SỐ 190
KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP
Hán dịch: Đời Tùy, Tam tạng Pháp sư Xà-na-quật-đa, người Ấn độ
Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh.

 

QUYỂN 24 – 25

Phẩm 29: TINH TẤN TU KHỔ HẠNH

Bấy giờ Bồ-tát ra khỏi rừng nơi núi Bàn-trà-bà ung dung hướng về thành Già-da. Đến nơi, Ngài muốn nhiếp phục thân tâm diệt trừ các niệm ác, nên lên núi Già-da-thi-lê-sa (nhà Tùy dịch Tượng đầu). Ngài tìm một chỗ bằng phẳng trải thảm cỏ an tọa dưới một gốc đại thọ. Lúc đó, trong tâm Bồ-tát suy nghĩ về ba thí dụ, đều là việc hy hữu trong thế gian, chưa từng nghe nói, chưa từng xem thấy, chưa từng chứng biết. Ba thí dụ đó là gì?

Một, có những Sa-môn, Bà-la-môn, tuy thân không hành dục nhưng dục ái, dục não, dục nhiệt, dục chấp trong tâm ý họ vẫn chưa diệt hết, chưa đắc chánh định, vẫn còn tướng ngã, chỉ tu tập về thân. Những vị ấy luôn chịu khổ não, ý không hoan hỷ, tâm không đạt đến an lạc, không có được tri kiến, không chứng pháp thượng nhân, cũng không đạt đến chỗ vô úy. Trong số họ, tuy không còn tướng ngã, không chỉ tin về thân, không cảm thọ khổ não nhưng ý không cảm thọ, không có hỷ lạc nên không có tri kiến để chứng pháp thượng nhân, đến chỗ vô úy. Như có người lấy cây tươi ướt và phẩn ướt, để trên mặt nước cọ sát để lấy lửa. Có người từ nơi khác đến người này xin lửa. Nhưng người này từ nơi cây tươi ướt phẩn ướt ở trên mặt nước ra sức cọ sát có thể ra lửa cho người kia hay không? Nếu có lửa để cho là điều hoàn toàn phi lý. Lửa đã không xuất hiện thì người xin lửa làm gì có lửa. Đúng như vậy, như vậy, nếu có Sa-môn Bà-la-môn tuy không hành dâm dục… cho đến không có tri kiến, chứng pháp. Đây là ví dụ thứ nhất, thế gian chưa từng có cũng chưa từng nghe.

Hai, có những Sa-môn, Bà-la-môn, cấm chế thân không hành dâm dục, nhưng ý tham, phiền não, chấp trước về dục họ chưa diệt hết, chưa được chánh định, vẫn còn tướng ngã, chỉ tu chứng về thân, không còn khổ não nhưng không có hỷ lạc, không có tri kiến để chứng pháp thượng nhân, đạt đến vô úy. Trong số họ, tuy không còn tướng ngã, không chỉ tu chứng về thân, không còn khổ não nhưng tâm ý chưa hỷ lạc, không có tri kiến để chứng pháp thượng nhân, đến chỗ vô úy. Như có người muốn được có lửa, lấy cây tươi ướt cọ xát trên mặt đất, lại có người đến người này xin lửa. Người dùng cây tươi ướt cọ xát trên đất để tìm lửa, có thể có lửa cho người kia hay không? Nếu có lửa để cho là điều hoàn toàn phi lý. Đúng như vậy, như vậy, Các Sa-môn Bà-la-môn, tuy không hành dâm dục… cho đến không có tri kiến, để chứng pháp. Đây là ví dụ thứ hai, ở thế gian chưa từng nghe.

Lúc bấy giờ Bồ-tát suy nghĩ nói ví dụ thứ ba: Nếu các Sa-môn hay Bà-la-môn, tuy tiết chế thân không hành dâm dục, đối với các ái dục, lửa dục, não dục và tâm say đắm dục họ tiêu diệt hoàn toàn, được chánh định. Những hàng Sa-môn và Bà-la-môn này đã được tự lợi và còn lợi tha, trong tâm hoan hỷ an lạc, có đủ tri kiến để chứng được pháp thượng nhân và đạt được chỗ vô úy. Ví như có người muốn tìm lửa, họ dùng cây khô, cỏ khô và phẩn khô để trên đất cọ xát. Có người hướng về người này xin lửa, người này chỉ dùng ít công phu liền có được lửa, đem cho người kia. Đúng như vậy, như vậy, nếu có Sa-môn Bà-la-môn hành động lìa dục, đối với các tâm ái dục, não dục, lửa dục đều bị tiêu diệt hết, cho đến… được pháp thượng nhân, đến chỗ vô úy. Đây là ví dụ thứ ba của Bồ-tát, tự ý suy nghĩ phát sinh, đều là việc thế gian chưa từng nghe thấy.

Lúc ấy Bồ-tát lại xuống núi Thi-lê-sa thuộc thành Già-da đi đến thôn Ma-già-đà, lần hồi đi hỏi thăm mọi người: “Ở xứ này có công đức gì đáng làm? Có phi pháp nào nên đoạn diệt? Ta muốn cầu cảnh định tịch diệt tối thượng, để nói lên âm thanh vi diệu.” Cứ như vậy, Ngài tiến về trước đến một thôn ở phía Nam thành Già-da, thôn này tên Ưu-lâu-tần-loa. Sau khi đến thôn này rồi, vào buổi sáng Bồ-tát mặc y phục vào thôn đến nhà người thợ gốm, xin được một bình bát. Sau khi được bình bát, Ngài bưng bình đi theo thứ lớp khất thực trong làng. Khi đi ngang qua nhà một trưởng giả chủ thôn này, tên là Nan-đề-ca (nhà Tùy dịch Tự Hỷ), đến trước nhà, Ngài yên lặng đứng một bên. Trưởng giả Nan-đề-ca (Tự Hỷ), chủ làng này có một ái nữ tên là Tu-xà-đa (nhà Tùy dịch Thiện Sinh) dung nhan kiều diễm khả ái vô cùng, được người bấy giờ ưa chuộng chiêm ngưỡng dung nhan. Nàng Thiện Sinh từ xa trông thấy Bồ-tát bưng bình bát đứng yên lặng biết ý muốn khất thực. Thiện Sinh vừa thấy bỗng nhiên từ hai nhũ hoa tự nhiên chảy sữa. Khi ấy, nàng hỏi Bồ-tát.

-Thưa Nhân giả tối thượng, Ngài con ai? Họ tên là chi? Quý danh là gì? Cha mẹ ở đâu? Đang muốn tìm cầu thứ gì? Nhân giả có thần biến gì, mà tôi vừa trông thấy Nhân giả một lần, tự nhiên hai nhũ hoa của tôi ra sữa.

Bồ-tát đáp:

-Này chị Thiện Sinh, tên Ta là Tất-đạt-đa, tên này do cha mẹ Ta ban cho. Ngày nay, Ta muốn cầu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, khi chứng quả này rồi Ta sẽ chuyển pháp luân vô thượng.

Khi nàng Thiện Sinh vừa nghe như vậy, lấy bình bát từ tay Bồ-tát, đi vào nhà đựng đầy thức ăn uống cơm canh ngon ngọt, cùng đủ các thứ bánh trái cây. Nàng mang bình bát đầy trở ra, quỳ gối dâng cho Bồ-tát, miệng thưa thế này:

-Nhân giả tối thượng, tôi nguyện luôn luôn được cúng dường Nhân giả có bốn thứ nhu cầu: y phục, đồ ăn uống, đồ nằm ngủ và thuốc thang, tất cả đều đầy đủ, cúi xin Nhân giả từ bi nhận lấy. Tôi nhận xét quý danh của Ngài do cha mẹ ban cho, lại thấy Nhân giả dũng mãnh tinh tấn, chí tâm chuyên chú, nhất định sẽ thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, quyết định sẽ chuyển pháp luân, chắc chắn không còn nghi ngờ. Nếu khi Nhân giả thành đạo Bồ-đề, sẽ đến nhà tôi nhận sự cúng dường, độ thoát cho tôi, tôi sẽ làm đệ tử Thanh văn của Ngài.

Bồ-tát đáp:

-Này chị Thiện Sinh, sẽ được theo với nguyện của người.

Bồ-tát nhận vật thực xong, bỏ đi nơi khác Khi Bồ-tát nhận vật thực từ nhà Thiện Sinh, rồi đi đều chỗ vắng lặng, y như pháp mà thọ thực. Thọ thực xong Ngài đi kinh hành, lần lần đi đến một xứ nọ, đất đai bằng phẳng cảnh trí thanh tịnh hữu tình, thích thú tâm người du ngoạn. Rừng cây um tùm cành lá sum suê có đầy hoa quả nặng trĩu, đủ các dòng suối sông rạch ao hồ, nước trong sạch hương vị thơm tho ngọt ngào, chảy ngang dọc, không thiếu gì cả. Các dòng nước, không cạn không sâu lặng yên trong suối, dễ lội dễ múc. Trong rừng không có các trùng độc thú dữ, ngược lại đây có các loại cầm thú hiền lành xinh đẹp. Nơi này cách làng chẳng gần chẳng xa, nếu đến đó khất thực không khó nhọc, không bị thiếu hụt, nơi đây đường đi bằng phẳng, không cao thấp, dễ đi, dễ lội. Nếu như có người đến đây cầu lợi ích tối thắng thì vô thượng, dễ được dễ thành, mau thành tựu, chứng đắc đạo quả. vả lại, nơi này tuyệt nhiên không có các loài muỗi mòng rắn rít bọ cạp, lại không ồn ào, ban ngày ít người lai vãng làm phiền nhiễu, ban đêm dứt bặt tiếng động, yên tĩnh thanh nhàn, khí hậu ấm mát điều hòa, gió mưa hợp thời tiết, đáng làm nơi để lắng tâm tu tập thiền định. Lại thuở xưa có một tiên vua tên là Già-da (nhà Tùy dịch là Tượng) cư ngụ trong đây. Đây là thành cũ tiên vua thuở trước ở.

Khi Bồ-tát thấy cảnh trí như vậy, suy nghĩ: “Địa thế nơi đây bằng phẳng vuông vức, ý trông thấy biết là chỗ được mọi người ưa thích, cho đến… là chỗ có thể tu tập thiền định. Nếu như có kẻ trượng phu muốn trừ các nghiệp, cầu lợi ích vô thượng tối thắng, thì nơi đây đủ điều kiện để cư trú. Ta muốn dẹp trừ các ác nghiệp, tu tập thiện căn, cần phải dừng chân nơi đây, ngồi tại chỗ này, cầu đạo Bồ-đề quyết được thành tựu.”

Bồ-tát suy nghĩ như vậy rồi, liền trải tấm thảm cỏ trên mặt đất để tu tập thiền định. Sau khi an tọa, Bồ-tát suy nghĩ muốn cho tất cả chúng sinh đang tu tập các khổ hạnh cầu đạo giải thoát. Những khổ hạnh đó là: Hoặc có người đứng treo hai tay, để xả bỏ tất cả sự việc  hữu vi thế gian. Hoặc có những hạng người tu tập khổ hạnh như: Khi khất thực họ không nhận vật thực lấy ra từ miệng chum, hoặc khi khất thực họ không nhận vật thực lấy ra từ trong miệng bát nhỏ, có người không nhận vật thực từ giữa hai con dê, có người không nhận vật thực từ người nơi phân dơ, có người không nhận vật thực nơi người chống gậy, không nhận vật thực của người cầm đao gậy. Đó là những trường hợp họ biết chỗ rõ ràng. Khi biết có người đàn bà bất tịnh đến họ chẳng nhận vật thực nơi người ấy, hoặc khi biết đàn bà có chửa cũng không nhận vật thực nơi người này, hoặc họ không nhận vật thực nơi nhà biết có người hành nghề bất tịnh, hoặc họ không nhận vật thực nơi người say rượu, hoặc khi có hai người đang ăn họ cũng không nhận vật thực nơi người này. Khi các người khổ hạnh này ăn, nếu có chó đến họ không ăn; hoặc trên thức ăn có ruồi nhặn hay muỗi bất tịnh dơ bẩn bay đến họ cũng chẳng ở nơi đó mà ăn; hoặc có người cất tiếng kêu: “Đến đây ta sẽ cho người đồ ăn.”, họ cũng không thọ lãnh; hoặc có người xướng lên: “Người đứng đó ta sẽ cho vật ăn.”, họ cũng không nhận vật thực nơi người này; hoặc có người xướng lên: “Ta đang làm món ăn để bố thí người hãy đợi đấy.”, họ cũng không nhận lấy vật ăn nơi người này; hoặc có người chết nên làm thức ăn, họ cũng không nhận lãnh; hoặc có người cho đồ cúng tế chư Thiên còn thừa, họ cũng không nhận lãnh; hoặc vật thực có đường cát, đường cục… cũng không nhận lãnh; hoặc vật thực có bơ dầu… họ cũng không nhận lãnh; hoặc trong vật thực có bơ sữa…, họ cũng không nhận lãnh; hoặc trong vật thực có cá và các loại thịt, họ cũng không nhận lãnh; hoặc trong vật thực có hành tỏi và các mùi gia vị cay hôi nồng nặc, họ cũng không nhận lãnh; hoặc họ chỉ nhận vật thực một nhà vừa đủ ăn một miếng; hoặc họ nhận vật thực hai nhà chỉ đủ ăn hai miếng cho đến họ nhận vật thực bảy nhà lại ăn bảy miếng rồi nghỉ; hoặc một ngày họ chỉ ăn một bữa; hoặc một ngày ăn hai lần, hay một ngày rưỡi mới ăn, hoặc họ trải qua ba ngày, họ chỉ ăn một bữa; hoặc một ngày họ chỉ ăn một ít; hoặc hai ngày họ chỉ ăn một ít; hoặc cho đến bảy ngày họ chỉ ăn một ít; hoặc họ chỉ ăn rau; hoặc họ chỉ ăn hột cỏ dại; hoặc họ chỉ ăn cành cây non; hoặc họ chỉ ăn bơ; hoặc họ chỉ ăn cành cây Ca-ni-ca-la; hoặc họ chỉ ăn toàn phân dê; hoặc họ chỉ ăn toàn phân trâu; hoặc họ chỉ ăn toàn bã mè; hoặc họ ăn trái cây; hoặc họ ăn tất cả loại rễ cây; hoặc họ ăn ngó sen; hoặc họ ăn tất cả nhánh ngọn non của các loại cỏ.

Hoặc họ lại chỉ uống nước để sống; hoặc họ dùng theo số vật thực được nhiều ít để sống; hoặc họ học cách ăn cỏ như loài dã thú để sống; hoặc họ có lúc đứng sừng sững mãi giữa trời; hoặc họ ngồi yên một chỗ không xê dịch; hoặc tứ chi họ chống xuống đất dùng miệng táp đồ ăn; hoặc họ chỉ mặc y phục bằng cỏ, hoặc họ dùng vải bỏ nơi mộ địa làm y phục; hoặc họ mặc y phục bằng các loại cỏ; hoặc họ dùng y phục bằng tơ lụa cũ Kiêu-sa-da; hoặc họ dùng vỏ cây’ị đào trắng làm y phục; hoặc họ dùng cỏ râu rồng làm y phục; hoặc họ dùng da súc vật làm y phục; hoặc họ dùng da súc vật đã cũ làm y phục; hoặc họ dùng lông thú làm y phục; hoặc họ dùng da thú phá rách làm y phục; hoặc họ dùng vải vứt bỏ làm y phục.

Hoặc có người để lõa hình nằm trên gai; hoặc có người nằnn trên tấm ván; hoặc có người nằm trên Ma-ni; hoặc có người nằm trên cây tròn; hoặc có người nằm nơi gò mả; hoặc có người nằm nơi gò mối giống như rắn ở; hoặc có người nằm trên đất trống.

Hoặc có người thờ nước; hoặc có người lại thờ lửa; hoặc có người nhìn theo mặt trời di chuyển; hoặc có người đứng giơ hai cánh tay; hoặc có người ngồi chồm hổm; hoặc có người dùng cát đất, bụi than thoa vào mình, đứng thẳng người; hoặc có người búi tóc, đầu, mặt, mắt mũi không tắm rửa, hai tay nắm chặt; hoặc có người nhổ tóc; hoặc có người nhổ râu.

Hoặc có đạo thờ thần như thần suối, thần ao, thần giếng, thần sông, thần kênh, thần khe, thần đất, thần cây, thần rừng, thần núi, thần đá, thần Dạ-xoa, La-sát, La-hầu A-tu-la vương, Bà-lê A-tu-la vương, Tỳ-chất-đa-la, Diệm-bà-lê A-tu-la vương… hoặc thờ sao Tuế, hoặc thờ Tiên nhân Dược Vương; hoặc thờ Tiên nhân Bà-la-đọa; hoặc thờ Tiên nhân Cù-đàm; hoặc có người thờ Tỳ-sa-môn Thiên vương; hoặc có người thờ chư Thiên Đồng tử; hoặc thờ Tự tại thiên; hoặc lại thờ mặt trời; hoặc lại thờ mặt trăng; hoặc lại thờ chư Thiên Na-la-diên, hoặc thờ Đế Thích; hoặc thờ Phạm thiên; hoặc thờ Tứ đại Thiên vương hộ thế. Thờ các thần như vậy để được hoan hỷ, rồi theo đó cầu nguyện để được mãn nguyện, đều cầu giải thoát.

Bồ-tát quán sát sự cầu giải thoát của họ sai lạc như vậy, Ngài biết rồi phát tâm tu rất khổ hạnh cực khổ đáng sợ.

Có kệ:

Bồ-tát đi đến sông Ni-liên
An tọa bên bờ tâm thanh tịnh
Thấy hàng ngoại đạo tu sai lạc
Nên tu đại khổ giáo hóa người.

Lúc bây giờ Bồ-tát an tọa, ngậm miệng hai hàm răng khít vào nhau, lưỡi co lên đụng nứu răng, nhiếp tâm nhất niệm, chuyên chánh quán sát tư duy thế này. Buộc tâm tại một chỗ, điều phục thân tâm. Khi hai hàm răng khít với nhau, lưỡi đụng vào nứu, nhiếp tâm buộc niệm tu tập, lúc đó mồ hôi nách tuôn ra. Bồ-tát biết mồ hôi nách tuôn ra như vậy, Ngài lại càng phát tâm dũng mãnh tinh tấn, tâm không còn vướng mắc, cũng không tán loạn, tâm trụ trong vắng lặng, tập trung bất động. Thân, khẩu, ý hết sức khổ như vậy, đều không lay động. Lúc ấy Bồ-tát lại có ý nghĩ: “Ta có thể nhập vào chánh định Bất động.”

Khi ấy Bồ-tát không còn dùng miệng thở ra, rồi dùng mũi hít vào nữa, miệng và mũi không hoạt động, thì lúc đó trong hai lỗ tai phát ra tiếng gió lớn, tiếng gió này giống như tiếng động lớn phát ra do khuây mạnh trong chum to để thành lạc. Đúng như vậy, đúng như vậy. Bồ-tát không cho hơi thở ra vào nơi mũi và miệng, lúc đó nơi hai lỗ tai phát ra tiếng hơi gió, cũng làm như vậy…

Ngài nghĩ: “Ta nay đã phát tâm tinh tấn, không còn nơi đắm nhiễm, bỏ cả giải đãi mới được khổ hạnh tối thắng, việc làm hết sức khó làm như vậy.” Rồi Ngài tư duy: “Ta có thể nhập vào chánh định’ Bất động.”

Khi thân, khẩu, ý của Bồ-tát đã được tịch định rồi, Ngài không cho hơi thở ra vào nơi miệng mũi và hai lỗ tai, tất cả đều bít kín. Miệng, mũi và tai đều được vắng lặng, thì hơi thở ở bên trong rất mạnh vì không thoát ra được, nên nó xung lên đảnh đầu, giống như một lực sĩ hết sức dũng kiện cầm một chiếc búa thật bén bổ vào não người khác. Đúng như vậy, như vậy do hơi thở Bồ-tát không thoát ra nơi miệng, mũi và hai tai được, dồn ép bên trong quá mạnh, nên nó xung lên đảnh, giống như tiếng búa đánh vào não.

Bồ-tát lại nghĩ: ‘Ta nay đã phát tâm tinh tấn, không còn đắm nhiễm xả bỏ giải đãi…, cho đến hết sức khổ hạnh, khổ hạnh tối thắng như đây” Suy nghĩ rồi Bồ-tát nhập vào chánh định Bất động.

Lúc bấy giờ Bồ-tát lại đình chỉ tất cả hơi thở từ miệng, lỗ tai và đảnh đầu không cho thoát ra. Do vì ngăn chận không cho thoát ra, nên hơi khí bên trong rất cường thịnh, nó xoay chuyển đập mạnh vào hai bên hông, giống như kẻ đồ tể hay con của đồ tể làm nghề giết trâu, bọn đồ tể hoặc cầm kiếm nhọn hoặc cầm dao bén mổ bụng rồi mổ hai bên hông trâu. Đúng như vậy, như vậy, vì Bồ-tát không cho khí thở thoát ra, nên khí thở bên trong cường thịnh, xuyên phá giữa hai bên hông tạo ra âm thanh cũng lại như vậy. Bồ-tát tư duy như vậy rồi, lại phát tâm tinh tấn đạt đến khổ hạnh tối thắng và suy nghĩ: “Ta nhập vào chánh định Bất động.”

Khi ấy Bồ-tát ngăn chận không cho hơi thở ra nơi miệng, mũi và lỗ tai, do đó hơi khí ở bên trong cường thịnh, ví như hai nhà đại lực sĩ, mỗi người nắm lấy mỗi tay của một kẻ yếu đuối ném vào hầm lửa lớn, thân người này hoặc bị lửa đốt cháy rám. Đúng như thế, như thế, Bồ-tát do hơi thở bên trong không thoát ra được, thân chịu sự nóng bức, cũng lại như vậy. Suy nghĩ như vậy rồi, Bồ-tát lại phát tâm tinh tấn, không còn đắm chấp gì cả, xả bỏ giải đãi, tâm không tán loạn, được chánh niệm, tất cả được vắng lặng. Thân, khẩu và ý đều được chánh định. Đây là khổ hạnh tối thượng, vô cùng kỳ diệu.

Lúc bấy giờ có hàng chư Thiên từ thượng giới xuống, thấy Bồ-tát khổ hạnh như vậy, họ cùng nhau bảo:

-Ngày nay Thái tử Tất-đạt-đa đại trí đã chấm dứt cuộc sống.

Lại có một nhóm Thiên tử khác trong chư Thiên đó nói với nhau:

-Thái tử Tất-đạt-đa ngày nay Ngài chưa chết, chỉ gần chết thôi.

Lại có các Thiên tử khác nói:

-Thái tử Đại thánh Tất-đạt-đa hiện tại chưa chết, sau này cũng không chết. Vì cớ sao? Vì Thái tử là bậc A-la-hán, phàm A-la-hán có hạnh như vậy, chẳng có gì lạ.

Lúc ấy Bồ-tát ở trong rừng thanh vắng, dụng tâm tu khổ hạnh, tức thành vĩ đại khổ hạnh. Lúc bấy giờ dân chúng ở xóm làng bốn phía, cùng đến nơi Bồ-tát đang ngồi, họ thấy Bồ-tát tu khổ hạnh vĩ đại như vậy, đều nói:

-Vị Sa-môn này tu khổ hạnh vĩ đại.

Do đó nên gọi Bồ-tát là Đại Sa-môn. Danh từ Đại Sa-môn để chỉ cho Bồ-tát được khởi xướng từ đây cũng vì lý do này.

Bồ-tát lại tư duy thế này: “Ở trong thế gian có những Sa-môn hay Bà-la-môn hạn chế sự ăn uống để lập hạnh đều giữ lấy sự thanh tịnh. Những hạng người đó, họ chỉ ăn lúa mạch bằng cách hoặc nấu cơm lúa mạch hoặc nấu tấm lúa mạch mả ăn, hoặc dùng lúa mạch biến chế thức ăn để nuôi thân. Hoặc lại có người ăn mè đen, hoặc ăn cháo, hoặc ăn đậu nhỏ, hoặc ăn đậu lớn, cho đến có người chỉ ăn toàn cơm đậu lớn, hoặc nước đậu lớn, hoặc bã đậu lớn, biến chế các thức ăn bằng đậu lớn để nuôi thân. Hoặc có Sa-môn hay Bà-la-môn tuyệt thực để kiến lập tịnh hạnh. Ta nay cũng có thể tuyệt thực để tu khổ hạnh.” Trong tâm Bồ-tát tư duy như vậy.

Lúc bấy giờ có chư Thiên ẩn thân đến chỗ Bồ-tát bạch:

-Mong Đại thánh Nhân giả chẳng nên suy nghĩ đến việc tuyệt thực như vậy. Tại sao? Nếu Nhân giả ngày nay tuyệt thực để lấy đó làm pháp môn tu hành, thì chư Thiên chúng tôi sẽ đem những thức ăn thượng vị đến, cho vào trong các lỗ chân lông của Nhân giả, để cho tánh mạng của Nhân giả được tồn tại, lại để thân thể của Nhân giả khỏi bị suy giảm.

Bồ-tát nghe lời nói của chư Thiên như vậy, lại tư duy thế này: “Ta đã công bố với tất cả mọi người là ta hoàn toàn không ăn các thực phẩm, mà ngày nay chư Thiên ẩn thân đem thức ăn thượng vị cõi trời đến, cho vào lỗ chân lông ta, để mạng ta còn sống. Như vậy có phải ta đại vọng ngữ dối gạt mọi người.”

Ngài nghĩ như vậy, rồi lại bảo chư Thiên:

-Này chư Thiên, tuy các người có lòng tốt, nhưng việc đó không nên làm.

Bồ-tát ngăn chư Thiên không được thực hiện ý đồ đó, rồi mỗi ngày chỉ ăn một loại khác nhau; hoặc một hột mè đen, hoặc một hột gạo, hoặc một hột đậu nhỏ, hoặc một hột đậu lớn, hoặc một hột đậu xanh, hoặc một hột đậu đỏ, hoặc một hột mạch lớn.

Bấy giờ, cách tụ lạc ấy không xa, có một Bà-la-môn tên Tư-na-da-na thuộc dòng họ tôn quý. Bà-la-môn này được vua Tần-đầu nước Ma-già phong cho một tụ lạc gần bên tụ lạc Ưu-lâu-tần-loa. Bà-la-môn này khi được phong ấp, đặt tên là Tư-na-da-na. Lại có một Bà-la-môn khác tên Đề-bà, sinh sống ở thành Ca-tỳ-la, do kinh doanh nên thường đến ở trong thành Tư-na-da-na vài ngày làm khách.

Bấy giờ, Bà-la-môn Đề-bà vì kinh doanh việc khác nên đi đến khu rừng Bồ-tát đang ở. Thấy Bồ-tát đang thực hành khổ hạnh tối thượng, Bà-la-môn này biết ngay và nói:

-Đây là Thái tử TâVđạt-đa ở nước ta, đã tu hành khổ hạnh vĩ đại như vậy.

Thấy Bồ-tát hành khổ hạnh như vậy, ông ta rất hoan hỷ. Thấy Bà-la-môn Đề-bà hướng về mình với tâm hoan hỷ, Bồ-tát bảo ông ta:

-Đại Bà-la-môn, ông có thể cho Ta một ít lương thực để nuôi sống không? Như là đậu nhỏ chín, nước canh đậu lớn, đậu xanh, đậu đỏ… để Ta ăn duy trì mạng sống.

Bà-la-môn ấy với tâm hạn hẹp, thấy biết cạn cợt, không có ý rộng lớn, muốn làm việc bố thí, làm đúng theo lời này, nói với Bồ- tát:

-Thái tử Đại thánh, thức ăn này tôi có thể cung cấp đủ.

Bà-la-môn ấy trong sáu năm từng ngày đem thức ăn như trên dâng cho Bồ-tát. Hằng ngày, Bồ-tát nhận thức ăn này, ăn theo pháp để nuôi thân thể. Bồ-tát chỉ đưa bàn tay ra nhận riêng từng ngày, được một phần rất ít, ăn để sống, như là tiểu đậu chín, nước canh đậu đỏ… Như vậy, Bồ-tát ăn rất ít tùy theo số lượng trên tay nhận được và ăn nước đậu.

Bồ-tát do ăn những thức ăn như vậy, thân thể gầy còm, hơi thở yếu ớt, giống như ông già tám chín mươi tuổi suy nhược hoàn toàn không còn khí lực, tay chân không còn cử động theo ý muốn. Đúng như vậy, như vậy, các xương tay chân Bồ-tát chỉ còn dính liền với nhau cũng như vậy.

Sức lực Bồ-tát ra thế này, là do giảm sự ăn uống chỉ còn quá ít lại siêng khổ hạnh, da dẻ toàn thân nhăn nheo, như quả bầu đắng còn non cắt cuống phơi ở ngoài trời, bị nắng thiêu đốt sắc héo vàng, do quả bầu chưa già nên tóp khô, da nhăn nheo, tự rạn nứt ra từng mảnh như đầu lâu. Đúng như vậy, như vậy, xương đầu Bồ-tát cũng lại như vậy không khác. Do vì ăn quá ít, hai cặp mắt Bồ-tát sâu thẳm, cặp con ngươi thụp sâu vào trong giống như nước đáy giếng, trông thấy như hai ngôi sao. Đúng vậy, đúng vậy, mắt Bồ-tát trông kỹ mới thấy cũng như vậy.

Lại nữa, vì ăn quá ít nên xương sườn hai bên hông giãn cách xa nhau, chỉ còn da bọc lấy xương, giống như những sườn nhà nơi chuồng trâu hay chuồng dê.

Lúc bấy giờ 10 mục đồng chăn trâu, dê và ngựa trong làng lui tới khu rừng này, thấy Bồ-tát tu khổ hạnh như vậy, thấy rồi đều cho rằng việc thật hy hữu, tâm rất hoan hỷ, thường lai vãng cúng dường Bồ-tát.

Vào một hôm trời mùa xuân tươi đẹp, vua Tịnh Phạn du ngoạn, thấy tất cả thảo mộc trong hoa viên đều đâm chồi nảy lộc, trăm hoa đua nở, quang cảnh sáng tươi, các ao hồ rải rác đó đây đầy những loài ngỗng nhạn, hồng nhạn, oan ương… trên mặt nước, trên các cành cây có các loài chim như Anh dục, Anh võ, Câu-si-la, hoặc các loại Khổng tước, Ca-lạng-tần-già, Mạng mạng… cùng nhau vui đùa ca hát líu lo âm thanh vi diệu. Nghe tiếng chim hót, nhà vua thở than sùi sụt, gạt lệ than:

-Ôi thôi! Thái tử Tất-đạt-đa con ta bỗng nhiên bỏ ta xuất gia, vắng bóng đã qua sáu năm chẳng thấy mặt con. Than ôi! Ngày nay một mình ta thọ hưởng cuộc sống như thế này, biết làm gì đây khi ta không thấy Tất-đạt-đa con ta. Ở đây ngày đêm có thể nữ luôn hầu hạ bên mình, tấu đủ các loại âm nhạc như không hầu, tỳ bà, đàn sắc… Ta đang thọ hưởng thú vui ngũ dục tuyệt vời này, còn con ta tại sao sống một mình trong rừng núi vắng vẻ không bóng người, bị các loài dã thú sư tử, hổ lang, bạch tượng… bao vây; hoặc bị chúng dùng nanh vuốt ngấu nghiến tàn hại con ta ở nơi đó nào ai hay biết, hoặc sống hoặc chết bặt vô âm tín!

Tâm trạng buồn rầu khổ não thương nhớ không vui của vua Tịnh Phạn như vậy.

Bấy giờ Bồ-tát đang tu khổ hạnh nơi xứ Ưu-lầu-tần-loa, thân thể gầy ốm tồi tệ, muốn đứng dậy đi đứng, nhưng sức không giữ nổi thân hình, nên vừa muốn đứng dậy lại bị ngã nhào xuống đất. Khi đó chư Thiên cõi Địa cư thấy việc như vậy, cho rằng Bồ-tát sắp qua đời, nên trong tâm ưu sầu, rồi truyền với nhau: “Ngày nay Thái tử Tất-đạt-đa đã gần qua đời.”

Khi ấy, trong chúng chư Thiên có một Thiên tử vội vã đi đến chỗ vua Tịnh Phạn đang ngự, đến nơi tâu với Đại vương:

-Đại vương phải biết, Thái tử Tất-đạt-đa của Đại vương bỏ bốn Châu thiên hạ và bảy báu, vào núi xuất gia, do Ngài tu khổ hạnh nên nay đã bỏ mạng.

Lại có một Thiên tử khác cũng ở trong chúng chư Thiên Địa cư, vội vã đến chỗ Đại vương Tịnh Phạn, bạch với nhà vua:

-Đại vương phải biết, Thái tử Tất-đạt-đa của Đại vương tuy chưa chết, nhưng mạng sống không quá bảy ngày nữa.

Đại vương Tịnh Phạn nghe tin chư Thiên Địa cư nói như vậy, vì thương nhớ con trong lòng bức xúc ưu sầu khổ não la lớn lên:

-Ôi thôi con ta ơi! Con chết một mình trong rừng vắng! Con tuy được thân người không chịu hưởng thú vui ngũ dục, lại cũng không chứng được pháp vị vô thượng.

Đại vương nói lời như vậy rồi, tâm thân mê loạn ngã nhào trên mặt đất chết giấc. Hoàng gia dòng họ Thích bỗng nghe tiếng ta thán của Đại vương Tịnh Phạn như vậy, đều vội vàng chạy đến cung Đại vương. Đến nơi họ dùng lời an ủi tâm trạng Đại vương:

-Đại vương chớ khổ não như vậy, lại nữa long nhan ngày nay của Đại vương quá suy yếu, chẳng nên vì việc này mà hại đến tính mạng.

Đại vương hỏi:

-Ngày nay, nơi thành Ca-tỳ-la-vệ này thân tộc quyến thuộc của ta được bao nhiêu người hiện ở nơi đây?

Tất cả hoàng gia dòng tộc họ Thích liền tâu Đại vương:

-Đại vương biết cho, nay dòng họ Thích ở nơi đây có tất cả chín vạn chín ngàn người.

Đại vương lại hỏi:

-Này các khanh quyến thuộc, nếu muốn bảo tồn tánh mạng ta, thì các khanh nên mau mau đi tìm Thái tử Tất-đạt-đa con ta nay ở chỗ nào?

Khi ấy, tất cả quyến thuộc dòng họ Thích đều tâu:

-Đại vương phải biết, Đại vương có thể dùng một tay nắm lấy các núi rừng, núi Thiết vi và các biển lớn, núi Tu-di mà ném đi phương khác. Việc này còn có thể làm được. Còn Thái tử Tất-đạt-đa phiền não, thì dầu cho tập trung tất cả mọi người nơi thế gian và chư Thiên này để tìm cách đưa Thái tử về hoàng cung, việc này hoàn toàn không thể được.

Lúc ấy người con quốc sư họ Thích tên là Ưu-đà-di tâu Đại vương:

-Đại vương biết cho, con ngày nay có thể đến chỗ Thái tử Tất-đạt-đa xuất gia, đem hết tâm lực dùng lời khuyên nhủ đưa Thái tử trở về hoàng cung.

Đại vương nghe qua lời tâu như vậy, liền bảo người con của quốc sư:

-Hay thay Ưu-đà-di! Khanh có thể đến bên Thái tử, nếu như Thái tử chấp nhận lời của khanh trở lại hoàng cung, thì khanh nên theo sát Thái tử, mau mau cùng nhau trở về. Còn như Thái tử không chịu về, thì khanh cũng lánh khỏi nơi đây không được gặp mặt ta. Tại sao như vậy? Vì khanh nói như vậy, tuy giải được nỗi phiền muộn của ta, nhưng nếu Thái tử không về thấy lại mặt khanh, thì ta bị thất vọng, càng tăng sự ưu sầu.

Lúc bấy giờ, Ưu-đà-di, người con của quốc sư sửa sang xa giá, khởi hành từ thành Ca-tỳ-la, trực chỉ hướng bờ sông Ni-liên thuộc xứ Ưu-lầu-tần-loa. Khi đến nơi, trước tiên ưu-đà-di thấy nhóm năm người Kiều-trần-như có mặt nơi đây, liền hỏi:

-Thưa Nhân giả Kiều-trần-như, hiện nay Thái tử Tất-đạt-đa ở chỗ nào?

Kiều-trần-như đáp lời Ưu-đà-di:

-Thái tử Tất-đạt-đa đã vào trong rừng đang tu khổ hạnh.

Ưu-đà-di lại hỏi tiếp:

-Người hầu cận Thái tử tên gì?

Kiều-trần-như đáp:

-Này Ưu-đà-di, người đó tên là A-xa-du (nhà Tùy dịch là Điều Mã), ông nên hỏi người này.

Khi ấy ưu-đà-di liền đến trước A-xa-du thưa:

-Này A-xa-du, ông có thể đến chỗ của Thái tử, tâu giùm ta lời này: Vương phụ của Thái tử có sai sứ giả đến đây muốn ra mắt Thái tử.

Điều Mã đáp lời Ưu-đà-di:

-Ta thật không dám đến gặp Thái tử để trình lời nói này. Tại sao như vậy? Thưa Nhân giả, Thái tử đã tu khổ hạnh trải qua sáu năm. Từ khi Ngài xuất gia cho đến nay, chưa từng hướng mặt về chốn quê nhà, chỉ ngồi quay lưng; về thành Ca-tỳ-la. Tại sao như vậy? Vì nhàm chán nguy hiểm của cuộc đời. Này Ưu-đà-di, một mình ông có thể vào rừng diện kiến Thái tử để trình bày lời dạy của phụ vương.

Khi ấy ưu-đà-di một mình đi vào rừng, thấy Bồ-tát nằm trên mặt đất, từ đầu đến chân đều bị bụi phủ không còn oai nghiêm tươi sáng, cùng với màu đất, thân thể gầy ốm không còn một chút thịt, chỉ da bọc lấy xương giữ thân mà thôi. Đôi mắt sâu thẳm, giống như ngôi sao đặt dưới đáy giếng, toàn thân co quắp các đốt xương đều giãn ra.

Ưu-đà-di thấy thân hình Bồ-tát như vậy, đưa cao hai tay kêu gào khóc lóc la lớn lên:

-Ôi thôi! Ôi thôi! Người con dòng họ Thích của chúng ta, ngày nay bổng gặp tai nạn đến nỗi này. Thuở xưa, thân hình tuấn tú, nhan sắc tuyệt vời đáng yêu vậy mà ngày nay thân thể ra nông nổi thế này, giống như đất không khác. Đã không được giải thoát an lạc, mà ngược lại tổn hại uổng phí thân hình tốt đẹp.

Khi ấy, nghe tiếng kêu gào của Ưu-đà-di, Bồ-tát hỏi:

-Người này là ai mà trong lòng ưu sầu, ảo não kêu la giống như tiếng của người bị lửa đốt vậy?

Ưu-đà-di đáp lại lời Bồ-tát:

-Bạch Thái tử, tôi là con của Quốc sư trong nước của Thái tử, tên ưu-đà-di, được Đại vương Tịnh Phạn, phụ vương của Ngài phái đến đây thăm và nghênh đón Thái tử.

Bồ-tát lại nói:

-Này Ưu-đà-di, Ta không cần đến sứ giả phiền não này, Ta chỉ muốn được sứ giả Niết-bàn, không muốn sứ giả sinh tử của phụ vương.

Ưu-đà-di lại thưa Bồ-tát:

-Bạch Đại thánh Thái tử, Nhân giả ngày nay lập thệ nguyện gì kiên cường đến thế này?

Bồ-tát đáp lời ưu-đà-di:

-Nguyện rằng thân Ta ở nơi mảnh đất này, dù bị nghiền nát như hạt mè đen hay hạt cải trắng, nếu không được pháp tự lợi và lợi tha.

Tâm Ta vẫn tinh tấn quyết không buông xuôi mà sinh biếng nhác. Thân tâm Ta ngày nay chỉ thệ nguyện như vậy. Ưu-đà-di bạch Bồ-tát:

-Tâu Đại thánh Thái tử, tôi ở trước mặt Đại vương Thái tử đã nhận lời thề: “Con phải quyết định kề bên Thái tử cùng nhau trở về thành.” Ngày nay, Thái tử đã thệ nguyện sâu nặng như vậy, nếu như chưa được pháp tự lợi và lợi tha mà bỏ thân mạng thì làm sao tôi dám rời Thái tử để trái lời thệ nguyện của tôi mà một mình trở về vào, thành Ca-tỳ-la!

Bồ-tát một lần nữa bảo Ưu-đà-di:

-Này ưu-đà-di, Ta ở nơi đây tu khổ hạnh, nếu như chưa được pháp tự lợi, nửa chừng trên đường tầm đạo mà bỏ mạng, ông nên nhặt thi thể cửa Ta khiêng vào thành Ca-tỳ-la theo cửa thành lúc trước Ta ra đi. Hãy vì Ta, ông tuyên bố với tất cả dân chúng trong ngoài thành Ca-tỳ-la: “Đây là hài cốt thi thể của người tinh tấn cương quyết giữ lời chân thật, lập thệ nguyện chánh tâm chánh ý.”

Này Ưu-đà-di, lại vì Ta, ông đáp lời hỏi của phụ vương, ông| nên tâu thế này: “Đại vương phải biết, Thái tử đã vì hết sức tinh tấn chẳng phải do giải đãi nên ngày nay đã bỏ mạng. Cương quyết giữ lời chân thật nên đã bỏ mạng, chứ không dối trá.”

Này Ưu-đà-di, ngày nay Ta tuy như vậy, nhưng ở trong rừng ban đêm ta mộng thấy vô lượng chư Thiên ẩn thân đến bên Ta, đảnh lễ dưới chân và bạch: “Thái tử Tất-đạt-đa, ngày nay Ngài nên rất hoan hỷ! Từ nay trở đi, nội trong bảy ngày nữa, nhất định Ngài sẽ thành tựu điều lợi ích vĩ đại.” Này Ưu-đà-di, Ta mộng thấy như vậy, hoàn toàn không phải là không có. Này Ưu-đà-di, ông nên trở về hoàng cung, Ta chẳng cần cùng ông làm bạn.

Khi ưu-đà-di nghe lời thệ nguyện của Bồ-tát như vậy, nên không còn chút gì hy vọng, liền rời khỏi chỗ Bồ-tát ngồi trong rừng, một mình đi ra khỏi rừng. Sau khi ra khỏi rừng, vị này trở về thành Ca-tỳ-la để yết kiến Đại vương Tịnh Phạn. Đến hoàng cung, ông ta tâu Đại vương Tịnh Phạn:

-Đại vương biết cho, Vương tử Tất-đạt-đa bình an dũng mãnh, còn sống chẳng phải chết.

Đại vương Tịnh Phạn nói:

-Nếu Thái tử con ta bình an không chết, ta còn gì sầu muộn.

Sau khi nghe lời tâu của ưu-đà-di, nhà vua rất hoan hỷ.

Thuở ấy Ma vương Ba-tuần ở Dục giới muốn làm nhiễu loạn Bồ-tát, nên trong sáu năm Bồ-tát tu khổ hạnh, thường luôn luôn âm thầm sát bên Bồ-tát để tìm cơ hội sai lầm nho nhỏ mà chẳng có.

Có kệ nói:

Khung cảnh vắng lặng thật tuyệt vời
Tòng lâm phong cảnh cây tươi tốt
Ưu-lầu-tần-loa phía Đông này
Bên cạnh bờ sông Ni-liên-thiền
Địa thế nơi đây Ngài chọn được
Thệ nguyện kiết già hành khổ hạnh
Phát tâm dũng mãnh đại tinh cần
Nhất định đến nay, Ta giải thoát.
Ma vương Ba-tuần tới nơi này
Đem lời đường mật dối thưa rằng.
“Cúi xin Nhân giả sống lâu dài
Thọ mạng lâu dài mới đắc pháp
Sống lâu mới đức được tự lợi
Tự lợi về sau khỏi hối tiếc.
Giờ đây Nhân giả thân gầy ốm
Nhất định sẽ chết trong chốc lát
Nay thật, Nhân giả ngàn phần chết
May ra phước đức sống một phần.
Nên bố thí nhiều cúng chư Thiên
Đối với thần lửa nên tế tự
Nhờ vậy mới được công đức nhiều
Tu tập thiền định có ích chi
Xuất gia tầm đạo thật gian nan
Điều phục tự tâm đâu phải dễ. ”
Ma gần Bồ-tát bằng cách ấy
Dùng đủ lời lẽ giả ngợi khen.
Bồ-tát khi ấy giọng dịu hiền
Dùng lời sâu sắc đáp Ma vương:
“Ba-tuần phóng dật, ngươi bất thiện
Vì cầu tự lợi, hành thế pháp
Tâm ông cho đó là phước đức
Rốt cuộc không cầu được mảy may.
Nếu người thật sự cầu phước đức
Chẳng nên nói ra lời như vậy
Khổ chết với ta đồng như sống
Thật không một niệm sợ bị chết.
Giả sử chúng sinh đều tận diệt
Tâm ta hoàn toàn không thoái chuyển
Nay xây cầu lớn qua biển dục
Tinh tấn dũng mãnh tu phạm hạnh.
Nếu do phong tai thổi thế gian
Tất cả các sông còn khô cạn
Huống chi máu, dịch trong thân thể
Chất nước trong người cũng cạn khô,
Mỡ tủy chất ướt bị khô trước
Kế đến da thịt lại khô sau
Da thịt tiêu rồi khí lực kém
Tâm ý bấy giờ mới tịch định.
Tất cả tinh tấn thêm tăng trưởng,
Chỉ còn đi vào cửa chánh định
Ta nay muốn tu pháp hạnh này,
Mong cầu đạt đến Vô thượng giác.
Do đó, thân mạng Ta không tiếc
Ngươi biết tâm Ta thật thanh tịnh
Tâm Ta đã đạt chỗ chí thành
Trí tuệ trang nghiêm thật bền vững.
Thế gian chưa thấy có người nào
Có thể ngăn được Ta tinh tấn
Ta thà chịu chết mất mạng người
Không cần sống lâu nơi cung điện.
Trượng phu thà chết, cần chiến đấu
Quyết chẳng tham sống, hàng kẻ khác
Dũng mãnh đã chiến thắng đối phương
Địch đã hàng rồi, nào có sợ
Dũng kiện thì phá được kẻ địch
Ta chẳng bao lâu phá ma chúng:
Ma quân thứ nhất là tham dục
Tên ma thứ hai chẳng hoan hỷ
Thứ ba đói khát cùng lạnh nóng
Đam mê ái dục, ma thứ tư
Ma thứ năm chính là thùy miên
Kinh hãi sợ sệt, ma thứ sáu
Mê hoặc nghi ngờ, ma thứ bảy
Sân hận phẫn nộ, ma thứ tám
Thứ chín tên là tranh lợi dưỡng
Ngu si vô trí ma thứ mười
Cao ngạo kiêu căng ma mười một
Mười hai thường hay hủy nhục người
Các ngươi quyến thuộc ma Ba-tuần
Quân mã hành động đều hắc ám
Chúng ma đến đây hại hành giả
Những bậc Sa-môn Bà-la-môn.
Bọn ngươi thường đi khắp thế gian
Mê hoặc tất cả trời và người
Quân mã các người gặp phải Ta
Đem binh trí tuệ rất hùng cường
Có tài chiến thắng chẳng còn ai
Đại quân các ngươi bị phá sạch
Như nước làm rã bình đất sống
Quân ngươi tiêu tán chẳng khác nào.
Tâm Ta chánh định vững như núi
Phương tiện trí tuệ đều thành tựu
Tâm không phóng dật tu chánh hạnh
Người sao tìm được chút lỗi lầm! ”

Bấy giờ Bồ-tát lại suy nghĩ thế này: “Nếu trong quá khứ có Sa-môn hay Bà-la-môn, vì tự lợi mà tu tập các pháp đại khổ hạnh, hoặc tâm chẳng vui, hoặc cả thân tâm chẳng vui, với các cảm thọ như vậy, thì các Sa-môn Bà-la-môn cũng chẳng hơn khổ hạnh như Ta ngày nay do cầu tự lợi, nên thân và tâm chịu các khổ, chẳng vui. Nếu ở đời vị  lai, có các Sa-môn và Bà-la-môn vì cầu tự lợi, thân tâm thọ các khổ hạnh, cũng chẳng hơn các khổ hạnh của Ta ngày hôm nay do cầu tự lợi, mà thân tâm chịu các khổ hạnh. Nhưng Ta vẫn chưa chứng được pháp thượng nhân, chưa được tri kiến, cũng chưa chứng được tăng ích, vậy có thứ đạo nào để chứng được đạo quả Bồ-đề?”

Rồi Bồ-tát lại tư duy tiếp: “Ta nhớ khi còn trong cung của phụ vương, đi xem nông dân canh tác, Ta gặp tàng cây Diêm-phù-đề mát mẻ. Thấy rồi, liền tĩnh tọa dưới tàng cây, Ta xả bỏ tất cả tâm dục nhiễm, nhàm chán các pháp bất thiện, khởi tâm phân biệt ưa thích tịch định nên sinh hỷ lạc, chứng được Sơ thiền. Ta hãy tư duy lại thiền định đó, con đường này chắc hướng về đạo Bồ-đề.” Bồ-tát suy nghĩ như vậy rồi, y như pháp nhất tâm chánh quán, nhập vào cảnh tịch định, mong nhờ thiền định này mà đạt đến giác ngộ.

Ngài liền nói kệ:

Pháp môn khổ hạnh chẳng ly dục
Chẳng phải chánh đạo đến Bồ-đề
Chẳng phải thắng nhân cầu giải thoát
Chỉ là làm khổ cho thân tâm.
Ngày nay nếu Ta muốn tu học
Cần phải như xưa xem canh tác
Ngồi dưới tàng cây Diêm-phù nọ
Lìa nhiễm chứng được định Tứ thiền.

Khi ấy Bồ-tát lại suy nghĩ: “Lạc của thiền định chỉ lìa các dục và pháp bất thiện, Ta nào không biết cái lạc đó, Ta nên chứng cái lạc đó, vì muốn thành tựu Nhất thiết tri kiến.

Rồi Bồ-tát lại suy nghĩ: ‘Ta muốn thành tựu cái lạc của Nhất thiết tri kiến cần phải có sự sống an lạc. Nhưng ngày nay Ta suy nhược không có sức lực, thì làm sao với chiếc thân suy nhược yếu đuối này mà có thể đạt được lạc ấy? Do vậy, lúc này Ta cần thân thể khỏe mạnh, phải ăn những thức ăn thô; như là đậu nấu hay bánh bún; hoặc dùng dầu hoặc bơ để thoa trên thân, rồi sau đó mới dùng nước nóng tắm rửa thân thể.”

Bồ-tát nói với người hầu cận Bà-la-môn:

-Này Đề-bà, kể từ nay, Ta không dùng những thức ăn như trước để duy trì thân mạng. Ý Ta muốn có thức ăn bổ dưỡng hơn để hồi phục cơ thể như là ăn uống các thứ bánh, bún, đậu nấu…; hoặc dầu mỡ để thoa trên thân và nước nóng để tắm gội. Ông có thể sắm đủ các thứ này cho Ta chăng?

Đề-bà bạch Bồ-tát:

-Ngày nay, tôi không có các thứ như vậy, lại nữa nhà tôi nghèo không thể sắm các vật đó, vả lại nếu lúc này dâng hiến liền cho Bồ-tát cũng không thể được. Nhưng Nhân giả phải lập lời thề, thì tôi sẽ vì Nhân giả dùng mọi phương tiện tìm cầu.

Bồ-tát hỏi:

-Ông muốn Ta lập lời thề gì?

Đề-bà bạch Bồ-tát:

-Khi Nhân giả tu khổ hạnh rồi, tâm nguyện được viên mãn, khi ấy Nhân giả bố thí pháp cho tôi, rồi lại đến nhà tôi thọ vật thực do tôi cúng dường.

Bồ-tát đáp:

-Đúng theo lời nguyện của ông.

Khi Bà-la-môn Đề-bà được Bồ-tát hứa khả rồi, liền vâng lời Bồ-tát ra đi, hướng về nhà Bà-la-môn Tư-na-da-na. Đến nơi Đề-bà nói với Bà-la-môn đó:

-Thưa Nhân giả, mong rằng vui với pháp hạnh, hiện cách làng này chẳng bao xa, có một Sa-môn tu đại khổ hạnh, Ngài trải qua nhiều năm tháng không ăn, nay muốn cầu thức ăn; hoặc cơm, bún, bánh, bơ mỡ, mật, đậu nấu…; hoặc dầu thoa thân và cần nước nóng tắm gội. Nhân giả có thể cung cấp các thứ đó chăng?

Thuở ấy, nhà Bà-la-môn Quân Tướng Tư-na-da-na có hai người con gái, một tên là Nan-đà (nhà Tùy dịch là Hỷ), người thứ hai tên là Bà-la (nhà Tùy dịch là Lực). Hai nàng này dung nhan thật đoan trang xinh đẹp, ở thế gian ít ai sánh bằng. Trước đây, hai nàng từng nghe: “Cách đây về phương Bắc ở dưới chân Tuyết sơn, có một xứ thuộc dòng họ Thích tên là Ca-tỳ-la-bà-tô-đô. Vị vua trị vì thành này họ Thích tên là Tịnh Phạn, đại phu nhân thứ nhất của vua tên là Ma-da. Hoàng hậu sinh một Thái tử, hình dung đẹp đẽ tuyệt vời, dung nhan phi thường hết sức dễ thương, sắc thân như vàng, trên đỉnh đầu tròn như chiếc lọng, mũi như chim anh võ, tay dài quá gối, tất cả bộ phận trên người đều đầy đặn, các căn hoàn bị, giống như tượng vàng, đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhân trang nghiêm thân thể, khắp thân đầy đủ tám mươi vẻ đẹp. Sau khi Thái tử đản sinh, nhà vua mời tướng sư đến xem tướng Thái tử, tướng sư tiên đoán: “Nếu Thái tử ở tại gia nhất định sẽ làm Chuyển luân thánh vương cai trị bốn châu thiên hạ, làm chủ cõi đại địa này, đầy đủ bảy bấu, dùng chánh pháp trị hóa thế gian. Nếu Thái tử xuất gia sẽ thành Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tiếng đồn khắp mọi nơi.”

Hai nàng nghe danh tiếng Thái tử, nên đã từng tỏ lòng mơ ước với cha mình: “Con từng nghe Thái tử họ Thích đẹp đẽ dễ thương vô song như vậy, Thái tử có thể làm chồng chúng con.”

Quân Tướng Tư-na-da-na biết được tin tức Bồ-tát qua Bà-la-môn Đề-bà, bèn bảo hai người con gái:

-Lòng mơ ước của chị em con sẽ thành hiện thực. Tại sao? Các con hãy mau đến chỗ Đại Sa-môn tu khổ hạnh kia. Để làm gì? Sau khi hai con đến đó rồi, thưa thỉnh cung kính cúng dường thức ăn, dâng hiến dầu và bơ dùng để thoa thân, rồi sau đó cung cấp nước nóng để Sa-môn tắm gội. Do việc làm này, sự mơ ước của hai con sẽ được thành tựu.

Hai cô gái của Quân Tướng nghe cha dạy như vậy, liền đem theo thực phẩm, dầu và bơ…, những vật phẩm sẳn có trong nhà, đi đến chỗ Bồ-tát khổ hạnh. Đến nơi hai nàng lễ dưới chân Bồ-tát, rồi đem vật thực dâng lên và bạch Bồ-tát:

-Nguyện Tôn giả nạp thọ vật thực dâng cúng của tôi.

Bồ-tát nhận vật thực của hai nàng, tự ý thọ thực, lấy dầu và bơ thoa vào thân, rồi sau đó mới dùng nước nóng tắm rửa. Khi Bồ-tát dùng dầu bơ thoa vào thân, mỗi thứ theo lỗ chân lông hút vào bên trong cơ thể, giống như đống đất hay đông cát, tất cả dầu bơ thấm vào bên trong, không có một chút ở bên ngoài. Đúng vậy, đúng vậy. Dầu bơ thoa vào thân Bồ-tát đều hút hết vào bên trong, không có một chút dính bên ngoài. Thân thể Bồ-tát lúc bấy giờ vẫn chưa hồi phục như xưa.

Khi Bồ-tát thọ thực xong, bảo hai nàng:

-Hai chị em người muốn hồi hướng công đức này về ý muốn gì? Hai nàng bạch Bồ-tát:

-Thưa Đại Thiện Tôn giả, trước đây chúng tôi nghe dòng họ Thích hạ sinh một Thái tử, hình dung đoan chánh dễ thương, trên thế gian này không có người thứ hai, chúng tôi nguyện vị Thái tử đó cùng kết nghĩa trăm năm.

Bồ-tát bảo:

-Này hai chị em, ta chính là Thái tử dòng họ Thích. Từ nay trở đi, ta nguyện không còn hưởng thọ thú vui ngũ dục. Ta nguyện tương lai sẽ thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nguyện chuyển pháp luân vô thượng.

Hai nàng nghe Bồ-tát nói như vậy, lại bạch Bồ-tát:

-Đại thánh Nhân giả, việc này đúng như vậy, Nhân giả sẽ chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sau khi Ngài đạt đạo rồi, xin đến nhà chúng tôi. Chúng tôi mong được gặp Ngài để làm đệ tử Thanh văn của Tôn giả.

Bồ-tát lại đáp lời hai nàng:

-Đúng vậy, đúng vậy. Đúng như lời nguyện của hai chị em.

Từ đó trở đi hai nàng mỗi ngày đem đồ ăn dâng cúng Bồ-tát, rồi dùng bơ dầu thoa trên mình Bồ-tát và sau đó dùng nước nóng tắm rửa thân thể Bồ-tát. Cứ như thế thân thể Bồ-tát lần lần phục hồi tướng tốt như xưa.

Khi ấy Bồ-tát bảo hai nàng:

-Chị em người từ nay trở đi, hai nàng không được tự ý đem nước tắm thân ta, thôi việc đó đi, chỉ cần đem thức ăn. Vì sao? Từ nay về sau, nếu thân Ta cùng người nữ tiếp xúc thì không được. Ý Ta chẳng thích, ý Ta chẳng phải như vậy.

Thuở ấy, có một kẻ chăn dê vì thấy Bồ-tát tu khổ hạnh thân thể ôm yếu, lại thấy Bồ-tát hết sức siêng năng cần khổ, nên đối với Ngài, sinh tâm hoan hỷ, liền đến nơi quỳ xuống, bạch Bồ-tát:

-Thưa Đại Thánh Tôn giả, ngày nay tùy ý tôi muốn tôn trọng phụng sự cúng dường Tôn giả, không biết ý của Ngài có chấp nhận hay chăng?

Bồ-tát đáp:

-Nếu người thấy đúng lúc, thì sớm sắm các vật tùy theo ý muốn của người.

Người chăn dê liền dùng dầu thoa trên thân Bồ-tát, rồi đem sữa dê dâng cúng cho Bồ-tát dùng, lại bẻ cành đại thọ Ni-câu-đa cắm trên đất che mát cho Bồ-tát. Nhưng do thần lực của Bồ-tát cành cây Ni-câu-đà vừa cắm xuống đất, liền mọc thành thân cây cành lá hoa quả… tất cả đều đầy đủ. Người đương thời trông thấy, gọi cây này là “Cây Ni-câu-đà chăn dê trồng.”

Khi Bồ-tát ăn thức ăn thô, năm vị tiên đồng tu với Bồ-tát, thảo luận với nhau:

-Ngày nay Thái tử Tât-đạt-đa thoái thất thiền định trở lại tính cũ, không còn trì giới, nay Thái tử thành người giải đãi, không còn tịch định, tâm sinh rối loạn.

Phê bình như vậy rồi, đối với Bồ-tát, họ ngao ngán phỉ báng, xa lìa Bồ-tát mà đi nơi khác. Lần lần, họ đến nước Ba-la-nại, vào vườn Nai tu thiền định ở đó.

Có kệ:

Tiên nhân khổ hạnh cả năm người
Thấy Bồ-tát ăn thức ăn cúng
Cho rằng chẳng còn tu thiền định
Phóng túng nuôi dưỡng thân năm đại.