PHẬT GIÁO VÀ NHÂN SANH
Tác giả: Pháp sư Hiền Đức
Việt dịch: Thích Thắng Hoan
PL2564 – DL 2021
IX.- ĐẠI HỘI TRAI GIỚI TRÍCH TỪNG ĐIỂM.
Giờ chuông chỉ ghi vào năm điểm chính, sư hương đăng cầm lên cây chày (vồ) bằng gỗ, trịnh trọng mà có tiết mục vỗ nơi trên bảng báo động, phát ra Tằng – tằng tằng – tằng – tằng tằng -tằng – tằng tằng(1 – 23/2 – 23/3 – 23), ba thứ báo thời khắc trên đầu bảng. Âm thanh đây thông qua kẻ hở của túc xá để sách tấn trực tiếp đến thẳng bên lỗ tai của các giới tử trong lúc ngủ mê, nó có năng lực báo động đánh thức chúng ta nói rằng: tu hành thực tập chỉ một ngày đã bắt đầu rồi, hãy ngồi dậy đi!
Chúng ta trong giấc mơ mông lung từ trên chỗ bày biện, đánh thức dậy bước ra, ý thức lập tức báo động cảnh giác xem lại mình, trong đây là hội trai giới cộng thêm đạo tràng tu học, đều không phải chỗ sanh hoạt trong nhà, quyết không thể phần giây phút để trôi qua, phát triển lười biếng, thời gian bảo đảm sai lầm.Vã lại mô phỏng ghi vào đại hội giúp chúng ta treo ở tên vạt y [ Giữ miệng, nhiếp ý ] gọi là Bài(Tấm biển, nhãn hiệu), tự nhiên ghi lên [cấm nói]. Cho nên theo tập quán sáng sớm ra ngoài khi nhìn lên trên thấy trước mặt có một câu lễ phép [sáng sớm] cũng tự xét mình từ chối không dám nói ra tiếng. Đại gia chỉ ở chỗ lặng lẽ, trước kia đem mền đắp nay xếp lại rất kỹ lưởng, tuân theo ghi vào thứ tự,dùng tốc độ nhạy bén tối đa, súc miệng rửa mặt hoàn tất, xuyên qua biển xanh an toàn, sau khi chuẩn bị hai tiếng bảng, liền ly khai túc xá, đến lầu dưới trước Đại Đường sắêp xếp. Tất cả đợi các pháp sư dẫn lễ, đưa chúng ta lên Phật điện, theo chúng thực tập một ngày tối và sáng và thời khoá sớm trên Đệ Nhất Đường. Đốt đèn trên tường Điện Phật, đã đốt sáng trở lại toàn bộ, ánh sáng của đèn cháy,đêm sáng hoàn toàn lồng qua đơn, tràn đầy một vùng ánh sáng trí tuệ tỏ tường, ngưỡng vọng Phật Đà Thánh Tượng ngồi trong bàn thờ Phật trên tòa cao, mỉm cười hiền từ biết bao, tợ hồ yêu thương khuyến khích chúng ta nói: [Lâu xa các ông dường như bàng hoàng trong mê đồ! Ngày nay biết được đường trở về nhà, phát tâm gởi vào hội trai đàn, cùng chúng nhất loạt tiếp thọ rèn luyện huân tập tu hành, Khó được! Khó được! Chẳng qua là giới hội kỳ hạn bảy ngày, chỉ là một sát na mà thôi, tất phải tận lực thời gian. Chân chánh buông thả thân tâm, tâm để trống tiếp nhận chỉ đạo của các sư các thứ huấn từ sách tấn và giáo dục chỉ đạo, thâm nhập lý giải và thể hội đạo vị tu hành trong sinh hoạt, có thành tích đèn sáng trí tuệ, chiếu sáng trong tâm, tẩy sạch phiền não hắc ám, chế phục vọng tưởng càn dỡ, chinh phục ngoại duyên quấy rối, phát khởi tiềm năng tâm tánh,đây mới là đặt chân trên chánh đạo tu hành chính xác thật tiển, bằng không, uổng công vô ích, hạ mình vào bảo sơn trở về tay không, thật là không có ý nghĩa. Lại có, tu hành tức là học tập, đền lại, nên biết đạo, quả Phật phước đức trang nghiêm, cầu được không phải hướng ngoài,mà là cần yếu trông cậy vào sự tinh tấn của chúng ta, mới có thể hiển bày được sự chứng đắc.]
Thời khóa sáng, do Thanh Thúy hướng dẫn bằng tiếng khánh, dẫn dắt chúng ta lên lễ Phật ba lễ rồi mở đầu, Pháp Sư Duy Na xướng lên [Bảo Đảnh] tán đại hương, chúng ta cũng dị khẩu đồng âm xướng theo…. Cộng đồng tâm nguyện [Chúc nguyện thế giới hòa bình, nhân dân an lạc]. Tiếp theo trì tụng, chú Lăng Nghiêm, mười Tiểu Chú, kệ hồi hướng, nhiễu Phật, trở lại niệm Tam quy. Chúc Di Đà cầu nguyện ủng hộ đạo tràng, hoàn thành rất sớm trong một ngày, toàn bộ khóa trình của khóa Pháp Đường thứ nhất đã hoàn thành.
Trên Phật Điện, khóa tu buổi sáng đã hoàn tất, lập tức tiếng bảng Pháp Đường Ngũ Quán khởi lên cảnh giác. Nó báo cho chúng ta, cháo buổi sáng đã chuẩn bị tốt, có thể lên Pháp Đường dùng sáng.
Đương lúc Duy Na dẫn dắt chúng ta đọc bài Ngũ Quán Pháp Đường, Đại Hòa Thượng Yết Ma đã đến trước, ngồi trên pháp tòa, lão nhân gia kia đem thân làm gương mẫu, cùng tôi vân vân từ bi dâng cơm làm gương, khiến người sanh cảm động sâu xa.
Trên bàn ăn của hai bên nhà ăn, đã bày xếp bát đủa rất tề chỉnh, các bồ tát nghĩa công của hành đường, đều quên đăng ký Hương Tích Trù (nhà nấu ăn), nên lo buồn, bổng nhiên, Hương Tích Trù liền mang ra nào cháo, bột mì và phân phối cung ứng nào nước tương nước trà vân vân. Chúng nó khả năng nhanh nhẹn thành thạo, bảo trìquy luật vắng lặngtrong trai đường, một tí không loạn, trong thời gian nháy mắt, đã đem thức ăn phân phối đến cho các người trước mặt xin ăn bát cơm, khiến chúng ta cũng không phải lao lực, chỉ cần im lặng, chính có thể khiến họ đã no bụng. Đây là một hạng người chuyên hưởng thọ, sở trường của chúng nó chỉ nương vào sự phát tâm của người khác để thành tựu, chúng ta thật xấu hổ.Chẳng qua vì nguyện vọng giới kỳ đã hoàn thành, không phải chúngta không thể không tuân thủ kỷ luật của đại hội quy định, chúng ta không trái là không đến để phục vụ và chiếu cố những người phát tâm trong Hương Tích Trù,xin đợi ngày mai có cơ hội báo đáp tốt.
Mỗi lần quá đường tấn thực bắt đầu khai mở nghi lễ, tất nhiên trước do Duy Na lãnh đạo niệm chú cúng dường, biểu thị Phật ăn trước đệ tử, trước cúng Phật Bồ Tát rồi sau đó mới thọ thực, đây là trên giới luật quy định tất học viên phải cung kính.
Đại chúng sau khi hoàn tất đồng lên tiếng niệm chú cúng dường, Duy Na kế xướng: Thực tồn ngũ quán, để chúng ta kính cẩn, chỗ gọi là Ngũ Quán:
1,- [ Kể công đa thiểu, lượng bỉ lai xứ] (xét công lao nhiều ít của người mang đến và ước lượng giá trị thực phẩm của họ) : chúng ta có ý nghĩ là phải kính cẩn đương khi tiếp nhận một bát cơm cúng dường, nên suy nghĩ chỗ nó đến không dễ gì, người thí là cầu phước,bớt ăn bớt mặc đồ dâng hiến, ta có thể tiêu nhận hay không? Đương nhiên suy nghĩ tốt!
2,- [ Thổn kỷ đức hạnh, toàn khuyết ứng cúng] (Nghĩ kỹ đức hạnh của mình đủ hay thiếu để ứng thọ sự cúng dường) : Tự nên kiểm điểm giới hạnh bảy chi, công đức của định tuệ, là hoàn toàn không? Lại là có khuyết chăng? Là hợp cách tiếp nhận sự cúng dường chăng?
3,- [ Phòng tâm ly quá, tham đẳng vi tông](Đề phòng tâm lý, tránh những tội lỗi mà tham sân si vẫn làm chủ yếu): Khi tiếp nhận thực vật, nên đề cao cẩn thận, đề phòng đối với thực vật ngon, bình thường, không ngon, phân biệt chọn lựa, khởi tham sân si, nên bảo trì thiểu dục tri túc.
4,- [Chánh sự lương dược, vi liệu hình khô](Chính vì lấy thực phẩm làm dược phẩm tốt để trị liệu thân hình khô yếu): chính nhờ ăn uống vân vân, là thuốc tốt trị liệu sanh mạng hình thái khô gầy của ta; trợ giúp thiện duyên tăng trưởng cho việc tu hành của ta thành công. Ta nên cảm niệm là chỉ trừ đói khát để duy trì sanh mạng tàn dư này cho việc tu hành, không nên lỗi lầm tham cầu.
5,- [ Vì thành đạo nghiệp, ứng thọ thử thực] (Vì thành đạo nghiệp mà ứng thọ thực phẩm này): Bản ý của người tu hành, chí thành cầu giải thoát, đối với sự ăn uống vân vân, không cầu hy vọng, chỉ vì thành nghiệp đạo, nên mới phương tiện tiếp nhận.
Mỗi lần đại chúng ăn xong, các đại Hoà Thượng đều giúp chúng ta từ bi khai thị, họ đem trong quá trình tu đạo của mình, chỗ được kinh nghiệm và thể hội, phối hơp vào chỗ sinh hoạt hiện tại của chúng ta, trong sinh hoạt nào là hành, trụ, tọạ, ngọa,máng y, chỉ chỗ đạo xuất hiện rành mạch pháp vị sâu cạn trong con người chúng ta, khiến con người chúngta đạt được chưa từng có. Lúc đầu thiện tri thức gợi ý kinh nghiệm, nhỏ giọt cam lồ, rót vào trong tâm chúng ta, đây không phải kim tiền vật chất có thể trao đổi thâu hoạch được chăng?
Buổi sáng sau khi ăn cháo, vào thời gian bắt đầu khai giảng, là thời gian học tập nghi lễ, nơi Khai Đường (Nhà khai giảng) Bồi Đường (Nhà giúp đở) hai vị đại Hòa Thượng chịu trách nhiệm giáo đạo, hai vị đều là cao tăng đại đức trọng vọng đến từ Hương Cảng, chúng ta tính là rất vinh hạnh.
Tập nghi lễ là vào đại chúng sinh hoạt tu học đạo, tất nhiên trước cần yếu là học khóa thứ nhất. Nhân vì tu học đạo sinh hoạt là cùng sinh hoạt không giống nhau, thí dụ như đi đứng ngồi nằm, máng áo treo y, chấp tay lễ Phật, quá đường trên điện, tham kiến sư trưởng, chỗ qua lại đồng học, nơi ở chỗ đến, tất nhiên cùng đại chúng đồng nương nơi giới luật, bảo trì biểu hiện đạo tâm, cố nhiên không thể phòng ngừa nghi ngại người khác, lại không thể quên ghi quản thúc chính mình. Trên đây là chỗ không có trong sinh hoạt phổ thông, sở dĩ đại hội đặc biệt cho các giới tử thiết lập chỗ học tập cho khóa một, không thì, thời gian nhập chúng cùng tu, không chỉ không có thể cùng chúng giữ luật đồng nhất, mà lại chính mình cũng không chỗ thích ứng, ngược lại tạo thành chướng ngại không như pháp.
Trên ngọ 9 giờ 30 đến 10 giờ 30, là thời gian mỗi ngày giảng kinh, được đại Hòa Thượng Giới Sư giảng [Bát Chánh Đạo] cùng giới luật và tánh trọng yếu của sự tu hành,phần giải thích rất vi tế, lớp lớp phối hợp, khiến chúng ta lý giải Phật lýrộng sâu như nguồn suối tuôn trào, chỉ cốt yếu của nó làđi thể hội tịnh tâm,nắm bắt nó không cùng tận, xử dụng nó không cùng tận.
Thứ đến Đại Hòa Thượng Giáo Thọ giảng đề mục bằng thơ là [Cày giống phước điền] và [Giới hương trang nghiêm], dùng câu thơ khá đẹp: [Sương mù tràn đầy khắp nơi không thấy bầu trời, ánh nắng không đủ sức tạo lương duyên, thiền sư có nguyện khai thác vườn ươm cây, phá sương mù cày ruộng làm phước điền], ý thiền hiển bày cày giống phước điền. Lại dùng [Giới đức trang nghiêm hưng thịnh nền móng phước đức, tín tâm kiên định không thể dời, bồ đề thánh thọ xanh biếc vô cùng, hương vườn hoa viên giác đầy cành] lại nói, đều bát nhã chân như, thêm trên biện tài vô ngại, khiến người như uống cam lồ, pháp hỷ viên mãn.
Đại Hòa Thượng Yết Ma giảng đề tài là [Du lịch ghé vào hương giang năm mươi nhiệt kế] lão nhơn gia kia đem năm mươi năm lại thể nghiệm chân tu thật tiển, và hiến thân cho Phật giáo không để lại năng lực tinh thần phục vụ, và mang cái khai ra tố cáo chúng ta, mục đích là tại vấn đề thức tỉnh chúng ta, cầu [đạo] chính ở tại trong sinh hoạt thường ngày. Đây là tài liệu giảng dạy rất hiện thật, chúng ta tất phải cẩn thận ghi nhận lời khai thị đầy kinh nghiệm của Đại Hòa Thượng, ở mỗi chỗ mỗi nơi đều an lạc tự tại, đây mới là pháp dược thọ dụng chân chánh.
Mỗi ngày trên đại trai đường, đúng là 10 giờ 30 phút bắt đầu cử hành, nghi thức thỉnh sư rất long trọng và trang nghiêm, cộng thêm ở trên Duy Na [Pháp diên long tượng chúng……… cập hương đàm tập] xướng cao lanh lảnh rộng lớn, khiến người có cảm giác như đích thân thấy Phật Đà giáng lâm.Đại Hòa Thượng chính ở đây trong nghi thức long trọng lên pháp tòa, vì trai chủ thuyết pháp, bày tỏ công đức của họ và chúc phước cho họ. Như thế cúng trai cỡ lớn, không phải thời thường cử hành, hôm nay ta có thể tham gia, thật là phước đức!
Sau giờ ngọ trai, có một thời gian ngắn để tịnh dưỡng. Hai giờ đại chúng đều đứng dậy lại chỉnh tề tập hợp tại Đại Đường theo chúng tụng niệm một quyển Kinh Kim Cang, hy vọng nhiều người tụng rõ văn kinh, dùng để huân tập vào thân tâm chúng ta, đây chính là thực tập tu hành chân thật! Sau giờ ngọ ba giờ, các đạo sư giảng kinh. Bốn giờ chiều là giờ dược thực buổi chiều, trên buổi chiều bảy giờ ba mươisám hối hoặc tập thiền. [sám hối] là đối diện Phật Đà phơi bày những việc làm xấu ác của tâm tham sân si để được tha thứ, sanh tâm xấu hổ, cầu xin sám hối, cải hóa sự lầm lỗi, mãi mãi không ý tái phạm. [Tập thiền] là học tập ngồi thiền, ngăn chận vọng tưởng tán loạn, điều động kềm chế nội tâm, khiến tâm an tịnh làm căn bản tiến đạo.
Thời gian như dòng nước chảy, là đại hội Trai Giới lần thứ bảy,lại chuyển đổi thời gian yếu điểm, lại báo cáo một giai đoạn thật khiến người không chịu nỗi nơi than thở này [Thiên hạ đều than chiếu tre] đây chính là thuyết minh tất cả thế gian đều bị chi phối trong vô thường!
Hôm nay thứ đến ta có thể buông xuống việc nhà xiềng xích trói cột, kiên quyết đến chỗ vào Đông Liên Giác Uyển nơi đó bầu cử đại hội Trai Giới trong bảy ngày mừng rỡ vô cùng, ở đây sinh hoạt thực tập tu đạo, có thể nói trong người tôi chưa từng có quá kiêu hãnh, tôi tự vui mừng sâu xa. Tuy nhiên, thời gian kỳ hạn học tập, chúng đạo sư ân cần khéo dụ, chỗ thu hoạch chưa đạt lý tưởng, tự cảm thấy xấu hổ, chỉ khởi việc tín giải đối với Phật giáo, có tăng trưởng đại bướng bỉnh, giá trị được ở chỗ tôi tự an ủi. Cho nên tôi phải chờ đợi cho rõ, năm sau mới có Đại Hội Trai Giới, tôi nhất định tham gia trở lại, nhân vì tôi biết đạo, [Đạo] đích thực là học tập, bao gồm không phải một thời gian, một buổi tối, lại có thể nói được, trai đàn tu hành chỉ làm một thứ chính đáng, hoặc nói năm nay tôi tham gia, năm sau không phải trở lại làm các thứ pháp tưởng tượng, đều là ngộ nhận sai lầm. Sở dĩ tại nơi đây, tôi cần kêu gọi tất cả các giới tử phát tâm tu hành Phật đạo, chỉ cần tự mình cơ duyên thành tựu, không luận giờ nào chỗ nào,phàm nơi địa phương có tổ chức trai giới, chúng tađều cần tranh thủ thời gian đến tham giahọc tập, như thếchứa ít thành nhiều, mớicó thể ghi danh đầy đủ, nguyện vọng của chúng ta là tu hành, đạt thành mục đích của chúng ta học Phật.
Cuối cùng, ngoại trừ cảm tạ các đạo sư giúp chúng ta, không vì lý do gì không đến để huấn đạo bồi dưỡng, ngoài ra lại còn cảm kích Thường Trụ Đông Liên Giác Uyển, ban thưởngcho chúng ta nào là chỗ ở, ăn uống, trên học tập thành tựu các thứ phương tiện. Các vị Pháp Sư Dẫn Lễ, trong bảy ngày, sớm chiều không lìa đi theo chiếu cố nhắc nhở chỉ đạo dạy bảo, trên lầu của các chủ nhiệm viết chữ, mấy tháng trước nơi đây đã là sắp đặt Đại Hội Trai Giới, thời gian bố trí và chuẩn bị tất cả đầy đủ nhu cầu;nhà bếp là chỗ hoàn toàn thời gian kỳ hạn cho đại chúng tu hành phải suy nghĩ sáng tỏ,nhờ họ mà đại chúng tu hành được khoẻ mạnh, mỗi ngàyhọ hướng về chỗ nấu nướng vật thực, điều chỉnh ăn uống cho đại chúng, các vị đó đã hoàn toàn thành công như pháp của giới hội; còn đối với họ,trong thời gian tu học, chúng ta tu hành được hoàn toàn thành công được an tâm và tinh thần được an lạc phải trả giá không ít; họ đích thân để lại cho giới tử chúng tahướng về họ là bồ tát công cao lao khổ,gởi đến họ một lời kính cẩn cảm tạ vô hạn và khẩn cầu Tam Bảo từ bi phóng quang gia hộ che chở cho họ mạnh khoẻ và như ý!
X.- MỤC ĐÍCH TỔ CHỨC ĐẠI HỘI TRAI GIỚI
1.- ĐẠI HỘI TRAI GIỚI NHƯ ĐẠI DÃ HỒNG LÔ.
Trung tâm tổ chức đại hội trai giới, kiên quyết không phải giống như mưu cầu sinh hoạt có lợi, lại không phải một thời náo nhiệt cao hứng tụ tập, mà chính là vì hoằng pháp lợi sanh mà thiết lập mộtcụ bị nghi lễ Phật giáo thực tiển của Đại Dã Hồng Lô.
Giống như Đại Dã Hồng Lô chính là một lò lửa đốt lên đỏ bừng, là lò này dùng để đúc vàng, còn cặn bã bỏ đi, không luận là đồng vụn hoặc sắt vụn, chỉ cần đem nó ném vào trong lò, liền sanh cặn bã sắt rỉ đồ vụn phế thải, tất nhiên bị đào thải, làm thành vật liệu tinh sạch sáng trong, đây là công năng cùng tác dụng của Đại Dã Hồng Lô. Hiện giờ dùng đại hội Trai Giới tỷ dụ giống như Đại Dã Hồng Lô, không luận nó là thứ căn tánh gì, chỉ cần nó có tín tâm, có tâm hướng đạo, có tâm cầu giải thoát, đầu tư vào trong Trai Giới Hồng Lô, không luận tham sân si đang ẩn núp trong tâm nhà ngươi liền trởthànhđồng vụn sắt vụn, trình độ có dầy nhiều đi nữa cũng sanh rỉ, sai lầm là không phải do chấp trước mà có khinh trọng nhiều ít, Dại Dã Hồng Lô của Trai Giới, đều có thể mỗi mỗi tẩy sạch ngươi, trừ sạch, cạo dơ bẩn, mài dủa ngươi cho sáng, thậm chí đun nóng ngươi và cải tạo ngươi.
Tuy nhiên, đại hội Trai Giới chỉ có ngắn nhất là bảy ngày, nhưng vẫn có thể khiến người tác dụng tịnh hóa thân tâm không thể nghĩ bàn, nhân vì trong đạo tràng Trai Giới, chỗ tiếp xúc đều là thiện hữu huân tu, khéo tuân theo chú ý lắng nghe đạo sư, lão giới sư ngồi trên hết mình đề xướng, thấu đến trên Phật điện, ngưỡng vọng Phật tượng từ bi cao thượng, khiến người đủ duyên phát khởi tôn kính,tiếng tụng kinh không có lẫn lộn, thì làm sao không khiến người an tâm và tĩnh lặng, trong nhà ăn bữa dùng cơm đều tĩnh lặng, chúng ta cảm giác trong sáng tôn kính, mỗi lần ăn mỗi lần uống đều dùng tâm quán tưởng, đặc biệt là sau mỗi bữa ăn, Đại Hòa Thượng dùng hết sức đem tâm dạy dỗ và khuyến khích, mỗi một câu đều ở trong cảnh tĩnh sự mê mọâng của chúng ta.Nói chung, nơi mỗi đạo tràng, đều đầy đủ kế sách rõ ràng phát khởi bầu không khí tinh tấn hướng đạo của chúng ta,không cho phép chúng ta cẩu thả tránh né lười biếng sống tạm, đây chính là kết cấu an bày và dụng cụ của Trai Giới Đại Dã Hồng Lô,ngoại trừ cơ duyên chưa thành thục không đồng ý bước vào, bằng không, Trai Giới Đại Dã Hồng Lô,nhất định không phụ lòng và khiến nhà ngươi ra tay không. Cho nên thù thắng của trìgiới, thí dụ giống như Đại Dã Hồng Lô, ý nghĩa của chính ở đây.
2.- MỤC ĐÍCH TƯỜNG THUẬT ĐÚNG ĐẠI HỘI TRAI GIỚI.
Tổ chức đại hội trai giới, mục đích của nó có mấy điểm như dưới đây:
1,-Điều động quản lý chúng sanh ba nghiệp thanh tịnh.
Ba nghiệp thân, miệng, ý thanh tịnh, trên cơ sở tu hành thật tiển trước hết kiên quyết quản thúc kiện toàn. Giống như người sớm đã quy y Tam Bảo, nguyên nhân tu hành ở nhà có nhiều chướng ngại, chưa có thể như pháp cải thiện để tập quán xưa do thân, khẩu ý sáu căn gây nên vẫn chạy theo sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp sáu trần, phát khởi tham sân si, thậm chí chìm đắm nơi trong năm dục lạc, tài, sắc, danh, thực, thùy, tạo ác nghiệp làm tổn người lợi mình, cho nên ở tại nhà trong hoàn cảnh tạo tác, phần nhiều thuộc nhiễm ô bất tịnh, Đông Liên Giác Uyển là loại này, nhưng có tâm cầu đạo, thiết lập Đại Hội Trai Giới, nay lại tham gia tu tập, đều có thể thân tâm buông bỏ, nhất tâm tổ chức đạo tràng. Nơi trong đạo tràng thanh tịnh đây, không những có thể trình bày cách hóa giải sự ràng buộc của sắc thinh lợi phẩm hàng hóa, vã lại có thể lợi dụng thân lễ Phật, miệng tụng niệm, ý ghi nhớthọtrìlời khuyên răncủa Phật Đà. Nghiệp thân miẹâng ý tự nhiên thanh tịnh, không vì ngoại cảnh làm ô nhiễm, chỉ cần cầm nắm cơ sở đây tiếp tục nổ lực, giải thoát sanh tử phiền não lại không khó thực hiện, cho nên Phật Đà từng đối với các tỳ kheo nói: [Giữ miệng nhiếp ý thân chớ phạm, như thế hành giả được độ thế]. Có thể ba nghiệp thanh tịnh, tại trong sinh hoạt học Phật, là trọng yếu biết bao!
2,- Vì bồi dưỡng chánh tri chánh kiến để học Phật.
Người sơ tâm học Phật, đối với Phật giáo chỗ biết chỗ thấy chưa chắc thâm nhập, thậm thí chỗ biết chỉ có biết có phân nửa, thường thường đem Phật giáo đột nhập vào trong Tông Giáo khác, Thần và Phật không phân biệt được, sản sanh những thứ kiến giải sai lầm, vì thế Phật giáo mang lên nhãn hiệu mê tín. Chúng ta là đệ tử Phật cần phải bồi dưỡng chánh tri chánh kiến để có tín ngưỡng chân chánh, cho nên có kỳ hạn bảy ngày thiết lập Đại Hội Trai Giới, hy vọng đến tham dự, có thể chỗ tịnh tâm lại được đạo sư giảng giải,khai mở thông suốt chánh tri chánh kiến để nhận thức Phật giáo, làm một ký hiệu là Phật giáo đồ đích thực, khiến chánh pháp của Phật Đà phổ biến lan rộng không dứt! Chỗ gọi chánh tri chánh kiến đó là:
(1) Cần thâm tín nhân quả: [Nhân] cùng với [Quả] là bản tánh tất nhiên giao tiếp lẫn nhau, chỗ gọi nhân như thế, tất nhiên cảm quả như thế, nhân quả báo ứng,mải mai không sai trái, nương theo nguyên tắc đây suy tính kỹ, phú quý bần tiện của nhân sanh, sống ngàn tuổi cùng bần cùng đều phổ biến, xã hội hưng suy khổ lạc, không một ai không bị trói buộc trên luật nhân quả chi phối, người đã chán khổ cầu vui,nên thời khắc kiểm điểm hành vi, cần cầu ngưng ác tu thiện, không thể oán trời trách người, rõ ràng nhất [muốn biết nhân đời trước của mình, xem ngày nay mình hưởng những thứ quả gì, muốn biết quả đời sau của mình, xem đời nay mình tạo những nhân gì]đây mới là ký thác tinh thần nơi an tâm chân chánh.
(2) Chúng ta cần lãnh hội lời Phật Đà nói: [Thân tâm thế giới, đạo lý của các pháp đều do nhân duyên sanh ra, chỗ gọi là pháp duyên sanh, là tiếp nhận duyên tụ lại thì sanh ra, duyên ly tán thì tiêu diệt đây là chỗ pháp tắchạn chế, tự thể không có tánh độc lập nên gọi là [không], thường thọ nhận thế lực sanh diệt biến hóa dời đổi đó tứùc là [vô thường], không thể tự chủ tự do không bị ngăn ngại đó là [vô ngã]. Như kinh Kim Cang nói: [Tất cả pháp hữu vi, như mộng uyển bào ảnh, cũng như hạt sương cũng như điện chớp, nên quán sát như thế], đây đều là thuyết minhvũ trụ nhân sanh, sum la vạn tượng đều biến hóa vô thường và ngắn ngủi. Chúng ta không nên đối với trên thế giới phát khởi chấp trước ganh tị nào lợi (quyền lợi), suy (suy sụp), hủy (giết hại), dự (khen ngợi), xưng (xưng tụng) , cơ (mỉa mai), khổ (khổ nạn), lạc (an lạc), thậm chí tìm cầu khổ khổ,ngược lại,đề cao cảnh giác, dùng sự ngắn hạn của vô thường, nổ lực tìm cầu Phật đạo vô thượng, thường an trụ nơi Không,không ngả về Có, không ngả về Không, không chấp sự mê lý, lại không ngả về Lý mà không bỏ nơi Sự, đây mới là đệ tử Phật có chánh kiến chánh tri. Đại Hội Trai Giới chính đạt lý tưởng này mới tổ chức.
3,- Vì truyền bá tư tưởng hành giải quan hệ nhau.
Sự quan hệ nhau giữa [Hành] cùng [Giải] là vấn đề tối quan trọng của người học Phật cổ đức nói: [hành cùng giải, như chim cùng hai cánh, như xe cùng hai bánh, như người cùng hai mắt cùng hai chân, thiếu một không thể. [lại nói: [có giải mà không hành giống như người nói ăn số bảo vật,không cứu giúp nơi sự, có hành mà không có giải,khó khỏi tu mù luyện quáng, rơi xuống hố rớt xuống hào.] Cho nên nhất định phải nương nơi giải để khởi hành, dùng hành để chứng giải. Hành giải hợp nhất, chỗ gọi là cần lý giải cùng thật tiển kết hợp, mới có thể thu hoạch được lợi ích chân thật của Phật giáo, vì đạt được chánh tri chánh kiến mới trở thành tín đồ tiêu chuẩn của đức Phật, nếu không thì chỉ là một môn đồ ngoại đạo.
4,-Vì đắc thân tâm tự tại để đạt thành nguyện vọng học Phật.
Thân tâm không tự tại, đều do có lo ngại, có lo ngại thì có lo sợ,có lo sợ thì không an lạc, không an lạc thì có thể nói không tự tại, cho nên người hy vọng học Phật, sau khi quy y Tam Bảo, nương nơi giáo pháp phụng hành, cần tugiới định tuệ, trừ dứt tham sân si, đợi thiết lập Đại Hội Trai Giới, triệu tập những người có chí tu hành, đến gia nhập đạo tràng,hợp mưu hợp sức, chí phấn khởi cần tu, hy vọng tu hành phục vụ đạo trở thành chủng tử, ở trong bảy ngày, tăng trưởng không dứt, cho đến thúc đẩy để được thành thục, chẳng bao lâu sẽ được thành đạo Phật, đây là Đại Hội Trai Giới là nguyện vọng duy nhất rất lớn. Kinh nói rằng: [Một xưng Nam Mô Phật, đều cộng thành Phật đạo]. Lại nói rằng: [Nếu người tĩnh tọa chỉ trong chốc lát, phát khởi thù thắng phát khởi hằng sa tháp bảy báu, bảo tháp cuối cùng hóa làm vi trần, một niệm tịnh tâm liền thành chánh giác]. Hà huống các ông trong bảy ngày cần tu không dứt hay sao? Công đức của các ông thật không thể nghĩ bàn, nên sanh khánh hỷ vàtiếp tục nổ lực tranh thủ tiến bộ càng cao!
XI.- SINH HOẠT VÀ Ý NGHĨA CỦA TĂNG ĐOÀN
Giáo đoàn Phật giáo, nguyên gọi là Tăng già (Sangha) ý dịch là chúng hòa hợp, tất cả có hai thứ lý hòa và sự hòa.
Lý Hòa: đồng chứng nhận vô vi đã được tuyển chọn trừ giảm, ý nghĩ là dùng sức trí tuệ phán đoán chính xác, chứng nhận vào Niết Bàn chân lý không sanh không diệt. Sự và lý có sáu điều:
1.- THÂN HÒA ĐỒNG TRỤ (Thân hòa cùng chung ở): Phàm người cùng ở trong một đạo tràng đồng ở cùng tu, không đặng có hành vi thô bạo tay đấm chân đá, vã lại thường bảo trì thân thể hòa bình chung ở trợ giúp lẫn nhau.
2,- KHẨU HÒA VÔ TRANH (Miệng hòa không tranh cãi): Nói chuyện phiếm là không phải mà khởi lên tranh luận, phàm có chỗ nói đều bày tỏ rõ ràng hòa hảo, cố gắng khích lệ lẫn nhau, đây là lời nói hướng đạo.
3,- Ý HÒA ĐỒNG DUYỆT (Ý hòa cùng tán thành ý kiến hay): Đại gia đều đồng hướng về chuyên cần tu giới định tuệ, nổ lực chấm dứt tham sân si làm mục đích, nơi ý không có ác niệm ganh tị thù hiềm vân vân, tự nhiên nội tâm yên tĩnh mà vui mừng.
4,- GIỚI HÒA ĐỒNG TU (Giới hoà cùng tu tập): Đã đồng là đệ tử Phật, đồng thừa hành giới luật của Phật, thì đối với vấn đề khai (cho phép), giá (ngăn cấm), trì(giữ gìn), phạm(phạm phải), nguyên tắc nên làm và không nên làm vân vân, đều có hiểu biết chung, cho nên có thể chỗ như pháp cùng nhau tu tập thật tiển.
5,- KIẾN HÒA ĐỒNG GIẢI (thấy biết cùng chia xẻ): Trong quá trình tu hành, có chỗ lãnh ngộ, hoặc có chỗ chứng đắc đều có thể ấn chứng cùng đại chúng, là đúng cùng không đúng, nếu đúng thì căn cứ nơi đó tiếp tục nổ lực, nếu không đúng nên mau bỏ đi.
6,- LỢI HÒA ĐỒNG QUÂN (Quyền lợi cùng chia đều nhau): Nơi trong đạo tràng đồng ở cùng tu đạo,không luận trên tinh thần, trên thời gian, trên công tác, trên vật chất chỗ được lợi ích, tất nhiên phần hưởng thọ phải chia bình đẳng, không đặng chiếm lấy làm của riêng.
Sáu hòa hợp ở trên, là Đức Thích Tôn ở hơn hai ngàn năm trước vì Tăng Đoàn chế định quy luật ở chung. Nó hoàn toàn có khả năng khiến ở một chỗ phát khởi đầy đủ các thứ phiền não không đồng, người tập khí và chấp trước, đều không thể ném vào trong Đại Dã Hồng Lô sáu pháp hòa hợp,tiếp thọ bình đẳng dung hòa để rèn luyện trau chuốt, khiến cá tánh không đồng để cho điều hòa, không đồng đặc tánh cũng được để vận dụng linh hoạt, mới có thể phát huy đầy đủ tinh thần hòa hơp của tăng đoàn, tiến đểtìm cầu đạo giải thoát. Đây chính là ý nghĩa và sinh hoạt của Tăng Đoàn.
Tăng Đoàn lại dịch là sáu hòa kính. [Hòa] cùng [Kính] là thông suốt duy nhất không thể phân ly. Nếu như chúng ta đối với người thực tế run cảm vẫn thường còn đó là hòa [Hòa], tự nhiên gặp người đặc biệt tôn [kính], thời gian người cùng người đều có thể dùng chữ [kính] để đối đãi với nhau, thì [hòa] mới có thể thành lập, quả có thể hòa hợp tương kính, thì tâm người kia, đều biến đổi nhiều như thẳng thắn, không sứt mẻ, hòa hợp tốt đẹp, không ngăn ngại và đối xử đẹp đẽ. Sở dĩ người đời mỗi một sự vật vốn không có vấn đề thiện ác, chỉ cần xem họ sử dụng tâm đối đãi như thế nào; nếu sử dụng tâm phiền não, tâm tật đố,hoặc tâm đối đãi có thái độ bài xích,khẳng định nhà ngươi đứng trước thế giới tất nhiên là xấu hổ,có thể ghét, có thể bi thảm. Nếu có thể dùng tâm dung hòa, tâm đại bi, tâm trí tuệ đi tiếp xúc kết nạp tất cả, thì nhân gian có trăm thái độ đều là bình đẳng, phối hợp nhịp nhàng, tốt đẹp và khá thương.
Chúng ta sanh trưởng tại đây trong thời đại ngày càng rắc rối phức tạp, suốt ngày bị căng thẳng, sinh hoạt hiện thật bị bận rộn,hơi thở bị đè nén nên thở hổn hển, tinh thần thường lạc mất nơi phân tán ồn ào trong hồng trần, tâm linh trống rổng, thân thể mệt mỏi, đó là điều biết bao hy vọng không thể tìm kiếm ra khoảnh khắc yên tĩnh; Phật pháp dạy người cầu lấy sinh hoạt được yên tĩnh, hoặc sanh mạng được giải thoát, đều là không phải ly khai sinh hoạt hiện thực để riêng có thể cầu, tức là ở trong sinh hoạt hiện thực, chỉ cần có lãnh hội vạn vật cùng ta đồng là một thể, vã lại, không vì tâm phân biệt mình và người, nhân, ngã,bỉ, thử, mà lại không chịu khống chế chướng ngại, không chịu xoay chuyển ngoại cảnh, đây là, sinh hoạt bối rối và sanh mạng bị trói buộc; nhà ngươi nếu tự nhiên điều hòa nơi trong trí tuệ và từ bi của nhà ngươi, đó chính là không lúc nào nhà ngươi không được an tĩnh và không đượctự tại giải thoát hoàn toàn hay sao. Cho nên cổ nhân khi ngộ đạo đều có thể xuất ra pháp cú sự lý viên dung vô ngại, chỗ gọi là [Dứt tiếng dòng suối là tướng lưỡi rộng dài, màu sắc của núi không phải là bản thân thanh tịnh], lại nói: [Sơn hà và đại địa toàn là sương móc của thân pháp vương]. Đây là sao lại không phải thể hội vi tế thâm sâu hay sao!
Sáu Hòa Hợp hoặc Sáu Hoà Kính, tuy là đức Thích Tôn sáng chế nguyên tắc cho Tăng Đoàn ở chung, nhưng sử dụng thích hợp như thế nào nơi tổ chức đoàn thể, cho đến xã hội, quốc gia và thế giới, có thể thấy giáo lý chỉ đạo của Phật Đà không ảnh hưởng thời gian và không gian, không bị hạn chế và phân biệt nơi quốc gia cùng chủng tộc, cho nên không luận quốc gia chủng tộc như thế nào, tổ chức xã hội và đoàn thể ra sao, chỉ cần có thể tuân theo và hành trì Sáu Điều Nguyên Tắc đây, tự nhiên đạt được sự tôn trọng lẫn nhau, không xâm phạm và hiếp đáp lẫn nhau, dung hòa một thể, chung ở hoà bình, thật là có thể nói nguyên tắc Sáu Pháp Hòa Hợp, là duy trì và bảo đảm hạnh phúc cho nhân loại, là chân lý duy nhất cho thế giới hòa bình.
Ôn Ca Hoa Đông Liên Giác Uyển, tuy là người ở Gia Nã Đại (Canada), mới kiến lập đạo tràng Phật giáo, nhưng họ lại sáng lập Tông Chỉ, hoài bảo rõ ràng trên cầu Phật Đà, dưới chuyển hóa dung hòa tinh thần,hy vọng ở trong xử dụng nguyên tắc Sáu Hòa Kính, phối hợp bão dưỡng tăng cường thân tâm và hành động cùng ở cùng tu, nổ lực hướng về Phật đạo để tiến lên. Còn hướng ngoại thì họ đem tư tưởng Sáu Hòa Kính đi vào xã hội, hòa hợp xã hội, tạo phước cho xã hội, khiến thế giới nhân loại tiến vào chân chánh hòa bình và an lạc!
Sở dĩ chúng ta kỳ vọng chỗ sâu xa giống mầm non cây mới Bồ Đềmong không đứt đoạn, mong mọc mọc nhanh chóng, nơi các duyên hộ trì để được trưởng thành, nguyện lực lý tưởng để được phát huy ra nó, đem giống Phật truyền đi rải rác khắp toàn cầu, mỗi một vùng ruộng đất ánh sáng Phậtsáng soi khắp chốn cùng nơi!
XII.- SÂN KHUỂ CÙNG NHẪN NHỤC
A/- TÁNH CHẤT VÀ TỶ GIẢO SÂN KHUỂ CÙNG NHẨN NHỤC.
1,- Tánh chất sân khuể,
[Sân], tức là sân hận, phẩn nộ, phẩn hận vân vân hiện tượng tâm lý xấu ác, {Duy Thức Luận} nói: [Đối với tình cảm trái ngược với mình phát khởi căm ghét, tinh thần tác dụng khiến thân tâm nóng giận bất an, gọi là sân], đây là một trong ba độc, ở trong phiền não thuộc về sáu căn bản phiền não. Còn phẩn, hận, não, tật, hại, vân vân, thuộc tùy phiền não, đều do bộ phận sân làm thể để phát khởi.
2,- Thế lực của sân và ảnh hưởng của nó,
[Sân], thế lực của nó như lửa có thể thiêu đốt thân tâm con người, chỗ gọi là [Sân là lửa trong tâm, có thể thiêu đốt rừng công đức] {Kinh A Hàm} nói: [Trí tuệ niết bàn của chư Phật, xong nhà ngươi không thể gặp, đều do lửa sân khuể], có thể biết năng lực [sân] nhiệt não dụ như lửa, người học Phật nếu không thể khống chế, một ngày nào đó bộc phát, thì tu hành chỗ có trí tuệ thiện pháp, công đức phát tài, tất nhiên rồi cũng bị nó thiêu đốt thành tro tàn, thậm chí tai họa và pháp thân huệ mạng, thì như thế nào có nên quý trọng hay có nên sợ hãi!
Lại nữa thế lực của sân như dòng nước chảy mạnh, có thể cuốn chúng sanh vào trong biển sanh tử, hoặc nổi, hoặc chìm, nổi trôi không định, mênh mông khổ hải, không biết chỗ nào để quay về bờ, sanh tử trầm luân, không có định kỳ, đều do thế lực của sân, vân vân chỗ chi phối!
Thế lực của sân cũng như bị trói buộc, có thể thắt chặt chúng sanh nơi trong nhà tù tam giới, bị luân hồi trong lục đạo chịu lấy ba khổ tám khổ, vô lượng chúng khổ đọa dày bức bách, thống khổ vạn ngàn, không được ra khỏi, thậm chí có thể quá sợ, hoàn toàn do thế lực ác của sân, vân vân tạo thành.
Chúng sanh nhân chấp ngã, chọn ngã làm trung tâm, thuận theo ngã liền khởi tham ái, trái nghịch ngã thì sanh sân khuể, khi hiện tiền gặp nghịch cảnh, không thể nhẫn dung thứ, tổn hại người khác, nhỏ thì khiến gia đình bất hòa, lớn thì giết người hại mạng. Cho nên [sân] là nguyên nhân đọa vào ác thú; là lửa thiêu đốt thiện căn công đức của chúng sanh, là chìm nổi chúng sanh nơi trong khổ hải, ba đàocuồn cuộn trào dâng, là tâm bệnhrất khó chữa trị, muốn thuốc chữa trị tâm bệnh, nếu không tu nhẫn nhục thì không thể!
3,- Tánh chất và chủng loại của nhẫn nhục,
[Nhẫn nhục] tức là nghĩa nhẫn nại, nhẫn chịu, kiên quyết vân vân, khi gặp người làm nhục não hại, không sanh tâm sân hận gọi là[nhẫn nhục]. Nơi sự việc hiểm hóc khó làm, có thể kiên nhẫn duy trì nhẫn nại, không biến đổi không từ bỏ gọi là nhẫn nại. Tự nguyện để tu,giảsử gặp nghịch cảnh,khắc khổ nhẫn nại,vĩnh viễn không thoái chí, mục đích cốt phải cầu đạt đến tâm nguyện, tâm không cần chuyển đổi gọi là an nhẫn.
Lại nữa [nhẫn] có hai thứ: Chúng sanh gặp đủ các thứ vô lý cứ bảo thủ đấu tranh, hoặc các thứ hiếp đáp, chế diễu và chưởi rủa, cho đến hại đến sanh mạng, đều có thể nhẫn chịu, không khởi câm phẫn, gọi là [sanh nhẫn].
Nếu ở trên sinh hoạt, nhân vì thiếu khuyết ăn uống, áo mặc nhà ở vân vân dẫn đến chịu khổ, hoặc chịu khổ không phải trên tình cảnh mà trên hoàn cảnh nào đó như gió, mưa, lạnh, nóng vân vân; hoặc gặp phải nơi thế gian như, lợi (quyền lợi), suy (suy bại), hủy (thất bại), dự (danh dự), xưng (khen ngợi), cơ Chê cười), khổ (Đau khổ), lạc (Khoái lạc), chỗ dẫn tới chịu thống khổ, hoặc nhân bởi các thứ vô thường biến thiên mà khởi đau khổ, hoặc các thứ cầu danh lợi không toại nguyện vân vân nên chịu khổ,những thứ đó đềugọi là [nhẫn chịu]; không những thế nguyên nhân bị chướng ngại trên con đường tu hành không được thông suốt, gọi là [pháp nhẫn].Còn nữa đối với chân lý thâm sâu của đức Phật giảng dạy, tin sâu không ngăn ngại, nên không bị ngoại đạo cảm phục, hoặc không bị động tình cũnggọi là [pháp nhẫn].
Nếu thể chứng được thật tướng của tất cả pháp không sanh không diệt, an trụ nơi trong lý Không Sanh Diệt của nó, tự tại bất động, gọi là [vô sanh pháp nhẫn].
Bồ Tát sơ tâm vân vân gặp phải các cảnh thuận nghịch, khổ lạc trong thế gian mà có thể phát khởi an nhẫn của hữu tướng hữu lậu, nên gọi là [thế gian nhẫn].
Nếu Đại Bồ Tát nương nơi đại bi bình đẳng, lý vô vi tịch diệt, tâm không nhiễm trước, an nhẫn cảnh của tất cả khổ lạc thuận nghịch, mà không thấy tướng của các pháp sanh diệt, gọi là [xuất thế gian nhẫn].
Người tu nhẫn nhục, tất nhiên đầy đủ dũnglực kiên cường và trí tuệ từ bi mới có thể thành tựu Nhẫn Nhục Ba La Mật.
4,- Mục đích tu nhẫn nhục,
Người học đạo, đều không phải sợ thế lực của người khác mà hành nhẫn, không phải tham cầu người khác ca ngợi mà hành nhẫn, mà là vì chí nguyện thật tiển của Bồ Tát mà hành nhẫn, vì cầu ly dục không khởi sân khuể mà hành nhẫn, vì thành tựu lợi íchchúng sanh mà hành nhẫn, vì cảm động hóa giải được sân hận của kẻ ác ý mà hành nhẫn, vì cầu thành bồ đề mà tu nhẫn, vì do tâm đại bi, tất cả đều có thể nhẫn. Người học đạo nếu có thể chứng nhập trí Không thù thắng, hoàn toàn đạt đến nhân tướng vô ngãvân vân mà hành nhẫn, đây gọi là [Chân nhẫn]
5,- Bồ Tát dùng trí lực thành tựu nhẫn nhục,
{Kinh Pháp Hoa} nói rằng: Bồ Tát dùng sáu thứ trí lực có thể thành tựu sáu giống nhẫn nhục:
(1),-Bồ Tát đắc trí lực ảnh hưởng bình đẳng như thật, quán tất cả ngoại cảnh như đường cùng trở về không, đây là trả lời sự ảnh hưởng với mọi người, nơi chỗ nguyền rủa có thể nhẫn, không cần phục thù.
(2),- Bồ Tát đặng trí lực cảnh tượng bình đẳng, quán tất cả như dấu vếtcủa minhcảnhhiệncáchình tượng, tuy bị người đánh đập, mà có thể nhẫn chịu không cần trả thù.
(3),- Bồ Tát đặng trí lực bình đẳng như huyễn, quán tất cả huyễn biến không thật, tuy bị người não hại, mà không thể nhận chịu, nhưng không cần trả thù.
(4),- Bồ Tát vì đặng nội lực bình đẳng thanh tịnh, tuy bị người quát mắng, mà có thể nhận chịu, không cần trả thù.
(5),- Bồ Tát vì đặng trí lực bình đẳng thanh tịnh thế pháp, không vì tám pháp như lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc, vân vân, mà bị năng động, không cần trả thù.
(6),- Bồ Tát vì chứng đặng trí lực huân tập nhân duyên bình đẳng, tất cả phiền não không thể nhiễm động.
Bồ Tát do vì nội chứng sáu thứ trí lực năng nhẫn chúng sanh các thứ nguyền rủa, đánh đập, não hại,quá tmắng vân vân mà không trả thù, có thể thấy nhẫn nại đều không phải giống như nhu nhược không sức phản kháng, không đối phó sẽ bị khuất phục, đây là chỗ biểu hiện rõ ràng của kẻ có đại trí, không cần làm những sự việc không chính xác.
B/- SO SÁNH LỢI HẠI CỦA NHẪN CÙNG SÂN.
Nhẫn cùng sân khuể đồng là trên tác dụng tinh thần nhân loại, có hai thứ hiện tượng tâm lý không giống nhau, cũng là hai thứ có thế lực thiện ác trong nội tâm khuynh đảo và cướp đoạt lẫn nhau trên thế giới, nếu phân tích rõ ràng đặc tánh của chúng nó, thì có so sánh như sau:
*Sân khuể là mù quáng xong ra kích động thế lực ác,
Nhẫn nhục là thiện lực của lý trí nên bình tĩnh,
*Sân khuể là phiền não nhiễm ô,
Nhẫn nhục là trí tuệ của thanh tịnh,
*Sân khuể là tâm bệnh của nhiệt não,
Nhẫn nhục là lương dược của trị bệnh.
Do trên so sánh đơn giản có thể biết rõ ràng đạo lý sân khuể là tâm bệnh phiền não của tánh ác, mà nhẫn nhục là lương dược của tâm bệnh để đối trị tánh ác. Sân khuể của tâm bệnh mang giúp chúng sanh để quản lý đọa lạc thống khổ; lương dược của nhẫn nhục, mới là lương y trị liệu tâm bệnh nhiệt não, khiến thân tâm thanh tịnh tự tại! Cho nên người học Phật, tất nhiên phải nhận thức [bệnh cùng thuốc], mới có thể chinh phục tâm bệnh để phát huy tác dụng chinh phục tâm bệnh trên thực tiển không mất tổn phí tốn sức vô công!
XIII.- BA TRÀO LƯU HỆ PHÁI TỊNH ĐỘ CỦA TRUNG QUỐC
Tịnh Độ giáo truyền vào Trung Quốc, trước sau cộng chung có ba hệ thống, tức là phái Huệ Viễn ở Lư Sơn Đông Tấn; phái Đàm Loan của chùa Huyền Trung ở Hậu Ngụy; phái Từ Mẫn ở đời Đường. Thật ra, ở trên trước tiên thuật lại có ba phái, về sau ở lâu xa thời đại nhà Hán đã có Sa Môn An Thế Cao của nước An Tức, ngài phiên dịch hai quyển Kinh Vô Lượng Thọ, có thể thấy Tịnh Độ Giáo tại đây đầu tiên truyền vàoTrung Quốc.Chẳng qua tư tưởng Tịnh Độ hoằng truyền sâu rộng lại là đến Huệ Viễn đời Đông Tấn và Đàm Loan đời Bắc Ngụy, mới phổ biến thạnh hành cho đến nay.
1.- PHÁI HUỆ VIỄN:
Huệ Viễn đời Đông Tấn (334 – 416) tục danh là Tính Mãi, cũng gọi là Nhạn Môn; ngài, người Lâu Phiền ,năm 13 tuổi du học nơi Hứa Xương, Lạc Dương vân vân. Ngài thông bác sáu kinh và học Lão Trang, năm 21 tuổi ngài dẫn theo đệ tử Huệ Trì vào Thái Hành Sơn nghe Pháp sư Đạo An giảng kinh Bát Nhã. Có chỗ đại ngộ. Đều cảm thán nói: [Nho Đạo chín phái đều là gạo cám vậy], sau đó ngài cùng đệ tử hai ngườiđều cúi đầu đãnh lễ dưới pháp tòa của Pháp sư Đạo An, xin thế độ xuất gia, trở thành môn hạ của Đạo An nơi Cao Túc, từ đó trở thành Sơ Tổ của Tông Tịnh Độ Trung Quốc.
Năm Nguyên Hưng (402) Hưng Lưu Di Thị, Châu Tục vân vân, gồm 123 người, tại Lư Sơn Đông Lâm Tự trên Bát Nhã Đài,an trí cúng tượng Phật A Di Đà, lập thành Bạch Liên Xã, nhất tâm niệm Phật, cùng thời đó đều được vãng sanh Tịnh Độ. Lúc bấy giờ, ngoài ra trong các kinh điển đã dịch, chỗ nói tư tưởng Di Đà đã lưu bố ra ngoài đời, ngài Huệ Viễn lại nhấn mạnh nương nơi Kinh Ban Chu Tam Muội chỗ nói rằng: [Chư Phật trong mười phương hiện tại, Phật A Di Đà là đệ nhất]. Thường tu niệm Phật tam muội, đây cùng đời sau một vùng Hoa Bắc chỗ hưng khởi Tịnh Độ Giáo dần dần đồng nhất lan rộng, cho nên người đời gọi Tịnh Độ Giáo của phái Lô Sơn là Bạch Liên Xã Niệm Phật.Sư Huệ Viễn tinh thông nơi Bát Nhã Tánh Không Học, thường dẫn chứng sách Trang Tử để thuyết minh giáo nghĩa thật tướng, đã từng thỉnh sa môn nước Kế Tân là Tăng Già Đề Bà dịch ra A Tỳ Đàm Tâm Luận. Phái đệ tử của Đàm Ung Tham cùng với Đàm Ma Lưu Chi dịch ra mười Tụng Luật, cung thỉnh Phật Đà Bạt Đà La đến Lô Sơn dịch ra Đat Ma Đa La Thiền Kinh, hoằng dương học thuyết Không Quán Đại Thừa Bát Nhã của hệ phái Long Thọ, đối với trên vấn đề Phật giáo TrungQuốc có sự cải tiến, họ có đầy đủ chỗ thấy sâu xa,đặc biệt đương thời Hoàn Huyền hạ lệnh sa thải Sa Môn, chỉ cần Sa Môn hết mình tôn kính đức vua, Pháp sư Huệ Viễn trước tác bộ luận Sa Môn Bất Kính Vương Giả Luận, trình bày rõ Sa Môn xuất gia đối với vương quyền tất yếu không cúi đầu quỳ lạy, Phật giáo đối với vương quyền thống trị đương thời cũng không cúi đầu tuân theo, cho nên bảo trì được sự tôn nghiêm của tánh truyền thống Phật giáo. Sư Huệ Viễn bên trong thông suốt Phật lý, bên ngoài khéo đối với quần thơ, chỗ tôn trọng của đương thời, cũng chịu tăng ngoại quốc tôn kính.
Pháp sư Huệ Viễn trước tác có {Lô Sơn Tập} 10 quyển, {Vấn Đai Thừa Thâm Nghĩa18 Khoa} 3 quyển, {Minh Báo Ứng Luận}, {Thích Tam Báo Luận}, {Biện Tâm Thức Luận}, {Sa Môn Đản Phục Luận} và các quyển là {Đại Trí Độ Luận Sao Tự} vân vân.
2.- PHÁI ĐÀM LOAN:
Sau một trăm năm, đời Bắc Ngụy, Tuyên Võ Đế năm Vĩnh Bình (508), có Bồ Đề Lưu Chi mang {Vô Lượng Thọ Kinh Luận} vân vân truyền vào Trung Quốc, lúc bấy giờ có Đàm Loan nương nơi Vô Lượng Thọ Kinh Luận, tạo {Tịnh Độ Luận Trước}, cực lực tuyên dương Tịnh Độ, đây là tư tưởng niệm Phật được truyền bá phổ biến, đến thời đại nhà Đường nhờ Đạo Xước gặp Thiện Đạo, tư tưởng Tịnh Độ đặng thành công vĩ đại.
Đàm Loan (476 – 542) người Nhạn Môn tỉnh Sơn Tây, ban đầu nghiên cứu Phật Tánh của {Tứ Luận}, chú giải {Đại Tập Kinh), chưa được nửa năm liền bị bệnh tinh thần, vì muốn mạng sống lâu dài, để nghiên cứu áo nghĩa của Phật giáo, cho nên đến Giang Nam phỏng vấn đạo sĩ Đào Hoằng Cảnh, nghĩ rằng pháp tiên có thể cầu trường sanh bất tử, kết quả đặng tiên kinh mười quyển, chính muốn trở về phương bắc, qua Danh Sơn y cứ nơi pháp mà tu trị liệu; ai ngờ Đàm Loan vừa đi đến Lạc Dương, đúng lúc gặp Bồ Đề Lưu Chi, liền thỉnh vấn: [Trong kinh Phật có chỗ nào nói pháp trường sanh bất tử không, có thể hơn kinh tiên đây không]? Bồ Đề Lưu Chi đáp: [Kinh tiên đều không phải pháp trường sanh, mặc dù nói là pháp trường sanh, chỉ là tánh tạm thời, chung cuộc khó tránh khỏi luân hồi ba cõi]. Sau khi nói xong liền đem {Vô Lượng Thọ Kinh Luận} trao cho Đàm Loan, liền bảo ông rằng: [Kinh này mới là phương pháp đại tiên chân chánh, ông muốn cầu trường sanh, nên căn cứ kinh nầy tu tập, tất nhiên có thể đạt đế chỗ nguyện của ông]. Sau khi Đàm Loan được {Vô Lượng Thọ Kinh Luận}, liền dùng lửa thiêu đốt kinh của tiên, nhất tâm nương nơi {Vô Lượng Thọ Kinh Luận}, cần tu tịnh nghiệp, sau nhờ Ngụy Vương tôn trọng và quy y , vua sắc tứ cho là [Thần Loan], đồng thời sắc lệnh làm trụ trì Đại Nham Tự ở Tỉnh Châu; tuổi già ngài dời về Huyền Trung Tự ở Thạch Bích Sơn, chuyên tu Tịnh Độ Hành Nghiệp, ngài căn cứ nơi {Tịnh Độ Luận} và (Ưu Bà Đề Xá Nguyện Sanh Kệ) của Bồ Tát Thiên Thân do Bồ ĐềLưu Chi dịch, ngoài ra ngài còn nương nơi {Tỳ Bà Luận} và [Dịch Hành Phẩm] của Long Thọ, lại còn chú thích thêm mới hoàn thành {Vãng Sanh Luận Chú}, lại cũng gọi là {Vô Lượng Thọ Kinh Luận Chú} hoặc {Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá Nguyện Sanh Kệ} và sách {Tịnh Độ Luận} của Bồ Tát Thế Thân mới chú giải, cộng có hai quyển, trong đó thuyết minh [khó hành đạo] và [dễ hành đạo], phê phán Tịnh Độ là pháp môn tha lực, thuộc [dễ hành đạo], nghĩa là nguyên nhân chính yếu của Vãng Sanh Tịnh Độ đều hoàn toàn nương nhờ nguyện lực căn bản của Phật A Di Đà, cho nên Tịnh Độ là pháp môn tha lực dễ hành đạo.
Chỗ cốt yếu là Pháp Sư Đàm Loan dùng Đại Thừa Thật Tướng của Ấn Độ và Duyên Khởi, hai đại tư tưởng điều hòa dung hợp giải thích Tịnh Độ Luận, cho nên khai sáng thành cơ sở Tân Tịnh Độ Giáo Học.
Sau một trăm năm gặp lại, đến Tùy Đại Nghiệp năm (609) có Đạo Xước (582 – 645) người Thái Hành Sơn thuộc Tây Tỉnh Châu, chính là học giả nghiên cứu Niết Bàn Kinh, sau đó nhân đọc Đàm Loan Bi Văn, nơi đây ngài quy về nươngTịnh Độ, bỏ học giảng giải Phật pháp, nhất tâm thật tiển thật hành Tịnh Độ, ngài đọc {Đại Tập Nguyệt Kinh} đặng biết hiện tại chính là thời đại mạt pháp ngũ trược ác thế, chúng sanh thiện căn nông cạn, chỉ có đề xướng một môn Xưng Danh Niệm Phật Tịnh Độ, mới có thể khiến người thật hành mau chóng khởi hành từ bờ bên này đạt đến bờ Niết Bàn không sanh không diệt bên bờ kia, cho nên ngài thường vì mọi người giảng kinh Vô Lượng Thọ, mỗi ngày niệm Phật bảy vạn biến, vì giáo hóa nam nữ đạo tục niệm Phật, ngài chế tạo Phật châu(chuỗi tràng hạt), đồng thời ngài khuyên nông dân dùng hạt đậu để đếm câu niệm Phật, vì thế Tịnh Độ Giáo là thời cơ Phật giáo cùng nhau hưởng ứng, ngài mở rộng giáo hóa dân chúng niệm Phật, cho nên ba huyện của trung bộ như, Tấn Dương, Thái Nguyên, Văn Thủy Sơn Tây, không luận đạo tục, người bảy tuổi trở lên, đều biết hát xướng thánh hiệu A Di Đà Phật, có thể thấy đương thời sức ảnh hưởng sự truyền bá niệm Phậtphổ biến như thế nào.Ngài Đạo Xước một đời giảng {Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Kinh}hơn một trăm biến, đệ tử môn hạ có Thiện Đạo, Đạo Phú, Tăng Diển vân vân.Quý vị đó có trước tác {Tịnh Độ Luận} hai quyển đều nương {Quán Vô Lượng Thọ Kinh}, trước tác {An Lạc Tập} hai quyển đem giáo nghĩa tuyên dương niệm Phật, là quyển sách mục đích chính chuyên hoằng truyền giáo nghĩa Tịnh Độ. Lại nữa quý vị còn nương theo những trước tác danh tiếng của thầy là Đạo Xước mà quán tư tưởng của {An Lạc Tập}, có thể nói họ chuyên chọn {Quán Vô Lượng Thọ Kinh} làm chỗ nương tựa, và chịu ảnh hưởng hai đường khó và dễ của Long Thọ, hai lực tự và tha của Đàm Loan, mà phê phán Phật giáo thành hai môn Thánh và Đạo, tức là cho tự lực khó hành đạo vào Thánh Giáo, gọi là [Thánh Đạo Môn] nương nơi tha lực dễ hành đạo vãng sanh gọi là [Tịnh Độ Môn]. Họ còn chủ trương: Tịnh Độ Giáo thì cách Phật nhập diệt sau 1500 năm là thời đại mạt pháp, duy nhất thật sự thích hợp khả năng dân chúng là giáo pháp Tịnh Độ, thực tiển nơi Tịnh Độ Vãng Sanh dễ thi hành như trên, mặc dù thừa nhận các hạnh rộng tu là bồi dưỡng [Trợ Hạnh] cho vãng sanh, kỳ thật khuyên người chỉ cần niệm một Thánh hiệu của Phật A Di Đà là đủ và chuyên tu niệm Phật như thế để được vãng sanh mới là [Chánh Hạnh]. Họ đều ở chỗ phương bắc cho nên Tịnh Độ Giáo Học phát triển có thể nói làđứng trên Hạnh, thật tiển tiến xa trở thành một đại bộ phận của đại chúng hóa.
Thiện Đạo (613 – 618), người Truy Lâm Sơn Tây, tục danh là Tính Chu, biệt hiệu là Đại sư Chung Nam Sơn, là Tổ thứ ba thuộc dòng phái Tịnh Độ của Đàm Loan, cũng tức là tiếp theo sau Tịnh Độ Tập Đại Thành của Đạo Xước. Đường Thái Tông, năm Trinh Quán thứ 15 (614), ngài qua chùa Huyền Trung ở Tỉnh Châu Tây Hà, yết kiến ngài Đạo Xước, truyền thừa giáo nghĩa Tịnh Độ Tông, về sau ngài lên Chung Nam Sơn trong hoàn cảnh vắng lặng, nhất tâm tu đạo, có lúc ngài ra chùa Quang Minh ở Trường An, mỗi sáng đến chỗ dân gian giảng thuyết giáo nghĩa Tịnh Độ cho đạo tục, bao gồm ngoài thời gian thuyết pháp, ngài cầm bút sáng tác {Quán Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ}, tức là [Huyền Nghĩa], [Tự Phần Nghĩa], [Tán Thiện Nghĩa], [Định Thiện Nghĩa] bốn chỗ chú giải vân vân trở thành 5 bộ 9 quyển nổi danh, nhờ đó phái Đàm Loan hoàn toàn thành công lớn. Còn nơi chỗ phương bắc chỉ có lễ nghi hành trì thật tiển Tịnh Độ Giáo Học của ngài Đạo Xước.
Lại nữa chỗ nghiên cứu giảng thuyết {Quán Vô Lượng Thọ Kinh] của ngài Thiện Đạo, trở thành trung tâm chủ đề diễn giảng của Phật giáonơi thời kỳ Tùy Đường, nhân vì trong thời kỳ này có Đại sư Thiên Thai Trí Giả, Gia Tường Các Tạng, Tịnh Ảnh Huệ Viễn vân vân, các vị đều có danh đức rất lớn, trên lập trường giáo học của Tông phái này đều tự có các chỗ nơi và các trạm phổ biến , đều nhận cho là giống như Tịnh Độ niệm Phật vãng sanh, cho nên có danh nghĩa là [Phàm Thánh Đồng Cư Độ, Hóa Thân Độ]; kẻ ngu ác thì cho người niệm Phật quyết không thể vãng sanh vào Thật Báo Trang Nghiêm Độ của Phật A Di Đà. Nhân đây ngài Thiện Đạo nương nơi {Quán Vô Lượng Thọ Kinh) sáng lập ra bốn chỗ để trình bày giải thích kiểu mẫu nhất định của xưa nay cho rằng Tây Phương Báo Độ đúng là chỗ đặc biệt được lập ra cho chúng sanh trong đời mạt pháp, đồng thời bắt bẻ các nhà thuyết minh chống phá; ngay lúc đó ngài kiến lập cơ sở luận lý giáo nghĩa Tịnh Độ và trước tác {Quán Niệm Pháp Môn}, [Ban Châu Tán},{Pháp Sự Tán}, {Vãng Sanh Lễ Tán} vân vân.
Cá nhân ngài Thiện Đạo, tự sinh hoạt trì giới thanh tịnh, lánh xa danh lợi, không thọ nhận sự cúng dường, áo tốt ăn ngon, đều đem đến trai đường cúng dường đại chúng, tự ăn những món thô sơ, chỗ thọ thân thí là tả sách A Di Đà Kinh 10 vạn quyển, họa đồ hình biến tướng Thế Giới Cực Lạc Tây Phương hơn 100 bức, quy định đặc biệt thời gian và ngày thường niệm Phật thật hành sự việc tác pháp. Khi Đường Cao Tông Long Môn Lạc Dương tạo lập tượng Phật Đại Lô Xá Na và thấy chỗ nào tháp miếu già lam tổn hoại, liền trùng tu khôi phục lại, khiến Tịnh Độ Giáo lưu bố rộng lớn. Lại nữa {Quán Vô Lượng Thọ Kinh} cũng xưng là{Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ}; đến kỷ nguyên đời thứ tám đời nhà Đường, Tịnh Độ Giáo được truyền vào Nhật Bản, lưu truyền rất rộng, như thế Phật pháp ngày càng tăng, nương Cai Thơ sáng lập Tịnh Độ Tông Nhật Bản, bao gồm tôn vinh Đại sư Thiện Đạo làm sơ tổ.
3.- PHÁI TỪ MẪN.
Từ Mẫn (680 – 748) người Đông Lai (Sơn Đông), tục danh là Hạnh. Thời thơ ấu, lý do thấy Pháp sư Nghĩa Tịnh từ Ấn Độ đến, cảm động chịu tín ngưỡng thâm sâu, sau phát nguyện quyết tâm thực hiện một chuyến đi du lịch Ấn Độ, sau khi được phép và cấp giấy thông hành của Đường Tông Tự Thánh, ngài khởi hành vào
năm 19 (702) của của nhà Đường, nương theo Bát Kinh Côn Lôn (nay là quần đảo Khang Đạo Nhĩ), nơi Phật Thệ (Tô Môn Đáp Lạp), chỗ Châu Sư Tử (Tư Lý Lan Ca vân vân,ở đây trải qua ba năm mới đến được Ấn Độ, ngài lễ các thánh tích, tìm cầu kinh điển Phạn văn, tham khảo phỏng vấn các thiện tri thức,ở đây trải qua 13 năm, ngài độc ảnh cô đơn đi xa, lặn lội đường xa, đến thôn Tuyết Lãnh Hồ, nếm đủ mùi cay đắng ngàn gian lao vạn khổ, thâm cảm ta bà, thật là thế giới sanh tử khổ não, tâm lại thêm ân cần cầu lìa khổ được an lạc,vã lại phỏng vấn các học giả tam tạng Ấn Độ đương thời, họ đều ca ngợi pháp môn Tịnh Độ, sau đó ngài đến bắc Ấn Độ nơi nước Kiện Đà La, nhìn thấy trên núi thành đông bắc có tượng Quan Âm, ngài đảnh lễ thánh tượng, đều đoạn thực (lấy tay bóc đồ ăn đưa vào miệng) thọ thực xong liền theo mạng lệnh cầu thỉnh, ngài chung cuộc nơi đêm ngày thứ bảy, cảm thấy Bồ Tát Quan Âm hiện tướng màu sắc vàng ròng, làm ma đảnh (Bồ Tát lấy tay rờ đầu ngài) khai thị cho ngài.
Ngài Từ Mẫn du hành khắp Ấn Độ hơn bảy mươi nước, trải qua thời gian mười tám năm, nơi khai nguyên năm thứ bảy (749) đời nhà Đường, ngài mới trở về Trường An, mang theo kinh điển cùng tượng Phật hồi kinh dâng lên triều đình, Vua Huyền Tông ban thưởng cho ngài biệt hiệu là [ Từ Mẫn Tam Tạng ]. Ngài chuyên cần tu pháp môn niệm Phật, hoằng dương giáo nghĩa Tịnh Độ. Ngài có trước tác {Vãng Sanh Tịnh Độ Tập}, {Ban Châu Tam Muội Tán} vân vân.
Căn cứ nơi {Phật Tổ Thống Ký}vân vân chỗ ghi: tư tưởng Tịnh Độ của Tam Tạng Từ Mẫn rất gồm đủ khuynh hướng [Thiền Tịnh Dung Hợp], đời sau ảnh hưởng thạnh hành [Thiền Tịnh Nhất Trí], [Thiền Tịnh Song Tu], nguồn gốc phát triển từ nơi đây, nhân đây phối hợp với Tuệ Viễn và Đàm Loan đều được liệt vào hàng thứ ba là Phái Từ Mẫn.
XIV.- NGHĨA KẾT HẠ AN CƯ
Ngày 15 tháng7 gồm có ba danh xưng:
(A).- NGÀY TĂNG TỰ TỨ.
1,- Quan hệ ngày kết hạ an cư cùng tự tứ:
(1)- Thế nào gọi là kết hạ an cư?Phật chế mỗi năm từ ngày 15 tháng 4 đến ngày 15 tháng 7 , cộng chung là ba tháng làm định kỳ 90 ngày, tại đây thời gian định kỳ, tăng chúng không được ra ngoài giáo hóa, tất nhiên phải tụ tập một chỗ, kiên trì giới luật, sáng giữ mình trong sạch để hành trì, chuyên tâm tu đạo, gọi là kết hạ an cư. {Kết} là chế độ tụ lại. {Hạ} trời mùa hè. {An}là an định. {Cư} là trụ lại một chỗ.
(2)- Nguyên nhân Phật chế kết hạ an cư?
a-, Thông thường đệ tử Phật dụng công tu hành, phần nhiều ở bên núi, trong rừng, hoặc ở bên dòng sông, nhập định tịnh quán. Nguyên nhân mùa hạ ở Ấn Độ, vào mùa này nước thường lũ lụt, nước tràn ngập các lạch nước nhỏ, Phật Đà từ bi vì muốn các đệ tử được an toàn, sợ đạo khác buôn bán nhìn thấy, đặc biệt riêngcho chế độ tụ lại của các đệ tử tập hợp một chỗ tu hành, để vượt qua trời hạ, cho nên gọi là an cư.
b-,Trời mùa hạ ở Ấn Độ ẩm thấp, là thời tiết thấp khớp của rắn, côn trùng,chuột, kiến sanh sôi nẩy nở,vì tránh khỏi rắn, côn trùng xâm hại, và phòng ngừachính mình, khi giở chân động bước, làm thương hại chúng sanh, nên phải cấm túc, kết hạ an cư.
c,-Kỳ hạn thời gian kết hạ, cộng có 90 ngày, các đệ tử tụ tập một chỗ, đồng tu cùng khuyến khích lẫn nhau sách tấn phát triển, thì đạo nghiệp dễ thành.
(3)- Sao gọi là ngày tăng tự tứ.
Một ngày sau cùng của kỳ hạn chín mươi ngày kết hạ, tăng chúng tất nhiên phải cử hành pháp tự tứ, tức là trước tự mình kiểm thảo ba nghiệp thân, miệng, ý, trong thời kỳ kết hạ có phạm lỗi không? Kế đến thỉnh tăng chúng khác có thấy, nghe, nghi, ba việc trên chỉ bảo đối với chínhmình trong quá trình tu hành, có chỗ nào phạm lỗi không? Nay đối với trong đại chúng tự mình phản tỉnh và tiếp nhận tăng chúng nêu lên kiểm điểm, để phát lộ (phát nguyện bày tỏ) sám hối, cải hóa tự thân cho được tốt đẹp, hồi phục lại thanh tịnh, đây gọi là pháp Tự Tứ, cho nên một ngày đây cũng gọi là Ngày Tăng Tự Tứ.
PhápTự Tứ được cử hành sau khi sựtụ tập kết hạ an cư được giải tán, có thể tự mình hồi phục bình thường để trở về chỗ cũ bên bờ sông, trong rừng sâu vân vân nơi mà họ mới ra đi để tụ tập tu hành, từ đây không còn bị câu thúc bởi chịu kết hạ an cư, cũng gọi là {Giải Hạ}.
(B).- NGÀY PHẬT HOAN HỶ.
1, Nguyên nhân Phật hoan hỷ.
Đức Phật trong thời gian ra đời dùng lợi sanh làm bản hoài, phàm có chỗ làm việc đều tưởng đến giúp chúng sanh an lạc, giải trừ sự thống khổ của chúng sanh, vì thế, nếu thấy chúng sanh, bỏ ác hướng thiện, chuyển mê thành ngộ, trả vọng về chân, lìa khổ não được an lạc, cho nênPhật vui mừng (Tứ)vì bản hoài mới xuất hiện trong thế gian, cho nên gọi là Phật Hoan Hỷ.
2, Ý Nghĩa ngày 15 tháng 7 sao gọi là Phật Hoan Hỷ?
Sau pháp Tự Tứ, khả năng khiến Phật hoan hỷ có ba nghĩa:
(a)- Chư Phật trong mười phương nhân thấy tăng chúng siêng năng an cư tinh tấn tu hành viên mãn, cho nên sanh hoan hỷ.
(b)- Sau pháp tự tứ giải hạ, tăng chúng siêng năng tự mình phản tỉnh kiểm thảo, và đại chúng đề cử kiểm điểm lẫn nhau, khiến nơi trong ngày 90 ai có phạm lỗi đều có thể phát lộsám hối hồi phục thanh tịnh nên khiến Phật hoan hỷ.
©- Phật nghe sau khi giải hạ tăng chúng báo cáo hoặc được sơ quả, nhị quả, tam quả, tứ quả, Phật vui mừng vì thấy sở nguyện của tăng chúng được viên thành, cho nên khiến Phật hoan hỷ.
(C).- NGÀY CÚNG VU LAN BỒN.
1, Ý Nghĩa Vu Lan Bồn.
{Vu Lan Bồn} tiếng Phạn dịch âm là Ullambana. Dịch ý là {VuLan}, dịch là {Đảo Huyền}(Tội treo ngược);{Bồn} tiếng Phạn là Bana, nghĩa là {Cứu}; ý nghĩa là đảo huyền, tỷ dụ như san tham bị đọa vào đường ngạ quỷ, cổ họng nhỏ như cây kim, bụng to như cái trống, chớ nói đồ ăn không thể nuốt, tức khiến nước cũng không thể uống, thường bị đói khát như lửa đốt, dẫu có đồ ăn một khi vào miệng biến thành lửa than, đầu hướng về đất, bàn chân hướng lên trời, sư thống khổ của nó dụ như người bị treo ngược. {Bồn} ý nghĩa là [Cứu], nên cổ đức nói: nghĩa {Vu Lan tức là treo ngược}, {Bồn} tức là đồ cứu hộ. Chỗ gọi [Cứu tội treo ngược, giải thoát thống khổ], chính là ý nghĩa {Vu Lan Bồn}.
2, Khởi Nguyên của Vu Lan Bồn.
Căn cứ nơi kinh Vu Lan Bồn ghi, đệ tử của Phật là ngài Mục Kiền Liên, dùng thiên nhãn thông thấy mẹ của ngài bị đọa vào trong đường ngạ quỷ da bọc xương, ngày đêm chịu thống khổ liên tục; ngài Mục Liên thấy vậy, dùng bát cơm đầy, đến hướng về mẹ, nhưng mẹ của ngài do ác nghiệp nên cảm thọ quả báo, khiến bát cơm biến thành than lửa, ngài Mục Liên vì cứu mẹ ngài thoát khỏi khổ này, liền hướng về Phật Đà thỉnh cầu chỉ bảo pháp giải cứu, Đức Phật liền chỉ bảo nơi ngày 15 tháng 7 là ngày Phật hoan hỷ, là ngày chư tăng tự tứ, dùng mỹ vị ăn uống trang trí nơi trong bồn Vu Lan, đem cúng dường Tam Bảo, nương nơi sức từ bi của Tam Bảo, sức oai thần công đức của chúng tăng, đặng cứu ác nghiệp của cha mẹ đời nay cho đến bảy đời về sau. Ngài Mục Liên y giáo phụng hành, mẹ của ngài liền đặng giải thoát thống khổ nơi ngạ quỷ, nên Đức Phật bảo: [Là đệ tử Phật, nếu tu hiếu thuận, nên niệm trong niệm, thường nhớ đến cha mẹ, cho đến cha mẹ bảy đời, về trước mỗi năm vào ngày 15 tháng 7 thường nhớ đến hiếu từ công ơn sanh thành của cha mẹ, làm lễ Vu Lan Bồn cúng dường Phật và chư Tăng để báo đáp công ân từ ái và trưởng dưỡng của cha mẹ].
3,- Thiết cúng Vu Lan Bồn như thế nào?
Nếu ở tự viện nên đối trước bàn Phật thiết lập cúng dường để trong Bồn gồm có nào là, dưa, bầu, mướp, bí, trái cây, bột mì, bột đậu, bột ngô, bột nếp, bột tiêu….., bánh, gạo, dầu, trà, cơm…… trăm vị ẩm thực trang trí nơi trong bồn, chí thành cúng dường Phật và thánh hiền tăng trong mười phương, gọi là cúng dường Vu Lan Bồn.
XV.- LUẬN VỀ TÂM TÁNH CỦA PHẬT GIÁO.-
1.- Ý Nghĩa của Tâm Tánh Luận.
Giống như {Bản Thể Luận}, {Nhận Thức Luận}, có thể nói chính là {Tâm Tánh Luận} của Phật giáo. Nhưng Tâm Tánh Luận lại là thứ gì? Từ xưa cho đến nay, các nhà tư tưởng, đều cho vấn đề đây tranh luận không dứt; giống như nhà Triết Học, nhà Tâm Lý Học, dùng pháp quy nạp, hoặc diễn dịch, bên trong tự kiểm điểm hoặc bên ngoài lại quan sát vân vân, chúng đi đến kết quả, cũng chẳng qua là nghiên cứu cái [Tâm] là chỉ [phân biệt cái tâm], vã lạikhôngcó đem toàn bộ cái tâm để phân biệt nhận thức rõ ràng; vấn đề quan hệ nơi [Tánh], đó chính là nối kết tác dụng ra cảnh mộng cũng chưa có ai tưởng đến, cho đến nơi nhà Khoa Học, chỉ chú trọng nghiên cứu thực nghiệm vật chất, đối với vấn đề tâm tánh, bên trái thì bóp chẹt bên phải thì suy cứu, căn bản nghiên cứu phân biệt không nhất thiết là [Tâm] cùng [Tánh].
[Tâm Tánh] đến triệt để là như thế nào? Kỳ thật [Tâm] cùng [Tánh] xưa nay không hai, chẳng qua có chân và vọng, có động và tịnh, có tối tămvà ánh sáng, có thể và tướng, có sự và lý, như sóng và nước vân vân không giống nhau. Chỗ gọi là [Tánh] chính là bản tánh, trong Phật giáo xưng là tự tánh, tánh không, thật tướng,chân như, chân tâm, mặt và mắt của nó xưa nay vẫn thế, vân vân, thí dụ như [nước]. Còn [Tâm] chính là tâm niệm, vọng tâm, huyễn tâm, bao quát tất cả cảm thọ, ấn tượng, tư duy, nhận thức, tư tưởng, hiện tượng, thí dụ như [sóng]. Nếu căn cứ nơi phương diện thể mà nói nước và sóng đồng là tánh ướt, hai đây bản lai không khác, nếu căn cứ nơi phương diện tướng của nó mà nói, như thế [Sóng] là tướng động, còn [Nước] là tướng tịnh, sóng động thì mê loạn, nước tịnh thì trăng hiện, hai đây đích thực là trái ngược nhau, cho nên [Nước] cùng với [Sóng] là không phải một không phải khác, chính thực dụ [Tâm] cùng [Tánh] cũng là không một không khác, đạo lý đây cần phải thích ứng thì hoàn toàn không khó giải thích.
Do phương diện thí dụ [ nước và sóng] trên có thể minh bạch được tự tánh (tánh) là nguồn suối của tất cả khởi tâm động niệm, chúng ta có thể tỏ ngộ được tướng mạo cứu cánh của tự tánh đây, nơi trong Phật pháp gọi là [minh tâm kiến tánh]. Tức tỏ ngộ được tự tâm, thấu triệt nghĩa thấy được của tự tánh.
2, [Tánh] là bản thể của vạn hữu.
Tự tánh của chúng ta, nơi trên bản chất thì rộng lớn tròn sáng, vĩnh viễn không biến đổi, từ phương diện tướng của nó mà nói, là thanh tịnh trong suốt như thế, một pháp cũng không thành lập, một trần cũng không nhiễm trước, khi tràn khắp là Không.Từ nơi phương diện tác dụng mà nói, nó thường tùy duyên kiến lập vạn hữu mà không ngăn ngại. Nguyên nhân của nó là tướng chân thật của sự vật, cho nên gọi là [thật tướng các pháp], nguyên nhân nó là tánh cứu cánh của vạn vật, lại gọi là [pháp tánh]. Cốt yếu là, tự tánh không sanh diệt, không tăng giảm.Thường hằng không biến, thể lớn của nó thì rộng lớn viên mãn. Nó đầy đủ rộng lớn từ bi, trí tuệ, thanh tịnh là tướng đại của nó. Nó có thể sanh ra tất cả nhân thiện quả thiện của thế gian và xuất thế gian, phát khởi các thứ diệu dụng, là đại dụng của nó.
Do nguồn gốc đầu tiên của [tự tánh] là thanh tịnh, biến khắp pháp giới, là bản thể của tất cả hữu tình vô tình, không luận hiện tượng vật chất khách quan, hoặc hiện tượng tư tưởng chủ quan, không một thứ nào là không phải ảnh tử huyển hiện trong tự tánh. Như {Kinh Lăng Nghiêm} nói: [sắc thân sơn hà, hư không đại địa, tất cả đều là vật trong chân tâm diệu minh], có thể thấy tất cả hữu tình vô tình, có sắc không sắc, có hình không hình, đều nương nơi pháp tánh thanh tịnh đây làm thể mà bắt đầu kiến lập. Pháp tánh thanh tịnh tức là mỗi cá nhân đang niệm một niệm đó là tự tánh thanh tịnh. Thứ lý luận đây chính là Bản Thể Luận của Phật giáo.
3, Nhận Thức Luận của Phật Giáo.
Phật giáo chỉ cho chúng ta biết thường ngày chúng ta xử dụng cái [Tâm] đó là vọng tâm phân biệt của huyễn sanh, huyễn diệt, thoạt vui, thoạt lo, thoạt giận, thoạt buồn, căn cứ nơi phương diện mờ ám ngu độn mà nói gọi là [vô minh], nương nơi thiền định thường bị chướng ngại ngăn che tự tánh gọi là [ấm uẩn]. Nương nơi nó có huân tập trói buộc tác dụng gọi là [tập khí]. Nương nơi nó có trạng thái giao động bối rối bất an gọi là [phiền não]. Chính nó cố chấp nên gọi là [chấp kiến]. Chính nó có tánh chất tham luyến nên gọi là [tham ái]. Từ đây trở lên đều là đại danh từ của vọng tâm sanh diệt. Cho đến hiện tượng vọng tâm, phân tích tinh tế tỏ tường, tương đương phức tạp, như khởi tâm động niệm, là một thứ quá trình rất phức tạp,nhân vì nó không phải là một thứ trạng thái đi đến có thể nắm bắt được nhận thức hoàn thành. Mà lại chỗ thấy tâm niệm tánh chất của nó đều có chỗ bất đồng, Phật giáo đối với hiện tượng tâm lý này phân tích rất là tinh tế tỏ tường,đối với một ban Tâm Lý Học, nó vượt qua rất xa.Phật giáo đem tâm nhận thức của chúng ta, phân làm tám thứ, tức là Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, ThiệtThức, Thân Thức, ÝThức, Mạt Na Thức, A Lại DaThức. Chúng ta bình thường có thể thấy sắc, nghe tiếng vân vân, trong Tám Thức, chỉ có sáu Thức tác dụng;như cửa tiệm tạp hóa, người cộng tác để thu hút chiếu cố khách hàng chính là Ý Thức, Ý Thức thứ sáu giống như tổng quản lý nhận khách, hàng hóa, bán, mua, thu, chi; còn năm Thức Trước thì hướng dẫn. Sức sinh hoạt của Ý Thức thứ sáu rất mạnh, có thể phân biệt chi phối tinh thần hướng ngoại và hướng nội.Thức Mạt Na thứ bảy dịch là [Ý]. Năng lực của nó là thường xuyên suy nghĩ xét kỹ và kiên cố chấp Thức Thứ Tám làm ngã, đây là phiền não căn bản. Nó như Đại Chủ Quản trông coi phẩm vật hàng hóa ra vào và phân phối cho ra ngoài từ trong kho. A Lại DaThức và tám, dịch là Tạng Thức.Nó là kho chứa hàng hóa to lớn dung nạp tất cả thiện ác tốt xấu, cho nên gọi nó là [Tạng Thức]. Chúng ta từ xưa cho đến nay đều sanh ra từ nơi chỗ trải qua của tất cả sự tình, không thể quên và không thể từ chốiTạng Thức này; học tập tài năng có thể huân tập tiến dần,cho đến ký ức thành công đều là Tạng Thức này bảo trì ấn tượng để phát khởi tác dụng,chính nguyên nhân hành vi trải qua của chúng ta, không luận ảnh tượng lớn nhỏ, tốt xấu, nhiễm tịnh vân vân, đều chứa vào trong Thức Thứ Tám, cho nên đem dụ nó cho là kho chứa.
Lại nữa, Thức A Lại Da thứ tám, là chân vọng hòa hợp, là căn bản của bảy Thứ Thức Trước, lực dụng của Thức này rất lớn, chúng sanh lưu chuyển trong sáu đạo, là sáu Thức tạo nghiệp, do đây Tạng Thức đi thọ báo. Chúng ta nhập vào thai mẹ đầu tiên là Thức này, khi chết lìa khỏi sau cùng cũng là Thức này. Cho nên nói: [khứ hậu lai tiên tác chủ ông] (làm ông chủ phải đi sau và phải đến trước), ý chỉ sự đi và đến của sanh tử chúng ta, nó hoàn toàn làm người ông chủ. Lại nữa sự tác dụng nhận thức của chúng ta, ngoại trừ Tám Thức đã tường thuật ở trên, riêng có 51 Tâm nữa. Chỗ có các thứ hiện tượng tư tưởng phân làm sáu loại, chỗ gọi 5 Biến Hành, 5 Biệt Cảnh, 11 Thiện, 6 Phiền Não Căn Bản, 20 Tùy Phiền Não, 4 Bất Định.
*NĂM TÂM SỞ BIẾN HÀNH:Chỉ chúng ta khi khởi tâm động niệm tất nhiên nó trải qua rất nhanh tức là, Xúc, Tác Ýù, Thọ, Tưởng, Tư. Năm thứ này tánh nối liền ăn khớp, cho nên gọi là Tâm Sở Biến Hành. Lại nữa phạm vi hoạt động của nó quan hệ khắp tất cả Tám Thức Tâm Vương; có mạêt nơi ba cõi chín địa; có mặt nơi ba tánh thiện, ác, vô ký; có mặt nơi ba thời gian quá khứ, hiện tại, vị lai, nên gọi là Tâm Sở Biến Hành.
*NĂM TÂM SỞ BIỆT CẢNH: Đối với cảnh cá biệt mà sanh khởi, tức là Dục, Thắng Giải, Niệm, Định, Huệ. Năm tâm sở này đầy đủ ba tánh, thiện, ác và vô ký, mà không duyên tất cả cảnh, cũng không phải tương tục, cũng không phải tâm có liền có, mà năm thứ này không phải đồng thời cùng sanh, cũng không nhất đầy đủ, nên gọi là Tâm Sở Biệt Cảnh.
*11 TÂM SỞ THIỆN:Tức là Tín, Tàm, Quý, Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, Tinh Tấn, Khinh An, Bất Phóng Dật, Hành Xả, Bất Hại. [Thiện] đây là chỉ cho tánh lìa tội lỗi xấu ác, phàm người thuận theo làm lợi ích, gọi là Tâm Sở Thiện.
* SÁU PHIỀN NÃO CĂN BẢN:Quấy nhiễu não loạn gọi là phiền não, nhưng sáu thứ phiền não đây có thể dẫn sanh các thứ phiền não nhánh lá, nên gọi là phiền não căn bản, tức là Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi,Không Chánh Kiến; hoặc do sáu thứ phiền não căn bản này khai sanh thành mười thứ, tức là Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, năm thứ đây gọi là [Năm Độn Sử]. Thân Kiến, Biên Kiến, Tà Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Cấm Thủ Kiến, gọi là [Năm Lợi Sử]; hợp lại [Năm Độn Sử] cùng [Năm Lợi Sử] thành [MườiSử].
*20 THỨ TÙY PHIỀN NÃO: Phân thành mười Tiểu Tùy, hai Trung Tùy, tám Đại Tùy, chúng tùy theo sáu phiền não căn bản mà sanh khởi, lệ thuộc phiền não căn bản, nên gọi là Tùy Phiền Não.
+Mười Phiền Não Tiểu Tùy gồm có: Phẩn, Hận, Phú, Não, Siểm, Cuống, Kiêu, Hại, Tật, Kiên. Mười thứ tâm sở trên, mỗi Tâm Sở sanh khởi riêng biệt, chỉ thích ứng cùng với Thức Thứ Sáu.
+ Hai Phiền Não Trung Tùy gồm có: Vô Tàm, Vô Quý. Hai thứ này liên hệ khắp tất cả pháp bất thiện, tất cả pháp ác tất nhiên theo đó mà sanh.
+ Tám Phiền Não Đại Tùy gồm có:Bất Tín, Giãi Đãi, Phóng Dật, Hôn Trầm, Trạo Cử,Thất Chánh Niệm, Bất Chánh Tri, Tán Loạn. Tám thứ này từng loại đều sanh khởi, liên hệ khắp tánh bất thiện, nên gọi là phiền não đại tùy.
+ Bốn Tâm Sở Bất Định gồm có:Hối, Miên, Tầm, Tứ, bốn tâm sở này, có thể cho là thiện và cũng có thể cho là ác, nên gọi là Bất Định.
Tám Thức Tâm Vương kể trên dụ như quân quan, 51 Tâm Sở dụ như sĩ chốt, đối với Phật Giáo đây là hiện tượng tâm lý phân tích rõ ràng.Giống như đem thành phần [Tâm] cùng [Vật] mở rộng ra để xem, chúng chỉ biết là không phải một, nhưng chúng không biết là không phải hai. Nơi Phật Giáo thì chủ trương [Tâm] cùng [Vật] là thành phần không mở rộng, chính là một thể viên dung vô ngại. Chỗ gọi Tâm nương nơi Vật mà có mặt, Vật nương Tâm mà hiển bày, như {Kinh Lăng Nghiêm} nói: [Do trần phát ra hiểu biết, nương nơi cội rễ mới có tướng]. Chính là đạo lý đây vậy. Nên biết [Tâm] cùng [Vật] quan hệ là không phải hai, cho đến [Tâm], [Vật], [Tánh] ba đây đều là không phải hai, nhân vì [Tâm] và [Vật] đều là ảnh tượng chỗ hiện trên Tự Tánh.
Lại nữa, [Tâm] và [Vật] đều là pháp hữu vi, là pháp đối đãi. Còn [Tánh] là pháp vô vi, là chân lý dứt đối đãi, nhưng tương đối cùng tuyệt đối đều không phải hai không phải đông tây, nhân vì lìa tương đối, bao gồm tuyệt đối không thể có được. Tuyệt đối tức tồn tại trong tương đối, lìa tuyệt đối cũng không có tương đối có thể tìm cầu, nhân vì bản thể của tương đối tức là tuyệt đối, như đại sư Lục Tổ nói: [Xuất thế pháp bất ly thế gian pháp, ly thế cầu bồ đề, pháp như mích thố giác] (Pháp xuất thế gian không lìa pháp thế gian, lìa pháp thế gian cầu bồ đề, đúng như tìm sừng thỏ), nên cổ đức khi ngộ đạo, tức thì biết [sơn sắc vô phi thanh tịnh thân] (hình sắc của núi đều là thân thanh tịnh), [sơn hà cập đại địa, toàn lộ pháp vương thân] (núi sông và địa cầu to lớn, hoàn toàn biểu lộ thân pháp vương). Lại như nói: [thanh thanh thúy trúc giai thị chân như, uất uất huỳnh hoa mạc phi bát nhã] (trúc xanh xanh biếc đều là chân như, huỳnh hoa uất ức chớ không phải bát nhã sao). Lại như Tâm Kinh nói: [sắc tức thị không, không tức thị sắc] (sắc tức là không, không tức là sắc), đều là thuyết minh [Tánh] cùng [Vật] không hai, lại nói : [Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị] (thọ, tưởng, hành, thức cũng giống như thế), chính là thuyết minh [Tánh] và [Tâm] không hai. Như trên trình bày [Tâm] cùng [Tánh] quan hệ rõ ràng, chính là luận lý căn bản Nhận Thức Luận của Phật Giáo.
XVI.- PHẬT GIÁO VÀ NHÂN SANH
1.- NHU YẾU CỦA NHÂN SANH LÀ PHẬT GIÁO.
Dùng Tam Bảo, Phật, Pháp,Tăng làm cơ sở, từ ngày kiến lập Phật giáo cho đến nay; nó là thuyền từ của biển khổ, là đèn sáng trong đêm tối, là kim chỉ nam của tàu thủy đi biển, đây là một thứ tỷ dụ rất thích đángï.
Chúng ta mỗi ngàytrong thế giới đã từng gây tạo vô cùng cộng nghiệp , người ngày nay thấy đến kinh tâm, chính như trong biển lớn mênh mông, một chiếc thuyền con rõ ràng bềnh bồng rung động, chịu cuồng phong lượn sóng kinh khủng nổi trôi bất định, là biết bao mờ mịt, không chỗ nương tựa và hoảng sợ khủng khiếp.Tam Bảo của Phật giáo, chính như trong biển khổ một chiếc tàu tuần tra quý báu có sức có thể dựa vàocứu sống, chỉ cần nhà ngươi có cơ hội trở lại dựa vào cầu cứu, tàu kia lập tức đích thân quay trở lại ra tay từ bigiúp đỡ nhà ngươi chắt nhắc được tế độ bảo vệ đưa nhà ngươi đến bờ bên kia an toàn.
Các phiền não tham, sân, si, vân vân tràng đầy, đêm dài hắc ám chồng chất chướng ngại che lấp chúng sanh, trường kỳ trầm luân mê tối trong đêm hắc ám này, sống rồi chết, chết rồi sống, quay vòng chuyển biến, luân hồi trong sáu nẻo, không có hạn kỳ, ngu si vô trí, không phân biệt được đâu là phải đâu là không phải, đâu là thiện đâu là ác, đâu là tà đâu là chánh, đâu là chân đâu là vọng, hồ đồ điên đảo,đều do tham, sân, si, ngăn che mắt tâm. Ánh sáng rộng lớn của Phật Giáo, chính như một đèn pha ánh sáng rộng xa, có thể chiếu phá bóng đêm hắc ám của phiền não sanh tử, chỉ thị cho chúng ta có nên thi hành hay không nên thi hành.
Chúng sanh tự mê chân chạy theo vọng niệm, từ xưa đến nay quay lưng giác ngộ, kết hợp nghiệp trần, khởi hoặc tạo nghiệp, theo nghiệp thọ báo, nơi trong ba cõi sáu đường,ra đi bước chìm sâu vào hoặc trời hoặc người, hoặc địa ngục, hoặc đọa ngạ quỷ, hoặc ra bào thai bò, hoặc vào bào thai ngựa, tại nghiệp lực bị giãy giụa trong sóng ba đào, hoàn toàn mê mất hướng đi của người phải đi để tiến về phía trước. Phật pháp như kim chỉ nam của tàu đi biển, nó có thể trợ giúp chúng ta phân biệt được đông tây nam bắc, tìm ra một điều chính xác là phương hướng.
Cho nên, giáo pháp của Phât Đà, như thuyền từ, như đèn sáng, như kim chỉ nam, nơi trong thăng trầm nổi trôi của biển khổ, là quy tắc khuông mẫu của đêm dài tăm tối, chúng ta hoảng sợ khi mê mất phương hướng, là biết bao khát vọng cứu tế của Phật pháp soi sáng và chỉ thị!
2.- GIỐNG NHƯ NGƯỜI HIỂU LẦM ĐỐI VỚI PHẬT GIÁO.
Giống như có người khi bàn luận về Phật giáo, đa số đều nhận cho là Phật giáo không khoa học, mê tín, họ không hoạt động, chẳng qua chỉ dạy người làm việc thiện mà thôi, nhân đây không đáng kể một khi nhìn lại. Cũng có người nhận cho là Phật giáo chỗ nói đạo lý, quá trừu tượng, thâm sâu,bàn luận toàn là lý Không, không thể cùng nhân sanh hiện thật kết hợp nhau được, hà tất phải học họ? Lại có một loại người, tuy nhiên thừa nhận luận lý của Phật gíáo, tinh thâm rộng lớn, có thể là họ tự nhạân chính mình không có căn cơ, không có thể lãnh hội được lý giải chân lý của Phật giáo, nhân đây tín ngưỡng tự kiên quyết dần dần không phát khởi được chân chánh, thì đây cho thấy những đàm luận trên không thật tiển và không thể dùng được.
Mặc dù người đời đối với Phật giáo thường phát sanh xem giáo pháp không chính xác, nhưng ở đây Phật giáo truyền bá trên thế giới hơn 2000 năm, nhất định nó phải có giá trị đặc thù, nếu nó chỉ có biểu hiện bề mặt hình thức là đốt hương lễ tượng, nó sớm đã bị trào lưu lịch sử đào thải. Nhân đây chúng ta không thể chỉ xem Phật giáo từ biểu tượng bề mặt và cho Phật giáo chẳng qua là như thế, cũng không thể chỉ xem Phật giáo trên bộ phận lý luận mà lại thêm phán đoán, cho Phật giáo không thể kết hợp hiện thật,là một tông giáo tiêu cực yếm thế; kỳ thật chúng ta nghiên cứu vấn đề, cần thiết ở chỗ chớ mang trên mình tánh chủ quan và tánh biểu hiện bề mặt của nó, giả như chính mình đối với Phật giáo còn chưa có chỗ khách quan, tâm địa trống rổng, chỗ toàn diện đi quan sát và nghiên cứu,chỉ nương nơi chính mình chủ quan và thành kiến lại phê phán bằng con mắt mù quáng, đây không chỉ đối với Phật giáo không có chút pháp vị ở trên, vĩnh viễn không có pháp để thưởng thức, mà lại cũng không phải là thái độ học hỏi.
3.- PHẬT ĐÀ THỂ CHỨNG CHÂN LÝ VŨ TRỤ NHÂN SANH.
Phật đà cho chúng ta biết: sự sự vật vật trong vũ trụ, trong đó bao quát tất cả hiện tượng vật chất khách quan và hiện tượng tư tưởng chủ quan, có thể nói từ vi trần cho đến thế giới, từ vật chất đến nhân thể, từ cảm thọ đến nhận thức, đều ở trong giờ giờ khắc khắc vận động lưu hành, trong sanh diệt biến hóa, chúng ta hiện tại tiếp xúc tất cả hiện thật,chẳng qua là hiện tượng rõ ràng biến đổi, đồng thời ở trong quá trình biến đổi của sự vật, mỗi mộtsự vật đại biểu sanh diệt tàn tạ, luôn cả nó cùng chu vi các sự vật khác quan hệ lẫn nhau với nó, ảnh hưởng lẫn nhau với nó, mà phát sanh rõ ràng nhân quả quan hệ liên tục gắn bó khắng khít với nhau, thứ vũ trụ vạn hữu sanh diệt biến hóa đây, quy luật liên hệ lẫn nhau, Phật giáo gọi là [nhân duyên sở sanh pháp] (Nhân duyên chỗ sanh ra pháp).Đã vậy vạn pháp trong vũ trụ hoàn toàn do nhân duyên sanh, lại không thoát khỏi biến hoá bại hoại. Cho nên thế giới (quả địa cầu) của chỗ ở chúng ta đều nằm trong định luật thành, trụ, hoại, không. Sanh mạng của chúng ta và tất cả động vật, đều bị sanh, già, bệnh, chết, tư tưởng của chúng ta lại cũng bị sanh, trụ, dị, diệt; một hệ thống an bày đây đều nằm trong quá trình lẫn nhau phát sanh, phát triển, tiêu diệt; Phật giáo gọi là [chư hành vô thường] (các pháp biến động {hành} đều vô thường). Đồng thời, lập trường của Phật giáo xem thứ hiện tượng nhân duyên chỗ sanh, chính nhân đây của nó là tạm có, là vô thường, cho nên gọi nó là hư vọng, chính như {Kinh Kim Cang} nói: [Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng] (Phàm chỗ có tướng, đều là hư vọng). Mặc dù các pháp vạn hữu, đều là hư vọng không thật, nhưng nó lại không phải là đoạn diệt không có, nhưng nó dĩ nhiên được bảo trì hiện hữu rõ ràng giống như hình tượng ảo ảnh, tồn tại chỗ khách quan, tương tục không dứt, trước diệt sau sanh, cho nên Phật giáo chỉ nói nó là [đoạn diệt], thứ đây không có chỉ là cảnh vận hành tác dụng biến hoá, sanh diệt trao đổi, nhân quả tương tục, tình huống biến đổi không dứt;chính Phật Đà đối với vũ trụ nhân sanh tất cả hiện tượng vừa kể trên chính tự thân đức Phật thể chứng được chân lý đó mà nói ra những pháp này.
4.- PHẬT NÓI KHỔ CÙNG NGUỒN GỐC KHỔ VÀ PHƯƠNG PHÁP GIẢI THOÁT KHỔ.
Sau đấy, tất cả sự vật trong vũ trụ thế gian, đều là giả tướng sanh diệt không ngừng, có thể đau tiếc chúng ta tập quán nơi chấp trước vọng tưởng chủ quan, không thể xem vấn đề trên chân thật từø khách quan, không những không minh bạch tướng mạo chân thật của vũ trụ nhân sanh, vã lại lầm nhận chính mình chấp trước giả tướng nhỏ hẹp làm ngã, mà phát sanh ngã tham, ngã si, ngã kiến, ngã mạn, vân vân, mê hoặc cho bản thân, nhà cửa, sự nghiệp, vật chất, vân vân, cho là vật chỗ có của ngã, bên ngoài hoặc nơi cảnh, bên trong mê nơi thấy, chỉ con nai cho là con ngựa, biến trắng thành đen, do mê hoặc mà dẫn khởi lực lượng hoạt động điên đảo của ba nghiệp thân miệng ý, nơi trong Phật pháp gọi là [nghiệp lực], nghiệp lực đây huân tập lâu ngày, lực lượng tăng lớn lên, bị động nơi trong không tự giác, sản sanh các thứ thống khổ!
Thân thế của nhân loại gặp phải, kẻ trí người ngu, kẻ mạnh người yếu, vân vân, mặc dù có ngàn sai muôn khác, mỗi mỗi không đồng, nhưng [khổ] lại là do cảm giác của cộng đồng, [khổ] tánh nó ép buộc, nay khiến người cảm giác không được tự tại gọi là [khổ]. Như nhân loại trong sinh hoạt thường ngày, có một số bệnh thống khổ vì bị cốt nhục phân ly, có một số khổ vì oán cừu gặp nhau, có một số khổ vì ước nguyện không thành, có một số khổ vì bị thương bôm đạn, thậm chí có một số khổ vì thất vọng đau buồn uất ức tự sát, hoặc nhân vì bị vất vả bản thân mà gia đình mất hòa………… buồn, vui, hợp, ly, cùng, thông, đặng, mất, tạo thành tâm trạng trăm ưu ngàn thảm, vạn sự lao hình, nhẹ thì bị thần kinh suy nhược, nặng thì si mê cuồng loạn, đầu óc điên khùng,số người sanh ra trong hành trình mười năm, không lúc nào không ở trong phiền não thống khỗ bức bách, lại hơn nữa mạng người vô thường cuối cùng lại có một thứ khổ tồn tại chính là cái chết!
Đúng ra, [khổ] là một thứ cảm giác sanh ra do tâm phân biệt tạo tác, thí dụ như tâm không oán ghét người nào đó sao lại có cái khổ gặp nhau oán ghét (oán tắng hội)? Tâm không tham luyến sao lại có khổ mất luyến ái tự sát? Cho đến tâm không tạo nghiệp cũng tự nhiên không có thống khổ sanh tử lưu chuyển, cho nên Phật giáo báo cho chúng ta biết, nếu giải trừ khổ não nên theo quan điểm xuất phát của biết khổ, dùng nghị lực vững vàng phấn khởi phát huy tinh thần tích cực đả phá chấp thiên lệch ngã kiến chỗ phát khởi chủ quan, chuyển thống khổ thành an lạc, chuyển phiền não thành bồ đề, nương theo mở bày tâm lượng, tạo công tác
lợi mình và lợi người, vì chúng sanh phục vụ, nhờ đây ý nghĩa và giá trị sanh mạng
trên sinh hoạt thật sự đầy đủ, như thế mới có thể hoàn thành tích cực của Phật đạo, viên mãn, bình đẳng nhân sanh quan và vũ trụ quan.
Dịch xong ngày 20 tháng 03 năm 2021
Chùa Phật Quang
Trung Tâm sáng tác và dịch thuật.