PHẬT GIÁO VÀ NHÂN SANH
Tác giả: Pháp sư Hiền Đức
Việt dịch: Thích Thắng Hoan
PL2564 – DL 2021

 

MỤC LỤC

*- Lời Người Dịch.
*- Giới Thiệu Ngắn Gọn Tác Giả
I.- ĐỜI THỨ 21 NHÌN LẠI KỶ NIỆM VÀ TRIỂN VỌNG
II.- TƯ TƯỞNG CĂN BẢN CỦA PHẬT GIÁO
III.- ĐẶC SẮC CỦA PHẬT GIÁO
IV.- SO SÁNHPHẬT GIÁO CÙNG TÔNG GIÁO
V.- KHOA HỌC CÙNG PHẬT HỌC
VI.- SO SÁNH PHẬT HỌC CÙNG TRIẾT HỌC
VII.- BƯỚC THỨ NHẤT CỦA PHẬT HỌC THẬT TIỂN
VIII.- GIỚI HỘI TÙY BÚT
IX.- ĐẠI HỘI TRAI GIỚI TRÍCH TỪNG ĐIỂM
X.- MỤC ĐÍCH TỔ CHỨC ĐẠI HỘI TRAI GIỚI
XI.- SINH HOẠT VÀ Ý NGHĨA CỦA TĂNG ĐOÀN
XII.- SÂN KHUỂ CÙNG NHẪN NHỤC
XII.- BA TRÀO LƯU HỆ PHÁI TỊNH ĐỘ CỦA TRUNG QUỐC
XIV.-NGHĨA KẾT HẠ AN CƯ
XV.- LUẬN VỀ TÂM TÁNHCỦA PHẬT GIÁO
XVI.-PHẬT GIÁO VÀ NHÂN SANH

***

LỜI NGƯỜI DỊCH

Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa Trung Hoa, tại Mỹ Quốc, tìm xin một số sách Phật đem về đọc để giải trí trong lúc tuổi già (đã 94 tuổi), hai người trong chùa mang ra cho tôi một thùng giấy cho tôi chọn lựa, họ nói đây là những sách cho không ông cứ tự nhiên, trong khi tìm kiếm, bổng nhiên tôi gặp một quyển sách nhan đề là “Phật Giáo Dữ Nhân Sanh, liền mở ra đọc tổng quát tại chỗ về mục lục và lướt qua tiểu sử của tác giả liền tò mò xin về đọc.

Về đến chùa, tôi đọc kỹ toàn bộ liền nhận thấy quyển sách này có giá trị vô cùng trên lãnh vực tư liệu nghiên cứu và học hỏi. Nội dung tác phẩm này tác giả giới thiệu tổng quát tư tưởng của các triết học, khoa học, tông giáo học, xã hội học….. nhất định trong đó có Phật học đóng vai chủ yếu toàn bộ trên lãnh vực thẩm định.

Riêng về Phật giáo,tác giả giới thiệu những đặc điểm về môn phái và cương lĩnh về tổ chức, vân vân, và còn nữa ở đây không giới thiệu hết chỉ mong các học giả đọc trực tiếp thì rõ hơn, nhưng ở đây tác phẩm có giá trị như thế rất tiếc không thấy phổ biến rộng, lại nằm yên trong thư tịch, bị hạn cuộc trong ngôn ngữ Trung Quốc, không thấy ngôn ngữ khác. Tôi liền dịch sang tiếng nước tôi là tiếng Việt Nam để phổ biến tư tưởng của tác giả, việc dịch tác phẩm này của Pháp Sư tôi nghĩ ngài không trách cứ vì việc làm đây của tôi đúng ý của ngài là hoằng pháp. Tôi dịch tác phẩm của ngài nhằm mục đích thiện nguyện mà không phải thương mãi, xin ngài thông cảm cho.

Tôi dịch theo cú pháp tiếng Việt Nam, không theo cú pháp Trung Quốc, có những danh từ chuyên môn tôi phải giải thích thêm cho rõ nghĩa đễ người đọc dễ hiểu, những lời giải thích của tôi nằm nghiên trong dấu (…….) này.

Một lần nữa, nhằm mục đích làm phong phú cho nền văn học Phật giáo Việt Nam và cũng làm tư liệu dồi dào và dễ dàng cho việc nghiên cứu Phật học. Lời dịch của tôi có chỗ nào sai sót xin những vị cao minh chỉ bảo cho để tôi bổ túc cho được hoàn chỉnh.

Người dịch Thích Thắng Hoan.


GIỚI THIỆU NGẮN GỌN TÁC GIẢ

Pháp sư Hiền Đức, sanh năm 1929, nơi huyện Hải Khương, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, năm 17 tuổi thế phát xuất gia. Năm 1949 tại Thiền Tự Đại Tự Sơn Bảo Liên ngài cầu thọ Tam Đàn Đại Giới. Sau đó ngài theo lão Pháp sư Hải Nhơn học tập Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Duy Ma Cật, Kinh Kim Cang và các kinh luận của Giáo Quán Cương Tông. Sau đó ngài lại theo lão Pháp sư Mẫn Trí học tập Nhân Minh;đến năm 58, ngài nhờ Uyển Trưởng Hương Cảng Đông Liên Giác Uyển và cư sĩ Lâm Lăng Chơn giới thiệu đến Đại Học Phật Giáo Kinh Đô Nhật Bổn, ở đây ngài học 4 năm, đến năm 62 ngài tốt nghiệp. Sau khi tốt nghiệp, ngài chuyển vào Viện Nghiên Cứu Long Cốc Đại Học Kinh Đô, ở đây, ngài tu học Khóa Trình Thạc Sĩ, nghiên cứu tư tưởng Duy Thức Học; hai năm sau, ngài lại chuyển lên Đông Kinh đích thân thành lập Viện Nghiên Cứu Đại Học, khóa trình học Bác sĩ 3 năm, chuyên nghiên cứu tư tưởng Hoa Nghiêm. Năm 1968, ngài được mời vào Thư Viện Năng Nhân ở Hương Cảng (Học Viện trên chuyên ngành Phật Giáo), đảm nhiệm dạy học Phật Giáo, Phật Giáo Sử và khoa Nhật Văn.

Năm 74, đảm trách chủ nhiệm hệ thống triết học, năm 86, thăng cấp Viện Trưởng

Thư Viện Năng Nhơn, năm 1991 ngài hưu trí di cư về Gia Nã Đại. Đến năm 94, ngài đầu tiên đảm nhiệm Uyển Trưởng Ôn Ca Hoa Đông Liên Giác Uyển ở Gia Nã Đại (Canada).


I.- ĐỜI THỨ 21 NHÌN LẠI KỶ NIỆM VÀ TRIỂN VỌNG

Từ trong thời gian đếm ngược cho đến cuối cùng, đầu tiên khai sanh mở mang nhân loại cho đến bước vào thế kỷ 21, dấu ấn duy nhất của tánh chất lịch sử đây, khiến nhân tâm xen lẫn chấp trước, mở cửa đầu tiên thúc đẩy côn trùng ngàn năm, có phải không? Hay là ánh sáng tốt đẹp vừa đến? Đây là tâm tình đeo mang sự chấp trước hoảng sợ và mong mỏi, cho nên tạo thành sự mâu thuẫn do bởi mong đợi sanh ra.

Căn cứ lý thuyết Côn trùng ngàn năm có thể sợ, khi nó một khi bạo phát, có thể dẫn đến phi cơ rơi hỏng, tàu chở dầu chìm đắm, tài liệu điện não thay đổi, công xưởng sửa đổi bị phá hủy, ngân hàng tự động khóa chặt hệ thống, cho đến dẫn phát hạt nhân đại chiến thế giới vân vân.

Côn trùng ngàn năm xuất hiện, theo truyền thuyết đã có các thứ khủng bố; các quốc gia trên thế giới vì mục đích phòng bị để ngăn ngừa côn trùng,vận dụng rất nhiều tiền bạc và nhân công đi làm các thứ biện pháp; đến đêm 30 tết ngày đầu năm, các ngân hàng, thẻ tín dụng, ngành bưu điện gởi tiền tiết kiệm, phi hành hàng không, hải quan hải khẩu, trạm hạt điện vân vân, nhất luật tạm thời đình chỉ sử dụng; nhà kho chứa máu của y viện ra sức dự trữ, ngoại trừ bị thương cầu cứu gấp, nhà giải phẩu cũng cần tạm đình chỉ; lại kêu gọi dân chúng, tối đêm giao thừa 30 tết tạm sử dụng tất cả phẩm vật tiêu dùng có tánh chất hóa học hiện đại, như điện não, thẻ tín dụng, thang điện, điện thoại bên ngoài; lại cần dự trữ nhiều bình nước, ống điện và lương thực vân vân, để đề phòng không may.

Do trên có thể biết, vì chờ hai ngàn năm giáng lâm, trong cuộc vui tưng bừng, vì buồn lo và hoảng sợ,cho nên phát khởi khẩn trương. Thật ra có phải Côn trùng ngàn năm có thể do sự chấp trước giáng lâm năm hai ngàn mà xuất hiện phải không? Nó mang đến cung cấp cho nhân loại những điều ảnh hưởng lợi hại như thế phải không? Nó đến, nói cho cùng là tạo thành thế lực phải không? Dân chúng ở chợ nhỏ, phần đông bảo sao hay vậy và tò mò mà không ngăn ngừa, trong đó chờ đợi mà không thấy gì rồi hoàn toàn cũng vượt qua.

Thế kỷ cũ và mới thay nhau, thuyết minh chính thời gian hoàn toàn không dừng lại, địa cầu tạo tác dời đổi, từ trong vỏ xa xưa lột xác biến ra bộ mặt mới, từ hiện tượng bỏ cũ đổi mới nầy, Phật giáo gọi là Vô thường chuyển biến.

Vô thường, bao phủ toàn bộ đối với thế giới, nó chi phối thời gian cuối cùng rồi vận chuyển trở lại ban đầu; nó khống chế biến hóa sanh trụ dị diệt, thành trụ hoại không, thay cũ đổi mới, sanh già bệnh chết vân vân, có thể thấy quy luật tự nhiên của thế lực Vô Thường, không chỉ chi phối tất cả Thời và Không, thế lực này đều trói buộc tự do của thân tâm chúng ta, có thể biết nó là cái gì phạm vi rộng và vô địch! Cho nên chúng ta cần yếu nắm lấy được tự do giải thoát chân chánh của thân tâm thì không phải không thể vượt ra khỏi vô thường.

Khởi đầu thế kỷ 21, chúng ta sanh tồn cho đến thời đại này, tổng cộng khó tránh nhớ lại quá khứ, cảm xúc triển vọng vị lai, lịch sử quá khứ tố cáo cho chúng ta: Thời kỳ đầu thế kỷ 20, chiến tranh Trung Nhật bạo phát hình thành đại chiến thế giới, chiến tranh nam bắc Việt Nam, chiến tranh nam bắc Hàn Quốc, cách mạng nội chiếnTrung Quốc, từ đó nó phát sanh phong trào chiến tranh du kích tràn khắp Ấ châu; tai họa khắp các nơi trên thế giới, nào thủy tai, hỏa tai, phong tai, động đất, đói khát vân vân, địa chấn động phát sanh liên tục không ngừng, toàn bộ khắp nơi trên thế giới không có chỗ nào được an lạc, nhân dân thường ở trong nước ngập lục, hỏa thiêu chịu đựng đau đớn, đời sống quá khổ nạn, không chịu nỗi.

Từ thế kỷ 20, cho đến 60 năm sau, không thể phủ nhận, khoa học kỹ thuật giúp cho nhân loại, nơi trên hành trình ăn, mặc, ở, đều phát khởi cải thiện nên ảnh hưởng rất lớn, đặc biệt cuối thế kỷ 20, cao trào khoa học kỷ thuật tiến vùn vụt, xã hội nhân loại, càng tiến vào chỗ gọi là: điện tử truyền môi giới, điện tử bưu kiện, hệ thống ngân hàng, hệ thống mua sắm vật liệu, hệ thống y liệu, hệ thống trợ giúp học tập lẫn nhau, vân vân, đây rõ ràng đều hoàn toàn là trí tuệ của nhân loại, lý tưởng tiến bộ đã to lớn.

Khoa học kỷ thuật phát triển, tranh thủ cao độ văn minh vật chất là nhu yếu và nguyện vọng của nhân loại sinh hoạt cộng đồng, chẳng qua, thế giới hòa bình, nhân dân an lạc, đất nưóc kết tường an hòa, không tai không nạn, mới là cứu cánh an ổn trên tinh thần của nhân loại; sở dĩ chúng ta ở đồng thời khoa học kỷ thuật phát triển cao độ, quyết định không thể quên cải thiện các tham sân si và tư dục trong nội tâm của con người, chỉ có khống chế các tư dục và tham sân si trong nội tâm của con người, mới có thể bảo đảm hạnh phúc chân chánh và hoà bình thật sự của nhân loại trên thế giới!


II.- TƯ TƯỞNG CĂN BẢN CỦA PHẬT GIÁO

1. Phật Pháp Cùng Cái Không Của Bát Nhã.

Đức Thích Tôn 49 năm thuyết pháp, kết tập thành ba tạng mười hai bộ kinh, tại đây, trong thánh điển phát triển rộng lớn, công trình giáo hóa của Phật, nguyên tắc cộng đồng là như thế nào? Đây là trên phương diện nghiên cứu Phật pháp, không phải đầu tiên vấn đề cơ bản không thể nhận thức, như đã có thể tìm được đáp án triệt đễ vấn đề đây, không trở ngại trong việc tìm đến chỗ ở tư tưởng căn bản của Phật giáo. Từ trong Phật giáo, xem trên tổ chức giáo nghĩa gồm có: đại, tiểu, tánh, tướng, hiển, mật, huyền, thật, thì cảm thấy tương đương phức tạp, kỳ thật không phải như vậy, chúng ta chỉ cần để tâm nhận xét tinh tế, nơi thời đại Phật Đà giáo thuyết của ngài bằng cách đọc tụng (không có chữ); nhiều tổ sư các Tông kiến lập tư tưởng và truyền thừa, lại có thể phát hiện, Phật giáo toàn bộ hệ thống, đều không lìa khỏi Bát Nhã Không, có thể nói tất cả Tiểu Thừa Đại Thừa đều chọn Bát Nhã Không gắn bó khai triển và kiến lập cho đến nay; chỉ mỗi mỗi kiến lập chỗ đứng không đồng, đưa đến giảng giải phương tiện đều khác xu hướng, nhưng cần nói chỗ quy về của nó, không ngoài đều muốn hiển bày là Bát Nhã Chân Không mà thôi.

2. Bát Nhã Không là ba Thừa cộng chứng.

Bát Nhã Không, cũng gọi là Niết Bàn, Pháp Tánh, Đệ Nhất Nghĩa Không, vân vân. Bát Nhã đã gọi là Niết Bàn, Niết Bàn tức là pháp Tánh Không; Niết Bàn có chỗ sai biệt là tiểu thừa và đại thừa.

Tiểu Thừa Niết Bàn là ngôi vị chưa có khả năng thông suốt vạn pháp duy tâm, mê không mang tịch (mê tánh không, mờ mịt niết bàn), chỉ thiên nơi Không mà không thể từ nơi Không xuất hiện ra Có để rộng làm lợi ích cho hữu tình. Đại Thừa thì công đức trí tuệ sung túc, song song vận dụng trí tuệ Bát Nhã, không trụ nơi sanh tử mà an trụ nơi giải thoát; dùng tâm đại bi, không trụ nơi Niết Bàn mà vẫn làm lợi ích cho quần sanh. Niết Bàn tuy có đại thừa tiểu thừa không đồng, trọng yếu ở chỗ đều dùng thánh trí đoạn trừ phiền não, mà hiện chứng cảnh giới giải thoát, giải thoát thì không có bất đồng, sở dĩ gọi thánh giả ba thừa, đương nhiên dùng trí vô lậu khi hiện chứng pháp tánh Niết Bàn Vô Vi, tất cùng tương ứng tánh Không, tất cả hữu tướng đều tận diệt, như kinh nói: thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức,vô nhãn……(cho nên trong cái không, không có sắc, không có thọ, không có tưởng, hành, thức, không có nhãn…..). Bồ tát vì dùng vô sở đắc (không chỗ chứng đắc) mới có thể chứng vào Niết Bàn cứu cánh, đúng như trong kinh nói: Vì dùng vô sở đắc, mà đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (vì dùng không chỗ chứng đắc mà chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác). Cũng như kinh Kim Cang nói: Ta ở nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, cho đến không có chút pháp có thể chứng đắc gọi là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”. Sở dĩ cái Không của Bát Nhã thì ba Thừa đều chứng, là nghĩa chung của tất cả Phật Pháp, cho đến Vô Thượng Bồ Đề cũng chính là cái Không cứu cánh vô sở đắc của Bát Nhã; nhân và pháp đầy đủ cả hai vô sở đắc của cái Không. Chẳng qua nhất định phải tiến lên giải thoát một bước, vô sở đắc đây chẳng phải là Không là cái động của đoạn diệt của vô sở đắc, mà chính là vô sở đắc để đắc, đắc cái vô sở đắc của không đắc, đều có diệu hữu Chân Không, diệu hữu chân không của vô sở đắc. Sở dĩ Phật giáo nói cái Không Bát Nhã của vô sở đắc là thông suốt chân lý mở bày chỗ huyền thật của tất cả đại thừa và tiểu thừa, là người học Phật giáo chỗ muốn đạt đến làm mục đích chân lý đó có thể cân nhắc chân ngụy của tất cả giáo điển, cũng có thể dùng làm phân biệt lời nói và hành động của đệ tử Phật. Phàm là Chân Lý cùng Bát Nhã Không thích ứng, đều có thể nói là Phật thuyết, bằng không thì cùng trái nghịch với KhôngTướng Bát Nhã, chính là nói được nhưng lại động nghe, làm được lại xuất sắc,cũng đều không tránh khỏi lạc nơi ngoại đạo tà quỷ. Nhân đây nên biết, sở dĩ Phật pháp khác nơi thông thường tông giáo tà thuyết, là hoàn toàn chung quy thuộc loại Bát Nhã Không này, làm chỗ nương tựa tối cao khuôn mẫu, nắm chắc chánh trí không mê tín thần quyền, không tôn sùng nghề kỳ lạ, chỉ chọn thực hành trung chánh bình đẳng thực sự, mong cầu đạt đếnNiết Bàn cảnh giới giải thoát của nhân sanh. Cho nên muốn tham khảo và phụng hành Phật pháp, tất nhiên đối với chân lý của Bát Nhã Không phải hiểu rõ, thời khắc tồn tại trong tâm, vâng làm tiêu chuẩn, mới không thấy biết phàm tục tà kiến lẫn lộn.

3. Bát Nhã Không cùng Duyên Khởi.

Trong Luận Kệ nói:  Vì dùng nghĩa Có và Không, tất cả pháp được thành là Có, nếu không có nghĩa Không, tất cả thì không thành là không Có. Có thể thấy tất cả vạn hữu đều nương nơi Không mà thành. Cũng có thể nói (Không) là bản thể của hiện tượng vạn hữu vũ trụ. (Duyên Khởi) là hiện tượng vạn hữu đều nương nơi duyên khởi để hiện khởi. Không và Duyên Khởi là cả hai quan hệ trên bản thể cùng hiện tượng. Chỗ gọi hiện tượng nương nơi bản thể để duyên khởi, lìa bản thể thì hiện tượng không thể thành, cũng như nương nơi nước để thành sóng, lìa nước thì không thể có sóng.

Nhật Bản Công Học Bác Sĩ Sơn Bổn Dương Nhất nói rằng: (Không) của Phật giáo nói, là nguyên lý căn bản của sự cấu thành tất cả vũ trụ, là căn cứ nơi thực chứng trên hạt tử chuyển động của khoa học nghiên cứu. Có thể biết Không là căn nguyên của vạn hữu, không chỉ là luận lý của tư tưởng Phật giáo, mà tại nơi trong khoa học của Nhật Bản ngày nay phát hiện, cũng chứng thật (Không) là nguyên lý căn bản để cấu thành vũ trụ vạn hữu, tuy nhiên khoa học phát hiện chứng thật (Không) đây là một thứ vật chất nông cạn, được phân tích chuyển biến thành không, nhưng nếu mượn dùng lý Không trên cho là một thứ vật chất nông cạn thì đề cử thí dụ cũng không được.

4. Tánh đặc thù của Bát Nhã Không.

1, Bát Nhã Chân Không đều có tự tồn làm nhân quả: như Tâm Kinh nói: Sắc không khác Không, Không không khác Sắc, Không tức là Sắc, Sắc tức là Không, lẫn nhau làm nhân quả, đặc tánh vốn đồng một thể.

2, Đều có tánh phổ biến không chỗ nào không có mặt: căn cứ nơi thể mà nói (Không) biến khắp vũ trụ, không chỗ nào không có mặt, là Thể chỗ nương của vạn vật. Căn cứ nơi Dụng mà nói, vạn vật vũ trụ không một thứ nào không ở trong lực của (Không) thúc đẩy lưu chuyển biến hóa.

3, Không là tánh vĩnh hằng không sanh không diệt không tăng không giảm: hiện tượng vạn hữu nương nơi Không để duyên khởi, trên hình dạng, tuy có thiên biến vạn hóa tạm phát khởi liền tiêu diệt,vân vân,nhưng thể căn bản của nó nương tựa là vượt qua sự sanh diệt tăng giảm, đến đi vĩnh hằng bất biến không khác của đoạn thường, như nước biển khởi sóng, tuy khác biệt có núi cao, nhưng tàu thuyền chuyên chở lương thực có chỗ để ẩn núp và có chỗ để khởi hành,nhưng tánh ướt của nước luôn luôn không cải biến.

4, Đều có tánh liên tục không giới hạn: (Không), ở nơi thời gian kết thúc thì Không cũng sau cùng, ở nơi không gian giới hạn thì Không cũng sau cùng, là tánh liên tục của pháp tắc nhân quả duyên khởi không cùng tận.

5, Tánh hoàn chỉnh đầy đủ viên dung vô ngại: Tánh Không viên dung vô ngại, có thể kiến lập vô lượng là một, một là vô lượng, tất cả tức là một, một tức là tất cả, hiện đại trong nhỏ, nhỏ trong hiện đại, một đầu sợi lông hiện cõi Bảo Vương, ngồi trong vi trần chuyển đại pháp luân, hoàn chỉnh tánh sự sự vô ngại,vân vân.

Do Bát Nhã Không, đầy đủ tánh đặc thù ở trên, cho nên có thể cho là bản thể của vạn vật.

5. Không cùng Trung Đạo.

Trung Đạolà lìa sanh diệt vân vân là lìa tà kiến cực đoan của hai bên, không nghiêng nơi bất cứ khái niệm hoặc phương pháp nào của một bên, gọi là trung đạo. Trung đạo là lập trường căn bản của Phật giáo đại thừa và tiểu thừa cùng nương tựa nơi trong Phật giáo, vâng theo coi trọng ý nghĩa của nó; ý nghĩa của nó mặc dù đặc biệt có sâu cạn, nhưng các Tông dùng lời nói này biểu thị giáo lý nồng cốt của họ, nhất trí làm gương mẫu, đặc biệt là trong đại thừa phái quan niệm dùng Bát Nhã Không làm căn bản đặc thù của nhận thức, dùng lìa tất cả phân biệt chấp trước để đạt đến vô sở đắc mới là Trung Đạo. Như Trung Luận của Bồ Tát Long Thọ nói: “Không sanh cũng không diệt, không thường cũng không đoạn, không một cũng không khác, không đến cũng không đi”. Ý kiến là nói, vũ trụ vạn pháp, đều do nhân duyên kết tụ và phân tán mà sanh diệt, vân vân; hiện tượng phát sanh liền chấp giống như chấp sanh diệt, vân vân, nghiêng lệch một bên thì thuộc về cực đoan và tà chấp, cho nên Bồ Tát Long Thọ dùng chữ (Bất), che giấu thế tục và các thứ cực đoan tà chấp, vân vân, để nói rõ chân lý Không, chỗ gọi là phá tà tức hiển chánh, tà chấp vân vân đã bị càn quét, thì chân lý Không bổng nhiên hiển lộ sáng sủa, đây gọi là Trung Đạo. Trung Luận lại nói: “Nhân duyên nơi sanh ra pháp, tôi nói tức là không, cũng gọi là giả danh, cũng là nghĩa trung đạo.” Ý kiến là hiển bày Trung Đạo, tuy là không phải Không, không phải Có che giấu hai bên sai khiến, nhưng có khác ở chỗ cả hai không ly khai hai bên, đó chính là tức không tức có, bao gồm Không và Có cả hai bên đều ở trong Trung Đạo của nó, có thể thấy Không và Có, không cùng Trung Đạo, nhưng cả hai đều có tương tức quan hệ mật thiết không lìa nhau với Trung Đạo. Cũng có thể nói, cả hai che dấu Không và Có, mà lại thống nhất Không và Có ở trong Trung Đạo của nó, đó chính là cứu cánh nghĩa thứ nhất của Bát Nhã Không.

Cho nên Bát Nhã Không là khái niệm hoặc phương pháp của Đại Thừa và Tiểu Thừa cùng nương tựa, như Tam Pháp Ấn của Tiểu Thừa, chính thật là tương tức của Đại Thừa, là pháp giới duyên khởi của kinh Hoa Nghiêm, pháp môn không hai của Duy Ma, là tất cả Sự cứu cánh kiên cố của Thủ Lăng Nghiêm, là thật tướng các pháp của Pháp Hoa, là tánh thường trụ của Niết Bàn, vân vân, tất cả đều nương nơi Không để kiến lập.

Ngoài đây, như Trung Luận của Long Thọ, Đại Trí Độ Luận, Bách Dụ của Đề Bà, Nhiếp Đại Thừa Luận của Vô Trước, Du Già Luận của Di Lặc, Phật Tánh Luận của Thế Thân, Đại Thừa Khởi Tín Luận của Mã Minh và Minh Tâm Kiến Tánh và Bất Lập Văn Tự Giáo Ngoại Biệt Truyền của Thiền Tông, Chỉ Quán của Thiên Thai, Thật Tướng Niệm Phật của Tịnh Độ, vân vân, khảo sát căn bản chỗ nương tựa của chúng, tất cả đều nương nơi lý Không làm thể để kiến lập, chỉ theo khía cạnh phương tiện nên nhận thấy có sự bất đồng; hoặc đứng lập trường tiêu cực đi phủ định hai chấp ngã pháp, hoặc theo phương diện tích cực đi chỉ định cái Không viên dung vô ngại mà thôi. Do đây, có thể biết Bát Nhã Không, ở trên tư tưởng Phật giáo là chiếm địa vị trọng yếu như thế nào!


III.- ĐẶC SẮC CỦA PHẬT GIÁO

Phật Giáo hơn hai ngàn năm trước, đo đức Phật Thích Ca Mâu Ni sáng lập, ngài sẽ làm thiên chủ giống như Cơ Đốc, Hồi Giáo, đồng xưng là Tam Đại Tông Giáo, kỳ thật Phật Giáo ở trong các Tông Giáo, vẫn hiển bày được đặc sắc độc đáo phi thường so cùng họ không giống, hiện đề cử sơ lược số điểm đặc sắc được trình bày như dưới đây:

(1)- Trên thế giới, các đại Tông Giáo, đều tin tưởng phụng sự thần linh, cho thần linh là kẻ sáng tạo thế giới là chủ tể của nhân loại và họa phước là do họ quyết định. Nhưng Phật Giáo vẫn cho là vũ trụ vạn hữu, sơn hà đại địa, sanh mạng nhân loại, tội phước nghèo giàu, khổ vui quý tiện, vân vân, đều do chúng sanh tự tạo lấy nghiệp lực thiện ác rồi tự chiêu cảm, cho nên gọi là tự tác tự thọ (tự làm tự chịu), đều không phải bất kỳ thần lực nào có thể sáng tạo và chủ tể.

(2)- Phật nói vạn hữu sự vật không luận hiện tượng vật chất khách quan và hiện tượng tinh thần chủ quan đều ở trong. Đây có nên kia có, đây không nên kia không, đây sanh nên kia sanh, đây diệt nên kia diệt, sanh diệt biến hóa mà vận hành. Con mắt chúng ta trước có thể thấy đến, tiếp xúc đến tất cả, chẳng qua chỉ là tổng số của một biến hóa, nhân vì chu vi của sự vật, ở phần giây không ngừng, sát na tụ hội lại tách ra, tách ra lại tổng hợp tình huống ảnh hưởng lẫn nhau, so sánh như sau, nhân dẫn phát xuất hiện vô hạn để thành quả, quả trở lại làm nhân quan hệ liên tục, thứ hỗ tương đây nương nơi hiện tượng nhân quả để tồn tại và xuất hiện, trên Phật pháp gọi là “Duyên Khởi Chỗ Sanh Ra Pháp” hoăc gọi giản lược “Pháp Duyên Khởi”. Phàm thuộc “Pháp Duyên Khởi”, tất nhiên phải chịu “Duyên Tụ thì Sanh, Duyên Tán thì Diệt” đây là nguyên tắc chi phối, sở dĩ không dừng nơi chỗ phức tạp là nhân nhân quả quả trước sau tương tục trong sanh diệt lưu chuyển, biến hóa không cùng, nhân đây thế giới của chúng ta cư trụ, có bãi bể nương dâu, vì bãi bể nương dâu mới trở nên thành trụ hoại không. Sanh mạng của chúng ta cũng không ngoại lệ, đứng trên sanh lý thì có vấn đề thay cũ đổi mới của sanh, già, bệnh, chết; trên tâm lý thì có sanh, trụ, dị, diệt của biến đổi ngấm ngầm, đây đều nói rõ ràng thế giới và thân tâm của chúng ta đều bị chi phối mãi bởi phép tắc Duyên Khởi, không có thật thể bất biến vĩnh hằng, mà lại đều có vô thường, giả có, tạm có. Chính như ((Kinh Kim Cang)) nói: “Phàm chỗ có tướng, đều là hư vọng”.Đây là Phật Đà từ trong chỗ thể chứng lưu lộ ra lời nói chân thật, tuyệt đối không có hư vọng phù phiếm phô trương. Chúng ta thấy rõ đạo lý vô thường của Tánh Không Duyên Khởi, không có vấn đề sanh khởi rồi bỏ không mà không phân biệt chấp trước, nhưng không vì tất cả hiện tượng bị bó buộc chấp trước mà chính bản thân của tất cả hiện tượng bị bó buộc chấp trước đó vẫn hoàn toàn giải thoát tự tại, đây là Phật Đà trong chỗ giác ngộ phát hiện và khai thị chân lý cho chúng ta, cũng là đặc điểm mà các học thuyết, các tông giáo khác chỗ chưa bao giờ đề cập đến.

(3)- Đức Thích tôn sau khi thấy sao mai mọc liền thành chánh đẳng chánh giác, đã cảm thán liền nói: “Lạ thay lạ thay! Đại địa chúng sanh đều có đức tướng trí tuệ của Như Lai, nhưng nguyên nhân vì vọng tưởng chấp trước mà không thể chứng đắc, nếu trừ vọng tưởng thì tất cả trí, tự nhiên trí đều chứng đắc hiện tiền”, cho nên sau khi Phật thành đạo, khắp bố cáo cho đại địa chúng sanh tuyên ngôn rằng: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, phàm có Phật tánh thì ai cũng đều có thể thành Phật đạo. Sở dĩ hiện tại chưa có thể thành Phật, chỉ nguyên nhân là Phật bị phiền não chướng che lấp, nếu có thể dùng sức tu hành,quét sạch thanh tịnh những chướng ngại này, lập tức Phật Đà liền hiện thành. Cho nên Phật Đà phát hiện chân lý “Người người đều có thể thành Phật, là đặc sắc trọng yếu tối thượng của giáo nghĩa Phật Giáo, mà các Tông giáo khác đều không có. Nguyên nhân duy nhất là các Tông Giáo, đều nhận tín đồ làm môn đồ, không luận tín thành tu hành như thế nào, chúng hết sức khả năng chỉ có thể thành môn đồ của Thần, nhưng vĩnh viễn không thể đạt đến địa vị thành Thần.

(4)- Chữ Ái của Phật giáo tức là từ bi. Giúp người khoái lạc gọi “Từ”, cứu người đau khổ gọi “Bi”. Từ bi của Phật giáo là siêu việt không gian và thời gian, nơi không gian, đối tượng từ bi là đối với người khác, không phân biệt thế giới này hay phương hướng khác, trên các chủng loại, không phân biệt nhân loại cao cấp hoặc hạ đẳng động vât, không phân biệt oan gia hoặc thân nhân, nghèo hèn hoặc giàu có, cao quý hoặc hạ tiện, hiền ngu nam nữ già trẻ, vân vân, đều có thể xem là nội tâm chúng sanh, đối xử bình đẳng, ở nơi thời gian không hạn định nơi quá khứ, hiện tại hoặc vị lai, mà là đến tận vị lai lâu xa không dừng biên giới, tùy theo khả năng tự lực, đáp ứng sở cầu của chúng sanh, duy nhất xem thương yêu đồng nhau, bình đẳng, chỗ san bằng thống khổ để cùng vui, thứ từ bi bình đẳng đây rộng lớn không có phân biệt, mới có thể gọi sâu xa là bác ái, cùng chữ Ái của các Tông giáo khác chỗ gọi không giống nhau, thật là có sai biệt sâu xa bất đồng như trời đất.

Chúng ta nếu có thể nhận thức Phật giáo mấy điểm ở trên, tự nhiên sự nhận thức ở trên tăng thêm thâm sâu chưa từng có đối với các Tông giáo, chính họ không thể lãnh hội được sâu xa và biện biệt được tỏ tường.


IV.- SO SÁNH PHẬT GIÁO CÙNG TÔNG GIÁO

Tiên sinh Tôn Trung Sơn từng nói: “Phật Giáo không phải tông giáo, triết học, khoa học, mà bổ khuyết chỗ không đủ của tông giáo, triết học, khoa học. Do đây danh ngôn, dẫn khởi chúng ta đối với vấn đề Phật Giáo, vân vân, không thể nghiên cứu thâm thúy nếu không cải tiến một bước. Dưới đây lược thuật sự đồng khác của Phật Giáo cùng Tông Giáo:

1, Sao gọi Tông Giáo?

Tông Giáo ban sơ ý nghĩa nguyên thỉ, là chỉ cho đối tượng oai lực hoặc hiện tượng thần bí tự nhiên, xem họ cho là chủ tể tuyệt đối, mà sanh khởi quan niệm khiếp sợ, thần thánh, tín ngưỡng, quy y, tôn sùng, tiến thêm nữa, tế tự cầu nguyện, lễ bái theo nghi lễ, vân vân, đồng thời định ra giới luật, tín điều, vân vân, liệt vào quy phạm sinh hoạt hằng ngày, để cầu an tâm lập mạng và hướng đến phát triển nhân cách hoàn mỹ. Từ đó trên thế giới, sanh sản các thứ kiểu Tông Giáo bất đồng.

2, Phân loại Tông Giáo.

Tông Giáo trên thế giới, tuy có nhiều thứ không giống nhau, đại khái kiểu của nó có thể riêng biệt quan trọng phân làm hai thứ, tức là Tông Giáo tâm lý cá nhân và Tông Giáo tập đoàn xã hội.

a- Tông Giáo Tâm Lý Cá Nhân: là chỉ cho Tông Giáo riêng của cá nhân tự tín niệm cùng thể nghiệm, không luận nó là hình thái tín ngưỡng hoặc Tông Giáo tổ chức như thế nào, chỉ cần nương tựa cá nhân người khác để kiền thành tín ngưỡng và thể nghiệm thâm thiết mà tích cực hướng về người khác đó để hoằng truyền, tập hợp nhân quần có đầy đủ tín ngưỡng giống nhau, liền trở thành đoàn thể Tông Giáo.

b- Tông Giáo của tập đoàn xã hội: nếu căn cứ nơi lịch sử phát triển Tông Giáo, đại khái có thể phân làm ba thứ, tức là Tông Giáo Nguyên Thỉ, Tông Giáo Quốc Dân và Tông Giáo Thế Giới.

Tông Giáo Nguyên Thỉ: cũng gọi là Tông Giáo Bộ Phái, chỉ cho Tông Giáo của thời đại quá xưa và Tông Giáo Xã Hội chưa khai hoá, như sùng bái tự nhiên, sùng bái tinh linh, sùng bái đồ đằng, sùng bái đồng bóng phù thủy, vân vân.

Tông Giáo Quốc Dân: lại cũng xưng là Tông Giáo Dân Tộc, chỉ hành hoạt nơi dân tộc, nơi quốc gia, vân vân, nhất định Tông Giáo của lãnh vực quốc nội, như Thần Đạo, Thần Xã của Nhật Bản, Ấn Độ Giáo của Ấn Độ, Do Thái Giáo của Israel (Do Thái), Đạo Giáo và Nho giáo của Trung Quốc,đa số cùng chế độ xã hội, phong tục, tập quán của xứ sở địa vức, vân vân, có quan hệ mật thiết với nhau.

Tông Giáo Thế Giới: là do đặc biệt khai sáng Tông Tổ, bao gồm dùng thành tích hoạt động và giáo thuyết làm trung tâm để khai mở Tông Tổ, hình thành giáo lý và kinh điển của quản giáo và thành lập giáo đoàn, giáo pháp của họ là chỗ siêu việt dân tộc, lập trường quốc định, vân vân, dùng toàn thể nhân loại làm trung tâm, đầy đủ có tánh thế giới, tánh phổ biến, ngoại trừ thường muốn dùng tâm ái để giúp xã hội nhân quần mưu cầu phước lợi,nhưng lại thiên về cá nhân thực tiển tu dưỡng tìm sâu tánh chất tâm linh, vân vân, như Phật giáo, Cơ đốc giáo, Hồi giáo, vân vân, loại kiểu Tông Giáo này, đa số tùy theo cá nhân tự do ý chí tiếp nhận tín ngưỡng, mà thuận theo tín điều, nghi lễ, giới luật vân vân của tổ chức. Căn cứ đối tượng tín ngưỡng không giống nhau, có thể đại khái đem Tông Giáo phân làm bốn loại:

a, Đa Thần Giáo: như nơi hậu kỳ xã hội nguyên thỉ, nhân loại phần lớntự nhiên sản sanh tâm lý hoảng sợ hoặc hoan hỷ,đều đem nhật nguyệt tinh tú, mưa gió sấm chớp, núi đá cây cối, sông biển ao hồ, vân vân của đại tự nhiên, đều đem thần thánh hóa để sùng bái, chỗ gọi là sùng bái thần linh, sùng bái tinh linh, sùng bái tổ tiên, sùng bái anh hùng, vân vân, đều cho là đối tượng sùng bái thuộc Đa Thần Giáo.

b, Nhất Thần Giáo: khác hơn đa thần giáomà nói, Tông Giáo chỉ tín ngưỡng duy nhất chân thần, nhận cho là thần sáng tạo thế giới, chính là người chủ tể thế giới, như Do Thái Giáo, Cơ Đốc Giáo, Hồi Giáo, vân vân.

c, Tấn Thần Luận:Tánh chất của nó là Tông Giáo Luận Lý thiên trọng nơi mở mang giải thích triết học luận lý, đem nội bộ hiện tượng vũ trụ, có nguyên lý phép tắc chi phối hiện tượng giới, mà đem nguyên lý phép tắc này thần cách hóa, nhận cho đây là đạo lý thần, biến ra hiện tượng vũ trụ, như Áo Nghĩa Thư của Ấn Độ chỗ chuyên chở“Phạn” ngữ, tức thuộc nơi đạo lý thần, thậm thí phát triển “Phạm” tồn tại trong ngã cá nhân, đây tức là cơ sở tư tưởng “Phạm Ngã nhất như” tối cao của họ.

d, Vô Thần Luận:Cũng gọi là Vô Thần Giáo: chỉ Tông Giáo chưa lập Thần làm đối tượng lễ bái, hoặc trên triết học đích thực là đẳng cấp Duy Vật Luận, là hoàn toàn phủ định sự tồn tại của thần lực.

3, So sánh Tông Giáo cùng Phật Giáo.Trọng tâm của Tông Giáo tư tưởng chỉ có Thần, ý nghĩa của Thần, tuy các tông giáo có chỗ giải thích không giống nhau, theo họ chỉ Thần là chủ sáng tạo vạn vật, là chủ tể của thế giới nhân loại, đều công nhận tôn sùng Thần Giáo.

Phật giáo không mù quáng theo thần quyền, không mê tín dị đoan, nó chính là một thứ triết học lý luận và khoa học cao thâm, chọn lấy thật chứng làm căn cứ, lấy học lý làm nền tảng, lấy triệt ngộ làm ấn chứng, nhiệm vụ tìm cầu thực hiện lý giải tương ưng đạt đến tâm cùng cảnh hợp nhất chỗ sâu sắc, lý trí nhất thể làm tiêu chuẩn, cho nên Phật giáo tuyệt đối phủ nhận Thần tạo tất cả, là chủ tể thế giới nhân loại, tất cả đều quy về Thần, có thuyết chỉ nghe lệnh nơi Thần, đều nhận cho tất cả đều do Thần sáng tạo và chủ tể; đó là hoàn toàn đi ngược lại ý chỉ từ bi của thế giới nhân loại, vã lại còn bị quét sạch chấm dứt hành vi tự tác của nhân loại, rồi đây sẽ bị trả lại bởi nhân quả.

Ngoài đây, Phật giáo cùng các Tông Giáo lại có một thứ trọng yếu là quan điểm bất đồng, tức giống như các Tông Giáo đều nhận là môn đồ tín ngưỡng, thành kính và vững tin như thế nào, hết sức khả năng, nhưng chỉ có thể thành môn đồ lệ thuộc nơi Thần, quyết định không thể đạt đến khả năng thành Thần; nhưng Phật giáo thì không vậy, Phật Đà xem tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh, chủ trương người có Phật Tánh đều có thể thành Phật, chỉ nguyên nhân bị vật dục che lấp, cho nên tự tánh không hiển bày, vì thế, phương pháp tu trì của Phật Giáo chỉ cần bày trừ vọng niệm, liền có thể nguồn gốc tự tâm bổng nhiên sáng tỏ, thấy được bản tánh của mình, chứng được Phật quả. Cho nên Phật Giáo thì cho Tâm là chủ thể, cần thiết chỉ cầu ngược lại những điều nơi chính mình không mượn sức lực giả tạo nơi ngoài. Chỗ gọi là bỏ xuống đồ đao, lập tức thành Phật; không giống như Tông Giáo, tự xem mình rất thấp, tất nhiên phải cầu trợ lực nơi Thần. Đến như tín đồ Phật Giáo tôn sùng lễ bái Phật tượng, chỉ là kính ngưỡng nhân cách vĩ đại trí tuệ và từ bi cả hai cùng vận chuyển của Phật Đà, mà chủ ý tôn sư trọng đạo, không phải thuộc loại có chỗ cầu đảo, đồng thời mượn lễ Phật để tập trung tâm ý, để bài trừ tạp niệm vọng tưởng, cũng là một thứ phương pháp tu hành. Đây có thể là Phật Giáo cùng Tông Giáo không giống nhau về tư tưởng nhận thức.

Chủ Yếu:Phật Giáo là phương pháp khoa học thực dụng, thật chứng, đi phủ định Tông Giáo có giáo nghĩa hẹp hòi, nếu sử dụng luận lý triết học để chứng minh cho Tông Giáo. Cho nên Phật Giáo tuy có thể nói là Tông Giáo, nhưng triết học lý luận của nó thường vượt khỏi phạm vi Tông Giáo. Giống như Tông Giáo chỉ chú trọng tín ngưỡng cùng thực hành, còn Phật giáo thì bao gồm cả chú trọng giải thích cùng chứng minh, vì thế có thể nói Phật học thích hợp giống như Tông Giáo, mà Tông Giáo không thể thâu nhiếp hết được Phật Học, đây là sự thật không thể nghĩ bàn.


V.- PHẬT HỌC CÙNG KHOA HỌC

1, Khoa Học là gì?

Khoa Học là y cứ sự thật đã phát hiện, trải qua phân tích và suy cứu, tìm ra sau khi có quan hệ lý luận, tiến hành lợi dụng và phổ biến, để đề cao tiêu chuẩn sinh hoạt của nhân loại, và vạch trần chân tướng của vũ trụ để học hỏi, đó gọi là khoa học.

2, Khoa Học đối với sự cống hiến của nhân loại.

Khoa Học chỉ chú trọng tinh thần chân thật và chú trọng tác phong nghiên cứu, theo đến cùng thì không phải, trong nghiên cứu còn biện minh chân ngụy, sáng lập thành tích phi thường, chuyên chiếu phá số nhân loại ám muội ngu si ngàn năm trở lại đây. Thí dụ như từ trước một số không thể biết sự vật, ngày nay khoa học hoàn toàn lợi dụng sáng tạo khí dụng theo nhu cầu tất yếu hàng ngày, như trong sinh hoạt nào đèn điện, quạt máy, điện thị, máy sưởi, máy lạnh, vân vân. Lai vãng đến thiên nam địa bắc, không nhu cầu bất kỳ thần thông nào, chỉ cần lên máy bay, nhà ngươi có thể nhắm mắt dưỡng thần, hoặc ngồi ngả ngửa ra, nơi thời gian ăn cơm tha hồ cười cười nói nói, mây mù bao phủ, vượt núi qua biển, không chút phải nhờ sức của đất lại có thể mong muốn đến chỗ mục đích. Lại còn có ngoài ngàn dặm có thể điện đàm với nhau giống như tâm đàm đối diện. Hơn nữa, nguyệt cầu nhận cho là thần bí, ngày nay đã có phi thuyền thái không vào thám hiểm, đá biển sâu không thể lường, trở thành căn cứ của tàu ngầm, đây là tất cả của tất cả, đều hiển bày hoàn toàn rõ ràng của khoa học tại Nhật, trong khoa chi tiến bộ của Tân Nguyệt Dị, mang giúp cống hiến rất to lớn cho nhân loại không thể hoài nghi và phủ nhận.

3, Phân loại khoa học.

Khoa học nghiên cứu phạm vi tuy rộng, nhưng bao quát không ra ngoài khoa học tự nhiên, khoa học ứng dụng và khoa học xã hội có ba thứ.

*-Khoa học tự nhiên: là nghiên cứu tự nhiên vật chất và hiện tượng của nó để học hỏi, họ sử dụng phương pháp diễn dịch và quy nạp, nương nơi sự vật mà đại chúng đã công nhận làm tiền đề đi suy cứu chưa biết, các thứ quan hệ, như thiên văn học, vật lý học, hóa học, động vật học, thực vật học và khoáng vật học, vân vân.

*- Khoa học ứng dụng: là sử dụng hóa học, số học, động vật học, thực vật học vân vân làm đối tượng để nghiên cứu, như ứng dụng hóa học, ứng dụng số học, ứng dụng động vật học, ứng dụng thực vật học, vân vân.

*- Khoa học xã hội:nghiên cứu các thứ hiện tượng trong xã hội, để cầu phát hiện quan hệ nhân quả trong nó để học hỏi, như kinh tế học, chánh trị học, pháp luật học và xã hội giáo dục học, vân vân.

4, Sự đồng khác của Khoa Học cùng Phật Học.Sự thành hoại của địa cầu và toàn bộ thế giới, như là Khoa Học Tự Nhiên, trên nghiên cứu vấn đề lớn nhất là nhà Thiên Văn Học, măc dù họ đã biết sâu hệ thống địa cầu và đại dương, còn vấn đề khác là họ không biết khi tinh cầu một hôm chung cuộc bị hoại diệt, hơn nữa vẫn chưa có thể chỉ định nói ra được địa cầu khi nào hoại diệt và khi nào sanh khởi trở lại, vấn đề đây Khoa Học Gia chưa nghiên cứu đến, đây là một vấn đề cá nhân khó giải quyết.

Quan hệ nơi vấn đề đây, Phật Đà ở hơn hai ngàn năm trước sớm đã dùng chỗ phát hiện của người giải thích rành mạch định luật duyên khởi, địa cầu đã có một thời đoạn diệt, cũng lại có cơ hội thành hình trở lại. Nhân vì tất cả hiện tượng của vũ trụ, bao quát hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần, đều không đoạn diệt, nguyên vì cả hai đều ở trong vận động lưu hành sanh diệt biến hóa.Tất cả hiện tượng trước mắt chúng ta tiếp xúc, chỉ chẳng qua là trong tất cả hiện tượng biến thiên của tổng số. Nhân vì chu vi của sự vật lẫn nhau vận chuyển lẫn nhau ảnh hưởng, mà phát sanh rất nhiều nhân quả quan hệ liên tục. Đây thứ quy luật nhân quả của lẫn nhau phát sanh, nơi trên Phật học gọi là “Nhân duyên chỗ sanh pháp. “Nhân Duyên” tức là điều kiện, hiện tượng vạn hữu bao gồm cả địa cầu ở trong theo nguyên tắc đều không thể ly khai điều kiện nhân duyên để tập hợp mà sanh và điều kiện nhân duyên để biệt ly mà diệt, chỗ chi phối gọi là duyên tụ thì sanh, duyên tán thì diệt. Sở dĩ thế giới và địa cầu đều cần yếu phải trải qua bốn giai đoạn là Thành, Trụ, Hoại, Không, không có đình chỉ cảnh giới và địa cầu đang tuần hoàn đang liên tục. Do đây thấy một điểm, sự nghiên cứu của Khoa Học Tự Nhiên bị rơi vào sau một bước đối với Phật giáo.

Thứ đến, do Khoa Học Ứng Dụng được thấy trên sự xương minh của Nhật Tân Nguyệt Dị, tất cả chúng ta có thể nhờ cậy vạn năng của khoa học cung ứng, khoa học có thể cung ứng đầy đủ nhu cầu của nhân loại, thật ra mặc dù khoa học tiến bộ như thế nào, mà nhân loại mong muốn là vĩnh viễn đối với cảnh tượng không dừng lại, hơn nữa, khoa học thiên trọng nơi văn minh vật chất cho nên phát triển những thứ quái dị, do đó tạo thành vật chất cùng tinh thần hai thứ văn hóa không điều hòa! Cho nên chạy theo đắm trước xương minh khoa học vật chất, thường thường chểnh mảng giá trị tinh thần nội tại. Nhân đây, vật chất càng phát triển, mà nhân loại lại càng cảm đến sanh mạng khô khan, trống trải, bàng hoàng, không quay đầu lại được! Cho nên mặc dù xã hội mỗi ngày phồn thịnh ngàn dặm, mà không thể quét sạch được sự thật, vì thiên trọng sự phát triển của vật chất nhầm giúp đỡ chỗ rạn nứt ưu lo của nhân loại, nhưng rồi lại mang đến chỗ nan giải không thể công bố.

Khoa Học Xã Hội, ý chí cải cách nếp sống xã hội, kiến lập gia viên tiến bộ để khiến thế giới đại đồng làm mục tiêu, nhưng ở đây lại thiên về thời đại văn minh vật chất, người muốn giòng nước chảy ngang không theo nguyên tắc, cố ý lợi riêng mình, không giảng chính nghĩa, mặc dù xã hội có nhiều dụng cụ tân tiến được thiết lập quy tắc để phòng ngừa, cũng khống chế không cho gia đình có các thứ mài dũa, xã hội cùng nhân gian, giả tâm đấu tranh kiện tụng tranh quyền đoạt lợi, tranh chấp bất hòa, mưu đồ hảm hại khủng bố sanh mạng. Thế giới là chủng tộc, lãnh thổ, kinh tế và quyền uy thế lực, khởi binh đánh nhau, khiến sanh linh đồ thán, bi thảm ngàn vạn. Đơn phương dựa vào văn minh vật chất, cũng là giải quyết vấn đề xã hội không được hoàn toàn.

5, Nói kết thúc: Sự quan sát ở trên, thuần là truy cầu phát triển văn minh vật chất của nhân loại mà nổ lực, vẫn chểnh mảng trên tinh thần điều hòa nhu cầu cần thiết. Chỗ gọi là chỗ muốn vô cùng của con người, mà vật chất khả năng cung ứng có giới hạn, do đó nhân loại thành hình vĩnh viễn không ngừng hoàn cảnh đấu tranh dục vọng, cho nên hòa bình chân chánh và an lạc lại cũng càng đến càng xa.

Theo Phật học, nhân loại biết đạo thì an lạc và thế giới hòa bình chân chánh, bao gồm không đơn phương đình chỉ kiến lập nơi trên vật chất để hưởng thọ, mà nơi trên tinh thần an lạc và thuần thiện là tối trọng yếu để an tâm. Cho nên ở nơi Phật giáo trong giáo nghĩa không dứt chỗ nhắc nhở chúng ta, nơi trong hưởng thọ văn minh vật chất, không thể quên bồi dưỡng nội tâm, ngăn ác hướng thiện, dùng cây mâu (cây giáo) để sai sử người khi người hiểu rõ cho là, lợi người tức lợi mình, hại người tức hại mình; nếu như ngược lại tận lực khống chế riêng cả ngã tham ngã sân, ngã si, mới là thế giới hoà bình chân chánh, nhân loại hạnh phúc cứu cánh và cơ sở được lâu dài. Đây mới là Phật Học cùng Khoa Học phân biệt đồng và khác.


VI.- SO SÁNH PHẬT HỌC CÙNG TRIẾT HỌC

(1)- TRIẾT HỌC CÙNG PHẬT PHÁP.

Thông thường nói: Phật Pháp không phải Triết Học, mà lại là Triết Học. Câu nói đây tợ hồ rất lãng phí. Kỳ thật, có thể trả lời rất đơn giản, đáp rằng: tinh thần Phật Pháp không phải Triết Học, mà Phật Pháp luận lý lại bao hàm chỗ có Triết Học, đây chính là không phải Triết Học mà là ý tứ Triết Học.

Triết Học (Philosophy) nguyên là ngôn ngữ Hy Lạp, dịch là ái trí, là để mong cầu tri giác làm xuất phát. Triết Học là vấn đề giải thích tự ngã (Àtman) cùng toàn thể vũ trụ,chú trọng xem tổng hợp để nghiên cứu, mà Khoa Học thì ở nơi vấn đề các cá thể của sự vật, chú trọng xem chỗ phân tích để nghiên cứu, bên này bên kia có chỗ rộng hẹp cạn sâu không đồng nhau.Triết Học thì thuộc về Hình Nhi Thượng Học (Triết Học Vô Hình là triết học trong phạm vi thế giới vô hình), còn Khoa Học thì thuộc về Hình Nhi Hạ Học (Khoa Học Hữu Hình là khoa học vật chất phạm vi có hình tướng).

Triết Học đông tây, tuy đều nghiên cứu vượt qua vấn đề Hình Nhi Thượng của hiện thật làm mục đích, chỉ Triết Học tây phương thiên trọng nơi cầu tri giác mà giải thích, nhưng phải thuyết minh phù hợp với La Tập mới được, đây thuộc Triết Học Tư Biện. Nhưng Triết Học đông phương ở nơi cầu thực hành rồi sau mới giải thích, tất cả phải là thể nghiệm mới được, đây thuộc về Triết Học ThựcTiển, lại cũng gọi là Triết Học Thật Chứng.

(2)- PHẠM VI CỦA TRIẾT HỌC NGHIÊN CỨU.

Đối tượng của Triết Học Nghiên Cứu, phạm vi của nó đại để có ba:

  1. Vấn đề tự nhiên,
  2. Vấn đề tri thức,
  3. Vấn đề nhân sanh.

Trong vấn đề tự nhiên, không lìa duy tâm, duy vật, duy thần.Trong vấn đề tri thức không ngoài lý tánh cùng kinh nghiệm. Trong vấn đề nhân sanh, không ra ngoài giá trị quán niệm trong sanh hoạt hiện thật. Cho nên Trong Triết Học Tự Nhiên bao quát BảnThể Luận cùng Vũ Trụ Luận. Trong Triết Học Tri Thức, bao quát Nhận Thức Luận cùng La Tập Học. Trong triết học nhân sanh bao quát Giá Trị Luận cùng Xã Hội Học.

Trong Triết Học Tự Nhiên, Bản Thể Luận (Ontology) là nghiên cứu bản tánh cuối cùng của thật tại, tức là nguyên tắc sau cùng của vật chất để học. Á Lý Tư cho đức hạnh hàm nghĩa có nguồn gốc, đây thật gọi là Hình Nhi Thượng Học, nó nghiên cứu chỗ thông suốt là bản thể của vạn hữu.

Vũ Trụ Luận (Cosmology) cũng là một bộ phận của Hình Nhi Thượng Học, dùng thế giới làm một tổng thể của hệ thống; mà luận nàynguyên lý căn bản của nó chính là Nguyên Tử Luận, Tấn Thần Luận, mục đích của luận là Cơ Giới Luận, vân vân, và các biệt phái khác nữa.

Trong Triết Học Tri Thức có Nhận Thức Luận (Epistemology) là nghiên cứu khởi nguyên của tri thức, bản chất và hiệu lực vân vân của nó. Nhận thức trên Tâm Lý Học, nghĩa rộng là chỉ lịch trình tâm lý cùng cảm tình của sự hiển bày rất xuất sắc, tức là cảm giác, tri giác, tưởng tượng, tư duy, vân vân. Nếu ở trên nghĩa chật hẹp, thì chỉ trạng thái đương thời của cảm biết đối tượng,vân vân. Nếu ở nơi nhận thức triết học thì bao gồm có tri thức tác dụng phán đoán.

La Tập Học (Logic) lấy tư tưởng làm đối tượng nghiên cứu, tức là Luận Lý Học, hoặc Xưng Biện Học. Thông thường phần nguyên lý luận và phương pháp luận, ban đầu ở nơi Á Lý Tư Đa Đức, gần đây lại có Thật Tiển Luận Lý và Hình Thức Luận Lý.

Giá Trị Luận (Theory of Worth) thấy chỗ từ triết học mà luận giá trị, tức do Ý Thức chuẩn bị đầyđủ một thứ lý tưởng hoặc nhu cầu cần yếu làm mục đích, như chân thiện mỹ, giữ nó để phê bình đối tượng. Nhưng giá trị thì có tương đối cùng tuyệt đối khác biệt, lại nữa nếu căn cứ cá nhân chủ quan để phê phán gọi là giá trị chủ quan, nếu không chịu thì không hạn chế, nếu đại đa số người công nhận gọi là giá trị khách quan.

Xã Hội Học (Sociology) lại gọi là Xung Quần Học. Chọn xã hội làm thể thống nhất để nghiên cứu, chuyên nghiên cứu tổ chức xã hội nên gọi là Xã Hội Tịnh Học. Tổ chức này chuyên nghiên cứu xã hội sanh trưởng và quá trình phát triển, gọi là Xã Hội Động Học; đối tượng tổ chức này có ba:

(1)- Bản chất của xã hội,

(2)- Quá trình tiến hóa của xã hội,

(3)- Nguyên lý tiến hóa của xã hội.

Tổ chức này đặc biệt chọn Sinh Lý Học và Tâm Lý Học làm đối tượng để trước tác. Chọn chỗ đã thuật lại ở trên là Triết Học Nghiên Cứu nội dung chỗ bao quát làm phạm vi.

(3)- SO SÁNH TRIẾT HỌC CÙNG PHẬT PHÁP.

Triết Học nguyên ý của nó là ái trí, cũng chính là nói tất cả đều hoàn toàn nhu cầu tri giác mà xuất phát. Phật Pháp cũng mục đích đó, nguyên nhân chính là mưu cầu giải thoát sanh tử mà lên đường, cho nên không được giải quyết trước vấn đề có rất nhiều trên triết học, thí dụ như chân cùng vọng, mê cùng ngộ, thức cùng tâm, không cùng có, nhân cùng quả, tinh thần cùng nhục thể, phiền não cùng trí tuệ, phàm trên Triết Học chỗ có vấn đề trọng yếu, còn ở nơi Phật Pháp sớm đã thảo luận, cho nên Phật Pháp tuy không là triết học, nhưng bao hàm cả triết học ở trong.

Phật Pháp tuy không thừa nhận Thần, nhưng đều thừa nhận có Phật Tánh, Phật Tánh là bản thể của vũ trụ, là thật tướng của vạn pháp, là căn nguyên của tất cả thiện, chân lý cứu cánh của giải thoát. Phật Tánh đây không phải là bất cứ người hoặc Thần nào chỗ có riêng, mà là tất cả chúng sanh đồng có đầy đủ. Như Kinh nói: “Phật Tánh bình đẳng, không có cao thấp. Phật Tánh không biến, tại Thánh không tăng, tại phàm không giảm. Phật Tánh vĩnh hằng, không sanh không diệt. Phật Tánh không động, không có đến đi. Phật Tánh biến khắp, tột cùng chiều đứng, biến khắp chiều ngang. Phật Tánh mầu nhiệm không thể nghĩ bàn. Phật Tánh viên mãn, đầy đủ các điều thiện.” Tông chỉ cùng mục đích của Phật pháp, là vì phát huy Phật Tánh vốn có đầy đủ của chúng sanh và vô lượng công đức của Phật Tánh viên mãn, khiến Phật Tánh phá vô minh trừ khổ não, được giải thoát, phục hồi tâm nguồn gốc, thứ tinh thần cùng hoài bảo, đều không phải Tông Giáo cùng Triết Học chỗ có mục đích. Phật pháp không luận Tiểu Thừa hay Đại Thừa đều có đầy đủ triết lý rất cao thâm. Triết Học tây dương các vấn đề trên Nhận Thức Luận, vấn đề bản thể trong Hình Nhi Thượng Học, vấn đề đạo đức trong Luận Lý Học, vấn đề thiện ác, tại Đại Thừa Không Tông và Duy Thức Tướng Tông, đều có giải thích tường tận rộng lớn. Tiểu Thừa có bộ Hoà Kinh Lượng Bộ, cũng vấn đề nhận thức tường tận, cho đến Tánh Không chỗ luận của Phật Pháp, Triết Học tây dương lại theo không kịp. Triết Học đông tây chỗ luận về thật thể vạn pháp, chỉ là so sánh cảnh giới, chưa có khả năng hiện chứng, chính là Thiền Tông chỗ kiểm tra bằng cách quát mắng gọi là Khẩu Đầu Thiền. Lại nữa Nhận Thức Luận của tây dương, tối đa chỉ bàn đến cảnh giới của sáu Thức, còn hai Thức bảy và tám còn chưa nhập môn. Triết Học đông tây chỉ dạy người trừ ác hành thiện, chưa có thể đưa ra biện pháp đoạn dứt căn bản ác, chỉ dạy người kềm chế niệm ác, nạo vét phiền não mà thôi, căn nguyên của ác còn chưa rõ, hà huống luận bàn đến nó? Phật Pháp đưa ra triệt để cải tạo thân tâm, chuyển mê thành ngộ, biện pháp chuyển phàm thành thánh, là cần yếu tu tập Định Tuệ,đem tiềm năng giải phóng chỗ thâm sâu của tinh thần xuất ra, vũ trụ nhân sanh, khi chỉnh đốn thay hình đổi dạng, chỗ gọi là sơn hà và đại địa, toàn sương móc là thân pháp vương, một sắc một hương không phải là trung đạo, đạo lý của ngã cùng vạn pháp đồng một thể. Tuy nhiên Triết Học đông tây đều có thể lãnh ngộ nhiều ít, nhưng trên công phu thật chứng thì đều không phải chỗ Triết Học trên ngôn luận có không thể sánh kịp.


VII.- BƯỚC THỨ NHẤT CỦA PHẬT HỌC THẬT TIỄN

Phàm đến tham gia đại hội, đều là học giả tư tưởng Phật học, cho nên ngày nay đặc biệt chọn “Bước thứ nhất của Phật học thật tiễn” làm chủ đề, phân làm năm đoạn cùng đại chúng thảo luận như dưới đây:

(A) – Cốt yếu học Phật là gì?

Lý do học Phật rất nhiều, hiện xin đề cử hai điểm như sau:

1, Chuyển đổi nghèo làm giàu: Thí dụ như nhà của một ônglà người bần cùng, một ngày nọ ông nghe người Khoa Học Kỷ Thuật nói rằng,có người chứng thật trong nhà ông khi thám hiểm trắc nghiệm cho biết dưới đất có một khoáng chất vàng rất lớn, ông nghe liền oán trách kho tàng vàng sao lại ở phía dưới mặt đất của nhà ông; ông nghĩ nếu có thể đào lên, nhất định thu nhặt nó dùng không hết, dùng nó không cùng, ông ta sau khi nghe tin tức nàysẽ có phản ứng như thế nào? Hội hoài nghi không tin, trợn trừng con mắt cho là khộng lý? Ông ta đè nén sự vui mừng cho rằng mình không ngờ được của báu chưa từng có và ông suy nghĩ cách đi đào mỏ? So sánh giống như kẻ thường tình đều nói, sau đó ông phản ứng rất là tự nhiên.

Giống nhau không khác, chúng sanh từ khi mê chân chạy theo vọng cho đến nay, ở trong sanh tử sáu đường dài lâu, trốn ra chạy vào, mất đi trí tuệ, không biết chánh tà, không phân biệt được sự lý, làm càng làm sai, đã không hành thiện, điều ác thường theo thân, có thể nói không chút phước đức trí tuệ, chính là gọi kẻ bần cùng không chút thật thà, khônhg phù hợp phước đức, ngày nay nghe giáo lý Phật đà ngộ đạo liền tuyên ngôn phát ra: “Lạ thay! Lạ thay! Đại địa chúng sanh, đều có đức tướng trí tuệ của Như Lai, nhân vì vọng tưởng chấp trước, mà không thể chứng đắc, nếu trừ được vọng tưởng, thì Nhất Thiết Trí, Tự Nhiên Trí đều được hiện tiền. Trí tuệ chính là bảo ngọc như ý trong tâm chúng ta, được nó có thể chuyển bần cùng phiền não sanh tử, thành phước đức trí tuệ trang nghiêm trở thành đại phú, chẳng qua, bảo ngọc như ý đây, tuy vốn đầy đủ trong người, nhưng tất nhiên phải nổ lực công phu học Phật tu hành, mới có thể ra công đào bới để được thọ dụng. Cho nên lý do chuyển nghèo thành giàu, tất nhiên phải học Phật.

2, Vì muốn lìa khổ được vui cho nên tất nhiên phải học Phật, tất cả chúng sanh bị nghèo giàu, quý, tiện, hiền, ngu, vân vân, đối với tinh thần, chỉ theo đuổi vật chất, tuy có cách biệt bất đồng, nhưng nói chung không ra ngoài một mục tiêu cộng đồng, đó chính là “Chán khổ cầu vui”, cho nên chúng ta vì muốn lìa khổ được vui tất nhiên phải học Phật, chỉ có đi theo vết chân của Phật, theo Phật từng bước qua lộ mà đi, mới có thể an toàn trên chỗ đứng chính là chánh đạo. Thí dụ như, chúng ta cần phải đi qua một con đường rất dài, trong đường đi thình lình nghe trước đường đây có con hổ lang sư tử mạnh dạng, dã thú hung ác, lại sợ có cạm bẫy nguy hại đến tánh mạng, ở đây có thể sợ hoàn cảnh, vậy nên quyết định như thế nào có nên giao phó số mạng không? Rút lui hay tiến tới? Đã không đi cũng không cam tâm, có nên tiếp tục hướng về trước? Rất mạo hiểm lại không muốn gặp, chính ở giữa đường có nên dừng lại không? Đương nhiên không phải là lý tưởng. Cho nên chỉ một biện pháp, chính là chỉ đổi đường mà đi, không thì, khó tránh khỏi nguy hiểm sanh mạng.

Dùng thí dụ ở trên là một đơn giản, ý kiến là nói: Chúng ta tự quay lưng lại sự giác ngộ, lại hòa hợp với trần tục bỏ mặc số kiếp cho đến nay, lưu chuyển lang thang trong vòng sanh tử, bị chịu ba khổ tám khổ bức bách, chính như trong kinh nói “Ba cõi không yên, dụ như nhà lửa, các khổ sung mãn, rất nên sợ sệt”.Cho nên sanh mạng của chúng ta, chỉ ở một điều không có cảnh giới dừng nghỉ để chạy trốn trên con đường sanh tử, vã lại nẻo trước đã tràn đầy và khoảng giữa không thể nhận định có độc xà hổ lang sư tử ác thú của phiền não sanh tử cạm bẫy hảm hại hay không, do đó không dễ gì vượt qua,phải đi sát phạt mục đích để tìm kiếm sự an lạc. Tức là cũng giống như đạo đức học vấn của thế gian, tư tưởng của bàng môn tả đạo, đều không thể mang nhà ngươi ra khỏi biển khổ, để đạt được bỉ ngạn an lạc, nhân vì họ cũng chỉ là người ở trong con đường của túc xá, đều không phải chỗ để quay về cứu cánh, nguyên vì tại ngã chấp trói buộc chúng ta. Cho nên chúng ta phải thay đổi đường đi, phải sát phạt để tìm cứu cánh có thể giúp chúng ta an toàn cho chỗ đến, đạt được chánh đạo của lìa khổ được vui, trừ ngoài học Phật ra, lại không có biện pháp nào khác, nhân vì Phật là người đã giải thoát phiền não sanh tử, là Thánh nhân của cứu cánh lìa khổ đắc lạc, chúng ta có thể nương nơi Phật để thực hành, học Phật để tu, nhất định có thể vượt qua lìa khỏi sự trói buộc của sanh tử thống khổ, đặng giải thoát để an lạc tự tại, cũng vì lìa khổ được vui cho nên cần yếu phải học Phật.

(B).-Phật có thứ gì đạt đến trực tiếp để chúng ta học tập?

Công đức của Phật vô lượng vô biên, cần yếu là không ra ngoài trí tuệ cùng từ bi. Nhân cách vĩ đại của Phật Đà là kiến lập nơi trên trí tuệ từ bi, Ngài chọn lấy bi trí làm thù thắng siêu đẳng, kết thành hình tượng đồ sộ sùng kính cao ngút của phước tuệ trang nghiêm không thể so sánh, cho nên được tôn xưng là bậc độc tôn trong mười pháp giới, nhân đó chúng ta nên học Phật, tất nhiên dùng trí tuệ và từ bi của Phật làm đối tượng học tập.

1/- Học trí tuệ của Phật. Trí tuệ của Phật có ba thứ:

(1) Nhất Thiết Trí: là trí tướng chung của hiểu biết tất cả pháp đều không.

(2) Đạo Chủng Trí: là trí tướng sai biệt nhằm để hiểu biết hoàn toàn các thứ tướng sai biệt nơi tất cảpháp.

(3) Nhứt Thiết Chủng Trí: là trí hoàn toàn hiểu rõ tướng chung và tướng riêng biệt, tức là trí trung đạo không chấp trước nơi Không, không chấp trước nơi Có. Lại dùng trí này để quán lý không của chân đế gọi là Nhất Thiết Trí, lại dùng trí này để quán các pháp sai biệt của Tục Đế gọi là Đạo Chủng Trí. Không ngả về hai bên chân và tục,lại dùng trí để cùng quán chiếu cùng ngăn che gọi là Trung Đạo Trí, cũng tức là Nhứt Thiết Trí.

Dùng ba trí ở trên, Phật tu hành chứng được nhân tròn quả mãn, còn phàm phu chúng ta, vọng trần chưa dứt, lại không phải cảnh giới chúng ta có thể nắm vững, chẳng qua, chúng ta có thể lý giải nguyên lý của nó, nương nơi đó tu tập, thí dụ như ta đã đi qua mỗi nơi mỗi chỗ, chấp thân tâm làm thật ngã, chấp tất cả ngoại giới cho là thật pháp. Các thứ phân biệt tính toán, khởi hoặc tạo nghiệp, hình thành vô hạn phiền não, ngày nay nếu có thể học Phật dùng Nhứt Thiết Trí, quán tất cả pháp đều không, liền hiểu rõ tất cả pháp đều do nhân duyên sanh, pháp duyên sanh thì không tự tánh, đương thể tức là không, thì tất cả phân biệt tính toán chấp trước, đều tự nhiên tiêu mất vô hình, đây chính là học Nhất Thiết Trí chỗ đạt được hiện thật hiệu quả. Nếu nương nơi Đạo Chủng Trí thì có thể giải rõ thân tâm thế giới tất cả đều không, không có tự tánh, nhưng tướng sai biệt của chỗ sanh duyên khởi, không thể xóa bỏ, nhưng có thể bảo trì giả danh giả tướng của các thứ bất đồng tạm thời tồn tại, không thể quán Không nhưng có thể quét sạch nhân quả tồn tại của thế tục, đây chính là học tập Đạo Chủng Trí tác dụng. Nếu trở lại tiến tới có thể dùng Nhất Thiết Chủng Trí thì mới có khả năng hiện hữu nơi trong pháp, quán tất cả đều Không cho nên không chấp trước nơi Có, nơi trong Không có thể quán tất cả pháp mặc dù là Không, nhưng không xoá bỏ giả danh giả tướng sai biệt thì dĩ nhiên vẫn tồn tại là Có. Còn không đắm trước nơi Không, không trụ nơi Có, chính là không thiên về hai bên chân đế và tục đế, đó đúng là khả năng của Nhất Thiết Chủng Trí. Chúng ta có thể ở trong hàng ngày, nương nơi chỗ chứng nguyên lý ba trí, tùy theo phần ứng dụng nơi người trên , nhân, ngã, sự, lý, nhân quả, không trụ không trước, cãi biến để cảm quan của chấp trước lỡ ngộ nhận cho đi qua, tự nhiên tinh thần đạt đến tự tại không thể so sánh. Đây chính là thành tựu trí tuệ của học Phật.

2/- Học tập từ bi của Phật. Từ là cung cấp khoái lạc cho người, bi là đánh bạt thống khổ cho người. Từ bi của Phật cũng có ba thứ:

(1) Sanh Duyên Từ Bi: quán tất cả chúng sanh giống như con đỏ (bé bi)phát khởi tâm từ bi. bạt khổ cùng lạc.

(2) Pháp Duyên Từ Bi: chỉ ngộ các pháp lý vô ngã là chỗ phát khởi tâm tư bi.

(3) Vô Duyên Từ Bi: xa lìa kiến giải sai biệt, nương nơi tâm không phân biệt mà phát khởi từ bi của bình đẳng tuyệt đối.

Từ bi của Phật Đà, không đồng nhau giống như chỉ hạn cuộc nhơn từ ở một phương một giờ, mà là từ bi vĩ đại vượt lên trên thời gian không gian, chỗ gọi là ở không gian không phân biệt thân sơ hiền ngu quý tiện; cõi kia nơi phương khác, cho đến khắp hư không tận pháp giới, ở trong chỗ đó có tất cả loại chúng sanh, những người trời ở cõi trên có hình tướng, các quỷ thần không hình tướng, còn phía dưới cho đến các động vật hữu tinh như côn trùng vi tế, chuồn chuồn, con kiến, vân vân.Còn ở trên thời gian, thông đến quá khứ, hiện tại, vị lai và vị lai cho đến chỉ không có cảnh, Phật đối chúng sanh cùng lạc bạt khổ của tinh thần từ bi, luôn luôn không vì lý do chúng sanh ngoan cố mà chán nản, lại không vì lý do chúng sanh ngu muội mà buông bỏ. Cho nên Phật Đà từ bi vĩ đại, được gọi là từ bi vô lượng, lại cũng xưng là đại từ đại bi.

Trước khi chúng ta chưa tin Phật, phàm có chỗ làm, phần nhiều tự mình dựa vào tưởng tượng, khổ cùng vui của người khác đều không quan tâm, thậm chí còn tạo thêm khổ cho người, đây là như thế nào có phải ích kỷ chăng? Ngày nay mình đã tin Phật học Phật, tuy chưa có thể tận lực học Phật vượt thời gian không gian để được đại từ bi tâm, chỉ cần tùy phần tùy sức, phụng hành chỗ Phật dạy, giúp người khoái lạc, đánh bạt khổ não cho người, mới là đệ tử Phật là chỗ nên học.

(C).- Học Phật có tín, giải, hành, chứng, bốn ngôi vị bước nhanh.

1.- Tín,

a, Tin Sâu Tam Bảo.

(1)Tin Phật: Tin Phật là năm trụ cứu cánh, hai tử mất hẵn, phưóc tuệ cứu cánh viên mãn.

(2)Tin Pháp: tin giáo pháp của Phật nói, là thuốc tốt trị liệu tâm bệnh cho chúng sanh.

(3)Tin Tăng: là kim chỉ nam của thuyền đi biển cả, họ có thể lãnh đạo chúng ta chính xác phương hướng.

b, Tin Sâu Nhân Quả:

Phật Đà thông báo cho chúng ta, thế gian có pháp hữu vi đều nằm trong luật nhân quả chi phối vận hành, do nhân dẫn đến quả, quả tất nhiên do nhân, nhân quả báo đền, mải mai không mất, sự vật chứng minh, trồng dưa thì được dưa, trồng đậu thì được đậu, hành vi của người cũng như thế, nhân tốt kết quả tốt, nhân ác rước lấy quả báo ác, đây là đáp ứng công đạo, cho nên chúng ta nếu cầu hưởng thọ thiện căn, tất nhiên trước hết phải cẩn thận chỗ tạo tác trên hành vi hiện tại, cần phải làm nhiều thứ thiện nhân, mới có thâu hoạch thiện quả vị lai.

c, Tin Tất Cả Chúng Sanh Đều Có Phật Tánh:

Người có Phật Tánh đều có thể thành Phật. Phật là Phật đã thành, ta là Phật chưa thành, không thể tự phụ tâm linh của mình, thường lấy vấn đề đây khuyến khích để tỉnh ngộ, nổ lực cầu lấy Phật đạo để tiến lên.Chọn ba điểm trên, là người học Phật, nên đầy đủ tín niệm. Cũng là bước nhanh thứ nhất trong quá trình học Phật.

2.- Giải, tức là lý giải, hoặc là liễu giải, phàm người học Phật, tất nhiên phải tiến lên một bước giải rõ giáo nghĩa trọng yếu của Phật Đà, để củng cố tín niệm, sách tấn phát khởi hành động, đặt chân vào nền nếp của học Phật. Căn bản giáo nghĩa của Phật pháp có ba hạng, giáo nghĩa ba hạng đây, có thể dùng ấn chứng cho các thứ thuyết pháp là chính xác chăng, cho nên được gọi là Tam Pháp Ấn. Tam Pháp Ấn là:

a/- Chư Hành Vô Thường: Thuyết minh tất cả các pháp hữu vi, tất nhiên đều là vô thường, chúng sanh không hiểu rõ, ngược lại nơi vô thường tưởng chấp cho là thường, Phật nói vô thường để phá chấp thường của chúng sanh.

b/- Chư Pháp Vô Ngã: Tất cả pháp trong thế gian, nào là thân tâm và thế giới hữu vi vô vi đều là vô ngã, chúng sanh không thể hiểu rõ, cho nơi tất cả pháp ngược lại đều là thường, nhất là cái ngã của chủ tể đều cho là thường còn, cho nên Phật nói các pháp là vô ngã, dùng để đả phá sự chấp ngã của chúng sanh.

c/- Niết Bàn Tịch Tịnh:Tất cả chúng sanh, không biết cái khổ của sanh tử, mà khởi hoặc tạo nghiệp, lưu chuyển ba cõi, cho nên Phật nói pháp của Niết Bàn, là nơi không sanh không diệt, thanh tịnh tịch diệt, khiến lìa khỏi cái khổ của sanh tử, đặng niết bàn tịch diệt, lại không bị sự trói buộc của sanh tử, đạt được tự tại giải thoát.

Vì ba hạng giáo lý Phật pháp, trình bày rõ tất cả vạn hữu, hiện tượng thân tâm, đều bị thành trụ hoại không, sanh trụ dị diệt, thay cũ đổi mới, trong sát na không dừng sanh diệt chuyển biến, không được thường trụ, người học Phật nên cần phải thâm nhập lý giải, tiếp nhận hiện thật, cải biến cố chấp dĩ vãng chủ quan,quán tất cả pháp đều là không, lại không cho vọng tưởng chấp trước, phân biệt tính toán trói buộc, thì giảm thiểu rất nhiều cần gì phải đòi hỏi phiền não, rồi tự nhiên thâu hoạch được tự tại giải thoát. Cho nên người học Phật, phải rõ ràng yếu nghĩa của ba hạng nói trên, mới là đối với Phật giáo giải lý hoàn toàn có chính xác.

3.- Hạnh, Người Phật giáo tu hành mặc dù pháp môn tuy nhiều, nhưng không ra ngoài ba môn học giới định tuệ.

(1) Giới: Các điều ác chớ làm, các điều lành nên làm, phòng ngừa ngăn để dứt ác, giữ miệng kềm ý không cho thân phạm, gọi là giới.

(2) Định: Nhiếp phân tán không cho loạn, nhiếp trừ tạp niệm, hiện tiền tĩnh lặng, có thể thấy tánh ngộ đạo, gọi là định.

(3) Huệ: Do định sanh ra huệ, huệ có thể hiển phát bản tánh, đoạn trừ phiền não, thấy thật tướng các pháp, gọi là huệ.

Lại nữa, trong lục độ chọn lấy bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, bốn độ đây làm giới học, thiền định độ làm định học, bát nhã độ làm huệ học. Ba học đây thật là chí yếu của người học Phật đạo. Tất cả pháp môn đều nhiếp lấy hết nơi đây. Người học Phật, nên phải tinh cần tu học.

4.-  Chứng,Do tu tập giới định huệ, thể nghiệm như thật mà ngộ được chân lý nên gọi Chứng, như Đại Thừa chứng vào Sơ Địa, cho đến Bồ Tát Đẳng Giác chỉ chứng quả từng phần và Phật mới chứng quả viên mãn; người Tiểu Thừa chứng phần riêng biệt vào Sơ Quả Tu Đà Hoàn, Nhị Quả Tư Đà Hàm, Tam Quả A Na Hàm, Tứ Quả A La Hán, đều xem nhà ngươi sức tu hành cạn sâu như thế nào, và chứng quả có khác biệt của địa vị thánh hiền hay không. Như “Kinh Kim Cang nói: “Tất cả thánh hiền đều chọn pháp vô vi mà có sai biệt”.

(D).- Tánh trọng yếu của học Phật thật tiển.

Học Phật, lập chí để niệm lý, hoặc là tông chỉ ý nguyện, lập chí là hoàn toàn ý nguyện của học Phật, nếu không thêm lời nguyện để thật tiển thì vĩnh viễn không thể đạt thành mục đích của nhà ngươi, cho nên ý nguyện cùng thật tiển của nhà ngươi để học Phật chính là như giải thích cùng thật hành; cổ đức nói ở trên sự tu hành, thật hành cùng giải thích giống như hai cánh chim, như xe hai bánh, thiếu một không thể đuợc; nếu chỉ có giải thích mà không thật hành, điều ở nơi thiết thực có số bảo vật đáng kể mà gặp việc không giúp đỡ mọi người, chung cuộc không thể thực hiện lý tưởng mục đích; ngược lại, nếu có thật hành mà không có giải thích, khó tránh khỏi tu mù luyện quáng, rơi xuống hố rớt xuống hào, chạy vào tà cảnh, tổn hại chung thân, mải mai không có ý nghĩa, cho nên người tu học thật hành và giải thích phải quan hệ nhau, phải là thường trọng yếu.

(Đ).- Giới là bộ thứ nhất của học Phật thật tiển.

1/- Sao gọi là giới? Giới, tiếng Phạn là Thi La, Trung Hoa dịch là giới, đầy đủ có hai phương diện là phòng ngừa sai trái và ngăn chận làm ác. Lại nữa giới có hai nghĩa:

(a) Nghĩa ngăn cấm: tức ngăn chận ba nghiệp đối với các cảnh ác không cho hành động.

(b) Nghĩa cảnh sách: cảnh tỉnh sách tấn ba nghiệp đối với các cảnh phụng hành các thiện. Trọng yếu là, dứt các nghiệp ác, vâng làm các điều lành, đây là ý muốn của giới.

2/- Trên ý nghĩa của giới có các thứ phân loại:

(1)- Tánh giới cùng giá giới.

Giới pháp của Phật chế, nếu bản chất thuộc tội ác, gọi là tánh tội, vì Phật chế ngăn ngừa gọi là tánh giới, như trong năm giới: sát sanh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, bốn giới này nếu không thọ giới mà hành động tức là phạm tội, gọi là tánh giới. Ngược lại, bản chất của nó không phải thuộc tội ác, nhưng dễ khiến người đời phỉ báng, hoặc dụ dỗ người khác, gọi là tánh tội, mà Phật đặc biệt chế định ngăn cấm không được làm, gọi là giá giới, như trong năm giới, giới không được uống rượu đó thuộc về giá giới.

(2)- Trì giới cùng phạm giới.

Thọ giới về sau, có thể bảo trì sáu căn ba nghiệp không tạo ác gọi là trì giới; nếu không có thể nương nơi giới mà hành động gọi là phạm giới. Lại nữa, đã thọ giới pháp, tuân thủ giới hạnh, khống chế ba nghiệp, các điều ác không làm gọi là Chỉ Trì Giới. Sách tấn ba nghiệp các thiện đều thật hành gọi là Tác Trì Giới.Nói ngược lại, tiêu cực ngăn ác, gọi là Chỉ Trì Giới, tích cực hành thiện,gọi là Tác Trì Giới. Căn cứ nơi “Giới luật sâu rộng mà nói: Năm thiên bảy tụ (Theo tự điển, năm thiên bảy tụ: Năm Thiên là năm phần, mỗi một phần gồm năm chương; Tụ là nhóm, nghĩa là mỗi một chương gồm năm nhóm) đều thuộc về Chỉ Trì Giới; Kiền Độ Phận (Phần độ con trâu thiến) như an cư, tự tứ tụng giới vân vân, đều thuộc về Tác Trì Giới. Giãi đãi phóng túng, không dụng tâm hộ trì giới cấm gọi là Chỉ Phạm. Nên làm mà không làm như an cư tự tứ tụng giới vân vân của Kiền Độ Phận, không nương nơi giáo pháp để phụng hành, giãi đãi phóng túng, gọi là Tác Phạm. Cố nhiên giới có đầy đủ nào chỉ trì, tác trì, chỉ phạm, tác phạm, và chỉ trì tác phạm, tác trì chỉ phạm vân vân, tất cả hàm nghĩa trong đó.

(3), Giới phân biệt có bốn loại:

(a) Giới Pháp: Chỉ rộng luật pháp của Phật Đà chế ra, chính là quy luật của chúng sanh, như ngũ giới, thập giới, cụ túc giới, tam tụ tịnh giới (Tam Tụ Tịnh Giới gồm có: nhiếp luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới, nhiêu ích hữu tình giới. Nhiếp luật nghi giới, nghĩa là giữ gìn giới pháp không cho phạm; Nhiếp thiện pháp giới là giới luật bắt buộc làm tất cả việc lành không được từ nan; Nhiêu ích hữu tình giới, là giới luật bắt buộc làm lợi ích cho chúng sanh, không phân biệt hạng chúng sanh nào.), luật pháp có 10 giới nặng, 48 giới nhẹ. Gọi chung là giới pháp.

(b) Giới Tướng: là tướng mạo của giới, cũng tức là các điều khoản của giới, hoặc gọi là tướng trạng sai biệt của biểu hiện trì giới, như năm giới, mười giới vân vân, mỗi mỗi đều có sai biệt, đưa ra nào trì (Trì là những điều luật phải giữ gìn.),

phạm (Phạm là những điều luật cấm tuyệt đối không được phạm.), khinh (Khinh là nhẹ, nghĩa là những điều luật nếu phạm cho phép sám hối.), trọng(Trọng là quá nặng, những điều luật cũng tuyệt đối cấm không được phạm, nếu phạm là lột áo đuổi ra khỏi giáo đoàn),mỗi mỗi đều có tướng trạng không giống nhau.

© Giới Thể: Khi chúng ta thọ giới, cần yếu bạch bốn Yết Ma. Thứ nhất là Đơn bạch Yết Ma tức là Yết Ma riêng lẻ (đơn phương), khi Đơn Bạch Yết Ma, mười giới thiện pháp phát động xuất hiện, cảnh yết ma thứ nhất nơi hư không là mười giới thiện pháp. Cảnh yết ma thứ hai là mười giới thiện pháp tập hợp nơi đỉnh đầu người thọ giới. Cảnh yết ma thứ ba là mười giới thiện pháp chảy vào tâm của người thọ giới để làm Giới Thể. Như Chi Uyển Biên nói: “Gọi là Phật xuất thế, chế lập giới pháp, cấm phòng ngừa thân miệng, điều phục tâm hành, mười phương chư Phật, ba Thừa (Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa), nghĩa là Thinh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát) hiền thánh, đều cùng nhau tu tập, gọi là thánh pháp, nay ta sách tấn pháp này, tác pháp để thọ, nhân duyên hòa tập, tâm cảnh sẽ đến sâu kín, phát sanh vô tác (thật hành đến khi không còn thật hành, tức gọi là thuần thục) lảnh nạp tại tâm, gọi là Giới Thể”. Kỳ thật giới thể, tức là một thứ phòng ngừa phi pháp, ngăn ngừa tội ác, ẩn núp năng lực ở trong nội tâm, là sau khi thọ giới mới có.

(d) Giới Hạnh: Nương nơi giới luật để phụng hành, thọ trì luật pháp của Phật Đà chế ra, siêng năng thuận theo giới thể, động tác theo ba nghiệp thân miệng ý mà không trái với pháp, gọi là Giới Hạnh.

Giới, là căn bản của Thánh đạo, nhân nương nơi giới đặng sanh các thiền định và trí tuệ của diệt khổ, đặng khỏi trầm luân nơi biển sanh tử, là con đường chánh của giải thoát, là căn bản của vạn hạnh, là nền tảng của thành Phật, cho nên Phật nói: Tất cả chúng sanh, tuy có Phật tánh, cần yếu nhân trì giới, dĩ nhiên sau mới thấy, nhân thấy tánh Phật, được thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (Vô thượng chánh đẳng chánh giác). Có thể thấy học Phật, tất yếu trì giới là thật tiển, Do trì giới của ngăn ác tu thiện, mới có thể tiến vào Phật đạo. Nên biết trì giới ở trong tất cả pháp môn thật tiển, trở thành tối trọng yếu, không phải thật hành trước mà không được bước nấc thang thứ nhất.


VIII.- GIỚI HỘI TÙY BÚT

Trên đầu cây cối chi nhánh tiêu điều, khi sương đã xuất hiện thì lá non tươi cười xanh um; thì giờ sát na không dừng giống như con rắn đi quanh co kéo dài di động, cuối đông rắn trượt ra ngoài để tiến vào đầu xuân hoàn toàn ấm áp; vạn tượng đều ngủ vào mùa đông,đến mùa xuân ánh sáng chiếu soi, đánh thức tất cả đều trổi dậy. Đông Liên Giác Uyển Chủ Biên nhân đại hội trai giới lần thứ nhất ông tuyên bố cử hành lễ treo bức hoành, cũng ở nơi đây mùa xuân trở lại, trong cảnh mới của đất trời,trong bức hoành ông lại dùng vãi vàng chữ đỏ trang nghiêm chói mắt, lại treo chỗ cao ở ngọ môn và trên cầu dao điện bằng thép, bức hoành bắt đầu tung bay phất phới, nó tạo hấp dẫn, khiến không ít người đi qua lộ để xem,ông cũng dừng chân xuống đi bộ, lại có người đi theo hướng dẫn và giải thích những chỗ nhu cầu để thưởng thức, nguyên vì đây là pháp hội đặc thù của Phật giáo, cũng là chỗ nghỉ ngơi tốt cho những người tu trì thật tiển đều hoan hỷ, thế nào ông cũng khiến mọi người vào đều chý ý!

Trong buổi lễ đại hội trai giới, ông Uẩn Ca Hoa cung thỉnh những vị đến từ Hương Cảng, Mỹ Quốc chủ trì pháp hội và làm đạo sư, những vị đạo sư đó đều ở lại 5 tháng; 15 cửa hàng không đồng ý thời gian 5 tháng, liền phảng kháng Uẩn Ca Hoa. Một hôm buổi sáng, người phụ trách pháp hội, đều quên nơi phần phân phối người đến sân bay nghinh tiếp các vị đạo sư đó.

Sau giờ ngọ 5 giờ bắt đầu khai mạc, là thời gia chúng giới tử nhập đàn báo đến, ngoài 60 vị giới tử sớm đã đăng ký tham gia, đều nhớ rõ tâm tình nhiệt liệt cầu đạo, mang theo chăn nệm lớn nhỏ không đồng, hoặc ngủ bao túi, đến lúc vội vã đến Đại Đường chỗ đăng ký, họ bỏ hành lý xuống, tất cả đợi an bày túc xá và chuẩn bị ngày mai tiếp nhận chỗ khu nhà đúc nấu luyện kim của Trai Giới Đại Dã Hồng Lô. Tại vì trong giới tử, điều đặc biệt một vấn đề là có 12 vị phát tâm thế phát xuất gia đoản kỳ (8 nam 4 nữ), đều báo họ vào đến phía sau đàn tràng, lập tức cắt bỏ tóc trên đầu, chỉ lưu lại một chụm tóc nhỏ trên đỉnh đầu, chuẩn bị ngày mai thế độ nghi thức, do ba sư chủ trì làm cho chúng nó viên mãn. Tóc trên đầu, không giống như người xưa nay rất yêu quý, thân thể trang sức rất quý trọng, trừ đặc biệt họ hướng ngoại, nếu không thì không dễ dàng tùy tiện cạo tóc. Nhưng mười vị đây không phải thế, chúng nó (nam và nữ) đều hoàn toàn đích thân tự thể nghiệm sự sinh hoạt của người xuất gia, cuối cùng phát tâm tạm thời hi sinh tóc quý báu trên đầu biến làm quán đảnh sa di và sa di ni, tâm ý của họ (nam và nữ) đều không phải tự ý sanh ra sở thích kỳ lạ, mà chính là tự phát tâm học tập chân thành, cho nên thứ ham mến đạo biểu hiện xem thường bản thân, khiến tại hiện trường, đều thấy được chỗ khó thấy, cảm động, khâm phục cung kính và tán thán.

Pháp hội trước buổi tối,ngoại trừ chúng giới tử xếp đặt đơn ngoài, đều chưa có nghi thức tác pháp, nhưng vì ngày mai pháp hội chuẩn bị bắt đầu khai giảng đúng pháp, nhưng nhà khai giản,nhà trợ giúp, hoà thượng và chúng pháp sư dẫn lễ, đều lợi dụng thời gian trước khi chưa an đơn,để chúng nó (anh chị ấy) sắp xếp an định quá đường an bày theo thứ tự trên chánh điện vân vân cho hoàn tất,chờ đến đúng chín giờ chiều chúng nó mới có thể rời khỏi Đại Đường về túc xá.

Ngày 16 tháng 5, là ngày pháp hội chánh thức bắt đầu khai giảng thiên thứ nhất, 8 giờ sáng, liền cử hành lễ truyền ngũ giới, bát quan trai giới và đoản kỳ xuất gia là thập giới của sa di, sa di ni. Đặt pháp tòa ở trên hơi cao, để Đại Hoà Thượng ngồi trên truyền giới, Yết Ma A Xà Lê, Giáo Thọ A Xà Lê dùng ba hay nhiều cái chuông, vì chúng giới tử phụng thỉnh bổn sư và chư Phật chư Bồ Tát giáng lâm chứng minh thọ giới, kế đến nói giới xong và các giới tử cùng nhau tụng giới lanh lảnh, Yết Ma sau khi tác pháp, do ba sư mỗi mỗi làm ba lần hỏi nhỏ, có thể thọ được không? Có thể y giáo phụng hành chăng? Các giới tử đồng lên tiếng kiên định hồi đáp: có thể thọ trì, có thể y giáo phụng hành. Đây các giới tử đồng phát ngôn từ nội tâm để chỉ định đáp vấn bằng tiếng, âm hưởng vang lên trên điện Phật, thâm sâu ấn vào trong tâm người thọ giới, đồng thời âm hưởng ngầm lặng tạo thành một luồng lực lượng biểu hiện kháng cự điều ác, tích trử điều thiện, đây chính là chỗ gọi Đắc Giới Thể.Thâu hoạch được Giới Thể cùng không, cần yếu xem cá nhân có trình độ quyết tâm và thành khẩn mà quyết định.

Bảy ngày thời gian kỳ hạn pháp hội, Hòa Thượng Luật Sư trực tiếp thuyền trao giới luật, giảng giải và phân tích giới luật tinh tường nào là khai, giá, trì, phạm, sách tấn các giới tử đạo lý y giáo phụng hành, đây là sau khi thọ giới tối trọng yếu cần học tập những điều nên biết nên làm, Đại Hòa Thượng từ bi cáo thành, khiến các giới tử lưu lại lâukhông quên cảnh giác.

Hòa Thượng Yết Ma có tên là vua từ bi, ngài ngoại trừ ngồi khai thị lợi ích tu trì Phật pháp, lại ở mỗi nơi Pháp Đường, ngài sẽ sang tu học để cùng chúng giới tử gợi ý thể nghiệm, có chỗ gọi là “Phật pháp tại thế gian, không lìa thế gian để giác ngộ, lìa thế gian tìm bồ đề, đúng như cầu sừng thỏ”, cho nên chúng ta cầu đạo, tất nhiên phải ở nơi Hành Trụ Tọa Ngọa (đi, đứng, ngồi nằm), ăn cháo ăn cơm trong tĩnh lặng, trong sanh hoạt thường ngày tụng kinh lễ Phật, đi thể hội Phật pháp, đây mới là thọ dụng chân thật. Hòa Thượng Yết Ma mỗi lời mỗi câu đều cảnh giác và giáo huấn, tận tình khuyên bảo, sách tấn cùng khuyến khích, đều từ bi chảy ra từ đạo tâm thể nghiệm, thêm nữa ở trên, lời nói rõ ràng rành mạch, biện tài vô ngại, khiến các giới tử gần như cảm động và xấu hổ ngấn lệ.

Hoà Thương Giáo Thọ một vị văn nhân nên văn chất phong nhã, khéo ở nơi thi tứ ca vũ, lại sở trường nơi tu tập thiền định, cho nên lúc bấy giờ ngài đem phương pháp tham thiền truyền thọ giúp cho các giới tử qua những bài pháp đều mượn rất nhiều thế pháp để hiển bày đạo lý thiền, lại gợi ý người tu hành, thời khắc rất cần yếu để điểm sáng đèn tâm của mình, đèn tâm của mình đã sáng hoàn toàn, mới không bị làm sai lầm sự việc, lại có thể dùng đèn tâm chiếu thấu suốt bản lai diện mục (Nguồn gốc mặt mày) của cha mẹ chưa sanh tiền của chúng ta, đây là chỉ dẫn trực tiếp, bảo quí như thế nào! Các giới tử có thể tiếp nhận rồi đi xuống,vĩnh viễn thọ dụng vô tận!

Lại nữa có Hoà Thượng khai Pháp Đường, giáo đạo quy tắc nghi lễ, Hoà Thượng Bồi Đường chiếu cố tận tâm chỉ bảo, Pháp Sư Duy Na thời khóa sớm tối,sám hối và dắt dẫn tất cả pháp sự trên, Pháp Sư Dẫn Lễ theo hộ các giới tử và tấn thối dìu dắt, khiến giới tử cẩn thận trên chánh đạo tu hành, đó là nhiều hạnh phúc! Thật hâm mộ rất nhiều giống như chúng sanh không còn khổ não. Các giới tử cảm tạ thâm sâu các sư từ bi đãi ngộ và thành tựu.

Sau cùng cần yếu đặc biệt một vấn đề là các vị chủ nhiệm đặc trách viết chữ đồng thời trù hoạch và an bài các thứ nhu cầu, Hương Tích Trù chiếu cố ăn uống, các nghĩa công (các người công quả) phát tâm phân công hợp tác phục vụ, thật có thể nói công đức không thể mất. Các giới tử! Các ông tương lai khi thành Phật đạo, ngàn năm sau chớ quên lao khổ công cao của chúng tôi đã từng cung cấp và giúp đỡ các ông mới tốt!

Pages: 1 2