KINH THỦ-LĂNG-NGHIÊM TAM-MUỘI

Hán dịch: Đời Dao Tần, Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập, người nước Quy Tư
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN THƯỢNG

Tôi nghe như vầy:

Một thuở Đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật tại thành Vương xá, cùng với chúng Tăng đại Tỳ-kheo gồm ba vạn hai ngàn người, bảy vạn hai ngàn vị Đại Bồ-tát. Các vị là những bậc Thiện tri thức đạt được Đà-la-ni, thành tựu biện tài Nhạo thuyết vô tận, an trụ Tam-muội chẳng động chuyển, có thể biết rõ tuệ vô tận, được pháp nhẫn sâu xa, thâm nhập vào cửa pháp, ở trong vô lượng vô số kiếp đã tu thiện pháp đều được thành tựu, tiêu diệt điều phục các ma, hàng phục các oán địch, ở nơi cõi Phật nghiêm tịnh tối tôn, có đại Từ bi, các tướng tốt nghiêm thân, đối với đại tinh tấn được đến bờ kia, biết rõ tất cả phương tiện ngôn từ, việc làm oai nghi đầy đủ thanh tịnh, đã trụ ở ba cửa giải thoát, dùng trí vô ngại thông đạt ba đời, phát tâm quyết định chẳng bỏ tất cả, nhớ nghĩ nghĩa thú, trí tuệ kham nhẫn… Đức của những vị Bồ-tát ấy đồng như vậy.

Những vị ấy tên là Bồ-tát Chuyển Bất Thoái Pháp Luân, Bồtát Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân, Bồ-tát Vô Ngại Chuyển Pháp Luân, Bồ-tát Ly Cấu Tịnh, Bồ-tát Trừ Chư Cái, Bồ-tát Thị Tịnh Uy Nghi Kiến Giai Ái Hỷ, Bồ-tát Diệu Tướng Nghiêm Tịnh Vương Ý, Bồ-tát Bất Cuống Nhất Thiết Chúng Sinh, Bồ-tát Vô Lượng Công Đức Hải Ý, Bồ-tát Chư Căn Thường Định Bất Loạn, Bồ-tát Thật Âm Thanh, Bồ-tát Nhất Thiết Thiên Tán, Bồ-tát Đà-la-ni Tự Tại Vương, Bồ-tát Biện Tài Trang Nghiêm, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, Bồ-tát Di-lặc, Bồ-tát Tu-di Đảnh Vương, Bồ-tát Hải Đức Bảo Nghiêm Tịnh Ý, Bồ-tát Đại Nghiêm Tịnh, Bồ-tát Đại Tướng, Bồ-tát Quang Tướng, Bồ-tát Quang Đức, Bồ-tát Tịnh Ý, Bồ-tát Hỷ Vương, Bồ-tát Kiên Thế, Bồ-tát Kiên Ý,… những vị Đại Bồ-tát như vậy có đến bảy vạn hai ngàn người và những Đế Thích, Phạm vương, vua trời Hộ Thế chủ của tam thiên đại thiên thế giới, cùng với các Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầula-già, Nhân phi nhân…, những người tri thức gieo trồng nhiều căn lành và những người ưa đại pháp đều đến nơi chúng hội.

Bấy giờ, Bồ-tát Kiên Ý ở trong đại chúng, nghĩ: “Hôm nay, ta sẽ hỏi Đức Như Lai những vấn đề này: Muốn hộ trì Phật chủng, Pháp chủng, Tăng chủng; khiến cho các cung điện của ma bị che kín, biến mất; điều phục người tự đại tăng thượng mạn; người chưa gieo trồng căn lành, nay phải khiến họ gieo trồng; người đã gieo trồng căn lành, nay phải khiến họ tăng trưởng; nếu có người chưa phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì phải khiến cho họ phát tâm; người đã phát tâm thì khiến họ chẳng thoái chuyển; người đã không thoái chuyển thì khiến họ mau chóng đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; xét người có chứng đắc hay trụ các tà kiến thì đều khiến cho họ phát tâm lìa bỏ; người ưa pháp nhỏ thì khiến họ chẳng nghi ngờ pháp lớn; người ưa pháp lớn thì khiến họ vui mừng.” Khởi lên ý niệm đó rồi, Bồ-tát liền đứng dậy, trật áo vai phải, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay hướng về Đức Phật, bạch:

–Bạch Thế Tôn! Hôm nay, con muốn ở trong pháp của Đức Như Lai có ít điều hỏi han. Nguyện xin Đức Thế Tôn hứa cho!

Đức Phật bảo:

–Này Kiên Ý! Ông cứ tùy ý mà hỏi! Ta sẽ giải nói khiến cho ông vui lòng.

Bồ-tát Kiên Ý bạch Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Có Tam-muội nào có thể khiến cho Bồ-tát

mau chóng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, sẽ luôn được gặp các Đức Phật, có thể dùng ánh sáng soi khắp mười phương, được tuệ tự tại để phá các ma, được trí tự tại, được trí tự nhiên, được trí vô sinh, có khả năng chẳng theo người khác mà đạt được, chẳng đoạn dứt biện tài, đến tận đời vị lai được Như ý túc, tuổi thọ vô lượng. Người ưa Thanh văn thì thị hiện Thanh văn thừa. Kẻ ưa Bích-chi-phật thì thị hiện Bích-chi-phật thừa. Người ưa Đại thừa thì vì họ thị hiện Đại thừa. Thông đạt pháp Thanh văn mà chẳng vào đạo Thanh văn. Thông đạt pháp Bích-chi-phật mà chẳng vào đạo Bích-chi-phật. Thông đạt Phật pháp mà chẳng diệt tận rốt ráo. Thị hiện uy nghi hình sắc Thanh văn mà bên trong chẳng lìa khỏi tâm Bồ-đề của Phật. Thị hiện uy nghi hình sắc Bích-chi-phật mà bên trong chẳng lìa khỏi tâm đại Bi của Phật; dùng sức Tam-muội Như huyễn thị hiện uy nghi hình sắc của Như Lai, dùng sức căn lành thị hiện ở trên trời Đâu-suất, thị hiện thọ thân sau, vào trong bào thai, rồi sinh ra, xuất gia, ngồi ở đạo tràng của Phật… Dùng sức tuệ sâu xa thị hiện chuyển bánh xe pháp, dùng sức phương tiện thị hiện vào Niết-bàn, Dùng sức Tam-muội thị hiện phân chia xá-lợi. Dùng bản nguyện lực thị hiện pháp diệt tận…

Kính bạch Thế Tôn! Tu hành Tam-muội gì thì có thể khiến cho Bồ-tát thị hiện được những công đức như vậy mà chẳng rốt ráo vào đến Niết-bàn?

Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:

–Hay thay! Hay thay! Này Kiên Ý! Chỉ có ông mới có thể hỏi Như Lai những nghĩa như vậy! Phải biết rằng, ông có thể đem lại nhiều lợi ích an vui cho chúng sinh, thương xót thế gian, làm lợi ích an lạc cho trời người, Bồ-tát đời nay và đời sau được nhờ lợi ích. Phải biết rằng, ông đã gieo trồng căn lành sâu xa, đã cúng dường thân cận vô lượng trăm ngàn ức Đức Phật đời quá khứ, tu hành khắp các đạo, hàng phục ma oán địch. Ở trong Phật pháp, ông được trí tự tại, giáo hóa ủng hộ các chúng Bồ-tát. Ông đã biết tất cả các kho tàng Phật pháp, từng ở chỗ các Đức Phật nhiều như cát sông Hằng thành tựu sự hỏi đáp. Này Kiên Ý! Ở trong chúng hội này, Như Lai chẳng thấy Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà và các Thanh văn, người cầu Bích-chi-phật có thể thưa hỏi vấn đề đó. Chỉ có các ông, bậc Đại trang nghiêm mới có thể thưa hỏi những vấn đề như vậy. Nay ông hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ những vấn đề đó. Ta sẽ vì ông nói sự thành tựu Tam-muội của các Bồ-tát thì được công đức hơn công đức này.

Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:

–Con nguyện muốn được nghe!

Phật nói:

–Này Kiên Ý, có Tam-muội tên là Thủ-lăng-nghiêm. Nếu có Bồ-tát được Tam-muội này thì đúng như lời nói của ông, Bồ-tát đều có thể thị hiện vào Niết-bàn mà chẳng diệt vĩnh viễn, thị hiện các hình sắc mà chẳng hoại sắc tướng, đi lên khắp cõi nước của tất cả chư Phật mà đối với cõi nước không có gì phân biệt, có thể được gặp hết tất cả các Đức Phật mà chẳng phân biệt pháp tánh bình đẳng, thị hiện tu hành khắp tất cả các hạnh mà có thể biết rõ các hạnh thanh tịnh, với các trời người là tối tôn, tối thượng mà chẳng tự cao, kiêu mạn, buông lung; hiện làm sức tự tại của tất cả ma mà chẳng nương cậy vào việc làm của ma, đi khắp trong tất cả ba cõi mà đối với pháp tướng không chuyển động, thị hiện sinh ra khắp trong các đường mà chẳng phân biệt có tướng các đường, có thể khéo giải nói tất cả pháp cú, dùng ngôn từ giải bày ý nghĩa pháp cú ấy mà biết văn tự thể nhập trong tướng bình đẳng, đối với ngôn từ không có sự phân biệt, thường ở trong thiền định mà thị hiện giáo hóa chúng sinh, tu hành đến tận nhẫn, Vô sinh pháp nhẫn mà nói các pháp có tướng sinh diệt, bước đi một mình không sợ giống như sư tử.

Bấy giờ, trong chúng hội, các Đế Thích, Phạm vương, Hộ thế Thiên vương, tất cả đại chúng đều nghĩ: “Chúng ta còn chưa từng nghe đến danh tự của Tam-muội đó, huống là được nghe giải nói ý nghĩa của Tam-muội ấy. Hôm nay đến đây sung sướng được gặp Đức Phật còn được lợi ích đều được cùng nhau nghe nói danh tự của Tammuội Thủ-lăng-nghiêm. Nếu có thiện nam, thiện nữ nào cầu Phật đạo mà nghe được nghĩa lý của Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, tin hiểu chẳng nghi ngờ thì phải biết là người đó nhất định đối với Phật đạo chẳng còn thoái chuyển nữa, huống là tin rồi thọ trì đọc tụng, vì người khác giảng nói, theo đúng như lời nói tu hành.”

Các Đế Thích, Phạm vương, Hộ thế Thiên vương lại nghĩ: “Hôm nay, chúng ta sẽ vì Đức Phật Như Lai mà bày tòa ngồi Sư tử, tòa ngồi Chánh pháp, tòa ngồi Đại thượng nhân, tòa ngồi Đại trang nghiêm, tòa ngồi Đại chuyển pháp luân… sẽ thỉnh Đức Như Lai ngồi ở tòa ngồi này của ta mà nói Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm.” Trong đó, mọi người đều tự cho rằng, chỉ có ta vì Đức Phật bày tòa ngồi Sư tử còn người khác chẳng thể làm. Bấy giờ, Đế Thích, Phạm vương, Hộ thế Thiên vương đều vì Đức Như Lai bày tòa ngồi Sư tử, trang hoàng thanh tịnh, đoan nghiêm, cao lớn. Họ dùng vô lượng vải báu trải lên tòa ngồi ấy, treo lên mọi lọng báu vi diệu, họ lại dùng mọi thứ báu làm lan can, rèm cửa. Ở hai bên tòa ngồi có vô lượng cây cối cành lá bằng báu trồng xen kẽ thành hàng lối, những cờ phướn buông xuống, giăng mắc màn báu lớn, mọi thứ báu đan xen vào nhau, còn treo những chuông báu nhỏ. Dùng đủ loài hoa đẹp tung lên trên những tòa ngồi ấy, đốt đủ loại hương cõi trời để xông thơm; ánh sáng vàng, bạc và các báu xen lẫn nhau tỏa chiếu, đủ loại nghiêm tịnh không gì chẳng đầy đủ. Trong giây lát, ở trước Đức Như Lai, có tám muôn bốn ngàn ức na-do-tha tòa báu Sư tử đặt trong chúng hội mà không có sự trở ngại. Mỗi một Thiên tử chẳng nhìn thấy tòa ngồi của người khác, họ đều nghĩ rằng, riêng một mình ta vì Đức Phật bày tòa Sư tử, Đức Phật sẽ ngồi trên tòa do ta bày ra mà nói Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm. Các Đế Thích, Phạm vương và Hộ thế Thiên vương bày tòa ngồi xong đều bạch Đức Phật:

–Nguyện xin Như Lai ngồi lên tòa ngồi của con để nói Tammuội Thủ-lăng-nghiêm!

Tức thời Thế Tôn hiện thần lực lớn, ngồi lên khắp tám muôn bốn ngàn ức na-do-tha tòa Sư tử. Mỗi vị chư Thiên, đều thấy Phật ngồi trên tòa ngồi do mình bày ra, chẳng thấy các tòa ngồi khác. Có một vị Đế Thích nói với một vị Đế Thích khác:

–Này ông hãy xem, Như Lai ngồi trên tòa ngồi của tôi kìa!

Như vậy, Đế Thích, Phạm vương, Hộ thế Thiên vương đều nói với nhau: “Này ông hãy xem, Như Lai ngồi trên tòa ngồi của tôi kìa!” Có một vị Đế Thích nói:

–Hôm nay, Như Lai chỉ ngồi tòa ngồi của tôi, chẳng ngồi ở tòa ngồi của ông!

Bấy giờ, do duyên đời trước của các Đế Thích, Phạm vương, Hộ thế Thiên vương đáng được độ, lại muốn thị hiện chút ít thế lực của Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm và cũng vì muốn thành tựu hạnh Đại thừa nên Đức Như Lai khiến cho cả chúng hội đều thấy Đức Như Lai ngồi khắp tám muôn bốn ngàn ức na-do-tha tòa báu Sư tử. Tất cả đại chúng đều rất vui mừng, được thấy việc chưa từng có. Mọi người đều đứng dậy chắp tay lễ Phật, thưa:

–Hay thay! Thế Tôn uy thần không lường đã khiến cho các Thiên tử đều thỏa mãn ước nguyện.

Các Thiên tử ấy đã vì Đức Như Lai thiết lập tòa ngồi, lại thấy thần lực Đức Phật, đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đồng bạch Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con vì muốn cúng dường Như Lai, diệt trừ khổ não của tất cả chúng sinh, giữ gìn chánh pháp chẳng đoạn dứt Phật chủng, vậy nên đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nguyện khiến cho chúng con vào đời vị lai tạo được sức uy thần như vậy của Đức Phật như sự tạo tác biến hiện của Đức Như Lai hôm nay vậy.

Bấy giờ, Đức Phật khen các Thiên tử:

–Hay thay! Hay thay! Đúng như lời nói của các ông! Vì muốn lợi ích cho tất cả chúng sinh mà phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì đó là sự cúng dường Như Lai hạng nhất!

Trong chúng Phạm thiên, có một vị Phạm vương tên là Đẳng Hạnh, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Vị Như Lai nào đúng là vị Như Lai chân thật?

Vị ngồi trên tòa của con là đúng? Hay vị trên tòa khác là đúng?

Phật bảo:

–Này Đẳng Hạnh! Tất cả các pháp đều rỗng không như huyễn, từ hòa hợp mà có, không có tác giả, đều từ nhớ tưởng phân biệt mà khởi lên, không có chủ tể nên tùy ý mà sinh ra! Các vị Như Lai đó đều là chân thật. Sao gọi là thật? Các vị Như Lai đó vốn tự chẳng sinh, vậy nên là thật! Các vị Như Lai đó hôm nay không, sau này cũng không, vậy nên là thật! Các vị Như Lai đó chẳng phải thu giữ bốn đại, vậy nên là thật! Các vị Như Lai đó chẳng bị sự chi phối của các ấm, giới, nhập, vậy nên là thật! Các vị Như Lai đó trước, giữa, sau bình đẳng không sai biệt, vậy nên là thật! Này Phạm vương! Các vị Như Lai đó bình đẳng, không sai biệt, vì sao? Vì các vị Như Lai đó do sắc “Như” nên bình đẳng! Do thọ, tưởng, hành, thức “Như” nên bình đẳng! Do vậy nên bình đẳng! Các vị Như Lai đó do đời quá khứ “Như” nên bình đẳng! Do đời vị lai Như nên bình đẳng! Do đời hiện tại Như nên bình đẳng! Do pháp huyễn Như nên bình đẳng! Do pháp ảnh Như nên bình đẳng! Do pháp không thật có nên bình đẳng! Do không từ đâu đến, không đi về đâu nên bình đẳng! Vậy nên Như Lai gọi là Bình Đẳng. Như và tất cả pháp bình đẳng, các vị Như Lai đó cũng lại như vậy. Như và tất cả chúng sinh bình đẳng, các vị Như Lai đó cũng lại như vậy. Như và các Đức Phật của tất cả thế gian bình đẳng, các Đức Như Lai đó cũng lại như vậy. Như và tất cả thế gian bình đẳng, các Đức Như Lai đó cũng lại như vậy. Vậy nên danh hiệu các Đức Phật là Bình Đẳng. Này Phạm vương! Các vị Như Lai đó chẳng vượt qua tất cả các pháp Như nên gọi là Bình Đẳng! Này Phạm vương! Ông nên biết, Như Lai biết hết tất cả các pháp bình đẳng như vậy nên Như Lai đối với tất cả pháp được gọi là Bình Đẳng!

Phạm vương Đẳng Hạnh bạch Phật:

–Thật chưa từng có! Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai được các pháp bình đẳng đó, rồi dùng sắc thân vi diệu thị hiện cho chúng sinh?

Phật bảo:

–Đó đều là sự thành tựu thế lực bản hạnh của Tam-muội Thủlăng-nghiêm vậy. Do việc đó nên Như Lai được các pháp bình đẳng này, rồi dùng sắc thân vi diệu thị hiện cho chúng sinh.

Khi nói pháp này, Phạm vương Đẳng Hạnh và một vạn Phạm thiên, ở trong các pháp được Nhu thuận nhẫn.

Bấy giờ, Đức Như Lai thu lại thần lực, các Đức Phật và tòa ngồi đều biến mất, tất cả chúng hội chỉ thấy một Đức Phật. Lúc ấy, Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:

–Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm chẳng phải là pháp chứng đắc của Bồ-tát ở Địa vị thứ nhất, ở Địa vị thứ hai, ở Địa vị thứ ba, ở Địa vị thứ tư, ở Địa vị thứ năm, ở Địa vị thứ sáu, ở Địa vị thứ bảy, ở Địa vị thứ tám, ở Địa vị thứ chín mà chỉ có Bồ-tát trụ ở ở Địa vị thứ mười mới có thể đạt được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm này.

Những gì là Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm? Đó là:

  1. Tu tập tâm giống như hư không.
  2. Quan sát các tâm của chúng sinh hiện tại.
  3. Phân biệt các căn lợi, độn của chúng sinh.
  4. Chắc chắn biết rõ nhân quả của chúng sinh.
  5. Ở trong các nghiệp biết không nghiệp báo.
  6. Vào đủ thứ dục lạc, vào rồi chẳng quên.
  7. Hiện tại biết vô lượng đủ các tánh.
  8. Thường có thể đạt đến Tam-muội hoa âm, có thể thị hiện cho chúng sinh Tam-muội Kim cang tâm, tất cả thiền định tự tại tùy ý.
  9. Quan sát khắp tất cả chỗ đến các đường.
  10. Đạt được trí túc mạng không gì ngăn ngại.
  11. Thiên nhãn không ngăn ngại.
  12. Được trí Lậu tận chẳng phải lúc chẳng chứng.
  13. Đối với Sắc, Vô sắc được trí Đẳng nhập.
  14. Đối với tất cả sắc thị hiện du hý.
  15. Biết các âm thanh giống như tướng của tiếng vang.
  16. Thuận vào niệm tuệ.
  17. Có thể dùng lời nói khéo làm vui chúng sinh.
  18. Theo ứng hợp mà nói pháp.
  19. Biết thời, phi thời.
  20. Có thể chuyển các căn.
  21. Nói pháp chẳng trống rỗng.
  22. Thuận vào chân tế.
  23. Có thể khéo léo nhiếp phục các loài chúng sinh.
  24. Có thể đầy đủ hết các Ba-la-mật.
  25. Uy nghi tiến, dừng chưa từng có khác.
  26. Phá các tưởng nhớ hư dối phân biệt.
  27. Chẳng hoại pháp tánh đến tận bờ cõi kia.
  28. Cùng một lúc hiện thân trụ ở tất cả cõi chư Phật.
  29. Có thể thọ trì lời nói pháp của tất cả Phật.
  30. Ở trong khắp tất cả các thế gian tự tại biến thân giống như bóng hiện.
  31. Khéo nói các thừa độ thoát chúng sinh, thường có thể hộ trì Tam bảo chẳng dứt.
  32. Phát đại trang nghiêm đến tận đời vị lai mà lòng chưa từng có ý tưởng mệt mỏi.
  33. Ở khắp tất cả các chỗ sinh ra thường có thể hiện thân tùy lúc chẳng dứt.
  34. Ở những nơi sinh ra thị hiện có sự tạo tác.
  35. Có thể khéo thành tựu tất cả chúng sinh.
  36. Có thể hiểu biết rõ tất cả chúng sinh.
  37. Tất cả hàng Nhị thừa chẳng thể đo lường.
  38. Có thể biết đủ các phần âm thanh.
  39. Có thể khiến tất cả các pháp lớn mạnh.
  40. Có thể khiến cho một kiếp trở thành a-tăng-kỳ kiếp.
  41. A-tăng-kỳ kiếp khiến trở thành một kiếp.
  42. Có thể khiến cho một nước vào a-tăng-kỳ nước.
  43. A-tăng-kỳ nước khiến vào một nước.
  44. Vô lượng cõi Phật vào một lỗ chân lông.
  45. Tất cả chúng sinh thị hiện vào một thân.
  46. Biết rõ các cõi Phật đồng như hư không.
  47. Thân có thể đến khắp không còn cõi Phật nào.
  48. Khiến cho tất cả thân vào với pháp tánh đều khiến không thân.
  49. Tất cả pháp tánh thông đạt vô tướng.
  50. Có thể biết rõ tất cả phương tiện.
  51. Một tiếng nói ra có thể thông đạt hết tất cả pháp tánh.
  52. Diễn nói một câu có thể đến vô lượng a-tăng-kỳ kiếp.
  53. Khéo quán sát tất cả pháp môn sai biệt.
  54. Biết rõ giống, khác nhau, sơ lược hay rộng rãi để nói pháp.
  55. Biết ra khỏi tất cả nẻo ma.
  56. Phóng ra ánh sáng trí tuệ phương tiện.
  57. Nghiệp thân, miệng, ý lấy trí tuệ làm đầu.
  58. Thần thông vô hành luôn hiện ở trước.
  59. Dùng bốn Trí vô ngại có thể khiến cho tất cả chúng sinh hoan hỷ.
  60. Hiện sức thần thông, thông suốt tất cả pháp tánh.
  61. Có thể dùng nhiếp pháp thu tóm tất cả chúng sinh.
  62. Hiểu các ngôn ngữ của chúng sinh ở thế gian.
  63. Đối với pháp như huyễn không có chỗ nghi ngờ.
  64. Khắp tất cả chỗ sinh ra có thể tự tại.
  65. Vật cần dùng theo ý mình không thiếu thốn.
  66. Tự tại thị hiện tất cả chúng sinh.
  67. Đối với kẻ thiện hay ác đều đồng phước điền.
  68. Được vào pháp bí mật của tất cả Bồ-tát.
  69. Thường phóng ánh sáng soi không còn thế giới nào.
  70. Trí ấy sâu xa không người nào có thể đo lường.
  71. Tâm ấy giống như đất nước lửa gió.
  72. Đối với chương cú ngôn từ của các pháp, khéo vận chuyển bánh xe pháp.
  73. Đối với quả vị Như Lai không có gì ngăn ngại.
  74. Tự nhiên mà được pháp nhẫn vô sinh.
  75. Được tâm như thật, các cấu bẩn phiền não chẳng thể làm ô nhiễm.
  76. Khiến cho tất cả nước vào một lỗ chân lông mà chẳng quấy nhiễu tánh của nước.
  77. Tu tập vô lượng căn lành phước đức.
  78. Khéo biết tất cả phương tiện hồi hướng.
  79. Khéo có thể biến hóa tu hành hết tất cả các hạnh Bồ-tát.
  80. Tất cả pháp của Phật tâm được yên ổn.
  81. Đã được lìa bỏ thân nghiệp đời trước.
  82. Có thể vào pháp tạng bí mật của chư Phật.
  83. Thị hiện tự do tự tại trong các dục.
  84. Nghe vô lượng pháp có thể thọ trì đầy đủ.
  85. Cầu tất cả pháp lòng không chán đủ.
  86. Thuận các thế pháp mà chẳng nhiễm ô.
  87. Ở vô lượng kiếp vì người nói pháp đều khiến cho họ tưởng như là từ sáng sớm đến bữa ăn.
  88. Thị hiện đủ loại gù lưng, tàn phế, què, điếc, mù, câm, ngọng để giáo hóa chúng sinh.
  89. Hàng trăm ngàn lực sĩ Kim Cương Mật Tích thường theo hộ trì.
  90. Tự nhiên có thể quán sát biết các Phật đạo.
  91. Có thể ở trong một niệm thị hiện tuổi thọ vô lượng vô số kiếp.
  92. Thị hiện làm tất cả pháp nghi Nhị thừa mà bên trong chẳng bỏ các hạnh Bồ-tát.
  93. Tâm ấy khéo tịch lặng, không tướng.
  94. Đối với mọi âm nhạc thị hiện tự vui thích mà bên trong chẳng bỏ Tam-muội niệm Phật.
  95. Hoặc thấy, hoặc nghe và cùng xúc chạm, ở chung thì đều có thể thành tựu vô lượng chúng sinh.
  96. Có thể ở từng niệm từng niệm thị hiện thành Phật đạo, tùy theo sự giáo hóa xưa mà khiến cho được giải thoát.
  97. Thị hiện vào thai, sơ sinh.
  98. Xuất gia, thành tựu Phật đạo.
  99. Chuyển bánh xe pháp.
  100. Vào đại Diệt độ mà chẳng diệt mãi.

Này Kiên Ý! Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm không lường như vậy, đều có thể thị hiện tất cả thần lực của Phật, vô lượng chúng sinh đều được lợi ích. Này Kiên Ý! Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm chẳng dùng một việc, một duyên, một nghĩa mà có thể biết. Tất cả thiền định, Tam-muội, giải thoát, thần thông như ý, trí tuệ vô ngại đều thu tóm ở trong Thủ-lăng-nghiêm. Ví như vũng nước, suối, sông ngòi… các dòng chảy đều vào biển cả. Như vậy, mọi thiền định của Bồ-tát đều ở Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm. Ví như vua Chuyển luân Thánh có tướng mạnh mẽ, những bốn binh chúng đều là tùy tùng.

Này Kiên Ý! Như vậy, có pháp môn Tam-muội, pháp môn Thiền định, pháp môn Biện tài, pháp môn Giải thoát, pháp môn Đàla-ni, pháp môn thần thông, pháp môn Minh giải thoát. Các pháp môn đó đều thu tóm tại Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm. Có Bồ-tát thực hành Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm thì tất cả Tam-muội đều tùy tùng. Này Kiên Ý! Ví như khi vua Chuyển luân thánh đi thì bảy báu đều đi theo. Như vậy, này Kiên Ý! Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm được tất cả pháp trợ Bồ-đề đều tùy tùng. Vậy nên Tam-muội này tên là Thủlăng-nghiêm.

Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:

–Bồ-tát trụ ở Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, chẳng cần cầu tài sản dùng để bố thí. Báu vật, đồ ăn thức uống, quần áo, voi ngựa, xe cộ… trong của tam thiên đại thiên thế giới và các biển cả, cung trời, nhân gian, những vật như vậy tự tại bố thí. Đây đều là sự đạt được của công đức xưa, huống là dùng thân lực làm theo ý mình. Đó gọi là quả báo bản sự của Bồ-tát trụ ở Đàn-na ba-la-mật Tam-muội Thủlăng-nghiêm.

Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:

–Bồ-tát trụ ở Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, chẳng lại thọ giới, đối với giới chẳng động. Vì muốn giáo hóa, dẫn đường các chúng sinh nên Bồ-tát thị hiện thọ trì giới hạnh, các oai nghi, thị hiện có sự phạm giới, sự diệt trừ tội lỗi mà bên trong luôn không có lỗi khuyết. Vì muốn giáo hóa chúng sinh nên Bồ-tát sinh ở Dục giới làm vua Chuyển luân với các chúng thể nữ cung kính vây quanh, thị hiện có vợ con, năm dục tự buông thả mà bên trong luôn trụ thiền định tịnh giới, thấy rõ lỗi lầm của ba cõi. Này Kiên Ý! Đó gọi là quả báo bản sự của Bồ-tát trụ ở Thi-la ba-la-mật Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm.

Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:

–Bồ-tát trụ ở Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm tu hành nhẫn nhục rốt ráo tận cùng. Chúng sinh chẳng sinh mà tu với nhẫn, các pháp chẳng khởi mà tu với nhẫn, tâm không hình sắc mà tu với nhẫn, chẳng được bỉ ngã mà tu với nhẫn, chẳng nghĩ sinh tử mà tu với nhẫn, dùng tánh Niết-bàn mà tu với nhẫn, chẳng hoại pháp tánh mà tu với nhẫn… Bồ-tát tu hành nhẫn nhục như vậy mà không có sự tu hành, cũng không gì chẳng tu. Vì giáo hóa chúng sinh nên Bồ-tát sinh ra ở Dục giới, thị hiện có sân hận mà bên trong thanh tịnh, hiện hành động xa lìa mà không có gần, xa. Bồ-tát vì thanh tịnh chúng sinh, hủy hoại oai nghi thế tục mà chưa từng hủy hoại tánh của các pháp, thị hiện có đối tượng nhẫn mà không có pháp, thường định chẳng hoại người có thể nhẫn. Bồ-tát thành tựu nhẫn nhục như vậy là đoạn dứt được lòng nhiều sân ác của chúng sinh, luôn khen ngợi phước của nhẫn nhục, cũng lại chẳng được sân hận mà nhẫn nhục. Này Kiên Ý! Đó gọi là Bồ-tát trụ ở quả báo bản sự của Sằn-đề bala-mật Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm.

Phật bảo Bồ-tát Kiên ý:

–Bồ-tát trụ ở Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm phát đại tinh tấn được các thiện pháp mà chẳng dấy động nghiệp thân, miệng, ý. Bồtát vì người biếng nhác thị hiện tu tinh tấn là muốn khiến cho chúng sinh theo học kết quả của mình mà đối với các pháp không phát khởi, không chấp giữ. Vì sao? Vì Bồ-tát biết hết tất cả các pháp, thường trụ ở pháp tánh, chẳng đến chẳng đi. Xa lìa hành động thân, miệng, ý như vậy mà có thể thị hiện phát khởi hành tinh tấn, cũng chẳng thấy pháp có người thành tựu. Bồ-tát hiện ở thế gian phát khởi hành tinh tấn mà ở bên trong, bên ngoài, không tạo tác gì; thường có thể đến, đi, ở vô lượng cõi Phật mà đối với thân tướng bình đẳng chẳng động, thị hiện phát khởi hành tất cả pháp lành mà đối với các pháp chẳng được thiện, ác, thị hiện việc cầu pháp, có sự hỏi han, nghe nhận mà đối với Phật pháp chẳng theo lời dạy khác, thị hiện sự gần gũi Hòa thượng, các thầy mà được tất cả các trời người tôn trọng, thị hiện siêng năng thưa hỏi mà bên trong tự được biện tài không chướng ngại, hiện bày hành động cung kính mà được tất cả trời người kính ngưỡng, thị hiện vào thai mà đối với các pháp không gì nhiễm ô, hiện có sinh ra mà đối với các pháp chẳng thấy sinh diệt, hiện làm trẻ con mà các căn của thân đều đầy đủ, hiện làm kỹ nghệ, phương thuốc, chú thuật, văn chương, toán số, nghề khéo, việc hay… mà bên trong việc đời trước, đời sau đều thông đạt, hiện có bệnh khổ mà đã vĩnh viễn lìa khỏi tai nạn phiền não, thị hiện già suy kiệt mà ở trước đây, sau này các căn chẳng hoại, thị hiện có chết, mà chưa từng có sinh diệt, lùi, mất. Này Kiên Ý! Đó gọi là Bồ-tát trụ ở quả báo bản sự của tinh tấn Ba-la-mật Tammuội Thủ-lăng-nghiêm.

Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:

–Bồ-tát trụ ở Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm tuy biết các pháp thường chính là tướng định mà bày cho chúng sinh các thiền sai biệt. Bồ-tát hiện thân trụ ở thiền để giáo hóa người loạn tâm mà đối với các pháp chẳng thấy có loạn. Tất cả các pháp đúng như tướng của pháp tánh, dùng tâm điều phục mà đối với các thiền chẳng động. Bồ-tát thị hiện các uy nghi đến đi, ngồi nằm mà thường tịch nhiên trụ thiền định, thị hiện đồng với mọi người có lời nói mà luôn chẳng bỏ các tướng thiền định, thương xót chúng sinh vào thành ấp, xóm làng, quận nước mà luôn luôn ở trong định, vì muốn lợi ích cho các chúng sinh nên thị hiện có ăn uống mà luôn luôn trụ ở định. Thân Bồ-tát ấy bền chắc như Kim cương, bên trong thật chẳng rỗng, chẳng thể phá hoại, bên trong ấy không có sinh tạng, thực tạng, đại tiện, tiểu tiện, xú uế, bất tịnh. Bồ-tát thị hiện có sự ăn uống mà không có gì ăn vào, chỉ vì từ mẫn làm lợi ích chúng sinh. Ở tất cả mọi nơi đều không có tai họa, thị hiện làm như tất cả phàm phu mà thật ra không làm các hành động đã qua. Này Kiên Ý! Bồ-tát trụ ở Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm thì hiện tại ở chỗ tịch tĩnh hay xóm làng đều không khác, hiện ở tại nhà hay xuất gia không khác, hiện làm bạch y mà chẳng buông lung, hiện làm Samôn mà chẳng tự cao. Bồ-tát ở trong các pháp ngoại đạo xuất gia vì hóa độ chúng sinh mà không có sự xuất gia, chẳng bị sự tiêm nhiễm của tất cả tà kiến, cũng không ở trong đó cho là thanh tịnh. Bồ-tát hiện làm pháp nghi của tất cả ngoại đạo mà chẳng thuận theo sự hành đạo ấy.

Này Kiên Ý! Ví như vị Đạo sư đem những người đi qua con đường hiểm nguy rồi quay trở lại độ người khác. Như vậy, này Kiên Ý! Bồ-tát trụ ở Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, theo sự phát khởi đạo tâm của các chúng sinh hoặc đạo Thanh văn, hoặc đạo Bích-chiphật, hoặc phát khởi Phật đạo… thì tùy nghi thị hiện dẫn đường khiến cho họ được độ thoát rồi liền quay trở lại độ các chúng sinh khác. Vậy nên Đại sĩ gọi là Đạo sư. Ví như chiếc thuyền chắc chắn, từ bờ bên này đưa vô lượng người đến bờ bên kia, đến bờ bên kia rồi quay trở lại đưa những người khác. Như vậy, này Kiên Ý! Bồtát trụ ở Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm thấy các chúng sinh rơi vào nước sinh tử, bị sự cuốn trôi của bốn dòng sông. Vì muốn độ thoát, khiến cho họ được ra khỏi, Bồ-tát tùy theo sự gieo trồng căn lành của họ mà khiến họ thành tựu. Hoặc thấy người có thể dùng Duyên giác để độ liền vì họ hiện thân thị hiện đạo Niết-bàn. Hoặc thấy người có thể dùng Thanh văn để độ thì vì họ nói Tịch diệt cùng vào Niết-bàn, rồi nhờ sức Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm nên quay trở lại thị hiện sinh ra độ thoát người khác nữa. Vậy nên, Đại sĩ gọi là Thuyền sư.

Này Kiên Ý! Ví như nhà ảo thuật bậc thầy ở trước nhiều người tự hiện thân chết, sình trương, thối rữa rồi bị lửa thiêu đốt hay bị chim thú ăn nuốt. Ở trước mọi người thị hiện thân như vậy, được tài vật rồi, nhà ảo thuật liền sống lại. Đó là do tài năng giỏi học ảo thuật của người ấy vậy. Bồ-tát trụ ở Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm cũng vậy, vì hóa độ chúng sinh nên thị hiện già chết mà thật ra không có sinh, già, bệnh, chết.

Này Kiên Ý! Đó gọi là quả báo bản sự của Thiền-na ba-la-mật Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm.

Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:

–Bồ-tát trụ ở Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm tu hành trí tuệ, các

căn mạnh mẽ sắc bén, chưa từng thấy có tánh chúng sinh mà vì muốn hóa độ chúng sinh nên nói có chúng sinh, chẳng thấy thọ mạng mà nói có thọ mạng, chẳng được tánh nghiệp và tánh nghiệp báo mà thị hiện chúng sinh có nghiệp và nghiệp báo, chẳng biết được các tánh phiền não sinh tử mà nói sẽ thấy biết phiền não sinh tử, chẳng thấy Niết-bàn mà nói đến Niết-bàn, chẳng thấy các pháp có tướng sai biệt mà nói các pháp có thiện và bất thiện, đã có thể qua đến bờ trí vô ngại, nhưng thị hiện sinh ở Dục giới mà chẳng đắm trước Dục giới, hiện hành thiền của Sắc giới mà chẳng chấp trước Sắc giới, hiện vào định Vô sắc mà sinh ra ở Sắc giới, hiện hành thiền Sắc giới mà sinh ra ở Dục giới, hiện ở Dục giới mà chẳng làm hạnh Dục giới… Bồ-tát đó biết hết các thiền và biết thành phần của thiền, tự tại đều có thể vào thiền ra thiền, vì giáo hóa chúng sinh mà tùy ý sinh ra, tất cả chỗ sinh ra đều có thể thọ thân, thường có thể thành tựu trí tuệ thậm thâm vi diệu, đoạn trừ các tạo tác của tất cả chúng sinh, vì giáo hóa chúng sinh thị hiện có sự vận hành mà đối với các pháp thật không có sự vận hành, đều đã ra khỏi tất cả các hành, đã diệt trừ tâm chấp ngã, ngã sở từ lâu, mà thị hiện thọ nhận các vật cần dùng. Bồ-tát thành tựu trí tuệ như vậy, có gì tạo tác thi hành đều theo trí tuệ mà chưa từng bị sự ô nhiễm của nghiệp quả. Bồ-tát vì hóa độ chúng sinh thị hiện câm ngọng mà bên trong thật có Phạm âm vi diệu, thông đạt hết bờ kia ngôn ngữ Kinh thư. Bồ-tát chẳng cần suy nghĩ trước sẽ nói pháp gì mà tùy theo mọi người đến, lời nói đều vi diệu đều có thể khiến lòng họ vui mừng được kiên cố. Bồ-tát tùy theo sự thích ứng của họ mà vì họ nói pháp nhưng trí tuệ Bồ-tát đó chẳng giảm. Này Kiên Ý! Ví như con trai, con gái hoặc lớn hoặc nhỏ tùy theo đồ đựng mang theo đi đến chỗ có nước như suối như ao sông ngòi biển cả, rồi tùy theo đồ đựng lớn, nhỏ đều lấy đầy nước đem về mà lượng nước này không hề giảm bớt.

Như vậy, này Kiên Ý! Bồ-tát trụ ở Tam-muội Thủ-lăngnghiêm, tùy theo thành phần chúng đến, hoặc chúng Sát-lợi hoặc chúng Bà-la-môn hoặc chúng Cư sĩ, chúng Đế Thích, chúng Phạm vương… các chúng đó đến chẳng cần gia thêm tâm lực, có thể dùng lời nói khéo đều khiến cho chúng vui mừng, tùy theo sự thích ứng mà vì họ nói pháp, nhưng trí tuệ biện tài ấy không chỗ giảm bớt. Này Kiên Ý, đó gọi là quả báo bản sự của Bát-nhã ba-la-mật Tammuội Thủ-lăng-nghiêm.

Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:

–Bồ-tát trụ ở Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, chúng sinh thấy đều được độ thoát. Có người nghe danh tự, có người thấy uy nghi, có người nghe nói pháp, có người thấy im lặng thì họ đều được độ thoát.

Này Kiên Ý! Ví như cây thuốc chúa lớn tên là Hy kiến, có người nhìn thấy thì bệnh đều được lành. Như vậy, này Kiên Ý, Bồtát trụ ở Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm nếu chúng sinh nhìn thấy thì bệnh tham sân si đều được trừ lành. Như thuốc chúa lớn tên là Diệt trừ, nếu khi chiến đấu dùng thuốc ấy bôi lên trống thì những người bị tên bắn, đao, xà mâu làm bị thương, được nghe tiếng trống, liền được trừ hết độc của tên.

Như vậy, này Kiên Ý! Bồ-tát trụ ở Tam-muội Thủ-lăngnghiêm, có người nghe tên thì mũi tên tham sân si tự nhiên bật ra, các độc tà kiến đều bị diệt trừ hết, tất cả phiền não chẳng dấy khởi nữa.

Này Kiên Ý! Ví như cây thuốc tên là Cụ túc, có người dùng rễ thì bệnh được lành; dùng thân, đốt, lõi, vỏ, cành, lá, hoa, quả đều có thể chữa lành bệnh; hoặc dùng sống, hoặc khô, hoặc cắt từng đoạn từng đoạn đều có thể chữa lành các bệnh của chúng sinh. Bồ-tát trụ ở Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm cũng lại như vậy. Đối với các chúng sinh không lúc nào chẳng ích lợi, thường có thể diệt trừ mọi tai nạn. Đó là Bồ-tát dùng việc nói pháp kiêm thêm hành bốn Nhiếp pháp, các Ba-la-mật khiến cho mọi người được độ thoát. Có người hoặc cúng dường, hoặc chẳng cúng dường, có ích, không lợi ích nhưng Bồ-tát đó dùng pháp làm lợi ích khiến cho họ được yên ổn. Cho đến, có loài ăn thịt như các loài súc sinh hai chân, bốn chân và các chim, thú, người cùng chẳng phải người. Các chúng sinh đó đều do nguyện lực của giới Bồ-tát nên chết được sinh lên cõi trời, thường không bị các tai nạn đau bệnh, suy nhược, phiền não. Này Kiên Ý! Trụ ở Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, Bồ-tát giống như cây thuốc.

Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:

–Bồ-tát trụ ở sáu pháp Ba-la-mật Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm thì đời đời tự hiểu biết, chẳng theo học người khác. Nhấc chân hạ chân, hít vào, thở ra, từng niệm từng niệm luôn luôn có sáu pháp Bala-mật. Vì sao? Này Kiên Ý! Vì Bồ-tát như vậy thì thân đều chính là pháp hạnh, đều chính là pháp. Này Kiên Ý! Ví như có vị vua hoặc các đại thần đem trăm ngàn loại hương thơm nghiền chung thành bột, có người đến tìm trong bột đó một loại hương không pha tạp các hương khác. Này Kiên Ý! Như vậy trong bột trăm ngàn loại hương đó có thể tìm được một loại hương chẳng pha tạp mùi hương khác chăng?

–Bạch Thế Tôn! Chẳng thể được vậy!

–Này Kiên Ý! Bồ-tát đó dùng tất cả hương Ba-la-mật xông ướp thân tâm nên ở trong từng niệm từng niệm phát sinh sáu pháp Ba-lamật. Này Kiên Ý! Sao gọi là Bồ-tát ở trong từng niệm từng niệm phát sinh sáu pháp Ba-la-mật? Này Kiên Ý! Bồ-tát đó, tất cả đều xả bỏ, tâm không tham trước, đó là Đàn-na ba-la-mật; tâm khéo tịch diệt rốt ráo không ác, đó là Thi-la ba-la-mật; biết tướng tận của tâm, ở trong các trần mà không bị tổn thương, đó là Sằn-đề ba-la-mật; siêng quan sát chọn lựa tâm, biết tâm lìa khỏi tướng, đó là Tỳ-lê-gia ba-la-mật; khéo tịch tĩnh điều phục tâm ấy rốt ráo, đó là Thiền-na ba-la-mật; quan sát tâm, biết tâm, thông đạt tướng của tâm, đó là Bát-nhã ba-la-mật.

Này Kiên Ý! Bồ-tát trụ ở pháp môn Tam-muội Thủ-lăngnghiêm như vậy thì từng niệm từng niệm đều có sáu pháp Ba-lamật.

Bấy giờ, Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thật chưa từng có vậy! Bồ-tát thành tựu Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm thì sự thực hành của Bồ-tát ấy chẳng thể nghĩ bàn. Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát muốn tu hành hạnh Phật thì phải học Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì Bồ-tát đó thị hiện làm tất cả các hạnh phàm phu mà ở trong tâm Bồ-tát ấy không tham, sân, si.

Lúc này, trong chúng có vị Đại Phạm vương tên là Thành Từ bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ-tát muốn làm tất cả các hạnh phàm phu thì phải học Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm! Vì sao? Vì Bồ-tát đó thị hiện làm tất cả các hạnh phàm phu mà tâm không có tham sân si.

Phật bảo:

–Hay thay! Hay thay! Này Thành Từ! Đúng như lời nói của ông! Nếu Bồ-tát muốn làm tất cả các hạnh phàm phu thì phải học Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, chẳng nghĩ đến tất cả các sự học khác vậy!

Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát muốn học Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm thì phải học thế nào?

Phật nói:

–Này Kiên Ý! Ví như học bắn thì trước hết bắn cái chuẩn lớn. Bắn chuẩn lớn được rồi học bắn cái chuẩn nhỏ. Bắn chuẩn nhỏ được rồi tiếp theo học bắn đích. Học bắn đích rồi tiếp theo học bắn cây gậy. Học bắn cây gậy rồi thì học bắn một trăm sợi lông. Học bắn một trăm sợi lông rồi thì học bắn mười sợi lông. Bắn được mười sợi lông rồi thì học bắn một sợi lông. Bắn được một sợi lông rồi thì học bắn một phần trăm sợi lông. Người có khả năng bắn vậy rồi thì gọi là thiện xạ, theo ý chẳng rỗng không. Người đó nếu muốn bắn ở trong đêm tối, nghe được âm thanh hoặc người hay chẳng phải người, chẳng cần dùng tâm lực mà bắn thì đều trúng cả. Như vậy, này Kiên Ý! Bồ-tát muốn học Tam-muội Thủ-lăngnghiêm thì trước hết phải học tâm ưa thích. Học tâm ưa thích rồi phải học thâm tâm. Học thâm tâm rồi phải học đại Từ. Học đại Từ rồi phải học đại Bi. Học đại Bi rồi phải học bốn Phạm hạnh của bậc Thánh là Từ, Bi, Hỷ, Xả. Học bốn Phạm hạnh của bậc Thánh rồi phải học được năm pháp Thần thông tối thượng luôn theo bên mình. Học năm pháp Thần thông đó rồi, bấy giờ liền có thể thành tựu sáu pháp Ba-la-mật. Thành tựu sáu pháp Ba-la-mật rồi liền có thể thông đạt phương tiện. Thông đạt phương tiện rồi, được trụ ở đệ tam Nhu thuận nhẫn. Trụ ở đệ tam Nhu thuận nhẫn rồi, được pháp Nhẫn vô sinh. Được pháp Nhẫn vô sinh rồi, được các Đức Phật thọ ký. Các Đức Phật thọ ký rồi, có thể vào Địa thứ tám của Bồ-tát. Vào Địa thứ tám của Bồ-tát rồi thì được Tam-muội Chư Phật hiện tiền. Được Tam-muội Chư Phật hiện tiền rồi luôn luôn được nhìn thấy các Đức Phật. Luôn luôn được nhìn thấy các Đức Phật rồi, có thể đầy đủ tất cả nhân duyên Phật pháp. Đầy đủ tất cả nhân duyên Phật pháp rồi, có thể phát khởi công đức trang nghiêm cõi Phật. Có thể phát khởi công đức trang nghiêm cõi Phật rồi, có thể sinh vào gia tộc danh tiếng. Có thể sinh vào gia tộc danh tiếng rồi vào thai, sinh ra; vào thai sinh ra rồi có thể đủ mười Địa. Đủ mười Địa rồi, bấy giờ được nhận danh hiệu Phật, nhận danh hiệu Phật rồi liền được tất cả Tam-muội Bồ-tát. Được tất cả Tam-muội Bồ-tát rồi sau đó mới được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm. Được Tam-muội Thủlăng-nghiêm rồi có thể vì chúng sinh làm Phật sự mà cũng chẳng xả pháp hạnh Bồ-tát.

Này Kiên Ý! Nếu Bồ-tát học các pháp như vậy thì được Tammuội Thủ-lăng-nghiêm. Bồ-tát đã đạt được Tam-muội Thủ-lăngnghiêm rồi, đối với các pháp không có gì học nữa. Vì sao? Vì trước đã học thông tất cả pháp. Ví như học bắn mà đã có thể bắn một phần trăm sợi lông thì chẳng còn gì để học nữa. Vì sao? Vì trước đã học hết rồi.

Như vậy, này Kiên Ý! Bồ-tát trụ ở Tam-muội Thủ-lăngnghiêm thì đối với tất cả pháp không có gì để học nữa, tất cả Tammuội, tất cả công đức đều đã học vậy.

Bấy giờ, Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con nay muốn nói ví dụ, nguyện xin Đức Thế Tôn hứa cho!

Phật bảo:

–Cứ nói đi.

–Bạch Thế Tôn! Ví như vua trời Đại phạm chủ của tam thiên đại thiên thế giới thì tự nhiên đều có thể quan sát khắp tam thiên đại thiên thế giới chẳng cần tăng thêm công lực. Như vậy, Bồ-tát trụ ở Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm đối với tất cả pháp tự nhiên có thể quan sát chẳng cần dùng công lực, lại có thể biết tâm và sự vận hành trong tâm của tất cả chúng sinh.

Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:

–Đúng như lời nói của ông! Nếu Bồ-tát trụ ở Tam-muội Thủlăng-nghiêm thì biết hết tất cả các pháp Bồ-tát và tất cả pháp của Phật.

Bấy giờ, trong hội có trời Đế Thích tên là Trì Tu-di Sơn, ở tận ngoài biên giới của tam thiên đại thiên thế giới này, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Ví như đứng trên đỉnh núi Tu-di có thể nhìn thấy hết tất cả thiên hạ. Như vậy Bồ-tát trụ ở Tam-muội Thủ-lăngnghiêm, đối với hạnh của Thanh văn, Bích-chi-phật và tất cả các hạnh của chúng sinh, tự nhiên có thể nhìn thấy.

Bấy giờ, Bồ-tát Kiên Ý hỏi Đế Thích Trì Tu-di Sơn:

–Nhân giả từ bốn thiên hạ nào đến? Nhân giả ở đỉnh núi Tu-di nào?

Trời Đế Thích đó đáp:

–Thưa Thiện nam! Nếu có Bồ-tát được Tam-muội Thủ-lăngnghiêm thì chẳng nên hỏi trụ xứ ấy. Vì sao? Vì như Bồ-tát này thì tất cả cõi Phật đều chính là trú xứ mà chẳng tham trước trú xứ, chẳng được trú xứ, chẳng thấy trú xứ.

Bồ-tát Kiên Ý hỏi:

–Nhân giả đã được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm đó rồi sao?

Đế Thích đáp:

–Trong Tam-muội đó liệu có tướng được, chẳng được nữa sao?

Bồ-tát Kiên Ý nói:

–Chẳng có vậy!

Đế Thích nói:

–Thưa Thiện nam! Tôn giả nên biết, Bồ-tát thực hành Tammuội đó, ở trong các pháp đều không sở đắc!

Bồ-tát Kiên Ý nói:

–Như sự biện luận của Nhân giả thì nhất định Nhân giả đã được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm rồi!

Đế Thích nói:

–Thưa Thiện nam! Tôi chẳng thấy pháp có trú xứ. Người đối với tất cả pháp không chỗ trụ thì mới được Tam-muội Thủ-lăngnghiêm. Thưa Thiện nam! Trụ ở Tam-muội đó thì đối với các pháp đều không chỗ trụ. Nếu không chỗ trụ tức là không chấp giữ. Nếu không chấp giữ tức là không ngôn thuyết.

Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:

–Ông có thấy Đế Thích Trì Tu-di Sơn đó không?

–Bạch Thế Tôn! Con đã thấy.

–Này Kiên Ý! Ông Đế Thích đó tự nhiên tùy ý có thể đạt được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm. Trụ ở Tam-muội đó thì ở các cung điện Đế Thích của tam thiên đại thiên thế giới này, ông ấy đều có thể hiện thân.

Lúc ấy, Thích Đề-hoàn Nhân, chủ của thế gian này bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu Đế Thích Trì Tu-di Sơn có thể hiện thân ở các cung điện Đế Thích, còn con đối với xứ sở của tất cả Đế Thích thì vì sao chẳng nhìn thấy?

Bấy giờ, Đế Thích Trì Tu-di Sơn nói với Thích Đề-hoàn Nhân:

–Thưa Kiều-thi-ca! Nếu tôi hôm nay dùng thân thật thị hiện cho ông thì ông ở cung điện chẳng vui vẻ nữa. Tôi thường đến cung điện, chỗ ở của ông mà ông chẳng thấy tôi.

Khi ấy, Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con muốn thấy vị Đại sĩ này thành tựu thân vi diệu.

Phật bảo:

–Này Kiều-thi-ca! Ông muốn thấy sao?

–Bạch Thế Tôn! Con nguyện muốn thấy!

Phật nói với Đế Thích Trì Tu-di Sơn:

–Này Thiện nam! Ông hãy thị hiện cho Đế Thích này thấy thân chân thật vi diệu của ông!

Vị Đế Thích Trì Tu-di Sơn đó liền hiện ra thân chân thật vi diệu. Bấy giờ, trong hội những Đế Thích, Phạm vương, Hộ Thế Thiên vương, Thanh văn Bồ-tát, người chẳng được Tam-muội Thủlăng-nghiêm… thân họ đều biến mất giống như mực tụ lại. Thân của Đế Thích Trì Tu-di Sơn như núi chúa Tu-di, cao lớn lồng lộng, ánh sáng chiếu ra xa. Khi ấy, ánh sáng thân Đức Phật lại càng sáng rỡ gấp bội. Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Việc chưa từng có vậy! Hôm nay sắc thân của vị Đại sĩ này thanh tịnh thù thắng vi diệu khó bì kịp! Thân của các Đế Thích, Phạm thiên, Hộ thế Thiên vương đều biến mất giống như mực tụ lại!

Bạch Thế Tôn! Con ở trên Thiện diệu đường núi Tu-di, mang chuỗi ngọc ma-ni Thích-ca Tỳ-lăng-già, do ánh sáng của chuỗi ngọc đó mà tất cả thân của Thiên chúng đều biết mất. Hôm nay do ánh sáng của vị Đại sĩ này thân con lại biến mất, dù con có mang chuỗi ngọc báu cũng không có ánh sáng.

Đức Phật bảo Thích Đề-hoàn Nhân:

–Này Kiều-thi-ca! Nếu trong tam thiên đại thiên thế giới đầy ngọc ma-ni Thích-ca Tỳ-lăng-già mà lại có những ngọc ma-ni trời chiếu sáng thì có thể khiến cho ngọc này đều biết mất. Này Kiềuthi-ca! Nếu trong tam thiên đại thiên thế giới đầy các ngọc ma-ni trời chiếu sáng mà lại có ngọc ma-ni Kim cương minh thì có thể khiến cho ngọc này đều biến mất.

Này Kiều-thi-ca! Nếu trong tam thiên đại thiên thế giới đầy ngọc ma-ni Kim cương minh mà lại có các ngọc ma-ni Minh tập thì có thể khiến cho ngọc này biến mất. Này Kiều-thi-ca! Ông có thấy Đế Thích đó mang các ngọc ma-ni Minh tập không?

–Bạch Thế Tôn! Con đã thấy! Chỉ vì ngọc này, ánh sáng của nó mạnh quá, mắt con chẳng chịu nổi.

Đức Phật bảo Kiều-thi-ca:

–Nếu có Bồ-tát được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, hoặc làm Đế Thích đều mang chuỗi ngọc ma-ni như vậy.

Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân bạch Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu có người chẳng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì chẳng được thân thanh tịnh vi diệu như vậy, cũng lại mất luôn Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm đó.

Lúc này, Thiên tử Cù Vực nói với Thích Đề-hoàn Nhân:

–Những người Thanh văn đã vào pháp vị, tuy lại khen ngợi yêu thích Phật đạo nhưng không thể làm, vì đã ở nơi sinh tử tạo tác sự ngăn cách vậy. Nếu có người đã phát, hoặc hôm nay mới phát, hay ngày mai sẽ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì người ứng hợp yêu thích Phật đạo, có thể được sắc thân tối thượng vi diệu như vậy. Ví như có người bẩm sinh bị mù, tuy họ lại khen ngợi yêu thích mặt trời, mặt trăng, nhưng kẻ ấy chẳng nhờ ánh sáng mặt trời mặt trăng. Như vậy, Thanh văn vào pháp vị, tuy lại khen ngợi yêu thích Phật pháp mà công đức Phật đối với bản thân không lợi ích. Vậy nên, muốn được thân vi diệu này, người trí tuệ lớn phải phát tâm Bồ-đề thì liền được sắc thân tối thượng vi diệu như vậy.

Khi Thiên tử Cù Vực nói lời đó, một vạn hai ngàn Thiên tử phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bấy giờ, Bồ-tát Kiên Ý hỏi Thiên tử Cù Vực:

–Làm công đức gì chuyển được thân nữ?

Đáp:

–Thưa Thiện nam! Người phát khởi Đại thừa chẳng thấy nam, nữ có khác biệt. Vì sao? Vì bậc Nhất thiết trí thì tâm chẳng trụ ở ba cõi. Vì có phân biệt nên có nam có nữ. Câu hỏi của Nhân giả: “Làm công đức gì chuyển được thân nữ? Đó là: Đời trước phụng sự Bồ-tát, tâm không dua nịnh quanh co.” –Sao gọi là phụng sự?

Đáp:

–Như phụng sự Đức Thế Tôn!

–Sao gọi là tâm ấy chẳng dua nịnh.

Đáp:

–Nghiệp thân theo miệng. Nghiệp miệng theo ý. Đó gọi là tâm nữ nhân không dua nịnh!

Hỏi:

–Sao gọi là chuyển thân nữ?

Đáp:

–Như thành!

Hỏi:

–Sao gọi là như thành?

Đáp:

–Như chuyển!

Hỏi:

–Lời nói này của Thiên tử có nghĩa gì?

Đáp:

–Thưa Thiện nam! Tất cả các pháp chẳng thành chẳng chuyển. Các pháp một vị gọi là vị pháp tánh. Thưa Thiện nam! Tôi tùy theo nguyện của mình có thân nữ, hoặc khiến thân tôi được thành nam mà đối với thân tướng nữ chẳng hoại chẳng xả. Thưa Thiện nam! Vậy, ông nên biết, là nam là nữ đều là điên đảo. Tất cả các pháp cùng với điên đảo, rốt cùng đều lìa khỏi hai tướng.

Bồ-tát Kiên Ý hỏi Thiên tử Cù Vực:

–Nhân giả đối với Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm biết phần ít thôi sao?

Đáp:

–Thưa thiện nam! Tôi biết người khác có được thân mà tự mình chẳng chứng. Tôi nghĩ đời quá khứ, khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ở tại nhà vua Tịnh Phạn làm Bồ-tát, mặc dầu ở trong cung điện giữa đám thể nữ đến nửa đêm mà vẫn thanh tịnh. Bấy giờ, các Phạm thiên vương ở phương Đông nhiều như cát sông Hằng đến, có người hỏi thừa Bồ-tát có người hỏi đạo Thanh văn. Bồ-tát đều tùy theo điều hỏi mà đáp. Ở trong Phạm chúng có một vị Phạm vương chẳng hiểu được việc làm phương tiện của Bồ-tát mà nói: “Thưa Ngài! Ngài có trí tuệ, giỏi đáp câu hỏi như vậy thì tại sao còn tham ái vương vị, sắc dục?” Các vị Phạm vương khác biết rõ phương tiện trí tuệ của đức Bồ-tát nên nói với vị Phạm vương này: “Bồ-tát chẳng tham vương vị, sắc dục mà vì giáo hóa, thành tựu chúng sinh nên ở tại gia cư thị hiện làm Bồ-tát. Hôm nay, Ngài đang ở phương khác thành tựu Phật đạo, chuyển bánh xe diệu pháp!” Vị Phạm vương đó nghe xong, nói: “Do đạt được Tam-muội gì, có thể tạo ra thần biến tự tại như vậy.” Các Phạm vương khác nói: “Đó là thế lực của Tammuội Thủ-lăng-nghiêm.”

Thưa thiện nam! Vào lúc đó, tôi khởi ý niệm này: “Đức Bồ-tát trụ ở Tam-muội mà thần lực cảm ứng thật chưa từng có, ở trong ái dục, lãnh đạo việc nước mà có thể chẳng lìa khỏi Tam-muội như vậy.” Tôi nghe điều này xong thì cung kính bội phần gia tăng, đối với Bồ-tát đã phát sinh tưởng Thế Tôn, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác sâu xa, nguyện vào đời sau cũng sẽ thành tựu công đức như vậy. Thưa thiện nam! Sự nhìn thấy của tôi một phần ít như vậy. Tôi chỉ biết Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm này sẽ có thế lực công đức không lường chẳng thể nghĩ bàn!

Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:

–Thật hiếm có! Bạch Thế Tôn! vị Thiên tử Cù Vực đó, thân tâm nói lên điều này đều chính là vì Đức Như Lai làm Thiện tri thức, luôn theo thủ hộ. Bạch Thế Tôn! Thiên tử Cù Vực chẳng bao lâu cũng sẽ trụ ở Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, được thế lực tự tại thần biến đó, như việc làm hôm nay của Đức Thế Tôn không khác.

Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Hôm nay, trong hội này chắc có người được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm đó chăng?

Bấy giờ, trong chúng hội có vị Thiên tử tên là Hiện Ý nói với Bồ-tát Kiên Ý:

–Ví như người khách buôn vào đến biển cả mà nói rằng: “Trong biển cả này có ngọc ma-ni, có thể mang đi chăng?” Lời nói của Tôn giả giống lời đó. Vì sao? Vì hôm nay, tại hội biển đại trí của Như Lai, trong ấy Bồ-tát thành tựu pháp bảo, phát khởi đại trang nghiêm, Tôn giả ngồi trong hội ấy mà đặt vấn đề: Ở trong hội này chắc có Bồ-tát được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm đó chăng? Thưa Bồ-tát Kiên Ý, Hôm nay, trong hội này tự có Bồ-tát được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm hiện thân Đế Thích. Có Bồ-tát hiện thân Phạm vương. Có Bồ-tát hiện thân các Trời, Rồng, Dạxoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già. Có Bồ-tát được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm hiện thân Tỳ-kheo,

Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Có Bồ-tát được Tam-muội Thủlăng-nghiêm dùng các tướng tốt mà tự trang nghiêm thân. Có Bồtát vì hóa độ chúng sinh tự hiện làm tướng mạo hình sắc thân nữ. Có Bồ-tát hiện tướng mạo hình sắc Thanh văn. Có Bồ-tát hiện tướng mạo hình sắc Bích-chi-phật.

Thưa Bồ-tát Kiên Ý! Đức Như Lai tự tại tùy theo chúng mà đến, hoặc chúng Sát-lợi, chúng Bà-la-môn, hoặc chúng Cư sĩ, chúng Đế Thích, chúng Phạm vương, các chúng Hộ Thế…. tùy theo các chúng đó đều có thể thị hiện tướng mạo hình sắc. Bồ-tát nên biết, đều chính là quả báo bản sự của Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm. Thưa Bồ-tát Kiên Ý! Nếu thấy chỗ nói pháp của Đức Như Lai thì Bồ-tát nên biết, trong chỗ này có vô lượng những vị Đại Bồ-tát, những bậc Đại trí tự tại phát khởi đại trang nghiêm, đối với tất cả pháp vận hành tự tại, những bậc có thể theo Đức Như Lai chuyển bánh xe pháp.

Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con hôm nay cho rằng Thiên tử Hiện Ý đó được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm này, đúng như trí tuệ biện tài, thần thông vô ngại như vậy của vị ấy.

Phật bảo:

–Đúng như lời nói của ông! Thiên tử Hiện Ý đó đã trụ ở Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, thông đạt Tam-muội đó nên có thể nói lời đó.

Bấy giờ, Phật bảo Thiên tử Hiện Ý:

–Ông có thể thị hiện một phần nhỏ bản sự của Tam-muội Thủlăng-nghiêm!

Thiên tử Hiện Ý nói với Bồ-tát Kiên Ý:

–Tôn giả muốn thấy chút ít thế lực của Tam-muội Thủ-lăngnghiêm chăng?

Đáp:

–Thưa thiên tử! Tôi rất ưa muốn thấy!

Thiên tử Hiện Ý khéo đạt được thế lực của Tam-muội Thủlăng-nghiêm nên biến hiện khiến cho chúng hội đều trở thành Chuyển luân thánh vương với ba mươi hai tướng tốt tự trang nghiêm và các quyến thuộc bảy báu theo hầu. Thiên tử nói:

–Tôn giả thấy những gì?

Bồ-tát Kiên Ý đáp:

–Tôi thấy chúng hội đều thành sắc tướng của Chuyển luân thánh vương với quyến thuộc bảy báu theo hầu.

Bấy giờ, Thiên tử lại thị hiện chúng hội đều làm Thích Đềhoàn Nhân ở cung trời Đao-lợi với trăm ngàn Thiên nữ tấu lên đủ loại âm nhạc, vây quanh vui sướng. Thiên tử lại dùng thần lực khiến cho khắp chúng hội đều trở thành uy nghi sắc tướng Phạm vương ở tại cung phạm tu hành bốn vô lượng. Thiên tử lại hỏi Bồtát Kiên Ý:

–Tôn giả thấy những gì?

Đáp:

–Thưa Thiên tử! Tôi thấy chúng hội đều là Phạm vương!

Thiên tử lại thị hiện thần lực, khiến cho khắp chúng hội đều trở thành tướng mạo hình sắc của Trưởng lão Đại Ca-diếp nắm giữ y bát vào các thiền định, tu hành tám Giải thoát đều không có khác. Thiên tử lại hiện thần lực khiến cho khắp đại chúng đều như uy nghi tướng tốt của thân Phật Thích-ca Mâu-ni đều có Tỳ-kheo quyến thuộc vây quanh. Thiên tử lại hỏi Bồ-tát Kiên Ý:

–Tôn giả thấy những gì?

Đáp:

–Thưa Thiên tử! Tôi thấy đại chúng đều là uy nghi tướng tốt của thân Phật Thích-ca Mâu-ni đều có Tỳ-kheo quyến thuộc vây quanh.

Thiên tử Hiện Ý nói với Bồ-tát Kiên Ý:

–Đó là thế lực tự tại của Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm. Như vậy, thưa Bồ-tát Kiên Ý, Bồ-tát được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm thì có thể đem tam thiên đại thiên thế giới, vào trong hạt cải, khiến cho các núi sông, mặt trời, mặt trăng, tinh tú đều hiện ra như cũ mà chẳng dồn ép các chúng sinh.

Thưa Bồ-tát Kiên Ý, Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm có thế lực chẳng thể nghĩ bàn như vậy đó!

Bấy giờ, các đại đệ tử và những Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thátbà, Đế Thích, Phạm vương, Hộ Thế Thiên vương, đồng thanh bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu có người được Tam-muội Thủ-lăngnghiêm này thì công đức người đó chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì người đó tức là Phật đạo rốt ráo, thành tựu trí tuệ, thần thông, các minh. Hôm nay chúng con ở trên một tòa ngồi, thấy khắp chúng hội có đủ sắc tướng, do ngần ấy biến hiện ra. Chúng con suy nghĩ, nếu người chẳng được nghe Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm thì nên biết người đó bị ma phá hoại. Nếu người được nghe thì phải biết người đó được sự ủng hộ của các Đức Phật. Huống là người nghe rồi theo đúng lời nói mà tu hành?

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát nếu muốn thông đạt Phật pháp, đến bờ kia thì phải một lòng nghe Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, thọ trì, đọc tụng, vì người khác giảng nói.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát nếu muốn hiện tất cả hình sắc uy nghi khắp nơi, muốn biết khắp hết tâm và sự vận hành trong tâm của tất cả chúng sinh, lại muốn biết khắp tất cả chúng sinh để tùy bệnh mà cho thuốc thì phải khéo nghe pháp bảo Tam-muội này thọ trì, đọc tụng.

Bạch Thế Tôn! Nếu người đạt được Tam-muội Thủ-lăng-

nghiêm thì phải biết là người đó đã vào trí tuệ tự tại của cảnh giới Phật.

Phật bảo:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời nói của các ông! Nếu người chẳng được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm thì chẳng được gọi là hạnh sâu xa của Bồ-tát. Như Lai chẳng cho là người này đầy đủ Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ. Vậy nên các ông muốn tu hành cùng khắp tất cả đạo thì phải học được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, chẳng nghĩ đến tất cả các sự học khác.

Bấy giờ, Bồ-tát Kiên Ý hỏi Thiên tử Hiện Ý:

–Bồ-tát nếu muốn được Tam-muội này thì phải tu hành pháp gì?

Thiên tử đáp:

–Bồ-tát nếu muốn được Tam-muội đó thì phải tu hành pháp phàm phu. Nếu thấy pháp phàm phu, pháp Phật chẳng hợp chẳng tan thì đó gọi là tu tập Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm.

Bồ-tát Kiên Ý hỏi:

–Ở trong pháp Phật có hợp tan sao?

Thiên tử đáp:

–Trong pháp phàm phu còn không hợp tan huống là pháp Phật. Sao gọi là tu hành? Nếu có thể thông đạt các pháp phàm phu, pháp Phật không hai thì đó gọi tu tập, thật ra pháp này không hợp không tan. Thưa thiện nam! Tất cả các pháp chứa nhóm tướng vô sinh. Tất cả các pháp chứa nhóm tướng vô hoại. Tất cả các pháp chứa nhóm tướng hư không. Tất cả các pháp chứa nhóm tướng vô thọ.

Bồ-tát Kiên Ý lại hỏi:

–Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm đi đến chỗ nào?

Thiên tử đáp:

–Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm đi đến tâm hành của tất cả chúng sinh mà cũng chẳng duyên tướng chấp của tâm hành, đi đến tất cả các chỗ sinh mà cũng chẳng bị sự nhiễm bẩn của chỗ sinh, đi đến chỗ Phật của tất cả thế giới mà chẳng phân biệt tướng tốt của thân Phật, đi đến tất cả âm thanh ngôn ngữ mà chẳng phân biệt các tướng văn tự. Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm có thể khai thị khắp tất cả Phật pháp mà chẳng đến với chỗ rốt ráo tận cùng. Thưa thiện nam! Ngài hỏi Tam-muội đó đến chỗ nào? Tùy theo chỗ đến của Phật thì Tam-muội đó cũng đến như vậy.

Bồ-tát Kiên Ý hỏi:

–Đức Phật đến chỗ nào?

Thiên tử đáp:

–Đức Phật “Như Như” nên đến không chỗ đến!

Lại hỏi:

–Đức Phật chẳng đến Niết-bàn sao?

Đáp:

–Tất cả các pháp là rốt ráo Niết-bàn. Vậy nên, Như Lai chẳng đến Niết-bàn. Vì sao? Vì tánh Niết-bàn nên chẳng đến Niếtbàn.

Lại hỏi:

–Hằng hà sa số các Đức Phật đời quá khứ chẳng đến Niết-bàn sao?

Đáp:

–Hằng sa các Đức Phật có sinh như vậy sao!

Bồ-tát Kiên Ý nói:

–Đức Như Lai đã nói, hằng sa các Đức Phật sinh đã diệt độ!

Thiên tử nói:

–Này Thiện nam! Đức Như Lai chẳng nói rằng, một người ra đời đem lại nhiều sự lợi ích an lạc cho chúng sinh. Ý Ngài thế nào? Theo Đức Như Lai là nhất định có được những chúng sinh có sinh diệt sao?

Đáp:

–Thưa Thiên tử! Đức Như Lai đối với pháp chẳng được sinh diệt. Thưa Thiện nam! Nhân giả nên biết rằng, Đức Như Lai tuy nói các Đức Phật xuất hiện ở thế gian nhưng đối với tướng Như Lai thật ra là vô sinh. Đức Như Lai tuy nói các Đức Phật đến với Niết-bàn, nhưng đối với tướng Như Lai thật ra là vô diệt.

Lại hỏi:

–Hiện nay vô lượng Đức Như Lai được thành đạo chăng?

Đáp:

–Như Lai, tướng không sinh, không diệt như vậy mà thành đạo. Thưa Thiện nam! Các Đức Phật, hoặc ra đời, hoặc vào Niết-bàn đều không có khác. Vì sao? Vì Như Lai thông đạt tất cả các pháp chính là tướng tịch diệt. Đó gọi là Phật.

Lại hỏi:

–Nếu tất cả pháp rốt ráo tịch diệt thì tướng Niết-bàn có thể thông đạt sao?

Đáp:

–Như tất cả pháp rốt ráo tịch diệt thì đồng với tướng Niếtbàn. Tướng thông đạt cũng lại như vậy. Thưa Thiện nam! Như Lai chẳng do sinh, trụ, diệt mà ra. Không sinh, trụ, diệt thì đó gọi là Phật xuất hiện.

Bồ-tát Kiên Ý hỏi:

–Nhân giả trụ ở Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm thì có thể nói lời như vậy sao?

Đáp:

–Thưa Thiện nam! Ý Ngài thế nào? Đức Như Lai hóa độ người trụ ở trong pháp nào mà có sự thuyết giảng?

Bồ-tát Kiên Ý đáp:

–Nương thần lực Đức Phật có thể thuyết giảng!

Lại hỏi:

–Đức Phật trụ ở chỗ nào mà hóa ra thân người?

Đáp:

–Đức Phật trụ ở thần thông “chẳng hai” mà hóa ra thân người.

Thiên tử nói:

–Như Như Lai trụ ở pháp chẳng trụ mà tạo ra thân người. Những người được hóa ra cũng trụ ở pháp chẳng trụ mà thuyết giảng.

Bồ-tát Kiên Ý nói:

–Nếu không chỗ trụ thì làm sao có ngôn thuyết?

Thiên tử nói:

–Như không chỗ trụ thì ngôn thuyết cũng như vậy.

Lại hỏi:

–Sao gọi là Bồ-tát đầy đủ biện tài nhạo thuyết?

Đáp:

–Bồ-tát chẳng dùng ngã tướng, chẳng dùng bỉ tướng, chẳng dùng pháp tướng mà có thuyết giảng. Đó gọi là đầy đủ biện tài nhạo thuyết. Tùy theo lời nói pháp mà tướng văn tự chẳng cùng tận, tướng của pháp cũng chẳng cùng tận. Nói như vậy mà chẳng dùng hai lời nói, đó gọi là đầy đủ biện tài nhạo thuyết.

Lại nữa, thưa Thiện nam! Nếu Bồ-tát chẳng bỏ tướng huyễn của các pháp, đối với âm thanh chẳng bỏ tướng của tiếng vang. Đó gọi là đầy đủ biện tài nhạo thuyết. Lại như các văn tự, âm thanh, ngôn ngữ không xứ sở, không phương hướng, không trong, không ngoài, không có chỗ trụ, từ mọi duyên mà có. Tất cả các pháp cũng lại như vậy, không xứ sở, không phương hướng, không trong, không ngoài, không chỗ trụ, chẳng phải là quá khứ, vị lai, hiện tại, chẳng được sự biểu hiện của văn tự ngôn từ, bên trong tự thông đạt mà có thuyết giảng. Đó gọi là đầy đủ biện tài nhạo thuyết. Ví như tiếng vang, tất cả âm thanh đều tùy theo tướng của tiếng vang mà có thuyết giảng.

Bồ-tát Kiên Ý hỏi:

–Tùy nghĩa là sao?

–Thưa Thiện nam! Tùy hư không chính là nghĩa của tùy. Như hư không không chỗ theo thì tất cả các pháp cũng không chỗ theo, các pháp không so sánh, không có ví dụ. Nhưng vì người có được nói rằng, có chỗ nương theo!

Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen Thiên tử:

–Hay thay! Hay thay! Đúng như lời nói của ông. Bồ-tát đối với vấn đề này chẳng nên kinh sợ! Vì sao? Vì nếu có chỗ nương theo thì chẳng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thiên tử Hiện Ý đó từ cõi Phật nào đi đến thế gian này?

Thiên tử nói:

–Bồ-tát hỏi để làm gì?

Bồ-tát Kiên Ý đáp:

–Tôi nay muốn làm lễ về phương nào đó mà từ trú xứ đó Đại sĩ đi đến đây!

Thiên tử nói:

–Nếu tay của người được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm đó thì chư Thiên nhân dân của tất cả thế gian đều nên kính lễ!

Bấy giờ, Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:

–Thiên tử Hiện Ý này từ thế giới Diệu hỷ của Đức Phật A-súc đi đến đây. Vị này ở đó thường nói về Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm.

Này Kiên Ý! Tất cả các Đức Phật không ai chẳng nói Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm. Này Kiên Ý! Thiên tử Hiện Ý đó ở thế giới Ta-bà này sẽ được thành Phật. Người này vì muốn đoạn dứt đời năm trược ác này, chọn lấy cõi Phật thanh tịnh, giáo hóa chúng sinh tu tập tăng trưởng Thủ-lăng-nghiêm nên đi đến cõi này.

Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:

–Nay Thiên tử này bao lâu nữa sẽ ở thế giới này được thành Phật đạo? Hiệu của vị ấy là gì? Thế giới tên gì?

Phật nói:

–Thiên tử đó qua khỏi một ngàn Đức Phật của kiếp Hiền diệt độ rồi, trải sáu mươi hai kiếp không có Phật nữa, khoảng giữa thời gian ấy chỉ có trăm ngàn vạn ức Bích-chi-phật ra đời. Chúng sinh trong thời gian ấy có đủ căn lành. Qua khỏi kiếp đó rồi, Thiên tử này sẽ được thành Phật hiệu là Tịnh Quang Xưng Vương Như Lai. Thế giới ấy tên là Tịnh kiến. Vào thời đó, Đức Như Lai Tịnh Quang Xưng Vương có thể khiến cho lòng chúng sinh được thanh tịnh. Chúng sinh của thế giới đó chẳng bị sự che lấp của tham dục, sân hận và ngu si, được niềm tin thanh tịnh của pháp, đều tu hành thiện pháp.

Này Kiên Ý! Đức Phật Tịnh Quang Xưng Vương sống lâu mười tiểu kiếp, thừa dùng pháp ba Thừa độ thoát chúng sinh. Trong ấy, vô lượng, vô biên Bồ-tát được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, ở trong các pháp được lực tự tại. Lúc ấy ma hoặc dân ma đều tu Đại thừa, thương xót chúng sinh. Cõi nước của Đức Phật ấy không có ba đường ác và các xứ sở hoạn nạn, thanh tịnh trang nghiêm như châu Uấtđan-việt, không có những việc ma, lìa khỏi các tà kiến. Sau khi Đức Phật diệt độ, pháp trụ ngàn vạn ức năm. Này Kiên Ý! Thiên tử đó sẽ ở cõi nước thanh tịnh như vậy mà thành Phật đạo.

Bấy giờ, Bồ-tát Kiên Ý nói với Thiên tử:

–Nhân giả được lợi lớn! Đức Như Lai đã thọ ký Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho Nhân giả.

Thiên tử đáp:

–Thưa Thiện nam! Đối với tất cả pháp, nếu không có đối tượng chứng đắc thì đó gọi là lợi lớn. Đối với pháp mà có chứng đắc thì đó gọi là không lợi ích. Thưa Thiện nam! Vậy nên biết, nếu chẳng đạt được pháp thì đó gọi là lợi lớn.

Khi nói lời pháp đó, hai vạn năm ngàn Thiên tử đã từng ở đời trước gieo trồng mọi cội gốc công đức đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; có một vạn Bồ-tát được pháp Nhẫn vô sinh.

*******

QUYỂN HẠ

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Việc chưa từng có vậy! Hôm nay Thế Tôn nói về Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm mà ác ma chẳng đến nhiễu loạn.

Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Ông muốn thấy ma suy bại áo não không?

–Thưa vâng! Con muốn thấy!

Bấy giờ, Phật phóng ra ánh sáng của tướng đại nhân từ tướng lông trắng giữa chặng mày. Tất cả chúng hội đều thấy ác ma bị năm ràng buộc chẳng thể tự mở ra. Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Ông có thấy ác ma bị năm trói buộc không?

–Thưa vâng! Con đã thấy! Ác ma này bị ai trói buộc?

Phật bảo:

–Đó là sức uy thần của Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm. Ở cõi Phật có thuyết giảng về Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, trong cõi ấy ác ma muốn dùng tâm ác gây chướng ngại thì Tam-muội Thủ-lăngnghiêm cùng với sức uy thần của chư Phật nên các ma ấy đều tự thấy thân bị năm trói buộc. Này Xá-lợi-phất! Ở chỗ ta đã nói Tammuội Thủ-lăng-nghiêm, hoặc ta còn tại thế hay sau khi ta diệt độ, các ma, dân ma và mọi người có tâm ác ở chỗ ấy do sức uy thần của Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm nên chúng đều bị năm trói buộc.

Bấy giờ, trong hội Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà… bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con đối với Tam-muội này tâm không có nghi ngờ, chẳng bị chướng ngại. Chúng con chẳng muốn thân bị năm trói buộc. Bạch Thế Tôn! Chúng con cung kính Tam-muội này nên đều sẽ đến hộ trì người nói pháp này, đối với Tam-muội này phát sinh tưởng Thế Tôn.

Phật bảo các Trời, Rồng, Thần:

–Do vậy nên các ông sẽ được giải thoát mười hai kiến chấp, trói buộc. Những gì là mười hai? Ngã kiến phược, Chúng sinh kiến phược, Thọ mạng kiến phược, Nhân kiến phược, Đoạn kiến phược, Thường kiến phược, Ngã tác kiến phược, Ngã sở kiến phược, Hữu kiến phược, Vô kiến phược, Bỉ thử kiến phược, chư pháp kiến phược. Đó là mười hai kiến chấp trói buộc. Các ông nên biết! Nếu có chúng sinh ở trong Phật pháp khởi lên lòng sân hận muốn hủy hoại thì đều do trụ ở mười hai kiến trói buộc đó. Nếu người tin hiểu, thuận theo, chẳng chống đối thì được thoát khỏi mười hai kiến phược này.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Ác ma hôm nay có được nghe nói đến tên của Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm này không?

Phật nói:

–Chúng cũng được nghe! Nhưng do bị trói buộc nên chẳng thể đến được.

Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Sao Như Lai chẳng dùng sức uy thần khiến cho ma chẳng nghe nói danh tự của Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm?

Phật bảo:

–Ông hãy dừng lại! Chớ nói lời nói này! Giả sử trong những thế giới nhiều như cát sông Hằng đầy lửa lớn, người nào được nghe nói Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm này thì sẽ từ trong đó qua khỏi. Vì sao? Vì nếu người chỉ nghe nói Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm thôi thì ta nói rằng, người này được lợi ích lớn hơn cả người được Tứ thiền, sinh lên bốn cõi Phạm.

Này Xá-lợi-phất! Nếu khiến cho ác ma hôm nay được nghe nói đến danh tự của Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, do nhân duyên này chúng sẽ được ra khỏi tất cả việc ma. Nếu do bị trói buộc mà được nghe thì chúng cũng sẽ thoát khỏi mười hai kiến phược. Vậy nên, này Xá-lợi-phất! Người ác tà kiến mắc vào lưới ma mà còn nên nghe Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm này, huống là người tịnh tâm hoan hỷ muốn nghe.

Bấy giờ, trong chúng hội có một vị Bồ-tát tên là Ma Giới Hành Bất Ô bạch Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Hôm nay con sẽ hiện ở trong cõi ma, dùng thần lực tự tại làm cho ma được trụ ở Tam-muội Thủ-lăngnghiêm.

Phật bảo:

–Tùy ý ông!

Bồ-tát Ma Giới Hành Bất Ô liền ở trong hội bỗng nhiên biến mất, hiện ra ở cung ma, nói với ác ma:

–Các ngươi chắc chẳng nghe Đức Phật nói Tam-muội Thủlăng-nghiêm, có vô lượng chúng sinh đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ra khỏi cảnh giới của các ngươi. Họ đều sẽ trở lại độ thoát người khác ra khỏi cảnh giới của các ngươi!

Ma liền báo:

–Ta nghe Đức Phật nói danh tự Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm nhưng vì bị năm trói buộc nên chẳng thể đến được. Đó là hai tay, hai chân và đầu bị trói buộc.

Lại hỏi ác ma:

–Ai trói buộc ngươi?

Ma liền đáp:

–Ta vừa khởi tâm muốn đến phá hoại nhiễu loạn những người nghe nhận Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm liền bị năm trói buộc. Ta vừa nghĩ lại, các Đức Phật, Bồ-tát có uy đức lớn khó có thể phá hoại, nhiễu loạn. Nếu ta đến thì hoặc sẽ tự hủy hoại, chẳng bằng tự mình ở cung điện này. Ta dấy lên ý nghĩ đó xong liền được thoát khỏi năm sự trói buộc.

Bồ-tát đáp:

–Đúng vậy! Tất cả phàm phu nhớ tưởng phân biệt, điên đảo chấp giữ tướng nên có trói buộc, động niệm hý luận nên có trói buộc, thấy nghe hiểu biết nên có trói buộc. Thật ra trong này không có người trói, kẻ mở. Vì sao? Vì các pháp không trói buộc, vốn giải thoát. Các pháp không mở, vốn không trói. Thường tướng giải thoát không có ngu si. Đức Như Lai dùng pháp môn này để nói pháp. Nếu có chúng sinh được biết ý nghĩa này mà muốn cầu giải thoát, tâm siêng tinh tấn thì đối với các pháp được giải thoát.

Bảy trăm Thiên nữ trong chúng ma dùng hoa thơm của trời, bột thơm, hương xoa và các chuỗi ngọc tung lên người Bồ-tát Ma Giới Hành Bất Ô thưa:

–Khi nào chúng tôi thoát khỏi cảnh giới ma?

Bồ-tát bảo:

–Các ngươi, nếu có thể chẳng phá hoại sự trói buộc của ma thì được giải thoát. Sao gọi là sự trói buộc của ma? Đó là sáu mươi hai kiến. Nếu người chẳng phá hoại những kiến này tức là được thoát khỏi sự trói buộc của ma.

Thiên nữ lại nói:

–Sao gọi là chẳng phá hoại các kiến chấp mà được giải thoát?

Đáp:

–Các kiến chấp vốn không từ đâu đến cũng không đi về đâu. Nếu biết tướng của các kiến chấp không đến đi tức là thoát khỏi sự trói buộc của ma. Các kiến chấp chẳng phải có chẳng phải không, nếu chẳng phân biệt có, không tức là thoát khỏi sự trói buộc của ma. Nếu không có kiến chấp đó là Chánh kiến. Như vậy, Chánh kiến không chánh, không tà. Nếu pháp không chánh, không tà, không tạo tác, không chấp giữ tức là thoát khỏi sự trói buộc của ma. Các kiến chấp đó chẳng phải trong, chẳng phải ngoài cũng chẳng phải trung gian. Như vậy, các kiến chấp cũng lại chẳng niệm thì thoát khỏi sự trói buộc của ma.

Bảy trăm Thiên nữ nghe giảng nói pháp này liền được Thuận nhẫn rồi nói:

–Chúng tôi cũng sẽ ở trong cõi ma tu hành không nhiễm ô, thoát khỏi tất cả sự trói buộc của ma.

Bấy giờ, Bồ-tát Ma Giới Hành Bất Ô nói với ác ma:

–Các quyến thuộc của ngươi đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ngươi đang làm những việc gì?

Đáp:

–Tôi bị năm trói buộc nên không biết đang làm việc gì.

Bồ-tát đáp:

–Ngươi phát Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác sẽ được thoát khỏi sự trói buộc này.

Các Thiên nữ thương xót ma nên đều nói:

–Hãy phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đi! Chớ đối với sự yên ổn, phát sinh tưởng sợ hãi! Chớ ở trong vui mà sinh ra tưởng khổ! Chớ đối với giải thoát mà sinh ra ý tưởng trói buộc.

Bấy giờ, ác ma sinh tâm dối trá mà nói:

–Nếu các ngươi lìa bỏ tâm Bồ-đề thì ta sẽ phát tâm!

Các Thiên nữ dùng sức phương tiện mà nói với ma:

–Chúng tôi đều đã lìa bỏ tâm này rồi, ông liền có thể phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác! Nếu một Bồ-tát phát tâm Bồ-đề thì tất cả Bồ-tát cũng đồng tâm đó. Vì sao? Vì tâm không sai biệt, đối với các chúng sinh tâm đều bình đẳng.

Bấy giờ, ác ma nói với Bồ-tát Ma Giới Hành Bất Ô:

–Hôm nay tôi sẽ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Do căn lành đó khiến cho tôi được mở trói.

Nói lời này xong, ma liền tự thấy thân từ trói buộc đã được cởi mở. Bồ-tát Ma Giới Hành Bất Ô dùng thần lực phóng ra ánh sáng lớn, thị hiện thân thanh tịnh vi diệu, soi chiếu cung ma. Ma tự thấy thân mình không có uy đức ánh sáng giống như mực đen tụ lại. Trong chúng ma, có hai trăm Thiên nữ đắm sâu vào dâm dục, thấy thân sắc Bồ-tát này đoan nghiêm, khởi lên lòng ái nhiễm, đều nói:

–Người đó, nếu có thể cùng ta làm bạn thì chúng ta đều thuận theo lời dạy bảo của người ấy.

Bồ-tát này biết duyên đời trước của các Thiên nữ ứng hợp hóa độ, tức thời hóa làm hai trăm Thiên tử, sắc mạo đoan nghiêm như thân mình không khác. Ngài lại hóa ra hai trăm đài giao lộ báu hơn cả cung quán của ma. Các Thiên nữ đó đều tự thấy thân mình ở tại đài báu này. Mỗi người đều tự cho rằng, mình cùng với Bồ-tát này cùng nhau vui vẻ. Ước nguyện được thỏa mãn, ý dâm dục dứt, họ đều sinh tâm yêu kính Bồ-tát. Bồ-tát liền theo sự ứng hợp của họ mà nói pháp, khiến cho họ đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bồ-tát Ma Giới Hành Bất Ô nói với ác ma:

–Ngươi có thể đi đến chỗ Đức Phật!

Ma nghĩ rằng, sự trói buộc của ta đã được mở rồi, ta phải đi đến chỗ Đức Phật phá hoại, nhiễu loạn nói pháp. Bấy giờ, ác ma với quyến thuộc cùng nhau đi đến chỗ Đức Phật bạch rằng:

–Bạch Thế Tôn! Ngài chớ nói Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm này nữa. Vì sao? Vì nói Tam-muội đó thì thân con liền bị năm trói buộc. Nguyện xin Đức Như Lai thay đổi nói việc khác!

Bồ-tát Kiên Ý nói với ác ma:

–Ai cởi trói cho ngươi?

Đáp:

–Bồ-tát Ma Giới Hành Bất Ô cởi mở trói buộc cho tôi!

–Ông đã hứa việc gì mà được cởi trói?

Ma nói:

–Tôi hứa phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bấy giờ, Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:

–Hôm nay, ác ma đó vì mở trói nên phát tâm Bồ-đề, chẳng phải là ý thanh tịnh. Như vậy, này Kiên Ý! Sau năm trăm năm, sau khi ta diệt độ có nhiều Tỳ-kheo vì lợi dưỡng nên phát tâm Bồ-đề, chẳng phải là ý thanh tịnh. Này Kiên Ý! Ông quan sát thế lực của Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, uy thần của Phật pháp! Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đó dùng tâm khinh thường, tâm tham lợi dưỡng, tâm chạy theo người khác để nghe Tam-muội này mà phát tâm Bồ-đề. Ta đều biết, những tâm này cùng với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đã tạo được nhân duyên. Huống là người nghe Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm mà có thể dùng tâm thanh tịnh phát khởi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ông phải biết người này, ở trong Phật pháp đã được định rốt ráo.

Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Hôm nay, ác ma này nghe nói Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, vì được cởi trói nên phát tâm Bồ-đề, cũng được đầy đủ nhân duyên Phật pháp sao?

Phật bảo:

–Đúng như lời nói của ông! Ác ma do nhân duyên phước đức nhân duyên của Tam-muội này và nhân duyên phát tâm Bồ-đề nên vào đời vị lai được xả bỏ tất cả việc ma, hành động ma, lòng dua nịnh quanh co của ma và việc suy tàn ưu não của ma. Từ nay về sau, dần dần sẽ được sức Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, thành tựu Phật đạo.

Bồ-tát Kiên Ý nói với ác ma:

–Đức Như Lai đã thọ ký cho ông!

Ma nói:

–Thưa Thiện nam! Tôi nay chẳng dùng tâm thanh tịnh phát khởi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì sao Đức Như Lai thọ ký cho tôi? Như Đức Phật đã nói rằng, từ tâm có nghiệp, từ nghiệp có quả báo. Tôi từ vô tâm cầu đạo Bồ-đề thì Đức Như Lai vì sao thọ ký cho tôi.

Phật muốn đoạn dứt sự nghi ngờ của chúng hội nên bảo Bồ-tát Kiên Ý:

–Bồ-tát được thọ ký phàm có bốn loại. Sao gọi là bốn?

  1. Có loại chưa phát tâm mà được thọ ký.
  2. Có loại vừa phát tâm mà được thọ ký.
  3. Có loại bí mật thọ ký.
  4. Có loại được Vô sinh pháp nhẫn hiện tiền mới thọ ký.

Đó gọi là bốn. Chỉ có Như Lai có thể biết việc này. Tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật chẳng thể biết được. Này Kiên Ý! Sao gọi là có loại chưa phát tâm mà được trao cho thọ ký? Hoặc có chúng sinh qua lại năm đường, hoặc ở địa ngục, hoặc ở súc sinh, hoặc ở ngã quỷ, hoặc ở trên trời, hoặc ở nhân gian mà các căn mãnh mẽ, thông lợi ưa thích Đại pháp. Phật biết người đó trải qua trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ ngần ấy kiếp sẽ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Họ lại ở trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ ngần ấy kiếp, tu hành đạo Bồ-tát, cúng dường trăm ngàn vạn ức na-do-tha bao nhiêu Đức Phật, giáo hóa trăm ngàn vạn ức không lường bao nhiêu chúng sinh khiến trụ ở Bồ-đề. Họ lại trải qua trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ bao nhiêu kiếp sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác hiệu tự như vầy…, đất nước như vầy…, số chúng Thanh văn, tuổi thọ như vầy…, sau khi diệt độ pháp trụ một số năm như vầy…

Phật bảo:

–Này Kiên Ý! Như Lai đều biết rõ những việc này, lại còn biết hơn thế nữa. Đó gọi là chưa phát tâm mà được thọ ký.

Bấy giờ, Trưởng lão Đại Ca-diếp bạch Phật:

–Từ nay về sau, chúng con sẽ đối với tất cả chúng sinh phát sinh tưởng Thế Tôn! Vì sao? Vì chúng con không có trí tuệ như vậy thì làm sao biết những chúng sinh nào có căn Bồ-tát? Những chúng sinh nào không có căn Bồ-tát? Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng biết được những việc như vậy. Hoặc đối với chúng sinh phát sinh lòng khinh mạn tức là tự làm tổn thương mình.

Phật nói:

–Hay thay! Hay thay! Này Ca-diếp! Ông nói lời này hay lắm! Do việc này nên trong kinh ta nói, con người thì chẳng nên dối gạt chúng sinh. Vì sao? Vì nếu dối gạt đối với chúng sinh khác tức là tự làm tổn thương mình. Chỉ có Như Lai ứng hợp với chúng sinh và cùng bình đẳng. Do nhân duyên đó, nếu các Thanh văn và Bồ-tát khác đối với các chúng sinh nên phát sinh Phật tưởng. Vừa phát tâm đã được thọ ký là, hoặc có người tự mình đã lâu gieo trồng gốc đức, tu tập hạnh lành, lòng siêng tinh tấn, các căn dũng mãnh, thông lợi, ưa thích Đại pháp, có lòng đại Bi, khắp vì chúng sinh cầu đạo giải thoát. Người phát tâm đó liền trụ ở quả vị không chuyển, vào địa vị Bồ-tát, được an trụ định là ra khỏi tám nạn. Những người như vậy, khi vừa phát tâm, các Đức Phật liền thọ ký Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, danh hiệu như vầy…, đất nước như vầy…, tuổi thọ như vầy… Những người như vậy, Như Lai biết tâm mà thọ ký. Đó gọi là vừa phát tâm liền được thọ ký.

Thọ ký bí mật là, có Bồ-tát tự mình chưa được thọ ký mà thường tinh tấn siêng năng cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ưa đủ pháp bố thí, ưa Nhất thiết trí, giữ pháp kiên cố, giữ giới chẳng bỏ, phát khởi trang nghiêm sâu sắc, có sức nhẫn lớn, lòng bình đẳng với chúng sinh, siêng tu hành tinh tấn, cầu các pháp lành, thân tâm chẳng lười biếng như cứu lửa cháy đầu, thực hành niệm yên ổn có thể được bốn Thiền, ưa cầu trí tuệ, hành Bồ-đề của Phật, đã lâu tu hành sáu Độ, có thành tựu tướng Phật. Các Bồ-tát khác, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà… đều khởi ý nghĩ rằng, như Bồ-tát này lòng siêng tinh tấn thật là hiếm có, không biết bao lâu sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Danh hiệu của vị ấy là gì? Cõi nước tên là gì? Số chúng Thanh văn nhiều ít ra sao? Phật vì đoạn dứt sự nghi ngờ của chúng sinh này nên thọ ký cho Bồ-tát ấy khiến cho chúng hội đều nghe biết mà chỉ riêng một mình Bồtát đó chẳng được nghe biết. Nhờ thần lực của Phật nên khiến cho tất cả chúng sinh biết Bồ-tát đó sẽ thành Phật, hiệu tự, cõi nước như vầy…, số chúng Thanh văn nhiều ít như vầy… Khi sự nghi ngờ của chúng đều giải quyết xong thì họ đối với Bồ-tát này phát sinh tưởng Thế Tôn mà Bồ-tát đó chẳng thể tự biết là mình được thọ ký hay là chưa được thọ ký. Đó là Bồ-tát bí mật được thọ ký.

Hiện tiền thọ ký là có Bồ-tát tích tập căn lành đã lâu, không gì chẳng thấy được, thường tu phạm hạnh, quán vô ngã, không, đối với tất cả các pháp được Vô sinh nhẫn. Phật biết người này công đức trí tuệ đều đã đầy đủ nên ở trong đại chúng, tất cả Trời, Người, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn… hiện tiền thọ ký, nói lên: “Này Thiện nam! Ông trải qua trăm ngàn vạn ức ngần ấy kiếp sẽ được thành Phật, hiệu tự như vầy…, cõi nước như vầy…, số chúng Thanh văn như vầy…, tuổi thọ như vầy…” Đồng thời vô số người theo hiệu lực của người đó đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Người đó ở trước Phật đã được thọ ký rồi, thân bay bổng lên hư không cao đến bảy cây Đa-la. Này Kiên Ý! Đó gọi là hiện tiền thọ ký thứ tư.

Bấy giờ, Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:

–Hôm nay trong hội này chắc có Bồ-tát do bốn việc này mà được thọ ký chăng?

Phật đáp:

–Có.

–Bạch Thế Tôn! Là ai?

Phật nói:

–Con của cư sĩ Lạc Dục – Bồ-tát Sư Tử Hống Vương – này là

chưa phát tâm mà được thọ ký. Như vậy, vô số Bồ-tát của những thế giới phương khác cũng chưa phát tâm mà được thọ ký. Lại có Bồ-tát Tịch Diệt, Bồ-tát Đại Đức Pháp vương tử, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử… vô lượng những Bồ-tát như vậy… lúc vừa phát tâm liền được thọ ký, đều trụ trong địa vị không thoái chuyển. Trong hội này lại có Bồ-tát Trí Dũng, Bồ-tát Ích Ý… vô lượng những Bồ-tát như vậy được bí mật thọ ký.

Này Kiên Ý! Ta và Di-lặc cùng một ngàn vị Bồ-tát của kiếp hiền đều được pháp Nhẫn vô sinh được hiện tiền thọ ký.

Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:

–Thật hy hữu! Thưa Thế Tôn, hành hóa của Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn, thọ ký cũng chẳng thể nghĩ bàn. Tất cả Thanh văn, các Bích-chi-phật còn chẳng thể biết huống là chúng sinh khác.

Phật bảo:

–Này Kiên Ý! Sự phát khởi thế lực oai thần tinh tấn về sự hành hóa Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn.

Bấy giờ, Bồ-tát Ma Giới Hành Bất Ô đã giáo hóa Thiên nữ khiến cho họ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Họ đều dùng hoa trời tung lên trên Đức Phật, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con chẳng ưa bí mật được thọ ký. Chúng con nguyện được pháp Nhẫn vô sinh hiện tiền thọ ký. Nguyện xin Thế Tôn hôm nay thọ ký cho con Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác!

Đức Phật mỉm cười, từ miệng phát ra đủ loại ánh sáng màu sắc vi diệu, soi khắp các thế giới, rồi trở lại theo đỉnh đầu mà vào. Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Thế Tôn cười?

Phật bảo Tôn giả A-nan:

–Hôm nay, ông có thấy hai trăm Thiên nữ đó chắp tay kính lễ Như Lai không?

–Bạch Thế Tôn! Con đã thấy!

–Này A-nan! Thuở xưa, các Thiên nữ đó đã từng ở chỗ của năm trăm Đức Phật gieo trồng căn lành. Từ đây về sau họ sẽ lại cúng dường vô số các Đức Phật. Qua bảy trăm a-tăng-kỳ kiếp rồi, họ đều được thành Phật hiệu là Tịnh Vương. Này A-nan! Các Thiên nữ đó sau khi mạng chung được chuyển thân nữ, đều sẽ sinh lên cõi trời Đâu-suất, cúng dường phụng sự Bồ-tát Di-lặc.

Bấy giờ, ác ma nghe các Thiên nữ được thọ ký rồi, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con nay tự đối với quyến thuộc chẳng được tự tại, do họ nghe nói Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm đó, huống là người khác nghe. Nếu người được nghe Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm thì liền được định rốt ráo ở trong Phật pháp.

Lúc ấy, Thiên nữ dùng tâm không khiếp sợ nói với ác ma:

–Ông chớ buồn thảm! Chúng tôi nay chẳng ra khỏi cảnh giới của ông. Vì sao? Vì ma giới “Như” tức là Phật giới “Như”, Ma giới Như, Phật giới Như chẳng hai, chẳng khác biệt mà chúng tôi chẳng lìa khỏi cái “Như” đó. Tướng Ma giới tức là tướng Phật giới, pháp ma giới, pháp Phật giới chẳng hai, chẳng khác biệt mà chúng tôi đối với pháp, tướng này chẳng vượt ra, chẳng qua khỏi. Ma giới không có pháp định có thể hiển bày, Phật giới cũng không có pháp định có thể hiển bày, ma giới, Phật giới chẳng hai, chẳng khác biệt mà chúng tôi đối với pháp tướng này chẳng vượt ra, chẳng qua khỏi. Vậy nên, ông phải biết là tất cả các pháp không có quyết định. Không quyết định nên không có quyến thuộc, chẳng phải không quyến thuộc.

Bấy giờ, ác ma sầu khổ muốn trở lại trên cõi trời. Bồ-tát Ma Giới Hành Bất Ô nói với ác ma:

–Ông muốn đi đâu?

Ma đáp:

–Tôi nay muốn trở lại cung điện đã ở.

Bồ-tát nói:

–Chẳng rời khỏi chúng này chính là cung điện của ông.

Lúc ấy, ác ma liền tự thấy thân mình ở tại cung điện của mình. Bồ-tát nói:

–Ông thấy những gì?

Ác ma đáp:

–Tôi tự thấy thân mình ở tại cung điện của mình; vườn rừng, ao đẹp chính là của tôi.

Bồ-tát nói:

–Nay ông hãy đem dâng lên Đức Như Lai!

Ma nói:

–Được vậy!

Ma vừa nói lời nói đó, liền thấy Đức Như Lai, Thanh văn Bồtát, tất cả đại chúng đều ở trong cung điện ấy, nói Tam-muội Thủlăng-nghiêm.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Trụ xứ của Đức Phật nói Tam-muội Thủ-lăngnghiêm, có bố thí bữa ăn rồi Đức Phật được thành đạo. Hai thí chủ này, người nào phước nhiều?

Phật bảo:

–Này A-nan! Bố thí Phật ăn rồi, Phật thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ăn rồi Phật chuyển bánh xe pháp, ăn rồi Phật nói Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm. Ba bữa ăn này, phước không sai khác. Này A-nan! Ta ở chỗ nào được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì ông phải biết, nơi ấy tức là Kim cương. Các Đức Phật quá khứ, vị lai và hiện tại đều ở trong chỗ ấy được thành Phật đạo. Tùy theo trụ xứ, nói Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm bình đẳng không sai khác và chỗ có đọc tụng, biên chép cũng lại như vậy. Này A-nan! Bố thí Phật một bữa ăn rồi Phật bắt đầu chuyển pháp luân, hoặc có Pháp sư được bố thí thức ăn rồi đọc tụng giảng nói Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, phước của hai sự bố thí này bình đẳng không khác. Lại nữa này Anan! Phật ở tinh xá, dùng mười tám loại thần thông biến hóa độ thoát chúng sinh. Lại có tinh xá, trong đó có người đọc tụng giảng nói Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm. Phước đức của hai chỗ này chẳng sai khác.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan nói với ác ma:

–Ông được lợi lớn! Ông có thể đem cung điện dâng Đức Phật và thỉnh Phật an trụ!

Ma nói:

–Đó là ân lực của Bồ-tát Ma Giới Hành Bất Ô ban cho!

Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Ma Giới Hành Bất Ô đó trụ ở Tammuội Thủ-lăng-nghiêm, thần lực tự tại, mới được như vậy ư?

Phật bảo:

–Này Kiên Ý! Đúng như lời nói của ông! Hôm nay, Bồ-tát này trụ ở Tam-muội này, có thể sử dụng thần lực theo ý tự tại, thị hiện hành động tất cả hạnh của ma giới mà chẳng bị sự nhiễm bẩn của hạnh ma. Ông ấy cùng các Thiên nữ thị hiện vui vẻ với nhau mà thật ra chẳng có pháp ác dâm dục. Thiện nam tử đó trụ ở Tam-muội Thủlăng-nghiêm, thị hiện vào cung ma mà thân chẳng lìa khỏi Phật hội, hiện hành động ở ma giới, qua lại vui vẻ mà dùng Phật pháp để giáo hóa chúng sinh.

Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như Lai trụ ở Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm thì có thể thị hiện bao nhiêu thần lực tự tại? Hay thay! Bạch Thế Tôn!

Nguyện xin diễn nói cho chúng con chút ít.

Phật bảo:

–Này Kiên Ý! Ta nay trụ ở Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm này là ở tam thiên đại thiên thế giới này, trăm ức bốn thiên hạ, trăm ức mặt trời mặt trăng, trăm ức xứ sở bốn vua trời, trăm ức trời Đaolợi, trăm ức trời Dạ-ma, trăm ức trời Đâu-suất-đà, trăm ức trời Hóa lạc, trăm ức trời Tha hóa tự tại… cho đến trăm ức trời A-ca-ni-sất, trăm ức núi chúa Tu-di, trăm ức biển cả. Đó gọi là tam thiên đại thiên thế giới.

Này Kiên Ý! Ta trụ nơi Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, ở tam thiên đại thiên thế giới này, hoặc ở cõi Diêm-phù-đề hiện làm Bố thí ba-la-mật; hoặc ở cõi Diêm-phù-đề hiện làm Trì giới ba-la-mật; hoặc ở cõi Diêm-phù-đề hiện làm Nhẫn nhục ba-la-mật; hoặc ở cõi Diêm-phù-đề hiện làm Tinh tấn ba-la-mật; hoặc ở cõi Diêm-phùđề hiện làm Thiền định ba-la-mật; hoặc ở cõi Diêm-phù-đề hiện làm Trí tuệ ba-la-mật; hoặc ở cõi Diêm-phù-đề hiện làm Thần tiên ngũ thông; hoặc ở cõi Diêm-phù-đề thị hiện ở tại gia; hoặc ở cõi Diêm-phù-đề hiện làm xuất gia; hoặc ở bốn thiên hạ thị hiện Nhất sinh bổ xứ ở tại cõi trời Đâu-suất; hoặc ở bốn thiên hạ hiện làm Chuyển luân thánh vương, hoặc làm Thích Đề-hoàn Nhân, hoặc làm Phạm vương, hoặc làm Tứ Thiên vương, hoặc làm vua trời Dạma, hoặc làm vua trời Đâu-suất-đà, hoặc làm vua trời Hóa lạc, hoặc làm vua trời Tha hóa tự tại, hoặc hiện làm Trưởng giả, hoặc hiện làm Cư sĩ, hoặc lại hiện làm Tiểu vương, Đại vương, hoặc làm Sát-lợi, hoặc làm Bà-la-môn, hoặc làm Bồ-tát… hoặc ở bốn thiên hạ, muốn từ trời Đâu-suất sinh xuống thế gian, hoặc hiện vào thai, hoặc hiện ở trong thai, hoặc hiện sắp sinh ra, hoặc hiện sinh ra rồi đi bảy bước, đưa tay lên tự xưng rằng, trên trời dưới trời chỉ ta là tôn quý, hoặc hiện ở trong cung cùng với thể nữ, hoặc hiện xuất gia, hoặc hiện khổ hạnh, hoặc hiện lấy cỏ trải chỗ ngồi, hoặc hiện ngồi đạo tràng, hoặc hiện hàng phục ma, hoặc hiện thành Phật, hoặc hiện quan sát thọ vương, hoặc hiện Đế Thích, Phạm vương thỉnh chuyển bánh xe pháp, hoặc hiện chuyển bánh xe pháp, hoặc hiện xả thân, hoặc hiện vào Niết-bàn, hoặc hiện đốt cháy thân, hoặc hiện toàn thân xá-lợi, hoặc hiện tán thân xá-lợi, hoặc hiện pháp sắp diệt, hoặc hiện pháp đã diệt, hoặc hiện tuổi thọ không lường, hoặc hiện tuổi thọ ngắn ngủi, hoặc hiện cõi nước không có tên đường ác, hoặc hiện có các đường ác, hoặc hiện cõi Diêm-phùđề thanh tịnh trang nghiêm đẹp đẽ như cung điện trời, hoặc hiện cõi ấy tệ ác, hoặc hiện trên, giữa, dưới. Này Kiên Ý! Đó đều là thần lực tự tại của Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm. Bồ-tát thị hiện vào Niết-bàn nhưng chẳng rốt ráo tịch diệt mà ở tam thiên đại thiên thế giới, có thể hiện thần lực tự tại như vậy, thị hiện những việc trang nghiêm như vậy.

Này Kiên Ý! Ông hãy quan sát Như Lai, ở bốn thiên hạ này chuyển bánh xe pháp, ở cõi Diêm-phù-đề khác thì chưa thành Phật đạo, hoặc có cõi Diêm-phù-đề thì ta hiện vào Diệt độ. Đó gọi là pháp môn thể nhập của Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm.

Bấy giờ, trong chúng hội, các Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thátbà… các Bồ-tát đại đệ tử đều nghĩ: “Đức Phật Thích-ca Mâu-ni chỉ có thể ở tam thiên đại thiên thế giới này, có thần lực đó hay ở thế giới khác cũng có thần lực đó?” Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử biết ý của chúng hội, muốn đoạn dứt sự nghi ngờ này nên bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con đã đi đến các cõi nước Phật, ở trên thế giới này, vượt qua số cõi nhiều bằng sáu mươi lần cát sông Hằng, có thế giới Phật tên là Nhất đăng minh, Đức Phật ở trong cõi ấy vì người nói pháp. Con đến chỗ ấy đầu mặt làm lễ dưới chân Đức Phật, thưa: “Bạch Thế Tôn! Tự hiệu Thế Tôn là gì? Chúng con làm sao phụng trì danh hiệu Phật?” Đức Phật đó đáp: “Ông hãy đi đến chỗ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, tự Đức Phật sẽ đáp cho ông!”

Bạch Thế Tôn! Công đức trang nghiêm của cõi nước Đức Phật ấy nói cả một kiếp còn chẳng thể hết. Hơn thế nữa, cõi nước đó không có tên Thanh văn, Bích-chi-phật mà chỉ có các Bồ-tát tăng, thường giảng nói pháp luân không thoái chuyển. Nguyện xin Thế Tôn hãy nói danh hiệu Đức Phật đang giảng nói pháp ở cõi Nhất đăng minh này!

Bấy giờ, Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử:

–Các ông hãy lắng nghe! Chớ sợ sệt mà sinh tâm nghi ngờ! Vì sao? Vì thần lực của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn, thế lực của Tammuội Thủ-lăng-nghiêm cũng chẳng thể nghĩ bàn. Này Văn-thù-sưlợi! Bậc giảng nói pháp ở cõi Nhất đăng minh đó, hiệu là Thị Nhất Thiết Công Đức Tự Tại Quang Minh Vương.

Này Văn-thù-sư-lợi! Đức Phật Thị Nhất Thiết Công Đức Tự Tại Quang Minh Vương của cõi Nhất đăng minh là chính thân ta ở cõi nước đó thị hiện thần lực của Phật. Ta ở cõi đó nói pháp luân không thoái chuyển. Đó là cõi tu hành thanh tịnh đời trước của ta. Này Văn-thù-sư-lợi! Nay ông nên biết, ta ở vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức na-do-tha cõi đều có thần lực mà tất cả Thanh văn Bích-chi-phật chẳng thể biết. Này Văn-thù! Đây đều là thế lực của Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm. Bồ-tát thường ở vô lượng thế giới thị hiện thần biến bằng Tam-muội này mà chẳng động chuyển.

Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như mặt trời mặt trăng từ nơi cung điện, ban đầu chẳng di động mà hiện tất cả thành ấp, xóm làng. Bồtát trụ ở Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm cũng vậy, đầu tiên chẳng di động mà có thể ở khắp cùng vô lượng thế giới thị hiện thân mình, tùy sự ưa thích của mọi người mà vì họ nói pháp.

Bấy giờ, chúng hội được việc chưa từng có đều vui mừng không lường, chắp tay cung kính và các Trời, Rồng, Dạ-xoa, Cànthát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già… dùng hoa trân châu, hoa xen sắc màu vi diệu, bột thơm, hương xoa tung lên trên Đức Phật, đều tấu lên âm nhạc của chư Thiên để cúng dường Đức Như Lai và các đệ tử. Họ cũng đều cởi y dâng lên Đức Phật và các vị Bồ-tát… Họ dùng hoa đẹp lớn như núi Tu-di cùng những hương thơm đủ mùi, bột thơm, hương xoa, chuỗi ngọc, trân bảo tung lên trên Đức Phật và nói:

–Kính bạch Thế Tôn! Nếu có nơi nào giảng nói Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm thì đất nơi ấy là Kim cương. Nếu người được nghe giảng nói Tam-muội đó mà tin nhận, đọc tụng, vì người diễn nói, chẳng kinh chẳng sợ thì phải biết là người này cũng là Kim cương, thành tựu Nhẫn bất hoại, trụ sâu ở niềm tin được sự hộ trì của chư Phật, gieo trồng căn lành sâu xa, được lợi ích lớn, hàng phục ma oán thù, đoạn trừ các đường ác, được sự hộ trì của Thiện tri thức. Bạch Thế Tôn! Như con hiểu được ý nghĩa lời nói của Phật là, nếu có chúng sinh nghe Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, liền có thể tin nhận, đọc tụng, giải nghĩa, vì người diễn nói, đúng như lời nói tu hành thì phải biết rằng, người đó được trụ ở Phật pháp, nhất định chẳng thoái lui.

Phật nói:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời nói của các ông! Nếu người chẳng gieo trồng các căn lành sâu dày, nghe Tam-muội Thủlăng-nghiêm thì chẳng thể tin nhận. Ít có chúng sinh nghe Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm mà có thể tin nhận, có nhiều chúng sinh chẳng có thể tin nhận. Này Thiện nam! Người có bốn pháp, khi nghe Tammuội này có thể tin nhận. Những gì là bốn?

  1. Từng ở chỗ các Đức Phật đời quá khứ nghe Tam-muội này.
  2. Được sự hộ trì của Thiện tri thức thích Phật đạo sâu xa.
  3. Căn lành thâm sâu ưa thích Đại pháp.
  4. Tự thân được chứng pháp Đại thừa sâu xa.

Có bốn pháp đó thì có thể tin nhận Tam-muội này. Này Thiện

nam! Lại có A-la-hán mãn nguyện và người đầy đủ chánh kiến, người có lòng tin, người thực hành chánh kiến. Người đó tin thuận lời nói Đức Như Lai nên tin Tam-muội đó mà thân chẳng chứng đắc. Vì sao? Vì Tam-muội này, tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật chẳng thể thông đạt huống là chúng sinh khác.

Bấy giờ, Trưởng lão Đại Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Ví như người mù bẩm sinh, trong mộng mắt được nhìn thấy đủ thứ sắc màu, lòng rất vui mừng, liền ở trong mộng cùng người mắt sáng ở chung cùng chuyện trò. Người đó thức dậy rồi chẳng còn thấy hình sắc nữa. Chúng con cũng vậy. Khi chưa nghe Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, lòng ôm niềm hoan hỷ cho là được Thiên nhãn cùng với các Bồ-tát ở chung cùng nói năng bàn luận nghĩa lý.

Bạch Thế Tôn! Con nay theo Phật nghe Tam-muội này mà chẳng biết việc ấy, như người mù bẩm sinh chẳng thể được biết pháp hành hóa của các Đức Phật, Bồ-tát. Chúng con từ nay về sau tự nhìn thấy mình như người mù bẩm sinh, đối với pháp sâu xa của Phật, không có trí tuệ, chẳng thấy chẳng biết các hạnh của Thế Tôn. Từ nay về sau chúng con, biết các Bồ-tát thật sự được Thiên nhãn thì có thể đạt được những trí tuệ thâm sâu như vậy. Bạch Thế Tôn! Nếu người không có tâm Nhất thiết trí (Tát-bà-nhã) thì ai sẽ tự cho rằng ta là người trí, ta là ruộng phước.

Phật bảo:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Này Ca-diếp! Đúng như lời nói của ông! Những trí tuệ thâm sâu của Bồ-tát đạt được, Thanh văn, Bíchchi-phật chẳng thể bì kịp!

Khi Tôn giả Đại Ca-diếp nói lời nói đó, tám ngàn chúng sinh đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bấy giờ, Bồ-tát Kiên Ý hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử:

–Thưa Tôn giả Văn-thù-sư-lợi! Điều gọi là phước điền thì sao gọi là phước điền?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:

–Có mười pháp hạnh gọi là phước điền. Những gì là mười?

  1. Trụ ở cửa giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện mà chẳng vào pháp vị.
  2. Thấy biết bốn đế mà chẳng chứng đạo quả.
  3. Tu hành tám giải thoát mà chẳng bỏ hạnh Bồ-tát.
  4. Có thể khởi tam minh mà hành hóa ở ba cõi.
  5. Có thể hiện uy nghi hình sắc Thanh văn mà chẳng theo âm thanh từ người khác cầu đạo.
  6. Hiện uy nghi hình sắc Bích-chi-phật mà dùng biện tài vô ngại nói pháp.
  7. Thường trụ Thiền định mà có thể hiện làm tất cả các hạnh.
  8. Chẳng lìa khỏi chánh pháp mà hiện vào tà đạo.
  9. Tham sân, nhiễm ái mà lìa khỏi tất cả phiền não của các dục.
  10. Vào đến Niết-bàn mà đối với sinh tử chẳng hoại, chẳng bỏ.

Người có mười pháp này thì nên biết người đó là ruộng phước chân thật.

Bấy giờ, Bồ-tát Kiên Ý hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề:

–Thưa Tôn giả Tu-bồ-đề! Thế Tôn nói Tôn giả là đệ nhất phước điền. Tôn giả có được mười pháp đó không?

Tôn giả Tu-bồ-đề đáp:

–Tôi đối với pháp đó, một pháp còn không có huống gì có mười?

Bồ-tát Kiên Ý nói:

–Vì sao Tôn giả được gọi là Đệ nhất phước điền?

Tôn giả Tu-bồ-đề đáp:

–Tôi chẳng phải là Đệ nhất phước điền ở trong các Đức Phật, Bồ-tát. Phật nói tôi là Đệ nhất phước điền ở trong hàng Thanh văn, Bích-chi-phật. Thưa Bồ-tát Kiên Ý! Ví như vị vua nhỏ ở vùng biên địa cũng gọi là vua. Nếu vua Chuyển luân thánh đến vùng biên địa thì các vị vua nhỏ đều chẳng được gọi là vua. Khi ấy, chỉ có vua Chuyển luân thánh, uy đức của vua vi diệu thù thắng vậy. Thưa Bồtát Kiên Ý! Chỗ thành ấp, làng xóm không có Bồ-tát, thì tôi ở nơi ấy được làm phước điền. Nếu chỗ có Phật, có Đại Bồ-tát thì tôi ở chỗ ấy chẳng gọi là phước điền. Các vị Bồ-tát đều có tâm Nhất thiết trí, vậy nên hơn tôi.

Bấy giờ, Phật khen Tôn giả Tu-bồ-đề:

–Hay thay! Hay thay! Đúng như lời nói của ông! Đó là lời nói của người đại đệ tử không có tăng thượng mạn.

Bồ-tát Kiên Ý lại hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử:

–Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Điều gọi là đa văn thì sao gọi là đa văn?

Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Nếu người được nghe một câu pháp liền giải ra ngàn vạn ức nghĩa trong câu ấy, trăm ngàn vạn kiếp diễn bày giải nói, trí tuệ biện tài chẳng thể cùng tận. Đó là đa văn. Lại nữa, thưa Bồ-tát Kiên Ý! Nếu nghe lời nói của vô lượng chư Phật trong mười phương mà có thể thọ trì hết, không có một câu nào mà trước chẳng nghe. Phàm những điều nghe được đều là đã nghe trước. Tùy theo pháp đã nghe mà có thể thọ trì chẳng quên. Vì chúng sinh nói mà không có chúng sinh, thân mình, chúng sinh và lời nói pháp không có sai khác. Đó gọi là đa văn.

Bấy giờ, trong hội, có Bồ-tát Thiên tử tên là Tịnh Nguyệt Tạng nghĩ: “Đức Phật nói Tôn giả A-nan là tối thượng, đệ nhất ở trong hàng đa văn. Như lời nói về đa văn của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thì Tôn giả A-nan nay chắc có phải chăng?” Nghĩ vậy rồi, hỏi Tôn giả A-nan:

–Đức Như Lai nói Tôn giả là đệ nhất ở trong hàng Đa văn. Sự đa văn của Tôn giả chắc giống như lời nói của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi chăng?

Tôn giả A-nan đáp:

–Như lời nói của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi về đa văn thì tôi không việc đó.

Bồ-tát Tịnh Nguyệt Tạng nói:

–Thế tại sao Đức Như Lai thường nói Tôn giả là đệ nhất ở trong hàng đa văn?

Tôn giả A-nan đáp:

–Các đệ tử của Phật nương theo âm thanh mà được giải thoát, ở trong số người đó, Phật nói tôi là đệ nhất, chẳng phải cho tôi là đa văn đệ nhất trong các Bồ-tát biển trí không lường không ai bằng, đại tuệ vô ngại biện tài. Thưa Thiên tử! Ví như nhờ có ánh sáng mặt trời, mặt trăng mà người của cõi Diêm-phù-đề thấy các hình sắc, được có sự vận hành. Tôi cũng như vậy, chỉ nhờ ánh sáng trí tuệ của Đức Như Lai mà được thọ trì pháp. Tôi ở trong pháp ấy tự không có diệu lực. Thiên tử nên biết! Đó đều là thần lực của Đức Như Lai.

Bấy giờ, Thế Tôn khen Tôn giả A-nan:

–Hay thay! Hay thay! Đúng như lời nói của ông! Sự thọ trì tụng niệm các pháp của ông, ông nên biết là chính thần lực của Như Lai.

Khi ấy, Phật bảo Thiên tử Tịnh Nguyệt Tạng:

–Sự thọ trì các pháp của A-nan rất ít, còn pháp ông ấy chẳng tụng đến thì vô lượng vô biên. Này Thiên tử! Việc có được các pháp ở đạo tràng của ta, hàng trăm ngàn ức phần mà ta nói chẳng được một. Những điều ta nói hằng trăm ngàn ức phần thì A-nan chẳng thọ trì được một. Này Thiên tử! Chỉ trong một ngày một đêm, Như Lai nói pháp cho các Đế Thích, Phạm vương, Hộ thế Thiên vương, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà… Thiên tử Bồ-tát của thế giới mười phương bằng cách dùng tuệ lực mà làm kệ tụng, nói kinh Nhân duyên, ví dụ, sự tu các Ba-la-mật của chúng sinh và nói pháp Thanh văn, thừa Bích-chi-phật, thừa Phật Vô thượng, Nhiếp đại thừa, chê bai sinh tử, khen ngợi Niết-bàn. Giả sử chúng sinh trong cõi Diêmphù-đề thành tựu đa văn như A-nan thì dù ở trong trăm ngàn kiếp chẳng thể thọ trì hết những pháp đó.

Này Thiên tử! Do nhân duyên đó, ông nên biết là các pháp đã nói của Như Lai vô lượng vô biên mà A-nan thọ trì được rất là ít vậy.

Bấy giờ, Thiên tử Tịnh Nguyệt Tạng liền dùng mười vạn lọng hoa bằng bảy báu dâng lên Đức Như Lai. Những lọng hoa ấy tức thời trụ khắp trên hư không mà chúng sinh đều được che, đều biến thành màu vàng. Dâng lọng hoa lên xong, Thiên tử bạch:

–Kính bạch Thế Tôn! Con nguyện dùng phước đức đó khiến

cho khắp chúng sinh được biện tài thuyết pháp sẽ như Đức Thế Tôn, có thể thọ trì pháp như Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử!

Đức Phật biết Bồ-tát Thiên tử tin ưa Phật đạo sâu xa nên thọ ký Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác:

–Hôm nay, Thiên tử này trải qua bốn trăm bốn mươi vạn kiếp, sẽ được làm Phật hiệu là Nhất Bảo Cái, nước tên là Nhất thiết chúng bảo trang nghiêm.

Khi nói pháp đó, có hai trăm Bồ-tát sinh tâm biếng nhác cho là pháp của các Đức Phật Thế Tôn, rất sâu xa, Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác như vậy khó được, chúng ta chẳng thể đầy đủ được việc đó. Chẳng bằng chúng ta chỉ dùng thừa Bích-chi-phật để vào Niếtbàn. Vì sao? Vì Đức Phật nói Bồ-tát có thoái chuyển thì hoặc làm Bích-chi-phật, hoặc làm Thanh văn.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử biết hai trăm Bồtát này có lòng biếng nhác, thoái chuyển, muốn phát khởi trở lại khiến cho họ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đồng thời Bồtát cũng muốn giáo hóa Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già… trong chúng hội nên bạch Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con nhớ kiếp quá khứ tên là Chiếu minh. Con ở trong kiếp ấy, ba trăm sáu mươi ức đời dùng thừa Bích-chi-phật vào với Niết-bàn.

Khi ấy, tâm của tất cả chúng hội đều sinh nghi ngờ rằng, nếu đã vào Niết-bàn thì chẳng nên quay trở lại tiếp nối sinh tử. Nay Bồtát Văn-thù-sư-lợi vì sao nói lên lời như vầy, thưa Thế Tôn! Con nhớ kiếp đời đã qua tên là Chiếu minh. Con ở trong kiếp ấy ba trăm sáu mươi ức đời, dùng thừa Bích-chi-phật vào Niết-bàn. Việc này là thế nào?

Lúc đó Tôn giả Xá-lợi-phất nương oai thần của Đức Phật, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu người đã được vào Niết-bàn thì chẳng nên lại có sinh tử nối tiếp nhau. Vì sao Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã vào Niết-bàn rồi, trở lại sinh ra nữa?

Phật nói:

–Ông có thể hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi việc đó! Tự ông ấy sẽ trả lời cho ông!

Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Nếu người đã được vào Niết-bàn thì ở trong các hữu chẳng còn nối tiếp nhau nữa. Hôm nay, tại sao Bồ-tát nói lên lời này, bạch Thế Tôn! Con nhớ trong kiếp Chiếu minh đời quá khứ, ba trăm sáu mươi ức đời, dùng thừa Bích-chi-phật vào Niết-bàn. Ý nghĩa này ra sao?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Đức Như Lai hiện tại chính là người biết tất cả, người thấy tất cả, người nói chân thật, người chẳng lừa dối, trời, người ở thế gian không thể lừa dối nên lời nói của tôi thì Đức Phật tự chứng biết! Tôi nếu nói khác đi tức là lừa dối Đức Phật. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Trong kiếp Chiếu minh, có Đức Phật ra đời hiệu là Phất-sa, Đức Phật đem lại lợi ích cho các trời, người của thế gian rồi vào Niếtbàn. Sau khi Đức Phật đó diệt độ, giáo pháp trụ thế được mười vạn năm. Sau khi pháp diệt, chúng sinh trong kiếp ấy đối với Bích-chiphật có nhân duyên hóa độ. Giả sử trăm ngàn ức Đức Phật vì họ nói pháp, họ chẳng tin, chẳng nhận. Chỉ có thể dùng phép tắc uy nghi của thân Bích-chi-phật mà độ thoát được họ. Các chúng sinh đó đều chung chí cầu đạo Bích-chi-phật. Khi đó, không có Bích-chi-phật ra đời nên các chúng sinh đó không có chỗ được nhân duyên gieo trồng căn lành. Tôi, vào bấy giờ, vì giáo hóa nên tự xưng, thân tôi chính là Bích-chi-phật. Tùy theo các đất nước, thành ấp, xóm làng đều biết thân tôi chính là Bích-chi-phật. Khi tôi đều vì họ thị hiện uy nghi hình sắc Bích-chi-phật thì các chúng sinh đó hết lòng cung kính. Họ đều đem đồ ăn thức uống cúng dường cho tôi. Tôi thọ thực rồi, quan sát sự ứng hợp nghe pháp theo duyên xưa của họ mà vì họ giải nói rồi, thân bay bổng lên hư không giống như chim nhạn chúa. Lúc đó chúng sinh đều rất vui mừng, đem lòng cung kính đầu mặt làm lễ tôi mà nói: “Nguyện khiến cho chúng con vào đời vị lai đều được pháp lợi như vị này hôm nay.”

Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Do nhân duyên đó mà thành tựu được vô lượng vô số chúng sinh, khiến cho họ gieo trồng căn lành.

Khi tôi quan sát biết những người cúng dường cho tôi ăn phát sinh tâm biếng nhác, liền bảo: “Thời gian Niết-bàn của ta đã đến!” Trăm ngàn chúng sinh nghe lời nói đó rồi, đều mang hoa hương, tạp hương, dầu váng sữa, đi đến chỗ của tôi. Tôi, vào lúc đó nhập vào Diệt tận định nhưng do bản nguyện nên chẳng rốt ráo tịch diệt. Các chúng sinh đó cho là tôi đã mạng chung. Để cúng dường tôi, họ dùng củi thơm mà hỏa thiêu thân tôi, cho là tôi diệt thật sự. Khi đó, tôi lại đến thành lớn của nước khác tự xưng tôi là thân Bích-chi-phật. Chúng sinh trong thành ấy cũng đem đồ ăn thức uống lại cúng dường tôi. Rồi tôi ở trong thành ấy thị hiện vào Niết-bàn, họ cũng cho là tôi diệt độ đều đến cúng dường, cùng hỏa thiêu thân tôi.

Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Như vậy tôi vào thời bấy giờ, trọn một tiểu kiếp ba trăm sáu mươi ức đời làm thân Bích-chi-phật thị hiện vào Niết-bàn ở các thành lớn. Ở mỗi một thành lớn tôi đều dùng Bích-chi-phật thừa độ thoát ba mươi sáu ức chúng sinh. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Như vậy Bồ-tát dùng thừa Bích-chi-phật vào Niết-bàn mà chẳng diệt vĩnh viễn.

Khi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói lời nói đó thì tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách, ánh sáng soi khắp, hàng ngàn ức chư Thiên cúng dường Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, mưa xuống các hoa trời, đều nói:

–Thật là hy hữu! Hôm nay chúng con được lợi ích lớn là được thấy Đức Phật Thế Tôn và thấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, lại còn được nghe nói Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm. Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử thành tựu pháp chưa từng có như vậy. Bồ-tát trụ ở Tam-muội nào mà có thể thị hiện pháp chưa từng có như vậy!

Phật bảo chư Thiên:

–Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử trụ ở Tam-muội Thủlăng-nghiêm mới có thể làm được việc hy hữu như vậy. Bồ-tát trụ Tam-muội này vì tạo hạnh tin tưởng mà chẳng tin theo người khác, cũng tạo tác pháp hạnh mà ở pháp tướng chuyển bánh xe pháp chẳng lui, chẳng mất, cũng tạo tác tám nhân, ở những vô lượng atăng-kỳ kiếp vì kẻ tám tà mà hành đạo làm Tu-đà-hoàn. Bồ-tát làm chúng sinh nổi trôi trong dòng sinh tử chẳng vào pháp vị tạo tác Tưđà-hàm. Bồ-tát hiện thân mình ở khắp các thế gian, làm A-na-hàm. Bồ-tát cũng quay trở lại giáo hóa chúng sinh làm A-la-hán. Bồ-tát đó cũng luôn tinh tấn cầu học Phật pháp cũng làm Thanh văn, dùng vô ngại biện vì người nói pháp mà làm Bích-chi-phật, vì muốn giáo hóa tạo nhân duyên cho chúng sinh mà thị hiện vào Niết-bàn. Rồi do lực Tam-muội nên sinh ra trở lại nữa.

Này các Thiên tử! Bồ-tát trụ ở Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm đều có thể tu hành khắp các hạnh của Hiền thánh, cũng tùy theo địa vị ấy tuy có nói pháp mà chẳng trụ trong ấy.

Chư Thiên nghe Phật nói ý nghĩa như vậy đều rơi nước mắt mà nói lên rằng:

–Bạch Thế Tôn! Nếu người nào đã vào địa vị Thanh văn, Bíchchi-phật thì vĩnh viễn mất Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm này.

Bạch Thế Tôn! Chắc người tạo tác trọng tội ngũ nghịch mà được nghe Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm đó thì chẳng vào pháp vị, làm A-la-hán lậu tận! Vì sao? Vì người tội ngũ nghịch nghe Tammuội Thủ-lăng-nghiêm, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, tuy duyên tội xưa phải bị đọa địa ngục, nhưng nhờ nhân duyên thiện căn nghe Tam-muội này mà trở lại được làm Phật.

Bạch Thế Tôn! A-la-hán lậu tận giống như đồ bể, vĩnh viễn chẳng đủ sức dung chứa Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm này. Bạch Thế Tôn! Ví như có người bố thí sữa đặc, dầu, mật. Có nhiều người mang đủ thứ đồ đựng, trong đó có một người lơ đễnh làm vỡ đồ mình mang theo, nên tuy đi đến chỗ bố thí sữa đặc, dầu, mật mà không được ích gì, chỉ được tự no, chẳng thể mang về cho người khác. Trong số đó có người giữ đồ đựng cẩn thận thì bản thân được no đủ còn lấy đồ đựng đầy về bố thí cho người khác. Sữa đặc, dầu, mật chính là chánh pháp của Đức Phật. Kẻ mang đồ vỡ chỉ được tự no đủ, chẳng thể đem về cho người khác chính là Thanh văn, Bích-chi-phật. Người mang đồ đựng lành chính là Bồ-tát, tự thân được no đủ, cũng có thể đem cho tất cả chúng sinh.

Lúc đó, hai trăm Thiên tử tâm muốn thoái chuyển đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, từ khi các Thiên tử nghe lời nói đó rồi và nghe thế lực công đức của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, họ lại đem hết lòng phát khởi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chẳng theo tâm thoái chuyển lúc trước nữa. Họ đều bạch Đức Phật:

–Chúng con thậm chí gặp sự nguy hại mất mạng chẳng bỏ tâm này, cũng nhất định chẳng bỏ tất cả chúng sinh. Bạch Thế Tôn! Chúng con nghe nhân duyên căn lành của Tam-muội Thủ-lăngnghiêm nguyện xin sẽ được mười lực Bồ-tát. Những gì là mười?

  1. Đối với tâm Bồ-đề được lực kiên cố.
  2. Đối với Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn được lực tưởng sâu xa.
  3. Đối với đa văn được lực chẳng quên.
  4. Đối với việc qua lại sinh tử được lực không mệt mỏi.
  5. Đối với các chúng sinh được lực đại Bi bền vững.
  6. Ở trong bố thí được lực xả bỏ bền chắc.
  7. Ở trong trì giới được lực chẳng hoại.
  8. Ở trong nhẫn nhục được sức nhẫn chịu.
  9. Ma chẳng thể hoại được lực trí tuệ.
  10. Đối với các pháp sâu xa được lực tin ưa.

Bấy giờ, Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:

–Nếu có chúng sinh, ở hiện tại hôm nay hoặc sau khi ta diệt độ, nghe Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm mà có thể tin ưa thì phải biết người đó đều được hết mười lực Bồ-tát đó.

Lúc ấy, trong chúng hội, có vị Bồ-tát tên là Danh Ý bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Muốn được phước thì nên cúng dường Phật. Muốn được tuệ thì nên siêng đa văn, muốn được sinh chỗ tốt thì nên siêng trì giới, muốn giàu có thì nên gia thêm bố thí, muốn được sắc đẹp thì nên tu nhẫn nhục, muốn được biện tài thì nên kính sư trưởng, muốn được Đà-la-ni thì nên lìa khỏi tăng thượng mạn, muốn được trí thì nên tu nhớ nghĩ chân chánh, muốn được vui thì nên bỏ tất cả ác, muốn lợi ích chúng sinh thì nên phát tâm Bồ-đề, muốn được âm thanh vi diệu thì nên tu lời nói chân thật, muốn được công đức thì nên ưa hạnh xa lìa, muốn cầu pháp thì nên gần Thiện tri thức, muốn ngồi thiền thì nên lìa khỏi rối loạn ồn ào, muốn có tư tuệ thì nên tu tư duy, muốn sinh Phạm thế thì nên tu Vô lượng tâm, muốn sinh trời người thì nên tu Thập thiện.

Bạch Thế Tôn! Nếu người muốn được phước đức, muốn được tuệ, muốn sinh chỗ tốt, muốn giàu có, muốn sắc đẹp, muốn biện tài, muốn Đà-la-ni, muốn được trí, muốn được vui, muốn lợi ích chúng sinh, muốn âm thanh vi diệu, muốn công đức, muốn cầu pháp, muốn ngồi thiền, muốn tư tuệ, muốn sinh Phạm thế, muốn sinh trời người, muốn được Niết-bàn, muốn được tất cả công đức… thì nên nghe Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, thọ trì, đọc tụng, vì người khác giảng nói, theo đúng lời nói tu hành. Bạch Thế Tôn! Bồ-tát làm sao tu Tam-muội này?

Phật bảo:

–Này Danh Ý! Nếu Bồ-tát có thể quan sát các pháp là không, không gì chướng ngại, từng niệm từng niệm diệt hết, lìa khỏi yêu ghét. Đó gọi là tu Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm. Lại nữa, này Danh Ý, Học Tam-muội đó chẳng dùng một việc. Vì sao? Vì tùy theo tâm và sự vận hành trong tâm của các chúng sinh mà Tam-muội này có các hạnh đó. Tùy theo tâm và sự thể nhập trong tâm của các chúng sinh mà Tam-muội này có các nhập đó. Tùy theo cửa vào các căn của các chúng sinh mà Tam-muội này có các cửa vào đó. Tùy theo danh sắc của các chúng sinh mà Bồ-tát được Tammuội này cũng thị hiện ngần ấy danh sắc, có thể biết như vậy thì gọi là tu Tam-muội này. Tùy theo tướng mạo danh sắc của tất cả các Đức Phật mà Bồ-tát được Tam-muội này cũng thị hiện ngần ấy tướng mạo danh sắc, có thể biết như vậy thì gọi là tu Tam-muội này. Tùy theo sự thấy cõi nước của tất cả các Đức Phật mà Bồ-tát cũng tự thành tựu đất nước đó. Đó gọi là tu Tam-muội Thủ-lăngnghiêm.

Bồ-tát Danh Ý bạch Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Tam-muội này tu hành rất khó.

Phật bảo Bồ-tát Danh Ý:

–Vì điều đó nên ít có Bồ-tát trụ ở Tam-muội này, phần nhiều các Bồ-tát tu hành các Tam-muội khác.

Bấy giờ, Bồ-tát Danh Ý bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ Di-lặc này tiếp theo Thế Tôn sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì Bồ-tát Dilặc có được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm chăng?

Phật đáp:

–Này Danh Ý! Các Bồ-tát được trụ ở Thập địa Nhất sinh bổ xứ, nhận chánh vị của Phật thì đều được Tam-muội Thủ-lăngnghiêm.

Bồ-tát Di-lặc tức thời thị hiện thần lực như vầy: Bồ-tát Danh Ý và các chúng hội nhìn thấy những cõi Diêm-phù-đề của tam thiên đại thiên thế giới đều chính là Bồ-tát Di-lặc trong những cõi ấy. Hoặc họ thấy Bồ-tát Di-lặc ở trên trời hoặc thấy tại nhân gian, hoặc thấy xuất gia, hoặc thấy tại gia, hoặc thấy đứng hầu Phật như A-nan, hoặc Trí tuệ đệ nhất như là Xá-lợi-phất, hoặc thấy Thần thông đệ nhất như Mục-kiền-liên, hoặc thấy Đầu-đà đệ nhất như Đại Ca-diếp, hoặc thấy Nói pháp đệ nhất như Phú-lâu-na, hoặc thấy Ưa giới đệ nhất như La-hầu-la, hoặc thấy Trì giới đệ nhất như Ưu-ba-ly, hoặc thấy Thiên nhãn đệ nhất như A-na-luật, hoặc thấy Tọa thiền đệ nhất như Ly-bà-đa.… Như vậy trong tất cả các đệ nhất họ đều thấy Bồ-tát Di-lặc. Hoặc họ thấy Bồ-tát Di-lặc vào các thành ấp, xóm làng khất thực, hoặc thấy nói pháp, hoặc thấy ngồi thiền. Bồ-tát Danh Ý và các đại chúng, tất cả đều thấy Bồ-tát Di-lặc thị hiện thế lực thần thông của Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, thấy rồi vui mừng bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Ví như vàng ròng tuy bị gọt dũa mà chẳng mất đi tánh vàng ấy. Các bậc Đại sĩ đó cũng lại như vậy, tùy theo chỗ thử thách đều có thể thị hiện pháp tánh chẳng thể nghĩ bàn.

Bấy giờ, Bồ-tát Danh Ý bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con cho rằng, nếu Bồ-tát có thể thông đạt Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm thì nên biết rằng Bồ-tát ấy thông đạt tất cả đạo hạnh. Đối với thừa Thanh văn, thừa Bích-chi-phật và Phật, Đại thừa họ đều thông đạt hết.

Phật bảo:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời nói của ông! Nếu Bồ-tát

có thể thông đạt Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm thì có thể thông đạt tất cả đạo hạnh.

Bấy giờ, Trưởng lão Đại Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con cho rằng, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, ở đời trước đã từng làm Phật sự, thị hiện ngồi đạo tràng, chuyển bánh xe pháp, thị hiện cho các chúng sinh thấy vào Đại diệt độ.

Phật nói:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời nói của ông! Này Cadiếp! Quá khứ xa xưa, vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn a-tăngkỳ kiếp, lúc ấy có Đức Phật hiệu là Long Chủng Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Ở phương Nam thế giới này, qua khỏi một ngàn cõi nước Phật, có nước tên là Bình đẳng. Nước này không có núi sông, cát, sỏi, sành, đá, gò, đống… đất bằng như bàn tay, sinh ra cỏ mềm mại như Ca-lăng-già. Đức Phật Long Chủng Thượng ở thế giới đó được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lần chuyển pháp luân đầu tiên, ngài giáo hóa thành tựu bảy mươi ức số chúng các Bồ-tát, tám mươi ức người thành A-la-hán, chín vạn sáu ngàn người trụ ở trong pháp nhân duyên của Bích-chi-phật. Sau ấy nối tiếp có vô lượng Thanh văn tăng. Này Ca-diếp! Tuổi thọ của Đức Phật Long Chủng Thượng được bốn trăm bốn mươi vạn năm, độ trời người xong rồi vào Niết-bàn, phân tán thân xá-lợi khắp thiên hạ, dựng ba mươi sáu ức tháp cho chúng sinh cúng dường. Sau khi Đức Phật ấy diệt độ, pháp trụ thế mười vạn năm. Khi Đức Phật Long Chủng Thượng sắp vào Niết-bàn, thọ ký cho Bồ-tát Trí Minh rằng: “Bồ-tát Trí Minh này tiếp theo sau ta sẽ đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng hiệu là Trí Minh. Này Ca-diếp! Ông cho là Đức Phật Long Chủng Thượng của thế giới Bình đẳng lúc bấy giờ, lẽ nào là người khác ư? Ông chớ sinh ra sự nghi ngờ này. Vì sao? Vì Đức Phật kia tức là Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử! Này Cadiếp! Vả lại hôm nay ông đã quan sát thế lực của Tam-muội Thủlăng-nghiêm. Các vị Đại Bồ-tát dùng thế lực này nên đã thị hiện vào thai, mới sinh ra, xuất gia, đến dưới cây Bồ-đề, ngồi ở đạo tràng, chuyển bánh xe diệu pháp, vào Đại Bát-niết-bàn, phân bố xá-lợi… mà cũng chẳng bỏ pháp Bồ-tát, đối với Bát-niết-bàn chẳng rốt ráo diệt tận.

Lúc ấy, Trưởng lão Đại Ca-diếp nói với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Chỉ có Bồ-tát mới có thể làm việc khó hiếm có như thế này để thị hiện cho chúng sinh!

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:

–Thưa Tôn giả Ca-diếp! Ý Tôn giả thế nào! Núi Kỳ-xà-quật đó là do ai tạo ra? Thế giới này cũng từ đâu ra?

Tôn giả Ca-diếp đáp:

–Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Tất cả thế giới do sự hình thành của bọt nước, cũng từ nghiệp nhân duyên nhiều chẳng thể nghĩ bàn của chúng sinh tạo ra.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:

–Tất cả các pháp cũng từ nghiệp nhân duyên nhiều chẳng thể nghĩ bàn mà có. Tôi đối với việc đó không có công sức gì. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều thuộc nhân duyên, không có chủ nên tùy ý tạo thành. Nếu có thể hiểu được điều này thì chẳng khó gì! Thưa Tôn giả Ca-diếp! Nếu người chưa thấy bốn Đế mà nghe việc như vậy mà có thể tin hiểu thì đây là khó. Người thấy bốn Đế rồi, được các thần thông mà nghe việc này có thể tin thì chẳng cho là khó khăn gì.

Bấy giờ, thân Đức Thế Tôn thăng lên hư không, cao bảy cây Đa-la, ngồi kiết già, thân phát ra ánh sáng soi vô lượng thế giới khắp mười phương. Nhờ đó tất cả chúng hội đều thấy các Đức Phật nhiều không lường trong mười phương đều đang nói Tam-muội Thủ-lăngnghiêm này chẳng thêm chẳng bớt, từ xa nghe được hết. Các Đức Phật mười phương cũng thăng lên hư không, cao bảy cây Đa-la, ngồi kiết già, thân phát ra ánh sáng soi vô lượng thế giới khắp mười phương. Những chúng sinh ở đó cũng thấy thân Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thăng lên hư không ngồi kiết già. Những chúng hội ở đó đều dùng hoa từ xa tung đến Đức Phật Thích-ca Mâu-ni và đều thấy mọi hoa ở trên không trung hợp thành lọng hoa. Ở cõi này, Bồ-tát và những Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà… đều cũng dùng hoa tung đến các Đức Phật đó. Hoa đều ở trên Đức Phật hóa thành lọng hoa. Bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thu thần túc trở lại, ngồi ở tòa ngồi cũ, bảo Bồ-tát Kiên Ý:

–Đó là lực thần thông của Như Lai, vì khiến cho công đức của chúng sinh tăng thêm nên Như Lai thị hiện việc này.

Khi Đức Phật hiện sức thần thông, tám ngàn trời người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại khi Phật giảng nói Tammuội Thủ-lăng-nghiêm này sắp xong thì Bồ-tát Kiên Ý và năm trăm vị Bồ-tát được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm đều được thấy thần lực của các Đức Phật trong mười phương. Đối với pháp thậm thâm của Đức Phật, các vị được ánh sáng trí, trụ ở đệ Thập địa, nhận quả vị Phật. Đồng thời, tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách phóng ra ánh sáng lớn soi khắp thế giới, ngàn vạn nhạc cụ đều tấu lên cùng lúc, chư Thiên ở trong hư không mưa xuống đủ loại hoa.

Bấy giờ, Phật bảo Tôn giả A-nan:

–Ông nên thọ trì Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm này mà phúng tụng, vì người giảng nói rộng rãi!

Đế Thích Trì Tu-di Sơn Đảnh bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Tôn giả A-nan trí tuệ nhớ nghĩ có hạn lượng, là người Thanh văn theo âm thanh của người khác, sao Như Lai đem pháp báu Tam-muội này chúc lụy cho Tôn giả A-nan?

Đế Thích Trì Tu-di Sơn Đảnh nói lên lời chí thành:

–Nếu có thể ở đời nay và đời sau, tôi tuyên dương lưu bố rộng rãi Tam-muội báu này không có hư dối thì cây ở trong núi Kỳ-xàquật này đều sẽ như cây Bồ-đề của Đức Phật, dưới những cây ấy đều có Bồ-tát.

Đế Thích Trì Tu-di Sơn Đảnh nói lời đó xong, liền thấy các cây đều như cây Bồ-đề. Dưới mỗi một cây đều thấy có Bồ-tát. Các cây Bồ-đề đều phát ra lời:

–Đúng như lời nói của Đế Thích Trì Tu-di Sơn Đảnh! Quả thật người này nhất định có thể khiến cho Tam-muội này được tuyên dương lưu bố rộng rãi!

Bấy giờ, các Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà… đồng thanh bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Giả sử Như Lai sống lâu một kiếp mà chẳng làm việc khác, chỉ dùng thừa Thanh văn vì người nói pháp, mỗi một lần thuyết pháp đều như khi chuyển pháp luân lần đầu để độ chúng sinh. So với việc nói Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm để độ chúng sinh thì việc giảng nói này hơn nhiều. Vì sao? Vì các chúng sinh đó đều do thừa Thanh văn được đến thừa Bồ-tát trăm phần chẳng bằng một, trăm ngàn vạn ức phần… cho đến việc tính toán ví dụ đã chẳng thể bì kịp. Như vậy Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm có vô lượng thế lực này có thể thành tựu các Bồ-tát, khiến cho họ được đầy đủ Phật pháp.

Bấy giờ, Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thế Tôn thật sự sống bao lâu? Khi nào Thế Tôn sẽ vào Niết-bàn rốt ráo?

Phật nói:

–Này Kiên Ý! Về phương Đông, cách thế giới này ba vạn hai ngàn cõi Phật, có đất nước tên là Trang nghiêm. Trong nước đó có Đức Phật hiệu là Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, hiện nay đang nói pháp. Này Kiên Ý! Tuổi thọ của Đức Phật Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương so với tuổi thọ của ta cũng lại như vậy.

–Bạch Thế Tôn! Tuổi thọ của Đức Phật Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương là bao lâu?

Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:

–Ông hãy tự đến đó hỏi! Tự Đức Phật đó sẽ trả lời cho ông!

Tức thời, Bồ-tát Kiên Ý nương thần lực của Phật, lại dùng sức của Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm và sức thần thông thiện căn của mình, chỉ trong phút chốc đã đến thế giới Trang nghiêm kia, đầu mặt làm lễ dưới chân Đức Phật đó, nhiễu quanh bên phải ba vòng, lui về đứng một bên mà bạch Đức Phật: “Bạch Thế Tôn! Thế Tôn sống bao lâu mới vào Niết-bàn?” Đức Phật đó đáp:

–Tuổi thọ của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni kia, tuổi thọ của ta cũng lại như vậy! Này Kiên Ý! Ông muốn biết thì ta cho biết, tuổi thọ của ta là bảy trăm a-tăng-kỳ kiếp. Tuổi thọ của Đức Phật Thíchca Mâu-ni cũng vậy.

Bấy giờ, Bồ-tát Kiên Ý, lòng rất vui mừng, liền trở về thế giới Ta-bà, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đức Phật Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương kia sống lâu bảy trăm a-tăng-kỳ kiếp, bảo con rằng: “Như tuổi thọ của ta, tuổi thọ của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cũng lại như vậy.”

Lúc ấy, Tôn giả A-nan đứng dậy, trật áo vai phải, chắp tay hướng về Đức Phật mà bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như con đã hiểu được ý nghĩa của lời nói Đức Phật. Con cho là Đức Thế Tôn đã dùng danh tự khác, ở thế giới Trang nghiêm đó, để làm lợi ích cho chúng sinh.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen Tôn giả A-nan:

–Hay thay! Hay thay! Ông nhờ thần lực của Phật mà có thể biết việc đó. Thân Đức Phật kia chính là thân ta. Ta dùng danh tự khác ở cõi đó nói pháp, độ thoát chúng sinh. Này A-nan! Sức thần thông tự tại như vậy đều chính là thế lực của Tam-muội Thủ-lăngnghiêm.

Khi đó, Đức Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:

–Này Kiên Ý! Do việc đó nên ông phải biết rằng, ta thọ bảy trăm a-tăng-kỳ kiếp mới vào với Niết-bàn rốt ráo.

Đại chúng trong hội nghe Đức Phật nói tuổi thọ của Phật chẳng thể nghĩ bàn như vậy đều rất vui mừng, được sự kiện chưa từng có, thưa với Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thần lực của chư Phật thật chưa từng có, tất cả sự hành hóa chẳng thể nghĩ bàn. Ở nơi này thị hiện tuổi thọ ngắn như vậy mà thật ra ở chỗ kia sống lâu đến bảy trăm a-tăng-kỳ kiếp. Bạch Thế Tôn! Nguyện khiến cho tất cả chúng sinh đầy đủ tuổi thọ chẳng thể nghĩ bàn như vậy.

Lúc đó, Đức Thế Tôn lại bảo Bồ-tát Kiên Ý:

–Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm này nếu ở tại cõi nước, thành ấp, xóm làng, tinh xá, rừng, nơi hoang vắng… thì trong chỗ ấy các ma và dân của ma chẳng thể phá hoại được.

Phật lại bảo Bồ-tát Kiên Ý:

–Nếu có Pháp sư biên chép, đọc tụng, giải nói Tam-muội Thủlăng-nghiêm này thì đối với loài người, loài chẳng phải người không có sợ sệt, lại còn được hai mươi phần công đức chẳng thể nghĩ bàn. Những gì là hai mươi?

  1. Phước đức chẳng thể nghĩ bàn.
  2. Trí ấy chẳng thể nghĩ bàn; tuệ ấy chẳng thể nghĩ bàn.
  3. Phương tiện chẳng thể nghĩ bàn.
  4. Biện tài chẳng thể nghĩ bàn.
  5. Ánh sáng pháp chẳng thể nghĩ bàn.
  6. Tổng trì chẳng thể nghĩ bàn.
  7. Pháp môn chẳng thể nghĩ bàn.
  8. Nhớ nghĩ theo nghĩa chẳng thể nghĩ bàn.
  9. Các lực thần thông chẳng thể nghĩ bàn.
  10. Phân biệt các ngôn ngữ của chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn.
  11. Hiểu sâu niềm vui trong lòng chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn.
  12. Được thấy các Đức Phật chẳng thể nghĩ bàn.
  13. Việc nghe các pháp chẳng thể nghĩ bàn.
  14. Giáo hóa chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn.
  15. Tam-muội tự tại chẳng thể nghĩ bàn.
  16. Thành tựu cõi thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.
  17. Hình sắc tối diệu chẳng thể nghĩ bàn.
  18. Công đức tự tại chẳng thể nghĩ bàn.
  19. Tu tập các Ba-la-mật chẳng thể nghĩ bàn.
  20. Được Phật pháp chẳng thoái chuyển chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là hai mươi. Này Kiên Ý! Nếu có người biên chép, đọc tụng Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm này thì được hai mươi phần công đức chẳng thể nghĩ bàn đó. Vậy nên, này Kiên Ý! Nếu người muốn được các lợi ích của đời nay và đời sau thì phải biên chép, đọc tụng, giải nói, tu hành Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm này.

Này Kiên Ý! Nếu cầu Phật đạo mà thiện nam, thiện nữ ở ngàn vạn kiếp, tâm siêng tu hành sáu pháp Ba-la-mật. Nếu có người nghe Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm này thì liền có thể tin nhận, tâm chẳng lùi mất, chẳng kinh chẳng sợ, phước hơn người trước đó, mau chóng đạt đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, huống gì nghe rồi thọ trì đọc tụng, theo đúng lời nói tu hành, vì người giải nói? Nếu có Bồ-tát muốn nghe pháp chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật mà chẳng kinh chẳng sợ, muốn ở trong tất cả các pháp hiện rõ tự biết, chẳng theo lời dạy người khác thì nên tu tập Tam-muội này. Nếu người muốn được nghe pháp chưa nghe mà tin nhận chẳng chống trái thì nên nghe Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm này.

Khi Đức Phật nói kinh Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm này, vô lượng chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, lại có gấp bội số người đó trụ địa vị không thoái chuyển, lại có gấp bội số người đó được pháp Nhẫn vô sinh, một vạn tám ngàn Bồ-tát đạt được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, một vạn tám ngàn Tỳ-kheo, Tỳ-kheoni chẳng chấp giữ các pháp, hết lậu hoặc giải thoát, đạt được A-lahán. Hai vạn sáu ngàn Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di ở trong các pháp được Pháp nhãn tịnh. Ba mươi ức chư Thiên được vào Thánh vị. Đức Phật nói kinh rồi, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, Bồ-tát Kiên Ý… tất cả các Đại Bồ-tát và các Thanh văn đại đệ tử, tất cả các Trời, Rồng, Thần, Càn-thát-bà, A-tu-la… nhân dân của thế gian nghe lời Phật nói hoan hỷ tin nhận.