LĂNG GIÀ A BẠT ĐA LA BẢO KINH CHÚ GIẢI
Tam Tạng pháp sư Cầu-na-bạt-đà-la, đời Tống vâng chiếu dịch.
Tỳ-kheo Thích Tông Lặc trụ trì Thiện Thế Thiền Tự ở Thiên giới đời Đại Minh,
Thích Như Dĩ trụ trì Diễn Phước Giảng tự vâng chiếu đồng chú giải.

 

QUYỂN HAI
(Phần 1)

Phẩm 2: NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM

1. Đại Tuệ hỏi về Như Lai Tàng của Phật:

“Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn: Trong kinh Phật nói kho Như lai tự tánh thanh tịnh, chuyển ba mươi hai tướng vào trong thân tất cả chúng sinh, như hạt châu quí ở trong túi áo nhơ. Như lai tàng thường trụ không thay đổi cũng giống như vậy, cột trong chiếc áo nhơ ấm giới nhập và tham dục, sân si, vọng tưởng chẳng thật, các thứ bụi trần làm nhơ bẩn. Đây là lời giảng nói của tất cả các Đức Phật, tại sao Thế tôn đồng với ngoại đạo nói rằng ta nói có Như lai tàng ư! Bạch Đức Thế tôn! Ngoại đạo cũng nói có tác giả thường tồn, lìa ngoài hạt bụi nhỏ cùng khắp chẳng diệt. Bạch Đức Thế tôn! Họ nói có ngã”. Trong ngoài ngôn giáo hoặc có tương tự, nếu không phân rõ thì tà sẽ lẫn lộn với chánh, cho nên Đại Tuệ hỏi: “Phật nói có Như lai tàng đồng với ngoại đạo chấp đắm có thần ngã”. Trước hết nói Như lai tàng tánh thanh tịnh, thể lìa nhiễm ô gọi là thanh tịnh. Như lai tạng này chúng sinh và Phật vốn đồng hay các Đức Phật ngộ điều này khởi dụng ứng thân ba mươi hai tướng. Chúng sinh quên điều Phật ngộ nên chuyển tịnh thành nhiễm, cho nên nói chuyển nhập vào trong chân chúng sinh như hạt châu quí ở trong túi áo nhơ v.v… là ví dụ để hiển bày rất dễ hiểu. Vì sao Đức Thế tôn v.v… Chính là lời kiết vấn. Nói cũng nói có tác giả thường tồn… tức là ngoại đạo chấp thần ngã là thường, đó là năng tác. Lìa các duyên như ấm sở y… thì trùm khắp không diệt nên nói lìa hạt bụi nhỏ cùng khắp chẳng diệt. Kia nói có ngã là ý cho lời nói này đồng với Như lai tàng.

2. Phật giải thích:

“Phật bảo Này Đại Tuệ! Ta nói Như lai tàng chẳng đồng với ngã của ngoại đạo nói. Này Đại Tuệ! Có khi nói không, vô tướng, vô nguyện, như thật tế, pháp tánh, pháp thân, Niết-bàn, lìa tự tánh bất sinh không diệt xưa nay vắng lặng tự tánh Niết-bàn. Những câu như vậy đều nói Như lai tàng. Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác, vì dứt cái sợ vô ngã của kẻ ngu, cho nên nói lìa vọng tưởng vô.

Nhân ấm nối nhau
Duyên và bụi nhỏ
Thắng tự tại tạo
Tâm lượng vọng tưởng”.

Nhân ấm nối nhau: Nhân là ngã, ấm là năm ấm. Ngã ấm này nối nhau không dứt, ngoại đạo chấp pháp này từ tà nhân duyên và bụi nhỏ cùng Thắng tự tại làm tác, tác tức là sinh. Nhưng kia không biết đây chỉ do tâm lượng vọng tưởng mà thôi!.

3. Xin Phật dạy pháp tu hành không xen hở:

“Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ quán chúng sinh đời vị lai, lại thỉnh Thế tôn: Cúi xin nói cho chúng con nghe pháp tu hành không xen hở như các Đại Bồ-tát tu hành đại phương tiện”. Đại Tuệ đã nghe nhập tam giải thoát môn mau chứng đắc Bồ-đề. Bồ-đề là đạo quả, quả chẳng có nhân hạnh thì không thành, hành chẳng có phương tiện thì chẳng tiến, cho nên vì căn cơ chúng sinh đời vị lai nên thưa hỏi cho rõ. Không xen hở, là không xen lẫn gián đoạn.

4. Phật dạy thành tựu bốn pháp được tu hành đại phương tiện:

“Phật bảo Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát thành tựu bốn pháp được tu hành đại phương tiện. Bốn pháp ấy là khéo phân biệt tự tâm hiện, quán ngoại tánh phi tánh, lìa kiến chấp sinh, trụ, diệt, và được tự giác Thánh trí thiện lạc. Đó là Đại Bồ-tát thành tựu bốn pháp tu hành đại phương tiện”. Trong đây, đáp thành tựu bốn pháp là đại phương tiện, phương tiện có nhiều môn, bốn pháp là đại phương tiện, cho nên khác với các phương tiện kia. Nhưng bốn thứ này không ngoài tu tánh nhân quả, nghĩa là toàn tánh khởi tu từ nhân đến quả. Ý nghĩa của bốn pháp này thấy ở văn sau.

5. Đại Bồ-tát khéo phân biệt tự tâm hiện:

“Thế nào là Đại Bồ-tát khéo phân biệt tự tâm hiện? Nghĩa là quán ba cõi chỉ do giới hạn của tâm, lìa ngã, ngã sở không dao động, lìa đến đi, do thói quen huân tập luống dối từ vô thỉ, các thứ sắc hành trong ba cõi trói buộc thân tài, lập ra vọng tưởng tùy nhập hiện. Đó gọi là Đại Bồ-tát khéo phân biệt tự tâm hiện”. Trong phần giải thích phân biệt tự tâm hiện. Nói quán ba cõi chỉ do giới hạn của tâm, ba cõi do vọng tưởng sanh khởi, vọng tưởng không ngoài tự tâm, giới hạn là giới hạn. Biết rõ ngoài tâm không có pháp thì hai thứ chấp người và pháp đều lìa, đâu còn có động tác đến đi, chỉ do huân tập vọng tưởng từ vô thỉ nên có các thứ năm ấm trong ba cõi trói buộc. Nói sắc hành là lược nêu hai ấm trong năm ấm. Do có thân năm ấm nên có tư thân tài vật lập ra. Các pháp như thế đều do tự tâm vọng tưởng hiển hiện, nếu biết xưa nay vắng lặng thì đâu có sinh diệt, đó là khéo phân biệt.

6. Bồ-tát khéo quán ngoại tánh phi tánh:

“Thế nào là Bồ-tát khéo quán ngoại tánh phi tánh? Nghĩa là tất cả tánh như lửa, mộng v.v… tất cả cảnh giới Như lai tàng môn. Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại không nên chấp đắm ngã kiến”. Trong đây đáp trước y theo pháp có phân chia khác nhau. Nói rằng: ta nói Như lai tàng ban đầu không có ngã tướng, chỉ là bày chân phá vọng nên nói ngã và vô ngã, khác với cái ngã do vọng chấp của ngoại đạo. Nói không, vô tướng, vô nguyện là ba không. Không là tánh không, vô tướng là tướng không, vô nguyện là tánh tướng đều không, chẳng có nguyện. Như mé thật, là mé thật chân như. Pháp tánh: Pháp là phép tắc, tánh là không thay đổi. Pháp thân: là phép tắc khuôn mẫu lại lấy pháp tánh làm thân. Niết-bàn là diệt độ. Hoặc nói lìa tự tánh, hoặc nói bất sinh bất diệt, hoặc nói xưa nay vắng lặng, hoặc nói tự tánh Niết-bàn. Các danh từ như vậy đều là tên khác của Như lai tàng. Như lai dùng nhiều danh từ để giảng nói nghĩa Như lai tàng. Vì muốn cho chúng sinh lìa ngã, nhưng do căn cơ ưa thích khác nhau có người sợ nghe danh từ vô ngã, nói cảnh giới vô sở hữu lìa vọng tưởng. Lìa vọng tưởng tức vô ngã, đó gọi là Như lai tàng môn. Môn là năng thông, muốn chúng sinh nhập vào môn này, cho nên khuyên rằng không nên chấp chặt.

7. Dẫn thí dụ tổng kết hiển bày:

“Ví như người thợ gốm, với một đống đất, dùng phương tiện nhân công, nước, cây, bánh xe quay, mà tạo thành các món đồ. Như lai cũng giống như thế, nói pháp vô ngã lìa tất cả tướng vọng tưởng, dùng các thứ trí tuệ phương tiện khéo léo, hoặc nói Như lai tàng hoặc nói vô ngã. Do nhân duyên ấy nên nói Như lai tàng chẳng đồng với cái ngã của ngoại đạo nói, đó gọi là thuyết Như lai tàng. Vì khai mở dắt dẫn các ngoại đạo chấp ngã nên nói Như lai tàng, giúp họ lìa vọng tưởng ngã kiến chẳng thật mà vào cảnh giới ba môn giải thoát, hy vọng mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho nên Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác khởi nói Như lai tàng như thế. Nếu không như vậy thì đồng với ngoại đạo. Cho nên Này Đại Tuệ! Vì lìa kiến chấp của ngoại đạo nên phải nương Như lai tàng vô ngã”. Thí như ở dưới trích dẫn thí dụ tổng kết hiển bày. Một đống đất vốn không có món đồ chắc chắn nhưng người thợ gốm dùng phương tiện nhân công có thể làm thành các món đồ. Dụ pháp vô ngã cũng giống như vậy. Vốn không chắc chắn có tên, do dùng trí tuệ phương tiện nói các thứ tên, như trước nói không, vô tướng, đến Niết-bàn… cho nên tổng kết nói: Hoặc nói Như lai tàng, hoặc nói vô ngã, tên tuy khác nhau nhưng nghĩa thì không khác. Vì khai mở dẫn dắt ngoại đạo chấp ngã nên nói Như lai tàng, muốn cho họ lìa chấp chặt, nhập ba môn giải thoát thành Đẳng chánh giác, đâu có đồng với kiến chấp thần ngã của ngoại đạo. Ba giải thoát là tánh tịnh giải thoát, viên tịnh giải thoát, phương tiện tịnh giải thoát.

8. Đức Thế tôn nói kệ để lặp lại nghĩa trên:

“Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

Vọng tưởng luống dối vô thỉ tập, nhờ quán tất cả tánh, tự tánh. Đại Bồ-tát khéo khởi quán ngoại tánh phi tánh như vậy, gọi là Đại Bồ-tát khéo quán ngoại tánh phi tánh”. Trước quán trong tâm, ở đây tu quán bên ngoài, hai thứ tu quán này nên tùy nghi, chẳng phải dùng cả hai. Nói ngoại tánh phi tánh là biết rõ pháp tánh bên ngoài, chẳng phải do bốn tánh như tự tha… mà sinh, nghĩa là các tánh dương diệm, huyễn, mộng. Tất cả pháp này đều do vọng tưởng thói quen từ vô thỉ làm nhân, cho nên đều chẳng thật như dương diệm, mộng v.v… Đó gọi là khéo quán ngoại tánh phi tánh.

9. Bồ-tát lìa kiến chấp sinh trụ diệt:

“Thế nào là Đại Bồ-tát lìa kiến chấp sinh, trụ, diệt? Nghĩa là tất cả tánh như huyễn, như mộng, tánh tự tha và chung bất sinh, tùy nhập giới hạn của tự tâm, cho nên thấy ngoại tánh phi tánh. Thấy thức bất sinh và duyên không chứa nhóm, thấy vọng tưởng duyên sinh ở trong ba cõi, tất cả pháp trong ngoài đều không thật có. Thấy lìa tự tánh thì chấp sinh sẽ diệt, biết tự tánh các pháp như huyễn v.v… đắc pháp nhẫn vô sinh. Đắc pháp nhẫn vô sinh rồi thì lìa kiến chấp sinh, trụ, diệt, đó gọi là Đại Bồ-tát khéo phân biệt, lìa kiến chấp sinh, trụ, diệt”. Lìa kiến chấp sinh, trụ, diệt, nghĩa là như mộng, huyễn… là nhắc lại pháp quán ở trước. Thấy thức bất sinh trở xuống chính là nói về lìa kiến chấp. Nói do trước quán vì trong thấy tâm thức bất sinh, bên ngoài duyên trần không chứa nhóm, mỗi mỗi tìm kiếm tánh đều không thật có, cho nên nói bất sinh. Bất sinh mà sinh, do vọng tưởng duyên sinh trong ba cõi, các pháp trong ngoài đều đồng một lý, đều không thật có thì lìa tự tánh. Vì lìa tánh nên duyên sinh và kiến chấp đều vắng lặng. Như vậy chứng biết các pháp như huyễn, tức là pháp nhẫn vô sinh. Bất sinh thì không diệt, các kiến chấp sinh, trụ, diệt đều lìa.

10. Bồ-tát được Tự giác Thánh trí thiện lạc:

“Thế nào là Đại Bồ-tát được Tự giác Thánh trí thiện lạc? Nghĩa là được pháp nhẫn vô sinh, trụ Địa thứ tám của Bồ-tát, được lìa tâm, ý, ý thức, năm pháp, ba tự tánh, hai tướng vô ngã, được thân ý sinh”: Tự giác Thánh trí này là được pháp nhẫn vô sinh, ban đầu phá vô minh hiển bày pháp tánh. Nói thiện lạc: Nghĩa là đã được vô sinh rồi, lấy dó làm vui. Lại rói rằng: trụ địa Bồ-tát thứ tám, đây là địa thứ tám của Thông giáo. Bồ-tát đạt đến địa vị này thì mới chứng pháp nhẫn vô sinh, các giáo khác giải thích không thể được, lìa tâm ý thức… đã chứng vô sinh thì có pháp nào để lìa, là chẳng phải lìa mà lìa. Được thân ý sinh, là gốc khởi dụng cũng bỏ ý, được dụng của ý.

11. Nói về ý sanh thân:

Bạch Đức Thế tôn! Thân ý sinh là nhân duyên gì? Phật bảo Này Đại Tuệ! Thân ý sinh, Thí như ý đi nhanh chóng, không gì làm ngăn ngại, nên gọi là ý sinh. Thí như ý đi qua vách đá không ngăn ngại nơi phương khác cách vô lượng do-diên, nhân ngày trước đã thấy nhớ nghĩ chẳng quên, tự tâm trôi chảy chẳng dứt, nơi thân sinh vô chướng ngại. Này Đại Tuệ! Thân ý sinh như thế có đủ trong cùng một lúc. Thân ý sinh của Đại Bồ-tát do năng lực Tam-muội như huyễn tự tại thần thông diệu tướng trang nghiêm, thân chủng loại sinh trong cùng một lúc. Cũng như thân ý sinh không có chướng ngại, tùy chỗ nhớ nghĩ cảnh giới nguyện xưa, vì thành tựu chúng sinh mà được tự giác Thánh trí thiện lạc”. Thân ý sinh: ý có ba nghĩa, lấy đó làm ví dụ: 1. Nhanh chóng. 2. Vô ngại. 3. Đến khắp. Vì nói Bồ-tát được Tam-muội như huyễn hiện thân nhiếp hóa chúng sinh cũng có ba nghĩa này. Phàm phu ý đến mà thân không đến được, thân ý đều đến chỉ có bậc Thánh và người có thần thông mới được như vậy. Nói Tam-muội như huyễn tự tại thần thông, là ý năng sinh. Diệu tướng trang nghiêm thân chủng loại Thánh là thân sở sinh. Cùng sinh trong một lúc giống như ý sinh, là pháp dụ dẫn hợp. Thành tựu chúng sinh là giúp cho họ cũng được thiện lạc.

12. Bồ-tát được pháp nhẫn Vô sinh:

“Đại Bồ-tát được pháp nhẫn vô sinh như vậy, trụ địa Bồ-tát thứ tám của, chuyển xả thân, tâm, ý, ý thức, năm pháp, ba tự tánh, hai tướng vô ngã và được thân ý sinh, được tự giác Thánh trí thiện lạc”. Đó gọi là

Đại Bồ-tát thành tựu bốn pháp, được tu hành đại phương tiện, phải học như thế. Bồ-tát nương bốn pháp này tu hành, thì được từ nhân đến quả, khởi dụng hóa tha, cho nên khuyên rằng thường học như thế.

13. Về tướng nhân duyên của tất cả các pháp:

“Khi ấy, đại Bồ-tát Đại Tuệ! Lại thỉnh Thế tôn: Cúi xin nói cho chúng con nghe tướng nhân duyên của tất cả các pháp. Nhờ hiểu được tướng nhân duyên, con và các Bồ-tát lìa tất cả tánh vọng chấp hữu, vô không có chấp vọng tưởng dần dần đồng sinh ra”. Trên nói tu hành chứng vô sinh nhẫn, nhưng lý vô sinh không hề lìa pháp do nhân duyên sinh. Nếu hiểu rõ ý chỉ này thì sẽ lìa các vọng chấp, cho nên Đại Tuệ vì chúng mà thỉnh. Nói dần dần đồng sinh ra, nghĩa là các pháp tiệm sinh, đốn sinh này đều là tà kiến. Nghĩa thấy ở văn dưới.

14. Phật dạy tất cả các pháp có hai thứ duyên:

Phật bảo Này Đại Tuệ! Tất cả các pháp có hai thứ duyên tướng là bên trong và bên ngoài. Nhân bên ngoài duyên là hòn đất, cây cọc, bánh xe, nước, gỗ, nhân công, các thứ phương tiện làm thành cái bình. Như cái bình đất, tơ lụa, lát chiếu giống mần, tô lạc… phương tiện duyên sinh cũng giống như vậy. Đó gọi là duyên bên ngoài trước sau chuyển sinh. Nhân duyên trong ngoài đều có nghĩa thân sơ, nghĩa là thân sinh làm nhân, sơ trợ giúp làm duyên.

Duyên bên ngoài, hợp có chữ nhân, hòn đất làm nhân, cây cọc bánh xe… làm duyên hòa hợp làm thành cái bình, bình tức là pháp sở sinh. Bình đất nhân duyên đã như vậy. Chẳng hạn như bốn thứ tơ lụa v.v… cũng giống như vậy. Nói trước sau chuyển sinh, nghĩa là nhân trước duyên sau xoay vần mà sinh.

15. Thế nào là duyên bên trong:

“Thế nào là duyên bên trong? Nghĩa là pháp vô minh ái nghiệp v.v… được gọi là duyên. Từ đó sinh pháp ấm, giới, nhập, từ duyên sinh khởi, không có khác nhau, mà người ngu vọng tưởng, đó gọi là pháp duyên bên trong”. Trước nói ngoại là y báo, ở đây nói nội là chánh báo. Nói vô minh nghiệp… sinh pháp ấm, giới, nhập: đây là mười hai nhân duyên. Do quá khứ vô minh hành, mà sinh ấm, nhập, giới, hiện tại cũng do nghiệp ái đời hiện tại sinh ấm, giới, nhập đời vị lai. Cho nên được gọi là pháp duyên bên trong khởi. Kia không khác nhau, nghĩa là vốn không có tiệm sinh, đốn sinh khác nhau, chỉ do phàm phu vọng tưởng phân biệt.

16.Nhân có sáu thứ:

Này “Đại Tuệ! Nhân ấy có sáu thứ, đó là Đương hữu nhân, Nối tiếp nhân, Tướng nhân, Tác nhân, Hiển thị nhân và Đãi nhân. Đương hữu nhân là tạo nhân rồi pháp trong ngoài sinh. Nối tiếp nhân, là tạo phan duyên rồi pháp trong ngoài sinh ra hạt giống của ấm. Tướng nhân là tạo tướng không xen hở nối nhau sinh. Tác nhân là làm việc tăng thượng như vua chuyển luân. Hiển thị nhân là việc vọng tưởng sinh rồi tướng hiện năng tác sở tác như đèn chiếu sáng các hình sắc v.v… Đãi nhân, là khi diệt thì làm nối nhau dứt bỏ vọng tưởng sinh”. Đương hữu nhân, là nhân sở tác là pháp do căn trần sinh ra, là nhân hiện tại, có công năng chiêu cảm quả đương lai. Nối tiếp nhân, nghĩa là căn trần phan duyên thành nghiệp thiện ác, tiếp tục hạt giống ấm về sau, quả lại làm nhân. Tướng nhân, nghĩa là tạo nghiệp tướng thiện ác không xen hở, nhân quả nối nhau không dứt. Tác nhân, nghĩa là đối với nhân lại làm nhân, như vua chuyển luân đã được quả báo tốt lại gieo trồng nhân tốt gọi là tăng thượng. Hiển thị nhân, nghĩa là phàm phu vọng tưởng việc sinh phải có nhân, cảnh tướng năng tác, sở tác như ngọn đèn soi chiếu vật, rõ ràng thấy được. Đãi nhân, nghĩa là khi vọng tưởng diệt thì trở lại tạo tác, khi tạo tác thì trở lại diệt. Nếu niệm nối nhau dứt thì không còn tánh vọng tưởng sinh, do vọng đối đãi với không vọng, đó gọi là đãi nhân.

17. Pháp do sáu nhân sinh ra:

Này “Đại Tuệ! Người ngu kia tự tướng vọng tưởng, chẳng thứ lớp sinh, chẳng đồng thời sinh. Vì sao? Vì nếu là đồng thời sinh thì năng tác, sở tác không phân biệt, không được nhân tướng. Nếu thứ lớp sinh, thì chẳng được ngã tướng. Cho nên thứ lớp sinh mà chẳng sinh, như bất sinh con thì không được gọi là cha mẹ” Đây là pháp lục nhân sinh, chẳng phải hai thứ tướng sinh, chỉ vì phàm phu vọng tưởng phân biệt, cho nên nói không thứ lớp sinh, không đồng thời sinh. Vì sao? Vì tổng kết bất sinh. Nếu tất cả pháp đốn sinh thì nhân năng tác, pháp sở tác không có phân biệt, tìm nhân tướng kia không thật có. Nếu tất cả pháp tiệm sinh mà tìm thể tướng kia cũng không thật có. Cho nên dụ rằng nếu bất sinh con thì đâu được gọi là cha.

18. Nên lìa kiến chấp thứ lớp và đồng sinh:

Này “Đại Tuệ! phương tiện nối nhau thứ lớp sinh, không đúng, chỉ do vọng tưởng mà thôi. Vì phan duyên với duyên thứ đệ, duyên tăng thượng v.v… làm năng sinh và sở sinh. Này Đại Tuệ! Thứ lớp sinh bất sinh, tự tánh vọng tưởng chấp đắm tướng. Thứ lớp và đồng sinh đều bất sinh, vì tự tâm hiện thọ dụng nên tự tướng, cộng tướng, ngoại tánh chẳng có tánh. Này Đại Tuệ! Thứ lớp và đồng sinh đều bất sinh, trừ tự tâm hiện, bất giác vọng tưởng nên có tướng sinh. Cho nên, nhân duyên làm việc tướng phương tiện phải lìa kiến chấp thứ lớp và đồng thời sinh”. Thứ lớp nối nhau phương tiện cầu tướng sinh kia đã không thật có, cho nên nói không đúng, chỉ vọng gọi là sinh! Nói nhân phan duyên v.v… nghĩa là bốn duyên. Tâm duyên trần cảnh gọi là phan duyên, cũng gọi là nhân duyên. Pháp tâm số thứ lớp sinh gọi là thứ đệ duyên. Khi các pháp sinh, tùy tâm hiện bất sinh chướng ngại, gọi là tăng thượng duyên. Tâm gá vào duyên mà sinh, như tâm thức sinh nhãn thức, gọi là duyên duyên. Nói v.v… là đẳng ư duyên duyên. Nói sinh sở sinh nghĩa là vọng tưởng từ bốn duyên này mà sinh, trong đó cầu cũng không thật có, cho nên nói thứ lớp sinh bất sinh. Vì bốn duyên này cũng là vọng chấp, cho nên tiệm và đốn đều bất sinh, chỉ tự tâm hiện thọ dụng. Nhưng đối với ngoại tánh tự tướng cộng tướng, suy cầu cũng vô tự tánh, chỉ trừ kẻ ngu tự sinh vọng tưởng. Cho nên khuyên rằng: nên lìa kiến chấp thứ lớp và đồng sinh.

19. Các pháp thứ lớp và đốn siêu đều bất sinh:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

“Tất cả đều vô sinh,
Cũng chẳng nhân duyên diệt
Đối với sinh diệt kia,
Mà nghĩ là nhân duyên
Chẳng ngăn diệt lại sinh
Nối nhau nhân duyên khởi
Chỉ vì dứt phàm ngu,
Duyên vọng tưởng si hoặc
Pháp duyên khởi hữu vô,
Thảy đều không có sinh,
Bởi thói quen mê chuyển,
Từ đây ba cõi hiện”.

Tất cả đều vô sinh, là nói tất cả các pháp thứ lớp và đốn siêu đều bất sinh. Đã nói bất sinh thì đâu có diệt ư! Chỉ do gốc mê mà nghĩ là sinh diệt. Chẳng ngăn diệt lại sinh, sở dĩ Đức Phật dạy bất sinh không diệt, chẳng phải nói thật duyên khởi vô sinh diệt, mà vì dứt vọng tưởng cho phàm phu nên nói như vậy. Nếu nghiên cứu bản tánh kia sinh chỗ nào, diệt chỗ nào, chỉ do thói quen mê hoặc từ vô thỉ xoay vần nên có ba cõi sinh diệt. Ba hữu tức ba cõi.

20. Chúng sanh kiến chấp sanh diệt đối với chân như thật lý:

“Duyên vô sinh Chân thật,
Cũng lại không có diệt,
Quán tất cả hữu vi,
Như hoa đốm trong không,
Năng nhiếp và sở nhiếp,
Lìa bỏ kiến hoặc loạn,
Chẳng đã sinh sẽ sinh,
Cũng lại vô nhân duyên,
Tất cả vô sở hữu,
Đây đều là lời nói”

Ví như hoa đốm trong hư không là nói chúng sinh đối với chân như thật lý, mà sanh kiến chấp sinh diệt, như dụi mắt thấy hoa đốm. Năng nhiếp và sở nhiếp chính là năng thủ sở thủ, đối với cảnh giới căn trần này, không thấy có tướng hữu vô hoặc loạn… thì đã sinh, sẽ sinh, tất cả hữu vô là lời nói giả danh.

21. Nói tất cả vô sở hữu:

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin vì nói Lời nói Vọng Tưởng Tướng Tâm kinh. Bạch Đức Thế tôn! Con và các Đại Bồ-tát nếu khéo biết Lời nói Vọng Tưởng Tướng Tâm kinh thì có thể thông đạt hai thứ nghĩa lời nói và sở thuyết, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Dùng hai thứ lời nói và sở thuyết làm thanh tịnh tất cả chúng sinh. “Trên đây là nói tất cả vô sở hữu, ở đây đều là lời nói, nhưng phàm ngu đối với lời nói thường sanh các vọng tưởng, không thể hiểu lý. Này Đại Tuệ! Nêu câu hỏi rằng Tâm kinh tức danh tướng, vọng tưởng mà kinh này nói là hiển bày tâm Đệ nhất nghĩa”. Hai thứ nghĩa, Kinh Nhập Lăng-già chép: Thông đạt nghĩa năng thuyết sở thuyết, mau chứng Vô thượng Bồ-đề, giúp cho tất cả chúng sinh đối với hai nghĩa cũng được thanh tịnh.

22. Bốn thứ lời nói là dùng lời bỏ lời:

“Phật bảo Đại Tuệ: lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghĩ ta, sẽ nói cho ông nghe, Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Lành thay, xin vâng thọ giáo. Phật bảo Này Đại Tuệ! Có bốn tướng lời nói vọng tưởng, đó là tướng lời nói, mộng lời nói, quá vọng tướng chấp đắm lời nói và vô thỉ vọng tưởng lời nói. Tướng lời nói, là từ vọng tướng sắc tướng chấp đắm của mình mà sinh. Mộng lời nói là cảnh trước đã trải qua tùy theo nhớ nghĩ một cảnh nào mà sinh, từ khi giác rồi cảnh giới vô tánh sinh. Quá vọng tưởng chấp đắm lời nói, là trước do oán tạo ra nghiệp, tùy theo sự nhớ nghĩ mà sinh. Vô thỉ vọng tưởng lời nói, là lỗi luống dối chấp chặt từ vô thỉ do tự chủng tập khí sinh. Đây gọi là bốn thứ tướng lời nói vọng tưởng”. Trong lý chân thật, lìa một tướng lời nói còn có thể được, đâu thể có bốn. Như lai nói bốn thứ ấy là dùng lời bỏ lời, tuy nói Đệ nhất nghĩa tâm cũng nên lìa chấp, huống chi bốn thứ này đều nói chúng sinh vọng tưởng. Tướng lời nói, nghĩa là từ vọng tưởng sắc tướng phân biệt tự tướng cộng tướng do tự tâm hiện mà sinh ra. Mộng lời nói, nghĩa là nhớ nghĩ các cảnh giới đã trải qua, hình ảnh trong mộng mà có lời nói, nhưng khi thức dậy thì cảnh giới không thật, cho nên nói vô tánh. Quá vọng tưởng chấp đắm lời nói, nghĩa là ngày xưa có kẻ thù làm hại ta, về sau nhớ lại mà sinh tức giận. Vô thỉ vọng tưởng lời nói, nghĩa là thói quen nói những lời vô nghĩa do thói quen vọng chấp sinh ra. Nếu lìa được bốn thứ vọng tưởng lời nói này thì hiển bày lý mầu chân thật.

23. Bồ-tát Đại Tuệ hỏi về cảnh giới do lời nói vọng tưởng hiện ra, và Phật trả lời:

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại dùng nghĩa này khuyến thỉnh Thế tôn: Cúi xin lại nói cảnh giới do lời nói vọng tưởng hiện ra. Bạch Đức Thế tôn! Chỗ nào? Cớ gì? Tại sao? Vì nguyên nhân gì chúng sinh vọng tưởng lời nói sinh: Đây hỏi chỗ lời nói sinh khởi.

“Phật bảo Đại Tuệ: Do đầu, ngực, cổ, họng, mũi, môi, lưỡi, nướu răng hòa hợp mà phát ra âm thanh. Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Lời nói và vọng tưởng là khác hay chẳng phải khác? Phật bảo Đại Tuệ: Lời nói và vọng tưởng chẳng phải khác nhau, chẳng phải không khác nhau vì sao? Vì nhân ấy sinh ra tướng. Này Đại Tuệ! Nếu lời nói và vọng tưởng khác nhau, thì vọng tưởng chẳng phải là nhân. Nếu chẳng khác thì lời nói chẳng hiển được nghĩa, mà thật có hiển được nghĩa, cho nên chẳng phải khác, chẳng phải không khác” bảy chỗ đầu… hơi thở nương nhau hòa hợp phát ra âm thanh mà thành lời nói. Đã nương các duyên mà sinh thì âm thanh là vọng, cho nên có câu hỏi thứ hai là khác không khác, Phật đáp chẳng phải khác chẳng phải không khác, vì phân biệt làm nhân khởi lời nói đó thôi! Lại bảo: Khác thì lẽ ra không nên gọi vọng tưởng là nhân, không khác thì lời nói lẽ ra không hiển bày được nghĩa, nhưng sao có lời nói hiển bày, cho nên nói chẳng phải khác chẳng phải không khác.

24. Phải lìa các tướng nói năng vọng tưởng:

“Đại Tuệ lại bạch Phật: bạch Đức Thế tôn! Lời nói tức là Đệ nhất nghĩa hay sở thuyết tức là Đệ nhất nghĩa? Phật bảo Đại Tuệ: lời nói chẳng phải là Đệ nhất nghĩa, sở thuyết cũng chẳng phải là Đệ nhất nghĩa. Vì sao? Vì Đệ nhất nghĩa Thánh lạc, chỗ lời nói nhập vào, ấy là Đệ nhất nghĩa, chẳng phải lời nói là Đệ nhất nghĩa, Đệ nhất nghĩa chỉ có Thánh trí tự giác mới đạt được. Chẳng phải lời nói vọng tưởng mà giác được cảnh giới. Cho nên lời nói vọng tưởng không hiển bày được Đệ nhất nghĩa. Lời nói là sinh diệt dao động xoay vần do nhân duyên khởi. Nếu xoay vần do nhân duyên sinh khởi thì nó không hiển bày được Đệ nhất nghĩa. Này Đại Tuệ! Vì tướng tự tha vô tánh, nên tướng lời nói chẳng hiển bày được Đệ nhất nghĩa. Lại nữa Này Đại Tuệ! Vì tùy nhập tự tâm hiện lượng nên tánh của các tướng bên ngoài là chẳng có tánh. Lời nói vọng tưởng không hiển bày được Đệ nhất nghĩa. Cho nên Này Đại Tuệ! Phải lìa tướng lời nói các tướng vọng tưởng”. Lời nói là giáo năng thuyên. Sở thuyết là lý sở thuyên, hỏi: ý nghĩa của hai thứ này, đâu là Đệ nhất nghĩa? Phật đáp năng thuyết, sở thuyết đều chẳng phải là Đệ nhất nghĩa, tuy sở thuyên là lý mà chẳng phải các diệu của tự đắc, dường như phải mà chẳng phải. Nhưng chỗ Thánh lạc do lời nói mà vào được, chẳng phải lời nói là nghĩa bậc nhất. Nhưng chỗ lạc của Thánh trí là diệu dụng tự đắc, cho nên nói chẳng phải lời nói vọng tưởng giác được cảnh giới. Lời nói không thể hiển bày được Đệ nhất nghĩa, có ba: a) Lời nói vượt ra ngoài sinh tử dao động, xoay vần duyên khởi vô thường. b) Lời nói vấn đáp có tướng tự tha. c) Lời nói vọng tưởng không rõ các tướng duy tâm là vô. Cho nên răn rằng: Phải lìa các tướng lời nói vọng tưởng.

25. Chỉ có bậc Thánh trí là chứng thật tế:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:

“Các tánh vô tự tánh
Lại cũng không lời nói
Nghĩa sâu xa không không
Ngu si không hiểu được
Tất cả tánh tự tánh
Pháp lời nói như bóng
Con Thánh trí tự giác
Thật tế ta đã nói”

Các tánh vô tự tánh, lìa tâm duyên tướng. Cũng lại không nói năng, là lìa tướng lời nói. Đã bặt dứt lời nói suy tư, đó gọi là Đệ nhất nghĩa không. Kẻ ngu mê muội lý này thì rơi vào tất cả tánh tự tánh của ba cõi… nghĩa là tất cả pháp có tự tánh thì có lời nói, nhưng đều không thật như bóng, chỉ có bậc Thánh trí chứng thật tế là điều ta đã nói.

26. Tổng kết khuyến thính giúp cho đầy đủ hạnh nguyện lợi tha:

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin vì nói lìa một, khác, cùng, chẳng cùng, hữu, vô, chẳng phải hữu, chẳng phải vô, thường, vô thường, chỗ chẳng thực hành của tất cả ngoại đạo, là chỗ thực hành của tự giác Thánh trí, lìa vọng tưởng, tự tướng, cộng tướng, nhập vào Đệ nhất nghĩa chân thật. Các địa nối nhau tiến lên được tướng thanh tịnh, nhập vào bất cứ một địa tướng nào của Như lai, không khai phát bản nguyện. Vì như châu ma-ni có các hình sắc, cảnh giới vô biên tướng hành, tự tâm hiện các cõi, tất cả các pháp. Con và các Đại Bồ-tát lìa kiến chấp vọng tưởng tự tánh, tự tướng, cộng tướng như vậy… mau thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, giúp tất cả chúng sinh được tất cả an vui đầy đủ sung mãn.

Xét rằng “Lìa bốn câu dứt đoạn phi”, là cửa đầu tiên để Bồ-tát vào đạo, cho nên nêu lên để đặt câu hỏi. Trước nêu tướng bốn câu, bốn câu từ một khác đến vô thường có ba: Ban đầu bốn câu một khác hợp lại nói một, khác, vừa khác vừa không khác, không khác chẳng phải không khác, câu là vừa khác vừa chẳng khác, bốn câu là chẳng khác chẳng phải không khác. Bốn câu có không, hợp nói có, không, vừa có vừa không, chẳng phải có chẳng phải không. Bốn câu thường, vô thường, hợp nói thường, vô thường, vừa thường vừa vô thường, chẳng phải thường chẳng phải vô thường. Văn kinh tóm lược, không nêu đầy đủ. Ba điều nghi bốn câu này mỗi câu đều có tông chấp, tất cả ngoại đạo chính là chấp vào điều này. Nói chẳng hành là không thể lìa, chỉ có Thánh trí mới lìa được bốn câu, không chấp có tự tướng, cộng tướng, sẽ chứng giai vị Đệ nhất nghĩa chân thật, dần dần trải qua các giai vị, chứng đến Phật địa. Bản nguyện không khai phát, Kinh Nhập Lănggià chép: Vì năng lực bản nguyện vô công dụng, vì tự tu hành đã mãn lại dùng bổn nguyện đến khắp các cõi Phật hóa độ các chúng sinh. Ví như viên ngọc như ý hiện cảnh giới không nào là không hiện. Vô biên tướng hạnh, tướng là địa tướng, hạnh là hạnh tu hành, tuy vô biên đều do tâm hiện, tướng tất cả pháp khác nhau. Bộ phận tức là khác nhau. Con và các Đại Bồ-tát v.v… là tổng kết khuyến thỉnh giúp cho đầy đủ hạnh nguyện tự tha.

27. Khởi chấp có hai lý do:

“Phật bảo Đại Tuệ: Lành thay! Lành thay! Ông nên hỏi ta nghĩa như vậy, được nhiều an vui, vì được nhiều lợi ích, thương xót tất cả các trời và người đời. Phật bảo Đại Tuệ: Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghĩ, ta sẽ giải thích nói rộng cho ông nghe. Đại Tuệ bạch Phật: Lành thay Thế tôn! Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: Phàm phu ngu si chẳng biết tâm lượng, chấp tánh trong ngoài, nương vào một khác, đồng, chẳng đồng, có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường vô thường, tự tánh là tập nhân chấp đắm vọng tưởng”. Trong đây đáp, ban đầu y cứ chung vào pháp nói có hai: 1. Không biết tự tâm hiện lượng, đối với ấm thân bên trong chấp có pháp bên ngoài, đối với tướng đồng khởi kiến chấp đồng, đối với tướng khác khởi kiến chấp khác, nương hai thứ này mà khởi kiến chấp vừa, lìa hai thứ này mà khởi chấp không vừa, đối với có, không, thường, vô thường giống đều như vậy. 2. Tự tánh tập nhân, do thói quen nhiều đời huân tập mà khởi vọng kiến tà chấp. Đoạn văn dưới có mười hai ví dụ, đều có pháp có dụ có hợp, có đồng có khác, tùy văn chia ra từng mục.

28. Nếu ví dụ để làm sáng tỏ:

“Thí như bầy nai quá khát nước, thấy sóng nắng trong mùa xuân mà tưởng là nước, mê loạn chạy đến tìm, mà không biết chẳng phải nước. Cũng thế, người ngu luống dối vọng tưởng huân tập từ vô thỉ, ba độc đốt tâm ưa cảnh giới sắc, thấy sinh trụ diệt chấp tánh trong ngoài, rơi vào tưởng một, khác, đồng, chẳng đồng, có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường, vô thường, vọng chấp nhiếp thọ”. Nai khát nước thấy sóng nắng không biết chẳng phải nước, người ngu ưa vui mà khồng biết vui là nhân khổ. Nói vọng tưởng huân tập là nghĩa tự tánh tập nhân. Chấp tánh trong ngoài… chính là khởi chấp.

29. Thành càn-thát-bà do vọng chấp mà có:

“Như thành Càn-thát-bà, kẻ phàm ngu vô trí tưởng là có thành, do tập khí chấp đắm tướng từ vô thỉ hiện ra. Kia chẳng phải có thành, chẳng phải không thành. Như vậy, ngoại đạo có thói quen luống dối chấp đắm từ vô thỉ, y nơi chấp thấy một, khác, đồng, không đồng, có không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường, vô thường, không biết rõ tự tâm hiện lượng”. Càn-thát-bà vốn chẳng phải thành, kẻ ngu vô trí do vọng tưởng huân tập mà tưởng là có thành. Đây là dụ cho ngoại đạo không thấu đạt tự tâm hiện khởi vọng chấp một, khác v.v…

30. Tâm khởi chấp nhớ nghĩ cảnh không bỏ:

“Thí như có người nằm mộng thấy nam, nữ, voi, ngựa, xe cộ, thành ấp, vườn rừng, núi sông, ao hồ các thứ trang nghiêm, tự thân vào trong ấy, khi thức rồi vẫn nhớ này. Này Đại Tuệ! Ý ông nghĩ sao? Như vậy những kẻ sĩ phu đối với việc mộng trước còn nhớ chẳng bỏ, vậy có thông minh chăng? Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Không. Phật bảo Đại Tuệ: Phàm phu cũng thế bị ác kiến nhai nuốt, ngoại đạo trí tuệ mà chẳng biết như mộng tự tâm hiện tánh, y nơi kiến chấp một, khác, vừa, chẳng vừa, có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường, vô thường”. Mộng thấy cảnh chẳng phải thật sự, mà còn nhớ nghĩ không bỏ, chẳng phải ngại thì là gì. Đây là dụ cho ngoại đạo tà chấp, không hiểu rõ do tâm khởi các kiến chấp.

“Thí như tượng vẽ chẳng cao chẳng thấp, mà kẻ ngu kia tưởng có cao thấp. Ngoại đạo đời sau cũng thế ác kiến thói quen dẫy đầy, nương vào kiến chấp một, khác, đồng, chẳng đồng, có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường, vô thường, tự hoại và hoại người. Còn có các luận thuyết khác lìa hữu, vô, vô sinh, cũng là lời nói vô, kiến chấp bài bác nhân quả, nhổ gốc lành, phá hoại nhân thanh tịnh. Người thắng cầu phải xa lìa. Nói như vậy là họ rơi vào kiến chấp tự, tha, đồng, là vọng tưởng có không, chìm trong lập ra và chê bai, do ác kiến ấy sẽ rơi vào địa ngục”.

31. Ví dụ tượng vẽ để so sánh với ác tập khởi kiến:

Đây là ví dụ tượng vẽ, để so sánh với ác tập khởi kiến của ngoại đạo hoại mình, hoại người. Còn luận thuyết lìa hữu, vô, vô sinh là chỉ cho chánh giáo, luận chánh giáo lìa kiến chấp vô sinh, mà kia trở lại cho đây là đồng, tự mình thấy cũng là lời nói vô. Thắng cầu, nghĩa là cầu pháp thù thắng, nên lìa kiến chấp này. Vì ngoại đạo kia chấp vào tà kiến sẽ rơi vào đường ác, vậy không sợ hay sao!

32. Ví dụ để nói về chẳng phải tánh, chẳng phải vô tánh:

Thí như mắt nhặm thấy có tóc rũ, liền bảo mọi người rằng “các anh hãy xem đây”, mà tóc rũ thật chẳng phải tánh chẳng phải vô tánh, vì thấy và chẳng thấy. “Cũng thế ngoại đạo vọng kiến hy vọng, nương vào kiến chấp một, khác, đồng, không đồng, có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường, vô thường, chê bai chánh pháp, tự đọa và làm người đọa”. Trong đây ví dụ nói chẳng phải tánh, chẳng phải vô tánh, do chấp có tóc rũ cho nên nói chẳng phải vô tánh, do không chấp có tóc rũ nên nói chẳng phải tánh, các văn khác rất dễ thấy.

33. Kiến chấp điên đảo của ngoại đạo:

“Thí như vòng lửa chẳng thật có vòng, người ngu tưởng có vòng, là chẳng phải người có trí. Cũng vậy, ngoại đạo ác kiến hy vọng, nương vào kiến chấp một, khác, đồng, chẳng đồng, có không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường, vô thường, sinh tất cả tánh”. Đây là dụ cho tà tâm chấp cảnh của ngoại đạo, không mà cho là có, khởi các kiến chấp.

“Thí như bọt nước giống như hạt châu ma-ni, đứa trẻ ngu không biết tưởng là ma-ni, chấp mê đi tìm. Nhưng bọt nước kia chẳng phải châu ma-ni, không chẳng phải châu ma-ni, chấp và chẳng chấp. Cũng vậy, ngoại đạo ác kiến vọng tưởng do thói quen huân tập, đối với vô sở hữu mà nói có sinh, duyên vào hữu nói diệt”. Trong ví dụ bọt nước, đối với vô sở hữu nói có sinh, nghĩa như ví dụ trước. Do không phải phí nên không có nói có, và đối với nhân duyên chính nói có chỗ, thì lại nói đoạn diệt. Đây là kiến chấp điên đảo của ngoại đạo, các trường hợp khác đều như thế.

34. Tu và mê muội không tu:

“Lại nữa Này Đại Tuệ! Có ba thứ lượng năm phần luận, mỗi thứ được lập ra rồi, đắc Thánh trí tự giác, lìa việc hai tự tánh, mà sinh vọng tưởng chấp đắm có tánh”. Ba thứ lượng: hiện lượng, tỷ lượng và Thánh ngôn lượng. Lượng: nghĩa là khuôn mẫu chắc chắn, thí như đong lường các vật. Hiện lượng: Hiện là hiển hiện, tự thân chứng đắc pháp thể lìa vọng phân biệt, chẳng có sai lầm. Tỷ lượng: Tỷ là so sánh, so sánh đo lường mà biết các thứ kia, như cách núi mà thấy khói thì biết có lửa, cách tường mà thấy sừng thì biết có trâu, tuy chẳng phải đích thân thấy nhưng cũng chẳng phải luống dối. Thánh ngôn lượng: Nghĩa là dùng chánh giáo của Như lai làm chuẩn mực. Năm phần luận gồm: 1. Tông. 2. Nhân. 3. Dụ. . Hợp. . Kiết. Ba thứ tông, nhân, dụ cũng gọi là ba chi tỷ lượng. Hợp kiết chỉ thành ba nghĩa này thôi! Như ngoại đạo vọng chấp âm thanh là thường, đối với âm thanh tập lượng rằng: Âm thanh có pháp chắc chắn thường làm tông. Nhân nói rằng: Vì tánh là sở tác cho nên đồng dụ như hư không, nhưng hư không chẳng làm ra tánh cho nên trong nhân bất chuyển, dẫn dụ không đều thì lập thành là thường không thành. Nếu trong Phật pháp, thì thanh là vô thường, lập lượng nói: Âm thanh là có pháp chắc chắn, vô thường làm tông. Nhân nói rằng: Vì có tánh sở tác, đồng dụ như bình chậu; như kinh Lăng-nghiêm chép: Âm thanh lẫn lộn lời nói, chỉ nương vào danh cú vị, chẳng lẽ là thường ư! Ngoại đạo chấp các thứ tự cho là lỗi của người. Nếu không phá bỏ lập lượng kia thì chấp do đâu mà phá, cho nên Như lai tóm lược ba thứ lượng, năm phần luận, tùy theo mỗi thứ dựng lập, tu thì được tự giác Thánh trí, lìa được duyên khởi vọng tưởng hai thứ tự tánh, nhưng kẻ ngu mê chấp giáo vẫn chấp có tánh, vọng tưởng phân biệt.

35. Bốn chấp gọi là nuôi lớn:

Này “Đại Tuệ! Tâm, ý, ý thức, thân tâm chuyển biến, tự tâm hiện năng nhiếp, sở nhiếp các vọng tưởng dứt. Như lai địa tự giác Thánh trí, người tu hành không đối với kia khởi nghĩ là tánh, phi tánh. Nếu người tu hành đối với cảnh giới thuộc về tánh, phi tánh như thế mà còn sinh chấp tướng thì đó là chấp nuôi lớn chấp ngã nhân”. Kinh Nhập Lănggià chép: Các người tu hành chuyển tâm, ý, thức, lìa năng thủ sở thủ, trụ vào Như lai địa, tự chứng Thánh pháp, đối với hữu và vô không khởi vọng tưởng. Này Đại Tuệ! Những người tu hành, nếu đối với cảnh giới sanh ra chấp có, chấp không, thì chấp ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, được gọi là nuôi lớn, là một trong mười sáu tri kiến.

36. Ngoại đạo do cọng tập nêu khởi các kiến chấp:

Này “Đại Tuệ! Nếu nói tánh kia tự tánh, tự tướng, cộng tướng, tất cả đều do hóa Phật nói ra, chẳng phải pháp Phật nói. Lại nữa, các lời nói đều do kẻ ngu hy vọng kiến chấp mà sinh. Chẳng phải vì dựng lập riêng hướng về pháp tự tánh, người được Thánh trí tự giác Tam-muội lạc thú mới phân biệt hiển bày! Như lai nói pháp có thật, có quyền”. Nếu nói các pháp tánh kia thì là pháp quyền do hóa Phật nói. Nếu nói cảnh tự giác Thánh trí Tam-muội lạc thì là pháp thật do chư Phật nói. Nói đều do kẻ ngu hy vọng kiến chấp mà sinh, thì thật ra căn cơ chưa thuần thục, chỉ nói pháp quyền thôi!

“Thí như trong nước có bóng cây hiện, nó chẳng phải bóng, không phải chẳng phải bóng, chẳng phải hình cây, không phải chẳng phải hình cây. Cũng thế, ngoại đạo do kiến tập huân thành vọng tưởng chấp đắm, nương vào tưởng một, khác, đồng, chẳng đồng, có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường, vô thường, mà không thể hiểu biết tự tâm hiện lượng. Thí như gương sáng tùy tâm hiển hiện tất cả sắc tượng mà không vọng tưởng. Kia chẳng phải tượng, không phải chẳng phải tượng, mà thấy tượng, chẳng phải tượng. Như thế, ngoại đạo ác kiến đối với tự tâm tượng hiện mà vọng tưởng chấp đắm, nương vào kiến chấp một, khác, đồng, chẳng đồng, có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường, vô thường. Thí như gió và nước hòa hợp phát ra tiếng. Kia chẳng phải tánh, không phải chẳng phải tánh. Cũng thế, ngoại đạo ác kiến vọng tưởng nương vào kiến chấp một, khác, đồng, chẳng đồng, có không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường, vô thường. Ví như quả đất chỗ không có cỏ cây, do sức nắng nóng thấy như suối chảy, sóng dậy, mây nhóm, đó chẳng phải tánh, không phải chẳng phải tánh, vì tham và không tham. Cũng như thế, kẻ ngu bị thói quen luống dối huân tập từ vô thỉ vọng tưởng chấp đắm nương vào sinh, trụ, diệt, khác, đồng, chẳng đồng, có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường, vô thường, duyên vào sự môn tự trụ, cũng như nắng nóng, sóng mòi kia. Ví như có người dùng chú thuật làm cho máy phát động, chẳng phải trong số chúng sinh, do quỷ Tỳ-xá-xà phương tiện hợp thành dao động lăng xăng, kẻ ngu vọng tưởng chấp đắm có qua lại. Cũng như thế, ngoại đạo ác kiến hy vọng, nương vào kiến chấp một, khác, đồng, chẳng đồng, có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường, vô thường, nói lời vô nghĩa chấp đắm chẳng thật lập ra. Này Đại Tuệ! Cho nên muốn được việc tự giác Thánh trí thì phải lìa các ác kiến vọng tưởng như sinh, trụ, diệt, một, khác, đồng, chẳng đồng, có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường, vô thường…”

Năm ví dụ trên từ ngữ đồng mà ý nghĩa khác, đều dụ cho ngoại đạo vọng tập từ vô, thỉ, không biết các pháp duy tâm nên khởi các chấp bày một, khác, v.v… Nói ý của dụ, chủ yếu giúp cho lìa kiến chấp, hiển tánh. Tổng kết khuyên rằng: Cho nên muốn được tự giác Thánh trí phải lìa các ác kiến vọng tưởng như sinh, trụ, diệt, một đồng… Chú thuật làm cho máy phát động: ngoại đạo ở phía Tây Ấn Độ chú thuật giúp cho quỷ Tỳ-xá-xà vào trong người gỗ đi động như con người, thật chẳng phải chúng sinh, chẳng phải thuộc số chúng sinh.

37. Phật lặp lại bảy ví dụ để nêu lên rằng vốn không có gì mà hiện có chúng sanh:

“Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này mà nói kệ rằng:

Huyễn mộng, nước bóng cây,
Tóc rũ, như dương diệm
Quán ba cõi như thế,
Rốt ráo được giải thoát
Ví như nai bị khát,
Chạy tìm tâm mê loạn,
Nai tưởng cho là nước,
Mà thật không có nước
Cũng vậy, hạt giống thức,
Động chuyển thấy cảnh giới,
Người ngu vọng tưởng sinh,
Như mắt bị màng che
Đối sinh tử vô thỉ,
Chấp đắm tánh nhiếp thọ
Như ngược chốt tháo chốt,
Lìa bỏ tham nhiếp thọ,
Như huyễn chú máy động,
Mây trôi, mộng, điện chớp,
Quán vậy được giải thoát,
Dứt hẳn ba nối nhau
Đối kia không có làm,
Giống dương diệm, hư không
Biết các pháp như thế,
Tức là không biết gì
Ngôn giáo chỉ giả danh,
Kia cũng không có tướng
Đối kia khởi vọng tưởng,
Ấm hành như tóc rũ
Như vẽ, tóc rũ, huyễn,
Mộng, thành Càn-thát-bà
Vòng lửa, như dương diệm,
Vô mà hiện chúng sinh
Thường, vô thường, một, khác,
Đồng, chẳng đồng cũng vậy
Lỗi vô thỉ nối nhau,
Kẻ ngu si vọng tưởng
Gương sáng, nước trong mắt,
Hạt ngọc báu ma ni
Trong ấy hiện các sắc,
Mà thật chẳng thật có
Tất cả tánh hiển hiện,
Như vẽ, như dương diệm
Các thứ sắc hiển bày,
Như mộng, chẳng thật có”

Bài kệ trên đây nói huyễn, mộng, bóng cây mặt nước… là tụng chung văn trên, nhưng ví dụ có lặp lại, văn xen lẫn nhau. Lặp lại ba điều, như dụ mắt nhặm, tóc rũ và mộng, gần bốn lần nêu ra, dụ dương diệm gồm ba lần nêu ra, dụ vẽ tượng lại hai lần nêu ra. Riêng văn tụng trên có bốn, như thành Càn-thát-bà… thiếu bài tụng chỉ nêu ra hai. Như âm thanh và bóng nước, nêu riêng có sáu, như chốt, như mây nổi, như điện, như nước, như mắt sáng, như ngọc ma-ni, đều không có trong văn xuôi. Vả lại ở đây còn tóm lược phân chia, tùy văn mà giải thích. Ban đầu bốn ví dụ mộng…, đều nêu rõ về huyễn, cho nên lấy việc huyễn làm đầu. Nhưng văn xuôi vốn nói rõ phàm phu ngoại đạo vọng khởi kiến chấp. Nay dùng huyễn quán ba cõi do họ không thông đạt lý huyễn, cho nên khởi kiến chấp lại nói về huyễn. Ba thứ nối nhau, y theo văn sau nêu tức ba độc. Nói không biết gì tức là không biết các pháp như huyễn, đó gọi là biết có giác. Đã biết như huyễn thì không biết gì. Ngôn giáo chỉ là giả danh, nghĩa là bốn câu ngôn giáo hữu, vô, v.v… vốn chỉ là giả danh không có thật tướng, do họ không biết nên khởi vọng tưởng. Các ấm tưởng, hành….. tức là thật pháp. Lại nói rằng: Như vẽ, tóc, rũ, huyễn…. gồm lặp lại bảy ví dụ để nêu rõ vốn không có gì mà hiện có chúng sinh, đều là văn trong bài tụng, các văn khác đều rất dễ hiểu.

38. Nêu chung nghi thức nói giúp:

“Lại nữa, Này Đại Tuệ! Như lai nói pháp lìa bốn câu như thế, đó là một, khác, đồng, chẳng đồng, có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường vô thường, xa lìa hữu vô, lập ra chê bai, phân biệt kiết tập chân đế duyên khởi, đạo, diệt, giải thoát. Như lai nói pháp lấy đó làm đầu, chẳng phải tánh, chẳng phải tự tại, chẳng phải vô nhân, chẳng phải hạt bụi nhỏ, chẳng phải thời, chẳng phải tự tánh nối nhau, nói pháp cho nghe. Lại nữa, Này Đại Tuệ! Vì sạch phiền não và chướng sở tri. Thí như người đi buôn thứ lớp dựng lập một trăm lẻ tám câu không thật có, khéo phân biệt các thừa và tướng các địa”: Đoạn này nêu chung nghi thức nói pháp. Vì Như lai nói pháp thường nương nhị đế như nói “lìa cú dứt phi”, thì chân đế không thể nói. Lại nói rằng ly bốn câu rồi không phòng bốn thuyết, thì tục đế có thể nói. Tức bốn thứ không thể nói trong kinh Niết-bàn, có nhân duyên nên cũng có thể được nói. Nói khéo phân biệt kiết tập: như trên nói bốn câu như một, khác… đều là ngoại đạo tà kiến tức là kiết tập, do khổ trôi lăn trong sinh tử, nên khéo phân biệt ngay nơi vọng bày chân, chẳng phải ngoài vọng có chân riêng, cho nên nói chân đế duyên khởi. Nếu mến diệt tu đạo thì được tất cả giải thoát. Giải thoát tức bất tư nghị tục đế. Hai đế này, không hai mà hai, hai mà không hai. Như lai chứng hai đế này tức tự tu hành và hóa độ chúng sinh cho nên nói lấy đó làm đầu. Chẳng phải tánh v.v… chẳng phải thắng tánh mà ngoại đạo chấp. Chẳng phải trời Tự tại… không có nhân duyên nói pháp cho người nghe. Lại bảo rằng: Vì sạch phiền não và sở tri chướng. Phiền não tức hoặc chướng, nhĩ-diệm tức trí chướng, thanh tịnh hai chướng này thì thứ lớp có thể nhập vào một trăm lẻ tám câu trong pháp vô tướng, đến nơi phân biệt các thừa và tướng các địa đều là lành. Như lai khéo dẫn dắt như vậy cũng như người đi buôn dẫn dắt những người đi buôn khác.

39. Có bốn thứ thiền:

“Lại nữa Này Đại Tuệ! Có bốn thứ thiền, bốn thứ thiền ấy là ngu ngu sở hành thiền, quán sát nghĩa thiền, Phan duyên như thiền và Như lai thiền”. Trên đây là nói lìa hoặc chướng và trí chướng, năng nhập pháp môn mà Như lai chứng đắc, nhưng chẳng phải định Thủlăng-nghiêm, thì không thể đến được. Lại nói về bốn thứ thiền định, vì chẳng phải dùng cạn để nêu rõ sâu, nêu gồm có ba cách nói:

a/ “Thế nào là kẻ ngu sở hành thiền? Nghĩa là Thanh văn, Duyên giác ngoại đạo tu hành, quán người vô ngã, tự tướng, cộng tướng, các lóng xương, là tướng vô thường, khổ, bất tịnh, chấp đắm làm đầu. Tướng như vậy chẳng quán khác, trước sau chuyển tiến tướng chẳng dứt trừ. Ấy gọi là kẻ ngu sở hành thiền”. Kẻ ngu thiền, là nói ngoại đạo, Nhị thừa tu dùng pháp kia quán người vô ngã, không thể biết tự tâm hiện lượng, tự tướng, cộng tướng, tánh không đều do kẻ ngu vọng chấp. Lóng xương: là Tiểu thừa quán xương lóng của thân mình và người liền nhau đều do tướng khổ, vô thường, bất tịnh, đối trị vọng chấp quán này làm đầu. Nói tướng như vậy chẳng quán khác: nghĩa là trong định thấy tướng không khác với quán, tướng quán này thành. Tuy thứ lớp tăng tiến đến định vô tưởng, nhưng không lìa tướng, đó gọi là kẻ ngu thiền.

b/ “Thế nào là Quán sát nghĩa thiền? Nghĩa là người vô ngã, tự tướng, cộng tướng, ngoại đạo, tự, tha đều vô tánh rồi, quán pháp vô ngã, nghĩa tướng địa kia thứ lớp tăng tiến, đó gọi là Quán sát nghĩa thiền”. Quán sát nghĩa thiền là Bồ-tát thiên giáo tu, nghĩa là nhân ngã v.v… lặp lại điều trước đã lìa. Ngoại đạo, tư, tha… Kinh Nhập Lăng-già chép: Cũng lìa ngoài đạo, tự, tha, đồng, tánh, đối với nghĩa tướng các địa của pháp vô ngã mỗi pháp đều thuận theo quán sát.

c/ “Thế nào là phan duyên như thiền? Nghĩa là vọng tưởng theo hai thứ vô ngã vọng tưởng, chỗ như thật bất sinh vọng tưởng, đó gọi là phan duyên như thiền. Phan duyên như thiền là hạnh tu của Bồ-tát Đốn giáo, Kinh Nhập Lăng-già gọi là Duyên chân như thiền. Duyên tức là quán, chân như tức là lý, nghĩa là quán lý sẽ dứt vọng tưởng. Vọng tưởng chính là chấp người và chấp pháp”. Hai vô ngã, là quán hai chấp đều không. Nếu chỉ phân biệt, tâm còn chấp xả thì đó là vọng tưởng. Nếu hiểu rõ hai thứ chấp đương thể tức không, chẳng có đối đãi thì đó gọi là chỗ như thật bất sinh vọng tưởng.

d/ “Thế nào là Như lai thiền? Nghĩa là vào cõi Như lai, được tướng giải thoát Thánh trí, ba thứ lạc trụ, thành tựu việc không thể suy nghĩ bàn luận cho chúng sinh. Đó gọi là Như lai thiền”. Như lai thiền tức là định Thủ-lăng-nghiêm, tu thiền định này được lên địa Diệu giác, rốt ráo tự giác Thánh trí. Ba thứ lạc trụ, Phật dùng định Thủ-lăng-nghiêm làm pháp năng trụ, cõi Thường tịch quang làm pháp sở trụ. Thường tịch quang tức ba đức Niết-bàn. Ba thứ lạc trụ kia là do đây. Sự không thể suy nghĩ bàn luận là công dụng nhiệm mầu vô tác, nghĩa là toàn thể khởi dụng thành tựu chúng sinh..

40. Phật dùng bài kệ để lặp lại ý nghĩa bốn thứ thiền:

Khi ấy Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

“Thiền phàm phu thực hành,
Thiền quán sát tướng nghĩa
Thiền phan duyên như thật,
Như lai thanh tịnh thiền
Thí như hình trời trăng,
Bát-đầu-ma sâu hiểm
Như hư không lửa hết,
Người tu hành quán sát
Các thứ tướng như vậy,
Đạo thông thiền ngoại đạo
Cũng rơi vào Thanh văn
Và cảnh giới Duyên giác
Lìa bỏ tất cả kia
Tức là vô sở hữu
Các Phật tất cả cõi
Dùng tay không nghĩ bàn
Cùng lúc đều xoa đảnh
Thuận theo nhập tướng ấy”,

Thí như hình mặt trời, mặt trăng, v.v… vượt ngoài tướng thiền để nói lên được mất, nghĩa là ở trong định hoặc thấy như hình mặt trời, mặt trăng, hoặc thấy Bát-đầu-ma, Hán dịch là hoa sen hồng, hoặc thấy biển có hình dáng sâu thẳm nguy hiểm, hoặc như hư không, hoặc như lửa hết, đều thành tàn lửa. Nếu người tu hành thấy các tướng như vậy hiện ra thì không nên chấp đắm, chấp thì sẽ rơi vào trong tà thiền của ngoại đạo, và cảnh giới Nhị thừa. Phải khéo quán sát, đều phải lìa bỏ, chẳng thấy trong đó có một pháp thật có. Thì không có chỗ để nhập vào Như lai thiền.

41. Phật nói có ba thứ Niết-bàn:

“Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Nhập Niết-bàn, nói pháp gì gọi là Niết-bàn”. Niết-bàn có ba thứ, là ngoại đạo vọng chấp Niết-bàn, Nhị thừa chấp chứng Niết-bàn, Như lai rốt ráo Niết-bàn. Ba thứ Niết-bàn này tên tuy giống nhau mà thật thì rất khác nhau, nếu không dùng pháp để đính chính danh từ ấy, thì Như lai tạng và phàm phu Tiểu thừa lẫn lộn, không thể không làm rõ nghi vấn này.

42. Dù chuyển nhưng tự thể không chuyển:

“Phật bảo Đại Tuệ: Tất cả tự tánh, thói quen, tạng, ý, ý thức, kiết tập chuyển biến gọi là Niết-bàn. Các Đức Phật và Niết-bàn của ta là cảnh giới tự tánh không sự”. Tất cả tự tánh thói quen, Kinh Nhập Lănggià chép: tất cả thức tự tánh thói quen vậy, tức là thói quen phân biệt tánh chấp của tâm thức tất cả chúng sinh. Tạng, ý, ý thức, tức tàng thức và sự thức: Ở đây nói tự tâm, đều nói là tập, do ái kiến vọng tưởng huân tập từ vô thỉ. Chuyển biến, nghĩa là chuyển tạng thức sự thức thành cảnh giới tự giác Thánh trí, gọi là Niết-bàn. Nhưng tất cả chúng sinh tức là tướng Niết-bàn thì có gì để chuyển biến. Đó là chuyển mà thể không chuyển. Các Đức Phật và ta, Phật nghĩa là Niết-bàn rốt ráo này, ta và các Đức Phật đồng chứng. Chứng không có chứng khác, chỉ thoát khỏi sinh tử tức là Niết-bàn. Tánh Niết-bàn cũng không thật có, đó gọi là cảnh giới không sự.

43. Niết-bàn không hoại không diệt:

Lại nữa, Này Đại Tuệ! Niết-bàn là cảnh giới Thánh trí tự giác, lìa đoạn thường, vọng tưởng tánh, phi tánh. Thế nào là phi thường? Nghĩa là tự tướng, cộng tướng vọng tưởng dứt cho nên phi thường. Thế nào là phi đoạn? Nghĩa là tất cả các bậc Thánh quá khứ, hiện tại, vị lai được tự giác gọi là phi đoạn”. Lìa tình cho nên phi thường, hiển bày tánh cho nên phi đoạn.

Này “Đại Tuệ! Niết-bàn không hoại không chết. Nếu Niết-bàn chết thì, lại phải thọ sinh nối nhau. Nếu hoại thì lẽ ra rơi vào tướng hữu vi. Cho nên, Niết-bàn lìa hoại lìa chết. Vì vậy cho nên là chỗ nương về của người tu hành” Niết-bàn nói không hoại không chết, là đối với có hoại có chết mà nói. Vì Niết-bàn là lý bất sinh bất diệt. Nếu phàm phu là có hoại có chết, thì Tiểu thừa vào chân không Niết-bàn, nguội thân vô thân, diệt trí vô trí, cũng có thể gọi là bất hoại bất tử. Tuy lìa sinh phần đoạn, lại thọ sinh biến dịch, vậy là có tướng nối nhau. Tuy lìa chỗ có lại chấp chỗ không, là thuộc pháp hữu vi. Nay Niết-bàn của Như lai lìa các tướng này, đó gọi là chỗ trở về của người tu hành Đại thừa.

44. Tổng kết nghĩa trên:

Lại nữa Này Đại Tuệ! Niết-bàn chẳng phải xả, chẳng phải đắc, chẳng phải đoạn, chẳng phải thường, chẳng phải một nghĩa, chẳng phải nhiều nghĩa, đó gọi là Niết-bàn. Tiết này là tổng kết nghĩa trên. Nói chẳng phải một là phi không, chẳng phải nhiều là phi giả. Phi không phi giả là nói lên trung đạo Đại Niết-bàn.

“Lại nữa, Này Đại Tuệ! Niết-bàn của Thanh văn, Duyên giác là giác được tự tướng cộng tướng, cảnh giới chẳng tu tập gần gũi, chẳng có kiến chấp điên đảo, vọng tưởng chẳng sinh, các vị ấy đối với kia nghĩ là Niết-bàn. Nhị thừa đối với ấm giới nhập, tự tướng, cộng tướng, thực hành quán khổ không vô thường vô ngã, tha thiết nhàm chán sinh tử, không ưa tu tập gần gũi”. Nói chẳng có kiến chấp điên đảo là dứt kiến hoặc. Vọng tưởng bất sinh là dứt tư hoặc. Đã diệt khổ tập mà chứng chân không, cho nên nói đối với kia khởi nghĩ Niết-bàn.

“Này Đại Tuệ! Hai tướng tự tánh. Hai tướng ấy là tướng lời nói tự tánh chấp đắm và sự tướng tự tánh chấp đắm. Lời nói tự tánh tướng chấp đắm là từ vô thỉ lời nói luống dối, thói quen khí chấp đắm sinh ra. Sự tự tánh tướng chấp đắm, là từ bất giác tự tâm hiện giới hạn sinh”. Hai thứ tánh tướng khởi mỗi thứ đều có nguyên nhân. Như kinh nói, nếu hiểu các pháp lời nói tánh không, chỉ do tâm hiện thì có gì để chấp đắm ư! Sự tức các pháp.

45. Hai thứ thần lực kiến lập:

“Lại nữa này Đại Tuệ! Như lai dùng hai thứ thần lực lập ra. Đại Bồ-tát đảnh lễ các Đức Phật nghe nhận hỏi nghĩa. Thế nào là hai thứ thần lực lập ra? Nghĩa là thần lực trong Tam-muội chánh thọ, vì hiện tất cả thân, vẻ mặt, lời nói và thần lực tay quán đảnh”. Hai thứ thần lực lập ra, Kinh Nhập Lăng-già chép: Các Đức Phật có hai thứ gia trì thì các Bồ-tát khiến đảnh lễ dưới chân Phật thưa hỏi các nghĩa, Tam-muội tức là chánh thọ. Đây là Hoa Phạm gồm nêu, cũng dịch là chánh tâm hành xứ.

46. Do thần lực Phật nên được thấy Phật:

Này “Đại Tuệ! Đại Bồ-tát khi được Địa thứ nhất Bồ-tát trụ thần lực Phật, nghĩa là nhập Tam-muội Bồ-tát Đại Thừa Chiếu Minh. Nhập Tam-muội này rồi thì tất cả các Đức Phật trong các thế giới ở mười phương, dùng năng lực thần thông, vì hiện tất cả thân, vẻ mặt, lời nói, như Đại Bồ-tát Kim Cương Tạng và các Bồ-tát khác tướng công đức như thế thành tựu Đại Bồ-tát”. Trụ thần lực Phật, do thần lực Phật có thể thấy Phật. Lại do gốc lành Tam-muội của Bồ-tát có công năng cảm ứng đến các Đức Phật, cho nên gọi là nhập Tam-muội Đại Thừa Chiếu Minh, tức định quang minh. Do định nên thấy Phật nghe pháp. Như Kim cương tạng, tức trong hội Hoa Nghiêm, một vị Bồ-tát được Phật lực che chở, so sánh một với nhiều, cho nên nói và các Bồ-tát khác.

47. Tổng kết lại hiển bày:

Này “Đại Tuệ! Đó gọi là Bồ-tát Địa thứ nhất. Đại Bồ-tát được thần lực Tam-muội chánh thọ của Bồ-tát trong trăm ngàn kiếp chứa nhóm gốc lành thành tựu, thứ lớp các địa đối trị sở trị, thông đạt rốt ráo đến Pháp Vân địa, trụ trong cung điện nhiệm mầu đại liên hoa, ngồi tòa sư tử báu Đại Liên Hoa, đồng loại với Đại Bồ-tát quyến thuộc

vây quanh, các thứ báu anh lạc trang nghiêm thân, như hoa chiêm bặc vàng ròng, sáng sáng mặt trời mặt trăng”. Các bậc Tối thắng tử từ mười phương đến, đến ngồi trên tòa trên cung điện Đại Liên Hoa, mà quán đảnh kia. Thí như Tự Tại chuyển luân Thánh vương và Thái tử của trời. Đế-thích được quán đảnh, đó gọi là Bồ-tát tay quán đảnh thần lực này. Này Đại Tuệ! Đây gọi là Đại Bồ-tát hai thứ thần lực. Nếu Đại Bồ-tát trụ hai thứ thần lực này, tạn mặt thấy các Đức Phật Như lai, nếu không như vậy thì không thể thấy trong trăm ngàn kiếp. Ở đây nói sở dĩ hàng Bồ-tát Địa thứ nhất được gia bị, thứ lớp các địa trở xuống từ cạn đến sâu. Thí như Tự tại trở xuống lại nêu ra việc quán đảnh. Nếu không như vậy thì không thể thấy, tổng kết lại hiển bày.

48. Giải thích nghĩa che chở:

“Lại nữa, Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát hễ có hành phân biệt Tammuội thần túc các pháp, thì những vị ấy tất cả đều trụ trong hai thứ thần lực của Như lai. Này Đại Tuệ! Nếu Đại Bồ-tát lìa thần lực của Phật mà giảng nói, được thì tất cả phàm phu cũng nên giảng nói được. Vì sao? Vì không trụ thần lực. Này Đại Tuệ! Núi đá cây cối và các thứ nhạc khí thành quách cung điện, do năng lực oai thần của Như lai khi nhập thành đều tự nhiên phát ra tiếng âm nhạc, huống chi là người hữu tâm, mù điếc câm ngọng, vô lượng các khổ, đểu được giải thoát. Như lai có vô lượng thần lực như thế làm lợi ích an vui chúng sinh”. Hễ có phân biệt trở xuống, lại giải thích nghĩa che chở, huống chi sau khởi ý giải thích. Nghĩa là Bồ-tát hễ có giảng nói các pháp Tam-muội, đều do trụ thần lực của Phật, tức do phàm huống chi Thánh, ý nói Bồ-tát nếu lìa thần lực thì không thể nói, huống chi là phàm phu. Nếu được thần lực thì tuy vật vô tình cũng đều hữu dụng. Huống chi hữu tình mà không được thoát khổ ư! Nhưng nói phàm phu không trụ thần lực, chính là Thánh lấn đoạt phàm! Lại nói rằng: Như lai có thần lực như vậy, tức Như lai ở trong đại định vắng lặng mà thường chiếu nói xứng tánh, lập bày muôn thứ không gì là chẳng được, cũng đâu có ý đối với kia ư!

49. Lý do vì sao Như lai che chở Bồ-tát?

“Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Vì saoNhư lai Ứng cúng Đẳng chánh giác, vì sao khi Đại Bồ-tát khi trụ Tam-muội chánh thọ, và khi thắng tiến địa quán đảnh thì được Phật dùng thần lực che chở? Phật bảo Đại Tuệ? Vì lìa nghiệp ma phiền não và chẳng rơi vào thiền Thanh văn địa, vì được Như lai tự giác địa và tăng tiến pháp sở đắc. Cho nên Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác đều dùng thần lực lập ra các vị Đại Bồ-tát. Nếu không dùng thần lực lập ra thì sẽ rơi vào ngoại đạo ác kiến vọng tưởng, các chúng Thanh văn và chỗ hy vọng của chúng ma, không chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì lý do đó các Đức Phật Như lai đều dùng thần lực, nhiếp thọ các Đại Bồ-tát.

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

Thần lực nhân trung tôn,
Đại nguyện đều thanh tịnh,
Tam-ma-đề quán đảnh,
Địa thứ nhất và Thập địa”.

Đoạn văn này lại hỏi lý do vì sao Như lai che chở Bồ-tát? Như lai đáp do bốn nghĩa, xem kinh sẽ thấy. Vì Bồ-tát sơ tâm đạo lực chưa đầy đủ, nếu không nhờ vào thần lực Như lai che chở thì chẳng những không thể tăng tiến đến Như lai địa, mà còn không thể xa lìa Thanh văn và cảnh giới ma. Ý Như lai từ bi nhiếp thọ, có thể nói là rất sâu sắc. Kệ tụng có giải thích.

50. Nhân duyên có chánh có tà:

“Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Phật nói duyên khởi tức là nói nhân duyên, chẳng tự nói đạo. Thế tôn! Ngoại đạo cũng nói nhân duyên, nghĩa là Thắng, tự tại, thời, hạt bụi nhỏ sinh, các tánh sinh như thế. Nhưng Thế tôn bảo là nhân duyên sinh các tánh nói năng, hữu gián tất-đàn và Vô gián tất-đàn” nói nhân duyên có chánh có tà, Phật nói là chánh, ngoại đạo nói là tà. Hai điều này không thể không biết, vậy nên Đại Tuệ đều nêu lên để hỏi. Không tự nói đạo nghĩa là Phật nói duyên khởi. Vì không nói duyên khởi, cho nên nói không tự nói đạo, ngoại đạo nói do thắng tự tại v.v… nên các tánh sinh, các tánh tức các pháp, nhưng cùng pháp do nhân duyên sinh do Như lai nói trùng lắp căn cơ ngôn giáo, là hữu gián khác! Hay là Vô gián khác!

Tất-đàn tức là căn cơ bốn tất-đàn.

51. Bồ-tát Đại Tuệ thưa hỏi:

“Thế tôn! Ngoại đạo cũng nói hữu vô có sinh, Thế tôn cũng nói không có sinh, sinh đã diệt. Như lời Thế tôn nói, vô minh duyên hành cho đến già chết. Đây là Thế tôn nói không nhân, chẳng nói có nhân. Thế tôn lập ra nói như vầy: “đây có nên kia có”, chẳng phải lập ra thứ lớp sinh. Xét ngoại đạo nói Thắng, chẳng phải Như lai. Vì sao? Bạch Đức Thế tôn! Vì ngoại đạo nói nhân, không từ duyên sinh mà có sở sinh. Thế tôn nói quán nhân có sự, quán sự có nhân, như vậy nhân duyên rối loạn, như vậy xoay vần không cùng”. Cũng nói hữu vô có sinh, ngoại đạo nói hữu từ vô hữu sinh, thì là vô nhân mà thôi! Cũng nói vô hữu sinh… Phật nói vô hữu, sinh sinh đã diệt, như vô minh duyên hành v.v… Đâu chẳng phải Phật nói cũng vô nhân ư! Thế tôn lập ra trở xuống, do lẫn lộn khó nói. Phật thường nói đây có nên kia có, thì sinh trong một lúc chẳng phải sinh dần dần, đó chẳng phải chỉ đồng đều mà thôi! Cũng lại thấy thuyết của ngoại đạo là hơn, thuyết của Ngoại đạo nhân là nhân khác. Phật nói không đồng, như quán nhân có sự v.v… đã có lẫn nhau thì thành lẫn lộn, cho nên có lỗi xoay vần vô cùng. Đây đều là chỗ vặn hỏi của Đại Tuệ.

52. Bác bỏ câu hỏi và giải thích ý chính:

“Phật bảo Này Đại Tuệ! Ta chẳng nói thuyết vô nhân và nhân duyên lẫn lộn. Nói đây có nên kia có, là năng nhiếp sở nhiếp phi tánh, giác tự tâm hiện lượng. Này Đại Tuệ! Nếu chấp đắm năng nhiếp sở nhiếp, không giác tự tâm hiện tượng thì cảnh giới bên ngoài là tánh phi tánh, kia có lỗi như vậy chẳng phải ta nói duyên khởi. Ta thường nói rằng nhân duyên hòa hợp mà sinh các pháp, chẳng phải vô nhân sinh”. Trong đây đáp, trước phá chung nạn kia, tiếp giải thích ý chính. Đây có cho nên kia có, đây là sáu căn, kia tức sáu trần, nghĩa là căn trần nương nhau mà khởi. Năng nhiếp, sở nhiếp phi tánh… là hiểu rõ pháp do nhân duyên sinh do tâm hiện, không có năng thủ, sở thủ. Phi tánh là lìa tánh chấp. Nếu chấp đắm năng nhiếp sở nhiếp, Kinh Nhập Lăng-già chép: Nếu không rõ các pháp do tâm hiện, chấp có năng thủ sở thủ, chấp đắm cảnh bên ngoài, hoặc có hoặc không, kia có lỗi như thế, chẳng phải lỗi ta nói, tức lẫn lộn. Kia tức ngoại đạo. Tánh phi tánh tức hữu vô. Nhân duyên hòa hợp mà sinh, chính là đáp câu hỏi vô nhân, đâu có đồng với tà chấp vô nhân của ngoại đạo.

“Đại Tuệ lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Chẳng phải lời nói có tánh, mà có tất cả tánh ư! Bạch Đức Thế tôn! Nếu không tánh thì lời nói chẳng sinh. Cho nên lời nói có tánh. Có tất cả tánh, vì ở trên nói pháp do nhân duyên sinh, liền nghi lời nói có tánh, tất cả các pháp cũng đều có tánh ư! Nếu các pháp vô tánh thì lời nói từ đâu khởi, liền tổng kết thỉnh rằng: Lời nói có tánh, có tất cả tánh.”

53. Tổng kết luận thuyết của đối phương sẽ hoại:

“Phật bảo Này Đại Tuệ! Vô tánh mà có lời nói, nghĩa là như sừng, thỏ, lông rùa v.v… Thế gian hiện lời nói. Này Đại Tuệ! Phi tánh chẳng phải phi tánh, chỉ có lời nói mà thôi. Như lời ông nói lời nói có tánh, có tất cả tánh thì lý luận của ông sẽ bị hoại” Phật đáp: do vô tánh mà có lời nói, nghĩa là nhân duyên vốn vô tánh, không ngại dùng lời nói để hiển bày, đâu nên cho lời nói là tánh ư! Như thế gian hiện nói lông rùa, sừng thỏ, gái bất dục, cũng vốn vô tánh mà có lời nói, thì phi tánh chẳng phải phi tánh. Nói phi tánh thì chẳng phải thật, chẳng phải phi tánh thì không ngại có lời nói, cho nên chỉ có lời nói mà thôi! Tổng kết bác bỏ rằng luận của ông sẽ hoại, nghĩa là đều nói thuyết hữu tánh sẽ hoại.

54. Tùy căn cơ chúng sanh nên việc hóa độ có khác nhau:

Này “Đại Tuệ! Chẳng phải tất cả cõi nước có lời nói. Lời nói là tạo tác. Hoặc có cõi Phật nhìn thấy mà nói lên pháp. hoặc có cõi Phật tạo ra hình tướng, hoặc có cõi Phật nhướng mày, hoặc có cõi nước chớp mắt, hoặc cười, hoặc ngáp, hoặc tằng hắng, hoặc cõi nước suy nghĩ, hoặc dao động. Này Đại Tuệ! Như thế giới chiêm thị và Hương tích, cõi nước Phổ Hiền Như lai chỉ dùng nhìn xem, khiến các Bồ-tát được pháp nhẫn vô sinh và các Tam-muội cao quý. Cho nên chẳng phải lời nói có tánh, có tất cả tánh. Này Đại Tuệ! Thấy ở thế giới này ruồi lằn trùng kiến các chúng sinh ấy không có lời nói, mà mỗi một loài đều hiểu nhau và tất cả việc làm”. Chẳng phải tất cả cõi nước, v.v… chính là nói chưa hẳn đều dùng lời nói, mà lời nói chỉ là tùy duyên tạo tác, làm mà không làm há có tánh ư! Hoặc có cõi Phật nhìn xem mà hiển pháp… Đây là do tùy căn cơ chúng sinh nên việc hóa độ khác nhau. Vì các Đức Phật lập ra giáo hóa không chuyên về âm thanh giáo, hương vị xúc pháp đều là Kinh giáo, đều có thể hiển bảy pháp nhập đạo. Như các thiền gia có người cầm gậy đánh đập, có người dựng chổi, nhướng mày, nhíu mắt để dẫn dắt người, cũng đều không ra ngoài những điều này. Thế gian chỉ dùng lời nói làm giáo, đâu phải chỉ một hạn cuộc. Như Chiêm Thị tức thế giới Bất Thuấn (không nháy mắt). Trước chỉ nêu chung, đây là nêu riêng, như thế giới Hương Tích dùng hương thơm làm Phật sự, lệ theo các trần khác lập ra giáo hóa rất dễ hiểu, đâu phải bậc Thánh chỉ lập ra sự giáo hóa như thế, còn như các loài vật hữu tình nhỏ nhiệm, cũng có loài không nhờ vào lời nói mà vẫn làm xong mọi việc, cho nên thấy ở thế giới này ruồi lằn giòi tửa v.v…

55. Đức Phật nói kệ để lặp lại nghĩa trên:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng: 

“Như hư không sừng thỏ,
Cùng với bàn đại tử.
Vô mà có lời nói,
Tánh vọng tưởng như vậy
Pháp nhân duyên hòa hợp
Phàm phu khởi vọng tưởng
Không thể biết như thật,
Luân hồi trong ba cõi”.

Bàn đại tử là thạch nữ nhi (con của gái bất dục), cùng với sừng thỏ… đều dụ cho vốn không mà có tên gọi cũng có pháp vốn vô tánh mà vọng tưởng là tánh. Cho nên nói tánh vọng tưởng như vậy lấy ví dụ pháp do nhân duyên hòa hợp. Kẻ phàm ngu vọng tưởng không thể biết như thật, cho nên có việc luân hồi ba cõi.

56. Vô thường tức là thường, không đồng phàm phu:

“Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: bạch Đức Thế tôn! Tiếng thường ấy là nói việc gì? Phật bảo Đại Tuệ: vì hoặc loạn, vì hoặc loạn ấy các vị Thánh cũng hiện mà chẳng điên đảo. Này Đại Tuệ! Như dương diệm mùa xuân, vòng lửa, tóc rũ, thành Càn-thát-bà, huyễn, mộng, hình ảnh trong gương là điên đảo của thế gian chẳng phải minh trí, song chẳng phải không hiện. Này Đại Tuệ! Hoặc loạn kia có các thứ hiện, chẳng phải hoặc loạn gây ra vô thường. Vì sao? Vì lìa tánh và phi tánh”. Tiếng thường là nói thường pháp. Hỏi: Ý cho là Như lai nói thường, pháp nương vào việc gì mà nói. Hoặc loạn là vô thường, ý Phật chính cho rằng vô thường nói thường, phải thông đạt vô thường tức là thường, cho nên nói các bậc Thánh cũng hiện, nghĩa là pháp hoặc loạn sinh tử vô thường, chẳng phải chỉ chúng sinh thật tạo, mà sau khi đắc quả Phật quyền thị hiện đồng chúng sinh, để hiểu rõ vô thường tức là thường, không đồng phàm phu, cho nên nói chẳng điên đảo. Bảy thí dụ như dương diệm mùa xuân, v.v… đó gọi là điên đảo, tuy chẳng phải pháp của bậc minh trí, nhưng cũng chẳng phải không hiện. Lại bảo Đại Tuệ rằng: Hoặc loạn kia v.v… ý nói khi kia vọng pháp hiện tuy có các thứ khác nhau, nhưng chẳng phải vô thường, vì các pháp vốn lìa có không, mỗi pháp tức là tánh, tức là tánh cho nên thường, lìa tánh phi tánh, tức lìa có không.

57. Nói hoặc loạn là thường:

Này “Đại Tuệ! Thế nào là lìa hoặc loạn tánh, phi tánh? Nghĩa là các thứ cảnh giới của tất cả kẻ ngu. Như nước sông Hằng kia ngạ quỷ thấy chẳng thấy, không có tánh hoặc loạn, vì hiện đối với kẻ khác nên chẳng phải vô tánh. Hoặc loạn như vậy, các bậc Thánh lìa điên đảo và chẳng điên đảo. Cho nên hoặc loạn thường, vì tướng tướng chẳng hoại. Này Đại Tuệ! Chẳng phải các tướng hoặc loạn, tướng vọng tưởng hoại, vậy nên hoặc loạn thường”. Vì sao đoạn sau: Nói pháp hoặc loạn, bậc Thánh thấy tánh vốn thường nên sẽ nói rằng tánh phi tánh, vì sao không thể thông đạt, tức là cảnh giới của kẻ ngu. Như nước sông Hằng kia… Nương vào chỗ thấy của kẻ ngu kia mà nêu làm vì dụ. Ngạ quỷ tuy gần sông Hằng mà không thấy nước, vì thấy nước kia là lửa, cho nên nói thấy không thấy. Thấy tuy có khác, nhưng sông Hằng tự kia thể nó thường như vậy. Không tánh hoặc loạn, nghĩa là vì không cho là thấy nên nói là có, không cho không thấy nên nói là không. Tự kia thấy nên nói, chẳng phải không có sông Hằng, cho nên nói thì hiện nơi kẻ khác nên chẳng phải vô tánh. Hoặc loạn như vậy v.v… chính là giải thích nghĩa hoặc loạn thường, nghĩa là các bậc Thánh do lìa kiến chấp điên đảo và chẳng điên đảo, tức hoặc loạn kia tự thể nó là thường trụ, vì pháp kia là pháp chẳng hoại. Lại nói chẳng hoặc loạn, nghĩa là chẳng phải các vọng pháp tự có các tướng khác nhau do kẻ ngu vọng tưởng phân biệt, thấy có tướng khác. Nếu lìa phân biệt vọng pháp tức thường, cho nên nói hoặc loạn là thường.

58. Có ít phần tưởng phải biết đó là lời nói suông của kẻ ngu:

Này “Đại Tuệ! Thế nào là hoặc loạn chân thật? Nếu là nhân duyên thì các bậc Thánh đối với hoặc loạn này chẳng khởi điên đảo giác và giác chẳng phải điên đảo. Này Đại Tuệ! Ngoài các bậc Thánh, đối với hoặc loạn này có ít phần tưởng, là chẳng phải sự tướng của Thánh trí. Này Đại Tuệ! Hễ có thì đó là kẻ ngu nói, chẳng phải lời bậc Thánh nói, Kinh Lăng-già chép: Vì sao cho vọng pháp chân thật là các bậc Thánh, đối với vọng pháp, chẳng khởi điên đảo, chẳng giác điên đảo. Nếu đối với vọng pháp có ít phần tưởng, thì chẳng phải Thánh trí. Có ít phần tưởng, phải biết đó là lời nói suông của kẻ ngu, chẳng phải lời của bậc Thánh.

59. Ba thứ chủng tánh của bậc Thánh:

“Hoặc loạn kia có vọng tưởng điên đảo và chẳng điên đảo, khởi hai thứ chủng tánh, nghĩa là chủng tánh của bậc Thánh và chủng tánh của kẻ ngu. Chủng tánh của bậc Thánh là ba thứ phân biệt, đó là Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Phật thừa. Thế nào là kẻ ngu vọng tưởng khởi chủng tánh Thanh văn thừa? Nghĩa là chấp đắm tự tướng, cộng tướng, khởi chủng tánh Thanh văn thừa, đó gọi là vọng tưởng khởi chủng tánh Thanh văn thừa. Này Đại Tuệ! Ngay nơi vọng tưởng hoặc loạn kia khởi chủng tánh Duyên giác thừa. Nghĩa là ngay nơi hoặc loạn kia, tự tướng, cộng tướng chẳng gần gũi chấp đắm khởi chủng tánh Duyên giác thừa. Thế nào là người trí? Tức đối với hoặc loạn kia khởi chủng tánh Phật thừa? Nghĩa là giác tự tâm hiện lượng ngoại tánh, phi tánh, chẳng có tướng vọng tưởng, khởi chủng tánh Phật thừa, đó gọi là tức hoặc loạn kia khởi chủng tánh Phật thừa”. Nói hoặc loạn kia, nghĩa là phân biệt vọng pháp là điên đảo, phi điên đảo, thì thành hai thứ chủng tánh. Phi điên đảo là Thánh, điên đảo tức là phàm phu. Trước nêu chủng tánh của bậc lại có ba thứ: Thanh văn, Duyên giác, Phật thừa. Ban đầu trong Thanh văn thừa nói kẻ ngu vọng tưởng khởi, nghĩa là kẻ ngu đối với tự tướng cộng tướng của năm ấm, hiểu rõ là vắng lặng mà sinh nhàm chán, xa lìa, liền thành chủng tánh Thanh văn. Duyên giác cũng gọi là tự tướng cộng tướng, đồng nghĩa với lìa chấp, chỉ ưa tu xa lìa cho nên nói chẳng gần gũi chấp đắm, đó gọi là chủng tánh Duyên giác. Trong chủng tánh Phật, đặc biệt nói người trí khác với Nhị thừa, cho nên giác tự tâm hiện lượng, các nghĩa thấy giải thích ở trước, đó gọi là chủng tánh Phật thừa.

60. Lìa tâm bặt tưởng, chân như lìa niệm, hướng về thì tâm bặt:

“Lại các thứ sự tánh, phàm phu lầm tưởng khởi chủng tánh của kẻ ngu. Kia chẳng phải có sự, chẳng phải không sự, đó gọi là nghĩa chủng tánh. Này Đại Tuệ! Tức hoặc loạn kia chẳng vọng tưởng. Các bậc Thánh đối với tâm, ý, ý thức lỗi thói quen tự tánh, pháp chuyển biến tánh, đó gọi là Như. Cho nên nói như lìa tâm, ta nói câu này hiển bày lìa tưởng, tức nói lìa tất cả tưởng.” Trong chủng tánh của kẻ ngu nói các thứ sự tánh, nghĩa là phân biệt vọng pháp các thứ sự vật, tùy sự chấp đắm để thành tánh kia. Nói kia chẳng có sự, v.v… nghĩa là vọng pháp kia chẳng phải sự chẳng phải không sự, tức chẳng có chẳng không, đó gọi là chủng tánh của người ngu. Lại nói rằng: ngay nơi hoặc loạn kia không vọng tưởng, lại nêu lên chủng tánh Phật thừa. Chẳng những đối với vọng pháp không vọng tưởng mà thì còn đối với tâm, ý, ý thức lỗi lầm thói quen tự tánh, pháp chuyển biến tự tánh, thảy đều chuyển biến, chuyển biến cùng cực chính là trở lại tánh kia, đều là như một, vì đều là như nên lìa tâm bặt tưởng. Đây là câu lìa tâm bặt tưởng, nghĩa là chân như lìa niệm, hướng về thì tâm bặt.

61. Bồ-tát Đại Tuệ hỏi, Phật đáp:

“Đại Tuệ bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Có hoặc loạn hay không? Phật bảo Đại Tuệ: Như huyễn không có tướng chấp đắm. Nếu hoặc loạn có tướng chấp đắm thì tánh chấp đắm không thể diệt. Duyên khởi nên như ngoại đạo nói pháp do nhân duyên sinh”. Dưới đây là hỏi đáp có bốn: ban đầu hỏi hoặc loạn nhân có hay không. Trên cho rằng hoặc loạn là thường, là thật, lại cho là làm vọng tưởng, vậy thì quả có hay không? Phật đáp do tướng như huyễn không chấp đắm, ý nói rằng nếu nói vọng pháp là chắc chắn có hay chắc chắn không, đều sinh tánh vọng chấp không thể diệt. Do như huyễn mà nói, nếu không thể hiểu rõ như huyễn thì pháp duyên khởi đồng với tà chấp duyên khởi của ngoại đạo.

62. Phân biệt vọng hoặc khởi lỗi chính là phàm phu:

“Đại Tuệ bạch phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Nếu hoặc loạn như huyễn thì sẽ làm nhân cho các hoặc khác. Phật bảo Đại Tuệ: Chẳng phải huyễn làm nhân cho hoặc, vì chẳng khởi lỗi. Này Đại Tuệ! Huyễn chẳng khởi lỗi, vì không có vọng tưởng. Này Đại Tuệ! Huyễn là từ minh chú sinh, chẳng phải lỗi từ vọng tưởng thói quen sinh. Cho nên chẳng khởi lỗi. Này Đại Tuệ! Đây là kẻ ngu tâm hoặc chấp đắm, chẳng phải Thánh hiền”. Đây hỏi do đáp mà khởi. Nếu do hoặc loạn như huyễn lại có thể khởi lỗi, làm nhân cho các hoặc khác mà sinh ra pháp phải không! Phật đáp: Huyễn chẳng phải nhân của hoặc có ba nghĩa: 1. Huyễn bất sinh lỗi. 2. Vì không vọng tưởng. 3. Từ minh xứ mà sinh. Minh xứ, Kinh Nhập Lăng-già chép: Minh chú là huyễn, từ chú thuật mà sinh, chẳng phải tự phân biệt lỗi thói quen mà khởi. Nhưng ba nghĩa này đều nói huyễn bất sinh ác, chẳng phải nhân của vọng pháp. Nếu phân biệt vọng hoặc khởi lỗi, chính là phàm phu, cho nên nói chẳng phải bậc Thánh hiền.

63. Rõ vọng tức chân lìa vọng bày chân:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

“Thánh chẳng thấy hoặc loạn,
Chặng giữa cũng không thật
Nếu chặng giữa chân thật,
Thì hoặc loạn chân thật,
Lìa bỏ tất cả hoặc
Nếu như có tướng sinh
Ấy cũng là hoặc loạn
Bất tịnh như màng che”.

Bốn câu trước nói Thánh trí Đại thừa hiểu rõ vọng tức chân, hoặc loạn vọng pháp chính là cảnh giới phàm phu. Phật nhãn thấy tất cả đều là chân thật, mà chân thật đây cũng chẳng có thật thể. Lìa không hữu này, đó là chân thật. Vì Thánh trí hiểu thấu vọng pháp tức là chân thật. Bốn câu sau nói kẻ tiểu trí lìa vọng bày chân, đối với chân chấp tướng cũng là hoặc loạn. Như mắt màng che thì cái thấy không đúng.

 

LĂNG-GIÀ A-BẠT-ĐA-LA BẢO
KINH CHÚ GIẢI

QUYỂN 2
(Phần 2)

1. Tất cả pháp như huyễn:

Lại nữa Này Đại Tuệ! Nếu chẳng phải huyễn thì không có gì tương tự để thấy tất cả pháp như huyễn. Đại Tuệ bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Vì chấp đắm các thứ huyễn tướng nên nói tất cả pháp như huyễn, vì chấp đắm các tướng khác, hoặc vì chấp đắm các huyễn tướng nên nói tất cả tánh như huyễn. Bạch Đức Thế tôn! Có tánh thì không thể như huyễn. Vì sao? Vì các tướng sắc chẳng phải nhân. Bạch Đức Thế tôn! Không có nhân sắc nên các tướng hiện như huyễn. Bạch Đức Thế tôn! Cho nên không chấp đắm các tướng huyễn, tương tự tánh như huyễn. Ở trên nói tất cả pháp như huyễn, Đức Phật sợ Đại Tuệ nghi, vì sao chỉ dùng huyễn làm ví dụ, cho nên lại bảo rằng: Chẳng phải giả huyễn dụ cho các pháp, cũng không có tương tự cho nên nói tất cả pháp như huyễn. Đây là câu hỏi thứ ba, ý nói Phật dạy tất cả pháp như huyễn vì chấp đắm các tướng huyễn mà nói như huyễn, hay vì không chấp đắm các thứ tướng huyễn mà nói như huyễn? Nếu chấp đắm tướng huyễn nói các pháp như huyễn thì chưa chắc các pháp đều như huyễn, cho nên nói có tánh bất như huyễn, tánh tức là pháp. Lại nêu vấn nạn, ý cho rằng nếu nói chung thì hễ là các sắc tướng thì lẽ ra không có nhân riêng, nhưng thế gian chưa có sắc hữu nhân nên đều như huyễn, Thế tôn trở xuống là kết thúc vặn hỏi như văn.

2. Vì không thể quán sát chẳng thật có mà vọng chấp các sắc tướng:

“Phật bảo Đại Tuệ: Chẳng chấp đắm các tướng huyễn, tương tự tất cả pháp như huyễn. Này Đại Tuệ! Song tất cả các pháp bất thật chóng diệt như tia chớp, ấy là như huyễn. Này Đại Tuệ! Thí như tia chớp lóe sáng trong sát-na, hiện rồi mất ngay, chẳng phải kẻ ngu hiện. Tất cả tánh ấy, tự vọng tưởn,g tự tướng, cộng tướng, quán sát vô tánh chẳng hiện chấp đắm sắc tướng”. Trong đây đáp, nói các pháp như huyễn, chính chẳng phải chấp đắm tướng huyễn, chỉ vì tất cả pháp không thật, mau mất đi như tia chớp, chính là như huyễn. Lại lấy ví dụ tia chớp hiện trong khoảng sát-na, hiện rồi mất ngay, chỉ có bậc Thánh trí mới biết, chẳng phải tướng hiện của kẻ ngu. Tất cả như thế trở xuống Kinh Nhập Lăng-già chép: Tất cả các pháp nương tự phân biệt, tự tướng, cộng tướng hiện, cũng giống như vậy. Vì không thể quán sát chẳng thật có, mà vọng chấp các sắc tướng.

3. Đức Phật lặp lại nghĩa này bằng bài kệ:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

Chẳng huyễn không có dụ,
Nói pháp tánh như huyễn”
Không thật mau như chớp,
Cho nên nói như huyễn.

Hai câu trên đáp chẳng phải huyễn thì không thể nào dùng để thí dụ cho các pháp. Hai câu dưới đáp tướng Huyễn như tia chớp.

“Đại Tuệ lại bạch Phật rằng: Như Đức Thế tôn nói tất cả các Tánh là vô sinh và như huyễn, chẳng lẽ không Thế tôn trước sau nói trái nhau ư! vì nói vô sinh tánh như huyễn”: Đây là câu hỏi thứ tư, nghĩa là Phật đã nói tất cả pháp vô sinh là không, lại nói như huyễn là có, chẳng lẽ không Có và Không trái nhau ư!

“Phật bảo Này Đại Tuệ! Chẳng phải ta nói tánh vô sinh như huyễn, phạm lỗi trước sau trái nhau. Vì sao? Vì đối với sinh, vô sinh, biết rõ tự tâm hiện lượng, có mà chẳng phải có, ngoại tánh, chẳng phải tánh,vô sinh hiện. Này Đại Tuệ! Chẳng phải ta nói có lỗi trước sau trái nhau, nhưng vì phá ngoại đạo chấp nhân sinh nên ta nói tất cả tánh vô sinh. Này Đại Tuệ! Ngoại đạo quá si mê muốn giúp cho hữu vô có sinh, chẳng phải duyên tự vọng tưởng các thứ chấp đắm. Này Đại Tuệ! Ta chẳng nói hữu, vô là có sinh, cho nên ta dùng thuyết vô sinh mà nói”. Phật đáp chẳng phải lời ta nói có trái nhau trở xuống, là nêu bày giải thích. Sinh vô sinh: là ta hiểu rõ sinh tức là vô sinh, chỉ do tự tâm hiện ra, hoặc có hoặc không, tất cả pháp ngoài, tánh kia vốn không có sinh. Ta nói vô sinh, đây là đáp chung. Trong phần đáp riêng có hai: 1. Vì phá nhân sinh của ngoại đạo sinh, như họ chấp các khác nhân có sinh nên nói tất cả tánh vô sinh. 2. Vì phá chấp hữu vô sinh ngoại đạo, chẳng từ chấp đắm vọng tưởng làm duyên. Lại bảo Đại Tuệ rằng: Ta chẳng nói hữu vô, nghĩa là lìa kiến chấp hữu vô, ta dùng thuyết vô sinh mà nói vô sinh.

4. Dùng nói pháp để nhiếp thọ sanh tử

Này “Đại Tuệ! Nói tánh, vì nhiếp thọ sinh tử, vì phá hoại chấp Không và chấp Đoạn, vì đệ tử ta nhiếp thọ các chỗ nghiệp thọ sinh, dùng tánh âm thanh nói để nhiếp thọ sinh tử”. Từ “nói tánh trở xuống”, Kinh Nhập Lăng-già chép: Nói các pháp vì muốn đệ tử biết nương các nghiệp, mà nhiếp thọ sinh tử, ngăn chấp hữu vô, đoạn diệt, “vì đệ tử ta trở xuống” vì khiến đệ tử biết tùy nghiệp thọ sinh. Tánh âm thanh, tánh là pháp, âm thanh là nói, ý nói dùng nói pháp để nhiếp thọ sinh tử.

5. Giải thích về nghĩa huyễn:

Này “Đại Tuệ! Nói huyễn tánh tự tánh tướng là lìa tánh tự tánh tướng. Rơi vào ác kiến hy vọng tướng của kẻ ngu, chẳng biết tự tâm hiện lượng, hoại nhân sở tác sinh, duyên tự tánh tướng chấp đắm. Nói huyễn mộng tự tánh tướng tất cả pháp, chẳng làm cho kẻ ngu ác kiến hy vọng, chấp đắm tự tha tất cả pháp, chỗ thấy như thật tạo ra bất chánh luận. Này Đại Tuệ! Thật thấy chỗ như tất cả pháp là vượt ngoài tự tâm hiện lượng”. Nói tánh trở xuống là giải thích về nghĩa huyễn: 1. Biết tánh lìa, vì biết huyễn tánh tức lìa tự tánh. Kinh Viên Giác nói: biết huyễn tức lìa. 2. Phá kẻ ngu chấp đắm tướng, đây lại có ba: a. Không biết tự tâm hiện lượng. b. Hoại tánh nhân duyên sinh ra pháp. c. Duyên tướng tự tánh tạo tác thật có chấp đắm. Cho nên nói tướng tất cả pháp như huyễn, như mộng để phá; không giúp cho kẻ ngu v.v… là tổng kết lỗi, nêu bày đức. Ở chỗ như thật làm ra bất chánh luận, là tổng kết lỗi. Bất chánh luận là tánh hý luận chấp đắm của mình và người. Lại chỗ như thật v.v… Kinh Nhập Lăng-già chép: Thấy chỗ như thật của tất cả pháp, nghĩa là hiểu rõ tất cả pháp do tâm hiện.

6. Y theo nghiệp mà nói về sinh tử:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

“Vô sinh tác phi tánh
Hữu tánh thuộc sinh tử
Quán sát như huyễn thảy
Nơi tướng chẳng vọng tưởng”.

Vô sinh tác phi tánh, Kinh Nhập Lăng-già chép: Vô tác nên vô sinh, nghĩa là các pháp tánh vốn vô sinh cho nên nói vô sinh. Hữu tánh thuộc sinh tử: bài tụng trên y theo nghiệp mà nói sinh tử, nhờ quán sát như huyễn nên lìa vọng tưởng phân biệt.

7. Dạy người học thấy được cánh cửa đi vào lý:

“Lại nữa Này Đại Tuệ! Sẽ nói tướng danh, cú, hình, thân. Đại Bồ-tát khéo quán danh, cú, hình, thân tùy vào, danh, cú, hình, thân, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Giác như thế rồi, giác cho tất cả chúng sinh. Này Đại Tuệ! Danh thân, nghĩa là y sự đặt tên, đó gọi là danh thân. Cú thân, nghĩa là cú có nghĩa thân, tự tánh quyết định rốt ráo, đó gọi là cú thân. Hình thân, nghĩa là nói lên danh cú, đó gọi là hình thân. Lại hình thân, nghĩa là dài, ngắn, cao, thấp. Lại cú thân, nghĩa là dấu vết, như dấu vết voi, ngựa, người, thú… đi để dấu chân lại, được gọi là cú thân. Này Đại Tuệ! Danh và hình, nghĩa là dùng danh nói bốn ấm Vô Sắc nên gọi là Danh. Tự tướng hiện nên nói hình. Ấy gọi là danh, cú, hình, thân. Nói chừng hạn của tướng danh cú hình thân phải nên tu học”. Danh cú hình thân, luận Duy thức chép: Danh giải thích tự tánh, cú giải thích khác nhau. Văn tức là tự, là hai chỗ nương; hình tức là văn. Thân là nghĩa chứa nhóm. Danh giải thích tự tánh như nói sáu căn, chỉ nói tên mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý mà thôi! Cú giải thích khác nhau, như nói nhãn là Phật nhãn, pháp nhãn, tuệ nhãn… các thứ khác nhau. Nhưng danh, cú, hình ba thân này, gọi là tam giả, giả là đối với thật mà nói, thì thanh là thật, một thật ba giả, này chính là giáo thể năng thuyên. Ở đây chỉ nói sẽ nói văn, cú, hình, thân mà không nói một thật, vì Đức Phật dùng âm thanh nói pháp tức là một thật. Khéo quán sát, nghĩa là phải khéo quán sát danh, cú, hình, thân, giáo năng thuyên tức thông đạt nghĩa sở thuyên, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chẳng phải chỉ do tự giác cũng có thể giác tha. Trên đã giải thích chung, từ Đại Tuệ trở xuống là giải thích riêng. Nói y sự đặt tên tức là danh thuyên tự tánh. Cú có nghĩa thân, tức các giải thích khác nhau. Phàm cú do giải thích nghĩa khác nhau làm tánh nên quyết định rốt ráo không lẫn lộn nhau, gọi là công của thân cú. Hình thân nghĩa là hiển bày. Danh cú là do văn tự để nói lên danh cú, cũng tức danh cú để thành văn, cho nên gọi văn tức là chữ, làm hai chỗ nương. Lại, hình là dụ, dụ như hình người có dài ngắn, cao thấp, văn dài ngắn cũng giống như vậy. Cú thân nghĩa là dấu vết, như nhờ dấu vết mới biết có voi, ngựa v.v… đi qua. Do tìm cú mà được nghĩa. Như trên là dùng hình cú đối mà nói. Nếu danh và hình tương đối mà nói, thì như bốn ấm thọ, tưởng, hành, thức trong năm ấm không có sắc mà có danh, sắc ấm tự tướng hiển hiện cho nên nói có hình. Cũng như văn nhờ nghĩa mà hiển bày. Phật nói danh cú hình thân này là dạy cho người học thấy được cánh cửa đi vào lý, lý nhờ hạnh mà hiển bày cho nên nói phải nên tu học.

8. Đức Thế tôn lặp lại ý nghĩa trên bảng bài kệ:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

“Danh thân và cú thân
Và hình thân khác nhau
Kẻ phàm ngu chấp đắm,
Như voi mắc lầy sâu”.

Văn tự tánh lìa tức là giải thoát. Nếu tùy văn khởi thấy thì lỗi đồng với ngoại đạo tà kiến, như voi mắc lầy sâu, có thể không răn dè ư!

Lại nữa Này Đại Tuệ! Bậc trí ở đời vị lai do lìa một, khác, đồng, chẳng đồng, kiến, tướng là nghĩa ta thông hiểu, đem hỏi người vô trí, kia liền đáp rằng: Câu hỏi này chẳng đúng. Nghĩa là sắc v.v… là thường, vô thường, là khác, chẳng khác, như vậy các hạnh Niết-bàn tướng và sở tướng, cầu-na sở cầu-na, tạo và sở tạo, kiến và sở kiến, bụi và bụi nhỏ, tu và người tu, tướng so sánh lần lượt như vậy. Những câu hỏi như thế, Phật nói là vô ký chỉ luận, là điều mà người si mê kia chẳng thể biết. Vì họ không có văn tuệ, Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác, muốn giúp họ lìa kinh sợ nên nói vô ký, chẳng nói ký. Lại ngăn luận kiến chấp của ngoại đạo mà chẳng nói cho nghe. Phật nói lìa bốn câu vốn giúp cho quay về chánh nên bảo Này Đại Tuệ! Bồ-tát đời vị lai sẽ dùng tướng lìa bốn câu hỏi người kia, ý chỉ bảo pháp môn nhập đạo, người vô trí kia không hiểu được ý này, liền đáp rằng: Đây chẳng phải chánh luận, nghĩa là sắc v.v… là nói y theo các pháp ấm giới nhập ở trên mà chia ra bốn câu thường, vô thường, khác, không khác… Các hành Niết-bàn như vậy, hành tức hành năng hiển Niết-bàn. Năng hành sở hành, năng y sở y, năng tạo sở tạo, năng kiến sở kiến, bụi và bụi nhỏ, nghĩa là bùn đất bụi nhỏ. Tu cùng người tu là người pháp. Tướng so sánh lần lượt như vậy, là nói hai pháp đối nhau ở trên. Như vậy… trở xuống, Kinh Nhập Lăng-già chép: Như vậy không thể nhớ việc thứ lớp mà hỏi, Thế tôn nói đây là chỉ ký đáp, kẻ ngu vô trí không thể biết được, Phật muốn giúp họ lìa sợ hãi, nên chẳng nói ký.

9. Nói về chỉ kiến luận của ngoại đạo:

Này Đại Tuệ! Ngoại đạo nói như thế này: mạng tức là thân, vô ký luận như thế. Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo ngu si kia đối với nhân tác vô ký luận, chẳng phải điều ta nói. Này Đại Tuệ! Chỗ ta nói là lìa nhiếp, sở nhiếp vọng tưởng bất sinh, vì sao lại ngừng họ? Này Đại Tuệ! Nếu người chấp đắm nhiếp, sở nhiếp, không biết tự tâm hiện lượng cho nên ngừng họ. Này Đại Tuệ! Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác, dùng bốn thứ ký luận nói pháp cho chúng sinh nghe. Này Đại Tuệ! Chỉ ký luận là khi ta nói ra vì người căn cơ chưa thần thục, chẳng phải vì người căn cơ đã thuần thục”. Chỉ kiến luận của ngoại đạo, là tùy theo lời nói sinh hiểu biết chấp là kiến luận, đều ngừng mà không nói, khiến họ suy nghĩ, mà tự chứng được. Mạng tức thân, do ngoại đạo chấp ngay ấm là ngã, lìa ấm là ngã. Nói thân mạng là một, khác v.v… Nói như vậy v.v… gọi là vô ký luận. Đối với nhân làm vô ký luận, là chấp vô nhân mà sinh, đó là vô ký. Những điều Phật nói là lìa năng thủ, sở thủ, không khởi vọng tưởng. Vì sao dừng họ? Nghĩa là vì sao không làm thẳng như vậy mà nói để hiểu, mà ngăn là vì sao ư! Chỉ vì kia chấp đắm năng thủ, sở thủ không biết rằng chỉ do tâm hiện, cho nên bốn thứ chỉ luận như văn sau. Chỉ luận là một trong bốn thứ đó. Chẳng những chỉ dừng ngoại đạo kia, mà còn ngăn người căn cơ chưa thuần thục, bấy giờ lại nói!

10. Nói về câu bất sinh:

“Lại nữa, Này Đại Tuệ! Tất cả pháp lìa nhân duyên sở tác bất sinh, vô tác giả cho nên tất cả pháp chẳng sinh. Này Đại Tuệ! Vì sao tất cả tánh lìa tự tánh? Vì khi tự giác quán, thì tự tánh, cộng tánh, tướng không thật có, nên nói tất cả pháp chẳng sinh. Vì sao tất cả pháp không thể đem đến, không thể đem đi? Vì tự tướng cộng tướng muốn đem đến thì không có chỗ đến, muốn đem đi thì không có chỗ đi. Cho nên tất cả pháp lìa đem đến đem đi. Này Đại Tuệ! Vì sao tất cả các pháp chẳng diệt? Vì tánh, tự tánh, tướng là không, tất cả pháp không thật có, nên tất cả pháp chẳng diệt. Này Đại Tuệ! Vì sao tất cả pháp vô thường? Nghĩa là tướng khởi là tánh vô thường, cho nên nói tất cả pháp vô thường”. Này Đại Tuệ! Vì sao tất cả pháp là thường? Vì tướng khởi tánh vô sanh, vô thường là thường, nói tất cả pháp là thường, tất cả pháp thường ở đoạn dưới, nói rõ câu bất sinh có hai ý: 1. Lìa nhân duyên sở tác nên bất sinh. 2. Lìa tự tánh cộng tánh tướng nên bất sinh. Không thể đem đến trở xuống, là dùng sự nói chẳng phải không có đến đi, chỉ vì bốn câu cầu mong tự tướng, cộng tướng không thật có, không thất có dấu vết đến đi. Kinh Tịnh Danh nói: Đến không từ đâu đến, đi cũng không có chỗ đi, đây là nói theo. Các pháp chẳng diệt, nghĩa là tất cả các pháp vốn không có tánh tướng thì đâu có diệt, câu thường vô thường là nói theo tình lý. Hoặc dùng tình chấp tướng thay đổi trôi lăn, cho nên nói tướng vô thường khởi, dùng lý để nói thì pháp pháp tức tánh, cho nên nói khởi tướng vô sinh. Vô thường này tức là thường.

11. Phật nói lại nghĩa trên bằng bài kệ:

Khi ấy, Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng: 

“Ký luận có bốn thứ,
Một bề vặn hỏi lại.
Phân biệt và chỉ luận
Để chế phục ngoại đạo
Hữu và phi hữu sinh
Sư Tăng-khư, Tỳ-xá
Tất cả đều vô ký
Kia hiển bày như thế
Chánh giác đã phân biệt
Tự tánh không thật có
Vì xa lìa lời nói
Nên nói lìa tự tánh”.

Bốn thứ luận này, nói hoàn toàn gọi là đáp thẳng, nghĩa là tùy câu hỏi mà đáp. Phản cật vấn, cũng gọi là phản chất, nghĩa là vặn bẻ lại câu hỏi. Phân biệt, nghĩa là đáp bằng cách nói rõ. Chỉ luận nghĩa là gác lại không đáp. Chế phục các ngoại đạo, phần nhiều dùng chỉ luận hữu và phi hữu sinh, nghĩa là Số luận chấp có, Thắng luận chấp không. Tăngkhư là Số luận. Tỳ-xá là Thắng luận. Các pháp như vậy đều thuộc về vô ký luận. Ngoại đạo kia chấp chẳng ngoài hữu vô, cho nên nói kia hiển bày như thế. Dùng chánh trí quán sát, cầu tánh tướng kia đều không thật có, huống chi là lời nói ư!

12. Bồ-tát Đại Tuệ hỏi Phật về pháp Tiểu thừa:

“Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin vì nói sự khác nhau giữa Tu-đà-hoàn và Tu-đà-hoàn thú. Nếu Đại Bồ-tát khéo hiểu sự khác nhau chung giữa Tu-đà-hoàn thú và tướng phương tiện của Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, phân biệt biết rồi, như thế như thế vì chúng sinh nói pháp. Nghĩa là tướng hai vô ngã và hai chướng thanh tịnh, vượt qua các địa, rốt ráo thông đạt được cảnh giới rốt ráo không thể suy nghĩ, bàn luận của Như lai, như ngọc Ma-ni nhiều màu, có khả năng làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, dùng cảnh giới tất cả pháp vô tận thân tài để nhiếp dưỡng tất cả”. Đại Tuệ là người ta theo pháp Đại thừa thỉnh cầu nói pháp Tiểu thừa là sao? Vì Bồ-tát có tự hành, hóa tha khác nhau. Tự hành thì chỉ thắng đến cực quả, hóa tha thì pháp phải trùm khắp, vì chúng thưa hỏi pháp bốn quả: Tu-đà hoàn Hán dịch là Dự lưu, là Sơ quả. Lại nói Tu-đà-hoàn thú, thú là thú hướng, nghĩa là Sơ quả hướng. Tướng khác nhau chung, chung tức là đồng, nghĩa là phân biệt tướng chung, tướng riêng. Và quả thứ hai, thứ ba, thứ tư, tu hành tướng phương tiện đều được khéo hiểu biết. Phân biệt biết rồi như thế như thế, nghĩa là phân biệt như thế, như thế mà biết. Vì các chúng sinh nói bốn pháp này giúp họ chứng đắc tướng hai vô ngã và trừ sạch hoặc chướng và trí chướng, đối với các tướng địa dần dần thông được đạt cảnh giới trí tuệ của Như lai. Dùng pháp thân pháp tài lợi ích chúng sanh vô tận, như dùng ngọc báu ma-ni cứu giúp người không bỏ sót một ai.

13. Nói về Tu-đà-hoàn:

“Phật bảo Này Đại Tuệ! Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghĩ, nay ta sẽ nói cho ông nghe. Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Lành thay! Xin vâng nghe nhận. Phật bảo Đại Tuệ: có ba thứ Tuđà-hoàn, quả Tu-đà-hoàn khác nhau. Thế nào là ba: đó là hạ, trung, thượng. Hạ: là cùng tột bảy lần sinh lại mới nhập Niết-bàn. Trung: hoặc ba hay năm lần sinh lại mới vào Niết-bàn. Thượng: tức đời này liền vào Niết-bàn”. Đáp trong Sơ quả nói có ba thứ thượng, trung, hạ khác nhau, căn tánh lợi độn khác nhau! Cùng cực bảy đời mới sinh vào Niết-bàn, nghĩa là tột độn hạ căn, dứt kiến hoặc, chứng Sơ quả, sau tiến lên dứt tư hoặc, chín phẩm tư hoặc trong cõi Dục, trở lại trải qua đủ bảy lần sinh tử, mới dứt hoặc này, chứng quả thứ ba. Bảy lần trở lại, nghĩa là con người bảy lần sinh lên cõi trời, bảy lần sinh làm trung ấm thành mười bốn, sinh hợp cộng chung thành hai mươi tám. Nay nói bảy lần trở lại là tóm lược. Ba hay năm lần sinh trở lại mới nhập Niết-bàn, nghĩa là hạng người trung căn chứng Sơ quả, sau ba hoặc năm đời sinh trở lại, dứt hết hoặc này mới chứng quả thứ ba. Tức ngay đời này nhập Niết-bàn, nghĩa là người thượng căn được Sơ quả thì liền siêu sinh lên quả thứ tư, mà nhập Niết-bàn chân không.

14. Nói về hoặc mà quả Tu-đà-hoàn phải dứt:

“Ba hạng này có ba kiết: Hạ, trung, thượng. Thế nào là ba kiết: Nghĩa là thân kiến, nghi, giới thủ là ba kiết khác nhau, thăng tiến mãi lên đến A-la-hán”. Ba kiết chính là kiến hoặc và tám mươi tám sử sơ quả phải dứt, có rộng lược khác nhau. Nói cũng có hạ, trung, thượng, là do kiết hoặc từ căn tánh của người mà chia làm ba. Thăng tiến mãi… nghĩa là đối với việc dứt hoặc chứng quả này gồm có dứt hoặc chứng quả thứ ba, siêu vượt đến quả thứ tư. Nói thượng thượng là y theo bậc Đài thừa siêu căn tánh.

15. Nói về hai thứ thân kiến:

Này “Đại Tuệ! Thân kiến có hai thứ, đó là câu sinh và vọng tưởng. Như duyên khởi vọng tưởng, tự tánh vọng tưởng. Thí như nương duyên khởi tự tánh, các thứ vọng tưởng tự tánh chấp đắm sinh. Vì kia chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải có không vì tướng vọng tưởng không thật. Kẻ ngu vọng tưởng các thứ vọng tưởng tự tánh tướng chấp đắm. Như khi trời nóng có dương diệm, nai khát tưởng là nước. Đây là vọng tưởng thân kiến của Tu-đà-hoàn, kia do người vô ngã nhiếp thọ không tánh, đoạn trừ vô tri chấp đắm lâu xa”. Thân kiến, là kia đối với thân năm ấm chấp là chủ tể, ở đây chia làm hai thứ: 1. Câu sinh, nghĩa là kiến và thân sinh cùng lúc, như thân kiến trước. 2. Vọng tưởng lại nương kiến mà khởi, như biên kiến ở sau, cho nên nói như duyên khởi v.v… nghĩa là vì nương duyên khởi, khởi vọng tưởng tự tánh. Bởi kia chẳng phải có trở xuống là… giải thích thân kiến vọng tưởng trên. Vì vốn chẳng phải bốn kiến mà có bốn kiến, thì đó là tướng vọng tưởng không thật. Như duyên khởi kia mà kẻ ngu cho là vọng tưởng, khởi các thứ vọng tưởng tự tánh chấp đắm, cho nên thí dụ. Như khi trời nắng nóng, dương diệm chẳng phải nước mà cho là nước, tức là tướng ấy. Kia do người vô ngã nhiếp thọ vô tánh, tức là Sơ quả hướng. Nhờ quán người vô ngã, hiểu rõ vốn vô tánh cho nên liền dứt hoặc ấy. Nói vô tri, là nhiễm ô không biết.

16. Tu-đà-hoàn quán sát thân mình thân người:

Này “Đại Tuệ! Câu sinh là Tu-đà-hoàn thân kiến, vì bốn ấm của tự thân, tha thân… không có sắc tướng, vì sắc sinh tạo và sở tạo, vì tướng xoay vần làm nhân cho nhau, vì đại chủng và sắc chẳng nhóm họp. Tu-đà-hoàn quán phẩm loại hữu vô chẳng hiện thì dứt được thân kiến. Thân kiến dứt như thế thì tham chẳng sinh, đó gọi là tướng thân kiến”. Câu sinh thân kiến, là người chứng Sơ quả quán sát thân mình, thân người, tướng bốn ấm thọ, tưởng, hành, thức không có sắc, vì sắc do bốn đại chủng sinh ra. Tạo và sở tạo tức năng tạo và sở tạo, nghĩa là bốn đại tạo sắc ấm. Xoay vần, là bốn đại làm nhân cho nhau. Không nhóm họp, nghĩa là đại chủng và sắc tánh không hòa hợp; như thế quán năm ấm hữu vô đều không thật có, ai làm thân kiến, cho nên nói phẩm loại hữu vô chẳng hiện. Thân kiến đã dứt, tham cũng chẳng sinh.

17. Tu-đà-hoàn đối với bốn đế:

Này “Đại Tuệ! Tướng nghi, nghĩa là đắc pháp khéo thấy tướng, vì trước dứt hai thứ thân kiến vọng tưởng, nên nghi pháp chẳng sinh. Không đối với chỗ khác khởi kiến chấp Đại sư là tịnh, là bất tịnh, đó gọi là tướng nghi Tu-đà-hoàn đã dứt”. Trong tướng nghi này, cho rằng người Sơ quả đối với pháp bốn đế biết rõ không sai lầm tức là sự khéo thấy. Vì trước dứt hai thứ phân biệt thân kiến, nên đối với các pháp không còn sinh nghi, tự nhiên hiểu rõ chánh tà, không còn đối với các ngoại đạo khác nghĩ là Đại sư. Là tịnh hay bất tịnh, đối với chỗ Phật không nghi là thiện, bất thiện. Đó gọi là tướng nghi chẳng sinh.

18. Tu-đà-hoàn không chấp giới:

Này “Đại Tuệ! Giới thủ, thế nào là Tu-đà-hoàn không chấp giới? Nghĩa là vì khéo thấy tướng khổ ở chỗ thọ sinh, cho nên chẳng chấp. Này Đại Tuệ! Chấp là kẻ ngu quyết định chịu tu khổ hạnh, vì được các thứ vui nên cầu thọ sinh, kia thì chẳng chấp, trừ hồi hướng tự giác thắng, lìa pháp tướng vọng tưởng vô lậu, thực hành phương tiện thọ trì giới luật. Ấy gọi là Tu-đà-hoàn tướng chấp giới đã dứt”. Giới thủ, là chấp phi giới là giới. Ngoại đạo tà tu chẳng phải nhân chấp là nhân, như giữ giới gà giới chó v.v… người sơ quả chẳng chấp giới kia, nghĩa là khéo thấy tướng khổ hành nhọc nhằn thọ quả báo kia nên không chấp. Người ngu thì chấp thủ, vì các thú vui năm dục nên cầu thọ sinh, nhưng chẳng phải vui Tam-muội. Tuy cầu quả vui nhưng thật ra làm gì có, người Sơ quả kia không chấp đó là giới, chẳng phải không có giới do tự mình giữ gìn, nên gọi Trừ hồi hướng tự giác thắng v.v… tức họ tu giới hành hồi nhân hướng quả. Chi Giới, chi là chi phần, như bảy chi phần và năm chi giới… Tuy không chấp nơi kia mà chấp nơi này, song chẳng phải Đại thừa không chấp giới, ấy cũng là chấp.

19. Tu-đà-hoàn dứt ba đời:

“Tu-đà-hoàn đoạn ba kiết, tham si bất sinh. Nếu Tu-đà-hoàn nghĩ rằng: Các kiết này ta chẳng có thì mắc hai lỗi rơi vào thân kiến và các kiết chẳng đoạn. Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Thế tôn nói nhiều thứ tham dục, kia vì sao dứt tham dục? Phật bảo Đại Tuệ: Yêu thích người nữ, triền miên tham trước, các thứ phương tiện thân miệng gây nghiệp ác, hưởng cái vui hiện tại, gieo nhân khổ đời vị lai, Tu-đàhoàn thì chẳng sinh. Vì sao? Vì được sự vui Tam-muội Thánh thọ. Cho nên kia dứt tham chẳng phải thú hướng Niết-bàn mà dứt”. Nói ba kiết là Kiến hoặc, nhờ chấp đoạn này mà lìa tham sân si, ba thứ này tức tư hoặc trong kiến hoặc. Nói hai lỗi: Thân kiến là gốc, các kiết là ngọn, gốc đã không nhổ trừ thì ngọn do đâu mà dứt. Tham có nhiều thứ, đặc biệt nói yêu thích người nữ, nêu điểm quan trọng kia mà nói: Người Sơ quả được Tam-muội thắng lạc có khả năng dứt dục này, tuy lìa hữu nhưng còn chấp đắm không, cho nên nói chẳng phải cái tham hướng dến Niết-bàn được dứt.

20. Nói về tướng của quả thứ hai:

“Này Đại Tuệ! Thế nào là tướng Tư-đà-hàm? Nghĩa chóng soi thấu tướng sắc, tướng vọng tưởng sinh nên kiến tưởng chẳng sinh, vì khéo thấy tướng thiền thú, chóng biết đời này hết bờ bến khổ được Niết-bàn. Cho nên gọi là Tư-đà-hàm”. Đây nói về tướng của quả thứ hai, nghĩa là chiếu soi rõ sắc tướng vọng tưởng của năm uẩn, không đồng với Sơ quả tu quán bốn hạnh nên được gọi là Đốn. Sinh tướng tức là các kiết, kiến tướng tức là vọng tưởng, hai thứ này bất sinh, chỉ trí vô lậu thêm tu thiền định, thì khéo thấy tướng thiền thú, tiến lên dứt tư hoặc cõi Dục, đến hết sáu phẩm, chỉ còn lại một lần sinh, nên nói chóng đến đời này sạch bờ mé khổ, lìa sinh tử trong loài người, được Niết-bàn, chứng quả thứ hai.

21. Nói về tướng của quả thứ ba:

Này “Đại Tuệ! Thế nào là A-na-hàm? Nghĩa là đối với sắc tướng tánh phi tánh quá khứ, hiện tại, vị lai, thấy lỗi lầm của sinh, khiến vọng tưởng chẳng sinh, và vì dứt kiết nên gọi là A-na-hàm, người đắc quả thứ ba này quán chung sắc tướng ba đời đều không, chẳng phải tánh tức không, lìa lỗi lẫm hữu vô phân biệt, cho nên nói vọng tưởng chẳng sinh”. Dứt kiết là dứt ba phẩm tư hoặc sau ở cõi Dục.

22. Nói về tướng của quả thứ tư:

Này “Đại Tuệ! A-la-hán có đủ các thiền định Tam-muội giải thoát, lực minh, các thứ phiền não, khổ vọng tưởng chẳng sinh, gọi là A-la-hán”. Các thiền Tam-muội tức trí định mà A-la-hán đã tu. Giải thoát lực minh là pháp sở chứng. Lực tức thần thông minh, chính là ba minh. Do đó quán chiếu rõ phiền não, các khổ phân biệt đều không, nghĩa là sạch hết tư hoặc cõi sắc, cõi Vô Sắc, chứng quả Vô học.

23. Phân biệt A-la-hán chung riêng:

“Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Thế tôn nói ba thứ A-lahán. Ở đây nói là A-la-hán nào? Thế tôn! Vì nói đạo tịch tịnh Nhất thừa, vị Đại Bồ-tát phương tiện thị hiện A-la-hán hay là do Phật hóa hóa ra? Phật bảo Đại Tuệ: là Thanh văn được đạo Nhất thừa tịch tịnh, chẳng phải hạng khác. Hạng khác là Bồ-tát thực hành hạnh Bồ-tát và hóa Phật hóa ra, vì bản nguyên nên dùng phương tiện khéo léo, ở trong chúng thị hiện thọ sinh, vì trang nghiêm quyến thuộc của Phật. Này Đại Tuệ! Ở trong chỗ vọng tưởng nói pháp bằng mọi cách, như đắc quả, đắc thiền, thiền giả nhập thiền thảy đều xa lìa. Thị hiện được tự tâm hiện lượng, được tướng quả, nói là đắc quả. Lại nữa Này Đại Tuệ! Người muốn siêu thiền vô lượng cõi Vô Sắc thì, phải lìa tướng tự tâm hiện lượng. Này Đại Tuệ! Thọ tưởng chánh thọ vượt tự tâm hiện lượng thì chẳng phải. Vì sao? Vì có tâm lượng”. Ở đây phân biệt với A-la-hán gọi là tướng chung riêng. Chung là gọi chung A-la-hán, riêng thì ba thứ khác nhau. Trong ba thứ một thật hai quyền. Được đạo Nhất thừa tịch tịnh, là Nhất thật. Bồ-tát phương tiện thị hiện và phật hóa hóa ra, là hai quyền. Phật đáp rằng đã nói La-hán là thật chẳng phải quyền. Nhất thừa, là một trong ba thừa, chẳng phải là Phật thừa. Bản nguyện phương tiện khéo léo tức là hai thức khác, vì đã từng phát thệ nguyện phương tiện khéo léo, thị hiện A-la-hán trang nghiêm Phật hội mà làm quyến thuộc. Ở chỗ vọng tưởng của chúng sinh, nói pháp cho họ nghe, cùng tu chứng với họ, cho nên nói đắc quả được thiền. Tuy nhập trong thiền mà không trụ thiền, cũng tùy tâm lượng thị hiện đắc quả mà không trụ ở quả. Lại không trụ quả, trụ thiền, đó gọi là siêu thiền. Cho nên nêu tướng siêu thiền giúp cho họ bỏ thiền thế gian được thiền xuất thế gian. Thiền thế gian thiền, tức là bốn thiền, bốn vô lượng, bốn định Vô Sắc. Phải lìa tự tâm, tâm lượng đã cùng cực tức là Như lai thiền, nhưng định diệt thọ tưởng đâu chẳng siêu tâm lượng ư! Cho nên lại phân biệt chẳng đúng. Do kia chấp diệt thọ tưởng cùng là tâm lượng nên tất cả phải xa lìa đều không thật có. Kinh Viên Giác chép: Chiếu và sở chiếu đồng thời vắng lặng, đó là đắc.

24. Thế tôn lặp lại nghĩa trên bằng bài kệ:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

“Các thiền bốn vô lượng
Tam-ma-đề Vô Sắc
Tất cả thọ tưởng diệt
Tâm lượng kia không có
Quả Tu-đà-bàn-na
Vãng lai và Bất hoàn
Cùng với A-la-hán
Các vị tâm hoặc loạn
Thiền giả, thiền và duyên,
Chân đế dứt tri kiến.
Đây là lượng vọng tưởng,
Nếu giác được giải thoát.”

Trong kệ, bốn câu đầu là tướng siêu thiền. Bốn câu giữa là nói tứ quả. Hoặc loạn, nghĩa là Tiểu thừa chấp tướng Niết-bàn, cũng là tâm hoặc loạn. Bốn câu sau thiền giả, thiền v.v… tức năng nhập sở nhập ở trên và thiền cảnh sở duyên, cùng dứt tập, biết khổ, thấy lý chân đế, đều là tâm lượng vọng tưởng. Trong tánh vắng lặng nếu giác biết rõ thì rốt ráo giải thoát không được mà được.

25. Do đạo giác biết hai thứ nghĩa giác:

“Lại nữa Này Đại Tuệ! Có hai thứ giác, đó là quán sát giác và vọng tưởng tướng nhiếp thọ chấp đắm kiến lập giác. Này Đại Tuệ! Quán sát giác, là nếu giác tướng tánh tự tánh, chọn lựa xa lìa bốn câu không thật có, đó gọi là quán sát giác…” Ở trên nói nếu giác được giải thoát, lại bảo do đạo giác biết hai thứ nghĩa giác. Một phen đã nói, tuy khác với chân vọng, nhưng y theo văn tổng kết nói Bồ-tát thành tựu thì đại sĩ đều quán mà chân tục khác nhau. Quán sát giác tức là giác chân đế. Lập ra giác tức giác tục đế. Vì Bồ-tát quán chân chẳng bỏ tục, chiếu tục không trái chân. Nếu giác được tánh tự tánh v.v… tức quán tự tánh tất cả pháp, tánh này xưa nay lìa tướng, không thể dùng bốn câu một, khác v.v… để phân biệt lựa chọn, cho nên nói không thật có.

26. kết thúc khuyên tu học:

Này “Đại Tuệ! Bốn câu kia là lìa một, khác, đồng, chẳng đồng, có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường vô thường, đó gọi là bốn câu. Này Đại Tuệ! Lìa bốn câu này gọi là tất cả phá. Này Đại Tuệ! Bốn câu này quán sát tất cả pháp, nên phải tu học”. Phân biệt tướng bốn câu như trước. Nói lìa bốn câu, là không chấp đắm vọng tưởng. Nếu rơi vào chấp bốn câu thì chẳng phải dùng giác tánh tự tánh, nay mong cầu đều được thì lìa bốn câu kia. Lại đối với bổn tánh đó gọi là tất cả pháp. Dùng bốn câu này quán sát tất cả pháp, vô tình không lìa vô tánh không hiển, cho nên kết thúc khuyên rằng nên phải tu học.

27. Nói về hai thứ kiến lập giác:

Này “Đại Tuệ! Thế nào là tướng vọng tưởng nhiếp thọ chấp đắm lập ra giác? Nghĩa là tướng vọng tưởng nhiếp thọ chấp đắm, chất cứng, ướt, nóng, động, là tướng vọng tưởng chẳng thật thuộc bốn đại chủng: tông, nhân, tướng thí dụ, chấp đắm chẳng thật dựng lập mà dựng lập, đó gọi là tướng vọng tưởng nhiếp thọ chấp đắm lập ra giác. Đây là tướng của hai thứ giác. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu hai tướng giác này thì tướng người pháp vô ngã được rốt ráo, khéo biết phương tiện giác vô sở hữu. Quán sát hạnh địa liền được Địa thứ nhất, nhập vào trăm Tam-muội, được Tam-muội sai biệt, thấy cả trăm Đức Phật và cả trăm Bồ-tát. Biết việc trăm kiếp về trước về sau, ánh sáng chiếu cả trăm cõi nước, biết tướng các địa trên, đại nguyện cao siêu thần lực tự tại, được địa Pháp Vân, vào vị Quán đảnh, sẽ được Như lai tự giác địa. Khéo buộc tâm trong mười vô tận cú, thành thục chúng sinh, các thứ biến hóa sáng suốt trang nghiêm được tự giác Thánh lạc Tam-muội chánh thọ”. Về hai thứ lập ra giác, Kinh Nhập Lăng-già chép: Nghĩa là đối với các đại chủng tánh cứng, ướt, nóng, động vọng tưởng tướng chấp đắm luống dối phân biệt, do tông, nhân, dụ mà vọng lập ra. Đó gọi là vọng tưởng tướng phân biệt chấp đắm lập ra trí. Tông, nhân, dụ tức năm phần luận pháp tuy là không thật có lập ra, nhưng do thế đế nên có lập ra, chân tục hai hành không ngăn ngại nhau. Nếu Bồ-tát v.v… là tổng kết tướng thành của hai giác. Vì Sơ giác thành nên đối với người pháp biết tướng vô ngã, kế đến giác thành, hoàn toàn không có ngã tướng, không lìa người pháp, cho nên gọi rốt ráo khéo biết phương tiện giác vô sở hữu, trở lại dùng hai thứ giác, quán qua các hạnh địa thì về sau được nhập Địa thứ nhất. Nhập Tam-muội thấy Phật v.v… đều dùng trăm lời nói, vì Bồ-tát mới phá vô minh, có thể phân thân trăm cõi, nhập vào nhiều pháp môn đều như vậy. Cho nên Nhiếp Luận chép: Bồ-tát khi nhập Địa thứ nhất, minh môn trăm pháp: 1. Trong khoảng sát-na chứng trăm Tam-ma-địa. 2. Dùng thiên nhãn thanh tịnh thấy trăm cõi Phật. 3. Dùng năng lực thần thông làm rung chuyển trăm thế giới Phật. . Có khả năng đến trăm thế giới Phật giáo hóa chúng sinh. . Có khả năng dùng một thân hóa ra trăm thứ thân hình làm cho hữu tình thấy được. 6. Năng thành tựu trăm thứ giáo hóa hữu tình. 7. Nếu vì lợi ích, có khả năng lưu lại thân trụ đời trăm kiếp. 8. Hay biết việc trước việc sau cả trăm kiếp. . Có khả năng dùng trí tuệ nhập vào minh môn trăm pháp, thông đạt hoàn toàn. 10. Có khả năng dùng thân quán trăm loại quyến thuộc, các địa khác tăng lên gấp bội. Mười câu vô tận cú, như phẩm Thập Địa Kinh Hoa Nghiêm nói sơ Hoan hỷ địa có mười câu bất khả tận cú v.v… cũng như mười hạnh nguyện của ngài Phổ Hiền đều nói vô tận, do đó khéo buộc tâm, làm thành thục chúng sinh, đến nơi tự giác Thánh lạc Tam-muội thì việc của Bồ-tát sẽ làm xong.

28. Lặp lại về bốn đại:

“Lại nữa Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát phải khéo biết sắc do bốn đại tạo ra. Thế nào là Bồ-tát khéo biết sắc do bốn đại tạo ra. Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát khởi giác thế này: Đối với chân đế bốn đại chẳng sinh, đối với kia bốn đại chẳng sinh, khởi quán sát như thế, quán sát rồi, giác được phạm vi danh, tướng, vọng tưởng, phạm vị tự tâm hiện, ngoại tánh, phi tánh, đó gọi là phạm vi tâm hiện vọng tưởng. Nghĩa là trong ba cõi, quán sắc do bốn đại tạo ra kia tánh lìa sạch hết bốn câu, lìa ngã và ngã sở, trụ tướng như thật, tự tướng phần đoạn, thành tựu tự tướng vô sinh”. Ở trên nói bốn đại là nói chưa rõ ràng cho nên lặp lại. Ban đầu nói về quán năng giác, thì gọi là Bồ-tát khởi giác thế này… nói chân đế kia bốn đại chẳng sinh, là đúng lý. Cũng nói theo quán sát đối với giác. Nhưng lý chẳng phải không có bốn đại, nói thẳng vô tướng nên gọi là bất sinh, do đó Bồ-tát khởi bất sinh quán sát, bất sinh mà sinh, đó đó là gốc sinh bốn đại, cho nên có bốn đại danh tướng vọng tưởng thứ lớp, cuối cùng bốn đại kia sinh khởi, cũng là phạm vi của tự tâm hiện. Đã hiểu rõ các pháp chỉ do tâm, tức thấu đạt ngoại tánh phi tánh. Cho nên quán sắc do bốn đại tạo tánh lìa. Tánh lìa thì bất sinh bốn câu, do đó bốn cú thanh tịnh có cả bốn đại, cũng tức là bốn đại viên mãn, lìa bốn tánh. Do đó lìa ngã, ngã sở, lìa nên trở về gốc. Trở lại gốc nên mỗi pháp không mất tự thể, cho nên nói trụ tướng như thật, tự tướng phần đoạn. Như thật tướng thì nhiều tướng như một, tự tướng phần đoạn thì có khác nhau, chỉ vì kia đồng khác không ngăn ngại nhau, cho nên tự tướng vô sinh như vậy mà thành. Đây là trí năng giác.

29. Nói về pháp sở giác:

Này “Đại Tuệ! Bốn đại chủng kia vì sao sinh ra tạo sắc? Nghĩa là do thấm ướt đại chủng vọng tưởng sinh hỏa giới trong và ngoài, làm phiêu động đại chủng vọng tưởng sinh phong giới trong ngoài, cắt đứt đại chủng của sắc vọng tưởng, sinh địa giới trong ngoài. Sắc và hư không đồng chấp đắm tà đế, năm ấm nhóm họp, sắc do bốn đại tạo sinh ra”. Đây nói về pháp sở giác, văn trên giải thích tướng kia. Bốn đại kia nói theo chân đế mà nói, thì do bốn đại vì kia, nói theo bốn đại, thì cũng do chân đế vì kia. Nói bốn đại chủng sinh tạo sắc, tức đại chủng là năng tạo, như chất cứng, ướt, nóng, động. Bốn đại làm sở tạo, như thủy đại… trong ngoài sau gọi chung là sắc. Như Kinh Lăng-nghiêm thì xen nhau mà khởi, như giác sáng suốt rỗng không. Do mê muội đối đãi nhau nên thành dao động, do đó mà có phong luân… Nay mỗi thứ từ loại mà tạo, nên có thấm ướt đại chủng, sinh ra thủy đại… vì văn tuy riêng mà lý chung. Nói tạo pháp kia, phải chăng do tánh mà có tướng, từ nhỏ nhiệm cho đến chấp đắm tướng, nhân đó tưởng thành không do các thứ khởi, do đó phát sinh ra muôn loài, vốn là nhất tâm. Cái gọi là thấm ướt, kham năng, dao động, cắt dứt, mỗi thứ tùy theo tánh bốn đại mà mà nói rộngn. Lại thấm ướt… Cũng có thể y theo tham, sân, si… mà nói rộng, cho nên nhất nhất đều gọi là vọng tưởng tưởng, đại chủng chủng. Ở đây đều phát xuất từ nơi nhỏ nhiệm. Và kia đã chấp đắm thì gọi bốn đại trong ngoài, nghĩa là chánh báo là trong, y báo là ngoài, đồng trùm khắp tất cả mà chung với không, cho nên gọi sắc và hư không v.v… ngoại đạo đối với kế chấp tà đế này, hoặc chấp có không, hoặc khởi giới hạn, đã như trước bác bỏ. Sắc do bốn đại tạo ra cho nên có năm ấm, do ấm mà có sáu căn, thứ lớp sinh ra nên gọi là sắc do bốn đại tạo sinh.

30. Phật bác bỏ và phủ nhận:

Này “Đại Tuệ! Thức ấy vì ưa các dấu vết cảnh giới nên các cõi nối nhau. Này Đại Tuệ! Bốn đại như đất, v.v… và tạo sắc v.v… có bốn đại duyên và chẳng phải bốn đại kia duyên. Vì sao? Vì tánh, hình, tướng, xứ, phương tiện làm ra vô tánh, đại chủng chẳng sinh. Này Đại Tuệ! Tánh, hình, tướng, xứ, phương tiện làm ra hòa hợp sinh, chẳng phải vô hình. Cho nên tướng sắc do bốn đại tạo ngoại đạo vọng tưởng chẳng phải pháp của ta! Thức là sáu thức, nghĩa là sáu thức ưa cảnh giới của các trần ra vào trải qua cho nên gọi là tích, đây là do vọng thức chấp đắm vọng cảnh liền thành kiết nghiệp, sáu đường thọ sinh nối nhau không xen hở. Lại nói bốn đại như đất v.v… nêu bốn đại không thể riêng tạo, phải gồm cả duyên, không chỉ có nơi duyên, cho nên gọi là chẳng phải bốn đại duyên kia. Vì vậy đoạn dưới giải thích nghĩa kia. Nghĩa là tánh thấm ướt v.v… hình tướng là nhân của bốn đại sắc tướng. Xứ và phương tiện duyên tạo tác. Nếu nhân bất sinh tánh thì duyên cũng bất sinh, cho nên nói đại chủng bất sinh, phải do các duyên hòa hợp thành hình. Chẳng phải vô hình, thì cũng do duyên. Đã không do chẳng phải không do, thì vốn vô thật tánh, vô tánh mà sinh, thì nghĩa nhân duyên rõ ràng. Nói ngoại đạo vọng tưởng, đây cùng với lời tà đế chấp đắm trước đều là nhân mà bác bỏ chỗ sai trái, nghĩa là tướng sắc do bốn đại tạo, khác với vọng chấp phân biệt của ngoại đạo cho nên nói chẳng phải pháp của ta.

31. Nói về tự tánh năm ấm tướng số, phi số:

“Lại nữa Này Đại Tuệ! Sẽ nói tướng tự tánh các ấm. Thế nào là tướng tự tánh các ấm? Nghĩa là năm ấm. Năm ấm gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Bốn ấm kia chẳng phải sắc, đó là thọ, tưởng, hành, thức. Này Đại Tuệ! Sắc là sắc do bốn đại tạo mỗi đại đều có tướng khác. Này Đại Tuệ! Chẳng phải Vô Sắc có số bốn như hư không. Thí như hư không vượt ngoài số tướng, lìa các số mà vọng tưởng nói một hư không. Này Đại Tuệ! Như thế ấm vượt ngoài số tướng, lìa các số, lìa tánh và phi tánh, lìa bốn câu, số tướng ấy là kẻ ngu năng, chẳng phải hiền Thánh nói”. Đây nói rõ năm ấm tự tánh, tướng số phi số. Nói số, là do sắc phi sắc, mỗi thứ có bốn số, cho nên gọi kia là bốn ấm chẳng phải sắc. Lại nói sắc là sắc do đại tạo mỗi đại có tướng khác, vì bốn đại khác nhau nên gọi chung là sắc, mà sắc cũng có bốn. Kế là nói có số, tức cõi sắc cõi Vô Sắc đều chẳng phải số. Vả lại, y theo cõi Vô Sắc nói, cho nên nói chẳng phải Vô Sắc có bốn số như hư không. Chánh là nói Vô Sắc bốn ấm vốn chẳng có bốn. Thí như hư không siêu vượt số tướng, nhưng vọng tưởng phân biệt nói hư không là một, ấm cũng giống như vậy, lìa các số tướng bốn câu hữu, vô v.v… chấp có số tướng là lời phàm phu nói, chẳng phải các bậc Thánh hiền nói. Như nói thân Phật vô vi không rơi vào các số.

32. Lìa pháp chấp vô ngã thì sẽ nhập địa bất động:

Này “Đại Tuệ! Bậc Thánh thấy các sắc tượng như huyễn, lìa lập bày khác chẳng khác, lại như mộng, bóng, thân sĩ phu lìa khác chẳng khác. Này Đại Tuệ! Chỗ tiến đến của Thánh trí đồng ấm vọng tưởng hiện, đó gọi là tướng tự tánh của các ấm, ông nên dứt bỏ, dứt bỏ rồi nói pháp vắng lặng, dứt tất cả kiến chấp của ngoại đạo về cõi Phật. Này Đại Tuệ! Khi nói vắng lặng thấy pháp vô ngã được thanh tịnh và nhập bất động địa. Nhập Bất động địa rồi, được vô lượng Tam-muội tự tại, và được thân ý sinh, được Tam-muội như huyễn, thông đạt rốt ráo, thần lực ba minh tự tại, cứu hộ lợi ích tất cả chúng sinh, cũng như mặt đất là chỗ nuôi chúng sinh”. Đại Bồ-tát giúp lợi ích cho chúng sinh cùng khắp cũng giống như thế. Bậc Thánh hiểu rõ ấm như huyễn, tuy hiện các sắc tượng. Lìa lập bày khác chẳng khác, như trong mộng ảnh hiện tướng sĩ phu đều không có thật thể, đâu có khác, chẳng khác! Nhưng kiến chấp khác chẳng khác chính là vọng tưởng của phàm phu. Phật sở dĩ lìa được là do hiểu rõ phàm Thánh thể của ấm xưa nay không hai, cho nên gọi chỗ tiến đến của Thánh trí đồng ấm vọng tưởng hiện. Phàm phu muốn trở lại bản thể, thì phải xa lìa tánh tướng ấm vọng, cho nên nói ông phải dứt bỏ. Nếu vọng chấp vắng lặng thì sẽ hiện rõ. Cho nên năng thuyết đây là pháp vắng lặng. Xa lìa tất cả kiến chấp của ngoại đạo. Khi nói pháp này đã lìa pháp chấp vô ngã, thì sẽ nhập Bất động địa, đắc vô lượng Tam-muội tất cả pháp môn, khắp cứu giúp chúng sinh, như quả đất là chỗ nuôi chúng sinh.

33. Phật muốn nói chánh nên trước bỏ tà:

“Lại nữa Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo có bốn thứ Niết-bàn. Bốn thứ Niết-bàn ấy là tánh tự tánh phi tánh Niết-bàn, các thứ tướng tánh phi tánh Niết-bàn, tự tướng tự tánh phi tánh giác Niết-bàn và các ấm tự cộng tướng nối tiếp lưu chú đoạn Niết-bàn. Ấy gọi là bốn thứ Niết-bàn của các ngoại đạo, chăng phải pháp của ta nói. Này Đại Tuệ! Ta nói ra đó, là thức vọng tưởng diệt gọi là Niết-bàn “Niết-bàn nói có tà có chánh, Phật muốn nói chánh là trước bác bỏ tà. Nói ngoại đạo có bốn thứ Niết-bàn, danh tướng như kinh đã nêu. Niết-bàn là quả, quả do nhân đắc, nhân kia đã tà thì quả cũng chẳng phải chánh, cho nên nói chẳng phải ta nói. Ta nói Niết-bàn là chỉ thẳng tâm diệt vọng thức. Bởi có ngoại đạo Niết-bàn không lìa thần ngã, vì thần ngã tức là vọng thức, do vọng tưởng thức diệt mà đối phá”.

34. Gió dừng thì sóng diệt, nên nói ý thức diệt thì thức thứ bảy cũng diệt:

“Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Có dựng lập tám thức hay không? Phật bảo: Có dựng lập. Đại Tuệ bạch Phật: nếu dựng lập, tại sao lìa ý thức chẳng phải bảy thức. Phật bảo Đại Tuệ: Vì nhân kia và phan duyên kia cho nên bảy thức bất sinh. Ý thức cảnh giới phần đoạn chấp đắm sinh, thói quen nuôi lớn trong tàng thức, ý câu, ngã, ngã sở, chấp đắm, tư duy nhân duyên sinh, chẳng hoại thân tướng của nhân tàng thức phan duyên cảnh giới do tự tâm hiện ra, rồi chấp đắm nhóm tâm liền sinh, xoay vần làm nhân nhau, thí như biển và sóng, gió cảnh giới do tự tâm hiện thổi hoặc sinh hoặc diệt, cũng giống như thế. Cho nên, ý thức diệt thì bảy thức cũng diệt”. Trên nói vọng tưởng thức diệt gọi là Niết-bàn, liền nghi tám thức cũng diệt. Phật đáp do bất diệt, nói lập ra không diệt. Lại nghi bảy thức không diệt. Phật đáp vì nhân kia và phan duyên nên bảy thức bất sinh, kia tức là sáu thức, ý nói nhân và phan duyên ở sáu thức, mà bảy thức chấp ngã không hề lìa nhau. Nếu sáu thức diệt thì bảy thức cũng bất sinh. Ý thức v.v… trở xuống, nêu chung các thức lần lượt làm nhân cho nhau. Chưa từng không theo nhau là một thể mà tướng khác. Lại có bốn ý: 1. Cảnh giới phần đoạn, là nói thức thứ sáu từ sáu trần sinh. 2. Thói quen nuôi lớn, là nói sáu thức không lìa thức thứ bảy thức thứ tám. 3. Chấp đắm ngã, ngã sở, là nói ngã chấp bảy thức, từ suy tư nhân kia, duyên kia mà sinh. . Không hoại thân tướng… tàng thức tức là thức thứ tám. Nói nhân phan duyên nên tự tâm hiện cảnh giới. Tám thức này do sáu thức năng duyên, trở lại duyên cảnh giới tự tâm hiện, tức sáu trần. Do chấp đắm mà sinh sáu thức, năng gồm có các tâm cho nên nói tâm nhóm liền sinh. Nghĩa là thức thứ tám và thức thứ sáu lần lượt làm nhân nhau mà sinh, như tướng nhân đây có gốc có ngọn, gốc là tám thức chuyển sinh các thức, ngọn là sáu thức sinh thiện sinh ác. Thức thứ bảy thì truyền tống ở giữa cho nên nói lần lượt làm nhân nhau. Lại lấy ví dụ nêu bày, biển dụ cho thức thứ tám sóng dụ cho thức thứ sáu, do sáu trần làm gió cảnh giới. Cảnh giới là tự tâm hiện trở lại thổi biển tâm của thức thứ tám chuyển sinh các thức. Hoặc sinh hoặc diệt cũng do nương biển mà có gió, do gió mà có sóng dậy, lần lượt làm nhân nhau. Gió dừng thì sóng diệt, cho nên nói ý thức diệt, thức thứ bảy cũng diệt.

35. Đức Phật nói kệ để lặp lại nghĩa trên:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

“Ta không tánh Niết-bàn,
Làm ra cùng với tướng
Vọng tưởng, thức tri chướng,
Đây diệt ta Niết-bàn.
Kia nhân, kia phan duyên,
Ý thú thảy thành thân.
Cùng với nhân là tâm,
Là chỗ nương của thức,
Như dòng nước lớn cạn,
Sẽ chẳng dậy sóng mòi.
Như thế ý thức diệt,
Các thứ thức chẳng sinh”.

Ngoại đạo cho rằng có bốn thứ Niết-bàn, không lìa tánh và tướng, Phật bác bỏ, nói ta không cho tánh tướng là Niết-bàn, mà chỉ thẳng vọng tưởng trí chướng thức diệt là Niết-bàn! Kia nhân, kia phan duyên… là nói bảy thức do ý thú nhân… thành sáu thức thân. Cuối cùng nguồn nhân kia lại dùng tâm của tám thức, làm chỗ nương của các thức, như ví dụ nước v.v… trở xuống ý có thể thấy.

36. Nói về tướng chung của vọng tưởng tự tánh phân biệt:

“Lại nữa Này Đại Tuệ! Nay sẽ nói về tướng chung của vọng tưởng tự tánh phân biệt. Nếu khéo phân biệt tướng chung của vọng tưởng tự tánh phân biệt thì ông và các Đại Bồ-tát lìa vọng tưởng đến tự giác Thánh, khéo thấy con đường chung của ngoại đạo, giác vọng tưởng năng nhiếp, sở nhiếp đoạn duyên khởi các thứ vọng tưởng tự tánh hành, không còn vọng tưởng”. Kinh Nhập Lăng-già chép: Nay ta sẽ nói tướng vọng tưởng tự tánh khác nhau, giúp ông và các Đại Bồ-tát khéo biết nghĩa này, dứt các vọng tưởng, chứng Thánh trí, biết pháp ngoại đạo, xa lìa phân biệt năng thủ sở thủ, các tướng y tha khởi, không còn chấp tướng vọng tưởng.

37. Tướng chung vọng tưởng tự tánh phân biệt:

Này “Đại Tuệ! Thế nào là tướng chung vọng tưởng tự tánh phân biệt? Nghĩa là lời nói vọng tưởng, sở thuyết sự vọng tưởng, tướng vọng tưởng, lợi vọng tưởng, tự tánh vọng tưởng, nhân vọng tưởng, kiến vọng tưởng, thành vọng tưởng, sinh vọng tưởng, bất sinh vọng tưởng, đó gọi là tướng chung, vọng tưởng tự tánh phân biệt”. Vọng tưởng là một, tùy theo cảnh mà có khác. Trong đây trước chung, kế là riêng. Tên chung có thể thấy, tướng riêng gồm có mười hai. Ban đầu nêu mười hai, kế là giải thích ý nghĩa.

a) Này “Đại Tuệ! Thế nào là lời nói vọng tưởng? Nghĩa là các thứ tiếng, hay ca vịnh vui đẹp chấp đắm, gọi là lời nói vọng tưởng”. Đây là chấp đắm các thứ âm thanh từ cú, cho là có tánh.

b) Này “Đại Tuệ! Thế nào là sở thuyết sự vọng tưởng? Nghĩa là có việc nói ra là chỗ Thánh trí biết, nương vào đó mà sinh lời nói vọng tưởng, đó gọi là sự sở thuyết vọng tưởng”. Sự sở thuyết tự tánh, hễ là sự sở thuyết cực kỳ tự tánh, chỉ có Thánh trí mới biết được, phàm phu không thể hiểu được, chỉ nương vào việc kia mà sinh vọng tưởng lời nói.

c) Này “Đại Tuệ! Thế nào là tướng vọng tưởng? Nghĩa là việc nói ra kia, như nai khát nước, tưởng các thứ chấp đắm rồi chấp đắm, như tướng cứng, ướt, ấm, động tất cả tánh vọng tưởng, đó gọi là tướng vọng tưởng”. Ở đây nói tùy sự khởi kiến, như nai khát nước thấy sóng nắỳng tưởng cho là nước, nghĩa là đối với đất, nước, gió, lửa, chấp có tánh cứng, ướt, ấm, động, mà không biết tánh kia vốn dung hòa, đối với tất cả pháp vọng chấp danh tướng, tánh tức là pháp.

d) Này “Đại Tuệ! Thế nào là lợi vọng tưởng? Nghĩa là ưa các thứ vàng bạc châu báu ấy gọi là lợi vọng tưởng”. Tài vật quý giá ở thế gian vốn là vật huyễn, phàm phu không biết nên sinh tâm tham trước.

e) Này “Đại Tuệ! Thế nào là tự tánh vọng tưởng? Nghĩa là giữ gìn tự tánh này như thế chẳng đổi ác kiến vọng tưởng, đó gọi là tự tánh vọng tưởng”. Nói giữ gìn tự tánh này như thế. Trì là giữ gìn, tức là đối với các pháp khởi chấp tự tánh, chấp cho là đúng, các việc khác là sai, đâu khác gì ác kiến phân biệt của ngoại đạo.

f) Này “Đại Tuệ! Thế nào là nhân vọng tưởng? Nghĩa là hoặc nhân, hoặc duyên phân biệt hữu vô nên nhân tướng sinh, đó gọi là nhân vọng tưởng”. Nghĩa là đối với pháp do nhân duyên sinh khởi kiến chấp hữu vô v.v… vọng tưởng phân biệt thành nhân sinh tử.

g) Này “Đại Tuệ! Thế nào là kiến vọng tưởng? Nghĩa là các thứ ác kiến có, không, một, khác, đồng, không đồng là vọng tưởng chấp đắm vọng tưởng của ngoại đạo, đó gọi là kiến vọng tưởng”. Đây là nói ngoại đạo ác kiến chấp đắm bốn câu phân biệt có, không, một, khác, đồng chẳng đồng.

h) Này “Đại Tuệ! Thế nào là thành vọng tưởng? Nghĩa là tưởng ngã và ngã sở tạo thành luận quyết định, đó gọi là thành vọng tưởng”. Đây là đối với giả danh thật pháp, chấp ngã, ngã sở mà khởi lời nói vọng tưởng.

i) Này “Đại Tuệ! Thế nào là sinh vọng tưởng? Nghĩa là duyên có tánh hữu vô sinh chấp đắm, đó gọi là sinh vọng tưởng”. Kinh Nhập Lăng-già chép: Nghĩa là chấp các pháp hoặc có hoặc không từ duyên mà sinh, đó gọi là sinh phân biệt vọng tưởng.

j) Này “Đại Tuệ! Thế nào là bất sinh vọng tưởng? Nghĩa là tất cả tánh vốn vô sinh, không có hạt giống nhân duyên, sinh ra thân vô nhân, đó gọi là bất sinh vọng tưởng”. Nghĩa là tất cả pháp chưa có nhân duyên mà trước có tự thê, không nhờ nhân duyên mà sinh nên khởi phân biệt bất sinh.

k) Này “Đại Tuệ! Thế nào là nối tiếp vọng tưởng? Nghĩa là kia nối liền nhau như kim với chỉ, đó gọi là nối tiếp vọng tưởng”. Kia nối liền với nhau như kim với chỉ, Kinh Nhập Lăng-già chép: Nghĩa là đây cùng với kia lần lượt trói buộc vào nhau như kim với chỉ, đó gọi là nối tiếp phân biệt.

l) Này “Đại Tuệ! Thế nào là phược bất phược vọng tưởng? Nghĩa là chấp đắm nhân duyên phược và chẳng phược, như sĩ phu dùng phương tiện hoặc trói buộc hoặc cởi mở, đó gọi là phược bất phược vọng tưởng”. Chấp đắm nhân duyên phược chẳng phược, là nói theo lý, pháp vốn tự lìa làm gì có ràng buộc. Tình chấp thành trói buộc chẳng thể nói không. Như sĩ phu, Kinh Nhập Lăng-già chép: Như người dùng dây phương tiện gắng sườc buộc rồi mở, đó là đối với không buộc mở mà sinh chấp đắm.

“Đây là tướng chung vọng tưởng tự tánh phân biệt, tất cả kẻ ngu chấp đắm hữu vô” Trên đây nói các chấp đắm không ngoài hữu vô cho nên tổng kết nói.

38. Không nên chấp là khác, chẳng khác, hữu, vô:

Này “Đại Tuệ! Chấp đắm duyên khởi mà chấp đắm, các thứ vọng tưởng chấp đắm tự tánh, như huyễn thị hiện các thứ thân. Phàm phu vọng tưởng thấy các thứ khác với huyễn. Này Đại Tuệ! Huyễn cùng các thứ chẳng phải khác, chẳng phải không khác. Nếu khác thì huyễn chẳng phải các thứ nhân. Nếu không khác thì huyễn và các thứ không khác nhau, mà thấy khác nhau. Cho nên, chẳng phải khác, chẳng phải không khác. Do đó nên Này Đại Tuệ! Ông và các vị Đại Bồ-tát đối với chuyên khởi vọng tưởng tự tánh như huyễn chớ chấp đắm là khác, chẳng khác, hữu vô”. Trước nói vọng tưởng phân biệt tự tánh, chưa nói sở chấp, cho nên kế là nói duyên khởi, lại dùng huyễn để ví dụ nói lên vọng tưởng vốn không, phàm phu không hiểu rõ thấy có các tướng khác nhau, cho nên dụ rằng huyễn và các thứ chẳng phải khác, chẳng phải không khác. Xem xét kỹ càng nêu bày như trước rất dễ hiểu. Nếu hiểu rõ pháp không tự tánh, đối với duyên khởi vọng tưởng đều không thật có, vì thế không nên chấp đắm khác, chẳng khác, hữu, vô.

39. Phật nói kệ để lặp nghĩa trên:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng: 

“Tâm cột vào cảnh giới,
Giác tưởng trí chuyển theo
Vô sở hữu và thắng,
Trí tuệ bình đẳng sinh
Vọng tưởng tự tánh có,
Đối duyên khởi thì không
Vọng tưởng hoặc nhiếp thọ
Duyên khởi chẳng vọng tưởng
Các thứ chi phần sinh,
Như huyễn thì không thành,
Tướng kia có nhiều thứ
Vọng tưởng thì không thành”.

Tâm trói buộc, nghĩa là một niệm ở trước bị trần cảnh xoay chuyển, cho nên có nghiệp trói buộc. Nhưng vốn có giác trí cũng chuyển theo vọng, nếu rõ vọng tức chân, lìa các tướng hữu và thẳng đến địa vị Phật thì lại bình đẳng. Đại Tuệ. Thắng tức tối thắng xứ Phật địa. Vọng tưởng tự tánh trở xuống tám câu, là nói vọng tưởng duyên khởi là hữu vô. Bốn câu đầu y theo pháp, bốn câu sau y theo dụ… nghĩa là vọng tưởng tự tánh nếu có thì duyên khởi không pháp nào thật có, cũng không đợi duyên khởi mà thành vọng tưởng. Nếu do vọng tưởng năng nhiếp thọ, chấp cảnh giới kia thành vọng tưởng, mà duyên khởi tự chẳng phải vọng tưởng, làm sao có thể thành vọng tưởng được? Dụ, nghĩa là như nhà ảo thuật kiến ra các thứ chi phần huyễn. Nếu trước đã sinh thì không đợi ảo thuật mới thành. Tướng huyễn kia tuy có các thứ mà vọng tưởng tự chẳng có các thứ, cho nên nói chẳng thành. Đây đều nói lên hữu vô chẳng thật có.

40. Duyên khởi vọng tưởng làm nhân lẫn nhau mà thành:

“Tướng kia tức là lỗi
Đều từ tâm phược sinh
Vọng tưởng vô sở tri
Đối duyên khởi vọng tưởng
Tánh các vọng tưởng này
Tức là duyên khởi kia
Vọng tưởng có các thứ
Đối duyên khởi vọng tưởng”.

Tám câu này lại nói duyên khởi vọng tưởng làm nhân lẫn nhau mà thành. Nói lỗi tướng kia, nghĩa là lỗi của tướng duyên khởi, do tâm trói buộc chấp mà thành lỗi: Tâm trói buộc tức là vọng tưởng. Nếu hiểu rõ duyên khởi thì không vọng tưởng, do vọng tưởng chẳng giác biết duyên khởi sinh các phân biệt. Duyên khởi này và tướng vọng tướng do đó mà có cái ban đầu, không có trước sau, khác nhau nên nói vọng tưởng tức duyên khởi, thể cố nhiên là không hai, nhưng kiết cuộc do duyên khởi mà có phân biệt.

41. Dứt vọng tưởng là cảnh giới của bậc Thánh:

Nghĩa Thế đế đệ nhất,
Thứ ba vô nhân sinh…
Vọng tưởng nói thế đế
Dứt là cảnh giới Thánh.

Thế đế là tục đế. Đệ nhất nghĩa là chân đế. Các Đức Phật nói pháp thường nương vào hai đế này. Ngoài ra đều là tà chấp của ngoại đạo, cho nên nói thứ ba vô nhân sinh. Kinh Niết-bàn nói: sự hiểu biết của người xuất thế gọi là Đệ nhất nghĩa đế, sự hiểu biết của người thế gian gọi là thế đế. Ngoại đạo lập hai mươi lăm đế, nói rõ trong nhân có quả. Thứ nhất từ minh sơ sinh giác, thứ hai từ giác sinh ngã tâm, thứ ba từ ngã tâm sinh sắc, thanh, hương, vị, xúc… đây nói vô nhân, tức tánh tự nhiên. Vọng tưởng nói trở xuống là kết thúc thành tựu ba thứ tự tánh. Thế đế, là duyên khởi vọng tưởng hai thứ tự tánh. Cảnh giới Thánh, tức Đệ nhất nghĩa đế thành tự tánh, nhưng mê là thế đế, ngộ là Đệ nhất nghĩa đế, cho nên nói dứt là cảnh giới Thánh.

“Thí như việc tu hành
Đối một, các thứ hiện
Đối kia, không các thứ
Tướng vọng tưởng như thế
Thí như các che ngăn
Vọng tưởng các sắc hiện
Không màng, sắc chẳng sắc
Duyên khởi thì chẳng giác
Thí như lọc vàng ròng
Loại bỏ các chất tạp
Hư không chẳng mây che
Vọng tưởng sạch cũng vậy”

Ở đây là nêu bốn ví dụ, ban đầu dụ cho tự tánh vọng tưởng. Nói việc tu hành, như thiền có mười thứ tất cả chỗ: nghĩa là xanh, vàng, đỏ, trắng… đều trùm khắp tất cả, cảnh kia vốn là một, do tâm tưởng nên có các thứ cảnh: tướng vọng tưởng cũng giống như vậy, cho nên thật Vô Sắc chẳng phải sắc, duyên khởi bất giác cũng giống như vậy. Lại như như hai ví dụ lọc vàng ròng, và hư không chẳng mây che, đều dụ cho thành tự tánh. Ý nói không vọng tưởng kia duyên khởi hai thứ tự tánh thì như vàng ròng không có chất tạp, như hư không chẳng có mây che, cho nên nói vọng tưởng sạch cũng như vậy.

42. Không theo vọng thì trở lại Thánh trí:

Không có tánh vọng tưởng
Và có duyên khởi kia
Lập ra và chê bai
Đều do vọng tưởng hoại
Nếu Vọng tưởng vô tánh
Mà có tánh duyên khởi
Vô tánh mà có tánh
Hữu tánh vô tánh sinh
Do nương theo vọng tưởng
Mà được duyên khởi kia
Danh tướng thường theo nhau
Mà sinh các vọng tưởng
Rốt ráo chẳng thành tựu
Dứt trừ các vọng tưởng
Về sau trí thanh tịnh
Ấy gọi Đệ nhất nghĩa”.

Không có tánh vọng tưởng v.v… là giải thích lại tự tánh duyên khởi vọng tưởng ở trên xưa nay chẳng phải có, chẳng phải không. Nói chắc chắn có thì rơi vào lập ra, nói chắc chắn không thì rơi vào chê bai, đều do vọng tưởng làm hoại chánh kiến. Nếu vọng tưởng vô tánh, nghĩa là nếu không có tánh vọng tưởng mà có tánh duyên khởi thì có lỗi từ vô sinh thành vô nhân. Do vọng niệm phân biệt từ vô thỉ mà có duyên khởi, nhưng do vọng tưởng nương nơi danh tướng. Danh và tướng như bóng theo hình đều là luống dối. Do không hiểu đây mà khởi vọng tưởng, cùng tận nguồn gốc vọng không thành tựu được gì thì vọng tưởng tự diệt, trở lại tự giác Thánh trí, gọi là Đệ nhất nghĩa. Độ tức là trừ.

43. Mười hai thứ vọng tưởng đều chẳng ngoài như như:

“Vọng tưởng có mười hai
Duyên khởi có sáu thứ
Tự giác biết trí chướng
Kia không có khác nhau
Năm pháp là chân thật
Tự tánh có ba thứ
Tu hành phân biệt đây
Chẳng vượt qua như như”.

Mười hai thứ vọng tưởng như trước đã nói. Duyên khởi có sáu, sáu tức sáu trần, nghĩa là duyên khởi tự tánh. Do gió cảnh giới sáu trần thổi động mà khởi, có chỗ nói sáu nhân là sai. Nhưng vọng tưởng duyên khởi này, nói chung đều có tướng khác nhau. Trong tự giác Thánh trí thì không có sự khác nhau như thế. Nhĩ minh tức là trí. Năm pháp, ba tự tánh đều là pháp môn tự hành hóa tha của Như lai, người tu hành và giáo hóa chúng sinh của Như lai, người tu hành xứng tánh mà quán sát đều là chân thật một lý, cho nên nói chẳng ngoài như như:

44. Lìa hai thứ tự tánh duyên khởi và vọng tưởng thì gọi là viên thành tự tánh:

“Các tướng và duyên khởi
Đó gọi khởi vọng tưởng
Các tướng vọng tưởng kia
Từ duyên khởi ấy sinh
Giác tuệ khéo quán sát
Vô duyên, vô vọng tưởng
Thành rồi không có tánh
Làm sao vọng tưởng giác?
Tự tánh vọng tưởng kia
Lập ra hai tự tánh
Vọng tưởng các thứ hiện
Cảnh giới Thánh thanh tịnh
Vọng tưởng như màu vẽ
Duyên khởi chấp vọng tưởng
Nếu khác với vọng tưởng
Là nương luận ngoại đạo
Vọng tưởng nói sở tưởng
Do thấy hòa hợp sinh
Lìa hai thứ vọng tưởng
Như vậy tức là thành”.

Các tướng và danh đều là duyên khởi, danh và tướng kia đều là vọng tưởng. Vọng tưởng duyên khởi này đều từ danh tướng mà sinh, nhưng lại nói vọng tưởng từ duyên khởi mà sinh. Vì chỉ cho vọng niệm hiện ra sinh khởi từ căn trần hòa hợp mà sinh. Ở trên nói duyên khởi từ vọng tưởng sinh, vì chỉ mê chân từ vọng mà có pháp nhân duyên sinh, người học không thể không xét, nhưng do chánh trí quản cả hai đều không có, thành rồi thì không tánh, là nói trong tánh viên thành thật vốn không có tánh chấp, vì sao chúng sinh sinh vọng tưởng giác biết, đã quên tánh chân thật mà thành vọng tướng cho nên có hai thứ tự tánh danh tướng, sự tướng nhưng mê thì thấy các tướng hiện, ngộ thì đó là cảnh giới tu hành thanh tịnh của bậc Thánh. Vọng tưởng như màu vẽ, ý nói không khởi hữu, như vốn không có sắc tượng do vẽ mà có. Vọng tưởng vốn do duyên khởi, duyên khởi vốn do phân biệt, chấp duyên khởi mà sinh vọng tưởng. Vì vọng tưởng kia như cho nên Đức Phật phương tiện nói như thế, là muốn cho chúng sinh bỏ vọng về chân. Nếu khác đây mà nói vọng tưởng thì đó là hý luận tà chấp của ngoại đạo, cho nên nói “vọng tưởng nói sở tưởng, do thấy hòa hợp sinh”. Bởi do ngoại đạo vọng tâm phân biệt tướng vọng tưởng và luận ba duyên hòa hợp mà sinh, đều chẳng phải chánh luận. Nếu lìa hai thứ tự tánh duyên khởi, vọng tưởng, thì gọi là viên thành tự tánh.

45. Bồ-tát Đại Tuệ thưa hỏi về sự tu hành chứng đắc của Phật:

Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin ngài nói cho chúng con nghe về tướng tự giác Thánh trí và Nhất thừa. Nếu nói tướng tự giác Thánh trí và Nhất thừa, con và các Bồ-tát khác khéo hiểu rành tướng tự giác Thánh trí và Nhất thừa thì chẳng nhờ nơi khác mà thông đạt Phật pháp”. Đại Tuệ nhờ nghe rốt ráo các vọng hiển bày Đệ nhất nghĩa, ở trên cho nên dùng hành tướng tự giác Thánh trí và hành tướng Nhất thừa, vì mọi người mà thưa hỏi sự suy tư tu chứng của Phật.

46. Phật nói về sự tu hành chứng đắc của Ngài:

Phật bảo Đại Tuệ: Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghĩ, ta sẽ nói cho ông nghe. Đại Tuệ bạch Phật. Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: “Sự hiểu biết của bậc Thánh truyền trao cho nhau vọng tưởng là vô tánh, Đại Bồ-tát ở một mình chỗ vắng vẻ, tự giác quán sát, chẳng do nơi khác lìa kiến chấp vọng tưởng, tiến thẳng lên trên, vào địa Như lai, đó gọi là tướng tự giác Thánh trí”. Sự hiểu biết của bậc Thánh trước, tức hành tướng tự chứng Thánh trí và hành tướng Nhất thừa, nghĩa là các Đức Phật quá khứ đều từ hai thứ hạnh môn này mà thành Chánh giác, do đó xoay vần truyền trao cho nhau, cái gọi là “Phật Phật truyền trao, tổ tổ thọ nhận”. Đây là đáp chung lời cầu thỉnh trước. Vọng tưởng vô tánh trở xuống là đáp riêng về tự giác Thánh trí. Hành tướng các pháp xưa nay vắng lặng, người ngu không biết sinh vọng chấp phân biệt mà nói vọng pháp, vốn không tự tánh. Nhưng muốn tiến Tu-diệu hạnh thì phải ở chỗ vắng lặng để quán sát. Quán xong rồi thì các vọng tưởng không lìa mà lìa, dần dần trải qua các địa, vào cảnh giới Như lai, gọi đó là tự giác Thánh trí rốt ráo tự nhiên.

47. Giải thích hành tướng Nhất thừa:

Này “Đại Tuệ! Thế nào là tướng Nhất thừa? Nghĩa là giác ngộ đạo Nhất thừa nên ta nói Nhất thừa. Thế nào là giác ngộ đạo Nhất thừa? Nghĩa là chỗ năng nhiếp sở nhiếp vọng tưởng như thật chẳng sinh ra vọng tưởng, đó gọi là giác Nhất thừa. Này Đại Tuệ! Người giác ngộ Nhất thừa, các hàng ngoại đạo, Thanh văn, Duyên giác, Phạm thiên vương… chẳng thể biết được, chỉ trừ Như lai, do đó nên gọi là Nhất thừa”. Đây là giải thích hành tướng Nhất thừa. Nói Nhất thừa là Nhất Phật thừa, nghĩa là pháp Đại thừa của Như lai. Pháp Nhất thừa này không lìa nhất tâm của con người, cái gọi là pháp mầu tức là tâm. Vì tâm đầy đủ pháp mầu, không hai không khác với chỗ chứng của Phật. Muốn giác ngộ đạo Nhất thừa, cần phải cứu xét tự tâm, cho nên nói: năng nhiếp sở nhiếp vọng tưởng, nghĩa là hiểu rõ căn trần vọng tâm năng thủ, sở thủ, dứt vọng hiển chân, như thật mà trụ, cho nên nói như thật chẳng sinh vọng tưởng. Nhưng giác ngô đạo Nhất thừa này chỉ có Phật và Phật mới cứu xét được cùng tận, cho nên nói các ngoại đạo…chẳng thể chứng được.

48. Có ba lý do Như lai chỉ nói Tiểu thừa không nói Đại thừa:

Đại Tuệ bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Cớ sao nói ba thừa mà chẳng nói Nhất thừa? Phật bảo Đại Tuệ: “Chẳng tự nhập vào pháp Niết-bàn, nên chẳng nói với tất cả Thanh văn, Duyên giác về Nhất thừa, vì tất cả Thanh văn, Duyên giác, Như lai điều phục trao cho phương tiện vắng lặng để được giải thoát, chẳng phải năng lực của chính mình, cho nên chẳng nói Nhất thừa. Lại nữa, Đại Tuệ, vì phiền não chướng nghiệp, thói quen chẳng dứt bỏ, nên không nói với tất cả Thanh văn, Duyên giác về Nhất thừa. Vì chẳng giác pháp vô ngã, chẳng lìa phần đoạn tử cho nên nói ba thừa”. Ý này hỏi Như lai chỉ nói Tiểu thừa không nói Đại thừa. Phật đáp do ba nghĩa cho nên không nói Nhất thừa. Chẳng tự nhập vào pháp Niết-bàn, là vì người Nhị thừa không hiểu sinh tử tức Niết-bàn, nên không nói nhất thừa. Nói điều phục trao cho phương tiện vắng lặng, là do vâng lãnh phương tiện giáo dưỡng mà tu chứng vắng lặng, chỉ lìa luống dối, gọi là giải thoát. Vì chưa chưa giải thoát tất cả nên không vì nói hai. Phiền não chướng v.v… do kia chỉ dứt bỏ bốn trụ, trụ ở hoặc chung, thói quen chưa dứt, các hoặc riêng hoàn toàn còn, cho nên không nói ba. Nhị thừa phá chấp người, chưa phá chấp pháp, nên nói bất giác pháp vô ngã. Tuy dứt bỏ phiền não thân ở phần đoạn, chưa gọi là sinh tử biến dịch nên nói không lìa sanh tử phần đoạn. Như lai vì người căn cơ Tiểu thừa này, chỉ nói pháp ba thừa.

49. Nói về Nhất Phật thừa:

Này “Đại Tuệ! Những người kia đã dứt bỏ phiền não, thói quen giác ngộ được pháp vô ngã. Họ đối với tất cả thói quen phiền não đã hết, đắm vị Tam-muội lạc chẳng phải tánh, giác được cõi vô lậu. Giác rồi lại nhập thượng thượng xuất thế gian, đầy đủ các thứ công đức sẽ được pháp thân Như lai tự tại không thể suy nghĩ, bàn luận”. Ở đây nói hạnh Nhất thừa do dứt bỏ thói quen phiền não, không bị vô minh che lấp, hiêu rõ chân không Tam-muội lạc, bất sinh đắm vị cho nên nói chẳng phải tánh, chính giác được cõi vô lậu. Cõi Vô lậu tức nhập cõi Thật báo, thọ pháp tánh thân, tùy loại hiện hình thị hiện sinh diệt, độ thoát các cõi. Cho nên nói giác rồi lại nhập xuất thế gian, đến thượng phẩm tịch quang, hai thứ trang nghiêm đầy đủ, cuối cùng hiển bày pháp thân tự tại không thể suy nghĩ, bàn luận. Đó gọi là nhất Phật thừa.

50. Nói về các thừa và Nhất thừa:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

“Các trời và phạm thừa
Thanh văn, Duyên giác thừa
Chư Phật Như lai thừa
Ta nói các thừa này
Cho đến có tâm chuyển
Các thừa chẳng rốt ráo
Nếu tâm kia diệt hết
Chẳng thừa và người thừa
Không có kiến lập thừa
Ta nói là Nhất thừa”.

Bốn câu trước nói chung về các thừa, sáu câu sau ý nói Nhất thừa. Nói có tâm chuyển, chuyển tức là khởi động, nghĩa là nếu có một niệm tâm động, dù là Phật thừa cũng chẳng rốt ráo, huống chi là các thừa khác! Nói tâm hành diệt, không có người năng thừa, cũng chẳng có pháp sở thừa, cho đến pháp môn Nhất thừa không thể lập ra, lìa danh bặt tướng, chẳng phá chẳng lập, có các căn cơ này mới nói cho nghe Nhất thừa.

51. Nói về pháp ba thừa:

“Vì dẫn dắt chúng sinh
Phân biệt nói các thừa
Giải thoái có ba thứ
Cùng với pháp vô ngã
Phiền não trí tuệ thảy
Giải thoát thì xa lìa
Như cây nổi trên biển
Thường trôi theo dòng nước
Thanh văn ngu cũng vậy
Tướng gió thổi trôi giạt
Kia khởi phiền não diệt
Còn tập phiền não ngu”.

Văn trên của bài tụng này nói về pháp ba thừa. Ba giải thoát là quả mà ba thừa chứng được, nghĩa là Thanh văn dứt chánh sử, Duyên giác dứt thói quen, Bồ-tát thì chánh sử và thói quen đều dứt, phá hoặc tuy khác nhưng chứng quả là một chân không Niết-bàn, pháp vô ngã v.v… Đây nói hạnh Đại thừa đắc pháp vô ngã hoặc trí bình đẳng, trói và cởi không hai, đó gọi là viễn ly đại giải thoát. Thí như trở xuống là dụ Nhị thừa chưa dứt bỏ trí chướng, vì gió tướng không thổi động trôi giạt như cây nổi trên biển, bị nước chảy trôi đi, tuy dứt bỏ hoặc chung mà chưa dứt bỏ vô minh căn bản cho nên nói còn tập phiền não ngu, tập tức là vô minh.

52. Nhị thừa lìa khổ, được vui:

“Đắm vị vui Tam-muội
An trụ cõi vô lậu
Không có tiến rốt ráo
Cũng chẳng còn lui sụt
Được các thân Tam-muội
Cho đến kiếp chẳng giác
Thí như người say rượu
Rượu hết rồi mới tỉnh
Kia giác pháp cũng vậy
Được thân Phật vô thượng”.

Nhị thừa lìa khổ sinh tử phần đoạn, được an vui Niết-bàn chân không, trong đó đắm vị mà không tiến thủ, nhưng cũng không lui sụt làm phàm phu. Tam-muội này thân rơi vào hầm vô vi, cho đến trải qua nhiều kiếp không giác ngộ. Thí như người say, say mê cuồng loạn không hiểu biết gì đến khi hết rượu rồi mới tỉnh. Đây là dụ cho căn cơ Nhị thừa chuyển, tâm trở về pháp giác, chánh trí vô ngã rốt ráo, cho nên nói được thân Phật vô thượng.