thì tâm phàm tục mới mong lắng dịu. Nếu thiếu những trợ duyên này, dù cố gắng thế mấy cũng khó kết quả.

Lại nữa, nếu không tu thì thôi, trót đã tu thì phải tu đến nơi đến chốn, đừng để dở dở ương ương mà người đời mỉa mai:

Tu chẳng trọn đời, mặc áo tơi mà chết.

Qua những câu ca dao tục ngữ bình dị mà rất hay ở trên, chúng ta đã thấy người bình dân đã thấm nhuần Phật giáo từ trong cốt tủy. Họ không cần đọc hết những bộ kinh đôi ba mươi quyển, không cần học thuộc những bài giảng dài ba bốn mươi trang, mà họ nói lên được những lời đạo đức chân thành. Thật là Phật giáo đã len trong huyết quản của họ từ bao giờ rồi.

2.- THƠ CA

Thơ ca Việt Nam chịu ảnh hưởng Phật giáo rất nhiều, điển hình những quyển thơ xưa nhất như thơ Quan Âm Diệu Thiện, Quan Âm Thị Kính… cốt truyện và lời thơ đều hoàn toàn Phật giáo. Tuy nhiên, Phật giáo theo quan niệm bình dân đã phối hợp cùng tín ngưỡng dân tộc. Những khi đồng áng rảnh rang, người bình dân thường ngâm nga những vần thơ lục bát tràng thiên thuần túy Việt Nam này để làm thú vui tiêu khiển. Không những thơ có công dụng tiêu khiển trong những ngày nhọc nhằn mệt mỏi, mà cũng để xây dựng, giáo hóa người Việt có những đức tánh cao thượng theo gương trong truyện tích và biết tránh dữ làm lành. Những đức tánh mà người Việt chú trọng nhất là trong gia đình hiếu thảo với cha mẹ, ngoài xã hội nhân từ với mọi người.

Đọc thơ Quan Âm Diệu Thiện, chúng ta thấy hai đức tánh đó nổi bật  nhất. Đây đoạn mở đầu quyển thơ:

Chân như đạo Phật rất mầu,

Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ nhân.

Hiếu là độ được đấng thân,

Nhân là vớt khỏi trầm luân mọi loài.

Tinh thông nghìn mắt, nghìn tay,

Cũng trong một điểm linh đài hóa ra.

Xem trong biển nước Nam ta,

Phổ môn có đức Phật Bà Quan Âm.

Nói về chữ Hiếu, Diệu Thiện tức là Công chúa thứ ba, con vua Diệu Trang Vương nước Hưng Lâm xứ Tây Trúc. Bà mộ Phật pháp không chịu lấy chồng. Vua cha giận đày đọa đến chết. Nhưng sau khi hồn bà dạo qua mười tám cửa ngục ở Diêm-la, được hoàn trở lại dương thế. Vì ghét con đi tu, vua cha đã đốt chùa, hại các Tăng Ni. Do gây nhân ác ấy, sau này nhà vua mắc quả báo đau đớn khổ sở. Bà tu hành đắc đạo, dùng thần thông giả chước cứu cha:

Ấy là phép Phật thần thông,

Giả làm chước ấy để phòng cứu cha.

Kinh Lăng Nghiêm, truyện Phật Bà,

Thiên bá vạn hóa thực là linh thay.

Cho nên chùa tạc tượng Ngài,

Làm ra nghìn mắt, nghìn tay lưu truyền.

Vui trong thế giới ba nghìn,

Sắc không, không sắc, phép thiêng khôn dò.

Thấy cha báng bổ đốt chùa,

Phải làm thế ấy để cho hết ngờ.

Lòng nhân phát xuất từ chỗ trông thấy nỗi khổ của chúng sanh. Bà Diệu Thiện khi hồn dạo qua mười tám cửa ngục hình, mục kích sự đau khổ vô hạn của sanh linh trong ngục tối, Bà động lòng từ bi phát nguyện cứu rỗi, khiến sanh linh đều thoát khỏi ngục hình:

Ấy là các cửa ngục hình,

Điều gì thất đức tại mình biết sao.

Lòng trần tưởng chẳng chi nao?

Ai hay quả báo khi vào Âm ti.

Cơ thâm thì tội cũng thâm,

Ác hữu, ác báo chẳng lầm chút nao.

Dối người dối được trời sao?

Trời, Thần, vua Táo soi vào con tim.

Dương gian chết có một phen,

Phép Âm bắt mãi chết liền sống ngay.

Làm cho thảm thiết đọa đày,

Cho bõ lại ngày ác nghiệp Dương gian…

Khẩn cầu niệm chú tụng kinh,

Ngọc Hoàng cảm động lòng thành tự nhiên.

Vua rằng:“Nghe đức Từ Bi,

Mở lòng thương xót phù trì chúng sinh.

Khắp mười tám cửa ngục hình,

Một giờ đại xá thiên sinh từ rày…

Tuy nhiên, người Việt Nam rất nặng tinh thần dân tộc, dù cốt truyện phát xuất từ nơi nào cũng phải biến hóa thành của người Việt Nam. Bà Diệu Thiện tuy người Tây Trúc, nhưng khi tu hành được Phật giới thiệu sang Việt Nam ở núi Hương Tích:

Đức Phật mới chỉ đường tu,

Rằng: có một chùa ở Hương Tích sơn.

Gần bể Nam Việt thanh nhàn,

Sang tu chốn ấy sẽ toan viên thành.

Núi cao ngan ngát mịt mù,

Am thanh, cảnh vắng, bốn mùa cỏ cây.

Trên thì năm sắc từng mây,

Dưới thì biển nước trong rày như gương.

Cá chim chầu tại tĩnh đường,

Hạc thường tiến quả, hươu thường dâng hoa.

Một mình tu núi Phổ Đà,

Thân là thân Phật, cảnh là cảnh Tiên.

Thơ Quan Âm Diệu Thiện nhằm vào chữ Hiếu và lòng Nhân thì thơ Quan Âm Thị Kính nhằm vào “Nhẫn nhục” và “Cứu độ”. Thị Kính đã mắc oan tình “toan ám sát chồng”, bà trá hình quyết chí vào chùa tu.

Xuất gia quyết một tâm liền,

Phụ tình đới nhật, bước lên dặm đường.

Quần chân, áo chít dịu dàng,

Giả hình nam tử, ai tường căn nguyên.

Tưởng xuất gia là an ổn, nhưng oan khiên chưa dứt, Thị Mầu lại một phen vu oan đã giở thói trăng hoa. Bị làng tra tấn tàn nhẫn, nhưng bà cũng cam tâm nhịn chịu. Sư phụ trông thấy xót xa van xin:

Áo xiêm xem đã tơi bời,

Thương thay Sư mới cất lời van lơn.

Thưa rằng: làm phúc nào hơn,

Mở lòng Bồ-tát, dẹp cơn lôi đình.

Khoản làng xin nộp phân minh,

Dại khôn xin hãy thứ tình một phen.

Sự oan ức nhục nhã này nếu không đủ sức nhẫn nhục thì không sao chịu nổi. Nhờ sức nhẫn nhục mới làm sáng tỏ ý chí của người chân chánh tu hành. Bà tự an ủi:

Sá thù chi đứa dâm ô,

Nước tùy duyên rửa đi cho kẻo mà.

Chữ rằng: nhẫn nhục nhiệm hòa,

Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân tu.

Đến đứa con oan của Thị Mầu đem ném trước hành lang chùa, Bà động lòng trắc ẩn, đem vào chùa nuôi. Mặc tình sư phụ phản đối, thế gian chê cười, Bà vẫn thấy cứu một mạng người là trên hết:

Bữa sau Sư phụ mới hay,

Dạy: “Như thế ấy thì thầy cũng nghi.

Nếu như khác máu du thì,

Con ai mặc nấy, can gì đa mang?”

Bạch rằng: “Muôn đội thầy thương,

Xưa nay thầy dạy muôn đường nhỏ to:

Dẫu xây chín đợt phù đồ,

Sao bằng làm phước cứu cho một người.

Vậy nên con phải vâng lời,

Mạng người không lấy làm chơi, mà liều.”

Sư nghe thưa thốt mấy điều,

Khen rằng cũng có ít nhiều từ tâm.

Ngỡ là nước lã mà lầm,

Cũng đem giọt máu tình thâm hòa vào.

Mẹ vò thì sữa khát khao,

Lo nuôi con nhện làm sao cho tuyền.

Nâng niu xiết nỗi truân chuyên,

Nhai cơm mớm sữa dễ nên con người.

Đến đâu ai cũng chê cười,

Tiểu kia tu có trót đời được đâu.

Vì lòng từ bi thương xót chúng sanh, bà Thị Kính an nhẫn mọi khó nhọc để làm việc “mẹ vò nuôi con nhện”. Đâu những khổ nhọc trong việc nhai cơm mớm sữa, mà còn bị thế gian khinh bỉ chê cười, xem bà là kẻ gian manh núp bóng Bồ-đề, làm điều tà vạy. Thế mà bà vẫn cam chịu, miễn cứu được một mạng người thì thôi. Bao nhiêu đó, chúng ta thấy rõ đức tánh từ bi, nhẫn nhục của bà viên mãn. Người bình dân công nhận rằng người nào đầy đủ lòng từ bi, viên mãn hạnh nhẫn nhục thì người ấy chắc chắn thành Phật. Cho nên bà Thị Kính liền đó chứng thành quả Phật.

Lời kết cấu cốt truyện nhằm vào mục đích răn ác, khuyến thiện. Cho nên đến kết luận nhờ công tu của Thị Kính, cả nhà đều độ thoát và sum họp vui vầy:

Độ cho hai khóm xuân, huyên,

Ra tay cầm quyết bước lên trên tòa.

Siêu thăng thoát hóa cả nhà,

Từ đây phúc đẳng hà sa vô cùng.

Lên chừng Cực Lạc hội đồng,

Mọi người khi ấy đều trông rành rành.

Thiệt là lành lại gặp lành,

Nam-mô Di Phật tu hành thì coi.

Thật là đã bỏ những ngày trần lao khổ ải, trở về hội đồng trong cảnh Cực Lạc an vui. Một hình ảnh đoàn tụ cực kỳ lý thú. Thế hỏi còn ai không muốn tu, không muốn làm lành lánh dữ.

Đọc những quyển thơ trên, chúng ta thấy tinh thần dân tộc và Phật giáo đã đồng nhất. Những lời thơ bình dị ấy gây một tác động lớn lao trong dân tộc. Người bình dân hiểu Phật giáo không phải do những thời thuyết pháp mà nhờ những vần thơ dễ hiểu êm ái này.

3.- TRUYỆN CỔ TÍCH

Ngoài thơ ca, chúng ta còn thấy những truyện cổ tích chứa đầy màu sắc Phật giáo. Tổ tiên ta khéo đem giáo lý đạo Phật lồng vào những mẩu truyện lý thú, hấp dẫn kể cho con cháu nghe để xây dựng chúng sống theo khuôn đạo đức từ thuở bé. Như truyện “Phượng hoàng đậu cây khế”:

Xưa một nhà có hai anh em, khi cha mất đi, người anh tranh hết cả ruộng vườn, để cho người em chỉ mỗi một cây khế.

Người em cũng vui lòng chịu,  không dám nói gì đến anh.

Sau một hôm có đàn Phượng hoàng từ đâu bay lại, đậu trên cây khế, có bao nhiêu quả ăn hết sạch.

Người em thấy vậy, ra gốc cây vừa khóc vừa nói với chim Phượng hoàng rằng:

– Cơ nghiệp tôi chỉ có mỗi cây khế đó thôi. Bây giờ các Ngài lại xơi hết cả thì tôi trông cậy vào đâu cho có ăn!

Phượng hoàng nghe nói bảo rằng:

– Ta vốn hay đậu nơi cây ngô đồng và tắm mát chốn hồ sen.

Ta mà đến đây chẳng qua chỉ để nghỉ chân chốc lát thôi. Ta có ăn mất trái khế nào, thì ta đền trả lại không sợ thiệt.

Nói rồi Phượng hoàng nhả trong mồm ra rơi xuống một cây khế khác, bao nhiêu hoa tinh là bạc, bao nhiêu quả tinh là vàng cả.

Người em, vì thế mà được giàu có hơn anh nhiều.

Anh thấy em giàu, hỏi tại duyên cớ làm sao.

Em kể lại câu chuyện Phượng hoàng cho anh nghe.

Anh bèn ngỏ ý muốn đổi cả vườn ruộng cho em để lấy cây khế, những mong Phượng hoàng lại đến ăn quả, lại cho cây khế bằng vàng, bằng bạc.

Em bằng lòng.

Nhưng anh được cây khế, đợi mãi chẳng thấy chim Phượng hoàng nào đến cả, chỉ thấy lũ quạ đen, ngày nào nó cũng rủ nhau đến kêu “xấu hổ! xấu hổ!”

(Trích Truyện cổ Việt Nam, tập 1 của Nguyễn Văn Ngọc)

Lối kết cấu mẩu chuyện rõ ràng theo đúng đạo lý nhân quả. Kẻ hiền lành thì được quả phước giàu sang, người gian ác không sớm thì chầy, phải chịu quả báo đau khổ. Ngoài ra như truyện “Con Tấm con Cám”, truyện “Kéo cầy trả nợ” v.v… đều cấu tạo theo tinh thần nhân quả này.

Lại còn có truyện nói về sự oan oan tương báo không dứt. Nếu con người còn ôm ấp thù hằn, mong có ngày trả thù báo oán thì thù oán ấy mãi chồng chất chẳng dừng. Như câu truyện “Hét ăn Giun” này:

Xưa có một người tên là Giun làm nghề giữ lúa ngoài đồng. Một hôm có cha thằng Hét đến ăn trộm lúa, bị thằng Giun đánh chết.

Hét căm giận, thề nguyền thế nào cũng báo thù được cho cha mới nghe.

Một buổi, Hét bắt gặp Giun, đuổi đánh. Giun cắm đầu, cắm cổ chạy bán sống, bán chết lên trên núi. Thấy ông Bụt đang đứng đó, nó liền vội vàng quì xuống van lạy rằng:

– Tôi đang có sự nguy cấp, xin ông cứu tôi với…

Bụt hỏi:

– Sự gì?

Nó nói:

–  Trước tôi lỡ tay giết chết cha thằng Hét, bây giờ nó thù, nó muốn giết chết tôi. Hiện nó đang đuổi tôi ở đằng sau lưng kia…

Bụt bảo:

– Làm thế nào bây giờ? Tránh đâu cho thoát được? Hay tao hóa cho mày làm con chim…

– Nhưng rồi nó lấy cung nó bắn thì tôi cũng không thoát được tay nó.

–  Ừ, tao hóa cho mầy làm con cá vậy.

–  Nhưng rồi nó lại chăng lưới nó bắt, thì tôi cũng không khỏi chết với nó được.

Bụt nghĩ rồi bảo:

– Lên trời không thoát, xuống nước không khỏi, thôi thì tao cho mầy chun dưới đất, họa may mới xong được. Tao hóa cho mày làm một con bé và dài, không chân, không cánh và lẩn lút chui luôn ở dưới đất. Vốn mày tên là Giun thì tao cho gọi con ấy là “con giun”.

Thằng Giun nghe gật đầu.

Ông Bụt liền hóa cho nó làm ngay con giun chui tuột ngay xuống đất.

Lúc Hét đến, không thấy Giun đâu, chỉ thấy ông Bụt, Hét mới lại thưa với ông Bụt rằng:

–  Thằng Giun xưa nó giết cha tôi, tôi phải đuổi nó kỳ cùng, giết được nó mới nghe. Nó chạy đàng nào rồi, ông mách cho tôi với.

Bụt bảo:

–  Tao đã hóa cho nó làm con giun chui xuống đất rồi.

Thằng Hét nghe nói, khóc lóc thảm thiết và như ý kêu van bắt đền Bụt rằng:

– Thù cha không báo, thật là bất hiếu, mà cái lỗi ấy ở tại ông…

Bụt nghe nó nói, thương tình nghĩ cái lẽ “oan oan tương báo” khó lòng tránh được, mới bảo nó rằng:

– Ừ, thì bây giờ ta hóa cho mày làm giống chim, cứ lấy tên mày mà gọi là chim hét. Rồi mày tìm giun ở dưới đất mà báo thù vậy.

Nói xong, ông Bụt làm phép cho thằng Hét hóa ra ngay chim hét, và từ đó hét chỉ tìm giun mà ăn, lấy làm ngon lắm.

Sau người ta lại thích ăn chim hét cũng cho là ngon. Bởi vậy tục ngữ mới có câu:

“Muốn ăn hét, phải đào giun” là ý nói hét nó hay ăn giun, mình phải đào đất bới giun lên, hét nó xuống ăn giun thì mình mới bắt được nó.

(Truyện cổ Việt Nam, tập II của Nguyễn Văn Ngọc)

Cốt truyện kết cấu thích hợp với câu “lấy oán báo oán, oán mãi chất chồng; lấy ân báo oán, oán liền tiêu diệt” ở trong kinh Phật. Phật giáo thật đã có mặt trong mọi lãnh vực văn hóa Việt Nam. Những hình ảnh,  những lời lẽ trong truyện thật là mộc mạc bình dị, nhưng ảnh hưởng không phải là nhỏ đối với trí óc non dại. Lối giáo dục của người bình dân không cầu kỳ mà lý thú, không cao siêu mà hấp dẫn, thật là một phương pháp kỳ diệu vậy.

4. VĂN CHƯƠNG BÁC HỌC

Những áng văn bác học của các văn sĩ Việt Nam thời xưa còn lưu lại không ai chẳng biết quyển “Đoạn Trường Tân Thanh” của Nguyễn Du, quyển “Cung Oán Ngâm Khúc” của Ôn Như Hầu là hai tác phẩm nổi tiếng nhất. Chúng ta thử xét qua hai tác phẩm này xem chịu ảnh hưởng Phật giáo nhiều ít.

Lối dụng ngữ trong “Cung Oán Ngâm Khúc”, Ôn Như Hầu đã khéo dùng danh từ nhà Phật tô điểm cho văn chương ông thêm đậm nét siêu thoát linh hoạt. Để diễn tả thân phận con người là khổ đau, bèo bọt, ông dùng:

Gót danh lợi bùn pha sắc xám,
Mặt phong trần nắng rám mùi dâu,
Nghĩ thân phù thế mà đau,
Bọt trong “bể khổ”, bèo đầu “bến mê”.

Trong kinh Phật, khi giải bày nỗi khổ đau vô tận của chúng sanh thường hình dung bằng “khổ hải” (bể khổ). Nhưng cái khổ ấy từ đâu mà ra, vốn từ chỗ mê lầm phát xuất hay từ vô minh sanh khởi. Chỗ mê lầm ấy được hình dung bằng “mê tân” (bến mê). Như thế, danh từ bể khổ, bến mê của Phật giáo đã giúp cụ Ôn Như diễn tả thấu đáo nỗi khổ đau của kiếp người.

Chẳng những kiếp người là đau khổ chập chùng, mà còn cơn vô thường đuổi ngặt. Từ ngoại cảnh đến con người lúc nào cũng rắp ranh tan hoại.

Nào hoa, cỏ, núi, sông và đá đều chung chịu một luật vô thường.

Hình mộc thạch vàng kim ố cổ,
Sắc cầm ngư ủ rũ ê phong,
Tiêu điều nhân sự đã xong,
Sơn hà cũng ảo, côn trùng cũng hư.
Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ
Quán thu phong đứng rũ tà huy
Phong trần đến cả sơn khê,
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này,
Tuồng huyễn hóa đã bày ra đấy,
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau.
Trăm năm còn có gì đâu?
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì.

Cụ Ôn Như đã diễn tả rõ ràng khúc chiết đạo lý vô thường bằng một bức tranh đầy màu sắc. Đá tuy cứng chắc vẫn bị gió sương bào mòn búa mỏng. Những cây cổ thọ rườm rà vươn mình trên đỉnh núi cao, tưởng được sống vĩnh viễn, đâu ngờ trải qua những cơn mưa sa, nắng táp dần dần lá héo cành khô, rồi đến ngày tàn lụi. Đàn chim bay cao vút trên không trung, bầy cá lặn sâu dưới đáy biển vẫn không khỏi ủ ê khi mưa chiều gió sớm. Nhìn lại kiếp người thật mỏng manh tạm bợ, tuy nói rằng trăm năm mà nhớ lại chỉ thấy nấm mồ cỏ mọc xanh rì.

Nhân sanh và vũ trụ đã vô thường khổ đau như thế, còn gì mà không đem mình vào cửa Phật để dứt sạch thất tình lục dục, khơi sáng ngọn đuốc trí tuệ, vượt khỏi kiếp luân hồi.

Thà mượn thú tiêu dao cửa Phật,
Mối thất tình quyết dứt cho xong.
Đa mang chi nữa đèo bòng,
Vui gì thế sự mà mong nhân tình.
Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa,
Mượn “hoa đàm”, “đuốc tuệ” làm duyên.
Thoát trần một gót thiên nhiên,
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời.

Hoa đàm nói đủ là hoa ưu-đàm, tên một thứ hoa quí ở Ấn Độ. Đuốc tuệ là ngọn đuốc trí tuệ. Phật ví dụ trí tuệ con người một khi phát sanh, chẳng khác nào ngọn đuốc sáng đưa con người ra khỏi chỗ mê lầm.

Cụ Ôn Như đã trình bày đầy đủ kiếp người là đau khổ, nhân sinh là vô thường, tu hành là thoát tục. Qua những ý nghĩa đó khiến ta liên tưởng đến tam pháp ấn của Phật giáo là vô thường, khổ, vô ngã. Triết lý quyển “Cung Oán Ngâm Khúc” tức là triết lý Phật giáo. Nhưng cụ chỉ nhìn về mặt tiêu cực của Phật giáo, nên chi lời văn đượm vẻ bi đát. Nếu chúng ta nhìn về mặt tích cực thì trong cái vô thường đã sẵn cái thường, trong cái khổ đã chứa mầm lạc, trong cái vô ngã vẫn có cái ngã. Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận cụ Ôn Như đã tài tình dùng danh từ, ý nghĩa của Phật giáo một cách tuyệt xảo.

Đến cụ Nguyễn Du trong quyển Đoạn Trường Tân Thanh đã áp dụng lý nghiệp báo của Phật giáo một cách triệt để. Hình ảnh Đạm Tiên hiện về là cái bóng ngã trước của con người Thúy Kiều. Những linh cảm báo trước đều là hiện hình của tiền nghiệp. Nhưng nghiệp không phải bất khả chuyển, cho nên “có trời mà cũng tại ta”. Ta hãy nghe lời sư Tam Hợp giải bày:

Sư rằng: “Phúc họa đạo trời,

Cội nguồn cũng bởi lòng người mà ra.

Có trời mà cũng tại ta,

Tu là cội phúc, tình là dây oan…”

*

Sư rằng: “Song chẳng hề chi,

Nghiệp duyên “cân lại nhắc đi” còn nhiều!

Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều,

Mắc điều tình ái, khỏi điều tà dâm.

Lấy tình thâm, trả tình thâm,

Bán mình đã động hiếu tâm đến trời.

Hại một người, cứu muôn người,

Biết đường khinh trọng, biết lời phải chăng.

Thửa công đức ấy ai bằng?

Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi.

Phật giáo không thừa nhận có ông Trời thưởng người làm phước, phạt người gây tội, mà tất cả đều qui về nơi “nghiệp”. Chúng ta tạo nghiệp ác sẽ bị quả báo ác. Như mình cứu giúp người, được người đền ơn lại, mình chửi mắng đánh đập người, bị người đánh đập lại, không có ông Trời nào chen vào đó cả. Quả báo đau khổ chúng ta hiện chịu đây, là do nghiệp xưa đã tạo. Nghiệp đã do mình tạo thì trách trời, oán người thật là việc ngớ ngẩn. Lòng lành là động cơ tạo nên cội phước, chỉ có lòng lành mới thật là đáng quí trọng. Dù ai có tài khuynh đảo Trời đất mà thiếu lòng lành, âu cũng là việc chuốc tai mang vạ mà thôi. Để thấy đầy đủ ý nghĩa này, ta hãy nghe bốn câu kết luận của cụ Nguyễn Du:

Đã mang lấy nghiệp vào thân,

Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.

Thiện căn vốn tại lòng ta,

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.

Chỉ cần bốn câu chót này, thi hào Nguyễn Du kết thúc tường tận ý nghĩa “nghiệp báo”. Chữ Trời ở đây dùng để chỉ lý thiên nhiên, hay nói khác đi là chỉ nhân quả báo ứng. Không một người nào chưa giải thoát mà không bị chi phối bởi lý thiên nhiên hay luật nhân quả báo ứng ấy.

Như thế, thi hào Nguyễn Du đã chịu ảnh hưởng Phật giáo rất sâu đậm. Và lời khuyên chót của Nguyễn Du thật là những lời giảng đạo thấm thía.

Sau này, thi sĩ Chu Mạnh Trinh đã cảm hứng khi đi vãn cảnh núi Hương Tích. Thi sĩ họ Chu dùng ngọn bút vẽ khung cảnh lung linh huyền ảo của núi rừng khe suối, đượm nhuần tinh thần Phật giáo:

Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
Lững lờ khe yến cá nghe kinh.
Thoảng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giựt mình trong giấc mộng.

Chim cũng đi hái trái cúng Phật. Cá lội lững lờ trong khe hình như đang say nghe tiếng kinh kệ. Con người đang đắm mê danh lợi, chợt nghe tiếng hồng chung ngân vang, sực tỉnh cuộc đời là ảo mộng. Thật là đẹp đẽ và cao quí làm sao!

Đến một văn hào nổi danh trong làng áo mũ, đã từng lên voi xuống chó, từng trải mùi tân khổ, vinh quang là Nguyễn Công Trứ. Nhân sinh quan của ông là hưởng lạc. Thế mà ông vẫn chịu ảnh hưởng ít nhiều Phật giáo. Ta hãy đọc một đoạn trong bài chữ NHÀN của ông:

… Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe?
Trần có vui sao chẳng cười khì?
Khi hỉ lạc, khi ái ố, lúc sầu bi,
Chứa chỉ lắm một bầu nhân dục…

Thế là ông chấp nhận thuyết “nhân sinh đa khổ” của Phật giáo. Chẳng những ông chấp nhận, mà ông còn tự xem là một triết lý của ông, đáng được ông đem ra phô diễn. Chính trong bài “Vịnh nhân sinh quan”, ông đã trình bày rõ ràng ý này.

Ôi nhân sinh là thế ấy,
Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao.
Ba mươi năm hưởng thụ biết chừng nào?
Vừa tỉnh giấc nồi kê chưa chín…

Kiếp người sở dĩ chán ngán khổ đau vì nó là vô thường giả ảo. Mới trẻ đó bỗng liền già đó, mới gặp đây bỗng phải chia lìa, vừa thấy đó chợt liền mất đó. Ấy là những ảnh tượng, những đau buồn nhất của con người. Văn hào Nguyễn Công Trứ đã nhìn thấy “nhân sinh đa khổ” là vì nhân sinh vô thường. Đó là thuyết lý căn bản của Phật giáo.

Gần chúng ta hơn, thi sĩ Hàn Mạc Tử, một thi sĩ nhiều đau khổ nhất. Thi sĩ vẽ cảnh biệt ly cô quạnh, nước mắt rơi không biết số muôn ức nào, qua những lời thơ:

Mây vẽ hằng hà sa số lệ,
Là nguồn ly biệt giữa cô đơn.

Ở đây, chúng ta thấy từ ngữ “hằng hà sa số” được dùng một cách êm dịu linh động trong thi văn.

Ngoài ra, còn biết bao nhiêu tác phẩm mà từ ngữ và tinh thần Phật giáo bàng bạc trong ấy. Có thể nói Phật giáo là nguồn cảm hứng trong thi văn Việt Nam. Bởi vì những cảnh núi non thanh u tịch mịch là cảnh của thiền môn, tiếng trống sớm, giọng chuông chiều đập mạnh vào cảm quan của thi sĩ. Mắt trông thấy cảnh nên thơ, tai nghe êm dịu, khiến lòng thi sĩ tràn trề cảm hứng.

5. KIẾN TRÚC

Tinh thần Phật giáo là tinh thần không cố chấp, không đóng khung trong một hình thức cố định. Phật giáo biết rõ mỗi chúng sanh đều có tâm tưởng ý nghĩ khác nhau. Không thể bắt buộc họ đồng nhất với nhau, khi nghiệp lực của mỗi người còn khác biệt. Từng cá nhân vẫn sai biệt theo nghiệp lực của mình, huống là mỗi dân tộc, phong tục tập quán làm sao giống hệt nhau được. Đứng về phương diện khế cơ, Phật giáo du nhập vào địa phương nào, tùy dân tộc tánh của địa phương ấy, sự kiến thiết chùa chiền phải thích ứng với dân tộc đó.

Cho nên, những ngôi chùa ở Trung Hoa hình thức đặc biệt Trung Hoa. Ngôi chùa ở Nhật Bản hình thức hoàn toàn Nhật Bản. Ngôi chùa ở Thái Lan, Miên… hình thức hẳn là Thái Lan, Miên. Ngôi chùa Việt Nam thì thật sự là Việt Nam. Trông qua những ngôi chùa thờ Phật, ở mỗi nơi đều có kiểu khác biệt nhau. Có người cho đó là tánh cách vô tổ chức của Phật giáo. Theo quan niệm của tôi, đó là đặc tánh của Phật giáo:  tôn trọng tinh thần dân tộc, gần gũi quần chúng, thích ứng nhân tâm. Phật giáo đến đâu chỉ giúp cho văn hóa xứ ấy được phong phú, không bắt xứ ấy lệ thuộc văn hóa Phật giáo. Vì thế, dân tộc Việt Nam chỉ muốn Việt Nam hóa Phật giáo, chớ không để Phật giáo hóa Việt Nam.

Lối kiến trúc những ngôi chùa cổ ở Việt Nam phối hợp tinh thần dân tộc cùng tinh thần Phật giáo làm một. Ngôi chùa độc đáo nhất ở Việt Nam xây cất thời vua Lý Thái Tôn tên “chùa Một Cột” hay “chùa Diên Hựu”. Sử chép:

Đại Bảo nguyên niên tạo Diên Hựu tự. Sơ Đế mộng Quan Âm Phật tọa Liên Hoa đài dẫn Đế đăng đài. Cập giác ngữ quần thần, hoặc dĩ vi bất tường! Hữu Tăng Thiền Tuệ khuyến Đế tạo tự lập thạch trụ vu địa trung, Cầu Quan Âm Liên Hoa đài vu kỳ thượng như mộng trung sở kiến, Tăng đồ toàn nhiễu tụng kinh Diên Thọ cố danh Diên Hựu.

(Đại Việt Sử Ký toàn thư  9, 11, 37)

Năm 1049 dựng chùa Diên Hựu, tức chùa Một Cột. Nguyên Vua mộng thấy Phật Bà Quan Âm ngồi trên đài sen, đến dắt Vua lên đài. Lúc tỉnh Vua kể truyện lại, triều thần cho là điềm gở. Sư Thiền Tuệ khuyên xây chùa, dựng một cột đá giữa hồ, đặt đài sen tượng Quan Âm ở trên như đã thấy trong mộng. Tăng đồ đi vòng quanh đài, tụng kinh để cầu cho Vua sống lâu, cho nên có tên là Diên Hựu.

(Nguyễn Đăng Thục dịch)

Cách kiến thiết ngôi chùa Diên Hựu thế nào, chúng ta hãy đọc thêm đoạn văn sau đây:

Theo bia “Sùng Thiện Diên Linh” dựng năm 1122 ở núi Long Đội, tỉnh Hà Nam:

Ở vườn Tây Cấm, dựng chùa Diên Hựu. Theo dấu cũ thêm ý mới của nhà vua, tạc hồ Linh Chiểu. Trên hồ dựng lên một cột đá, trên cột đá nở một bông sen nghìn cánh, trên bông sen lại gác một tòa điện tượng Phật vàng. Chung quanh hồ có hành lang bao vây, tường vẽ. Ngoài hành lang lại có hồ Khang Bích bọc bốn bề, mỗi bề có thông ra ngoài sân, trong sân, kế đầu cầu ở trước chùa có dựng hai tháp lớn, lợp ngói sứ.

(Lý Thường Kiệt 9-11, trang 415 của Hoàng Xuân Hãn)

Trong quyển Văn minh Việt Nam, Lê Văn Siêu nói lối kiến trúc thành Thăng Long, có đề cập đến chùa Một Cột như sau:

Tiện đây, lại nói luôn đến chùa Nhất Trụ. Có lẽ chùa này cũng do cùng một kiến trúc sư kiến tạo nên. Bởi qui mô kiến trúc chùa cũng theo đúng một tinh thần như đã nói: Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái, Bát quái biến hóa vô cùng. Nhưng đặc biệt là toàn thể ngôi chùa lại quan niệm theo hình thể bông sen, cắm chân ở dưới đất bùn (cột) và lên đến trên thì to ra như hình búp hoa. Mái ở trên thời mở ra làm hai, xuống từng dưới là bốn mái và xuống từng dưới nữa là tám mái trông ra tám hướng. Chùa đặt ở ngay bên nội điện.

(Văn minh Việt Nam, trang 82-83)

Một công trình kiến trúc quí báu đáng lưu lại muôn năm, một quốc bảo của Việt Nam, mà đã bị bọn phi dân tộc phá hoại trong thời chiến này, thật đáng trách và đáng tiếc!

Ngoài ngôi chùa độc đáo trên, tất cả ngôi chùa khác đều kiến thiết theo một quan niệm dân tộc và Phật giáo. Có đi ra Huế, chúng ta sẽ thấy các ngôi chùa Linh Mụ, Tây Thiên, Báo Quốc, Từ Hiếu v.v… không khác điện Thái Hòa trong thành nội bao nhiêu. Hình thức ba gian, năm gian hai chái, mái cong… chứa đầy tinh thần dân tộc.

Tuy nhiên, gần đây có những ngôi chùa hoặc người đứng ra xây cất không nhận thức được tinh thần dân tộc, hoặc chạy hùa theo lối kiến trúc Tây phương khiến những ngôi chùa ấy lai căng một cách đáng thương! Có khi đến ngôi chùa mà chúng ta không thể tưởng tượng đó là chùa, tưởng chừng ngôi biệt thự cất theo kiểu mới.

C. ĐIÊU KHẮC, HỘI HỌA

Nếu phê bình mỹ thuật về ngành điêu khắc, hội họa chung của dân tộc Việt Nam, chúng tôi không đủ khả năng làm việc ấy. Nhưng nhìn riêng về hình tượng tranh ảnh Phật giáo, chúng tôi có những nhận xét sau đây:

1.- TINH THẦN DÂN TỘC

Tinh thần điêu khắc, hội họa cũng như tinh thần kiến trúc, nghĩa là phối hợp tinh thần Phật giáo với tinh thần dân tộc. Sự phối hợp này thể hiện cụ thể qua hình tượng đức Phật hay chư vị Bồ-tát. Đức Thích-ca là vị Hoàng tử Ấn Độ đi tu, sau này thành Phật. Như vậy, tướng mạo Ngài nhất định là tướng mạo người Ấn Độ, nếu tạc tượng hay họa ảnh Ngài phải giống người Ấn mới đúng với hình tướng thật của Ngài. Nhưng nhìn vào tất cả tượng Phật thờ ở Việt Nam, Trung Hoa… tại các ngôi chùa cổ, chúng ta không tìm thấy một dáng điệu nào giống người Ấn Độ, mà thấy in hệt người Việt Nam, người Trung Hoa… Lối điêu khắc ấy, gần đây có một số người cho là sai sự thật. Đó là thái độ câu chấp lệ thuộc vào hình thức. Tinh thần Phật giáo là tinh thần vô ngã. Đức Phật không thừa nhận Ngài là người riêng của xứ Ấn Độ, mà là ông Thầy dẫn đường của Tam giới (tam giới chi đạo sư). Người Phật tử không thấy Ngài là ông cha riêng của một nước, mà công nhận Ngài là ông cha lành chung cả bốn loài (tứ sanh chi từ phụ). Đã thấy Phật là ông cha chung của chúng sanh, thì chúng ta là người Việt Nam dĩ nhiên phải thấy đức Phật là người Việt Nam; người Trung Hoa, Nhật Bản phải thấy đức Phật là người Trung Hoa, Nhật Bản. Nếu chúng ta tạc tượng Phật in hệt người Ấn Độ, đó là phản bội tư tưởng của Ngài và cũng phản bội tinh thần dân tộc Việt Nam. Nghĩa là đã không đem văn hóa Phật giáo làm giàu cho văn hóa Việt Nam, ngược lại bắt văn hóa Việt Nam nô lệ văn hóa Phật giáo. Đến tượng các vị Bồ-tát cũng thế. Như tượng Bồ-tát Quan Thế Âm, thật là một gương mặt từ bi của một bà mẹ hiền Việt Nam.

2.- TINH THẦN PHẬT GIÁO

Những cử chỉ trong hình tượng Phật biểu lộ trung thành tinh thần Phật giáo. Có thể đơn cử một vài cử chỉ làm tỉ dụ. Nhìn vào tượng đức Phật Thích-ca, thấy cặp mắt Ngài đăm chiêu nhìn xuống, khiến chúng ta tự nghĩ: Tại sao có dáng điệu này? Bởi vì Phật giáo chủ trương thuyết nhân duyên hay nhân quả, cho nên không có một điều gì xảy ra mà không có nguyên nhân hay duyên cớ. Những nguyên nhân và duyên cớ ấy đều phát xuất từ bản thân chúng ta. Muốn tìm hiểu thấu đáo nguyên nhân và duyên cớ đó, phải căn cứ vào tâm tưởng, ngôn ngữ và hành động của chúng ta. Bỏ ta mà tìm kiếm bên ngoài, đức Phật cho đó là suy xét sai lầm, lệch lạc (tà kiến). Phải nhìn thẳng vào chúng ta, phải quán sát lại nội tâm của mình, một khi thấy rõ rồi thì mọi việc đều hiểu biết tường tận, hoặc nói cách khác là được giác ngộ. Muốn quán sát nội tâm mình, dĩ nhiên cặp mắt phải đăm chiêu ngó xuống. Tóm lại, cặp mắt Phật ngó xuống nói lên giáo lý đạo Phật là giáo lý “nội quan”.

Quán sát nội tâm để thấu đạt mọi nguyên nhân phát xuất nơi mình, đó là thái độ tiêu cực tự giác, tự ngộ. Đối với xã hội, Phật giáo còn có thái độ tích cực giác tha và độ tha. Cho nên nhìn vào tượng Phật Di-đà phóng quang, chúng ta thấy tượng đứng thẳng, một tay kiết ấn cam lồ, một tay duỗi xuống phóng quang. Phật giáo nhận xét chúng sanh còn trong dòng trầm luân muôn vàn đau khổ, chẳng khác nào những kẻ đang đắm chìm ngụp lặn trong biển cả. Cử chỉ duỗi tay xuống của đức Phật để nói lên ý nghĩa, Ngài lúc nào cũng sẵn sàng đưa tay cứu vớt tất cả chúng sanh. Tinh thần độ tha của đạo Phật biểu lộ rất đầy đủ trong cử chỉ ấy.

Đến tượng Bồ-tát Quan Thế Âm, tay trái cầm bình Thanh tịnh đựng nước cam lồ, tay mặt cầm cành Dương liễu để nhúng nước cam lồ rưới xuống chúng sanh. Đức Quan Thế Âm là hình ảnh một bà mẹ hiền của tất cả chúng sanh. Ngài lúc nào cũng nguyện dẹp hết đau khổ (lòng bi) đem mọi an vui (lòng từ) lại cho chúng sanh. Nước cam lồ để tượng trưng lòng từ bi của Ngài. Nó có công dụng rưới tắt ngọn lửa phiền não đang bừng cháy trong tâm chúng sanh, và đem lại sự thanh lương an tịnh cho mọi loài. Nó không đóng khung trong một hình thức vuông, tròn, không cố định trong cá thể lỏng, cứng, tùy hoàn cảnh, tùy tâm niệm chúng sanh liền theo đó ứng hiện cứu độ. Lòng từ bi thật là mênh mông, bát ngát không thể lường, không thể biết hết được.

Đó là phác họa vài nét điêu khắc, hội họa hình tượng Phật, Bồ-tát, nói lên tinh thần Phật giáo một cách cụ thể. Chúng ta có thể nhân đây có những nhận xét tổng quát về điêu khắc chứa đựng đầy đủ tinh thần Phật giáo.

3.- PHẬT GIÁO GIÚP NGÀNH ĐIÊU KHẮC, HỘI HỌA VIỆT NAM SỚM PHÁT TRIỂN

Chúng ta không thể chối cãi được những hình ảnh điêu khắc trong các hang động xưa kia lưu lại, những cốt tượng tìm được hiện còn giữ trong Bảo tàng viện Quốc gia, đa số là hình ảnh Phật giáo và cốt tượng Phật, Bồ-tát. Bao nhiêu đó cũng đủ minh chứng, nhờ ảnh hưởng Phật giáo mà ngành điêu khắc, hội họa Việt Nam sớm được phát triển.

Chương IV: THÁI ĐỘ SAI LẦM CỦA PHẬT TỬ VIỆT NAM HIỆN TẠI

A. THÁI ĐỘ SAI LẦM CỦA PHẬT TỬ BÌNH DÂN

Người bình dân vì thiếu phương tiện học hỏi chánh pháp nên không phân biệt được Phật giáo và Thần giáo. Hơn nữa, Phật giáo là nền giáo lý cao sâu, nếu không phải người giàu suy tư nhiều chiêm nghiệm thì không sao thấu đạt nổi. Người bình dân thời giờ hiếm hoi, tâm hồn bình dị, làm sao hiểu thấu được những lẽ siêu thoát của Phật dạy. Do đó, họ có những tin hiểu sai lầm như sau:

1.- THIÊN HÌNH THỨC NGHI LỄ

Người bình dân đến với Phật giáo chú trọng nhiều về hình thức nghi lễ. Qui y là để khi nào bệnh nhờ thầy cầu an, khi chết nhờ thầy cầu siêu. Cho nên trong gia đình có đứa bé ấm đầu là chạy thỉnh thầy Trụ trì về nhà cầu an. Nếu trong thân quyến có tang, đến ngày tuần thất thì thỉnh thầy về nhà tụng kinh suốt đêm. Vào chùa, bất cứ bàn thờ Phật hay bàn thờ vong đều hì hục lễ bái và lâm râm khấn nguyện. Cứ tin rằng lạy càng nhiều thì phước càng lớn. Đi chùa những ngày sóc, ngày vọng để cúng kính lễ bái, ngoài ra không cần biết gì nữa. Họ quan niệm tu hành rất giản dị, ai thường cúng kính là người đó tu nhiều. Ông thầy Trụ trì nào thường tổ chức cầu an, cầu siêu, cúng cô hồn, cúng sao… là ông thầy ấy tu hành tinh tấn. Người Phật tử nào bỏ tiền nhiều, xin lễ này, tổ chức lễ nọ cho là người Phật tử thuần thành chân chánh. Xuất tiền in kinh ấn tống thì chọn ròng rặt các nghi thức cầu an, cầu siêu, kinh Tam Bảo, Địa Tạng v.v… Nếu ai giới thiệu ấn tống quyển “Lịch sử Phật giáo” cần thiết hoặc “Những bài giảng” có giá trị thì họ lắc đầu từ chối, bảo rằng: “Ấn tống sách đó thì ít phước!” Bởi nhận định này nên Phật giáo càng ngày càng đi sâu vào hình thức nghi lễ.

2.- TIN PHẬT NHƯ VỊ THẦN LINH

Người bình dân đến với đức Phật để cầu ban phước, che chở, ủng hộ hơn là tìm giác ngộ. Người ta nghĩ rằng: có tai nạn cầu Phật, Phật sẽ cứu độ cho. Vì vậy ngày bình không cần đến chùa, chờ khi cần cầu xin một việc gì mới mang hương đăng đến chùa cầu nguyện. Thật là:

Hữu tật thì bái tứ phương,
Vô tật đồng hương chẳng mất.

hoặc:

Nghiêng vai ngửa vái Phật trời,

Đương cơn hoạn nạn, độ người trầm luân.

Quan niệm Phật như vị thần linh chỉ coi việc ban phước, giáng họa. Vì vậy, người ta không ngại gặp Phật thì cúng, gặp thần thì lạy, gặp ma quỉ thì cầu xin. Bởi trên cương vị ban phước giáng họa, họ không phân biệt đâu trọng đâu khinh, miễn vị nào đem lại được những điều cầu nguyện của họ là linh thiêng, bằng không thì hết linh ứng. Hết linh ứng thì họ bỏ không theo nữa, dù Phật cũng thế. Do đó, trong dân gian những cốt Cô, cốt Cậu đều được Phật tử tín ngưỡng qui y. Vì những Cô, Cậu ấy đã báo cho họ biết những tai nạn sắp đến và đã cho bùa chú để họ dán trong nhà khiến con cháu mạnh giỏi, làm ăn phát đạt. Niềm tin Phật như vậy, họ rất dễ tin mà cũng rất dễ bỏ, nếu một sở nguyện được thành, hoặc không toại nguyện.

3.- TIN PHẬT QUA NHỮNG HÌNH THỨC TÀ GIÁO

Có những người đến với Phật, không do hiểu Phật pháp mà nhờ ông Đồng, bà Cốt mách phải qui y Phật sẽ khỏi tai nạn chẳng hạn, họ liền đến chùa xin qui y. Hoặc có người do xin xăm hay bói quẻ,  trong xăm quẻ dạy theo Phật hay thờ Phật thì mọi sự an lành…, họ liền phát nguyện qui y Phật. Hoặc vị Trụ trì có học bùa chú trừ ma ếm quỉ,  người có con bệnh đến nhờ thầy trị chữa, nếu con lành bệnh liền xin qui y Phật…

B. THÁI ĐỘ SAI LẦM CỦA GIỚI TRÍ THỨC NGHIÊN CỨU PHẬT

Đa số người trí thức gần đây chịu khó nghiên cứu Phật giáo, tìm thấy những triết lý cao siêu trong Tam Tạng giáo điển, họ tỏ vẻ thích thú; nhưng nhìn lại hình thức cúng kính, nghi lễ trong chùa chiền, họ cực lực phản đối, cho đó là sự sai lạc lớn lao đáng trách. Giới trí thức y cứ những điểm như sau để phàn nàn Phật giáo hiện tại.

1.- CĂN CỨ LÝ NHÂN QUẢ

Căn cứ lý nhân quả, mình gây nhân thì mình chịu quả, dù cha con cũng không thay thế nhau được, huống là kẻ khác. Nhân đã gây thì quả phải chịu; nguyện cầu, cúng tế, làm phước… của người khác không liên hệ gì đến người này cả. Như A ăn thì A no, không thể A ăn mà B no được.

Vì thế, những người khuyên cầu nguyện, cúng dường, bố thí… chỉ gây thêm sự mê tín dị đoan, trong Phật giáo không thừa nhận điều đó. Bởi nhận xét trên, nên giới trí thức cực lực phản đối việc cúng dường, cầu nguyện…, cho hành động như thế là sai Phật pháp, là bị nhóm người tu lợi dụng.

2.- CĂN CỨ THUYẾT VÔ NGÃ, VÔ TRƯỚC

Nhìn vào Phật giáo thấy thuyết vô ngã, vô trước thật là hệ trọng. Nếu người tu không phá được ngã chấp thì không sao giải thoát được. Muốn dứt ngã chấp thì tự mình phải lắm công phu trừ diệt. Không ai có thể làm cho ai được giải thoát, nếu người ấy không dứt trừ ngã chấp thật sự. Người không tự cố gắng phá trừ ngã chấp, mà sau khi chết, trong thân quyến thỉnh chư Tăng đến cầu siêu, mong được giải thoát thật là điều vô lý.

Phật giáo nhằm vào tự lực, mỗi người phải tự độ lấy, đừng ỷ lại vào ai cả. Dù đức Phật cũng không thể cứu độ chúng ta được, nếu chúng ta không tu. Như vậy, làm gì có do tụng kinh mà độ được các vong linh. Nếu người chủ trương tụng kinh cầu siêu, độ được các vong linh, đó là tà đạo chớ không phải Phật giáo.

Bởi y cứ những điểm giáo lý như trên, giới trí thức nghiên cứu Phật giáo rất bất bình việc thực hành tu tập của tín đồ và chư Tăng hiện tại. Cho rằng tín đồ mù quáng đi sai lạc, chư Tăng lợi dụng để no cơm ấm áo.

C. DUNG HÒA

Hai thái độ trên không khéo trở thành cực đoan. Một bên nặng phần tín ngưỡng, thiên về hình thức cung kính, quên lãng phần tự tu, không chịu học hỏi giáo lý. Một bên thiên về triết lý, chú mục vào triết lý, bỏ sót phần tín ngưỡng. Phật giáo còn tồn tại đến ngày nay là do bao trùm cả triết lý và tín ngưỡng. Nếu bỏ mất một trong hai phần thì Phật giáo không còn là Phật giáo nữa. Cho nên những người chấp một cách cực đoan trong hai thái độ trên đều là sai lầm.

1.- SAI LẦM CỦA NGƯỜI NẶNG PHẦN TÍN NGƯỠNG

Người tu theo đạo Phật phải có sức mạnh tinh thần để cải đổi những tâm niệm, hành vi, ngôn ngữ sai lầm trở thành chân chánh. Chính khi đứng chắp tay tụng kinh hay lễ Phật, chúng ta cũng thấy biểu lộ đầy đủ ý nghĩa này. Người Phật tử đứng trong điện Phật, hai tay chắp lại theo hình hoa sen búp, gọi là Liên hoa ấn, để ngay giữa ngực, ngay quả tim, nói lên tâm tư thanh tịnh. Mắt nhìn xuống cốt phản tỉnh, tự quán sát nội tâm mình. Thân ngay thẳng trang nghiêm, miệng tụng kinh, niệm Phật, để biểu lộ thân thanh tịnh và khẩu thanh tịnh.

Hình thức nghi lễ ấy không có nghĩa là cầu xin, ỷ lại vào đức Phật, mà chỉ cần yếu giữ gìn ba nghiệp thanh tịnh. Bởi thiếu khung cảnh trang nghiêm, chúng ta muốn kềm thúc thân tâm thanh tịnh rất khó khăn, nên hình thức nghi lễ là phương tiện giúp chúng ta thực hiện được điều ấy. Đừng lầm rằng Phật ban cho ta sự thanh tịnh. Chính Phật đã dạy:

Làm dữ bởi ta mà nhiễm ô cũng bởi ta, làm lành bởi ta mà thanh tịnh cũng bởi ta. Tịnh hay bất tịnh đều bởi ta, chớ không ai có thể làm cho ai thanh tịnh được.

(Kinh Pháp Cú, bài 165, Thượng tọa Trí Đức dịch)

Lại làm lành làm dữ cũng tại ta thì Phật đâu ban phước, giáng họa cho ta được. Cho nên quan niệm Phật như vị thần linh thật là sai lầm. Người Phật tử phải nhằm vào tự lực nhiều hơn. Kinh Pháp Cú chép:

Chính tự mình làm chỗ nương cho mình, chớ người khác làm sao nương được? Tự mình khéo tu tập mới đạt đến chỗ nương dựa nhiệm mầu.

(Kinh Pháp Cú, bài 160)

Tuy nhiên, người Phật tử vẫn phải cúng dường, lễ bái Phật, nhưng cúng dường Phật là để phát thiện tâm, lễ bái Phật là tỏ lòng khát khao giải thoát giác ngộ. Không nên có quan niệm cúng dường Phật cầu Phật ban ơn, lễ bái Phật cầu Ngài tha tội. Dù cho lễ Phật sám hối cũng không có nghĩa cầu tha tội. Đó chẳng qua nhờ Phật làm đối tượng để phát tâm ăn năn chừa cải và hổ thẹn. Có biết như thế thì sám hối mới hết tội. Chúng ta hãy trả đức Phật trở về vị trí của Ngài là bậc “Đạo sư”. Chúng ta cũng phải tu tập đúng với tinh thần Phật tử là tự độ, độ tha. Đừng bao giờ xem đức Phật đủ cả quyền năng ban phước, giáng họa. Cũng không nên ỷ lại, gởi gắm cả đời mình vào quyền năng của Ngài. Nếu có tư cách đó là phản bội đức Phật và cũng không phải là người Phật tử.

2.- SAI LẦM CỦA NGƯỜI NGHIÊNG VỀ TRIẾT LÝ

Người trí thức thiên trọng phần triết lý nên thấy sự lễ bái, cúng dường, cầu nguyện… đều không chấp nhận, mà lại phản đối. Cho rằng Phật giáo hoàn toàn tự lực, không bao giờ nương tựa vào cái gì bên ngoài. Nếu Phật giáo chỉ dạy một bề như thế thì những người đầy đủ ý chí, giàu nghị lực mới tu được, còn những người thiếu ý chí, kém nghị lực không thể tu theo đạo Phật sao? Như thế, Phật giáo không có ý nghĩa khế cơ rồi. Vì hạng người đầy đủ ý chí, giàu nghị lực rất hiếm trong xã hội này. Cho nên, cái nhìn cực đoan như vậy đưa Phật giáo đến chỗ khô khan, cô quạnh.

Hơn nữa, nơi mỗi con người chúng ta đều có hai phần, tình cảm và lý trí. Nếu có người chỉ thuần tình cảm, không có lý trí thì họ chìm đắm trong biển thương yêu mê hoặc. Ngược lại có người ròng rặt lý trí, không có tình cảm thì họ khô khan cô độc. Con người ví như cây trồng xuống đất, tình cảm là chất nước, lý trí như ánh nắng. Thiếu một trong hai thứ ấy, cây nhất định không sanh trưởng được mà phải khô héo lần. Một tôn giáo cũng thế,  triết lý và tín ngưỡng không thể thiếu một được. Nếu thiếu một, tôn giáo ấy sẽ chết mòn. Cho nên, chủ trương cực đoan về triết lý của giới trí thức này cũng là tai họa của Phật giáo.

Lại, chúng ta thử xét ý nghĩa cúng dường, cầu nguyện có sai tinh thần Phật giáo hay không? Người Phật tử ai cũng biết lý nhân quả, thuyết vô ngã, vô trước là nền tảng của Phật giáo. Như thế, sự cúng dường được phước đức có phản bội lý nhân quả chăng? Người này cầu nguyện, người kia được siêu độ, có trái vô ngã hay không?

– Thưa không!

Bởi vì lý nhân quả tế nhị lắm, không thể đơn giản rằng “mình làm mình chịu”, có khi không làm lại có chịu, mà vẫn không trái lý nhân quả. Ví như ông A là người chủ sở giàu có, anh B là người làm công nghèo khổ. Một hôm vì một chuyện không đâu, ông A nóng giận đánh anh B. Lý đáng anh B phải trả thù bằng cách đánh lại. Nhưng sau khi qua cơn nóng giận, ông hối hận hành động vô ý thức của mình. Ông không can đảm đến xin lỗi B, phải nhờ người thân của B xin lỗi hộ, và ông cho B một số tiền khá hậu. Vì thế, cái quả của anh B phải trả lại ông A có thể không còn nữa. Lại gia đình kia có hai anh em là Xoài và Mít. Anh Xoài hiền lành dễ thương, nhưng Mít lại hung dữ đáng ghét. Một hôm Xoài đi làm ngoài đồng, Mít ở nhà đánh lộn với người hàng xóm. Đang cơn ẩu đả nhau, rủi Xoài về tới, tuy Xoài không định tâm bênh em, nhưng người kia sợ Xoài bênh nên vội vàng đập Xoài một gậy. Trường hợp này Xoài thật vô tội mà vẫn ăn đòn. Thế nên, việc đó không phải tự mình gây, rồi tự mình chịu. Có khi người khác gây mà mình chịu, như trường hợp Xoài và Mít. Có khi tự mình gây mà không chịu như trường hợp A và B. Nhưng nói như thế không phải ngoài lý nhân quả.

Vì nhân quả có chánh nhân, trợ nhân, thuận nhân, nghịch nhân… Tuy chánh nhân đã gieo mà gặp nghịch nhân phá hoại thì không thể nào kết quả. Như ta gieo hạt lúa xuống đất nhất định lên cây lúa, nhưng bị dế cắn khi mới nảy mầm thì làm sao sanh cây lúa? Đó là có chánh nhân đánh người của ông A, mà quả người đánh lại không có. Hoặc có khi chánh nhân này mà do trợ nhân biến thành cái khác. Như chúng ta trồng cây cam ngọt, đến lớn lên có người lén cắt nhánh chanh tháp vào, khi kết quả không được cam ngọt, mà chỉ có chanh chua. Đây là không gây nhân đánh đập mà bị quả đánh đập của anh Xoài vậy.

3.- DUNG HỢP

Trong cuộc sống tương quan tương duyên này, chúng ta đừng nghĩ tưởng một cách giản dị rằng: “mình làm mình chịu”. Quan niệm ấy rất là thô sơ máy móc. Bởi sự ràng rịt giữa mình và xã hội phức tạp vô cùng. Xã hội đẹp mình cũng được ảnh hưởng đẹp, xã hội xấu mình cũng chịu ảnh hưởng xấu. Tuy nhiên cũng có một vài người thoát khỏi sự ràng rịt của xã hội, nhưng đó là bậc Thánh nhân.

Đến như việc tụng kinh cầu nguyện được siêu thoát cũng không có ý nghĩa một bề ỷ lại vào tha lực. Con người chúng ta kết hợp bởi hai phần, tinh thần và vật chất. Người tâm hồn tán loạn thì tinh thần yếu đuối, bị vật chất chi phối. Những vị tâm hồn an tịnh thì tinh thần mạnh mẽ phi thường, làm chủ được vật chất. Như trong kinh nói “Chế tâm nhất xứ vô sự bất biện” (Kềm tâm một chỗ việc gì cũng xong) (Kinh Phật Di Giáo). Một bằng chứng cụ thể, khi chúng ta có việc mừng quá, hay giận quá liền quên đói. Lúc đó tâm chỉ nhớ vào việc mình được để mừng, hoặc tâm chỉ nhớ điều tức giận đều quên đói. Cho nên có nhiều vị Thiền sư khi chú tâm vào định năm bảy ngày mà không cần ăn uống, như Huệ Sinh thiền sư đời Lý. Sử chép:

Khi được Sư phụ truyền tâm pháp cho, Ngài mới đi hành hóa khắp chốn Tòng Lâm, rồi lên ở núi Bồ-đề. Mỗi lần Ngài ngồi nhập định tu pháp ít nhất năm bảy ngày. Người đời bây giờ thường gọi Ngài là ông “Phật xác thịt”.

Vua Lý Thái Tôn nghe tiếng Ngài, sai Sứ đến vời. Ngài bảo Sứ rằng: Ông không thấy con sanh trong lễ tế ư? Khi chưa tế thì người ta cho nó ăn cỏ thơm, mặc áo gấm, đến khi dắt vào Thái miếu thì nó chỉ muốn cầu chút sống sót, còn nói đến việc gì? Nói rồi Ngài từ chối, không chịu đi.

(Việt Nam Phật Giáo Sử Lược, trang 124 của Thượng tọa Mật Thể)

Gần đây như ngài Hư Vân hòa thượng ở Trung Hoa, có lần nhập định đến nỗi cháo lên meo xanh.

Đó là những bằng chứng tinh thần mạnh điều khiển được vật chất. Chẳng những điều khiển được bản thân mình mà còn sai khiến kẻ khác theo ý muốn của mình. Như các nhà thôi miên chỉ dùng sức tập trung tư tưởng, khi đã thành công lại có thể dùng sức mạnh tinh thần sai khiến người khác làm theo ý muốn của mình. Như vậy mới biết tinh thần có sức mạnh vô biên mà chúng ta không biết gom góp nó lại và tận dụng khả năng của nó. Những người chỉ nhìn cận thị trên hình thức vật chất làm gì hiểu nổi điều này.

Nói đến người chết, nhà Phật cho biết, sau khi tinh thần rời bỏ thân tứ đại này, người chết được kết hợp bởi thân tứ đại tinh anh, mắt phàm không thấy được. Thân đó nhẹ nhàng, đi lại nhanh nhẹn và dễ cảm thông. Việc tụng kinh cầu nguyện không phải các vị Sư đủ sức cứu vớt những kẻ ấy, mà dùng sức mạnh tinh thần chuyên chú để soi thấu tâm tư của họ bằng những tia lửa thanh tịnh an lành, khiến họ thức tỉnh chuyển tâm hồn đen tối thành sáng suốt, ác độc thành lương thiện. Thế là cứu độ họ thoát khỏi khổ đau. Nói cứu độ, kỳ thật tự họ chuyển lấy, người tu chỉ làm trợ duyên giúp bên ngoài thôi. Như thế, đâu có trái với nghĩa tự giác, tự ngộ của Phật giáo. Đọc kinh Vu Lan Bồn, chúng ta thấy rõ ý nghĩa này.

Cho nên sự cúng dường, cầu nguyện của Phật giáo không phải hoàn toàn ỷ lại như vài tôn giáo khác. Cúng dường, cầu nguyện là nhằm vào chỗ phát tâm thiện của ta và làm duyên xoay chuyển tâm niệm của người. Nếu chúng ta cúng dường, cầu nguyện bằng cách hình thức máy móc thì không lợi ích gì cho ta và cho người cả. Sự cúng dường, cầu nguyện với thành tâm, thiện ý thì kết quả tốt đẹp vô cùng. Kinh Phật dạy:

Kẻ nào cúng dường những người đáng cúng dường, hoặc chư Phật hay đệ tử, những vị thoát ly hư vọng, vượt khỏi hối hận lo âu, công đức của người đã cúng dường các bậc tịch tịnh vô úy ấy, không thể kể lường.

(Kinh Pháp Cú, bài 195-196)

Do đó, chúng ta không thể kết luận rằng cúng dường, cầu nguyện đều do chư Tăng bịa ra để lợi dụng lòng mê tín của tín đồ. Nếu chịu khó kê cứu tất cả kinh điển của Phật giáo, chúng ta sẽ thấy rất nhiều bài kinh dạy như trên. Tuy nhiên, hiện tại vẫn có một ít người lợi dụng lời Phật dạy, khuyến khích tín đồ chuyên lo cúng dường, cầu nguyện để họ lấy đó làm nghề sanh nhai. Đó là hạng người bán Phật, không đáng lưu tâm.

Tóm lại, muốn dung hòa cho thích hợp tinh thần Phật giáo, hai thái độ cực đoan trên phải hòa hợp lại. Đừng nhìn một bên mà thành thiển cận. Phải dung hợp, thấu đáo mọi khía cạnh thì sự tu tập mới thu hoạch được kết quả viên mãn, đúng với tinh thần trung đạo của Phật giáo. Còn mắc kẹt một bên, dù học Phật, tụng kinh Phật vẫn thuộc về tà đạo. Phải cởi mở sáng suốt để thực hiện kỳ được tinh thần Viên dung, Trung đạo của Phật giáo. Được vậy mới xứng đáng là một Phật tử chân chánh.

VÀI NÉT CHÍNH LUÂN LÝ PHẬT GIÁO

DẪN KHỞI

Đa số người chú mục đến Phật giáo đều nhằm phần giáo lý cao siêu giải thoát; về mặt thực tế, gần gũi với nếp sống hằng ngày của đại đa số Phật tử, ít ai lưu tâm đến. Để bổ cứu chỗ thiếu sót ấy, chúng ta hãy bàn về phần giáo lý thích ứng với cuộc sống hiện tại của quần chúng Phật tử.

Người Phật tử phải có một nếp sống thế nào? Phải ăn ở, cư xử làm sao vừa hợp với đời mà không trái với đạo? Nghĩa là phải có sự điều hợp giữa đời và đạo, để người Phật tử đủ điều kiện tiến tu và làm tròn bổn phận con người. Sự điều hợp ấy là nền tảng luân lý Phật giáo.

Đức Phật hiện thân trong nhân loại, tu hành thành đạo chứng quả, đem chỗ sở chứng của mình ra giáo hóa nhân loại, giáo lý ấy đích thực vì con người. Trong nhân loại số người tầm thường tối đa, số người siêu quần bạt tụy tối thiểu, Phật do lòng đại bi, bình đẳng giáo hóa chúng sanh, không lý do gì Ngài bỏ sót số đông, vì một số quá ít. Cho nên, quyết chắc rằng trong giáo lý Phật, phần nhiều dạy cách ăn ở, cư xử thích hợp đạo lý của đa số quần chúng.

Song vì thích thú phần giáo lý cao siêu, nên phần đông các nhà hoằng pháp đều đem giáo lý giải thoát ra giảng dạy, khiến quần chúng ngơ ngác, khó thu thập được. Hoặc giả có một số vị cho rằng phần giáo lý dạy Phật tử ăn ở thích hợp nhân luân, cũng tương tợ phần luân lý của các tôn giáo khác, đem ra giảng dạy e rằng một số người cho đó là thường. Do đó, phần luân lý Phật giáo ít được đề cập đến. Vì không thấy đề cập đến vấn đề luân lý, nên có một ít người nghi Phật giáo không có luân lý. Nếu Phật giáo không có luân lý tức là đã thiếu nhân bản. Một giáo lý không có nhân bản làm sao thích ứng với nhân loại. Đã không thích ứng với nhân loại, dù cố gắng truyền bá cũng vô ích.

Vì thế, chúng ta cần bàn xem Phật giáo có luân lý hay không?

PHẬT GIÁO KHÔNG CÓ LUÂN LÝ

Có người bảo rằng: Phật giáo chấp nhận thuyết luân hồi thì không có luân lý. Vì trong dòng luân hồi cha có thể trở lại làm con, người có thể sanh làm thú… Như vậy, người tin thuyết luân hồi nhìn hiện tại này: cha con, anh em, chồng vợ, thú vật… đều không có vị trí nhất định. Đó là cái nhìn điên đảo, lộn xộn, mất hết trật tự, luân lý. Vì thế, Phật giáo không có luân lý.

Có người nói: Chủ trương của Phật giáo là thuyết vô ngã, vô ngã là không thấy có ta, có người, ta người đã không thì cha mẹ, anh em, vợ con… làm gì có. Đã không thấy có cha mẹ… thì việc ăn ở, cư xử đâu thành vấn đề. Vì vậy, Phật giáo không có luân lý.

Lại có người nói: Phật giáo dạy người tu mục đích được giải thoát, như kinh nói “tất cả nước biển chỉ một vị, vị mặn, tất cả giáo lý của ta chỉ một vị, vị giải thoát”. Luận về giải thoát là cởi mở tất cả trần duyên, tránh xa thế tục, dứt lìa ân ái. Giáo lý như vậy làm gì có luân lý?

PHẬT GIÁO CÓ LUÂN LÝ

Đức Phật trước kia đã phản đối kinh điển Phệ-đà và Áo Nghĩa Thơ vì quá thiên trọng về thiên nhiên, quên mất con người. Con người mới thật quan trọng, chủ động tất cả hạnh nghiệp. Cho nên, Phật chủ trương thuyết chánh báo và y báo để thấy rõ chỗ hệ trọng giữa con người và vũ trụ. Chánh báo là bản thân chúng ta, y báo là ngoại cảnh để ta nương tựa. Tất cả ngoại cảnh đều tùy thuộc vào con người chúng ta. Nếu chánh báo tốt đẹp, y báo cũng theo đó tốt đẹp, chánh báo xấu xa, y báo cũng xấu xa. Như đức Phật Di-đà khi tu nhân phát bốn mươi tám lời nguyện, đến lúc kết quả được cõi Cực Lạc trang nghiêm. Như cõi Ta-bà thời kiếp tăng do người tu Thập thiện nên tuổi thọ rất dài, cỏ cây xinh tốt, thời kiếp giảm do người hành thập ác, nên tuổi thọ càng ngắn, cây cỏ xấu xa… Đức Phật đã chú trọng vào con người, đương nhiên nền luân lý để giáo dục cho con người phải có. Vì thế trong Phật giáo nhất định có luân lý.

Phật giáo chấp thuận thuyết luân hồi, song không phản luân lý. Bởi vì luân lý Phật giáo lấy từ bi làm trọng tâm, thuyết luân hồi giúp cho lòng từ bi tăng trưởng nên thuyết luân hồi hữu ích chớ không phá hoại luân lý. Khi chúng ta nhận xét tất cả chúng sanh đều chịu sanh tử luân hồi, sự sanh tử luân hồi không phải chỉ một đời này, mà vô biên, vô số kiếp đều có cha mẹ, anh em quyến thuộc…, thì những chúng sanh hiện có đây, đâu không phải là quyến thuộc của ta nhiều kiếp trước? Chúng ta làm khổ những người hiện tại đây, đâu không phải làm khổ quyến thuộc của chúng ta? Lại, thấy tất cả đều là quyến thuộc, thì tình thương quyến thuộc hiện tại thế nào, với những người kia chúng ta cũng phải thương như vậy. Do đây phát sanh lòng thương chân thật đối với mọi người, ấy là tâm từ bi.

Thuyết vô ngã của Phật giáo là tinh thần bình đẳng, không phải phi luân lý. Chúng ta quen chấp trong con người này có cái ta thường còn, tự tại. Đã có cái ta thật thì người cũng phải thật. Người tức khác với ta, ta và người trở thành đối lập. Cái gì ta được thì người phải mất, cái gì người được thì ta phải mất. Vì ở đời không có cái lưỡng toàn nên sự đắc thất hoặc đứng bên này hay bên kia. Bởi chấp ta thật nên cái gì cũng giành phần ta được, ta hơn; đó là mầm bất công gây ra tranh đấu mãi mãi. Cá nhân với cá nhân, giành cá nhân ta hơn. Đoàn thể với đoàn thể, cũng giành đoàn thể ta thắng. Quốc gia với quốc gia, muốn quốc gia mình mạnh… Tất cả sự sát phạt từng cá nhân, đến chiến tranh toàn thế giới đều do cái “chấp ngã” mà ra. Đó là chưa nói tánh cách chấp sai lầm của nó. Phật giáo chủ trương bình đẳng, không phân chia ranh giới giữa mình và người, cho đến giữa quốc gia này với quốc gia khác. Bản thân ta không thật, người không thật, thử hỏi giành phần hơn về mình để làm gì? Cho đến đoàn thể, quốc gia cũng thế. Được vậy, ta và người sống trong tinh thần hòa đồng, bất chấp, vô tư.

Hơn nữa, có vô ngã mới thực hiện được tình thương bất vụ lợi, tức là từ bi. Nếu thấy có cái ta thực hữu, phải có cái ta hưởng thụ. Vì thế, tất cả tình thương trong trắng ban đầu dần dần bị hoen ố, vì sự hưởng thụ của ta. Nếu thấy thật có ta thì không có sự hi sinh cho kẻ khác. Hoặc có hi sinh, chẳng qua vì cái danh huyễn, vì sự phẫn nộ nhất thời, vì chán sợ khổ đau dằng dai của ta mà thôi.

Phật giáo lấy giải thoát làm mục đích, tức là xây dựng một nền luân lý nhân bản không phải phi luân lý. Chúng ta đừng nhìn quá xa mà trở thành huyễn tưởng, Phật giáo nói giải thoát tức là thế nhân nói tự do. Biết quí trọng tự do của con người là nước có văn minh, quốc gia tiến bộ. Danh từ giải thoát trong Phật giáo có nghĩa là cởi mở những ràng buộc làm con người mất tự do. Sự ràng buộc ấy chính do ta tạo lấy. Như giết hại người, bị ràng buộc trong thù oán; trộm cướp của người, bị ràng buộc trong tù tội; tà dâm, bị ràng buộc trong lo sợ v.v… Vì thế, trong giới luật có tên Pratimoksa (Ba-la-đề-mộc-xoa), dịch là Biệt giải thoát, nghĩa là giải thoát từng phần. Chúng ta mở được mối nào thì giải thoát phần ấy. Sự giải thoát này thực tế, hữu hiệu đối với người biết sống và yêu chuộng tự do. Không phải nói giải thoát là bi quan, yếm thế quên cả cuộc đời, muốn chạy trốn về thế giới bên kia. Giải thoát ở đây là xây dựng con người yêu chuộng tự do và biết sử dụng tự do. Muốn được tự do, chúng ta đừng đòi hỏi ở đâu xa, phải tự cởi mở những tánh xấu xa nơi mình trước, đồng thời cũng quí trọng những cái sản hữu của người. Nơi ta sạch những tánh xấu, nơi người không xúc phạm đến. Đó mới thật là yêu chuộng tự do và biết sử dụng tự do.

Tóm lại, Phật giáo quyết định có luân lý. Vì hầu hết giáo lý đều nhằm vào xây dựng con người tốt đẹp và gây tạo ý thức hướng thượng. Song luân lý có thành hay không, khi nào phân định được thiện ác rõ ràng hay không. Nếu thiện ác phân định không được, vấn đề luân lý không thể đặt ra. Vì vậy cần phải xét tiêu chuẩn thiện ác.

THIỆN ÁC KHÔNG CÓ TIÊU CHUẨN RÀNH RẼ

Thiện ác là danh từ thông dụng nhất, mới nghe qua dường như giản dị dễ hiểu, song khi bàn định tiêu chuẩn của nó thật là phức tạp vô cùng. Có những việc lúc đầu thấy là thiện, sau lại biến thành ác. Như bà mẹ cưng con, con đòi gì được nấy, muốn sao cũng chìu, kết quả đứa con hư hỏng, bệnh hoạn. Có việc lúc đầu thấy là ác, sau kết quả lại trở thành thiện. Như ông giáo dạy học trò, ông thường rầy phạt, bắt chúng phải học, khi ấy chúng cho ông là ác, đến sau học hành đỗ đạt, làm nên danh phận, chừng đó lại thấy ông là thiện. Ngoài ra, còn lắm việc như phong tục, tập quán nay cho là phải, là tốt, mai lại bảo là quấy, là xấu. Như người phụ nữ Việt Nam ngày xưa cho rằng “khuê môn bất xuất” là tốt, nay thì phải ra gánh gồng mọi việc, cho đến nhập ngũ làm quân nhân… là tốt. Hoặc phong tục, tập quán xứ này cho là phải, qua xứ khác lại bảo là quấy. Như ở Á Đông quí trọng người đàn ông, trái lại Tây phương quí trọng người đàn bà; ở Á Đông ngày xưa nếu trai gái nắm tay nhau coi như là xấu xa, ở Tây phương lại thấy lịch sự, đẹp đẽ v.v… và v.v… Sự thiện ác, tốt xấu, phải quấy ở thế gian này rối bời, khó phân tách rành rẽ. Người thiếu óc phán xét, khó nhận ra đâu là thiện, đâu là ác, đôi khi cứ nói hùa theo, người ta đề xướng sao mình nói theo vậy. Như câu chuyện ông Mặc Tử kể:

Nay có kẻ vào vườn người ta hái trộm đào, mận thì ai nghe thấy cũng chê cười, quan bắt được tất trừng phạt. Tại sao vậy? – Tại người ấy làm điều bất nghĩa, lấy của người để làm lợi cho mình.

Kẻ vào nhà người ta bắt trộm gà, vịt, chó, lợn so với kẻ vào vườn người ta hái trộm đào, mận thì lại là bất nghĩa hơn nữa. Tại sao vậy? – Tại lấy của người càng nhiều thì bất nhân càng to, tội càng nặng.

Kẻ vào nhà người ta ăn trộm trâu, bò, dê, ngựa so với kẻ vào nhà người ta bắt trộm gà, vịt, chó, lợn thì lại là bất nghĩa hơn nữa. Tại sao vậy? – Tại lấy của người càng nhiều, thì bất nhân càng lắm, tội càng nặng.

Kẻ giết người lương thiện, ăn cướp của cải, đồ đạc của người ta, so với kẻ vào chuồng ăn trộm trâu bò, dê ngựa thì lại là bất nghĩa hơn nữa. Tại sao vậy? – Tại giết người, lấy của bất nhân to lắm, tội càng nặng lắm.

Giết một người là điều bất nghĩa, tất phải chịu một tử tội. Cứ lẽ ấy mà nói rộng ra: giết mười người, tất phải chịu trăm tử tội…

Nay những kẻ làm điều bất nghĩa, nhỏ mọn, tầm thường như nói trên thì biết chê cười. Đến như những kẻ bất nghĩa thậm tệ như cướp nước người, tàn sát sanh linh hàng ức vạn… thường khi thiên hạ không biết chê cười lại còn hùa theo và khen ngợi cho là nghĩa, và ca tụng ghi chép công đức, như thế thì có gì gọi được là biết phân biệt nghĩa với bất nghĩa hay không?

Kẻ nào lúc thấy đen ít bảo là đen, lúc thấy đen nhiều bảo là trắng, thì ta cho kẻ ấy không biết phân biệt đen với trắng.

Kẻ nào nếm đắng ít cho là đắng, lúc nếm đắng nhiều cho là ngọt, thì ta cho kẻ ấy không phân biệt đắng với ngọt.

Thiên hạ bây giờ không phân biệt phải trái, hay lầm lẫn lắm.

(Trích Cổ Tục Tinh Hoa tập II, trang 162 của Nguyễn Văn Ngọc và Trần Lê Nhân)

Thật khó phân tách được đâu là nghĩa, đâu là bất nghĩa, đâu là thiện, đâu là bất thiện. Lại có lắm nhà ngụy biện lý luận điên đảo, khiến người ta đã mờ mịt lại thêm mờ mịt, không phân biệt được thế nào là thiện, thế nào là ác. Rốt cuộc họ cho rằng “thiện ác không có tiêu chuẩn”.

TIÊU CHUẨN THIỆN ÁC

Pháp Bát chánh đạo là nền tảng tu hành trong Phật giáo. Chánh kiến đứng đầu trong tám pháp, nó giữ một vai trò quan trọng. Thiếu chánh kiến, bảy pháp kia trở thành vô hiệu quả. Người qui y theo đạo Phật mà thiếu chánh kiến không thể gọi là Phật tử. Tại sao vậy? – Vì chánh kiến là nhận định phân biệt thiện ác, chánh tà, tốt xấu, phải quấy. Thiếu nhận định này làm sao biết được thiện để tu, biết ác để dứt, biết chánh theo, biết tà tránh… Công nghiệp của người Phật tử sau này có thành hay không đều do chánh kiến quyết định. Ở đây chúng ta dùng con mắt chánh kiến của Phật giáo qui định tiêu chuẩn thiện ác xem thế nào. Có lẽ vấn đề thiện ác này, người xưa không có nghi ngờ, nên tìm trong kinh không thấy định nghĩa, chỉ có tản mác trong các luận.

Thế nào là thiện ác?

– Theo Luận Thành Thật định nghĩa:

Tùy làm việc gì, hay cho người sự ưa thích, ấy là thiện…

Khiến người được vui, ấy gọi là ưa thích, cũng gọi là thiện, cũng gọi là phước.

(Tùy dĩ hà nghiệp, năng dữ tha hão sự, thị danh thiện…

Linh tha đắc lạc, thị danh vi hão, diệc danh vi thiện, diệc danh vi phước.)

(Thành Thật Luận 8, phẩm Nghiệp 100)

Lại cũng trong Luận Thành Thật, phẩm Giải:

Nếu được lợi mình lợi người, lợi hiện tại và vị lai đều do tâm thiện làm gốc, nếu bị tổn mình tổn người, tổn hiện tại và vị lai đều do tâm bất thiện làm gốc!

(Nhược nhân lợi tha lợi dĩ, kim lợi đương lợi, giai dĩ thiện tâm vi bản, nhược nhân tổn dĩ, kim tổn đương tổn giai dĩ bất thiện tâm vi bản.)

Căn cứ theo Luận Thành Thật định nghĩa: Phàm làm việc gì khiến người ta vui thích là thiện, và lợi ích cho mình và người, hiện tại và vị lai là thiện.

Luận Tỳ-bà-sa giải thích ba nghiệp thiện, ác, vô ký có đoạn nói như sau:

Hỏi: Thế nào gọi là thiện, bất thiện, vô ký?

Đáp: Nếu việc làm khéo léo, hay chiêu cảm quả ưa thích, tính an ổn, gọi là thiện. Nếu việc làm không khéo léo, hay chuốc lấy quả không thích, tính không an ổn, gọi là bất thiện… Nếu việc làm cùng hai thứ kia trái nhau, gọi là vô ký.

Lại, nếu việc làm hay chiêu cảm quả khả ái, quả được vui, gọi đó là thiện. Nếu hay chiêu cảm quả bất ái, quả bị khổ, gọi là bất thiện. Nếu việc làm cùng hai thứ kia trái nhau, gọi là vô ký.

Lại, nếu việc làm hay dẫn mầm trong các cõi khả ái và mầm giải thoát, gọi là thiện. Nếu việc làm hay dẫn mầm trong các cõi phi ái, gọi là bất thiện. Nếu việc làm cùng hai thứ ấy trái nhau, gọi là vô ký.

Lại, nếu việc làm hay khiến sanh cõi lành, gọi là thiện. Nếu việc làm hay khiến sanh cõi ác, gọi là bất thiện. Nếu việc làm cùng hai thứ ấy trái nhau, gọi là vô ký.

(Vấn: Hà cố danh thiện, bất thiện, vô ký?

Đáp: Nhược pháp xảo tiện sở trì, năng chiêu ái quả, tánh an ổn, cố danh thiện… Nhược pháp phi xảo tiện sở trì, năng chiếu bất ái quả, tánh bất an ổn, cố danh bất thiện… Nhược pháp dữ bỉ nhị chủng tương vi, cố danh vô ký.

Phục thứ, nhược pháp năng chiêu khả ái quả, lạc thọ quả, cố danh thiện. Nhược pháp năng chiêu bất khả ái, khổ thọ quả, cố danh bất thiện. Nhược pháp dữ bỉ nhị chủng tương vi, cố danh vô ký.

Phục thứ, nhược pháp năng dẫn khả ái hữu nha, cập giải thoát nha, cố danh thiện; nhược năng dẫn phi ái hữu nha, cố danh bất thiện; nhược pháp dữ bỉ nhị chủng tương vi, cố danh vô ký.

Phục thứ, nhược pháp năng linh sanh thiện thú, cố danh thiện; nhược pháp năng linh sanh ác thú, cố danh bất thiện; nhược pháp dữ bỉ nhị chủng tương vi, cố danh vô ký.)

(Tỳ-bà-sa Luận, quyển 51, tạng Đại Chánh Tu, tập 27, trang 263)

Theo Luận Tỳ-bà-sa định nghĩa:

Việc làm chiêu cảm quả an ổn, ưa thích, đời này và đời sau, gọi là thiện. Việc làm chiêu cảm quả đáng chán, đau khổ, đời này và đời sau, gọi là ác. Việc làm không có hai tánh cách trên là vô ký.

Luận Thành Duy Thức định nghĩa:

Hay làm cho đời này, đời sau lợi ích, gọi là thiện. Quả vui cõi người cõi trời, tuy hiện đời hay lợi ích, không có lợi ích đời sau, nên không gọi là thiện. Hay làm tổn hại đời sau, gọi là bất thiện. Quả khổ trong cõi ác, tuy hiện đời bị tổn hại, đời sau không hại, nên chẳng gọi là bất thiện. Đối thiện, bất thiện trong nghĩa lợi ích và tổn hại không thể định rõ, nên gọi vô ký.

(Năng vi thử thế tha thế thuận ích, cố danh vi thiện. Nhân thiện lạc quả, tuy ư thử thế năng vi thuận ích, phi ư tha thế, cố bất danh thiện. Năng vi thử thế tha thế vi tổn, cố danh bất thiện. Ác thú quả báo, tuy ư thử thế tha thế vi tổn, phi ư tha thế, cố phi bất thiện. Ư thiện, bất thiện tổn ích nghĩa trung bất khả ký biệt, cố danh vô ký.)

(Thành Duy Thức Luận quyển 5, tạng Đại Chánh Tân Tu,  tập 31, trang 26)

Theo  Luận Thành Duy Thức định nghĩa: Việc làm có lợi ích đời này, đời sau gọi là thiện, tuy hiện tại có lợi mà đời vị lai không lợi, chưa phải là thiện. Việc làm tổn hại đời này, đời sau gọi là ác, tuy hiện tại có tổn hại mà đời sau không, chưa hẳn là ác. Việc làm không định rõ thiện hay ác, là vô ký.

Gần đây, ngài Thái Hư định nghĩa nghiệp thiện, ác như sau:

Nghiệp thiện là hành vi theo luân lý học hay đạo đức học ở thế gian, về Phật pháp gọi là thuận hạnh học.

Nghiệp thiện đứng về không gian là lợi mình, lợi người, về thời gian thì hiện tại, vị lai đều lợi. Nếu không xét đến lợi người và nhìn xa về vị lai, chỉ căn cứ lợi ích mình nhãn tiền, ấy là nghiệp ác.

Nghiệp thiện lấy lợi ích đại chúng làm tiền đề, nên kết quả tự tha đều lợi. Nghiệp ác lấy tổn hại đại chúng làm tiền đề, nên kết quả tự tha đều hại.

(Thái Hư, trong bài truyền luận kinh Thập Thiện nghiệp đạo)

Ngài Thái Hư định nghĩa thiện ác: Việc làm lợi mình lợi người, hiện tại và vị lai, lấy đại chúng làm tiền đề là thiện. Việc làm chỉ nhằm lợi ích mình hiện tại, lấy tổn hại người làm tiền đề là ác.

Qua các nhà luận trên, tương đối chúng ta thấy thiện ác đã rõ. Nhưng cũng còn vài nghi vấn nhỏ. Như việc làm lợi mình lợi người, hiện tại và vị lai, gọi là thiện. Thực tế có nhiều việc lợi người, hại mình mà vẫn là thiện. Như thấy nhà cháy, một em bé đang bị kẹt trong ấy, có người hi sinh chạy vào lửa cứu em ra. Khi cứu được em bé, người kia bị cháy phỏng khá nhiều, phải đau khổ vì những vết phỏng hành hạ. Sự an ổn của em bé, trong sự đau khổ của người kia như vậy, đâu phải hiện tại cả hai đều lợi? Hoặc như người phát nguyện vào bệnh viện lao, hủi săn sóc bệnh nhân. Hiện tại họ an ủi bệnh nhân được phần nào, song tương lai họ có thể bị truyền nhiễm. Như vậy, hiện tại thấy có lợi một phần, mà tương lai đâu hẳn là lợi?

Tuy nhiên, theo Phật giáo, những hành động cứu người, vì người, hiện tại hoặc vị lai ta có khổ, song cái khổ ấy chỉ thời gian ngắn ngủi, sau này sẽ hưởng cái vui thời gian dài gấp mấy lần. Như trường hợp người cứu em bé sắp bị chết thiêu, người phát nguyện vào nhà thương lao chẳng hạn. Vì cái khổ ngắn, cái vui dài, nên cũng gọi là vui. Hơn nữa, tuy thân khổ mà cứu được mạng người, tâm vui thích, nên cũng gọi là vui.

Bởi tánh cách phức tạp của thiện ác như thế, nên qui định tiêu chuẩn thật khó khăn.

Thể theo những ý trên, tôi qui định tiêu chuẩn thiện ác thế này:

“Đối tự thân, hành vi xuất phát từ ý chí hướng thượng, được hướng dẫn bằng trí sáng suốt là thiện. Hành vi xuất phát từ tâm niệm hưởng thụ dục lạc, bị sai sử bởi si mê là ác.

Đối tha nhân, hành động xuất phát từ tình thương chân thật, được hướng dẫn bằng trí sáng suốt là thiện. Hành động xuất phát từ tâm tổn hại, sai sử bởi si mê là ác.

Bản thân chúng ta, bất cứ một hành vi nào xuất phát từ ý chí hướng thượng cộng với trí suy nghĩ sáng suốt, đều đưa đến kết quả tốt đẹp, an ổn. Như từ người xấu xa hèn hạ muốn tiến lên người thường, từ người thường muốn tiến lên người tốt, từ người tốt muốn tiến lên thành người hiền, từ người hiền muốn tiến lên thành bậc Thánh. Sự mong mỏi tiến lên ấy là ý chí hướng thượng. Có ý chí hướng thượng rồi, cần phải có trí sáng suốt xét đoán muốn thành người tốt người hiền phải làm thế nào? Sau khi xét đoán rồi, phải thanh lọc cái gì làm cho mình xấu, phụ trợ cái gì làm cho mình tốt. Có thế mới từ người xấu trở thành người tốt được.

Ngược lại, hành vi xuất phát từ tâm niệm hưởng thụ dục lạc, lại bị si mê sai sử, chắc chắn sẽ đưa đến kết quả xấu xa đau khổ. Như người muốn thụ hưởng sắc dục, cộng với tâm si mê, nên làm việc tà dâm gây thành việc xấu xa đau khổ sau này.

Đối tha nhân, những hành động xuất phát từ tình thương chân thật, tức là muốn làm lợi ích an vui cho người cộng thêm trí suy nghĩ sáng suốt, xét biết cái vui nào lâu dài, cái vui nào ngắn ngủi, cái vui nào thật, cái vui nào giả, rồi chọn cái vui lâu dài chân thật đem đến cho người. Có nhiều khi muốn đem cho kẻ khác cái vui lâu dài, nhưng phải đổi với cái giá khổ ngắn ngủi, họ vẫn can đảm làm. Thí dụ: câu chuyện Lưu Bình, Dương Lễ chẳng hạn.

Đối tha nhân, những hành động xuất phát từ tâm tổn hại, tức là muốn phá hoại khiến người đau khổ, cộng thêm si mê, không biết suy nghĩ phải trái; chắc chắn sẽ làm cho người đau khổ, cũng chuốc đau khổ về cho mình. Như muốn giết người trả thù, khi đó không biết suy xét kết quả khốc hại sau này, cứ làm bướng làm càn, nếu người chết, mình bị tù đày. Có khi giết người rồi, họ trốn thoát, hiện tại như khỏi khổ tù đày, song khổ trốn chui trốn nhủi làm sao thoát được.”

Tóm lại, hành động thiện phải có tình thương chân thật (từ bi) và trí sáng suốt (trí tuệ) cộng lại mới thành. Hành động ác phải có tâm tổn hại cộng với si mê mới thành. Bởi động cơ thúc đẩy hành động thành thiện hay ác là từ tâm niệm, chúng ta không hiểu thấu được tâm niệm người, chỉ nhìn trên hành động người, phê phán thiện ác không thể nào đúng được. Hành động thiện phải có trí phán xét, thiếu trí phán xét, tuy có lòng thương chân thật, nhưng đến kết quả chưa hẳn là thiện. Vì vậy, muốn phân biệt thiện ác phải có nhận xét tinh vi, tìm từ chỗ phát xuất của hành động ấy và đến cái kết quả vị lai của nó. Nếu chỉ nhìn hiện tại mà thẩm định thiện ác thì thật là oan.

Sau khi phân biệt được thiện ác, chúng ta tiện bàn luân lý Phật giáo.

PHẬT TỬ TẠI GIA

A. BẢN THÂN

Phật tử tại gia vừa lo sanh kế nuôi gia đình, vừa lo học hỏi chánh pháp để tu thân. Công việc của người tại gia thật là bề bộn phức tạp, nên việc tu thân rất là khó. Nhưng với tinh thần cầu tiến, người Phật tử tại gia đối với bản thân phải cố gắng thực hiện bốn điều sau này:

I.- CHÁNH KIẾN

Là Phật tử, điều kiện tiên quyết phải có chánh kiến. Chánh kiến là tay lái đưa con thuyền đời chúng ta đến bến Chân Thiện Mỹ. Chánh kiến là cửa ngõ duy nhất đi vào nhà đạo đức. Có chánh kiến là có tất cả điều lành, lẽ phải.

Thế nào là chánh kiến?

– Chánh kiến là phân định rành rẽ thiện ác, biện biệt tường tận thật giả, suy xét thấu đáo lý nhân quả.

Phân định rành rẽ thiện ác, trong phần tiêu chuẩn thiện ác đã nói. Biện biệt tường tận thật giả là điều cần phải bàn.

Trong xã hội hiện tại, người ta luôn luôn che giấu, bưng bít sự thật. Bản tánh sự thật lúc nào cũng bình thường và giản dị, nhưng óc tưởng tượng của con người không ưng như thế, họ thích tưởng tượng những chuyện phi thường, những hình dáng màu sắc rực rỡ, lộng lẫy. Vì thế, họ không dám nhìn thẳng sự thật, cũng không dám nghe sự thật. Tuy nhiên, ngoài miệng họ lúc nào cũng rêu rao yêu chuộng chân lý, tìm hiểu sự thật. Khi sự thật hay chân lý hiện đến, họ liền xây lưng chỗ khác, không chịu nhìn. Như người trong câu chuyện này:

Xưa có người ngu cưới cô vợ đẹp, rất yêu mến nhưng cô vợ vẫn không thương anh. Sau một thời gian ăn ở với nhau, cô vợ lại tư tình với kẻ khác.

Vì quá thương tình nhân, cô ấy muốn bỏ chồng, đi theo người yêu, ngầm bảo một bà lão: “Bà, sau khi tôi đi, bà kiếm một xác chết của một người đàn bà khác, để trên giường và bảo chồng tôi là tôi đã chết.” Bà lão ưng thuận. Khi chồng cô đi vắng, bà đem xác chết để trên giường. Người chồng về, bà bảo: “Vợ anh chết rồi.” Người chồng đến xem, tin là vợ mình đã chết, thương xót khóc lóc, buồn thảm, sắm sửa dầu củi hỏa táng, lượm xương đựng trong túi, ngày đêm đeo luôn bên mình.

Thời gian sau, tình thương phai lợt, cô vợ ấy lại quay về nhà cũ, bảo chồng: “Thưa anh, em là vợ anh trước đây.” Người chồng đáp: “Thưa bà, vợ tôi đã chết lâu rồi, bà là người lạ, bà nhận đùa là vợ tôi, chớ nào có phải.” Cô vợ giải thích đôi ba phen, ông chồng vẫn khăng khăng nhất định không tin.

Đó là thái độ người đời nói yêu chân lý mà không dám thừa nhận chân lý. Như anh chàng kia rất yêu vợ, cam chịu đeo túi xương khô bên mình, nhất định không nhận người vợ thật.

Có khi họ cũng biết sự thật như vậy, mà muốn nghe người ta nói khác đi. Như anh chàng tài nghệ tầm thường, tánh tình xoàng xĩnh, đi xem tướng. Ông thầy bảo: “Tướng anh tầm thường lắm, không có gì đặc sắc.” Ra về, anh chê: “Thầy tướng quá dở.” Đến ông thầy khác, ông thầy này nói: “Tướng ông hiện giờ tầm thường, song sau này sẽ phát đạt, xuất sắc.” Anh khen: “Ông thầy tướng  nói thật hay.”

Hoặc giả làm ác mắc tai họa, làm lành được phước đức, sự thật rõ ràng như vậy, mà người ta không tin. Họ hằng ngày cứ làm ác, ít hôm chạy tìm thầy bói, cô cốt nhờ coi mình có tai họa gì không để cầu cúng.

Có khi muốn hướng về đạo đức, họ đến với các nhà Sư để cầu xin dạy bảo. Vị Sư chân thành nói: “Tôi còn phàm tục, những tánh xấu chưa dứt hết, còn đang nỗ lực trong việc tu hành.” Họ liền từ giã vị Sư ấy, đi tìm vị Sư khác. Đến đây ông Sư này bảo: “Tôi đã chứng đạo quả, không còn tu tập nữa, thường có thần linh ủng hộ tôi, ai nói xấu tôi là bị trừng phạt liền…” Nghe rồi họ khâm phục xin thọ giáo qui y, cho là đã gặp bậc thầy chân tu đắc đạo. Hoặc cần học hỏi giáo lý, họ đến hỏi một vị Sư. Vị này đáp: “Muốn dứt khổ phải biết bớt tham sân si; muốn bớt tham, sân, si, phải tu bố thí, nhẫn nhục và học giáo lý.” Họ cho ông Sư này dạy tầm thường, tìm đến cầu học với vị Sư khác. Ông Sư này bảo: “Ông về ăn chay đi, đến hội Long Hoa tất cả đều chết hết, chỉ người nào ăn chay mới được Phật cứu độ. Tôi cấp năm vị Thần thường theo ủng hộ ông…” Họ cho ông Sư này dạy đạo rất cao.

Cho đến những việc giao tế hằng ngày, nếu người ý nghĩ thế nào, miệng nói như vậy, liền bị phê bình là quê mùa cục mịch, nếu người ý nghĩ sao không cần biết, miễn ngoài mặt vui vẻ, miệng ngọt ngào, được liệt vào hàng bặt thiệp. Bởi vì sự thật bao giờ cũng bình thường, giản dị mà người ta thích cầu kỳ bóng bẩy, cho nên lúc nào cũng trái nhau. Chỉ người nào gạt ngoài ý cầu kỳ bóng bẩy mới nhận được sự thật. Như người gỡ cặp kính màu, mới thấy rõ màu sắc thật của sự vật.

Đức Phật giác ngộ chân lý cũng rất bình thường, giản dị. Như xét con người là khổ, vì các nhân nhóm họp. Làm sao dứt khổ? – Diệt hết các nhân. Làm sao diệt hết các nhân? – Y phương pháp Bát chánh tu hành. Ngộ được như vậy, gọi là đạt được pháp Tứ đế. Hoặc xét: Vạn vật từ nhân duyên sanh, nhân duyên ly tán, vạn vật tiêu diệt. Ngộ được chỗ này, gọi giác ngộ lý nhân duyên sanh. Thật là giản dị. Chính vì chỗ giản dị đó không làm thỏa mãn được một số người có óc cầu kỳ. Như:

Họ hỏi: Vũ trụ nhân sanh từ đâu có?

Phật đáp: Do nhân duyên sanh.

– Thế nào là nhân duyên sanh?

– Cái này có cái kia có, cái này sanh cái kia sanh.

(Thử hữu cố bỉ hữu, thử sanh cố bỉ sanh.)

– Người tham sắc phải tu pháp gì?

– Lấy quán bất tịnh trị.

– Người tham tài phải tu pháp gì?

– Lấy bố thí trị.

– Người hay nóng giận phải tu pháp gì?

– Lấy nhẫn nhục và từ bi trị.

Qua những lời đáp đây, chúng ta thấy có gì phi thường kỳ lạ? Chẳng qua đối bịnh cho thuốc, rất thực tế giản dị. Thế mà, người đời có ưng thuận cách dạy giản dị thực tế đó đâu. Phải nói thế này họ mới chịu:

– Vũ trụ nhân sanh từ đâu có?

– Do Thượng đế ngự tại cung Bạch Ngọc sai Sơn thần xuống thế gian biến ra núi, Thổ thần biến ra đất, Thủy thần biến ra nước, Bà Nữ hóa sanh ra con người…

Nghe như vậy họ sẽ thỏa mãn. Đến vấn đề tu tập cũng thế:

– Tham sắc lấy gì trị?

– Đây, tôi có lá bùa do công phu tu luyện nhiều năm, cho ông mang vào cổ, khi nào thấy sắc đẹp, ông tụng câu chú này, liền có năm vị thần hiện ra đuổi sắc đẹp đi xa.

Được nghe những lời thần bí như vậy, người ta dễ tin phục kính trọng. Nhưng những việc thần bí ấy có phải là sự thật hay không? Hẳn là không. Thế mà người ta thích như vậy, tin như vậy.

Giờ đây, chúng ta xét lời Phật dạy có đúng sự thật hay không. Vạn vật trong vũ trụ này, không vật nào tự sanh hay ngẫu nhiên có, đều do chung hợp các duyên mà thành. Tìm khắp mặt đất, không có một vật nào ngoài nguyên lý ấy. Nhưng nói sự thật đó, người ta lại hững hờ không tin. Đến muốn dứt tâm tham sắc, chỉ có cách làm sao khi đối sắc không thấy đẹp, lại sanh ghê gớm, đó là công dụng của quán bất tịnh. Muốn dứt tâm tham tài, chỉ có cách đem của mình ra cho người. Của mình sẵn có còn đem ra cho, thử hỏi tham lam của người làm gì? Phật dạy dứt hết nhân thì quả không còn. Đó là sự thật không cầu kỳ, huyền bí gì cả.

Phật giáo là nền giáo lý rất bình thường, giản dị. Như Phật hỏi các thầy Tỳ-kheo: “Mạng người sống bao lâu?” Có thầy Tỳ-kheo trả lời: “Sống trong hơi thở.” Phật khen: “ Ông đã hiểu đạo.” Hiểu đạo, nghĩa là thấy sự thật, nhận được sự thật. Bình thường, chúng ta nói mạng người sống trăm năm. Nhưng có ai chắc sống đến trăm năm không? Hoặc nói năm chục năm, ba chục năm, cho đến một ngày đi nữa, cũng chưa hẳn là đúng. Chỉ nói thở ra không hít vào là chết, đó là sự thật muôn đời. Có người hỏi vị Tổ sư: “Thế nào là đạo?” Ngài đáp: “Con quạ đen, con cò trắng.” Quạ đen, cò trắng là sự thật hiển nhiên, thấy được sự thật là thấy đạo.

Về mặt nguyên lý thì rất bình thường, giản dị. Hiểu được nguyên lý ấy, đem ra áp dụng sẽ có công dụng phi thường. Hiện tại chúng ta có những chiếc xe tăng khổng lồ, những chiếc tàu biển chở cả chục vạn tấn, đâu không phát xuất từ hơi nước sôi lạch tạch trong nồi? Những chiếc phản lực cơ bay động trời, đâu không phát xuất từ những cây pháo thăng thiên để vui chơi trong dịp Tết? Một trái bom nổ tan cả thành phố ở Nhật Bản, đâu không phát xuất từ những hạt nguyên tử? Cũng như vậy, thấy được sự thật của vũ trụ, tuy nó bình thường giản dị, song người ấy sẽ có khả năng tự tại phi thường.

Hiện tại người ta đề xướng những việc phi thường, huyền bí, lộng lẫy, rườm rà, nó chỉ là lớp sơn, cái vỏ cứng bao bọc che lấp sự thật. Chúng ta muốn thấy sự thật, yêu chuộng sự thật, đừng để cho sắc màu rực rỡ làm tối mắt, đừng bị âm thanh hoa mỹ làm lãng tai; phải nhìn thấu qua những ảo ảnh của sắc tướng, thanh âm. Có thế mới thấy được sự thật. Thấy được sự thật rồi, đời ta sẽ khỏi lạc lầm, cuộc sống mới được an ổn. Đó chính là nền tảng vững chắc của chúng ta trên con đường tu thân, học đạo.

Phân biệt được thật giả rồi, người Phật tử còn phải suy xét thấu đáo lý nhân quả.

Nhân quả  không phải là một chiều, như nói “nhân nào quả nấy”, mà có cả hai chiều thuận và nghịch. Nhân cần phải cộng với duyên mới sanh trưởng. Duyên có thuận duyên, nghịch duyên. Sự sanh trưởng còn tùy thuộc duyên nào, nó sẽ thành hay phải hoại. Như gieo hạt giống xuống đất là đã có chánh nhân, có đủ phân, nước, ánh sáng, nhổ cỏ v.v…, thuận duyên, chắc chắn hạt giống sẽ nứt mầm thành cây lúa và kết quả được nhiều bông lúa. Nếu có hạt giống, có phân, có nước… mà thiếu một vài điều kiện, như ánh sáng chẳng hạn, thì kết quả kém sút rất nhiều. Nếu có hạt giống mà thiếu hẳn các duyên kia, hạt giống cứ nằm đó rồi hoại. Hoặc hạt giống đã lên thành cây lúa, mà bị sâu rầy cắn, vẫn không có bông lúa. Đó là gặp nghịch duyên phá hoại. Còn rất nhiều trường hợp, không thể kể hết.

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta biết gây nhân lành được quả lành, tạo nhân ác mắc quả ác, song không phải một chiều như vậy. Nếu chúng ta gây nhân lành mà không tạo đủ duyên cho nó sanh trưởng cũng có thể không kết quả lành. Như có người giàu thấy đứa cháu bà con nghèo, mồ côi cha mẹ, động lòng thương đem về nuôi. Song hằng ngày chỉ cho ăn ba bữa cơm, không để ý săn sóc đến nó, không cho học hành, chỉ nuôi để mà nuôi. Đến lớn khôn, thằng cháu không biết ơn, trở lại oán trách là khác. Đó là cái nhân lành mà không có quả lành, chỉ vì thiếu thuận duyên cho nó tăng trưởng. Nếu không hiểu lý này, người nhà giàu nọ sẽ kêu trời, tại sao tôi nuôi nó mà nó lại oán tôi! Ngược lại, nếu người nhà giàu ấy, nuôi đứa cháu ấy coi như nuôi con, hằng ngày săn sóc, lo cho học hành, đến lớn khôn, dù bội bạc thế nào, thằng cháu ấy cũng khó quên ơn. Đó là đủ nhân, đủ duyên thì kết quả chắc chắn.

Có nhân, mà gặp nghịch duyên, nhất định không kết quả. Như anh chàng kia đang đi dạo bên bờ sông, bỗng thấy xuồng chìm có người sắp chết đuối, động lòng hào hiệp, anh nhảy ào xuống sông, lội vớt người ấy lên. Khi cứu sống người ấy, nhìn ra là kẻ thù của anh. Anh hối hận nói: “Phải biết mầy, tao để chết đuối cho rồi.” Một câu nói ấy, phủ nhận tất cả công ơn đối với người được cứu. Thế là có nhân tình thương, mà gặp duyên sân phá hoại không kết quả lành. Còn không biết bao nhiêu sự kiện tương tợ như vậy, người không thấu đáo lý nhân quả, bảo rằng “không có nhân quả”.

Xét lý nhân quả, phải qua ba thời mới khỏi sai lầm. Bởi vì nói nhân quả là nói đến thời gian. Từ khi gieo nhân đến lúc gặt quả, thời gian ấy hoặc dài, hoặc ngắn, mau, chậm không nhất định. Nếu chặn một đoạn nào đó bắt buộc phải kết quả, thật là vô lý. Thí dụ:

Đồng thời ba người gieo nhân: người gieo lúa, người trồng chuối con, người ương hột xoài; đến cuối năm, người gieo lúa được gặt; sang năm sau người trồng chuối, chuối có buồng; người ương hột xoài phải đợi đến bốn, năm năm sau, xoài mới có trái. Tại sao đồng thời gieo giống mà kết quả sai biệt như vậy? – Tuy đồng thời gieo giống, nhưng tùy loại giống có kết quả mau, chậm khác nhau. Có khi cùng một loại giống mà kết quả cũng sai biệt. Như cũng ương hột xoài, anh A ương nhằm đất tốt, thường vun phân, tưới nước;  anh B ương chỗ đất xấu, lại ít săn sóc. Đến bốn năm sau, xoài anh A có trái, xoài anh B vẫn còn thấp lùn, không trái trăn gì cả. Tại sao đồng một loại giống, gieo cùng một thời, mà kết quả lại sai biệt? Tại vì đất sai biệt và săn sóc sai biệt.

Qua các thí dụ trên, chúng ta so sánh việc làm của người đời cũng thế. Đồng thời làm phước: người bố thí cho kẻ bần cùng, người săn sóc bệnh nhân, người xây cất chùa chiền. Ba bốn tháng sau, bệnh nhân được lành, đến tạ ơn người đã săn sóc. Sau vài năm, người nghèo cùng kia làm ăn phát đạt, tìm ân nhân để đền đáp. Chỉ có người cất chùa trông hoài không thấy dấu hiệu gì về kết quả.

Lại, hai người đồng thời làm việc phước thiện, sau đó một thời gian, có người làm ăn phát đạt, gặp toàn việc vui vẻ may mắn; còn người kia vẫn lụt thụt không thấy gì lạ. Nếu không hiểu rõ lý nhân quả, người ta sanh hồ nghi; tại sao người làm phước liền gặp phước, còn người làm phước lại không gặp? Lý nhân quả có bất công chăng? Sự thật lý nhân quả công bằng bình đẳng triệt để. Phải công bằng, khi gieo nhân, phải công bằng trong các duyên, kết quả không bao giờ sai biệt. Nếu nhân đồng mà duyên sai biệt, kết quả phải sai biệt. Bình đẳng ấy mới chân thật bình đẳng, công bằng ấy mới triệt để công bằng. Không phải lối công bằng giả tạo, bình đẳng bắt buộc, như một số người hiện tại chủ trương.

Biết rõ thời gian gieo nhân đến kết quả không cố định ngắn dài, sớm muộn, biết rõ có nhân đủ duyên kết quả bình đẳng như nhau, chúng ta cứ sẵn sàng vung tay gieo nhân tốt mãi mãi, tận lực tạo duyên cho nhân ấy đủ điều kiện sanh trưởng, kết quả tốt chắc chắn phải đến, đừng mong mỏi chờ đợi vô ích.

Tóm lại, nhân quả là chân lý phổ biến trên vũ trụ vạn vật trong vòng tương đối. Các nhà khoa học, triết học, luân lý học được phát triển đều nương lý nhân quả mà thành. Chúng ta nhận xét lý nhân quả thấu đáo, trong cuộc sống của chúng ta sẽ an ổn lạ thường. Hằng ngày chúng ta hăng hái làm thiện, dè dặt phòng ngừa những lỗi ác. Chúng ta an nhiên khi tai họa đến, bình thản lúc gặp dịp may. Nhân quả là một thứ linh dược làm an thần và tráng kiện con người chúng ta.

II.- PHÁT CHÍ HƯỚNG THƯỢNG

Có chánh kiến rồi, người Phật tử cần phải phát chí hướng thượng. Nghĩa là lập chí tiến lên mãi mãi về phần đức hạnh, không bao giờ chịu đứng lại hay lui sụt. Muốn được vậy, trước hết chúng ta phải phát tâm cung kính các nhà đức hạnh. Như trong kinh, Phật dạy các thầy Tỳ-kheo:

Nếu Tỳ-kheo thực hành cung kính, khéo quán sát, kính trọng những vị hạnh thanh tịnh là đã có đầy đủ oai nghi, đủ học pháp, đủ thân giới, đủ thân định, đủ thân tuệ, đủ thân giải thoát tri kiến, đủ Niết-bàn.

(Trung A-hàm, quyển 10, phẩm Tập Tương Ưng, bài kinh số 8)

Cung kính là đứng đầu trong các hạnh cho đến Niết-bàn. Có cung kính người đức hạnh chúng ta mới hâm mộ, học tập theo đức hạnh. Nếu xem thường đức hạnh, chúng ta không chịu gần gũi người đức hạnh, kết cục chúng ta không có đức hạnh. Bình thường chúng ta hâm mộ thích thú làm nghề gì, việc gì, thì sớm muộn gì chúng ta cũng có thể làm được việc đó. Như Đinh Bộ Lĩnh lúc nhỏ thích cầm binh đánh giặc, lớn lên đầu quân dẹp loạn mười hai sứ quân. Vì thế, về phương diện đạo đức, chúng ta muốn tiến lên, trước phải phát tâm cung kính khen ngợi những nhà đức hạnh. Sự cung kính khen ngợi đó đối với các vị được cung kính không có thêm bớt gì, song riêng phần chúng ta được ảnh hưởng rất lớn lao. Vì đã tạo cho ta một tâm niệm hướng thượng, đã đạt được mục tiêu nhằm tiến lên.

Có người nghi: Đức Phật đã xóa bỏ tất cả quyền thế, danh vị, cho đến thân thể cũng không quí tiếc, tại sao khi sắp Niết-bàn, Phật dặn đệ tử sau khi thiêu, lấy xá-lợi xây tháp thờ?

– Chính vì tâm lợi tha, đức Phật mới dặn như vậy. Xá-lợi chỉ là một mớ xương tàn của Phật, mà còn được quí trọng xây tháp cúng dường, huống là toàn thân Phật. Do đó, người đời phát tâm hâm mộ làm Phật, tìm hiểu những phương pháp Phật đã tu, bắt chước tu theo. Như vậy là gián tiếp giáo hóa người đời sau. Kinh Pháp Hoa nói: “Người đối trước hình tượng Phật, cho đến chắp tay cung kính, sau này cũng sẽ thành Phật.” Cung kính những hạng người nào, tức là đã gieo chủng tử ấy vào Tàng thức chúng ta rồi. Cung kính Phật tức là chúng ta đã gieo chủng tử Phật, tương lai chúng ta sẽ thành Phật. Cung kính tà ma quỉ quái, tức là chúng ta đã gieo chủng tử tà ma quỉ quái, tương lai có thể là tà ma quỉ quái.

Vì thế chúng ta phải phân biệt, chỗ nào đáng cung kính, chỗ nào không đáng cung kính. Chỗ không đáng cung kính mà cung kính tức là chúng ta đã gieo những chủng tử không tốt cho chúng ta sau này. Cho nên, người Phật tử khi qui y Tam Bảo đã phát nguyện: “Qui y Phật, không qui y thiên thần quỉ vật, qui y tôn hữu, ác đảng.”

Chữ qui y có nghĩa là cung kính nương về. Chúng ta đã cung kính Tam Bảo, lấy Tam Bảo làm mục tiêu, nhất định không nghĩ và không theo nơi nào khác. Trong Tam Bảo, về phần Tăng bảo, như kinh nói: “bốn đôi tám bậc Hiền Thánh”, nghĩa là hướng A-na-hàm, A-na-hàm; hướng Tu-đà-hoàn, Tu-đà-hoàn; hướng Tư-đà-hàm, Tư-đà-hàm; cho đến hướng A-la-hán, A-la-hán. Tám bậc ấy là  Hiền Thánh tăng, chúng ta thành tâm quyết kính. Song hiện tại Tăng rất ít có trong tám bậc ấy, hầu hết là Phàm tăng, cho nên người Phật tử còn một phen giản biệt nữa. Trong Phàm tăng này, có người lợi dụng chiếc áo làm sanh kế, người Phật tử phải biết cung kính nơi nào đáng cung kính. Bởi vì, khởi tâm cung kính, chúng ta phải thân cận học hỏi, nếu vị ấy không chân chánh ắt sau này tâm sanh ra chán lờn, khinh báng, mất hết chủng tử tốt đẹp trước.

Tóm lại, cung kính bậc đức hạnh làm mục tiêu nhắm đến, khiến chúng ta chỉ tiến lên không sai lạc. Như người đi biển đã trông thấy ngọn hải đăng. Cung kính là một trợ duyên đắc lực nhất trên con đường đức hạnh, như nước giúp cho cây cỏ được xanh tươi, song phải cung kính những vị thật đức hạnh.

III.- TỰ TÍN

Cung kính các bậc đức hạnh là phát chí hướng thượng, nếu thiếu đức tự tín, chí ấy cũng không thành đạt. Chúng ta phát tâm cung kính Phật, tức là muốn làm Phật, nhưng không tin mình có khả năng thành Phật, ý muốn làm Phật kia dần dần tiêu ma. Cũng thế đối với những vị đức hạnh, chúng ta phát tâm cung kính, nhưng bảo rằng việc ấy chỉ các ngài làm được, chớ mình không phân. Nếu có tâm nghĩ như vậy, chúng ta không thể nào tiến bộ thành người đức hạnh được.

Chúng ta không nên khinh mình, phải tin tưởng cố gắng. Đức Phật quở ngài La-hầu-la: “Sao không noi gương các vị A-la-hán đức hạnh mà sửa nết?” Ngài La-hầu-la thưa: “Việc các vị ấy làm, con không thể làm nổi.” Phật bảo: “Kia là trượng phu, ta cũng trượng phu, chớ tự khinh mà lui sụt.” Tự tín là một cứ điểm hệ trọng, chúng ta bảo thủ để chiến thắng quân ma. Bồ-tát Thường Bất Khinh suốt đời chỉ làm một việc, đến đâu, gặp ai đều chắp tay thưa: “Tôi không dám khinh các ngài, các ngài đều sẽ thành Phật.” Đó là Ngài gieo cho chúng ta đức tự tín, mình có khả năng thành Phật. Bởi vì chúng ta thiếu đức tự tín nên thấy việc làm của chư Phật, Bồ-tát biết là hay, đáng kính, song cho rằng mình không thể làm nổi. Do đó, mà không tiến lên được, trái lại còn sụt lùi là khác. Việc làm của ngài Thường Bất Khinh mới thấy là tầm thường, song hết sức quan trọng đối với bọn người thiếu đức tự tín như chúng ta. Sự cảnh giác, đánh thức đó gây cho chúng ta một niềm tin mãnh liệt. Có niềm tin rồi, lo gì trên con đường đạo xa xôi, chúng ta không đi đến đích?

Lại có người đổ cho nghiệp lực, vì nghiệp lực lôi cuốn nên không thể làm được, tu được… Nghiệp lực vẫn có, nhưng không phải cố định chịu như vậy, không thay đổi. Vì nghiệp phát xuất từ tâm niệm, hành động chúng ta, một khi tâm niệm hành động thay đổi, thì nghiệp cũng tùy thuộc chuyển hướng. Như cây cỏ, nhà cửa đều nương nơi đất, một khi đất chuyển động, cây cỏ, nhà cửa cũng lung lay. Chúng ta phải như nhà đại lực sĩ, tuy bị trói hằng trăm nuột dây, một khi chuyển mình thì những nuột dây ấy từ từ đứt sạch. Đã là con người thời ai khỏi mang nghiệp đời quá khứ, song phải vận dụng sức mạnh cánh tay tự tín, cầm con dao trí tuệ, cắt đứt tất cả dây oan nghiệt, thoát mình ra ngoài vòng trời cao bể cả, ngao du tự tại.

Đức tự tín là yếu tố hệ trọng trong con người chúng ta. Thiếu nó, chúng ta sẽ xanh xao, yếu ớt không làm nổi việc gì. Tự tín là nhiên liệu đẩy chiếc phi cơ ý chí thẳng đến mục đích xa xôi.

IV.- TU THÂN

Người Phật tử phải lấy mười điều thiện làm căn bản tu thân. Mười điều này là cội gốc sanh tất cả công đức, là những nấc thang đầu lên quả vị Thánh Hiền. Không ai trở thành đức hạnh mà thiếu mười điều này.

1) Không giết hại người vật: Đương nhiên điều này lấy con người làm trọng tâm. Mạng sống con người là giá trị tối cao trong tất cả giá trị. Dù có tất cả của báu trên thế gian này, mà mạng sống phải diệt, người ta cũng không ưng có. Chúng ta biết quí mạng sống của chúng ta, người khác cũng quí trọng mạng sống của họ như vậy. Muốn mình sống mà tàn sát sanh mạng người, thật là điều vô lý bất công. Một dân tộc được gọi là văn minh phải quí trọng sanh mạng con người trên tất cả. Chỉ trừ bọn dã man khát máu mới khinh thường mạng sống con người. Giẫm đạp trên sanh mạng con người để làm nấc thang vinh hiển cho mình, thật không còn tội ác nào nặng bằng. Phật tử biết quí trọng sanh mạng mình, nên tôn trọng sanh mạng của kẻ khác. Tâm niệm từ bi bình đẳng xem mọi người như mình, điều gì mình không chịu, không làm cho kẻ khác phải chịu. Cho nên chính mình không giết người, không xúi bảo kẻ khác giết, cũng không cam tâm vui vẻ khi thấy người bị giết.

Đến các loài vật, Phật tử cũng không có ác tâm sát hại chúng, nếu không phải là vấn đề cần thiết. Bởi suy từ con người ra đến loài vật, con người sợ bị giết hại, loài vật cũng sợ bị giết hại. Tại sao chúng ta biết bảo vệ sanh mạng của chúng ta, vô cớ lại tàn sát sanh mạng loài vật? Tuy nhiên, đây chỉ là sự giảm bớt những sự giết hại vô cớ, ngoài ra vì hoàn cảnh, vì sự sống không thể tránh hẳn được.

Được vậy, mới là điều thiện tiêu cực, cần phải thực hành điều thiện tích cực. Nghĩa là mình không giết người, thấy người sắp bị giết lại tìm mọi phương tiện cứu thoát. Tất cả việc thiện không việc nào bằng cứu sống mạng người. Như nói:

Dù xây chín đợt phù đồ

Không bằng làm phước cứu cho một người.

Phật tử phải vận dụng tất cả khả năng sẵn có của mình tìm cách cứu thoát sanh mạng người. Ngoài sự bị giết hại, hoặc bệnh hoạn, tai nạn… có thể làm thương tổn sanh mạng người, Phật tử đều nhiệt tình cứu giúp. Các loài vật cũng thế. Chính mình thực hành cứu giúp lại khuyên người cũng thực hành. Đây là điều thiện tích cực của Phật tử.

2) Không trộm cướp: Sanh mạng con người, chúng ta đã quí trọng thì tài sản là huyết mạch, thiếu nó sẽ thương tổn đến sanh mạng, nên cũng quí trọng như thế. Chúng ta đau khổ khi mất của thế nào, người mất của đau khổ cũng vậy. Tại sao ta không ưng ai cướp đoạt của ta, mà ta lại đi cướp đoạt của người? Hành động như vậy thật là bất công, tàn ác. Ngoài những việc trộm cướp chánh thức ra, dùng mưu mô kế hoạch sang đoạt, lường lận của người đều thuộc phạm vi trộm cướp. Kẻ trộm cướp là phá hoại hết lòng từ bi, tăng trưởng tâm thâm độc. Họ là người từ khước hết mọi an lành, vui vẻ đưa mình vào cửa ngục đen tối khổ đau. Phật tử nguyện dứt hết đau khổ, cầu được an vui, nên xa lánh trộm cướp như tránh xa hang hùm miệng cọp. Chính mình không trộm cướp, không xúi bảo người, cũng không tán thành ai làm việc trộm cướp. Đây mới là phần thiện tiêu cực.

Chúng ta đã không có tâm trộm cướp của người, thấy người đói thiếu, khổ sở, còn phát tâm giúp đỡ, khiến họ được no ấm vui vẻ. Lòng từ bi không cho phép chúng ta no ấm, an ổn, để mặc người đói rét kêu than. Chúng ta nên xem nỗi khổ của người như nỗi khổ của mình. Thà chia sớt nhau miếng cơm, manh áo hơn là ngồi ăn mâm vàng, chén ngọc, để những người chung quanh mình đói khát, kêu van. Lo bồi bổ thân này toàn sơn hào hải vị, chẳng qua làm nặng nề thêm xác thúi ở thời gian sau. Chi bằng sống đạm bạc, nhín ăn, bớt mặc để chia sớt cho đồng bào đói thiếu, tuy thân này gầy ốm, nhưng tinh thần cao thượng ai bì. Người sẵn sàng ra tay chẩn tế, cứu nguy như vậy, gọi là hành động thiện tích cực.

3) Không tà dâm: Vật thuộc của người đã không được lấy, người thuộc về người cũng không được xâm phạm. Ai cũng muốn bảo vệ vật sở hữu của mình, nhất là tình thương thuộc sở hữu của ai không bao giờ họ chịu chia sẻ. Bởi vì chia sẻ tình thương có thể làm ly tán gia đình. Tình thương là sợi dây ràng buộc giữa vợ chồng trong gia đình, nếu sợi dây ấy đứt, gia đình sẽ tan vỡ. Xâm phạm đến tình thương của người tức là phá tan hạnh phúc của người, và có thể đe dọa đến sanh mạng người nữa. Chẳng những chỉ hại gia đình người mà còn mang họa về cho gia đình mình. Một hành động tổn hại lớn lao như vậy, thử hỏi người có lòng từ bi, có trí sáng suốt, có nhẫn tâm làm việc như vậy hay không? Vì thế, người Phật tử nhất định không tà dâm, không đồng ý và tán thành việc ấy.

Chẳng những Phật tử không tà dâm, mà còn đem pháp trinh thuận dạy bảo trong gia đình và gia đình người. Trinh thuận là hạnh nết tốt, đem an lành đến mọi gia đình. Phật tử tích cực khuyến khích, khen ngợi hạnh nết trinh thuận.

4) Không nói dối: Nói dối có tánh cách đảo ngược sự thật để thu lợi về mình, hoặc làm hại người. Tâm tham và ác là động cơ thúc đẩy nói dối. Nếu nói thật sẽ mất quyền lợi, hoặc không hại được người, nên họ nói dối. Phật tử rất yêu chuộng sự thật, không có tâm tham ác, nên không nói dối. Nói dối như thế sẽ làm tổn hại giá trị của mình, vì sự thật khó bề giấu được. Khi giá trị mình mất, đâu có thể lấy tài sản, danh vị gì mua lại được. Để bảo vệ giá trị của mình, cũng không làm đau khổ cho người, Phật tử không nói dối và không tán thành nói dối. Nói đùa nghịch nhau chơi, không nằm trong phạm vi nói dối. Tuy nhiên, có khi Phật tử bất đắc dĩ phải nói dối, nhưng do động cơ từ bi vì cứu nguy cho người và vật.

Đã không nói dối, người Phật tử nói lời chân thật, khuyên dạy người nói lời chân thật. Cuộc đời đã điên đảo lắm rồi, chúng ta đừng làm cho nó điên đảo thêm. Sự thật thế nào, chúng ta trình bày như thế, may ra  người ta còn tìm được lẽ phải, tránh khỏi oan trái cho kẻ khác. Mỗi người đều nói đảo ngược sự thật, tức xã hội này thành xã hội điêu ngoa, người sống ở đây không còn ai tin được ai nữa. Sống mà xung quanh mình không tin được một người, thử hỏi cuộc sống ấy đau khổ đến ngần nào? Vì thế, người Phật tử cương quyết nói thật, giáo hóa người nói thật.

5) Không nói hai lưỡi: Nói hai lưỡi là chủ tâm chia lìa nhau, đến người này bịa rằng người kia đã nói xấu người này, đến người kia bịa rằng người này đã nói xấu người kia. Nói như thế cũng gọi là nói “ly gián”. Do ganh tị hay thù hiềm, nên dùng lối này để phá tan tình thân của người, gây cho đôi bên nghi ngờ nhau, chống đối nhau. Mầm đấu tranh do đây mà ra. Người Phật tử quyết dẹp tâm ganh tị, thù hiềm nên không nói hai lưỡi, cũng không xúi bảo và tán thành người nói như vậy.

Đã không nói hai lưỡi, Phật tử còn nói lời hòa thuận khiến tình thân của họ càng thân hơn. Chúng ta phải cố gắng đem sự hòa thuận an vui lại cho mọi người. Tất cả cuộc tranh đấu đều gây đau khổ, tang tóc cho nhau. Có phương tiện gì đem lại sự hòa thuận cho mọi người, chúng ta phải nỗ lực làm. Chúng ta phải lấy nước từ bi chứa trong thâm tâm, dùng chót lưỡi làm phương tiện rưới tắt ngọn lửa đấu tranh của mọi người. Hòa thuận là nguồn hạnh phúc chung của nhân loại. Chúng ta phải khai thác nó, phải bảo vệ nó, như bảo vệ sanh mạng của chúng ta. Mầm chiến tranh, mầm tàn sát đều do bất hòa mà ra. Bất hòa là hiểm họa lớn nhất, từ cá nhân cho đến nhân loại. Người Phật tử bất cứ ở hoàn cảnh nào, ở trường hợp nào, đều nhất quyết nói lên tâm yêu chuộng hòa thuận, và khuyên mọi người hòa thuận.

6) Không ác khẩu: Ác khẩu là mắng nhiếc, chửi rủa, dùng những lời thô lỗ sỉ nhục người. Do tâm nóng giận xúi miệng nói những lời ác khẩu. Khi nói những lời nói ấy, khiến người ta đau khổ, tủi nhục, hận thù. Nếu chúng ta bị ai dùng một câu thô bỉ mắng nhiếc giữa đông người, không thể trả thù liền tại chỗ, về nhà suốt đêm không tài nào ngủ được. Mối hận ấy ôm giữ mãi, cho đến bao giờ trả thù xong mới hả dạ. Xét chúng ta như thế, suy người cũng vậy. Một câu nói ác khẩu gây đau khổ cho người, chuốc thù hận về mình, nên Phật tử nhất định không nói ác khẩu, cũng không xúi người và tán thành người nói ác khẩu.

Biết người đời ghét nói thô ác, chịu nghe nói mềm mỏng, chúng ta vừa tránh nói thô ác, vừa tập nói mềm mỏng. Lời nói mềm mỏng khiến người ta có cảm tình, khuyên dạy điều gì họ cũng nghe. Tập nói lời mềm mỏng thu hút cảm tình mọi người, để dìu dắt họ lần về đường đạo đức. Chỉ chịu khó tập lời nói mềm mỏng, tạo nên lợi mình, lợi người một cách hữu hiệu, thử hỏi còn tiếc gì chúng ta không cố gắng? Chẳng những mình cố gắng tập nói mềm mỏng, cũng khuyên dạy người nói mềm mỏng.

7) Không nói thêu dệt: Lời nói có tính cách thêu rồng vẽ phụng, phù phiếm, chua ngoa không hợp lý, ấy là nói thêu dệt. Động cơ phát xuất lời nói này là tâm bịp bợm, trau chuốt lời nói làm bùa mê thuốc lú say mê người, để dụ dỗ làm việc sai lầm, tội lỗi. Hiện tại gọi là những câu nói văn hoa, huê tình. Những câu nói này nghe rườm rà, bóng bẩy mà trống rỗng, không có nghĩa lý. Chúng ta là Phật tử yêu chuộng chân lý, phàm ra bàn nói việc gì đều vì tìm hiểu lẽ thật, không ưng nói lối văn hoa phù phiếm ấy. Tự mình không nói, cũng không tán thành người nói như vậy.

Đức Phật nói ra câu nào đều hợp tình, chúng ta là đệ tử của Ngài, há đi nói những lời vô lý, sai ngoa hay sao? Cho nên, chúng ta phải nói những lời đúng lý. Chúng ta luôn luôn mượn lời nói làm phương tiện diễn đạt tư tưởng của mình. Chúng ta luôn luôn mượn lời nói làm phương tiện diễn đạt tư tưởng của chúng ta, cho mọi người chung quanh hiểu thấu thông cảm. Vì thế, chúng ta phải dè dặt, lời nào hợp lý mới nói, vô lý không nói, đồng thời khuyến khích mọi người tập nói hợp lý.

8) Không tham: Tham có chia hai loại: tham để cầu tiến và tham mê dục lạc. Ở đây nói tham là chỉ loại tham mê dục lạc, khiến suốt đời chìm sâu trong hố tội lỗi, khó bề thoát được. Nó là động cơ gây nhiều tội ác gớm ghê. Những hành động giết người, cướp của, tình địch bắn nhau, cho đến kéo từng đoàn quân sang cướp nước người đều do lòng tham chủ động. Lòng tham ấy không có ngằn mé, ở người tầm thường thì gian lận, trộm cướp, ở kẻ quyền thế thì sang đoạt, xâm lăng. Có thể nói ở thế gian không có một ngày nào được an ổn, đều gốc ở lòng tham con người mà nên. Đây chỉ phác họa sơ vài nét đại cương tai hại của lòng tham, nếu nói đủ thì không sao kể xiết. Chúng ta đã biết họa hại của lòng tham rồi, nhất định hạn chế, kềm hãm cho đến khi nào không còn tham nữa.

Tuy nhiên, tham cầu tiến chúng ta phải có, vì nó là sức mạnh thúc đẩy nhân loại mau tiến bộ. Như trong việc học hành,  cậu học trò không tham học chóng giỏi, thì khó có ngày đỗ đạt. Bất cứ nghề nghiệp nào, nếu không tham muốn làm xuất sắc hơn người, thì không thể biến chế các kiểu mới, phát minh những điều lạ. Đến trong việc tu hành cũng thế, nếu không tham cầu mau thành Phật, chắc người ta cứ lững thững qua ngày, không nỗ lực tinh tấn. Cho nên tham dục lạc phải đừng, tham cầu tiến phải có.

Đối với dục lạc, chúng ta cố gắng hạn chế lòng tham, lại tập hạnh thiểu dục, tri túc. Có thiểu dục, tri túc, đời sống chúng ta mới giữ được hai chữ “thanh bần”. Có của, chúng ta mới làm việc bố thí được. Người Phật tử có “an bần lạc đạo” là nhờ tập thiểu dục, tri túc. Thiểu dục, tri túc là lá bùa gìn giữ giá trị chúng ta không bị hoen ố. Có thiểu dục, tri túc bất cứ ở trong ngành nào, giá trị chúng ta đều trong như băng, trắng như tuyết. Thiểu dục, tri túc vừa chận được lòng tham, vừa giữ giá trị chúng ta được nguyên trinh, nên chúng ta cố gắng tập và khuyến khích người tập.

9) Không sân: Sân là nóng giận, thù hằn. Nó là chủ nhân của ác khẩu và tranh đấu. Có nóng giận rồi, phát ra lời nói không thể nào êm ái, phát ra hành động không thể nào nhẹ nhàng. Nó là ngọn lửa dữ thiêu hết những đức tánh tốt của mình. Có sân trong người như nuôi rắn độc trong nhà, sớm muộn gì cũng có ngày bị hại. Ngọn lửa sân nếu không chế ngự được, có thể thiêu cả thế gian. Con người khi nổi sân lên, tất cả điều lành lẽ phải, tai họa nguy hiểm, không còn nghĩa lý gì nữa. Khi sân rồi không tội ác nào mà chẳng dám làm. Chúng ta cố gắng kềm hãm lòng sân, như đề phòng hỏa hoạn. Một phút sơ ý có thể gây tai họa khôn lường. Biết lửa sân nguy hiểm như vậy, Phật tử chúng ta nỗ lực diệt sân và khuyên người diệt.

Chẳng những lo diệt sân, Phật tử còn tập hạnh từ bi. Chỉ có nước từ bi mới dập tắt được ngọn lửa sân. Từ bi mang đến cho chúng ta một biển nước tình thương tràn trề lênh láng đối với mọi người, nên ngọn lửa sân không còn bổi để nhúm dậy. Biển nước tình thương ấy tràn đến đâu, mầm lửa sân tắt ngụm ở đấy. Nước từ bi tắm mát mọi người đang nóng bức vì lửa hận thù nhen nhúm trong lòng. Thế gian này sẽ mát rượi, khi nào trong lòng mọi người tràn trề những nước từ bi. Từ bi là hoa, là bướm, là ánh nắng, là mùa xuân… là tất cả hạnh phúc của con người. Để làm đẹp thế gian, Phật tử tập hạnh từ bi và khuyến khích mọi người tập hạnh từ bi.

10) Không si: Si có chia hai loại: si mê đần độn và tà kiến. Người si mê đần độn không phân biệt lẽ phải chăng, xúc cảnh ù ù, cạc cạc, nói bướng làm càn, gây tội lỗi không ít. Vì si mê đần độn, bị người xúi sử làm những điều tàn bạo mà không biết, hành động xấu xa mà không hay. Người như vậy chỉ một bề sa đọa không thể tiến lên. Họ sống giữa bạch nhật, thanh thiên như đi trong đêm trường mù mịt.

Người tà kiến có suy xét, có nhận định, song suy xét nhận định sai lầm, rồi chấp chặt chỗ đó làm sở đắc. Do chấp chặt chỗ sai lầm đó, cả đời chỉ quay cuồng trong vòng lẩn thẩn. Chẳng những riêng đời họ sai lầm, họ còn lôi kéo những người cùng theo con đường sai lầm ấy. Như một người mù dẫn cả đoàn mù, sớm muộn gì cũng rơi xuống hố! Người mang nặng tà kiến như kẻ mang cặp kiếng màu, họ nhìn thế gian chỉ thấy một màu theo mắt kiếng của họ, khi ấy dù ai nói thế nào họ cũng không tin, trừ khi họ gỡ đôi mắt kiếng. Do tà kiến, họ tự chuốc họa, lại còn gây họa cho người. Như họ chủ trương không có tội phước, bản thân họ không sợ tội, không làm phước, còn dạy người không sợ tội, không làm phước. Vì thế càng ngày càng gây tội ngập trời.

Hai loại si như thế đều nguy hiểm, người Phật tử quyết định diệt trừ si mê. Tự mình diệt trừ si mê, cũng dạy người diệt trừ si mê.

Muốn dứt hết gốc si mê, Phật tử học tập trí tuệ. Trí tuệ là mặt trời sáng quét sạch mọi tối tăm. Trí tuệ là chiếc búa bén chặt ngã đám rừng si mê. Trí tuệ là thanh kiếm thần dẹp sạch bọn quân tà kiến. Muốn học tập trí tuệ, chúng ta phải học hỏi chánh pháp và tu tập thiền định. Chánh pháp có công dụng mở cho ta cặp mắt sáng, thiền định có công năng phát huy ánh sáng. Có mắt và có ánh sáng, chúng ta mới khỏi sa đọa lạc lầm. Chúng ta vì muốn thoát khỏi luới si mê, nên cố gắng học tập trí tuệ, vì muốn dẹp si mê cho thế gian nên khuyên người học tập trí tuệ. Tóm lại, mười điều thiện này, đứng về mặt tiêu cực: không giết hại người vật, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không nói hai lưỡi, không ác khẩu, không nói thêu dệt, không tham, không sân, không si. Đứng về mặt tích cực: phóng sanh, bố thí, trinh thuận, nói chân thật, nói hòa thuận, nói mềm mỏng, nói hợp lý, thiểu dục, tri túc, từ bi, trí tuệ. Chúng ta tùy theo khả năng, trong mười điều tu tập dần dần. Không phải bắt buộc chúng ta trong thời gian ngắn tu tập trọn vẹn hết, mà cần nỗ lực tu tập suốt đời, mài giũa lâu ngày mới sạch. Chúng ta đừng sợ nó khó, chỉ sợ mình không quyết chí. Nếu quyết chí rồi, thế nào có ngày chúng ta sẽ tu tập viên mãn.

Sở dĩ mười điều này được gọi là thiện, vì nó có đủ hai điều kiện căn bản: tình thương chân thật, trí sáng suốt. Dù đứng về phương diện tiêu cực hay tích cực cũng thế. Ví dụ:  Không giết hại người vật. Tại sao? Vì tình thương nhân loại, vật loại và xét biết tai họa sẽ trở hại mình. Chín điều sau đều tương tự như vậy. Đứng về mặt tích cực, chúng ta càng thấy rõ ràng hơn. Ví dụ: Bố thí. Tại sao? Vì thương người đói khổ và biết làm như vậy họ sẽ an vui. Mười điều này hẳn là thiện, dù ở địa phương nào, thời gian nào cũng không thể phủ nhận nó được. Ngược lại với mười điều này, là mười điều ác. Người Phật tử quyết dứt ác tu thiện, nên cứ y mười điều này làm tiêu chuẩn tu hành.

B. GIA ĐÌNH

I.- CHA MẸ

Người Phật tử đối với cha mẹ phải là đứa con chí hiếu. Bởi vì chúng ta đã biết chọn con đường đạo đức, học theo đạo từ bi, với tất cả chúng sanh còn phát tâm thương xót, huống hồ là cha mẹ, người đã sanh thành dưỡng dục chúng ta. Dù bởi lý do này hay lý do khác, người Phật tử cũng không có quyền bất hiếu. Đã bất hiếu với cha mẹ thì không còn tội ác nào mà chẳng dám làm. Đối với cha mẹ mà bất hiếu, ai tin mình là người đạo đức được. Người bất hiếu đã phá vỡ tất cả công hạnh lành, hủy hoại hết hạt giống phước đức. Trong kinh có đoạn chép:

Thế Tôn bảo các thầy Tỳ-kheo:

Nếu có người biết đền đáp, người này đáng kính đáng mến, dù một chút ơn nhỏ còn không quên, huống là ơn lớn. Giả sử người này ở cách xa ta ngàn do-tuần, trăm ngàn do-tuần vẫn không phải là xa, mà gần bên ta. Vì cớ sao? Tỳ-kheo! Vì ta hằng khen ngợi người biết đền đáp.

Những người không biết đền đáp, ơn lớn còn không nhớ, huống là ơn nhỏ. Người ấy không thể gần ta, ta cũng không gần người ấy. Giả sử người ấy mặc y đứng hầu bên cạnh ta, người ấy vẫn cách xa ta muôn dặm. Vì cớ sao? Vì ta không bao giờ nói không đền đáp…

(Kinh Tăng Nhất A-hàm, quyển 10, phẩm Thiện tri thức 20, bài số 5)

Phật dạy: “Ơn nhỏ còn chẳng quên, huống là ơn lớn.” Ơn cha mẹ sánh với tất cả ơn trong đời chúng ta có ơn nào bằng? Ơn lớn ấy, chúng ta còn quên được, tất cả ơn khác lửng đi nào có khó gì? Ơn nghĩa là nền tảng đạo đức, chúng ta không quí trọng thử hỏi còn gì là đạo đức? Vì thế, Phật nói: “Người quên ơn dù mặc y đứng hầu bên cạnh ta, vẫn cách xa ta muôn dặm.”

Ơn cha mẹ như trời cao, biển cả, muốn đền đáp dù nát thân này cũng chưa tròn. Như kinh chép:

Thế Tôn bảo các thầy Tỳ-kheo: Dạy hai người làm lành không được đền ơn. Hai người là ai? Là cha và mẹ.

Tỳ-kheo! Nếu có người vai trái cõng cha, vai mặt cõng mẹ đến ngàn muôn năm, cha mẹ ăn uống, ngồi nằm, bệnh hoạn, cho đến đại tiểu tiện đều ở trên vai, vẫn không được đền được ơn. Tỳ-kheo! Phải biết ơn nặng của cha mẹ: bồng ẵm, nuôi nấng, tùy thời săn sóc không sái thời tiết, không kể tháng ngày. Vì thế ơn cha mẹ rất khó đền đáp…

(Kinh Tăng Nhất A-hàm, quyển 10, phẩm Thiện tri thức 20, bài số 11)

Công ơn cha mẹ nặng nề như vậy, Phật tử chúng ta làm sao dám quên. Cha mẹ đã tạo nên thân này, dù đem thân này lót làm sàng làm ghế cho cha mẹ ngồi cũng chưa đủ đền ơn. Đối với người xuất gia mà Phật còn đinh ninh dạy bảo phải lo đền đáp, huống là Phật tử tại gia. Ơn cha mẹ rất khó đền đáp, song người con hiếu cứ đem hết tấm lòng hiếu thảo của mình mà ăn ở cũng quí lắm rồi. Có vị Bà-la-môn niên thiếu hỏi Phật: “Thế Tôn! Tôi thường như pháp đi khất thực đem về cúng dường cha mẹ khiến lìa khổ được vui. Thế Tôn! Tôi làm như thế được phước nhiều chăng?”

Phật bảo: “Thật được phước nhiều. Vì cớ sao? –   Nếu có người như pháp cầu xin, cúng dường cha mẹ khiến lìa khổ được an vui, thật có đại phước.”

Thế Tôn liền nói kệ:

Như pháp đối cha mẹ,
Cung kính nên cúng dường.
Hiện đời được tiếng tốt,
Mạng chung sanh cõi trời.

(Kinh Tạp A-hàm, quyển 4, kinh Uất-đa-la)

Biết cúng dường cha mẹ, dù đi khất thực đem về dâng cha mẹ còn có phước lớn, huống người tự làm ra tiền của cúng dường cha mẹ, quí biết chừng nào! Chỉ lo chúng ta không có thật tâm hiếu thảo, nếu có thật tâm hiếu thảo bất cứ ở hoàn cảnh nào cũng có thể thực hiện được. Lo cung cấp cha mẹ mọi điều kiện vật chất đầy đủ, đã chí hiếu lắm rồi, song chưa đủ đền đáp công ơn cha mẹ. Muốn đền đáp công ơn cha mẹ, phải khuyên cha mẹ hướng về đạo đức, qui kính Tam Bảo, được vậy mới gọi là đền đáp công ơn cha mẹ. Kinh chép:

Phật hỏi các thầy Sa-môn: “Con nuôi cha mẹ, lấy cam lồ trăm vị làm thức ăn, dùng thiên nhạc làm vui tai, sắm y phục hảo hạng mặc nơi thân, vai cõng cha mẹ đi khắp bốn phương, suốt đời phụng dưỡng như vậy, đáng gọi là hiếu chăng?”

Các thầy Sa-môn thưa: “Người này là đại hiếu!”

Phật dạy: “Chưa gọi là hiếu”…

Phật bảo các thầy Sa-môn: “Xem người thế gian không có hiếu thảo, chỉ thế này mới gọi là hiếu: Hãy khuyên cha mẹ bỏ ác làm lành, thọ Tam qui, giữ Ngũ giới. Dù cha mẹ sớm mai thọ trì qui giới, chiều có chết, đối với ơn nặng cha mẹ nuôi dưỡng, bú sú vô lượng cũng gọi là tạm đền.”

(Kinh Hiếu Tử N. 687 Đ.C.T.T. tập 32, trang 780)

Người con muốn báo đáp ơn cha mẹ, phải lo cung cấp những thứ cần dùng cho cha mẹ được ấm no an ổn, lại phải tìm phương tiện khuyên cha mẹ bỏ ác làm lành và qui y, giữ giới. Được vậy, mới gọi là báo đáp toàn vẹn cả vật chất lẫn tinh thần ở hiện tại và vị lai. Nếu ai có phước được cha mẹ sớm biết đạo đức, phải cố gắng làm sao cho cha mẹ có nhiều phương tiện hoạt động đạo đức hơn. Không bao giờ dám ngăn cản cha mẹ làm việc đạo đức, mà chính mình có bổn phận khuyến khích thêm.

Cha mẹ là đấng tối tôn, tối kính nhất đối với con. Cho nên người biết thờ kính cha mẹ là thờ kính Phật, thiên, thần… đầy đủ cả. Kinh chép:

Nếu có người muốn được vua Phạm Thiên ở trong nhà hãy hiếu dưỡng cha mẹ, vua Phạm Thiên đã có ở trong nhà, muốn có Đế Thích ở trong nhà, hãy hiếu dưỡng cha mẹ, Đế Thích sẵn ở trong nhà, muốn được tất cả thiên thần ở trong nhà, chỉ cúng dường cha mẹ, tất cả thiên thần đều ở trong nhà, cho đến muốn cúng dường Thánh Hiền và Phật, chỉ cúng dường cha mẹ, các vị Thánh Hiền và Phật đều ở trong nhà.

(Kinh Tạp Bảo Tạng)

Như vậy, kính thờ cha mẹ là kính thờ tất cả Thánh Hiền và Phật. Tại sao chúng ta chỉ biết quí kính Thánh Hiền và Phật mà thờ ơ với cha mẹ? Đó là chúng ta đã bỏ cội gốc phước đức, đi tìm ngọn ngành. Thật đúng câu:

Phật trong nhà không thờ,
Thờ Thích-ca ngoài đường.

Thật ơn cha mẹ cao cả lớn lao biết mấy, ngàn xưa các bậc Thánh Hiền đều kính thờ tôn trọng, mà hiện nay có một bọn vong ân bội nghĩa chủ trương rằng: “Cha mẹ không có ơn nghĩa gì với con, sự bất đắc dĩ phải nuôi ấy thôi.” Họ là người từ chối mọi ân nghĩa, phản đối tất cả Thánh Hiền, thật là kẻ đang xây mặt vào ngục tối, đáng thương thay!

II.- ANH EM

Người Phật tử sống trong gia đình phải giữ trên thuận, dưới hòa. Anh em có hòa mục thì gia đình mới an vui, êm ấm. Đối với cha mẹ, chúng ta là đứa con hiếu, đối với anh chị em, chúng ta phải là người anh chị hiền, đứa em thảo. Phải cứ y vào tinh thần đạo đức cư xử với anh chị em, cho tình cốt nhục càng thêm gắn bó. Chị ngã em nâng, em khổ chị buồn. Sự sống chết có nhau, đói no đồng hưởng, đừng vì tiền của, đừng vì tất cả bên ngoài, cắt đứt tình ruột thịt, chia rẽ nghĩa tay chân. Trong gia đình không tạo được tình thân yêu nhau, ngoài xã hội tìm đâu có tình thương chân thật. Lòng từ bi của chúng ta có thể bủa khắp nhân loại, nhưng điểm phát xuất của nó phải từ trong gia đình. Đối với anh em ruột thịt, chúng ta hằn học nhau, với người không chung máu mủ làm sao có lòng thương chân thành?

Tuy nhiên, anh chị em đôi khi tánh tình khác nhau, vì thế sợi dây hòa mục lắm lúc bị thương tổn. Dù vậy với tinh thần Phật tử, chúng ta phải trải hết tâm can để cư xử với anh em. Phải vận dụng tất cả lòng chân thành và trí sáng suốt để cảnh tỉnh anh em mình. Đức Phật trước kia còn hi sinh thân mình cho cọp đói, tại sao chúng ta không thể hi sinh những gì cần thiết cho anh em ruột thịt chúng ta?

Tình anh em muốn được ngày càng thấm thía đậm đà, Phật dạy phải đủ bốn điều:

1) Đồng chung vui khổ: Nghĩa là phải vì anh em mà quên cả thân mình, quên cả vợ con và chịu đựng mọi lời phiền trách.

2) Hằng thương tưởng: Phải vì anh em khuyên dạy những điều lành, cản ngăn những việc ác, khen ngợi những điều tốt, tìm cách dứt những oán thù.

3) Cầu lợi: Đối với anh em có những việc kín không giấu giếm nhau, được lợi cùng vui mừng, không được lợi cũng chẳng buồn rầu.

4) Giúp ích: Biết anh em tiền của còn hay hết; nếu biết hết sẵn sàng giúp đỡ, thấy anh em chơi bời thì tìm cách ngăn cản quở trách, luôn luôn thương xót.

(Kinh Trung A-hàm, phẩm Đại, bài Kinh Thiện Sanh 19)

Đối xử như bốn điều đức Phật dạy ở đây, chắc rằng tình anh em, chị em không bao giờ chia lìa được. Tinh thần Phật tử, chúng ta cố gắng siết chặt tình huynh đệ, đừng bao giờ để cho “cốt nhục tương tàn”.

III.- VỢ CHỒNG

Nghĩa vợ chồng cần phải kính mến, nhường nhịn nhau. Sự sống chung đụng lâu ngày dù thương nhau thế mấy, nếu thiếu sự kính nhường đều có thể gây tổn mối tình chung thủy. Đừng lấy quyền chồng lấn hiếp vợ, đừng ỷ thế vợ khinh khi chồng, quyền lợi phải giữ như cán cân, không thiên lệch bên nào. Nếu có thiên lệch sẽ có chia rẽ. Cũng đừng để ai hi sinh cho ai. Bởi vì cuộc sống hợp đồng, phải tôn trọng quyền lợi thiêng liêng của đôi bên.

Không bao giờ có hai vợ chồng tánh tình giống hệt nhau. Vì thế, không hợp nhau là lẽ dĩ nhiên, cho nên hai bên phải khéo dung hòa nhau. Mến tánh tốt này của nhau, phải chịu đựng tánh xấu nọ của nhau. Đừng than phiền, đừng đòi hỏi, đừng tìm kiếm đâu nữa, cái người như mình tưởng tượng. Lúc ở xa nhau, thấy tánh tình hạnh nết rất thích hợp, nhưng bắt buộc sống chung sẽ thấy hiện nhiều tật xấu khó chịu.

Nguyên tắc duy nhất bảo đảm cho cuộc sống chung là “khôn khéo sửa đổi cho nhau và chân thành phục thiện”. Dù người chồng hay người vợ, lúc nào cũng dẹp tự ái, đừng coi mình là hiện thân của chân lý. Sống trong cuộc đời tương đối, cái gì cũng phải châm chước với nhau. Đòi hỏi một con người toàn thiện, tìm khắp thế gian không thể có.

Theo tinh thần Phật dạy trong kinh Thiện Sanh: Người chồng phải thật tình thương mến vợ, không bao giờ dám khinh khi, sắm đồ trang sức tùy khả năng, tùy sở thích của vợ, cho vợ trọn quyền sắp đặt việc nhà, xem thân tộc bên vợ cũng như bên mình. Người vợ phải mến trọng săn sóc chồng, hằng tưởng nhớ đến chồng, quản thủ việc nhà, chăm nom thân tộc của chồng, thức khuya dậy sớm lo gia nghiệp, nói năng chân thật ôn hòa, không bó buộc chồng quá đáng, chào mừng khi đi đâu về và lo thức ăn chỗ nghỉ cho chồng().

Đương nhiên, vợ chồng đều phải giữ ba giới đầu. Có vậy, trong nhà mới trọn niềm tin tưởng nhau. Đã tin cậy nhau, phải tôn trọng tự do, đừng kềm hãm, bó buộc, khiến người ta sanh bực bội, dù vì tình thương cũng vậy.

IV.- CON CÁI

Làm cha mẹ phải khéo dạy dỗ con cái. Từ tấm bé, cha mẹ đã để ý đến khả năng, đạo đức của con. Thấy nó có khả năng nào, lớn lên cho học theo ngành đó. Nhất là về đạo đức, cha mẹ phải tập tành cho con thuần thục. Những trò chơi ác như: bắn chim, đá dế, đập bồ cào…, cha mẹ phải dạy rầy cho chúng bỏ. Cắt nghĩa cho chúng biết sợ tội, ham làm phước. Thấy người bệnh tật, nghèo đói, dạy chúng thương xót cứu giúp. Kể cho chúng nghe những gương đức hạnh, hiếu thảo, tiết nghĩa. Dạy chúng biết chọn bạn tốt chơi, bạn xấu lánh xa.

Cha mẹ đừng vì thương con cố làm giàu để của cho chúng mà phải lo cho con có đức, có tài. Sự nghiệp của cải không đảm bảo đời sống của chúng sau này, chỉ có tài đức mới thật là một bảo đảm hữu hiệu. Đừng vì thương con cố làm ác, có của nhiều để lại cho chúng; để lại như vậy chỉ là lưu oan gia chớ không phải sự nghiệp. Cha mẹ phải lấy đức hạnh để lại cho con; để đức hạnh mới là một gia bảo quí giá.

Cha mẹ là tấm gương sáng gần nhất để con cái hằng ngày noi theo. Nếu cha mẹ hằng ngày làm những điều sái quấy, tội lỗi, bất hòa, muốn con được hòa thuận và làm phải là vô lý. Cha mẹ luôn phải nhớ câu này: “Cha lành con thảo.” Cha có lành con mới thảo được. Khi nghĩ tới giáo dục con cái, cha mẹ phải nhớ mình là gương mẫu của chúng.

Con lớn lên, cha mẹ đừng bao giờ lấy quyền cha mẹ bắt con phải làm thế này, thế nọ. Phải hiểu tư tưởng tâm lý chúng, tùy theo đó hướng dẫn chúng. Có nhiều đứa con kêu lên: “Cha mẹ không thông cảm con.” Chỉ vì cha mẹ hiểu theo cái tuổi và nếp sống của mình, không chịu tìm hiểu hoàn cảnh xã hội của con hiện tại theo lứa tuổi của chúng. Cha mẹ phải khéo quan sát tinh tường hoàn cảnh tư tưởng của con mà giáo dục chúng. Đừng làm việc độc tài, bắt chúng phải răm rắp tuân theo mình. Có thế, mới hi vọng giáo dục con được.

V.- BẠN BÈ

Đã cùng sống chung cõi đời nhiều tai ách hoạn nạn này, chúng ta phải cần có bạn bè để cùng chia vui sớt buồn với nhau. Thiếu bạn bè như con chim lạc đàn, một mình bay trong bầu trời rộng cô đơn. Song bạn bè, chúng ta phải chọn người lành, người tốt; lánh xa người dữ, người hư hèn, trừ phi vị nào tu Bồ-tát hạnh. Gần bạn lành, chúng ta càng ngày càng tăng trưởng tánh tốt, gần bạn dữ, chúng ta càng nhiễm những tánh xấu xa. Gần bạn lành như đứng gần lò trầm, tuy không thơm hẳn, nhưng lâu sẽ nghe phảng phất mùi hương. Gần bạn ác như tay nắm cá tanh, tuy bỏ xuống rửa tay, song mùi tanh vẫn chưa hết. Chọn bạn là vấn đề hệ trọng trong đời sống chúng ta vậy.

Muốn phân biệt bạn lành, bạn dữ thể theo lời Phật dạy, chúng ta biện biệt:

Bạn lành: người gần ta chỉ vì tình thân, không vì danh vị quyền lợi, thường ngăn ta điều xấu, khen ta điều tốt, coi sự đau khổ vui mừng của ta như của người, không vì được việc của người để ta chịu thiệt thòi, lúc nào cũng tôn trọng giá trị và quyền lợi của ta.

Bạn dữ: người gần ta chỉ cốt lợi dụng, thường xúi giục ta làm việc hư hèn, khi có tiệc tùng vui vẻ thì có mặt, lúc ta bị hoạn nạn đau khổ thì lánh xa, luôn luôn muốn được việc của họ mà không nghĩ đến sự thiệt thòi của ta, có mặt ta thì khen, vắng ta thì nói xấu.

Chọn được bạn lành, chúng ta phải đối xử như đối xử với anh em ruột thịt. Lúc nào cũng kính trọng thương mến nhau. Có bạn lành chúng ta được thêm nhiều lợi ích. Kinh nói: “Có bạn lành là đủ: tín, giới, thí, văn, tuệ.” Nghĩa là bạn lành hướng dẫn chúng ta lòng tin chân chánh, khuyên chúng ta giữ gìn giới luật trong sạch, nhắc chúng ta làm việc bố thí cứu giúp người vật, giải thích cho ta nghe những điều hay lẽ phải ta chưa được nghe, chỉ vẽ cho ta học tập càng ngày càng tăng trưởng trí tuệ. Ngược lại những điều này tức là bạn dữ.

VI. XÃ HỘI

Sống trong xã hội tương quan tương duyên, mình và mọi người có sự liên quan mật thiết nhau. Sự ràng rịt mọi người với mình là sợi dây ân nghĩa. Do nương nhờ nhau chúng ta mới có sự sống an ổn. Cho nên mọi người trong xã hội đều là ân nhân của chúng ta. Như trong kinh Ưu-bà-tắc, Phật dạy: “Người nghỉ nhờ dưới bóng cây, cho đến thời gian ngắn, cẩn thận chớ bẻ hoa lá.” Tại sao Phật dạy chúng ta không được bẻ hoa lá? – Vì cây ấy đã che mát cho ta trong thời gian ngắn. Đức Phật dạy ta phải biết ơn, cái công ơn che mát cho ta, không nên có tâm phá hoại nó. Cái cây mà Phật còn dạy chúng ta biết ơn huống chi là nhân loại. Chúng ta đi đường nhờ xe; qua sông nhờ đò; ở nhà nhờ thợ mộc thợ nề; mặc áo nhờ thợ dệt, người trồng bông; ăn cơm nhờ nông phu, người khuân vác, nấu nướng; đau nhờ thầy xem mạch cho thuốc; đi học nhờ thầy giáo v.v… và v.v… Tách rời mọi người ra, chúng ta khó có sự sống bảo đảm an toàn. Cho nên chúng ta phải biết ơn tất cả mọi người. Đối với mọi người, chúng ta chỉ có bổn phận giúp đỡ, không được làm tổn hại.

Sự khổ của người đời không thể nào kể hết, tùy khả năng chúng ta giúp đỡ đến đâu quí đến đấy. Nếu gặp người đói rét, chúng ta tùy sức cho cơm ăn áo mặc. Thấy người bệnh hoạn, chúng ta săn sóc thuốc men. Kinh chép:

Phật dạy: Này các Tỳ-kheo! Người săn sóc bệnh nhân là săn sóc ta vậy. Người khán bệnh là khán ta rồi. Sở dĩ như vậy, vì ta nay đích thân săn sóc những người bệnh tật. Các Tỳ-kheo! Ta không thấy người nào, đối chư thiên thế gian, Sa-môn, Bà-la-môn trong việc bố thí tối thượng hơn việc bố thí này. Người thực hành bố thí này mới là bố thí, được quả báo lớn, được công đức lớn, tiếng tốt đồn khắp, được pháp vị cam lồ. Như Lai chí chân đẳng chánh giác biết trong việc bố thí tối thượng không việc nào hơn bố thí này…

(Kinh Tăng Nhất A-hàm quyển 5, phẩm Nhập Đạo bài số 4)

Săn sóc, nuôi nấng bệnh nhân là công đức rất lớn, là môn phước điền thứ nhất trong tám thứ phước điền.

Người Phật tử sẵn sàng cứu giúp mọi người, không bao giờ làm cho ai đau khổ. Chẳng những giúp người bằng vật chất, sức lực lại còn giúp bằng tinh thần. Thấy người làm ác, tìm cách khuyên họ bỏ ác. Biết người muốn gần đạo đức, hướng dẫn họ đến đạo đức. Có người không biết tội phước, giảng giải cho họ biết tội phước. Có người nhiều sợ hãi, dạy họ niềm tin và ủng hộ cho họ hết sợ hãi…

Chúng ta hãy đem tấm thân này làm miếng vải để băng bó những vết thương đau của xã hội, vì xã hội và ta không thể xa rời nhau.

PHẬT TỬ XUẤT GIA

Phần luân lý của người xuất gia nằm gọn trong ba môn học trọng hệ là Giới, Định và Tuệ, thuật ngữ gọi Tam vô lậu học. Người xuất gia thiếu một trong ba môn này, không xứng đáng là người xuất gia. Ba môn này là cội rễ thân cây giải thoát. Nương ba môn học này, người xuất gia dẹp sạch tất cả phiền não, giác ngộ chân lý, tự độ và độ tha.

1.- GIỚI HỌC

Giới là ngăn ngừa, kềm hãm các ngoại duyên không cho xâm phạm làm xao động tâm tư của người tu.  Giới cũng có nghĩa là dừng quấy, dứt dữ. Ngừa tất cả quấy lỗi có thể xảy ra, đình chỉ mọi tội ác. Giới luật cũng có nghĩa riêng giải thoát. Người tu giữ được mỗi giới là giải thoát mỗi phần. Giới có công năng bảo vệ người tu được an ổn thanh tịnh. Giới là kiện tướng dẹp sạch quân ma, khiến người tu khỏi bị quấy nhiễu. Người quyết tâm tu hành không bao giờ dám xao lãng giới học. Khi sắp nhập Niết-bàn, đức Phật còn dạy các thầy Tỳ-kheo “lấy giới luật làm thầy”. Không ai tự nhiên tâm được yên định, trước phải nhờ ngăn ngừa ngoại duyên, sau tâm mới yên tĩnh. Như ngọn đèn để ngoài trời, thế nào cũng bị gió, đành phải nhờ bóng đèn bao bọc bên ngoài, ngọn đèn mới được đứng yên. Giới là bóng đèn ngăn ngừa gió ngoại cảnh, khiến ngọn tâm đăng của chúng ta yên tĩnh sáng suốt. Như ông nhà giàu có nhà cửa, vách chắc chắn nên nằm ngủ yên không lo sợ trộm cắp. Giới là cửa vách ngăn bọn trộm cắp phiền não, khiến tâm chủ nhân nằm ngủ yên lành. Người giữ giới thanh tịnh, tâm không rối loạn, hối hận.

Giới có: muời giới của Sa-di, hai trăm năm chục giới của Tỳ-kheo, ba trăm năm chục giới của Tỳ-kheo ni, mười giới trọng bốn mươi tám giới khinh của Bồ-tát. Người tu nhờ vòng rào giới luật, tâm được thư thái an tịnh. Cho nên, nhân giới sanh định.

2.- ĐỊNH HỌC

Giới đã ngăn ngừa ngoại duyên không cho xâm phạm, định là phương pháp kềm chế nội tâm không cho phóng ngoại. Sáu căn luôn luôn tiếp xúc với sáu trần khiến tâm xao động, dùng định nhiếp phục sáu căn không cho chạy theo trần cảnh, để tâm được an trụ. Như câu chuyện trong kinh chép:

Con dã can đói đi tìm mồi, gặp con rùa đang bò. Dã can nhắm vào đầu rùa cắn, rùa thụt đầu vào vỏ. Dã can cắn đuôi rùa, rùa rút đuôi vào vỏ. Dã can cắn chân, rùa rút chân… Cuối cùng, vỏ rùa cứng quá, dã can cạp không nổi, phải bỏ đi.

Phật dạy: Tỳ-kheo nhiếp phục sáu căn cũng như thế. Khi nhiếp phục được sáu căn rồi, ngoại cảnh không thể nào xâm nhập được. Như con rùa không bị dã can làm hại.

(Kinh Tạp A-hàm, quyển 43, bài kinh số 1167)

Giới chỉ có công dụng ngừa ngoại duyên, kềm chế được tâm là do định. Nếu không tập định, chỉ giữ giới không, tâm vẫn xáo động. Như có người nuôi con khỉ, sợ nó chạy nhảy la lối, cấm không cho trẻ con đến chọc. Nhưng tánh khỉ không thể nào ngồi yên, nó vẫn chạy nhảy lăng xăng. Muốn nó ở một chỗ, ông chủ phải lấy dây niệt đầu nó dưới cây trụ, giãy giụa lâu không khỏi, mỏi mệt nó mới chịu nằm yên. Tâm chúng ta cũng vậy, tuy có giới ngăn cấm bên ngoài, không để ngoại duyên xâm phạm, tự nó bên trong thầm thầm xao động không ngừng. Muốn nó yên định, chúng ta cần phải chú tâm vào một cảnh, lâu ngày nó mới yên định.

Định có nhiều thứ: Tứ thiền, Bát định, Cửu thứ đệ định… Người tu thứ tự đi từ những định thô vào định tế. Khi tâm an định, mới phát khởi trí tuệ.

3.- TUỆ HỌC

Tâm chúng ta chạy lăng xăng tản mác nên yếu ớt, mờ mịt. Muốn tâm sáng suốt, chúng ta phải dùng định nhiếp tâm trụ lại cho có sức mạnh. Khi tâm trụ rồi, chúng ta dùng nó quán sát mới đủ sức mạnh nhìn thấu sự thật. Như ngọn đèn không có chụp, ánh sáng loãng quá thành lờ mờ, chúng ta dùng chụp gom ánh sáng lại một chỗ nào, soi thấy sự vật chỗ ấy rất tỏ rõ. Công dụng của tâm cũng thế, bản tánh nó là sáng suốt, song chúng ta cả ngày phóng tâm theo ngoại cảnh xao xuyến không ngừng, nên dùng nó quan sát một việc gì chỉ hiểu lờ mờ, không rành rõ. Nếu chúng ta gom nó trụ lại một chỗ, khi ấy mới đủ sức phát huy ánh sáng soi thấu chân tướng thế gian. Trí tuệ này không phải do học mà được, cũng không phải từ đâu đến, chính tuệ sẵn có của chúng ta bị phân hóa, nay qui tụ được phát ra công năng như thế. Nó là một bảo châu vô giá sẵn có của chúng ta, tại vì chúng ta quên nó đi, cam chịu mờ tối khổ đau.

Trí tuệ có: Nhất thiết trí, Đạo chủng trí, Tự nhiên trí, Vô sư trí… Được trí tuệ, gọi là giác ngộ, chứng đạo. Mục đích người xuất gia đến chỗ này mới viên mãn.

Tóm lại, ba môn học này tương quan mật thiết với nhau. Nhờ giới làm trợ duyên tâm được định, nhờ tâm định phát sanh trí tuệ. Như nhờ bóng đèn, ngọn đèn đứng yên phát ra ánh sáng rực rỡ. Người xuất gia thực hiện đầy đủ ba môn học này, mới đạt được sở nguyện xuất ly tam giới, độ thoát chúng sanh.

LUÂN LÝ PHẬT GIÁO KHÔNG PHẢI GIÁO ĐIỀU

Tuy Phật giáo đề ra những phương pháp tu tập, những cách đối xử với nhau cho thích hợp đạo lý, nhưng không phải coi như giáo điều cố định. Bởi vì khả năng trình độ con người khác nhau, không thể có nguyên tắc nào bắt buộc tất cả phải làm như nhau được. Nếu bắt buộc tất cả phải làm rập theo một khuôn khổ, ấy là việc làm không hợp tình. Con người có kẻ vị kỷ, có người vị tha, bắt người vị tha làm theo khuôn khổ người vị kỷ thật là oan phí, bắt người vị kỷ làm theo người vị tha thì không kham. Người vị kỷ phải có phần luân lý thích hợp với họ, để được tự lợi mà không tổn hại kẻ khác. Người vị tha phải có phần luân lý thích hợp với họ, để khỏi trở ngại trong công việc lợi tha.

Do đó, Phật giáo có nhiều phần luân lý khác nhau, tùy theo trình độ. Người muốn giữ tròn nhân đạo, tu tập theo Phật giáo, có phần luân lý gọi là giáo lý nhân thừa. Người có ý tiến lên, nhưng chưa tu giải thoát được, có phần luân lý gọi là giáo lý Thiên thừa. Người muốn giải thoát mọi triền phược ở thế gian, có phần luân lý gọi là giáo lý Thanh văn thừa hay Duyên giác thừa. Người muốn lăn xả vào đời làm lợi ích cho chúng sanh, không kể thời gian, không tiếc sanh mạng, có phần luân lý gọi là giáo lý Bồ-tát thừa. Vì vậy chúng ta không thể căn cứ vào phần giáo lý dạy hạng người này đem phê bình hành động người khác, cũng không thể lấy phần giáo lý dạy hạng người khác đem chỉ trích người này. Phật pháp mênh mông, tùy căn cơ mỗi người có sự tu tập hành động khác nhau, nhưng chung qui đều về một chủ đích “giải thoát mọi phiền não, giác ngộ chân lý”.

Luân lý Phật giáo lấy tự giác, tự ngộ làm trọng tâm, nên đối với bản thân được chú trọng rất nhiều. Bản thân mình tu tập thuần thục rồi, đối với gia đình, xã hội tự nhiên tốt đẹp. Chỉ cần huấn luyện con người ấy có nhiều đức tánh tốt, khi ra đối xử với mọi người, trong nhiều cảnh ngộ, đều là những hành động thể hiện tánh tốt. Tự thân người ấy chưa tốt, dù có đặt trăm ngàn điều bắt buộc làm tốt, đều không thể có hiệu quả.

Lời Phật dạy hợp tình (khế cơ) hợp lý (khế lý), lúc nào cũng đem sự an lạc lợi ích cho con người. Vì thế những lời nói ấy trước giữa sau đều thiện. Nhưng chúng ta phải biết lời nói ấy phát xuất ở trường hợp nào? Với những con người nào? Nhận định rõ rồi chúng ta áp dụng vào sự tu tập của mình và chỉ dạy cho người. Nếu thiếu nhận xét ấy, gặp đâu dẫn đấy, thấy sao dạy vậy, thật là “y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan”. Chúng ta phải biết linh động tùy cơ cảm, tùy cảnh ngộ áp dụng giáo lý để tự lợi và lợi tha. Song đừng linh động thái quá sai mất chánh pháp, đó là “ly kinh nhất tự tận thành ma thuyết”. Cho nên, điểm chánh yếu của người thuyết pháp dạy đạo là phải “hợp tình hợp lý”. Nếu giảng dạy hợp lý mà không hợp tình, hay ngược lại, đều thuộc tà pháp. Do sự hợp tình, hợp lý này, chúng ta càng nhận rõ nền luân lý Phật giáo rất thích ứng với nhân loại hiện tại và vị lai.

ĐẠO PHẬT VỚI TUỔI TRẺ

Lâu nay đa số người Việt Nam cho rằng: Đạo Phật là dành riêng cho các bậc già nua tuổi tác, nhờ câu kinh tiếng kệ an ủi những ngày tàn; hoặc kẻ bị tình đời đen bạc hay người đã mấy phen vấp ngã trên bước công danh quay về nương tựa cửa thiền, nhờ giọt nước cành dương rưới dịu đôi phần sầu hận; hoặc những người đau ốm tật nguyền sống thừa thãi ngoài xã hội về núp bóng từ bi, nhờ hột cơm, manh áo của đàn-na tín thí để đỡ phần cơ cực… Quan niệm ấy đã ăn sâu trong tâm não dân chúng, nên khi thấy một thanh niên cạo tóc xuất gia, hoặc đến chùa lễ Phật thì họ xầm xì cho là chán đời, là bi quan, là trốn nợ xã hội. Nhưng họ đâu ngờ đạo Phật là “đạo của tuổi thanh xuân đang căng nhựa sống và tha thiết yêu đời”.

Nói thế, không phải cố gò bó đạo Phật cho gần với tuổi trẻ, mà vì thật tánh của đạo Phật rất thích hợp với hàng hoa niên. Sự thích hợp ấy bởi những điểm:

Thanh tịnh: Đạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù… đang trú ẩn trong tâm giới người. Nhưng từ lúc thanh niên, người ta phải cất mình ra khỏi cổng nhà cha mẹ, bắt tay vào việc cạnh tranh, chiến đấu với đời, từ đó những tánh xấu, tham lam, sân hận… càng ngày tập nhiễm càng sâu, đến đen tối cả tâm hồn. Lúc tuổi già muốn gột rửa nó là cả một sự khó khăn. Như chiếc áo trắng đã nhuộm chàm, muốn giặt tẩy trắng lại không phải là việc dễ. Trái lại, tuổi thiếu niên tâm hồn còn trong trắng, những tánh xấu nếu có, cũng chỉ một vài điểm nhỏ thôi. Nếu họ sớm biết thức tỉnh quyết tâm tẩy trừ thì rất dễ dàng, như chiếc áo trắng vừa vấy vài vết nhơ, giặt tẩy rất mau sạch. Vì thế tuổi thiếu niên rất thích hợp với đức thanh tịnh của đạo Phật.

Chân thật: Đạo Phật là đạo như thật, người tu theo đạo Phật cần phải xa lìa những điều giả dối để trở về với sự thật. Phật cấm nói dối và dạy quán vô thường, bất tịnh, khổ… đều nhắm mục đích này. Tuổi trẻ là ngây thơ chất phác, nghĩ sao nói vậy, nên ít biết dối trá xảo quyệt; nhưng đến lúc thành niên, để bắt chước theo thói xã giao, hoặc vì sự mưu sanh, người ta lần lần tập nhiễm những điều xảo trá và xa dần sự thật. Khi đi xa mà muốn quay về là nhọc nhằn hơn lúc ở gần; vì thế tuổi trẻ còn chất phác, nhiều thành thật, nên rất gần với đạo Phật.

Từ bi: Đạo Phật là đạo Từ bi, là đạo cứu khổ chúng sanh bằng mọi phương tiện và mọi hình thức. Người tu theo đạo Phật là hi sinh đời mình để mưu hạnh phúc cho chúng sanh, và mở tâm lượng bao la trùm tất cả mọi loài trong tình thương bình đẳng. Với tâm lượng ấy, với chí hi sinh ấy, người lưng còng, má cóp có thể đảm đương nổi chăng? Người ốm đau bệnh tật có thể gánh vác được không? Và người thực hiện được điều này có thể gọi là bi quan yếm thế chăng? – Cố nhiên phải là người niên tráng lực cường, thân hình căng đầy nhựa sống, mới đủ khả năng sớt cơm, chia áo và gánh vác những điều khó khổ nhọc nhằn cho chúng sanh. Hơn nữa, tuổi thiếu niên là tuổi phóng tầm mắt nhìn khắp vũ trụ bao la và muốn ôm cả nhân loại vào lòng; nhưng đến khi đã cột mình trong bổn phận làm vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ… thì chí cả ấy bị đóng khung trong gian nhà chật hẹp của gia đình, rồi dần dần nó bị tiêu ma như hạt sương tan theo dưới ánh nắng. Đang khi tâm hồn khoáng đãng của tuổi thanh xuân mà gặp được tình thương vô bờ bến của tâm lượng Từ bi thì, ôi! sung sướng nào hơn nữa?

Tinh tấn: Phật quả là một quả vị vô thượng. Người muốn đạt được quả vị này phải trải lắm công phu nhọc nhằn khổ sở, với thời gian dài đằng đẵng, đâu phải tu một sớm một chiều mà chứng được, trừ những bậc Bồ-tát thị hiện. Công trình tu tập như một bộ hành trèo núi cao mấy mươi cây số; muốn đến được đỉnh, người bộ hành phải giẫm qua lắm đoạn đường chông gai, đá sỏi, vượt qua nhiều vách đá cheo leo và trải qua những đèo cao, hố thẳm, nhiên hậu mới mong ngồi bóng mát trên đầu non chót vót và ngắm xem bức sơn thủy muôn màu ngàn sắc của trần gian. Như vậy, muốn thực hiện được công phu này, phải đòi hỏi ở người có cặp chân cứng rắn, đôi mắt tinh anh, sức lực dồi dào và đủ tinh thần quả cảm. Thanh niên là tuổi máu nóng đang lên, nhựa sống căng thẳng, đời sống còn dài, nên dễ thực hiện được công tác này. Đức Thích-ca ngày xưa nếu đợi sáu, bảy mươi tuổi mới đi tu, chắc ngày nay chúng ta không biết được mùi pháp vị là gì.

Trí tuệ: Đức Phật là đấng đã giác ngộ. Người tu theo đạo Phật là noi theo con đường sáng suốt của Ngài đã qua để đến thành trì giác ngộ. Muốn được giác ngộ cần phải có trí tuệ, vì trí tuệ là ánh sáng quét sạch màn đêm và soi tỏ mọi vật, khiến chúng hiện bày chân tướng dưới mắt người. Tuy nhiên, muốn có trí tuệ ta cần phải có thân hình tráng kiện, như nói: “một tâm hồn sáng suốt trong một thân thể tráng kiện”; hay ngược lại, cũng thế. Như vậy tuổi trẻ rất dễ phát khởi trí tuệ, người già yếu trí tuệ cũng bị ảnh hưởng phải lu mờ. Bằng chứng, cùng một bài học mà người trẻ học mau thuộc, người già học rất lâu. Do đấy nên tuổi trẻ là tuổi rất thích hợp với đạo Phật.

Mặc dù đạo Phật rất thích hợp với tuổi trẻ, nhưng với bậc lão thành, với người khổ sở, với kẻ chán đời… vẫn được đạo Phật tiếp độ. Vì đạo Phật là đạo bình đẳng, giáo lý Phật là giáo lý phổ biến vậy. Mái tóc xanh gần đạo Phật ở đức thanh tịnh… thì người đầu bạc cũng nhờ đức “tín” của đạo Phật mà vui vẻ những ngày tàn. Tuổi hoa niên thể theo đức từ bi mở rộng lòng thương, thì người khổ sở cũng nhờ bàn tay từ bi ấy xoa dịu đôi phần đau khổ. Hàng tráng niên đến với đạo Phật là cầu giác ngộ, cầu thành Phật quả; người chán đời đến với đạo Phật để nhờ câu kinh thâm diệu, nhịp mõ trầm hùng, tiếng chuông cảnh tỉnh mà lần lần cởi sạch mọi nỗi oán hờn.

Tóm lại, đạo Phật là đạo chung tất cả, nhưng thích hợp nhất là tuổi trẻ. Vì tuổi trẻ mới có đủ phương tiện thực hiện triệt để giáo lý cao siêu của Phật, và tuổi trẻ mới đủ bầu nhiệt huyết hăng hái quả cảm trên con đường tự giác, giác tha, dù gặp mọi gian nguy khó khổ. Do đó nên Phật dạy bốn pháp kiên cố đến quả Bồ-đề, “tuổi trẻ biết mộ đạo tu hành” là một trong bốn điều ấy vậy. Tuổi trẻ là tuổi thích hợp với đạo Phật, vậy những bạn thanh niên không nên luống phí thời giờ, phí thời kỳ quí báu ấy, đợi đến khi sức kiệt hơi tàn, có hối tiếc cũng không kịp. Phật dạy: “Ngươi nói: Tôi còn trẻ cần phải chơi bời vui vẻ, đến ngày già sẽ tu. Nhưng cái chết có khác nào kẻ cướp cầm gươm bén theo rình rập ngươi, một miếng mồi ngon của nó; như vậy làm sao ngươi chắc mà đợi đến ngày già đặng đưa tâm trí qua đường Đạo đức!”

(Fo soh hing tsan king)

ĐỨC HỈ XẢ

Sống trên đấu trường nhân loại, trong cõi đời trần tục nhiễm ô, nếu ai cố ôm chặt lòng thù hận chấp nê thì không sao tránh khỏi cảnh lầm than đau khổ. Muốn thoát khổ được vui, con người phải gỡ bỏ những mối dây oán hận, tẩy sạch những vết nhơ ô nhiễm trong cõi lòng mình cho được nhẹ nhàng trong sạch. Phương pháp gỡ bỏ và tẩy trừ ấy là đức hỉ xả.

Hỉ xả là vui vẻ tha thứ những lỗi lầm mà người đã phạm đến ta, cũng như vui vẻ bỏ tất cả danh vọng, tài sắc cho đến thân mạng của ta, nếu thấy cần và lợi ích cho chúng sanh. Có tha thứ, lòng ta mới thênh thang, tim ta mới hòa nhịp cùng tim của mọi người, có xả bỏ, tâm ta mới thanh thoát và an tịnh.

Cuộc đời đen tối và sầu khổ nhất là cuộc đời của kẻ hay cau có, oán thù. Vì kẻ hay cau có thì trên gương mặt luôn luôn hiện đầy những nét nhăn gay gắt, đôi mi chau lại lộ vẻ khó khăn. Kẻ còn ôm nặng khối hận thù thì lửa hận thù thiêu đốt cả tim gan và buồng phổi của họ. Còn gì khổ đau hơn khi tim gan bị thiêu đốt. Còn gì xấu xí bằng khi gương mặt nhăn nhó, héo sầu. Sống trên đời này, nếu ta gặp điều trái ý liền mang lòng thù hận, thì chắc đời ta sẽ thấy toàn thù hận và oán hờn. Như Tý dùng lời thô bỉ mắng Thân, Thân cố trả thù phải dùng lời bỉ ổi hơn, ban đầu còn trả thù nhau bằng miệng, kế trả thù bằng tay chân và sau cùng phải trả thù nhau bằng dao, búa. Khi sơ khởi chỉ là mối thù riêng của cá nhân, rồi lan dần đến mối thù chung của gia đình, của thân tộc. Cứ thế, oán thù chập chùng thêm mãi biết bao giờ dứt. Đức Phật dạy: “Lấy oán trả oán, oán mãi chất chồng; lấy ân trả oán, oán liền tiêu diệt.” Người trong lòng mãi ôm ấp hận thù thì lúc nào cũng tưởng chừng chung quanh đều là kẻ thù muốn hại mình, vì vậy họ sống những ngày đầy lo sợ. Chỉ có ai biết lấy ân trả oán mới mong dứt sạch được hận thù. Như người Đình Trưởng nước Lương trả thù người cào dưa mình bằng cách ra công tưới dưa cho người, nhờ đó mà hận thù dứt sạch.

Còn gì vui sướng hơn, kẻ có tâm lượng bao dung sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm cho người. Khi nào trong lòng ta không còn một mảy may thắc mắc, không còn một chút bợn hận thù, đó là lúc ta hoàn toàn an lạc. Người mà lòng được thanh thoát nhẹ nhàng thì gương mặt vui tươi, lời nói thanh nhã, cử chỉ thư thái, toàn thân hiện ra một phong độ khả ái khả kính. Con người ấy có mấy khi phải buồn khổ, vì thế nên họ trẻ mãi, sống dai. Sách có câu: “Thù ghét là sâu mọt đục khoét người ta, làm cho người ta chóng xấu, chóng già, chóng chết; yêu thương và tha thứ là suối nước cam lồ tưới vào lòng người, làm cho người tươi đẹp, trẻ dai và sống mãi.”

Danh vọng, tài sắc… ở đời là những cạm bẫy chực hại người, nhưng vì nó có công năng hấp dẫn quyến rũ khiến người phải mê mẩn say sưa để rồi chịu khổ, cũng như miếng mồi vì có mùi thơm hấp dẫn, con lươn phải lao đầu vào hom trúm. Phần đông người đời ngỡ rằng đuổi bắt tài sắc, danh vọng… là hạnh phúc, chớ đâu ngờ càng đuổi bắt nó càng chuốc khổ về mình. Đây, một chàng thanh niên ủ dột ngồi dưới lùm cổ thọ, phải chăng chàng đã trật chân trên nấc thang danh vọng? Kia, một thiếu nữ sầu bi đứng dựa mé sông sâu, phải chăng vì tình duyên ngang trái? Tóm lại, bởi đắm nhiễm sắc, tài, danh vọng… người đời phải luống chịu đau khổ.

Dứt bỏ những tham nhiễm là điều không phải dễ, mà dứt bỏ một cách vui vẻ lại càng khó hơn. Nếu ai mắt thấy sắc đẹp, tai nghe tiếng hay… mà lòng không ái nhiễm, ấy là bậc siêu nhân. Ngài Phù Dung thiền sư nói: “… ngộ thanh ngộ sắc như thạch thượng tài hoa, kiến lợi kiến danh như nhãn trung trước tiết…” nghĩa là: “… nghe tiếng hay, nhìn sắc đẹp như hoa trồng trên đá, thấy tài lợi danh vọng như bụi rơi vào mắt…” Con người được như vậy mới hẳn là tự tại an vui. Chúng ta nhìn qua tượng đức Di-lặc sẽ thấy năm đứa nhỏ móc tai, chọc mắt… Ngài, mà trên gương mặt Ngài vẫn nở một nụ cười tự tại. Hình dáng ấy để tượng trưng cho người đã hỉ xả ngũ trần toàn vẹn. Đức Di-lặc không cười sao đặng, vì ngoại cảnh còn gì quyến rũ được Ngài, tâm Ngài lúc nào cũng an nhiên thì quyết định trên gương mặt hẳn luôn luôn hoan hỉ.

Tài, sắc, danh vọng… là vật bên ngoài, xả bỏ không lấy gì làm khó, đến như thân mạng là cái mà người phàm phu tuyệt đối mến yêu, muốn xả bỏ nó thì sự khó khăn lại gấp bội phần. Người đời vì trìu mến thân nên đã gây biết bao tội lỗi, ngược lại:

Bồ-tát vì chúng sanh bỏ thân mạng dễ dàng hơn người tham lẫn bỏ một vắt cơm.

(Luận Đại Trượng Phu)

Người đã quên mình vì chúng sanh thì đối với sự khổ vui còn mất của thân mình không đáng kể, như thế là họ đã vượt khỏi cái khổ vì thân. Lão Tử nói: “Ngô hữu đại hoạn vị ngô hữu thân, ngô nhược vô thân hà hoạn chi hữu.” Thật vậy, nếu không còn thấy có riêng mình thì còn hoạn gì làm cho mình khổ. Vui lòng bỏ thân mạng để cứu độ chúng sanh, đó là đức hỉ xả cứu kính.

Tóm lại, hỉ xả những oán thù cho lòng được nhẹ lòng thanh thoát, đó là cái vui của phàm nhân. Hỉ xả những tài, sắc, danh vọng… cho tâm được tự tại, đó là cái vui của bậc giải thoát. Hỉ xả thân mạng để cứu độ chúng sanh, làm cho tất cả chúng sanh được an lạc, đó là cái vui của bậc Bồ-tát. Người Phật tử quyết tâm dứt khổ tìm vui, phải tu đức hỉ xả theo thứ tự của nó, hỉ xả một phần là chúng ta được vui một bậc. Đến khi nào hỉ xả toàn vẹn rồi là ta được cái vui cứu kính. Như vậy, vui và khổ không phải do ai đem đến hay ban cho, mà chính ta tự tạo lấy.

ĐỨC THANH TỊNH

Muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp mà không lo hoán cải con người, ấy chỉ là việc mò trăng đáy giếng. Nhằm mục đích xây dựng xã hội, đạo Phật bắt đầu hoán cải từng cá nhân, chẳng những trong hạng thành niên, mà đến hàng trẻ thơ non dại. Nền tảng tạo thành một con người tốt đẹp là thanh tịnh.

Thanh tịnh là trong sạch. Trong sạch không có nghĩa thoát ly ngoài cảnh trần tục, mà chỉ ở ngay trong cõi đời ô trược, nhưng không bị nhiễm ô, thế mới thật là trong sạch. Như hoa sen tuy nằm giữa đống bùn nhớp nhúa, mà hương vị vẫn thơm tho. Vì thế khi nói đến đức thanh tịnh, đạo Phật hằng mượn hoa sen để biểu thị. Đức Phật nghiễm nhiên ngự trên đài sen. Muốn thực hiện đức thanh tịnh, người Phật tử tập dần từ thô đến tế, từ cạn đến sâu theo thứ tự: hành động thanh tịnh, ngôn ngữ thanh tịnh, và tư tưởng thanh tịnh.

Hành động thanh tịnh.- Trước nhất người Phật tử giữ gìn thân thể sạch sẽ, sự ăn mặc vén khéo giản dị, cho đến khi đi đứng phải đoan chánh; tránh mọi xa hoa, phù phiếm và vô độ. Mặc một bộ đồ bóng dợn, ướp nước hoa nồng nặc… cử chỉ ấy, đối với người Phật tử vẫn thấy không thanh tịnh chút nào.

Người Phật tử lập đức thanh tịnh, không bao giờ ỷ tài năng thế lực đánh đập, lấn hiếp người hay vật khi thấy họ thân cô, thế quả. Càng tránh xa hơn, đối với sự giết hại dù con vật nhỏ bé vô cớ, người Phật tử không nỡ giết. Vì đó là hành động xấu xa. Cho đến một cái nhìn ngạo nghễ, một cử chỉ khinh khi, người Phật tử cũng không khi nào có. Bởi vì một hành động xấu xa dù lớn, dù bé cũng có thể làm hoen ố đời trắng trong của người Phật tử. Họ tránh xa những cử chỉ xấu như người hiền tránh xa những đám ẩu đả và đôi chối.

Những hành động bạo ác, người Phật tử không bao giờ làm, nhưng với cử chỉ lành, hành động tốt, họ tích cực hoạt động. Vì hành động thanh tịnh không phải chỉ bảo thủ riêng mình mà phải cứu giúp nâng đỡ mọi người. Bởi thế nên bàn tay Phật tử lúc nào cũng chực vuốt thẳng những nét nhăn trên trán cho kẻ thảm sầu, thoa dịu những vết thương cho người đau khổ và lau khô dòng lệ lăn trên má của cô nhi… Bàn tay ấy sẽ mở lồng cho đàn chim sắp bị nhổ lông được vỗ cánh tung bay về bầu trời cao rộng, vỗ về một con vật bị người hành phạt đau thương, cho đến lượm gai trên đường rộng và nhặt đá trên lộ quan… Tựu trung, mọi hành động trên đều nhằm mục đích cứu người, cứu vật.

Ngôn ngữ thanh tịnh.- Lời nói là một lợi khí rất sắc bén, nó có thể giết người, giết mình một cách dễ dàng, nếu là lời nói ác. Nên Phật dạy: “Người đời luỡi búa bén nằm sẵn trong miệng, sở dĩ giết mình do lời nói ác.” Lời nói ác không chỉ mắng chửi, trù rủa… mà là nói lời ngọt như đường, êm như nhạc, nhưng để lừa bịp người, cũng là nói ác. Lời nói ác tức là bất tịnh, ô uế, nên người Phật tử không bao giờ để nó thốt ra nơi cửa miệng mình. Nếu lỡ vô tình hay bại trận vì cơn nóng giận đã thốt ra những lời thô ác, người Phật tử lấy làm nhục nhã, xấu hổ, phải chí thành sám hối và tuyệt đối không dám tái phạm.

Lời nói có thể là lưỡi kiếm bén giết người nếu trong tay kẻ bạo ác, thì nó cũng có thể là cây đuốc sáng đưa người ra khỏi rừng mê, hay hoàn linh đơn cứu người trong cơn bệnh ngặt nếu trong tay nhà đạo đức, kẻ từ tâm. Vì thế người Phật tử cấm chỉ nói lời thô ác, nhưng thao thao nói những lời hiền hòa, êm dịu và chân thật. Rất cần những lời nói hiền hòa để khỏa bằng hầm hố thù hiềm đã đào sâu giữa mình và người, hoặc người với người. Có những lời êm dịu, ta mới khuyên lơn được những người uất hận khi gặp cảnh nghịch lòng, kẻ thất chí vì tình đời phụ bạc và tát vơi được phần nào nguồn lệ thảm của người tật nguyền, khốn khổ… Nhờ lời nói chân thật mới xiển dương được chân lý và vạch rõ lẽ chánh tà. Tóm lại, tất cả lời nói có tánh cách giúp ích người, có lợi cho xã hội đều là lời thanh tịnh, người Phật tử phải hằng tập và nói những lời ấy.

Tư tưởng thanh tịnh.- Động cơ chánh gây nên tội ác, hoặc khiến đời sống con người phải ngầu đục, nhớp nhơ trong biển sanh tử là tư tưởng; ngược lại, tạo vô lượng phước đức đưa con người đến quả thanh tịnh giải thoát cũng do tư tưởng. Tư tưởng thủ một vai trọng yếu nhất trong đời người. Người nên, hư, tốt, xấu, tiến, thối… đều do tư tưởng quyết định. Vì thế người Phật tử phải gạn lọc đào thải những tư tưởng xấu, tăng trưởng những tư tưởng tốt, để tâm hồn được thanh tịnh.

Muốn đào thải những tư tưởng xấu, ta phải anh dũng chiến thắng bọn giặc tham lam, sân hận, tự ái, ngã mạn…, xua đuổi chúng ra ngoài tâm giới ta. Bọn chúng được kêu một danh từ gọn hơn là “phiền não”, ngày nào bọn phiền não còn lẫn trong tâm ta, thì ngày ấy trí ta rối loạn, tâm ta vẩn đục. Phiền não là sóng, là cấu bợn, mà tâm là nước. Sóng dừng, cấu bợn lặng, tức là tâm nước trong. Sự ngầu đục trong tâm hồn ta bởi phiền não tạo nên, ta có thể dùng một vài bằng chứng để minh xác nó. Một tên bợm móc túi, sở dĩ dám thò tay móc túi người trước “thập mục sở thị” là vì nó chỉ thấy có tiền… hay nói bằng cách khác, nó trở thành tôi mọi của lòng gian tham sai sử. Nên chi lúc ấy, nó có thấy gì tù tội, biết gì xấu xa! Một bằng chứng nữa, khi ta gặp cảnh nghịch ý, cơn giận dữ nổi lên, khi đó ta còn đủ lý trí suy xét phải quấy nữa chăng, hay mặc tình để cho con quỉ giận dữ thúc đẩy? Nếu còn suy nghĩ kịp thì cơn giận tan, bởi đã nô lệ bọn quỉ sân hận, nên mới xảy ra cuộc xô xát bằng miệng, bằng tay. Người Phật tử muốn gạn lọc tư tưởng thanh tịnh quyết phải quả cảm, tích cực thanh trừng bọn giặc phiền não còn trú ẩn trong tâm mình.

Chẳng những thế, Phật tử cần tăng trưởng tư tưởng từ bi hỉ xả. Tâm ta chẳng khác một mảnh đất mầu mỡ, nếu không có lúa khoai thì cỏ dại mọc. Cũng thế, khi ta nhổ hết cỏ dại phải giâm giống lúa khoai, nếu để đất trống thì cỏ sẽ mọc lại. Trong khi cực lực chiến đấu với những phiền não, Phật tử không quên tăng cường tâm từ bi, hỉ xả… vì đó là nước cam lồ để gột rửa những nghiệp cấu bợn phiền não đang khắn chặt trong tâm hồn ta. Và nó cũng là đám mưa tưới mát muôn loài đang bị lửa phiền não thiêu đốt.

Tóm lại, trong ba món thanh tịnh, tư tưởng là quan trọng hơn cả, do đó người Phật tử tu đức thanh tịnh, xem tư tưởng là phần thiết yếu nhất, gạn lọc tư tưởng thanh tịnh rồi, ngôn ngữ, hành động tùy đó mà thanh tịnh. Như nước ở hồ lọc trong rồi, khi mở vòi nào cũng đều chảy nước trong cả.

Con người thanh tịnh hoàn cảnh cũng thanh tịnh.- Một khi thân tâm ta thanh tịnh, hoàn cảnh sẽ tùy thuộc thanh tịnh. Hoàn cảnh không nhất định tốt, xấu, nhơ, sạch tùy hành động tư tưởng con người mà chuyển theo. Một nhóm người văn minh trí thức dù ở nơi thôn dã hoang vắng, nhưng một thời gian cảnh ấy sẽ trở thành tốt đẹp, thị tứ. Trái lại, một bọn người rừng chẳng hạn, cho ở giữa đô thành hoa lệ, một thời gian đô thành ấy sẽ biến ra cảnh nhớp nhúa xấu xa, nếu họ không được cải thiện… Bởi thế, đạo Phật muốn cải thiện xã hội, cải thiện quốc gia trước tiên phải cải thiện con người. Muốn cải thiện con người, đầu tiên phải cải thiện tư tưởng. Như vậy tư tưởng, ngôn ngữ và hành động con người thanh tịnh thì chính cõi Ta-bà này đã thành Tịnh độ rồi, hay thế giới này chính là thế giới Cực Lạc vậy. Ta muốn sanh về Tịnh độ, thì chính ta phải thanh tịnh trước đã. Kinh có câu: “Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây phương.” Nghĩa là: “Thân, miệng và ý hằng trong sạch, sẽ đồng như chư Phật sanh về cõi Phật.” Thế mà, có một số người ước mơ sanh về cõi Cực Lạc mà miệng vẫn nói ác, tâm vẫn tham, giận… thật là trái lẽ. Tu bằng cách đó chỉ làm trò cười cho thiên hạ mà thôi. Người Phật tử chân chánh không mơ ước gì hơn, ước mơ con người mình được thanh tịnh, không tranh đấu nào bằng tranh đấu với phiền não ở nội tâm. Thắng được phiền não, toàn thân đều thanh tịnh, thế là vạn vật tùy tâm, sống một cuộc đời tự do tự tại.

Từ trên đến đây, đã thấy đức thanh tịnh là căn bản của người tu Phật, chẳng những căn bản của người tu, mà đức thanh tịnh cũng là cội nguồn của một xã hội văn minh; văn minh đúng với thật nghĩa của nó. Cho nên, bất luận trong đạo, ngoài đời nếu ai muốn cải thiện đời mình, cải thiện xã hội đều phải tu tập đức thanh tịnh cả… Nhưng gần nhất và cần yếu nhất là Phật tử, đã biết đi chùa, lễ Phật nghe kinh mà không áp dụng triệt để đức thanh tịnh vào đời sống của mình, thật là phản bội với tên Phật tử.

ĐỨC TINH TẤN

“Tinh” là chuyên, là thuần, “tấn” là tiến tới. “Tinh tấn” là chuyên cần tiến tới theo một chiều hướng tốt đẹp, lợi ích, sáng suốt và an vui. Người Phật tử tu đức tinh tấn là tiến mạnh, tiến mãi trên con đường từ bi xa thẳm, dưới ánh sáng mặt trời giác ngộ. Đức tinh tấn là một sức mạnh cả quyết, quả cảm, quét sạch, dẹp tan mọi trở ngại, mọi khó khăn để tiến tới mục đích tự lợi, lợi tha viên mãn. Nếu thiếu đức tinh tấn, con người sẽ là cánh bèo bấp bênh ngoài bể cả, là chiếc lá rơi lảo đảo theo chiều gió đưa!

ĐỨC TINH TẤN CẦN THIẾT CHO CON NGƯỜI

Em là một học sinh, buổi tối nọ gặp bài khó, em ngồi đọc năm bảy lượt mà không vô đầu. Thối chí, em vươn vai vài cái, rồi ngáp! Thế là con ma lười biếng sáp nhập vào người em. Khi ấy nếu em không biết dùng ngọn roi thần “tinh tấn” đánh đuổi nó ra, em xếp tập lại, đi xổ mùng xuống rồi đánh ngon một giấc tới sáng. Thế là ngày mai, em phải bị thầy giáo quở phạt, chúng bạn chế nhạo. Một lần em đầu hàng ma “lười biếng”, nhiều lần cũng thế, tức là đời em sẽ đi lần đến chỗ hư!

Em là một Phật tử, hôm nay ngày chủ nhật, đúng 7 giờ em phải đi họp tại chùa, nhưng em nhớ những giờ lễ Phật phải quì, đứng trang nghiêm, giờ học giáo lý buồn buồn, em nghe hơi chán. Bỗng thằng Hỉ nhà bên cạnh lại rủ em đi xem chiếu bóng. Nó bảo: Sáng nay có xuất đặc biệt vào lúc 8 giờ, cuốn phim mới, hay, cười nôn ruột… Nếu không biết áp dụng đức tinh tấn vào lúc này, em sẽ theo bạn đi xem chiếu bóng. Đó là em đã bị con quỉ “phóng túng” nhập xác và làm chủ em. Chủ nhật này em trốn, chủ nhật sau em lấy cớ nghỉ luôn… như vậy đời em dần dần sẽ xa lần ánh sáng đạo đức, mà bước gần về bóng tối trụy lạc!

Ngoài ra, bác nông phu không tinh tấn là bỏ bê việc đồng áng. Anh công nhân không tinh tấn sẽ bị chủ đuổi có ngày. Một kỹ nghệ gia thiếu tinh tấn thì sự nghiệp không thành v.v… và v.v…

KẺ THÙ CỦA TINH TẤN LÀ MA “LƯỜI BIẾNG” VÀ QUỈ “PHÓNG TÚNG”

Con ma “luời biếng” nhập vào ai, người ấy tốt trở thành xấu, hay hóa ra dở, hiền lành trở nên hung dữ, sáng suốt biến thành ngu mê… Ngược lại, tinh tấn đến với ai, kẻ ấy hư hóa nên, xấu trở thành tốt… Nên tinh tấn và lười biếng chống nhau như tối và sáng, như trắng với đen. Có tinh tấn là không lười biếng, ngược lại cũng thế. Do đó, nên khi nào con ma lười biếng muốn nhập vào ta, ta phải cấp bách lấy roi thần tinh tấn mà trừ nó. Vừa thấy ngọn roi tinh tấn, bọn ma lười biếng đã chạy bay hồn.

Con quỉ “phóng túng” lại càng nguy hiểm hơn. Chúng lôi người xuống hố trụy lạc, thúc đẩy người chạy rong trong rừng ngũ dục và sau cùng chúng dìm người trong bể trầm luân kiếp kiếp đời đời. Ngược lại, “tinh tấn” là cái móc kéo người lên khỏi hố trụy lạc, là kim chỉ nam hướng người trở về con đường sáng suốt, khỏi lạc trong rừng ngũ dục, là chiếc thuyền vớt người khỏi bể trầm luân và đưa lên bờ giải thoát. Vì thế, chúng đố kỵ nhau, không bao giờ chúng gặp. Nếu ai rước thần “tinh tấn” đến, thì “phóng túng” lánh xa, ngược lại cũng thế.

TẠI SAO TA PHẢI TINH TẤN?

– Chiếc thuyền người của chúng ta muốn về đỗ bến người và vượt lên bến Hiền, Thánh. Nhưng nó đang bị dòng nước lười biếng cuốn mạnh, ngọn gió phóng túng thổi đùa bấp bênh, sắp trôi về bể vô nhân phẩm. Nếu chúng ta không chuyên cần, không nỗ lực chèo chống nó về hướng đã định, thì nó sẽ chơi vơi phiêu bạt không bến đỗ, không chỗ nương, rồi một ngày kia đinh lay, ván mục, nó phải chìm lịm dưới đáy bể hư hèn. Ôi, còn đau đớn nào hơn, một kiếp người không định hướng! Vì thế, chúng ta phải tinh tấn và tinh tấn mãi mãi! Mỗi khi nhìn xuống con sông Cửu Long, thấy hình ảnh người chèo thuyền ngược dòng, trái gió, chúng ta nhớ đến đức tinh tấn, nguyện tiến mãi không ngừng.

TINH TẤN LÀ MỘT NGHỊ LỰC

Trên đường thiện đâu phải toàn hoa và bướm mà rất nhiều hầm hố, chông gai; nếu người không quyết tâm dũng tiến rất dễ ngã lòng lùi bước. Em đã sống trong gia đình một hoặc vài năm, em đã thấy những trở ngại khó khăn trong việc hành đạo. Nhưng nếu em là một Phật tử chân chánh, em luôn thực hành theo hạnh tinh tấn, thì những cái trở ngại ấy, em thấy không đáng kể. Đức Thích-ca ngót mười năm tìm đạo mà chưa toại nguyện, một hôm đến dưới cội bồ-đề, Ngài chỉ cội cây mà cả quyết rằng: “Ngồi dưới cội cây này nếu tìm không được đạo, thì dù xương ta tan, thịt ta nát, ta nguyện không rời khỏi chỗ ngồi này!” Do sức cả quyết ấy, hay do đức tinh tấn đó, sau bốn mươi tám ngày, Ngài chứng thành đạo quả. Mỗi khi bị con ma lười biếng cám dỗ, con quỉ phóng túng rủ ren, các em nên theo gương đức Thích-ca mà cả quyết rằng: “Trên đường đạo, đường thiện, dù tan thân mất mạng, ta không hề lùi bước!” Các em cương quyết được như vậy, bọn ma lười, quỉ phóng túng phải khiếp đảm le lưỡi chạy dài. Hằng ngày tập được đức tinh tấn mãnh liệt ấy, các em sẽ thấy giữa đời không có việc gì khó. Các em “muốn là được, quyết là thành”. Ðời các em sẽ có nghị lực phi thường, không còn nhút nhát, hồi hộp, nghi ngờ như khi xưa nữa.

KẾT QUẢ CỦA TINH TẤN

Phàm cái gì hễ có đi là phải có đến. Mà tinh tấn là tiến tới theo chiều hướng tốt đẹp, lợi ích và an lạc, nên kết quả của nó cũng toàn tốt đẹp và an lạc. Em học trò tinh tấn sẽ thành tài đạt đức. Người làm thợ tinh tấn sẽ trở thành một tay kỹ xảo. Phật tử hằng tinh tấn sẽ được đức hạnh đầy đủ, phước tuệ viên thành. Tóm lại, tất cả sự thành công trên đường tu thân sửa mình, trong việc thiện đều do tinh tấn quyết định. Bao nhiêu vị Hiền Thánh, bao nhiêu bậc giác ngộ đều do lò tinh tấn đúc nên.

Tóm lại, từ trên đến đây, các Phật tử đã thấy tinh tấn là then chốt của đạo làm người, của đạo từ bi. Tinh tấn là một sức mạnh, là sự định đoạt đời người trên đường vinh quang, trong bầu không khí ngát hương thanh tịnh.

NGƯỜI TU PHẬT PHẢI LÀ

KẺ CHÁN ĐỜI CHĂNG?

Có một số người muốn lên án đạo Phật, không biết gì hơn, họ muợn danh từ “chán đời” gán vào đạo Phật. Thế rồi họ oang oang lên rằng người tu là kẻ “chán đời”, đạo Phật là đạo “chán đời”… Phản ứng lại, một số Phật tử nồng nhiệt bênh vực đạo, cực lực phản đối và đính chánh: “Người tu là yêu đời…” Chúng ta hãy gạt ngoài tình cảm, lấy lý trí xét đoán thử người tu Phật phải là “chán đời” không?

Trước ta hãy định nghĩa “chán đời” là thế nào? – Theo nghĩa thông thường mọi người hiểu, “chán đời” là kẻ không bằng lòng xã hội thực tại.

Có hai hạng “chán đời”. Một hạng, vì không thỏa mãn tham vọng, bất lực trước cảnh trái nghịch đâm ra chán ghét xã hội. Một hạng vì thấy sự mục nát của xã hội, đủ khả năng cải đổi, nên chán cái cũ, xây dựng cái mới. Tỉ dụ: Có một cái nhà mục nát hư rách và bẩn thỉu, nắng không có chỗ ẩn, mưa không chỗ đụt, lại hôi hám thối tha. Trong nhà ấy có ba người ở. Người thứ nhất thì luời biếng, cho rằng số kiếp đã định, phải sao chịu vậy, rồi cứ đùa giỡn say sưa với cảnh đen tối ấy. Người thứ nhì, mỗi khi bị gió lồng mưa lọt thì chặc lưỡi hít hà, đâm ra căm tức muốn xô cho ngã, đập cho tan cái nhà oan nghiệt này, mà trong tay không có một đồng xu, một cây tre, một miếng lá… Người thứ ba nhận rõ sự khổ sở, sự bẩn thỉu, không cam chịu sống mãi trong cảnh tủi cực này, nhất định thay đổi cái nhà mục nát nhớp nhúa bằng cách dành dụm tiền, tìm vật liệu để xây dựng lại chắc chắn tốt đẹp, cho mình và anh em mình ở khỏi khổ. Ba anh em trong nhà này, là đại biểu ba hạng người trong xã hội. Người thứ nhất là hạng người chạy theo dục lạc, không có một ý niệm gì về cuộc đời cả. Người thứ hai là hạng người chán đời, vì không thỏa mãn tham vọng và bất lực. Người thứ ba là hạng người tinh tấn, thấy sự mục nát của xã hội, chán cái cũ, xây dựng cái mới.

Hạng người chạy theo dục lạc: Họ nói là yêu đời, kỳ thật họ chỉ yêu dục lạc mà thôi. Vùi mình trong dục lạc, họ chỉ sống có ngày nay mà không có ngày mai. Họ nhìn đời qua lớp sơn bên ngoài, nên say sưa mê mệt. Nếu ai nói cái gì khác hơn sự hưởng dục lạc, họ không ngần ngại gán cho danh từ “chán đời yếm thế”. Ai khuyên họ làm lành lánh dữ, họ chế nhạo là lên mặt “thầy đời”. Thấy ai khổ sở khuôn mình trong đạo đức, họ cười là bọn “dại khờ”… Mục đích của họ không ngoài thỏa mãn dục vọng nhất thời. Giá trị của họ là hưởng được nhiều khoái lạc. Bởi thế, nên cái nhìn, cái nghĩ của họ không quá một tấc, một gang. Và suốt đời không làm gì khác hơn là lo cho thằng người của họ. Thế mà, gặp ai họ cũng vỗ ngực ta đây là yêu đời. Hai tiếng “yêu đời” là cái bia danh dự nhất, để họ nêu lên trước quần chúng.

Hạng người chán đời vì không thỏa mãn tham vọng và bất lực: Hạng người này nhìn đời bằng cặp mắt oán ghét, cuộc đời toàn xấu xa bỉ ổi, mọi người trong xã hội là kẻ thù của họ. Vì thế, họ muốn trốn một nơi nào, mà không có người bén mảng đến. Tại sao có quan niệm này? – Bởi vì:

– Hoặc họ là người đã đổ bạc vạn để mua chức quan (theo thời mua quan bán tước) mà không đắc cử. Tiền đã sạch, của đã không thì còn gì mà không chán ghét xã hội.

– Hoặc họ là một quan chức bị thải hồi. Khi xưa ra đường có kẻ võng người hầu, mà nay chỉ chiếc gậy quéo với cặp chân trần, thì tài nào họ không chán đời khinh bạc.

– Hoặc họ là một thí sinh, bao nhiêu sanh lực đều dồn vào sự học; đến năm thi, đặt hết hi vọng vào cái cấp bằng để có sở làm, được cơm no áo ấm, thế mà thi trượt! Trượt một lần, hai lần… mắt họ đã hoa, nhìn trước cả một bầu trời đen tối.

– Hoặc họ là người đang nặng lời biển hẹn non thề; bỗng không, ai đành ăn nguyền nuốt hẹn, để họ sớm hờn duyên, chiều tủi phận. Lòng uất hận tràn trề, họ thiếu suy xét, lầm tưởng mọi người đều xấu xa hèn mạt…

Tóm lại, vì không thỏa mãn dục vọng, công danh v.v…  nên đâm ra chán ghét đời. Những người này, không phải sẵn lòng chán đời, bởi họ tham cầu những cái gì trên đời mà không được, nên sanh hờn ghét. Nếu những điều họ muốn mà được như ý, thì họ còn mê đời hơn ai nữa.

Hạng người chán đời vì thấy xã hội mục nát, quyết thay cũ đổi mới: Hạng người này lòng thương không bờ bến, nhìn thấy sự lầm than đen tối của đồng bào, của nhân loại, quyết hi sinh đời mình để khỏa bằng những hầm hố chông gai, đưa nhân loại đến nơi vinh quang an lạc. Những vị điển hình của hạng người này:

Đức Khổng Tử, vì chán cái xã hội mục nát của thời Xuân Thu nên quên nhọc nhằn, nay ở Lỗ mai về Vệ cho đến Tống, Trần… và chịu vất vả ngồi dạy học trò, biên chép kinh sách để mong vãn hồi Nhân đạo.

Đức Jésus Christ, vì chán sự cai trị khắc nghiệt của người La Mã, chế độ giai cấp bất công của đế quốc Do Thái, nên không nệ vào tử ra sanh đi giảng đạo Bác ái.

Ông Tôn Văn, vì chán cái xã hội hủ bại của nhà Thanh, nên mới vận động cách mạng khởi nghĩa năm 1911 để thành lập Tam dân Chủ nghĩa.

Đức Thích-ca, vì chán giai cấp bất bình đẳng của Ấn Độ thời ấy, chán lòng sân hận thù oán của loài người, chán cái si mê mù mịt của chúng sanh, nên vất bỏ cả ngai vàng ngôi báu, lìa vợ đẹp con yêu, ngót mười một năm tìm đạo trải qua ngàn vạn hiểm nguy. Sau khi đã thấy đạo, được phương pháp cứu khổ chúng sanh, Ngài dãi dầm sương nắng ngót bốn mươi chín năm, đem tinh thần bình đẳng thay cho giai cấp bất bình, lấy từ bi thay cho sân hận oán thù, dùng trí tuệ thay cho si mê mù mịt. Thế là, Ngài đã cải thiện xã hội bất công đen tối của loài người, trở thành xã hội lành mạnh tốt đẹp cho toàn thể dân sanh.

Tóm lại, sống trong cảnh khổ mà không tự biết, cứ say sưa theo dục lạc khói mây là kẻ mù quáng. Ôm lòng tham trèo lên cây thang danh vọng, tài, sắc… rủi trượt chân đổ ngã, dập đầu toác trán, mới nhận ra nỗi khổ, nhưng chỉ biết kêu khóc, oán hờn là kẻ khiếp nhược. Nhận chân sự khổ rồi đem hết khả năng hoán cải xây dựng biến khổ trở thành lạc là bậc Thánh nhân, là người giác ngộ. Như thế, ta ngại gì không dám thừa nhận người tu là “chán đời”, đạo Phật là “đạo chán đời”. Chán để xây dựng, để đem hạnh phúc cho chúng sanh; chớ không phải chán để khóc than, thù hận như họ lầm hiểu.

THẾ NÀO LÀ ANH HÙNG?

… Chí những toan xẻ núi lấp sông,
Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ…

Nguyễn Công Trứ

Bạn là một thanh niên, bạn có chí khí anh hùng, và bạn tưởng tượng bạn sẽ là anh hùng. Vâng! Bạn sẽ là anh hùng. Nhưng phải làm thế nào để thành một “anh hùng thật sự”. Tôi nói anh hùng thật sự, để bạn khỏi lầm những anh hùng chỉ có tên, có tiếng, có oai ở bên ngoài.

Để dễ bàn luận, chúng ta cần hiểu nghĩa căn bản của hai chữ anh hùng. Anh hùng là gì? – Anh hùng là người tài năng xuất chúng, công to, đức cả khiến mọi người đều kính phục.

Thế mà giữa xã hội này, mỗi người quan niệm anh hùng theo mỗi cách. Do đó nên khi ngồi chung nhau thảo luận, thì mỗi người đều tự vỗ ngực xưng ta đây là “anh hùng”.

Bác Phó vào xóm rượu trà, cờ bạc tiền lưng hết sạch mà lại say sưa, ngã bờ té bụi. Về nhà vợ con cằn nhằn, bác lại nổi giận đùng đùng, trợn mắt phùng mang, đánh đập vợ con chạy tứ tán. Ra oai như vậy, bác thấy bác là anh hùng.

Anh Hảo, trước mặt các cô thiếu nữ, anh vãi tiền như cát để mua một trận cười. Và lúc đó, nếu có ai bình phẩm hành động cuồng dại của anh, anh quyết một mất một còn tranh hùng với kẻ ấy, để cho những nàng tiên kia thấy chí khí và tài năng của anh. Ở trường hợp này, anh xem mạng sống nhẹ hơn bong bóng. Và dù phải lao mình vào hang beo, miệng cọp, anh cũng coi thường. Vì anh cho làm được như thế là anh hùng.

Ông Bạo, vì tranh hơn thua việc làm ăn với bạn đồng nghiệp mà sanh cãi vã, ông nổi nóng chạy về nhà lấy bù lon, đến đập vào đầu người kia phun máu, rồi ông phải ngồi khám. Làm được vậy, ông cũng tự đắc mình là anh hùng.

Cậu Tài, đắm mê tửu sắc, bỏ học hành, bị cha mẹ rầy mắng. Cậu tìm dao đâm họng tự tử. Thái độ đó, cậu thấy rất là anh hùng… Tóm lại, trong xã hội có vô số bọn “anh hùng rơm” như vậy.

Đến những kẻ có chút gan dạ, nhân thời loạn lập bè, kết đảng, cậy thế, ỷ quyền, tự xưng hùng, xưng bá, may ra được lúc đắc thời, đắc thế, họ sẽ vỗ ngực xưng ta đây là anh hùng. Đó là nhóm “anh hùng thời cuộc”.

Sức mạnh của Lý Ngươn Bá, chuyển cặp chùy gần như lay trời, động đất, một tiếng hét muôn quân đều cúi rạp. Nhưng vì một cơn phẫn nộ không đâu, ông ném cặp chùy để tự sát. Tài cao chàng Lữ Bố, trước vạn quân không hề nao núng, giết kẻ địch như lấy đồ trong túi, thế mà vẫn đắm đuối vì sắc đẹp của Điêu Thuyền… Chinh phục hằng mấy triệu người, nhưng phải phủ phục trước một mỹ nhân, hay cơn phẫn nộ, là hạng “anh hùng sức khỏe”.

Lấy tiết nghĩa làm mục tiêu, giàu sang không thay lòng, lâm nguy không nhụt chí, thành công mà mất tiết nghĩa không màng, vong thân mà còn tiết nghĩa mới toại, đó là hạng anh hùng tiết nghĩa. Người điển hình cho hạng anh hùng này, ta thấy có Quan Vân Trường thời Tam quốc Trung Hoa. Vân Trường lúc ở với Lưu Bị cũng như khi về với Tào Tháo, lòng vẫn không đổi thay. Đánh với Huỳnh Trung trăm hiệp không phân thắng bại, khi ngựa sẩy chân ném Huỳnh Trung xuống đất, Ngài liền dừng đao, không giết kẻ sa cơ. Tào Tháo là kẻ thù nguy hiểm, mà lúc thất thế lội bộ trong nẻo Huê Dung, Ngài cam chịu tội, để tha người cùng lộ. Cho đến đi đường cái, về đường cái, thà chết chớ không khiếp nhược. Những cử chỉ ấy, những thái độ ấy, Ngài đã hiển nhiên thành một vị anh hùng của Á Đông. Nói về khỏe, Ngài đâu hơn Lữ Bố; nói về trí, Ngài sao bằng Khổng Minh. Thế mà, mọi người đều sùng thượng Ngài là vị Thánh, kính cẩn tôn thờ Ngài. Ngài là một vị anh hùng bất tử trong hiện tại cũng như suốt vị lai. Trong bài ca khen Ngài có câu:

… Trung nghĩa tham thiên địa. Anh hùng quán cổ kim…

Ngài chỉ tiết chế phần nào lòng tham, để đưa đời Ngài đi theo chánh nghĩa, mà được mọi người quí chuộng dường ấy; huống nữa, người tiết chế toàn vẹn tham, sân, si để đem đời mình phụng sự cho nhân loại, thì cao quí biết ngần nào!

Lão Tử nói: “Thắng nhân giả lực, tự thắng giả cường.”

Thật vậy, thắng người chỉ là vấn đề sức khỏe hay mưu chước xảo quyệt. Anh yếu tôi mạnh, tôi có thể lấn át được anh; anh thật thà chất phác, tôi mưu thần chước quỉ, tôi sẽ hơn được anh. Nhưng đó chỉ là vấn đề bên ngoài. Về nội tâm, một lần tôi hơn anh, là một lần tôi đã thua tôi. Vì anh yếu, tôi mạnh, tôi ỷ sức mạnh hiếp người yếu, đó là lòng “khinh mạn” đã làm chủ tôi. Anh thật thà, tôi xảo quyệt, ý trí khôn xảo của mình, tôi lường gạt anh, là tôi đã làm nô lệ cho lòng “tham lam”. Tôi lấn át, lường gạt anh, anh thua tôi nhưng chưa hẳn là anh phục tôi. Để lòng “khinh mạn”, “tham lam” làm chủ, tôi đã thật sự đầu hàng nó. Vì thế, thắng người chưa phải là mạnh.

Thắng mình mới thật mạnh; trước một vẻ đẹp yêu kiều, bạn giữ lòng không xao xuyến. Sắp nắm trong tay một mối lợi khổng lồ nhưng không hợp đạo nghĩa, bạn bỏ qua không chút hối tiếc. Đời bạn hoàn toàn trong sạch mà bỗng nhiên một đứa thất phu vô cớ thóa mạ bạn, lúc đó bạn vẫn giữ lòng an tịnh không chút rạo rực… Những việc đó bạn nghĩ có dễ làm chăng? Người tầm thường có thể làm được không? – Chắc bạn cũng đồng ý như tôi, người thắng được lòng mình một cách quả cảm, đòi hỏi phải có một nghị lực phi thường, một bản lĩnh xuất chúng. Vì thế, người thắng được lòng mình mới thật là người mạnh.

Đây tôi giới thiệu bạn một phương pháp làm “anh hùng thật sự”, “anh hùng muôn đời”. Muốn làm vị anh hùng này, trước bạn phải tập tu đức nhẫn nhục. Nghe nói đến nhẫn nhục, bạn đã bật cười!… Khoan! khoan! Bạn đừng cười vội. Tôi biết bạn sẽ bảo: “Tôi thanh niên đâu phải như những ông già bạc nhược, mà mỗi cái bảo phải nhẫn nhục.” Vâng! Bạn là thanh niên, nhưng bạn đừng lầm hiểu nhẫn nhục là hèn yếu khiếp nhược. Nhẫn nhục là một “khả năng chịu đựng”. Có chịu đựng được mọi thử thách, mọi thống khổ, mọi bực dọc… người ta mới giàu nghị lực, mới đủ kinh nghiệm, mới tiến lên bậc Hiền Thánh và xứng đáng là anh hùng.

Một em bé ôm tập đến trường, nếu không chịu đựng nổi sự rầy phạt của ông thầy, em có thể biết chữ chăng? Một nhà thương mãi, nếu không chịu đựng được tiếng chê khen của khách hàng, những lỗ lã, nhà thương mãi ấy có làm giàu được không? Một kỹ nghệ gia, nếu không chịu đựng được sự hư hao thất bại, sự thắc mắc của nhân công, có thể lập nên những xí nghiệp vĩ đại chăng?… Tóm lại, ở giữa xã hội này, trong mỗi ngành, mỗi nghề, nếu người không có sức chịu đựng, thì không làm được việc gì cả.

Chịu đựng được ngoại cảnh chưa phải khó, chịu đựng được nội tâm mới thật ngàn lần khó hơn. Tôi đang ngồi chơi, vô cớ một người đến thóa mạ tôi. Khi ấy, tôi chửi mắng lại họ là khó? Hay tôi giữ lòng phẳng lặng không cho cơn giận dấy lên là khó? Người chửi mình, mình chửi lại, việc ấy trẻ con lên ba cũng thường làm. Người chửi mình, mình vẫn giữ thái độ bình thản, lòng không rạo rực, mới thật khó. Điều này, chỉ những bậc Thánh nhân, những hạng anh hùng mới làm được. Muốn làm anh hùng, bạn phải làm những việc các bậc anh hùng đã làm. Còn việc hằng ngày của trẻ con ấy, bạn nên tránh xa; nếu bạn làm theo, bạn đã trở thành trẻ con nốt!

Chắc bạn sẽ băn khoăn hỏi tôi: Tại sao các bậc Thánh nhân chịu đựng được những cái khó chịu đựng ấy? – Thưa bạn! bởi các ngài dồi dào nghị lực, sáng suốt nhận định lẽ phải nên chịu đựng rất dễ dàng. Bằng chứng, đức Thích-ca một hôm đang giảng đạo, bỗng một kẻ ngoại đạo đến nhục mạ Ngài. Ngài yên lặng không đáp, gương mặt tươi tỉnh như không. Nói mà không người đáp, khác nào nhóm lửa giữa hư không, kẻ ngoại đạo bực tức hỏi Ngài: “Tại sao tôi nhục mạ ông, mà ông không trả lời?” Phật ung dung đáp: “Này ngươi! Ngươi đem một món quà đến cho ta, ta không nhận, món quà ấy về ai?” Người ngoại đạo đáp: “Tôi cho ông, ông không nhận là về tôi.” Phật bảo: “Cũng thế, ngươi nhục mạ ta, ta không nhận thì ngươi tự chuốc họa vào mình.” Một hôm đi dạo phố, bạn gặp người điên rượt đánh bạn. Trường hợp đó, bạn nghĩ sao? Đánh lại họ chăng, hay chạy tránh họ? – Nếu bạn nhận bạn là người trí, bạn chỉ yên lặng lánh xa họ. Vì họ đã là điên mà mình chống cự họ, mình cũng điên nốt. Cũng thế, giữa đời này những kẻ gây sự vô cớ, khác nào người điên kia. Ta là người trí nên tránh họ, mà không nên chống đối.

Người tu đức nhẫn nhục không những chịu đựng những cơn phẫn nộ không cho dấy khởi, mà bất cứ điều gì làm cho tâm hồn xao xuyến rạo rực đều chịu đựng để dằn ép chúng trở về trạng thái yên tĩnh. Nhẫn nhục là một cách súc tích khí lực điều khiển thân tâm mình. Người làm chủ được mình là một sức mạnh vô biên. Phật dạy:

Thắng một vạn quân, không bằng thắng mình, thắng mình mới là chiến công oanh liệt.

(Kinh Pháp Cú)

Người đời chỉ mong chinh phục kẻ khác, chinh phục ngoại cảnh mà quên đi nội tâm. Khác nào con trong nhà không dạy, không răn, mà đi dạy răn con người hàng xóm, thật là một việc viển vông. Bắt nạt người cung kính, tuân lệnh mình, mà mình nô lệ thất tình lục dục, thì còn tai hại nào to hơn! Ông A có uy quyền, có thế lực, ai cũng sợ, cũng khiếp, bảo điều gì ai cũng phải theo. Như vậy nếu ông A bị nô lệ lòng tham, chúng ta thử nghĩ, những kẻ dưới tay ông sẽ là gì? – Phải chăng sẽ là những con chó săn đang lao mình trong rừng rậm. Trong xã hội này, nếu ai cũng muốn tạo uy quyền bên ngoài, mà không thắng được bên trong, thì xã hội sẽ ra sao?

Tóm lại, tạo uy quyền bên ngoài tuy khó, nhưng đã lắm người tạo được. Điều phục nội tâm là chuyện khó gấp bội lần hơn, chỉ những bậc Thánh nhân, những vị anh hùng mới làm được. Vì thế, đức Thích-ca chưa từng cầm gươm lên ngựa chinh phục một ai, chỉ ngồi tĩnh tọa dưới cội bồ-đề, chuyên gạn lọc nội tâm, mà Ngài đã được hiệu “Điều Ngự Sư” hay đấng “Đại Hùng Đại Lực”. Ngài là một vị “Anh Hùng Muôn Đời”. Tôi mong bạn, một thanh niên của nước Việt Nam, bạn hãy đắn đo cẩn thận, trước khi bạn tập làm “anh hùng”.

PHƯƠNG PHÁP LẬP NGHIỆP VĨNH CỬU

Đã làm người, ai không muốn lập công danh hiển hách, sự nghiệp vẻ vang để lưu truyền vạn đại. Sự ước mong là thế, nhưng trên đường lập nghiệp đã biết bao người, hoặc đuối sức quằn quại tắt thở bên vệ đường, khi nhìn thấy thành trì sự nghiệp còn xa lắc; hoặc đã rỗ chân, sầy trán mà tìm không thấy bóng thành trì sự nghiệp ở đâu, rồi âm thầm nuốt hận quay về với hai bàn tay trắng và gương mặt hốc hác héo sầu. May ra, cũng có vài người đến thành sự nghiệp, nhưng khi đến nơi nó đã trở thành giả ảnh tan theo như sương mù buổi sớm, bọt nước chiều hôm.

Tại sao có những cuộc dở dang và thất bại ê chề trên con đường tìm sự nghiệp?

– Là vì động cơ lập nghiệp của người đời là lòng tham, mà lòng tham không bờ bến, còn sức người có chừng; nên chi đều thất vọng. Người ôm lòng tham chạy tìm sự nghiệp, thì ôi! khác gì kẻ mang kiếng xanh soạn tìm tờ giấy trắng, biết bao giờ gặp được. Ngày xưa có một nhà vua muốn xem thử lòng tham của người lên đến độ nào. Ông ra lệnh cho một lực sĩ rằng: “Từ mai sớm khi mặt trời hừng mọc, cho đến chiều hôm khi mặt trời vừa lặn, ngươi chu vi đất được bao nhiêu ta sẽ cho ngươi hết.” Chàng lực sĩ hớn hở lui về, dự bị lương thực dùng một ngày. Hôm sau vừa sớm tinh sương, chàng chực sẵn trước đền vua. Mặt trời vừa ló dạng, chàng cắm đầu chạy. Chàng chạy hăng quên cả cơm nước. Mặt trời đã đứng đầu, chàng nhìn quay lại thấy khu đất còn nhỏ xíu. Bóng đã ngả dài, tranh thủ với thời gian, chàng chạy nhanh hơn, cho đến thân hình chàng chỉ còn là một vật chao động dưới bóng mặt trời. Vầng ô vừa kề đầu núi, chàng vận dụng hết tàn lực chạy cho đến đích, khi mặt trời vừa lặn. Đến đích, thì ôi! chàng chỉ còn là một xác không hồn.

Lại nữa, nền móng và nguyên liệu xây cất sự nghiệp, người đời đã đặt và dùng sai lầm, nên chỉ sớm đổ vỡ. Tòa lâu đài sự nghiệp họ đặt trên vũng bùn tham lam, nguyên liệu xây cất tòa lầu ấy, toàn bằng xương và máu thì làm sao thành tựu vững bền được! Bằng chứng, sự nghiệp của Tần Thủy Hoàng ở Trung Hoa hồi thế kỷ thứ 3 (TCN) rất to tát và vĩ đại, nhưng kết tinh bởi lòng tham lam và xây đắp bằng xương máu của muôn dân, nên chi ông cố tìm mọi phương thế để gìn giữ nó, mà rốt cuộc cũng không trường tồn. Đến công nghiệp vẻ vang và oai hùng của Napoléon ở Pháp vào đầu thế kỷ 19, cũng do động cơ tham lam vô bờ bến của ông. Muốn thôn tính hết các nước Âu Châu, nên công nghiệp ấy chóng tàn như hoa phù dung buổi sáng, và sau cùng ông bị an trí tại đảo Sainte-Hélène. Lại giữa thế kỷ 20, sự nghiệp rực rỡ nhất thời của Hitler đã làm vang động thế giới, nhưng cũng bởi lòng tham muốn làm bá chủ thế giới, nên ước nguyện chưa thành mà đời ông đã mai một… Có câu: “Xây dựng sự nghiệp mình trên xương máu của người chỉ là mầm tan hoại.”

Như trên đã thấy, càng tham lam bao nhiêu thì càng chóng tan hoại và đổ vỡ bấy nhiêu. Vậy chúng ta không nên dùng động cơ tham lam gây dựng sự nghiệp, mà cần phải lấy nguyên liệu từ bi đắp xây thành trì sự nghiệp thì mới kiên cố và trường tồn. Bởi vì kẻ tham lam muốn lập nên nghiệp cả, bao giờ cũng chăm lòng tóm thâu vơ vét của người về mình, mà tóm thâu vơ vét càng nhiều thì gây oán, kết thù càng lắm. Đã có oán thù, là có người manh tâm phá hoại, rồi một người cố giữ gìn, mà cả ngàn muôn người quyết phá hoại, thì dù gian hùng như Tào Tháo, mưu trí như Khổng Minh cũng không tài nào giữ nổi. Ngược lại, lấy từ bi làm động cơ lập nghiệp, tức là lấy sự ban ân bố đức cho người làm sự nghiệp mình. Tuy nhiên đem tiền của và hạnh phúc mình tung vãi cho người là đời mình sẽ thấy khổ sở và thiếu thốn; nhưng một nụ cười nở trên môi người đói khát khi được chén cơm, một cái nhìn tri ân của người vừa thoát nạn, một cái chào cảm mến của người lạc lối khi được đưa đường… bấy nhiêu ấy là nguồn hạnh phúc vô biên, là của tiền vô lượng của chúng ta vậy. Sự nghiệp ấy mới nhìn qua như không có, nhưng kỳ thật nó có rất nhiều. Bởi vì, thói thường người đời hễ thương mến ai thì muốn ủng hộ, bảo vệ cho người ấy được an vui. Chúng ta đã gieo rắc tình thương khắp mọi người thì sự an vui đến với chúng ta vô lượng. Thế là sự nghiệp vĩ đại và vĩnh cửu chớ gì!

Hơn nữa, người có lòng từ bi không thấy hạnh phúc và sự nghiệp riêng mình, mà chỉ thấy hạnh phúc và sự nghiệp chung của tất cả chúng sanh. Như vậy, càng gây cho chúng sanh được nhiều hạnh phúc, nhiều sự nghiệp, thế là hạnh phúc và sự nghiệp mình càng to. Đức Thích-ca xa lìa đài vàng ngôi báu, chối bỏ tất cả hạnh phúc riêng, Ngài chỉ ôm bình bát đi xin ăn để gieo rắc tình thương và cảm hóa nhân loại. Do đó, mà khắp năm xứ ở Ấn Độ thời ấy, từ vua chúa đến quan dân đều tôn kính Ngài là bậc Từ phụ, sẵn sàng hiến dâng những ngôi vườn đẹp đẽ, để Ngài làm nơi giảng đạo. Cho đến ngày nay cách Phật đã trên hai mươi lăm thế kỷ, mà hầu khắp các nước trên thế giới đã xây cất biết bao ngôi chùa nguy nga tráng lệ để phụng thờ Ngài và trên sáu trăm triệu người kính thành, tôn Ngài là đấng cha lành. Nên trong kinh có câu: “xả tất cả sẽ được tất cả” là thế.

Tóm lại, chúng ta phải sáng suốt không nên nhìn thiển cận ở sự nghiệp nhất thời mà bị lòng tham lam sai sử, rồi cả đời luống lao tâm tiêu tứ, kết quả chỉ chuốc lấy đau khổ. Chúng ta phải tung vãi hạnh phúc mình cho mọi người, gieo rắc tình thương cùng khắp nhân loại, ấy là thứ hạnh phúc chân thật, sự nghiệp vĩnh cửu của mình đấy. Một Phật tử đã biết áp dụng điều này, vua A-dục, nói: “Ta xem hạnh phúc của chúng sanh là mục tiêu thứ nhất ta phải tranh đấu.”

GIAN LAO KHÔNG LÀM TA NHỤT CHÍ

Bạn với tôi là cùng màu áo, chung thờ một lý tưởng. Đã lâu chúng ta không gặp nhau, hoặc đã gặp mà không có dịp trao đổi ý kiến cùng nhau. Hôm nay ngày hoan hỉ đã về, lòng tôi thấy nao nao, nhớ đến bạn và cần nhủ đôi lời cùng bạn, gọi là thực hiện phần nào điều KIẾN HÒA ĐỒNG GIẢI của đức Từ Phụ đã dạy chúng ta.

Bạn ạ! Trên đường học đạo thật xa diệu vợi, chúng ta tiến bước đã giẫm phải bao mũi gai nhọn cản trở, và hiện thăm thẳm những hố sâu, sừng sững những vách đá chơi vơi chặn lối đi của chúng ta. Ở trường hợp này, bạn xử trí thế nào? Lùi lại chăng? Hay hăng hái tiến tới? Chắc bạn sẽ đồng thanh với tôi, chúng ta không thể lùi lại, mà vẫn anh dũng tiến lên, vì đó là hướng ta nhắm. Bảo thành đã hiện trước mắt ta rồi, dù phải tan thân mất mạng, chúng ta cũng được hài lòng, vì cái chết đó làm tăng thêm giá trị ta và đưa ta vượt lên một nấc khá cao trên cây thang đạo hạnh.

Bạn thử nghĩ! Những học sinh trung học, sinh viên đại học chịu biết bao khổ sở do những cuộc thi hành phạt. Có đôi khi, họ phải gạt nước mắt, cho đến muốn tự tử là khác. Như vậy người bày ra cuộc thi, phải chăng vì muốn ngăn bước tiến của họ? – Nhất định là không. Đó là những cuộc thử thách để khuyến khích họ cố gắng thêm, là cây thước để đo trình độ và khả năng của họ, cũng là làm tăng giá trị của họ vậy. Nếu một sinh viên đủ lý trí, có sợ thi khó mà bỏ học chăng? có cưu lòng oán hận người khảo hạch mình không?  – Chắc là không, họ sẽ mang ơn những người khảo hạch, vì nhờ đó mà họ tiến thêm.

Lại nữa, một chiến sĩ, vì bảo vệ non sông tổ quốc và rạng danh cho giống nòi, nên xem thường chết sống, lăn mình vào rừng bom đạn. Nếu một chiến sĩ mặc bộ nhung phục bóng láng, cỡi con bạch mã thật xinh, mỗi khi ngồi trên lưng ngựa xem rất oai vệ, nhưng suốt đời chỉ ăn với ngủ, thì còn gọi được là “chiến sĩ” chăng? Cố nhiên, người chiến sĩ muốn được ngày khải hoàn rực rỡ: mỗi nhịp ngựa là hằng vạn tiếng hoan hô, hoa bội tinh bừng nở trên ngực, trước muôn triệu cặp mắt nhìn quên nháy và ước mơ, thì phải lăn mình trong ngàn tên muôn giáo, xem cái chết nhẹ hơn làn gió thoảng. Như vậy, những nguy hiểm gian lao đối với người chiến sĩ anh dũng sẽ không thấy gian lao mà chỉ thấy là công danh sự nghiệp.

Bạn ạ! Chúng ta là người chèo thuyền ngược dòng đời, thì làm gì có sự dễ dàng bình thản. Giả sử có, thì mục đích chúng ta nhắm đâu còn cao quí, vì mọi người đều có thể đến được. Bạn thử tưởng tượng, nếu một tu sĩ ăn no, ngủ kỹ, đầy đủ mọi nhu cầu, mãi sống trong cảnh nhàn hạ, mà được thành Phật, thì ông Phật ấy còn ai chịu lạy chăng? – Chắc là không! Vì dễ làm quá, có gì khó khăn mà phải kính phục. Sở dĩ chúng ta và mọi người đều tôn sùng kính lạy đức Phật, vì Ngài làm những điều mà chúng ta chưa làm được. Như vậy, giá trị người tu có là do vượt qua mọi hiểm trở khó khăn, ở chỗ ô trọc, mà tâm vẫn thanh bạch cao khiết.

Bạn đang tu hạnh nhẫn nhục chăng? Nếu bạn tu hạnh nhẫn nhục, mà không có người mạ nhục, đánh đập để thử lòng bạn có phiền, có giận chăng thì cái nhẫn nhục ấy chỉ là nhẫn nhục ở đầu môi. Muốn chứng thật hạnh nhẫn nhục của bạn, phải có người mạ nhục, đánh đập: ấy là lửa thử vàng nhẫn nhục của bạn vậy. Đức Thích-ca khi còn làm vị tiên tu nhẫn nhục, nhờ có vua Ca-lợi cắt tay, thẻo mũi… Ngài mới chứng được nhẫn nhục ba-la-mật.

Bạn đang tu hạnh bố thí chăng? – Thế là những kẻ đến xin đều là ân nhân của bạn. Nếu thiếu họ, bạn sẽ không viên mãn công hạnh. Mặc dù trong số người xin cũng có một hai kẻ đèo bòng, xin những điều không thể cho được. Nhưng bạn đừng vội phiền họ, mà bạn phải tự trách mình hạnh bố thí chưa cứu kính. Người Bà-la-môn xin con Thái tử Tu-đại-noa, chính là người đã giúp Ngài thành tựu hạnh bố thí ba-la-mật, các hạnh khác cũng thế.

Tất cả cuộc thử thách đều là sự chứng thật hạnh tu hành của mình. Người hay hoàn cảnh để thử thách ta đều là ân nhân, là cảnh tốt nâng đỡ ta lên từng lầu Thánh nhân. Vì thế trong kinh Pháp Hoa, đức Phật đã nói: “Đề-bà-đạt-đa là thiện hữu tri thức bậc nhất của ta, nhờ Đề-bà-đạt-đa mà ta mau chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Như trên bạn đã thấy, cái “khó” không phải là điều làm nhụt chí ta, mà là sự nghiệp, là chứng thật đời tu của ta. Càng gian lao, càng khó khổ, chiến thắng được nó thì giá trị ta càng cao, sự nghiệp ta càng lớn. Vì thế, các vị Bồ-tát hi sinh cảnh Niết-bàn để vào địa ngục cứu độ chúng sanh.

Chúng ta đã là người tu, người sẵn sàng chịu khó khổ, mọi thử thách để rèn luyện lòng mình, để thay khổ cho chúng sanh, thì bao giờ có thở dài khi gian lao, chau mày khi nguy hiểm… mà nhất định tươi tỉnh hăng hái tiến thẳng đến mục đích tuyệt vời của mình đã nhắm. Ấy là con đường mà tôi và bạn cùng đi, cùng hướng. Vậy chúng ta sẽ hẹn ngày để gặp nhau ở điểm cứu kính này.

THANH NIÊN VỚI VIỆC ĐI CHÙA

Hôm nay đem việc đi chùa mà bàn với các bạn thanh niên thật là một chuyện rất tầm thường. Thưa bạn! Tôi lại thích nói những chuyện tầm thường ấy, vì nó rất gần chúng ta, mà đã bị nhiều người lãng quên đi.

Nếu một hôm có người đến mời bạn đi chùa, chắc bạn sẽ cau mày lộ vẻ khó chịu, nếu không bĩu môi kiêu ngạo. Vì bạn thanh niên cho việc đi chùa là việc của những người giàu lòng tín ngưỡng, việc của bà già, ông cụ, còn thanh niên là những con người khoa học thực tế mà ai đi làm việc ấy. Quan niệm đó có thể đúng với người không hiểu ý nghĩa đi chùa, e không đúng với những người đã hiểu ý nghĩa đi chùa.

Thưa bạn! Trong nhà Phật mỗi việc làm, mỗi hành động đều có ý nghĩa của nó, đáng tiếc có một số tín đồ không chịu tìm hiểu, nên việc làm sai lạc, gây sự hiểu lầm cho khách bàng quan. Vì thế, tôi cần biện bạch ý nghĩa đi chùa để các bạn biết qua.

Đi chùa có những ý nghĩa:

Chùa là nơi thờ cốt, tượng của chư Phật – người từ bi và giác ngộ đã viên mãn – Phật tử đến chùa là tỏ lòng kính mến, sùng thượng gương cao cả của Ngài mà học đòi bắt chước theo, như châm ngôn ta có câu: “trọng thầy sẽ được làm thầy” vậy. Bạn một phen bước chân đến cổng chùa là trong ký ức bạn đã quay lại đức hi sinh cao cả, gương trí tuệ sáng ngời của Phật Tổ rồi. Bước vô chánh điện, nhìn lên chân dung của Phật, bạn sẽ thấy cặp mắt hiền lành, vẻ mặt từ bi của Ngài hình như lúc nào cũng chực đưa tay cứu vớt chúng sanh đang đắm chìm trong đau khổ. Chỉ chừng ấy thôi, bạn cũng đã thấy hình dáng Phật gây cho bạn một ấn tượng tốt lành, một gương sáng cao quí. Bạn đi đến chùa để nhớ lại công hạnh vị tha không bờ bến, đức độ hỉ xả vô biên giới của Phật mà bắt chước theo, chớ đâu phải đi chùa để lễ bái, để khấn nguyện. Như các nhà ái quốc hằng đến thăm lăng, miếu các công thần. Không phải các ông đến đó để xin xăm, để khấn vái, cầu sự ủng hộ cho mình, mà để ôn lại cuộc đời oanh liệt của các ngài qua những tấm bia, chiếc mão… cho lòng ái quốc của mình được nồng nhiệt thêm.

Phật thuyết pháp hơn ba trăm hội, những lời vàng ngọc ấy được ghi chép lại thành ba tạng kinh điển, trong ấy chứa đựng một nền triết lý cao siêu, một biển từ bi bát ngát. Bạn đến chùa để học hỏi giáo lý, qua lời chỉ dẫn của các nhà sư. Vì bạn là một thanh niên Việt Nam, bạn không thể chối cãi được ảnh hưởng ít nhiều của đạo Phật, một đạo cổ truyền của dân tộc mà người Việt Nam đã nhìn nhận là đạo ông bà. Hơn nữa, đạo Phật là một tôn giáo lớn nhất, một nền triết lý cao nhất của Á Đông, bạn là một thanh niên trí thức Á Đông, không có lý do gì bạn không biết. Nếu bạn nói không biết thì chẳng hổ với những học giả Âu Tây đang hướng về Á Đông để nghiên cứu ấy sao? Hoặc bạn viện lẽ: “Tôi ở nhà đọc sách Phật thì cũng hiểu được, cần gì phải đi đến chùa.” Thưa bạn! Điều ấy chưa hẳn là đúng. Vì sao? Vì bạn đang bận sự học hành hoặc đang lo sanh kế, thời giờ đâu bạn nghiền ngẫm kinh sách, nếu có thời giờ thì cũng rất eo hẹp. Chắc bạn cũng thừa hiểu kinh điển của nhà Phật như biển cả bao la, nền triết lý Phật giáo như trời cao thăm thẳm. Muốn thấu hiểu, người ta phải chuyên học cả năm, mười năm mà chưa hẳn là đã đạt được; phương chi nằm nhà đọc qua vài ba quyển sách mà có thể thấu triệt được ư? Lại nữa, thà rằng bạn không hiểu gì về Phật giáo còn hơn là bạn hiểu không đúng chân tinh thần của Phật giáo. Vì sự hiểu sai lạc sẽ làm giảm giá trị của Phật giáo và gây cho những người chung quanh một quan niệm sai lầm, nên không hiểu thì thôi, có hiểu cần phải hiểu cho đúng. Do đó, muốn hiểu Phật giáo, bạn cần đến chùa nhờ những vị Sư học rộng giáo điển giảng dạy cho, có phần bảo đảm hơn.

Trong những ngày đem hết tâm lực tranh đấu với đời, bạn nghe đầu óc nóng ran, tâm trí quay cuồng, bạn muốn tìm một nơi giải trí cho nó êm dịu lại. Hoặc bạn đến rạp chiếu bóng. Ở đây bạn thấy nghẹt cả người, hơi người đã khiến bạn nghe mệt. Nếu cố gắng mua vé vào cửa, bạn cũng thấy trên màn bạc toàn là sự tranh đấu, giết chóc, khổ vui, rốt cuộc chỉ làm cho thần kinh bạn thêm căng thẳng. Hoặc bạn đến nhà hàng để tiêu khiển bằng những chung rượu, chén trà. Nhưng vừa ngồi lại, bạn đã nghe lời bàn bạc, tiếng cãi vã về hơn, thua, khôn, dại của những người lân cận, khiến bạn phải nhức đầu. Như thế cũng là một trường tranh đấu, tranh đấu bằng lý thuyết. Bạn sẽ đến và đến nhiều nơi nữa, nhưng ở đâu rồi cũng gây thêm cho bạn một ý niệm so sánh, tranh đấu. Chi bằng, bạn đi thẳng đến chùa, không khí ở chùa sẽ ru êm, xoa dịu tâm hồn bạn. Ở đây, bạn sẽ thấy cả một trời thanh tịnh. Cổng chùa rêu xanh phủ kín, mặc cho nắng táp mưa sa, ngôi chùa đứng lặng im trong không gian tịch mịch. Có nghe chăng, chỉ những tiếng gió thì thào trên ngọn dương như lời giảng đạo của đức Mâu-ni hơn hai nghìn năm còn vọng lại, tiếng chuông ngân nga nhịp nhàng hòa theo gió, rồi tan lần trong không gian lặng lẽ như đem lòng từ bi chan rải khắp trần gian và tiếng mô Phật – thay cho lời chào – của các nhà sư vừa hiền hòa, vừa thanh thoát. Ở đây, bạn không làm gì tìm ra được một dấu vết tranh đấu, nếu có chỉ là sự đấu tranh nội tâm của những con người cầu tiến. Sau vài mươi phút ở chùa, dù tâm hồn bạn có cuồng nhiệt đến đâu cũng tan biến dần trong không gian tĩnh mịch như ngọn lửa hồng đang cháy sẽ tắt lịm đi sau một cơn mưa mát dịu.

Hoặc trong những lúc chạy đua với đời, bạn đã gặp phải những bức tường chắn lối, hoặc bị sa chân vào cạm bẫy của đời, bạn đang hằn học, đau buồn. Bạn cứ đi ngay đến chùa vì ở đây là nguồn an ủi vô biên của chúng sanh, là suối nước cam lồ để diệt trừ nhiệt não. Vào chùa, bạn sẽ thấy đức Thích-ca trang nghiêm ngự trên đài sen, đức Di-lặc tươi cười thản nhiên trong khi bị bọn lục tặc chọc tai, móc miệng…, đức Di-đà kiên nhẫn sẵn sàng đưa tay chực cứu độ chúng sanh, trong khi chúng vẫn còn lặn hụp trong biển ái. Qua những hình ảnh ấy, bạn đã thấy thế nào? và gợi cho bạn những cảm giác gì? Đức Phật Thích-ca ngự trên đài sen là đã nói “Ngài dấn thân trong trần tục mà vẫn trong sạch, siêu thoát, không bị mùi trần tục làm nhiễm ô”. Đức Di-lặc cười thản nhiên, trong khi bọn lục tặc phá phách, để nói rằng “Ngài sẵn sàng tha thứ, vui vẻ tha thứ và mãi mãi tha thứ tất cả những cái gì mà chúng sanh đã làm cho Ngài rối rắm, đau khổ”. Đức Di-đà đang duỗi tay cứu độ chúng sanh, mà chúng sanh chưa hướng về Ngài, để nói lên rằng “lúc nào Ngài cũng kiên trì cứu độ chúng sanh, mặc dù chúng đang còn mải mê theo trần tục”. Và còn, còn rất nhiều hình ảnh nữa, tôi không thể kể hết. Nếu bạn biết rõ ý nghĩa khi qua những hình ảnh ấy, bạn sẽ nghe cõi lòng mát lại, quả tim bạn đập đều và bao nhiêu nỗi buồn phiền đã tan biến tự bao giờ.

Đó là chưa nói bạn có diễm phúc thấm nhuần giáo lý. Nếu bạn có duyên lành, gặp một nhà sư đức hạnh, bạn sẽ được tắm mát trong dòng suối từ bi, bạn sẽ bừng tỉnh dưới ánh sáng giác ngộ qua lời giảng giải của nhà sư rút trong giáo điển. Thế là, còn sự buồn phiền nào đeo đẳng trong tâm hồn bạn mà không tan vỡ?

Cho nên đi chùa không phải chỉ vì sự cúng lạy khẩn cầu, mà để noi theo gương lành của Phật, cải đổi tự thân, để học hỏi giáo lý, tu sửa tâm tánh, để lắng lặng tâm hồn khi đang quay cuồng vì đấu tranh, để xoa êm, tưới dịu phần nào ngọn lửa tức giận, vết thương đau khổ.

Cũng có người viện lẽ rằng: “Tôi ở nhà, tôi vẫn thờ Phật để học theo gương Ngài, tôi cũng xem kinh để tu sửa tự tâm… thì còn hơn đi chùa.” Đành rằng ở nhà có thờ Phật, có xem kinh, nhưng làm sao bằng khung cảnh trang nghiêm ở chùa, lời nhắc nhở chân thành của các nhà sư. Chúng ta chưa phải là bậc “sanh nhi tri chi” thì cần phải nhờ thầy lành bạn tốt, hoàn cảnh thuận tiện làm trợ duyên bên ngoài, mới đủ sức cải đổi những cái xấu dở của mình.

Hoặc người ta không chịu đi chùa bởi những lý do:

Vì cửa từ bi quá rộng cho nên có một ít người lợi dụng đó làm kế sanh nhai, hoặc để giấu những hành tung đê tiện. Do đó đã xảy ra nhiều việc không hay, làm hoen ố chốn thiền môn thanh tịnh. Vì vậy, có một ít người sợ đến chùa bị lợi dụng hoặc bị xấu lây. Thưa bạn! Bất cứ một tôn giáo, một đoàn thể nào cũng có những con chiên ghẻ lẫn trong ấy. Nếu bạn vì thấy một vài cái dở mà chấp nê thì tránh sao khỏi cái lỗi “vơ đũa cả nắm”. Hơn nữa, bạn là người có học thức, một hành động, một cử chỉ bất chánh bạn đã thấy, tội gì bạn phải sợ như vậy.

Hoặc có người nói: “Đến chùa nghe những điều tội phước, thấy gương từ bi của Phật sợ về nhà chán ngán việc làm ăn – việc làm ăn lợi mình hại người – nên không dám đi chùa.” Nói thế là cùng! Bạn thử nghĩ, có ai sợ người ta chỉ lọ trên mặt mình không? Nếu được người ta chỉ cho mình, có lợi hay có hại? Nếu vì lý do như vậy mà không đi chùa thì tôi cũng không biết lời gì mà bàn được.

Nói thế cũng đã dông dài rồi. Để kết thúc lại, ý nghĩa đi chùa là để gợi lại cho chúng ta thấy những gương sáng cao cả để mở rộng kiến thức, để gột rửa những bụi nhơ phiền não, để xoa dịu những vết thương đau. Sự đi chùa như vậy có gì là huyễn hoặc nhuộm mùi mê tín, không thích hợp với óc khoa học thực tế của thanh niên đâu? Theo tôi thiết nghĩ: Các bạn thanh niên phần nhiều tâm hồn sôi nổi bồng bột, thiếu đức bình tĩnh, thiếu chí kiên nhẫn, các bạn cần phải siêng đi chùa hơn hết mới phải. Vì khung cảnh tịch tịnh của nhà chùa sẽ giúp các bạn mát dịu phần nào nhiệt khí, thấy gương nhẫn nại hi sinh của Phật, các bạn sẽ tăng thêm phần kiên chí. Nghe được giáo lý của Phật sẽ giúp cho phần tư tưởng của các bạn được cao siêu. Như vậy sự đi chùa há vô bổ hay sao?

TUỔI TRẺ VỚI HẠNH NHẪN NHỤC

Em là một thiếu niên, quả tim chứa đầy máu nóng, mỗi khi bị ai nhục mạ máu trong người sôi lên, toàn thân nóng rực, rồi em muốn trả thù bằng cách nào cho đã cơn giận dữ. Hoặc khi suy nghĩ sắp làm một việc gì, lòng em nóng nảy bồng bột muốn làm trong chốc lát cho xong.

Sự nóng nảy và nông nổi ấy đã nhiều lần khiến em phải hối hận và đau khổ. Lắm lúc em cũng muốn bình tĩnh lại, nguội đi một chút, nhưng khi gặp việc rồi cũng chứng nào tật ấy. Vì muốn giúp em một phương tiện để tự chủ lấy mình, tôi xin giới thiệu em HẠNH NHẪN NHỤC do đức Thế Tôn đã dạy.

Nhẫn nhục không có nghĩa là ươn hèn khiếp nhược, khom lưng cúi đầu trước mọi hành động bạo tàn của người mà là kiên gan bền chí nhịn chịu mọi sự mạ nhục, sự khó khổ, sự khen ngợi cũng như sự thắng thế, để hoàn toàn làm chủ lấy mình, để sau rồi xây dựng lại họ.

Muốn nhịn chịu được sự nhục mạ, em nên nghĩ thế này: người mắng ta, vì tại ta làm quấy hay vô cớ tự họ đặt điều?

Nếu ta làm quấy nên họ mắng thì điều ấy rất đáng,  còn gì mà phải giận trách. Đã không giận trách là chớ, mà ta lại phải xin lỗi người là khác. Vì tại ta gây nhân nên họ mới trả quả. Người gây nhân mới là người đáng tội. Như hôm nào đó, em đứng trước sân, bỗng nhiên con vện rượt con mèo chạy ngang qua em. Mèo liệu chạy không kịp, đứng lại thủ thế. Vện vừa nhào tới, mèo vớ cho một cái xể mặt. Trước cảnh đó, em nên trách mèo hay trách vện? Cũng thế, ta lầm lỗi bị người mạ nhục, thì nên tự trách, không nên oán giận người. Có thể mang ơn họ là khác, vì họ cho ta một bài học xứng đáng để nhớ mãi mà tránh.

Nếu ta không làm điều gì quấy, vô cớ tự họ bịa chuyện để mạ nhục ta, ta nên nghĩ: Người ấy không biết lẽ phải quấy, họ đã mất hết trí khôn, là một kẻ cuồng không khác, ta chỉ nên thương xót hơn là giận trách. Hơn thua với kẻ cuồng thì ta cũng cuồng nốt. Hơn nữa, nếu em thấy là phải mà bị họ mạ nhục, em cứ lặng im giữ cái phải của em. Nếu em mắng chửi lại họ, thì em cũng quấy như họ. Như có anh chàng mặc bộ đồ trắng muốt đi trên lộ, gặp bọn chăn trâu đang chơi bùn, mình mẩy lem luốc. Chúng ghét cái trắng sạch của anh, nên hốt bùn vãi anh. Lúc đó anh nên chạy, hay nên hốt bùn vãi lại chúng?

Nếu anh muốn giữ cho tròn trắng sạch, cố nhiên anh phải chạy. Cũng vậy, muốn toàn vẹn lẽ phải, em nên nhịn kẻ quấy, đợi qua cơn nóng giận của họ, em sẽ phân giải thì kết quả hơn.

Hoặc giả em là người tốt, kẻ xấu thấy ganh ghét em, họ đến mạ nhục em, khi ấy em nên coi lời mạ nhục như cơn gió thoảng, không cần chống đối. Kẻ mang việc xấu đến; họ sẽ tự chịu xấu lấy. Phật dạy:

Kẻ ác hại người hiền, như ngửa mặt lên trời phun nước bọt, nước bọt không tới trời, trở lại rơi trên mình, như ngược gió tung bụi, bụi chẳng tới người, trở lại làm nhơ mình…

(Kinh Tứ Thập Nhị Chương)

Khi bị mạ nhục, nếu em không dằn được cơn nóng giận, tức nhiên em chửi mắng đánh đập lại họ. Rồi cứ thế mãi, họ vay, em trả; vay trả, trả vay không bao giờ dứt. Như Xoài mắng Ổi, Ổi đánh Xoài. Xoài tìm cách trả thù, Ổi lo phương báo oán, oán thù không biết bao giờ hết. Chi bằng ta áp dụng câu: “oan gia nên mở không nên kết.” (Khổng Tử) hoặc câu: “lấy ân báo oán, oán liền tiêu diệt” (Phật dạy), thì nhẹ nhàng rảnh rang biết mấy.

Tuy nhiên, nói thế em sẽ ngờ rằng: Nhịn họ e họ sẽ cho mình là khiếp nhược? – Không! Không phải thế đâu! Em không nhớ Hàn Tín chịu lòn trôn tên du đãng tại chợ Hoài Âm đó sao? Chịu nhục như vậy mà sau này ai dám chê Hàn Tín là khiếp nhược? Nếu có, ấy chỉ là bọn vũ phu thiếu trí mà thôi. Em là người cao thượng có chí lớn, em nhịn những lời nhục mạ của bọn bất lương, không phải vì em sợ họ mà chính vì cái chí lớn của em. Như em có cái chén kiểu quí, có người đem muỗng dừa hay bát sành đến chọi thử với chén quí của em. Khi ấy, em nên chọi hay nên nhịn thua họ?

Thảng hoặc, em cho rằng nhịn họ để bảo vệ tánh tốt, lẽ phải và chí lớn của mình, để mặc tình họ gây tội ác, như vậy tỏ ra mình ích kỷ tiêu cực, không có tinh thần xây dựng cho người? Không phải nhịn họ là ích kỷ đâu em! Nhịn là phương pháp lợi người toàn vẹn. Vì khi người ta nóng mới thóa mạ em, khi ấy em cũng nóng, chống đối lại họ. Hai cái nóng cùng gặp nhau thì phải nổ. Như vậy khi nóng giận chống đối người, không có nghĩa là xây dựng họ, mà chính là gây oán thù. Nếu ai nói: “tôi chống lại là vì tôi thương, muốn cải thiện giùm họ”, ấy là lấy lời nhân nghĩa để che đậy cái tánh xấu nóng nảy của mình.

Chẳng những ta nhịn chịu sự nhục mạ, mà còn phải nhịn chịu sự khó khổ. Bởi vì con người sanh trên đời, không phải đến đâu cũng gặp toàn tháp ngà và nhung gấm, mà phải đương đầu với phong ba bão tố. Người có sức nhịn chịu được những trở ngại mới mong đạt được kết quả tốt đẹp cao quí. Bằng không nhịn được, dễ sanh nản lòng thối chí. Dù người có sức mạnh cử nổi trái tạ ngàn cân, có tài chọc trời khuấy nước, mà không có chí kiên nhẫn, thì gặp sự thất bại dồn dập đến mình thì nhăn mày, héo mặt, con người ấy không làm nên việc gì đáng kể. Trái lại, người yếu đuối, tài lực tầm thường mà bền gan chịu đựng, mỗi lần vấp ngã chỉ xem đó là một kinh nghiệm, càng thất bại nhiều thì kinh nghiệm càng giàu, chí càng dẻo dai bền vững, con người thế ấy không việc gì làm chẳng được. Có vị Tỳ-kheo hỏi Phật: “Cái gì mạnh hơn cả?” Phật dạy: “ Nhẫn nhục mạnh hơn cả.” (Kinh Tứ Thập Nhị Chương) Thật vậy, chỉ có người nhịn chịu được mọi khó khăn, vượt qua mọi trở ngại mới mong lập được sự nghiệp vĩ đại trên đời.

Bị nhục mạ, gặp cảnh trở ngại tuy khó nhịn, nhưng người ta dễ biết đề phòng, nên có thể nhịn được. Được ngợi khen, gặp việc thắng thế là điều tốt, thỏa thích ý mình, nên ít ai để ý dè dặt, do đó mặc tình tâm phóng túng, gây họa rất to. Như xe vào đường hiểm nguy không lật, mà thường lật ở đường thẳng.

Người bị nhục mạ nhịn không được cơn tức giận, nên gây tai họa, kẻ gặp cảnh trở ngại, nhịn không được lòng buồn nản, nên bỏ hư hỏng công việc, ta được ngợi khen, được thắng thế, nếu không nhịn được lòng tự đắc của mình, nên dễ sanh ngã mạn khiến mọi người đều ghét. Như trò Kiêu lâu nay tuy học dở mà nói năng nhỏ nhẹ khiêm tốn, nên được cả lớp ai cũng thương. Một hôm đến giờ toán, thầy giáo cho bài, may sao anh làm rồi sớm lại trúng, khi các bạn anh làm chưa rồi. Thầy giáo thấy thế khen ngợi anh trước chúng bạn. Có lẽ đây là lần thứ nhất, Kiêu được hơn chúng bạn và thầy khen, mắt anh sáng lên, nhìn chúng bạn thấy họ tầm thường quá. Từ đó về sau, ai trông thấy Kiêu không còn là một trò khiêm tốn dễ thương, mà là đứa bé khinh mạn đáng ghét.

Khi biết nóng giận là tánh dữ, nản chí là nết hư, thì ngã mạn cũng là tật xấu. Nhưng khó trị nhất là ngã mạn, vì ta không thể biết được nó khởi tự bao giờ, chỉ có kẻ khác biết thôi. Phật dạy: “Có thế lực mà không ỷ mình là khó.” Muốn nhịn chịu được sự khen ngợi, ta nên nghĩ thế này:

Tiếng ngợi khen của người đời ít khi đúng sự thật. Hoặc họ muốn làm đẹp lòng ta để nhờ ta giúp một việc gì, nên họ khen? Hoặc họ khen là để gợi tánh hiếu thắng, tự cao của ta, đặng đưa ta về chỗ hư hèn? Hoặc vì nể ta, khen cho ta được vừa ý… Tất cả sự khen ấy đều không đúng sự thật, đã không đúng sự thật thì có gì mà ta mừng, tự đắc?

Nếu người khen biết được ta, và trăm phần trăm đúng sự thật, thì ta nên nghĩ: Sự thành công tốt đẹp ấy không phải tài của ta, mà do phước lành đời trước còn lưu lại. Đã do phước lành mà được việc, khi được ta cần phải gieo giống phước lành nhiều hơn để sau này khỏi mất, mà tánh tự cao, ngã mạn là thứ thuốc độc làm ung tất cả mầm phước đức, ta cần phải tránh.

Người gặp những trường hợp trên mà không nhẫn nhục thì sau sanh hối hận. Như Tý bị Sửu mắng, không dằn được cơn nóng, Tý đánh Sửu trọng thương. Anh Sửu trông thấy, nóng lòng vì em, chụp gốc cây đập Tý lỗ đầu. Rốt cuộc cả hai đều trọng bệnh và cùng vào bệnh viện. Như câu cách ngôn Tây phương: Thắng vì lưỡi kiếm, chết vì lưỡi kiếm (Qui vainc par l’épée meurt par l’épée).

Bao nhiêu sự buồn khổ thời gian Tý nằm trong bệnh viện, có phải tại ai có ác ý muốn hại Tý chăng? Hay chính tự Tý chuốc lấy? Sự thật không ai làm khổ mình. Nếu thắng được cơn giận dữ, làm gì Tý phải nằm trong bệnh viện thế này. Cho biết mọi khổ đau đến với mình phần nhiều là tại mình không nhịn được lòng nóng nảy bồng bột của mình mà ra. Như ngài Thích-đề-bà-na hỏi Phật:

– Vật gì giết an lạc? Vật gì giết vô ưu? Vật gì gốc của độc, nuốt hết tất cả thiện?

Phật đáp:

– Sân hận giết an lạc. Sân hận giết vô ưu. Sân là gốc của độc. Sân nuốt tất cả thiện.

Chẳng những thế, người không nhẫn ít khi làm chủ được mình mà thường bị ngoại cảnh chi phối. Như Hận không muốn gây sự với Manh nhưng Manh khiêu khích, không chịu nổi cơn nóng giận, Hận chửi đánh ẩu đả. Thế rồi, cả hai cùng chịu khổ. Hoặc như Tốc muốn học đến cử nhân nhưng thi trung học rớt vài phen, thối chí anh muốn trở về cày ruộng… Những người như thế đều bị hoàn cảnh lung lạc, không có chí vững bền tự chủ.

Người biết nhẫn dù gặp việc lớn cũng biến thành nhỏ, dữ hóa hiền, không mấy khi phải hối hận, tâm thường an lạc. Phật dạy:

Nếu có người trí ưa tu nhẫn nhục, người ấy dáng điệu hòa nhã, hằng tươi tỉnh, ưa vui cười, mọi người trông thấy đều hoan hỉ, nhìn không biết chán…

(Kinh Ưu-bà-tắc, phẩm Nhẫn Nhục)

Lại nữa, người hay nhẫn nhục là đã tạo cho mình một nghị lực phi thường, thắng cả nội tâm và ngoại cảnh. Phật dạy:

Người hay nhẫn nhục mới đáng gọi là bậc hữu lực đại nhân.

(Kinh Phật Di Giáo)

Thật vậy, bậc đại nhân bao giờ cũng kiên nhẫn, bình tĩnh trước mọi hoàn cảnh. Chỉ có bọn vũ phu mới nóng nảy hấp tấp, làm việc theo nộ khí nhất thời.

Xét qua sự nhẫn nhục, em đã thấy rõ chỗ quí, tiện và lợi hại thế nào rồi. Giờ đây mời em bắt tay vào việc tập luyện hạnh nhẫn nhục. Có thực tập em mới thấy sự lợi ích thiết thực của nó. Đối với tuổi thiếu niên mà thiếu nhẫn nhục thì không mong thành công, lập nghiệp gì cả. Bởi vì trong lúc thiếu thời, sống về tình cảm hơn lý trí, nên phải tập nhẫn nhục để hạn chế bớt sự sôi nổi bồng bột trong lòng.

Hơn nữa, tuổi thiếu niên em chưa từng nếm mùi cay chua của cuộc đời – nếu có cũng chút ít thôi – nên kinh nghiệm đời em chưa có, vì thế tâm em dễ hăng hái, cũng dễ chán nản. Tập nhẫn nhục sẽ giúp em có đủ thì giờ cho lý trí làm việc, nhẫn nhục sẽ tập cho em có tính bền dẻo khi va chạm cuộc đời. Vì thế đời niên thiếu của em rất cần có nhẫn nhục.

Muốn đạt được hạnh nhẫn nhục, em cần phải quán từ bi. Vì có nước từ bi mới dập tắt được ngọn lửa nóng giận. Từ bi sẽ giúp em hăng hái hoạt động, kiên nhẫn vượt mọi khó khăn để thành công trên công trình lợi tha viên mãn.

TUỔI TRẺ VỚI LÒNG TỪ BI

Đang độ hoa niên lòng tràn đầy vui vẻ, em nhìn cảnh chung quanh đều hiện bày một vẻ tươi sáng đáng yêu. Nét yêu đời biểu lộ trong đôi mắt sáng, trên đôi môi nở nụ cười của em. Em tự thấy cùng mọi người, cùng vạn vật như chung niềm hoan hỉ. Vì thế, lòng yêu thương của em tràn trề vô hạn.

Tuy nhiên, mỗi lần có kẻ đau khổ hiện ra trước mắt em, em tự nghe cõi lòng se lại, mặc dù kẻ ấy không phải bà con thân thuộc của em. Rồi em muốn làm sao cho họ hết khổ, cho họ cùng vui như em. Ấy là “lòng từ bi” đã chớm nở trong lòng em vậy. Em hãy cố gắng vun quén cho nó sanh trưởng sum sê lên.

Nghe nói từ bi, nhưng em chưa hiểu nghĩa thế nào. Đây, em hãy nghe: Từ bi là lòng thương bao la, lúc nào cũng sẵn sàng san sẻ những nỗi đau khổ của người và đem hạnh phúc an vui cho họ. Lòng thương ấy gieo mầm trên đất khổ đau và sanh trưởng trong ánh sáng trí tuệ. Vì thế, ai mang nặng lòng thương này thì không bao giờ an nhiên khi nhìn kẻ trước mắt mình đang âm thầm nuốt lệ hoặc đang rên siết kêu thương, mà họ nguyện chia sớt, gánh vác cho người vơi đi, nhẹ bớt đôi phần đau khổ.

Lòng thương ấy chẳng phải của riêng ai, mà là chung tất cả. Như trước mắt mọi người, một kẻ cô thế bị bọn côn đồ hoành hành, đánh đập thảm hại, trông thấy cảnh ấy, dù người khô khan thế nào, cũng nghe trong lòng chua xót! Hoặc giả hôm nào đó, em đến hí trường xem một vở bi kịch. Đến lúc hoạn nạn đau khổ của những vai trên sân khấu, em cũng như người cảm nghe tim đập mạnh, dòng lệ tự nhiên trào!

Nhưng em sẽ nghi ngờ! Tại sao người ta đã sẵn lòng thương yêu nhau khi hoạn nạn, mà trong xã hội hiện tại lại có những kẻ làm nhiều việc táng tận lương tâm, gây cho người một cuộc sống đầy máu và lệ?

Em ạ! Ấy là lòng thương của họ bị hướng dẫn sai đường. Dĩ nhiên lúc thiếu thời, ai cũng có lòng thương rộng rãi, nhưng lớn lên lòng từ bi thu hẹp lại, đặt vào cái khung nhỏ bé, đôi khi bị pha trộn với sự đen tối thành ra mù quáng. Ấy là họ chỉ thấy có vợ, có con và cá nhân họ…, bao nhiêu tình thương đều dồn cả vào cái khung nhỏ hẹp ích kỷ ấy. Mặc ai kêu khóc, mặc ai thở than đều không làm lay chuyển được họ. Thế rồi, để được lòng người yêu, để thỏa mãn cá nhân, họ có ngại gì giày đạp trên hạnh phúc kẻ khác.

Lại nữa, có một số người vô tình hoặc cố ý, họ tự tiêu hoại lòng thương. Như khi gặp một người đói lạnh, anh A nghe lòng thương trào lên, mặc dù trong tay sẵn có phương tiện cứu giúp được, mà anh giả bộ lờ đi không muốn để ý đến. Một lần như thế, hai lần như thế… quen dần, sau này gặp người đau khổ trước mắt, nhưng tim anh đã trở thành sắt đá. Những con người như thế là họ tự tiêu diệt lòng thương rộng lớn, để gom về một cái lạch nhỏ hẹp cá nhân. Một cây cổ thụ rườm rà, nếu mỗi ngày người ta chặt một nhánh, lâu rồi cây ấy chỉ còn một thân đơn trơ trọi.

Trái lại, anh B mỗi lần gặp người hoạn nạn, lòng thương dấy khởi, anh liền tìm mọi phương tiện giúp người. Một lần như thế, nhiều lần cũng thế, đến một hôm gặp người khổ mà không tìm ra phương tiện để giúp, lúc ấy lòng từ bi bị giày vò, lương tâm anh bị cắn rứt, anh tự coi như làm không tròn bổn phận của mình. Rồi anh chạy ngược, chạy xuôi, tìm cho ra phương tiện giúp họ, anh mới yên lòng. Thế là anh B đã biết khai thác lòng thương của mình càng ngày càng sâu rộng.

Em ạ! Lòng thương là một của báu vô giá, nó làm cho người này người khác thông cảm nhau. Nếu em đem một món đồ quí tặng cho người mà em không có lòng thương mến chân thật đối với họ thì món đồ ấy cũng thành vô giá trị. Nếu thiếu lòng thương, thế giới này sẽ đen tối, nhân loại sẽ đi đến chỗ diệt vong.

Đã là của quí, ai nỡ để lòng thương phải tiêu mòn? Do đó một thiếu niên, em phải bảo vệ tô bồi cho lòng thương càng ngày càng to rộng. Tuy nhiên với tuổi trẻ của em, lòng thương dễ bộc phát, mà cũng dễ lạc lầm. Em cần phải khôn khéo hướng nó đi đúng chiều, phải chỗ. Chỗ thích hợp với lòng thương là cảnh đau khổ, chiều tươi đẹp nhất là ngọn hải đăng trí tuệ.

Đứng trước cảnh khổ của người, em thấy lòng đau xót, ra tay cứu giúp họ. Bất luận việc nhỏ, việc lớn miễn họ khổ là em thương, em cứu giúp họ. Thế là lòng thương của em chan rải trên mọi nỗi khổ đau của người, để rồi tiêu hoại tất cả mầm đau khổ. Nhờ lòng thương đặt trong cảnh khổ, nên nó bình đẳng, không thiên lệch. Nếu có nghiêng chăng, chỉ nghiêng về đầu cân nào nặng đau khổ. Thấy người đẹp bị khổ em thương, thì gặp người mù đói khát em cũng thương. Chỉ thương ở nỗi khổ của họ, chớ không phải thương vì sắc diện, vì cảm tình. Do đó đức Phật dạy hàng Phật tử muốn khởi tâm từ bi phải quán nỗi đau khổ của chúng sanh.

Thật vậy, có cảm thông nỗi khổ của người mới có lòng thương người chân thật thiết tha. Có thông cảm sự giày vò trong cơn đói của người, em mới sốt sắng cho họ cơm. Có thấu rõ sự buồn tủi, nỗi khổ đau của kẻ tật nguyền, em mới sẵn sàng an ủi, giúp chén cơm manh áo cho người. Trong kinh Phật có câu: “Đời là bể khổ.” Nói khổ đây, không có nghĩa để người ta chán nản, thở than, mà để nhắc nhở mọi người hãy thương yêu nhau, giúp đỡ nhau và đừng gây khổ thêm cho nhau nữa. Đời đã khổ lắm rồi, ta hãy san sớt, đùm bọc và nâng đỡ nhau, đừng đổ dồn thêm những tảng đá nặng khi người kia đã kiệt lực. Cùng đi một chuyến tàu, rủi gặp cơn biển động, mọi người đều kinh hoàng khủng khiếp, khi ấy có những người dại sóng ụa mửa dính ta, hoặc đụng chạm vào người ta, nếu không có thuốc cứu giúp họ, không dìu đỡ họ, thì ít ra ta cũng tha thứ những lỗi cỏn con của họ.

Nói thế em sẽ nghi: Lòng thương bắt nguồn từ sự đau khổ, thì những gia đình khá giả, cha mẹ không có đói lạnh, vậy kẻ làm con không thương sao? – Không phải thế đâu em. Mặc dù cha mẹ không phải đói lạnh, nhưng người đã khổ sở nhọc nhằn với con quá nhiều. Từ khi con lọt lòng cho đến khi khôn lớn, kẻ làm cha mẹ đã hồi hộp lo âu cho con biết bao nhiêu lần. Một khi sổ mũi, một chút ấm đầu… của con, cha mẹ đã nóng lòng, sốt ruột, chạy ngược, chạy xuôi lo thầy trị thuốc v.v… Như vậy, kẻ làm con phải biết cảnh khổ ấy, mà thương cha mẹ trước nhất.

Lòng thương phát nguyên từ gia đình lần ra xã hội, như vết dầu loang. Nếu chỉ khu biệt lòng thương trong phạm vi gia đình thì không phải lòng từ bi. Trái lại, thương bao la bên ngoài mà bỏ sót gia đình, ấy cũng không phải từ bi. Lòng từ bi nghĩa là thương khắp hết, nhưng bao giờ cũng từ gần đến xa.

Giống từ bi phải gieo trên đất đau khổ, nhưng cần phải có ánh nắng trí tuệ nó mới nảy lộc, đâm chồi và đơm hoa kết quả. Có trí tuệ, lòng thương không bị mù quáng lạc lầm. Khi ta gặp hai người cùng đói lạnh, nhưng một người vẻ mặt hiền hòa, cử chỉ đằm thắm dễ thương, một người gương mặt dữ dằn, cử chỉ thô bạo đáng ghét. Nếu thiếu trí tuệ xét đoán, ta chỉ ưng cứu người dễ thương, mà làm ngơ trước người đáng ghét. Thế là, lòng thương đã bị thiên lệch, không còn nghĩa từ bi.

Đã sẵn lòng thương, nhưng chỉ biết thương để mà thương thì chưa đủ biểu hiện lòng từ bi. Muốn thể hiện lòng từ bi, ta phải ra tay cứu giúp mọi người. Thấy cái khổ của người, ta vẫn coi như cái khổ của ta. Phải thật tâm tận lực cứu giúp họ, mà không mong một sự đền đáp nào cả. Nếu cứu giúp mà mong đền đáp, ấy chỉ là sự cho vay. Cứu giúp không đợi việc lớn mới quan trọng, dù việc bé tí ti mà làm với một tâm lượng rộng lớn, tự nhiên nó trở thành lớn. Đức Phật xưa kia vẫn hoan hỉ xỏ kim hộ ông A-na-luật-đà. Vì thế, khi ta cứu giúp người, ta không nên chọn lựa việc nhỏ, lớn cũng như kẻ thân, sơ.

Muốn bảo vệ lòng từ bi không cho thối thất, ta phải hạn chế sự phóng túng của mình. Một câu nói đùa có thể tổn thương người, ta không nên nói. Một hành động chơi vui có thể hại mạng loài vật, ta vẫn không chơi. Nhà luân lý học Pháp, ông Vauvenargues nói: “Đối với một người hung tợn nhất dù ai nói thế nào mặc lòng, nếu người ấy hãy còn yêu loài vật thì chưa phải là một người hung tợn.” Người ta nhiều khi vì một trò chơi mà đã tàn sát sanh mạng các loài vật, như bắn chim chẳng hạn. Họ có biết đâu, đó là những hành động làm tiêu ma lòng từ bi của họ.

Cần cho lòng từ bi tăng trưởng, ta phải dẹp bớt tánh vị kỷ, luôn nhớ đến người, đến mọi loài hơn nghĩ đến mình. Nếu có lợi cho bản thân ta, mà đau khổ người hay vật thì nhất định không làm. Cố làm việc hại người, hại vật để thỏa thích thị dục mình, hành động ấy phi từ bi. Sự ăn chay của người tu nhằm mục tiêu này.

Lòng từ bi là ban rải hạnh phúc cho người, cho muôn loài. Cây thiếu nhựa sống thì cây khô héo, con người thiếu từ bi con người khổ não. Có từ bi thì nhân loại mới yêu thương nhau, tương trợ nhau. Làm gì có chiến tranh, làm gì có tang tóc, nếu mọi người sẵn lòng từ bi. Trái lại, nếu con người không có chút từ bi thì thế giới này sẽ thấy dẫy đầy lửa và máu! Cho nên muốn đem hòa bình cho nhân loại, đem hạnh phúc cho chúng sanh, chúng ta phải cực lực cổ võ từ bi. Từ bi đến đâu thì đau thương tan đến đấy.

Từ bi đã quan trọng dường ấy, là một thiếu niên, em đâu thể nào cam chịu để cho lòng từ bi của mình phải tiêu mòn. Em hãy cố gắng khai thác và thực hiện từ bi. Chỉ mong có năng lực thiếu niên mới kham san sớt, gánh vác những đau khổ, nhọc nhằn thế cho người. Nếu đợi đến ngày da dùn gối mỏi, người ta mới nghĩ đến việc từ thiện, việc cứu vớt người thì đã quá muộn màng!

Khoảnh đất tâm hồn của thiếu niên trong trắng, nên rất thích hợp cho giống từ bi sanh trưởng. Vậy em hãy cụ thể hóa lòng từ bi trên hành động, lời nói và ý nghĩ của em. Làm thế nào khi nhìn vào em, người ta thấy là hiện hình của từ bi. Được thế, đời sống của thiếu niên mới đáng quí đáng mến.

TUỔI TRẺ VỚI VẤN ĐỀ TRÍ TUỆ

Con người sở dĩ được gọi là con người là do có trí khôn ngoan và biết luân thường đạo đức. Giá trị của con người không phải ở thể xác to béo mà ở tinh thần sáng suốt chân chánh. Nếu một người nào không có hiểu biết gì, hoặc có một mớ hiểu biết hỗn tạp đen tối thì còn gì đau khổ bằng!

Vì thế, mỗi con người chúng ta cần phải trau giồi trí tuệ để trở nên một con người xứng đáng với danh nghĩa của nó. Nhất là tuổi trẻ, tuổi đầy triển vọng phát huy trí tuệ, như tấm gương sẵn sàng phản chiếu ánh sáng, nhưng phải chờ có ánh đèn, ngọn đuốc, ánh sáng mặt trời…

Tuy con người cần phải trau giồi trí tuệ, nhưng phải biết trí tuệ là gì? – Trí tuệ là kiến thức rộng rãi, cao sâu, sáng suốt. Nhờ trí tuệ, con người biết hợp đoàn bảo vệ nhau, biết tổ chức guồng máy xã hội, biết chế tạo những khí cụ nông nghiệp, kỹ nghệ…, biết phát triển khả năng mình, biết tư tưởng những triết lý cao siêu, biết ăn ở theo luân lý đạo đức. Tóm lại, trí tuệ là một kiến thức sáng suốt, hướng dẫn con người sống hợp lý và vươn lên.

Tuổi trẻ trí óc còn minh mẫn nhưng rất trống, rất khát khao thu nhận những kiến thức của phụ huynh, của sư hữu, của tiền nhân truyền lại. Như dạ dày trống rỗng đang đón chờ những thức ăn dồn vào để tiêu hóa, nhưng phải là thức ăn có chất bổ dễ tiêu mới có sinh tố bồi dưỡng cơ thể, nếu thức ăn chứa nhiều chất độc và khó tiêu thì sẽ hại dạ dày và hại luôn cả cơ thể. Trí óc bạn trẻ cũng thế, thu nhận những kiến thức cao đẹp chân chánh sẽ tự cải đổi đời sống cá nhân mình trở nên chân chánh và góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp. Trái lại, chỉ thu nhận toàn những kiến thức điêu ngoa gian trá thì cá nhân mình đã hư hỏng mà xã hội cũng đến nguy cơ.

Hun đúc cho trí tuệ bạn trẻ được sung mãn, rực rỡ là nhiệm vụ to tát của phụ huynh. Những người nhịn ăn, nhịn mặc, dành để tài sản cho con cháu sau này là thương con cháu đã đành; nếu không giáo dục về phần trí tuệ vẫn còn là một khuyết điểm lớn. Có những người lưu lại sự nghiệp cho con, con chưa được hưởng đã qua tay người khác, nên dành để tài sản chưa phải là kế vĩnh viễn cho con cháu. Sự quan trọng và chắc chắn là trí tuệ; dạy dỗ cho con cháu được trí tuệ chân chánh là kẻ làm cha mẹ biết nghĩ đến sự lâu dài cho con cháu. Trí tuệ không ai có thể cướp được, cũng không ai lường gạt được, nó lại soi đường cho mình, cho mọi người khỏi sa chân vào hầm hố, nên rất quí báu.

Phụ huynh đã có bổn phận với con cháu, thì những ông thầy há không có trọng trách hay sao? Thế hệ trước đã qua, để lại cho thế hệ sau những tư tưởng, những kinh nghiệm, kẻ làm thầy có bổn phận thâu nhặt những tư tưởng, những kinh nghiệm ấy, rồi nhào nặn lại cho hợp thời, sẽ đem hun đúc vào tâm não tuổi trẻ để được phát huy sáng tỏ. Kho tư tưởng kinh nghiệm của người xưa để lại rất dồi dào phong phú, nếu kẻ làm thầy không chịu khó chọn lọc đem ra dạy bảo học sinh cho kết quả, để đầu óc các bạn trẻ sau này rỗng tuếch, ấy là tội rất to của kẻ làm thầy.

Tuy thế, các bạn trẻ không nên ỷ lại cả vào phụ huynh, vào giáo sư, mà phải tin tưởng vào phần tự lực, tự trau giồi trí tuệ cho mình. Đành rằng nhờ sự chỉ dạy của cha mẹ, sự hướng dẫn của giáo sư, nhưng phải cộng thêm sức cố gắng của mình mới có kết quả. Nếu vô phước cho một số các bạn nào, sớm không được sự chỉ dạy của cha mẹ, và gần gũi thầy bạn, các bạn phải cố gắng gấp bội lần hơn, để tự trau giồi trí tuệ cho mình.

Chúng ta đã biết, có xác thịt mà không có trí tuệ thì ấy chỉ là một khối da thịt biết ăn, biết mặc mà thôi. Người không trí tuệ khác nào kẻ lạc lõng trong rừng đêm không trăng sao, không đèn đuốc, còn gì đau khổ bằng! Phật dạy:

Nỗi khổ bị thiêu đốt ở địa ngục, nỗi khổ con lạc đà chở nặng, nỗi khổ đói khát của loài quỉ đói chưa gọi là khổ, ngu si không biết lối đi mới thật là khổ.

Lẽ đương nhiên muốn thoát khổ, chúng ta cần phải có trí tuệ. Nhưng trí tuệ thế nào mới thoát khổ được? Đấy là điểm quan trọng trong bài này.

Bởi vì có lắm người khôn ngoan mà gian trá, xảo quyệt, họ lợi dụng trí sáng suốt của họ để lừa người, bịp chúng, nên càng khôn ngoan càng gây đau khổ cho chính họ và tang tóc cho mọi người. Như Tào Tháo ở Trung Hoa thời xưa, sự gian hùng của y đã làm cho bao nhiêu người thời ấy phải điêu linh tang tóc. Trên lịch sử hiện đại còn biết bao nhiêu kẻ như thế và hơn thế nữa. Một khi lừa bịp được người, họ càng hăng hái tự đắc mà quên cả tội lỗi đã gây. Nên có câu: “Có học thức không có đạo đức là người ác…” Những kẻ như thế, ai dám bảo họ là ngu? Nhất định họ là người có trí, nhưng là “TRÍ ĐIÊU NGOA”.

Lại một hạng người khôn nữa, họ thông minh lắm, học rộng nhớ nhiều, họ tưởng như trí thông minh của họ không còn ai bì kịp, do đó đâm ra tâm khinh người ngạo vật. Những người ấy coi Trời Đất bằng nắm tay, toàn cả người trong xã hội bằng cây kim. Họ khinh tất cả và xem thường tất cả. Đi đâu họ cũng mang theo cây cờ ngã mạn, gần ai họ chỉ gây sự bực tức cho người. Nếu ai gắng gượng giới thiệu với họ: “ông kia tài giỏi, người nọ đức cao…”, thì chỉ nhọc một phen bĩu môi của họ mà thôi. Hạng người này không tài nào khuyên dứt họ được, như hòn đá cứng khó mong xông ướp được mùi thơm. Nhà văn Cao Bá Quát điển hình cho nhóm người này, kết cục đời ông chỉ là:

Ba hồi trống giục mồ cha kiếp,
Một nhát gươm đưa bỏ mẹ đời!

Trí ấy gọi là “TRÍ KIÊU MẠN”.

Trí điêu ngoa, trí kiêu mạn nguy hiểm dường ấy, tại sao người ta lại hun đúc nên nó? – Điều này bởi nhiều lẽ:

Trước nhất là phụ huynh, phụ huynh chỉ muốn con em khôn ngoan, mà không giản trạch cái khôn ngoan chân chánh, cái khôn ngoan tà ngụy. Cứ dồn hết vào đầu óc non nớt ấy tất cả cái khôn ngoan ở thế gian, tưởng thế là thỏa mãn nhu cầu của tuổi trẻ và sẽ trở nên hay. Đâu ngờ đó là lối đầu độc trẻ con trong lúc trí óc rất vô tư không biết chọn lựa. Như người kia cứ dồn cả thức ăn vào dạ dày khi nghe nó đòi hỏi, mà không phân biệt thức ngon, dở, lành, độc, kết quả rồi ôm bụng kêu đau.

Kế là thầy. Ông thầy không phải là cái máy phát thanh, cứ phóng hết những điều mình đã thâu một cách vô tư, để mặc thính giả hiểu sao cũng được. Thính giả của các ông là nhóm tuổi trẻ măng tơ đang bỡ ngỡ trước ngưỡng cửa đời, như khách bộ hành chưa thuộc đường, đang ngỡ ngàng đứng trước ngã tư, kẻ hướng dẫn có bổn phận giải thích và hướng dẫn cho đến đích. Nếu để cho khách mặc ý chọn đường thì làm sao bảo đảm được con đường chánh đại.

Rốt sau là xã hội. Người trong xã hội phức tạp, nào tốt, nào xấu, nào lành, nào dữ v.v… Những gương tốt lành lại hiếm, mà gương xấu dở lại nhiều. Như trăm màu ngàn sắc vận hành trước mặt gương thì lạ gì phản ảnh trung thành của mặt gương có trăm màu sắc. Đầu óc của thiếu niên bị hun đúc bởi những tập quán, tư tưởng, hành động của người trong xã hội, nên rồi họ trưởng thành theo cái đà ấy – đà điêu ngoa, ngã mạn – rất dễ dàng hư hỏng.

Nói thế, không phải là đổ trút mọi tội lỗi cho phụ huynh, thầy, người trong xã hội, mà các bạn trẻ phải nhận lấy trách nhiệm quan trọng hơn cả. Giả sử phụ huynh, thầy, bạn, người trong xã hội rất vô tư đối với sự giáo dục các bạn, nhưng cũng tùy thuộc tánh tình của các bạn mà hấp thụ điều hay, điều dở. Ví dụ: thằng Nhân, thằng Tợn ngồi nghe ông cụ kể chuyện cổ tích “ông Thiện ông Ác”. Trong khi nghe, thằng Nhân yêu chuộng hành động của ông Thiện, trái lại thằng Tợn thích việc làm của ông Ác. Và sau khi nghe, những hành động ấy vẫn còn lảng vảng trong tâm não hai đứa trẻ. Như vậy, hai quan niệm sai biệt ấy lỗi tại ai? Lại một thí dụ nữa: Thằng Ái và thằng Bạo cùng đứng xem đứa trẻ mục đồng bắn chim. Khi thấy chim bị trúng đạn, Bạo vỗ tay reo cười, ngược lại Ái bùi ngùi thương hại. Ấy cũng cùng xem một hành động mà hai đứa bé có cảm xúc khác nhau, lý do tại đâu? Nếu không phải ảnh hưởng tánh tình là gì? Do đó sự hư hỏng của các em thiếu niên ngày mai, các bạn phải chịu trách nhiệm một phần lớn, nếu không nói là tất cả.

Đấy là tướng trạng và lý do của trí điêu ngoa, trí kiêu mạn, còn phần trí tuệ chân chánh là thế nào?

Người có trí tuệ thì biết phân biệt lẽ chánh tà, biết nhận định việc phải quấy và biết tôn sùng điều thiện, khinh chê điều ác. Trí phân biệt ấy sẽ đưa ta xa tà gần chánh, bỏ ác theo lành, sửa quấy thành phải. Nó là động cơ thúc đẩy con người từ hạng phàm phu tiến lên quả vị Hiền Thánh. Nhờ trí này, người ta kiên quyết tìm phương pháp giải khổ cho mình và quả cảm cứu giúp mọi người. Sự phát minh của các nhà khoa học, sự hi sinh cứu đời của các đức giáo chủ đều do trí tuệ làm động cơ.

Trí tuệ có công dụng chiếu tan những mây mờ giả ảo, bày tỏ chân tướng của vạn vật ở giữa cuộc đời này. Như ngọn đèn sáng soi vào nhà tối, các vật trong nhà đều hiện bày tỏ rõ. Nó cũng đủ công năng đưa người thoát vòng đau khổ. Cho nên Phật dạy:

Trí tuệ là con thuyền đưa người qua bể khổ, là thứ lương dược chữa lành mọi căn bệnh của chúng sanh, là chiếc búa bén chặt gãy cây phiền não, là ngọn đèn sáng chiếu tan tất cả tối tăm.

Nhờ trí tuệ người ta mới thấu đạt chân lý, trở thành bậc giác ngộ.

Các bạn trẻ! Xin lỗi các bạn, có khi nào các bạn muốn người ta gọi mình bằng thằng “lưu manh” hay đứa “xảo quyệt” chăng? Chắc hẳn là không. Các bạn có muốn người ta mến mình như vị Hiền, quí mình như ông Thánh chăng? Chắc là có. Vậy là các bạn ghét “trí điêu ngoa”, “trí kiêu mạn” lắm rồi; các bạn đều tỏ ra yêu chuộng “trí tuệ”.

Có lẽ các bạn đã băn khoăn tự hỏi phải làm sao để được trí tuệ? Tôi xin góp ý kiến với các bạn.

Muốn được trí tuệ, các bạn phải học Thánh giáo. Thánh giáo tôi muốn nêu ra đây là kinh điển nhà Phật vậy. Chắc bạn cho tôi là quá chủ quan. Phải thế, thưa bạn, tất cả kinh điển nhà Phật đều nhắm vào sự xây dựng trí tuệ làm căn bản. Như vừa nghe hai chữ đạo Phật, bạn đã thấy ý nghĩa đó rồi. Chính đạo Phật là đạo giác ngộ, cho nên toàn thể hệ thống giáo lý nhà Phật đều nhắm mục tiêu ấy. Thái tử Tất-đạt-đa, sau khi giác ngộ dưới cội bồ-đề, mới được gọi là Phật, tức là bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nhờ sự giác ngộ ấy, nên mỗi lời Ngài phán ra đều thích hợp với chân lý.

Bạn thử nghĩ, trước đây trên hai mươi lăm thế kỷ, đức Phật đã quả quyết tuyên bố rằng: “Chúng sanh và thế giới là nhân duyên kết hợp mà thành.” Câu nói ấy đã phủ nhận tuyệt đối đấng Tạo hóa hay Thượng đế, trong khi khắp Á, Âu người ta đều phủ phục và hiến dâng tất cả sanh mạng cho Thượng đế. Câu nói ấy mãi đến ngày nay – thời đại nguyên tử – cũng không ai chối cãi được. Những câu giá trị tương đương như vậy còn bàng bạc khắp trong biển giáo lý của Ngài. Vì thế, bạn cần phải học, học để khai thông ý kiến chân chánh của bạn.

Muốn được trí tuệ, bạn phải gạt bỏ những thứ phiền não làm rối loạn tâm hồn bạn. Phiền não tức là những thứ giận, hờn, thương, ghét, buồn phiền… Bạn có nhớ chăng, mỗi khi bạn nổi cơn giận dữ thì trí khôn ngoan của bạn liền đó bị lu mờ. Đôi thanh niên nam nữ yêu nhau thắm thiết, họ sẽ mù quáng khi gặp hoàn cảnh buộc phải lìa nhau. Khi bạn ghét ai, dù người ấy đưa ý kiến rất hay, bạn cũng không thèm nghe. Đó! bạn thấy chưa, phiền não nó che đậy khiến con người mê tối, nên trước bạn phải gạt bỏ nó. Bạn sống thản nhiên và bình tĩnh một chút là bạn sẽ thấy trí tuệ trở về với bạn.

Lại nữa, muốn được trí tuệ, bạn phải lóng lòng trong sạch. Bạn có thấy không, mặt nước hồ trong trẻo thì bóng trăng và vạn vật in hình. Tâm hồn ta yên tĩnh thì chân lý của vũ trụ sẽ hiện bày. Để tập cho tâm hồn yên tĩnh, mỗi tối trước khi ngủ, bạn ngồi yên chừng mười lăm phút để phản tỉnh tư tưởng và hành động của bạn trong ngày qua. Nếu thấy có những cái dở, bạn phải cương quyết chừa; nếu thấy có cái hay, bạn gắng sức phát triển. Thế là dần dần, bạn sẽ phát sanh trí tuệ.

Còn điều đại tối kỵ với trí tuệ mà bạn phải tránh, là rượu mạnh sự chơi bời trác táng. Rượu là kẻ thù số một của trí tuệ, vì trí tuệ là do yên tĩnh phát sanh, mà rượu là thứ kích thích hỗn loạn. Bạn thử thí nghiệm, khi uống vào một cốc rượu mạnh, bạn có thể giải được một bài đại số khó hay không? Nếu muốn giải được, bạn cần phải yên tĩnh. Sự chơi bời trác táng tai hại cũng tương tợ như vậy. Nếu muốn có trí tuệ, bạn phải cữ hẳn hai điều này.

Các bạn trẻ! Để kết luận bài này, tôi mong mỏi các bạn cố gắng thực hành mới mong phát huy trí tuệ. Các bạn rất đủ điều kiện khai thác trí tuệ. Các bạn hãy cố gắng lên, đừng để ngày tháng lững lờ trôi, cuối cùng các bạn vẫn sống triền miên trong đêm tối. Các bạn đừng để phải hối hận như anh chàng cùng tử kia mang sẵn trong chéo áo một viên ngọc quí, mà mãi lang thang đầu làng, xó chợ xin ăn, đợi có người biết đến chỉ, mới sực nhớ đem dùng. Rất muộn thay!

TUỔI TRẺ VỚI VẤN ĐỀ GIẢI THOÁT

Đã lâu, đa số thanh niên quan niệm giải thoát của đạo Phật là siêu hình huyền hoặc đâu đâu, để dành riêng cho những người chán thực tại cầu vào chốn hư vô tịch diệt. Thanh niên là thích thực tế, ưa hoạt động nên không cần để ý đến. Nhưng nếu các bạn chịu khó một chút, nghiền ngẫm lại vấn đề giải thoát, các bạn sẽ than rằng: “Chúng ta đã lầm! Giải thoát là thực tế, là hoạt động, là hoài vọng mà mỗi chúng ta đang thiết tha ôm ấp, đâu phải là chuyện xa xôi.” Do đó, đem vấn đề này bàn với các bạn, theo tôi thiết nghĩ không phải là việc vô bổ.

Khi đi sâu vào vấn đề, trước phải hiểu nghĩa chánh của nó. Giải thoát là gì?

Giải là cởi mở mọi sự trói buộc. Thoát là vượt ra ngoài vòng trói buộc một cách tự do tự tại. Giải thoát là cởi mở tất cả xiềng xích trói buộc, giam hãm con người, để tâm hồn và thể xác hòa điệu cùng vũ trụ bao la một cách tự do tự tại. Để được dễ hiểu và gần gũi hơn, chúng ta có thể tạm dùng danh từ tự do thay cho giải thoát.

Có bạn trẻ nào mà không yêu chuộng tự do. Nếu bạn là người sanh trưởng nơi thôn dã, bạn có ưng giam hãm suốt đời mình dưới nếp nhà tranh ấm cúng, trong lũy tre làng thân yêu mãi chăng? Hay bạn ước mơ có ngày sẽ bước chân ra khỏi cổng làng, vượt lên đỉnh núi cao chót vót, nhìn con sông bạc uốn quanh, thửa ruộng vàng mơ dợn sóng. Và một buổi chiều xuân mát mẻ, bạn đứng trên bãi cát trắng phau, lặng nhìn những đợt sóng xanh gầm thét, rượt đuổi nhau trên mặt trùng dương bát ngát, những cánh buồm trắng đang nhấp nhô ở chân trời mờ đục. Chắc là bạn không ưng đóng khung kiến thức, mà muốn phóng tầm mắt nhìn khắp nước non.

Hoặc bạn là người trưởng thành nơi đô thị, bạn có thỏa mãn suốt đời mình cứ khuôn trong gian nhà nóng bức, quanh quẩn chỉ trong vòng thành phố nghẹt người ấy không? Hẳn là không. Bạn đã ôm mộng một ngày nào đó sẽ đạp gió tung mây để góp mặt cùng mọi người trên khắp năm châu thế giới.

Như thế, là các bạn đã ôm hoài vọng giải thoát sự giam hãm, sự đóng khung của kiến thức rồi.

Bạn là một thanh niên, có bao giờ bạn muốn đời mình bị lệ thuộc vào kẻ khác. Nếu vô phước đã bị, bạn đã có hoài bão một ngày kia bạn sẽ thoát khỏi và rồi vĩnh viễn không bị lệ thuộc vào ai. Đó là bạn đã có hoài vọng giải thoát sự lệ thuộc của cá nhân vậy.

Hơn thế nữa, chắc nhiều khi bạn cũng mơ tưởng phải làm sao cho thể xác hoàn toàn tự do, tâm hồn khoáng đãng, không còn bị một sự chi phối nào cả. Thế bạn không có mộng giải thoát là gì?

Nói như vậy, không có nghĩa là muốn giải thoát phải bỏ gia đình sống theo lòng dục của mình. Như có một ít thanh niên hiện tại, hấp thụ được một ít cặn bã của nền văn minh Âu Tây, rồi lên tiếng đòi hỏi tự do theo sở thích cá nhân. Họ cho sống trong gia đình bị sự ép buộc câu thúc theo khuôn lý đạo đức khiến họ hết tự do, cần phải đả phá luân lý gia đình, đề cao sự phóng túng cá nhân là được tự do. Quan niệm thế, là lầm to! Ở trong gia đình mà trên ra trên, dưới biết bổn phận dưới, cha hiền con thảo không phải tự do là gì? Nếu sống một mình mặc tình ngông ngông nghênh nghênh, lang thang vô gia cư, vô sự nghiệp thì ai dám bảo đó là tự do?

Thảng hoặc có người bất chấp luật lệ hiện hành của quốc gia, nghênh ngang muốn làm chi thì làm. Họ cho rằng còn theo luật lệ là còn bị câu thúc. Cái hiểu lầm ấy rất hại cho xã hội. Nếu một quốc gia mà mặc tình ai muốn cướp của, giết người… tùy ý thì còn gọi được là quốc gia không? Con người mà tự do đến mức đó, còn có thể gọi là tự do nữa chăng? Thí dụ: Những đại lộ tại Sài Gòn, nếu tất cả loại xe chạy tự do, không cần theo luật lệ đi đường, theo sự điều khiển của cảnh sát viên thì một ngày gây ra biết bao nhiêu tai nạn! Người ta sẽ được tự do, khi nào mọi người đều tuân theo kỷ luật một cách trung thành.

Lại có người bảo: “Đạo Phật nói rằng trọng tự do, mà mới vào đạo đã phải giữ giới, như vậy là trói buộc, chớ làm gì có tự do.” Đó là một hiểu lầm nữa. Chúng ta thấy đoàn xe lửa chạy trên đường rầy, nếu có chiếc nào bất chấp đường rầy thì chiếc ấy ra sao? Hẳn là rơi xuống ruộng, lật nhào và nằm ỳ một chỗ. Như vậy, đoàn xe lửa muốn chạy suốt đến đích của nó đã định, phải theo đường rầy một cách trung thành. Cũng thế, người tu theo đạo Phật cốt mong được giải thoát, giới luật Phật chế ra là con đường rầy để đưa đến mục đích giải thoát. Như Phật dạy đệ tử phải giữ giới không được trộm cướp, nếu Phật tử cãi đi trộm cướp, có ngày bị còng trói và giam hãm trong khám đường. Ấy đủ biết người giữ giới, người không giữ giới, tự do hay mất tự do thế nào rồi.

Các bạn! Những điều trình bày trên cho thấy tai hại của sự hiểu lầm về tự do hay giải thoát. Giờ đây, để thực hiện giải thoát, chúng ta phải theo tuần tự của nó.

Trước giải thoát phần thể xác. Chúng ta không nên hoàn toàn ỷ lại vào ai, dù cha mẹ cũng thế. Người sống chỉ biết ỷ lại là người mất tự chủ. Khi ta mong nhờ ai một điều gì, nếu người ấy bảo ta làm một vài việc không thích ý, nhưng vì để được việc mình, ta buộc lòng cũng phải làm. Đó mới nhờ một việc thôi, còn mất tự do như vậy, phương chi những kẻ tất cả đều trông cậy vào người khác, thì khác nào khúc gỗ, mặc tình ai lăn đâu thì lăn, chặt, cưa gì cũng được. Để sống một cuộc đời giải thoát ta phải tự lực tự cường, sự giúp đỡ của cha mẹ anh em nếu có chỉ là một phần phụ thôi.

Cũng phần thể xác, chúng ta cần phải giải thoát những bịnh ghiền (nghiện). Có ai tự thuở lọt lòng mẹ đã mang bệnh ghiền thuốc điếu, ghiền rượu, ghiền á phiện… đâu, thưa các bạn? Bởi vì do phong tục tập quán của xã hội, hoặc vui chơi tập dần dần thành mang bệnh ghiền. Chúng ta thử xét qua những người mang bệnh ghiền ấy như thế nào.

Người mắc bệnh ghiền thuốc điếu. Tuy thuốc điếu không đắt giá mấy, tùy túi tiền nặng nhẹ mà hút thuốc ngon, thuốc dở và cũng không có hại làm say sưa người; nhưng đã là ghiền thì đều bị ràng buộc cả. Người mắc bệnh ghiền thuốc điếu, nếu khi gặp hoàn cảnh phải nhịn cả buổi, hoặc trọn ngày; lúc ấy ở trên gió ai nhả vài làn khói trắng bay xuống, vì còn tự ái, ý chưa nhất định đi xin mà cặp chân nhắm hướng bước đến. Khi cần đi đâu thì kè kè một đãy, nào giấy, nào hộp quẹt, nào thuốc, nếu lỡ quên một thứ thì nghe bực tức khó chịu.

Đến ông ghiền rượu. Nếu ông đã quen mỗi sáng một cốc, mỗi chiều một cốc, khi nào thất cữ một cái là ông ụa ọe hằng giờ, ăn không ngon, ngủ không được, rầy vợ, đánh con. Trái lại, sức ông chở nổi một cốc, mà ép đến ba, bốn cốc, thì cũng ụa mửa lai láng, cũng rầy vợ, đánh con. Tới cữ ghiền mà không có rượu, đang làm việc gì cũng bỏ, chạy ngược chạy xuôi đi mượn tiền, hoặc mua chịu mua đựng. Đã mắc phải cái cảnh ấy thì còn gì là tự do, tự chủ.

Rất nguy hiểm là ông ghiền á phiện. Tiêu nhà hết của, thân thể hao mòn cũng do bị bệnh ghiền này. Cũng may, hiện giờ Chánh phủ đã cấm, không cần phải bàn đến.

Ở đời rất mâu thuẫn, người ta thích tự do, ưa giải thoát mà cũng ưa tập những bệnh ghiền. Khi đã mang một bệnh ghiền là đã tự lấy dây cột trói mình một lớp. Càng mang nhiều bệnh ghiền là tự cột trói mình càng dày càng chặt, những người ấy biết bao giờ trông thấy được chân trời tự do giải thoát. Bởi vậy, thanh niên các bạn đã yêu chuộng tự do, yêu chuộng giải thoát, các bạn nên lánh xa những sự trói buộc này, đừng để mình tự mâu thuẫn lấy mình.

Như thế, mới giải thoát về hình thức. Đến đây tiến lên một mức nữa, giải thoát tâm hồn.

Về mặt tâm hồn, các bạn nên ý thức rằng: “Không ai cởi mở được cho ta, chúng ta phải tự cởi mở lấy.” Các bạn đừng nên phó thác cả tâm hồn mình vào một đấng thần linh, một đức Phật hay một Thượng đế… nào để mong cứu rỗi. Phật dạy: “Các người phải tự thắp đuốc lên mà đi.” Phần thể xác chúng ta còn không thể ỷ lại được, phương chi về tâm hồn lại tế nhị hơn, mà đem phó thác cả nơi các ngài sao? Nếu người trông cậy vào một nghị lực của thần linh cứu rỗi để được giải thoát, khác nào kẻ leo núi ôm theo hòn đá to, mong nhờ sức nặng của hòn đá sẽ đưa lên tận đỉnh núi. Nói thế không phải phủ nhận sự gia hộ của các ngài, nhưng chúng ta phải nhận trách nhiệm chính tự mình cứu rỗi. Nếu có gia hộ chăng, các ngài chỉ là một phần phụ thôi. Đức Phật thường dạy:

Ta là ông thầy chỉ đường, đã chỉ đường cho chúng sanh, nhưng đi hay không đi là tùy chúng sanh, chớ không phải lỗi tại người chỉ đường.

Xác thật nhất, tâm hồn muốn được giải thoát, chúng ta phải tiêu diệt phiền não. Anh chiến sĩ muốn trên đường về tự do ca khúc khải hoàn là phải diệt tận quân thù. Nếu quân thù chưa diệt, anh chiến sĩ không mong gì có ngày khải hoàn tươi đẹp. Các bạn trẻ! Các bạn muốn tự do, muốn được giải thoát, trước hết các bạn phải trừ diệt bọn tham, sân, si… và những tánh xấu trong người. Như bạn thừa biết khám đường là chỗ không tự do, không bao giờ bạn chịu đến đó. Thế mà, một hôm có thằng nhãi con nào đó chọc tức bạn, bạn không thể dằn được, sẵn trong tay cầm khúc cây to, bạn phang cho nó một cái cho đã giận. Khổ thay! Khúc cây bị nhiệt lực của bạn đẩy quá mạnh va vào đầu, nó té xỉu, máu me lai láng. Liền đó bạn bị điệu về bót và mấy hôm sau dời sang khám đường. Ấy thế bọn tham, sân… ngày nào còn trong người bạn, ngày ấy bạn chưa được tự do. Những việc bạn biết là hại, là xấu, thế mà bị sự thúc đẩy của phiền não rồi bạn phải làm, rốt cuộc bạn phải chịu đau khổ xấu xa. Cho nên tiêu diệt phiền não ở nội tâm, là căn bản của người thích tự do, chuộng giải thoát.

Có lắm người đòi hỏi tự do, mong cầu giải thoát, mà cứ đòi hỏi nơi kẻ khác, mong cầu nơi bề trên, hoặc đôi khi chà đạp tự do của người ta để mình được tự do, những điều ấy thật là việc mò trăng đáy giếng, bắt bóng trên không, làm gì có kết quả. Sao ta không quay lại bản thân ta, tâm hồn ta để đòi hỏi mong cầu, có phải thích hợp, xác thật và chắc chắn không?

Tóm lại, tuổi trẻ là tuổi yêu chuộng tự do, yêu chuộng giải thoát. Để đạt được hoài vọng này, các bạn hãy trông cậy vào mình, tranh đấu với mình, khi dứt sạch được những bệnh ghiền, những phiền não… các bạn giải thoát hiện tiền. Để được sự hướng dẫn chân chánh, bạn hãy lấy giáo lý của đạo Phật làm tiêu chuẩn cho sự giải thoát. Phật dạy: “Tất cả nước biển chỉ có một vị mặn, tất cả giáo lý của ta chỉ có một vị giải thoát.” Sự chú trọng giải thoát như thế là tuyệt đích. Cũng vì thế, giáo lý của Phật rất thích hợp với nhu cầu với khả năng của các bạn. Các bạn hãy mạnh dạn khai triển khả năng mình càng sớm càng hay.

TUỔI TRẺ VỚI VẤN ĐỀ DIỆT DỤC

Tuổi thanh niên là tuổi hi vọng ước mơ, bao giờ cũng nuôi sẵn trong lòng những mộng đẹp. Nhờ sự hi vọng ước mơ ấy, thanh niên mới phát triển hết khả năng để đạt được sở nguyện. Thế mà, nghe đạo Phật đề cập đến vấn đề diệt dục, thật là một việc cằn cỗi khô khan, không thích hợp chút nào với tuổi đang tràn trề nhựa sống, theo quan niệm của họ. Do đó, đa số thanh niên chỉ đứng xa nhìn đạo Phật, thấy như mình không có liên hệ gì với cái đạo già cỗi ấy.

Sự thật, vấn đề diệt dục có phải bóp chết hi vọng, đốt khô nhựa sống của thanh niên không? – Nhất định là không. Đó chỉ là một quan niệm sai lầm. Diệt dục không có nghĩa là diệt tất cả ham muốn, mà chỉ là diệt cái đắm mê ngũ dục (tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ) mà thôi. Nếu nói diệt dục là diệt tất cả ham muốn thì tại sao người tu theo đạo Phật còn ham muốn làm điều thiện, ham muốn cứu độ chúng sanh, ham muốn giải thoát, ham muốn giác ngộ…? Bởi vì người đời đắm mê tiền của, sắc đẹp… cho đó là cứu kính của kiếp sống, trở thành mù quáng và nô lệ nó, nên không tìm ra lẽ chánh, Phật nói:

Người nặng lòng ái dục thì không thấy được đạo, ví như nước lóng lấy tay quậy lên, người đến không trông thấy bóng.

(Kinh Tứ Thập Nhị Chương)

Để được sáng suốt và tự do, Phật dạy người đời phải diệt cái đắm mê ngũ dục. Diệt cái đắm mê chớ không phải diệt hết các thứ ấy. Chính sự ăn uống, ngủ nghỉ đức Phật còn phải dùng kia mà. Vì thế, cần nói một danh từ đúng hơn là Thiểu dục hay Tiết dục.

Tuổi thanh niên là tuổi mong muốn ước mơ, nếu mong muốn xứng với khả năng, hợp với hoàn cảnh là tiến bộ. Trái lại, khả năng một mà mong muốn mười, ước mơ những điều huyễn hoặc viển vông, đó là đi quá đà, chỉ chuốc lấy những thất vọng và đau khổ. Như chàng nông dân kia ước mơ bà công chúa đến phải đau tương tư; hoặc người tàn tật ăn xin nọ ước mơ thành triệu phú mà quên mình đang đói lạnh… Những cái mong muốn ước mơ ấy, nếu không diệt trừ thì con người quên cả thực tại, chỉ sống với mộng tưởng không đâu. Như vậy, vấn đề diệt dục đâu không hệ trọng thiết yếu với tuổi thanh niên?

Phần đông thanh niên đều nuôi mộng to, nhưng nếu là mộng Thạch Sùng hay Sở Khanh thì những thanh niên ấy là những con vi trùng độc của xã hội. Chính họ sẽ là con thiêu thân thui mình trong ngọn lửa sắc, tài… Bởi vì khi đã say men sắc, tài, danh vọng, con người có thể quên tất cả lẽ phải, mất hết lương tri, nhất là tuổi thanh thiếu niên, tuổi bồng bột nông nổi. Xưa nay biết bao người khi đứng ngoài vòng sắc, tài, danh vọng, họ là bạn tốt, chồng hiền, con hiếu… Nhưng đến lúc bị sắc, tài, danh vọng làm lòa mắt, họ sẽ trở thành con bất hiếu, chồng phụ bạc, người phản bạn… Do đó, nếu không hạn chế tâm tham dục, thanh niên rất dễ lao mình xuống hố trụy lạc.

Tuy nhiên, hạn chế tham dục không có nghĩa là ngăn bước tiến của thanh niên, ấy là hướng họ tiến đúng đường, hợp đạo lý. Lòng ham muốn của thanh niên không cùng, không tận, nếu mở khuôn luân lý, đạo đức cho nó mặc tình bay chạy thì thế giới này sẽ trở thành địa ngục, con người không còn nhân phẩm. Nói thế không phải cấm đoán thanh niên không cho ham muốn, ở đây chỉ cần xoay chiều ham muốn ấy trở thành hữu ích và hướng thiện là tốt.

Giáo lý đạo Phật dạy diệt dục, cũng giáo lý đạo Phật dạy tăng trưởng dục. Nếu không nhận định kỹ, người ta thấy mâu thuẫn ở điểm này. Bốn món Như ý túc, trong Ba muơi bảy phẩm trợ đạo của Phật dạy mà Dục như ý túc là đứng đầu, kế mới Tinh tấn. Lại câu thường ngôn của Phật tử nói: “Tu hành vô dục, đạo quả nan thành.” Thật vậy, có ham muốn người ta mới gắng sức chịu khó làm việc hay tu hành. Thế là, cái ham muốn phải có và đặt nó đứng đầu, khi bước chân vào đạo Phật. Đạo Phật cấm cái dục ích kỷ, sai lầm và đau khổ, nhưng dạy tăng trưởng cái dục vị tha, sáng suốt và an lạc.

Cái dục hợp lý hữu ích ấy, thanh niên cần phải có và phải có thật to. Như ham muốn làm việc xã hội, giúp ích đồng bào… những cái ham muốn này càng to chừng nào thì danh nghĩa thanh niên càng xứng đáng chừng ấy và xã hội sẽ nhờ đó mà tươi đẹp, vui vẻ biết bao!

Lại ham muốn mở mang kiến thức, khai thông trí tuệ, thanh niên không thể thiếu được, mà phải có một cách thiết tha. Vì trí thức là cái cần có của con người, nên thanh niên phải gắng công khai thác nó. Nhờ có ham muốn mở mang trí thức, các cậu học sinh mới hăng hái học tập, mới nhẫn nhịn được những cơn quở phạt của giáo sư và mới đạt được bản nguyện. Nếu một học sinh học chỉ vì sự bắt buộc của cha mẹ, đến trường để tránh việc gia đình… thì học sinh ấy chỉ là những thằng bù nhìn không hơn không kém. Thế là thành công trên việc nhân nghĩa, đạt được trí tuệ cho mình đều do ham muốn làm động cơ.

Nếu là một thanh niên Phật tử, vấn đề ham muốn lại càng to gấp bội phần hơn. Bởi vì đã xưng mình là con Phật, là đã ám tàng mong muốn làm bậc siêu nhân. Do đó, Phật tử lúc nào cũng một lòng chăm chăm ham muốn ban vui cứu khổ cho mọi loài. Họ say sưa làm việc bố thí, say sưa lo cứu độ chúng sanh. Bởi lòng ham muốn thiết tha ấy, rất nhiều Phật tử coi mạng sống mình nhẹ hơn bông, xem nỗi đau khổ của người nặng hơn đá, họ đã hi sinh làm được những việc khó làm. Nếu đã xưng là Phật tử mà không phát tâm ham muốn ban vui cứu khổ cho người, thì kẻ ấy là cái bia khắc tên không.

Chẳng những chỉ ham muốn ban vui cứu khổ cho mọi loài, mà Phật tử cần phải thiết tha mong muốn được giác ngộ và giải thoát. Bởi sức mong muốn này quá mạnh, nên trên đường đạo, Phật tử tinh tấn không dừng. Họ cố gắng tu tập, bền chí gạn lọc từng cái bợn nhơ phiền não trong nội tâm, như người gạn lọc từng mảnh quặng trong khối vàng. Nếu thiếu sự mong muốn, ai không thối lui trong khi gặp muôn vàn trở ngại trên đường đạo!

Phật đã đào luyện cho đệ tử cái mộng to vô kể, tức là cái mộng chuyển thế giới khổ đau thành Cực Lạc, xoay con người phàm tục trở nên Thánh Hiền. Như vậy cái dục của Phật tử rất to, mà càng to lại càng quí, vì nó hướng đúng đường.

Tóm lại, đạo Phật chủ trương diệt dục, nhưng chỉ diệt cái đắm mê ngũ dục, chớ không phải diệt cái dục cứu thế độ đời, siêu phàm nhập Thánh. Tuổi thanh niên là tuổi còn thiếu kinh nghiệm lại nhiều ham muốn, nếu không biết phương pháp tiết chế những cái ham muốn sai lầm, tăng trưởng những cái ham muốn phải hướng thì rất đáng thương hại thay! Đem vấn đề diệt dục của đạo Phật áp dụng vào đời sống thanh niên không phải là một việc kém cần thiết. Có thế, thanh niên mới sống một đời sống cao siêu quảng đại, và xã hội mới mong có ngày vinh quang rực rỡ.

TUỔI TRẺ VỚI VẤN ĐỀ HỔ THẸN

Nói đến hổ thẹn, đa số thanh niên hiện thời cho đó là tánh của đám thiếu nữ thời “khuê môn bất xuất” còn lưu lại. Những cử chỉ e lệ, rụt rè, nhút nhát là biểu hiện của tánh hổ thẹn. Vì thế với cái thời văn minh này phải thủ tiêu tánh hổ thẹn ấy đi. Nhưng với Phật giáo, tánh hổ thẹn lại được đề cao. Hổ thẹn là chiếc áo trang sức đẹp nhất của người tu. Hổ thẹn là động cơ tiến thủ trên đường hành thiện. Để giải quyết nghi vấn này, chúng ta thử xét lại coi tại sao?

Sở dĩ thanh niên hiện thời đòi tiêu diệt tánh hổ thẹn, vì hiểu hổ thẹn là mắc cỡ. Một thiếu nữ bất ngờ gặp anh chàng thanh niên thì bước đi khóm róm, lời nói ấp úng, lắm khi lại kiếm chỗ trốn là khác. Bởi sự rụt rè nhút nhát ấy khiến con người mất cả tánh tự nhiên.

Tại sao người ta lại hay mắc cỡ? Vì những người ấy không có sức tự chủ, một khi xúc cảnh đột ngột, hoặc bị ai chăm chú đến, đâm ra luống cuống, mất bình thường. Như trước con mắt chăm chú nhìn của người, họ phải cúi mặt chẳng hạn. Con người không tự chủ ấy, dù việc phải việc quấy, họ cũng thấy ngại ngùng sợ sệt trước khi nói hay làm.

Hổ thẹn không phải thế. Vì hổ là hổ với mình, thẹn là thẹn với người. Mỗi khi nghĩ đến việc quấy, ta xấu hổ tự trách rằng: Ta là con người có đủ nhân phẩm thế này, được trí khôn thế kia, mà đi làm điều quấy vậy sao? Lại vì e thẹn chúng bạn phê bình, chỉ trích, nên vừa nghĩ đến việc quấy, ta dừng ngay. Vì thế hổ thẹn là then chốt của cánh cửa tội lỗi. Duy thức học liệt hổ thẹn vào nhóm Thiện tâm sở. Hổ thẹn là một động lực ngăn điều quấy, dứt những sự lỗi lầm. Nó rất thiết yếu, quan trọng đối với người dứt ác, tu thiện.

Khi có nghĩ sai, làm quấy, mới có hổ thẹn. Nếu không nghĩ sai làm quấy, bao nhiêu người, hoặc ai đi nữa vẫn không có hổ thẹn. Hổ thẹn là di sản của tánh tự chủ, tự trọng. Con người tự chủ nên vừa nghĩ quấy là bị lương tâm giày vò hành phạt ngay. Bởi biết tự trọng nên rất thẹn thuồng, không muốn để ai chỉ trích, quở trách mình. Vì thế, hổ thẹn không có nghĩa là mắc cỡ. Nếu có, chỉ là một khía cạnh nào thôi.

Con người, nếu không biết hổ thẹn thì còn gì nhục nhã bằng. Vì chính họ không biết xấu hổ với những hành vi bất chánh, lại không sợ người phê bình chỉ trích, kẻ ấy còn việc xấu nào mà không dám làm, điều ác nào mà không dám dự. Cá nhân họ ngày càng rơi sâu xuống hố tội lỗi. Không biết hổ thẹn thì có bao giờ họ thức tỉnh ăn năn. Gia đình nào mắc phải một đứa con như thế, thật là đại vô phước. Kẻ ấy gần ai, người ta đều nhờm gớm tránh xa, như tránh xa con chuột ghẻ. Những việc thương luân bại lý, những việc tàn ác đê hèn hằng ngày diễn ra trong xã hội, đều do những hạng người này chủ động. Nếu trong một xã hội mà có nhiều người như thế, thật là một tình trạng bi đát vô cùng của xã hội ấy. Đức Phật dạy rằng:

Nếu con người không biết hổ thẹn thì trên thế gian này không còn biết phân biệt cha mẹ, anh, em, lớn, nhỏ cùng với loài cầm thú không khác.

(Kinh Tăng Nhất A-hàm, phẩm Tàm Quí)

Trái lại, người biết hổ thẹn là người cao thượng, liêm khiết. Do biết hổ thẹn đối với bản thân, người ta cố tránh lỗi, dứt quấy để bảo tồn danh dự cá nhân mình. Như cậu A một hôm thấy bạn bỏ quên cây bút chì trên bàn học, cậu định ý lấy giấu để xài. Nhưng cậu bị lòng hổ thẹn quở trách: Mình như thế này mà tham à! Nếu bạn nhìn thấy cây bút chì thì phải nói làm sao? Và còn mặt mũi nào thấy chúng bạn… Vì thế, hôm sau vào lớp, A đem cây bút chì trả lại cho bạn.

Lại nữa, tánh hổ thẹn chẳng những cải thiện con người xấu trở thành tốt, mà còn làm động cơ thúc đẩy con người tiến bộ trên đường học vấn, cũng như trong các công nghệ. Như một hôm vào giờ trả bài thầy kêu B lên, rủi hôm ấy cô bận việc, học bài không thuộc, lên đọc chữ đặng chữ mất, lộn đầu lộn đuôi… chúng bạn cười ầm lên! Thầy giáo cũng quở trách. Hổ thẹn quá, từ đó về sau dù bận việc gì, cô cũng ráng học cho thuộc, không dám bỏ một bài nào. Thật vậy, sự tranh đua học tập, sự cải tiến các ngành kỹ nghệ, đều phát nguyên từ tâm hổ thẹn mà ra.

Những chứng cớ đơn sơ ấy, có thể cho ta thấy sự có mặt của tánh hổ thẹn nơi con người nào, người ấy sẽ tốt và tiến cả mọi mặt.

Nơi cá nhân tánh hổ thẹn đã đóng vai quan trọng dường ấy, với gia đình và xã hội, hổ thẹn cần thiết thế nào? Bảo vệ được cang thường, luân lý, giữ được gia thanh quốc túy đều nhờ tánh hổ thẹn cả. Như một chàng thanh niên con nhà lễ giáo, gặp lúc vận cùng buộc phải xa quê hương tìm sanh kế. Khi ấy chàng phải sống trong cảnh chung chạ với bọn bất lương, chúng xúi giục chàng góp tay vào việc trộm cướp với chúng. Nhưng chàng nhất mực từ khước, vì chàng nhớ đến danh giá, thể thống của chàng và ông cha chàng. Nhiều khi sự sống quá thiếu hụt, chàng vừa nghĩ nên nhập bọn với chúng để sống, liền đó chàng thấy xấu hổ, tự trách: Danh giá ta thế này, tông môn ta thế ấy mà đi ăn trộm à? Thật là nhục nhã hổ thẹn! Nhờ đó, chàng dừng được ý niệm quấy, thà chịu chết chớ không làm điều nhục nhã.

Biết giữ gìn phẩm giá mình, biết tôn trọng thanh danh tổ tiên mình, những con người ấy ở trong xã hội không bao giờ dám làm điều phi pháp. Một người như thế, trăm ngàn người như thế, thì xã hội này có thể nói là cảnh Cực Lạc. Muốn xây dựng xã hội tốt đẹp, trật tự mà phủ nhận tánh hổ thẹn, thật là kẻ muốn có quả cam mà gieo hạt ớt. Bởi nhằm mục đích xây dựng xã hội, nên Phật giáo rất chú trọng phát huy tánh hổ thẹn.

Tuy thanh niên là tuổi cần phải có nhiều hổ thẹn và gắng nuôi nó càng lớn càng hay. Vì thanh niên là tuổi cầu tiến, nếu thiếu hổ thẹn tức nhiên động cơ tiến thủ đã mất. Tương lai xã hội ở nơi thanh niên, muốn biết xã hội ngày mai tốt xấu thế nào, cứ nhìn thẳng vào thanh niên hiện tại thì rõ. Mà điều kiện cần thiết tạo thành một thanh niên tốt, một phần lớn là do tánh hổ thẹn. Vì thế, chúng ta có thể kết luận rằng: Thiếu hổ thẹn, thanh niên dễ trở thành ác độc; thiếu hổ thẹn, xã hội sẽ chìm trong đen tối của dục vọng.