LĂNG GIÀ A BẠT ĐA LA BẢO KINH CHÚ GIẢI
Tam Tạng pháp sư Cầu-na-bạt-đà-la, đời Tống vâng chiếu dịch.
Tỳ-kheo Thích Tông Lặc trụ trì Thiện Thế Thiền Tự ở Thiên giới đời Đại Minh,
Thích Như Dĩ trụ trì Diễn Phước Giảng tự vâng chiếu đồng chú giải.

 

QUYỂN BỐN
(Phần 1)

Phẩm 4: NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM

1. Đại Tuệ dùng ba hiệu làm câu hỏi:

“Khi ấy, Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin nói cho chúng con nghe về Tam-miệu Tam-phật-đà, con và các vị Đại Bồ-tát khác sẽ khéo thực hành tự giác giác tha đối với tự tánh của Như lai. Phật bảo Đại Tuệ: Cho ông tùy ý hỏi, hễ ông hỏi điều gì thì ta dẽ đáp điều đó. Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác là tác hay? Là chẳng tác quả hay nhân? Là tướng hay sở tướng? Là thuyết hay sở thuyết? Là giác hay sở giác?

Nhưng câu như thế khác hay chẳng khác?”. Niết-bàn là pháp sở chứng, Như lai là người năng chứng. Đại Tuệ đã lãnh ngộ ý chỉ Niết-bàn, lại thưa hỏi Như lai là vì chúng sinh. Tam-miệu Tam-phật-đà Hán dịch là Chánh biến tri, cũng gọi là Chánh giác. Chánh biến tri, nghĩa là biết chân chánh, biết cùng khắp, biết chân chánh đối với trung, biết trùm khắp đối với bên. Như lai tự tánh gọi là pháp thân. Phật đã nhận lời cầu thỉnh nên Đại Tuệ dùng đủ ba hiệu làm câu hỏi. Ba hiệu là ba đức. Như lai là pháp thân trung đế, ứng cúng giải thoát tục đế, chánh biến tri tức Bát-nhã chân đế. Thông hiểu có mười, mà đặc biệt hỏi ba câu này chính là điểm quan trọng ấy”. Tác “là tu trì tạo tác, nghĩa bao trùm nhân quả, sự tức quả. Tướng là thân tướng, thuyết là lời nói, giác là giác tri. Nghĩa là Như lai đối với bốn câu này là khác hay không?”

2. Cú nghĩa của Như lai được người trí nhận lấy:

“Phật bảo Đại Tuệ: Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác, đối với những câu như thế chẳng phải sự chẳng phải nhân. Vì sao? Vì đều có lỗi. Này Đại Tuệ! Nếu Như lai là sự thì hoặc tác, hoặc vô thường. Vì vô thường nên tất cả sự lẽ ra là Như lai, đều là điều chẳng muốn của ta và các Đức Phật. Nếu chẳng có sở tác thì không có sở đắc, nên phương tiện thì không, đồng với sừng thỏ và con của cô gái bất dục, vì không thật có. Này Đại Tuệ! Nếu không sự, không nhân thì chẳng phải có, chẳng phải không. Nếu chẳng phải có chẳng phải không thì nằm ngoài bốn câu, bốn câu thuộc về lời nói của thế gian. Nếu ra ngoài bốn câu thì chẳng rơi vào bốn câu. Vì chẳng rơi vào bốn câu nên người trí nhận lấy. Tất cả cú nghĩa của Như lai cũng giống như thế, người trí tuệ nên biết”. Trong đây đáp, trước là trả lời câu hỏi. Chẳng phải sự, chẳng phải nhân tức phi nhân, phi quả, hợp lại nói chẳng phải tác chẳng phải không tác. Ý nói đều có lỗi, không phải chỉ nói riêng sự nhân mà thôi, chính nói Như lai hoặc chỉ là sự nhân, thì rơi vào lỗi hữu tác, nếu chẳng phải sự nhân thì rơi vào lỗi vô sở hữu. Nói Như lai là sự v.v… nghĩa là nếu Như lai chắc chắn phải dùng việc nhân quả v.v… thì là vô thường. Nếu là vô thường thì tất cả pháp sở tác lẽ ra là Như lai. Nhưng ta và các Đức Phật đều không muốn đồng với việc ấy. Nếu chẳng phải sở tác, thì phải khảo xét trên chẳng phải câu sự nhân, nghĩa là chẳng phải sở tác thì không thật có, vô sở đắc thì trí tuệ phương tiện đều là luống uổng, đồng với sừng thỏ, con của cô gái bất dục. Lại nói vô sự vô nhân, nghĩa là pháp thân đã phi hữu tác thì lìa lỗi hữu vô, lìa lỗi hữu vô thì ra ngoài bốn câu. Bốn câu là một khác, cùng, chẳng cùng, hữu vô, chẳng phải hữu, chẳng phải vô, thường, vô thường… Không rơi vào bốn câu này, đó gọi là cú nghĩa của Như lai, được người trí nhận lấy.

3. Cú nghĩa của Như lai không rơi vào bốn trường hợp:

“Như ta đã nói tất cả pháp vô ngã, phải biết nghĩa này, không ngã tánh là vô ngã. Tất cả pháp có tự tánh, không tha tánh như trâu, ngựa. Này Đại Tuệ! Thí như chẳng phải trâu là ngựa, chẳng phải ngựa là trâu, thật ra chẳng phải có, chẳng phải không, kia chẳng phải không tự tánh. Cũng thế Này Đại Tuệ! Tất cả các pháp chẳng phải vô tự tướng. Có tự tướng nhưng người ngu chẳng phải vô ngã thì không thể biết được, vì vọng tưởng. Cũng thế tất cả pháp không, vô sinh, vô tự tánh, nên biết như thế”: Trên đây là nói cú nghĩa của Như lai không rơi vào bốn câu, sợ người chưa thông hiểu cho rằng cú nghĩa của Như lai cũng chẳng phải thật tánh, cho nên nêu rõ ra đây. Như ta đã nói v.v… Phật dạy rằng “ta thường nói tất cả pháp vô ngã”. Vô ngã, nghĩa là không có tánh chấp, chẳng phải tánh vô tánh, cho nên nói có tự tánh, vô tha tánh, tha là đối lại với tự, ý nói câu Như lai tuy lìa các câu nhưng chẳng phải không có tự tánh pháp thân thường trụ, lại dùng ví dụ để hiển bày, như trâu chỉ có tánh của trâu mà không có tánh của ngựa, ngựa chỉ có tánh của ngựa mà không có tánh của trâu, cho nên nói chẳng phải hữu chẳng phải vô. Nghĩa là kia đều có tự tánh mà không có tha tánh. Kinh Nhập Lăng-già chép: Tất cả các pháp cũng giống như vậy, không có tự tướng, chẳng phải hữu tức hữu, nghĩa là chẳng những có tự tánh, mà còn có tự tướng, nhưng chẳng phải vô ngã, vô ngã tức Thanh văn, nghĩa là chẳng phải điều phàm phu biết được Tiểu thừa, không biết là do vọng tưởng, phân biệt che lấp. Như thế tất cả pháp không v.v… nghĩa là tất cả pháp vô ngã cũng như vậy, để nói lên tất cả pháp không, tánh Như lai bất không; tất cả pháp vô sinh, pháp thân Như lai là sinh; tất cả pháp vô tự tánh mà Như lai có tánh thường trụ, cho nên nói nên biết như thế.

4. Luận thuyết khác nhau giữa pháp thân và năm ấm:

“Như lai và ấm chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác như thế. Nếu chẳng khác ấm thì lẽ ra vô thường, nếu khác ấm thì phương tiện sẽ không, nếu cả hai thì nên có khác. Như sừng trâu tương tự nên chẳng khác, dài ngắn khác nhau cho nên có khác, tất cả pháp cũng giống như thế. Này Đại Tuệ! như con trâu sừng bên phải khác sừng bên trái, sừng bên trái khác sừng bên phải. Cũng thế dài ngắn, các thứ sắc mỗi sắc đều khác. Này Đại Tuệ! Như lai đối với ấm, giới, nhập chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác”. Như lai Như thế trở xuống nghĩa là pháp thân và năm ấm đối luận, chẳng phải khác chẳng phải không khác. Ấm là khổ đạo, khổ đạo tức pháp thân cho nên chẳng khác, mê ngộ có khác cho nên chẳng phải không khác. Nếu nói pháp thân không khác năm ấm thì đó là pháp vô thường sinh diệt, nếu nói khác thì Như lai không có tướng toàn thể khởi dụng phương tiện làm lợi ích cho chúng sanh, cho nên nói là không, do đó nên pháp thân cùng ấm chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác. Nếu không hiểu rõ năm ấm tức là pháp thân thì cả hai có khác. Lại lấy sừng trâu làm ví dụ, sừng trâu tương tự thì không khác, dài ngắn khác nhau thì có khác. Tất cả các pháp cũng giống như vậy, nghĩa là pháp thân chẳng khác với tất cả pháp, chẳng phải không khác cũng giống như vậy. Lại dùng sừng trâu trái phải khác nhau để làm ví dụ, nghĩa là pháp thân vốn chỉ có một nhưng các pháp có khác, cũng như sừng trâu trái phải khác nhau. Văn tổng kết rất dễ hiểu.

5. Nói về pháp thân Như lai đối với đức giải thoát:

“Cũng thế Như lai và giải thoát chẳng phải khác chẳng phải chẳng khác. Cũng thế Như lai lấy giải thoát gọi tên. Nếu Như lai khác giải thoát thì nên thành sắc tướng, vì sắc tướng thành nên vô thường. Nếu chẳng khác thì người tu hành được tướng nên không phân biệt, vì người tu hành chấp phân biệt, cho nên chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác”. Đây là pháp thân Như lai đối với đức giải thoát. Nói Như lai dùng giải thoát gọi tên, là nói lên sự rốt ráo của Như lai. Bởi hiểu rõ kiết nghiệp tức là giải thoát, cho nên Như lai và giải thoát chẳng phải khác, chẳng phải không khác. Nếu nói khác giải thoát thì thân sắc tướng là vô thường. Nếu không khác thì người tu hành tương ưng với giải thoát, không khác nhân quả, người pháp, nhưng có năng sở phân biệt, cho nên kết luận rằng chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác.

6. Nói theo Bát nhã và trí chướng đối nhau:

“Như thế trí và tri chướng chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác. Này Đại Tuệ! Trí và tri chướng chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác, ấy là phi thường, phi vô thường, phi tác, phi sở tác, phi hữu vi, phi vô vi, phi giác, phi sở giác, phi tướng, phi sở tướng, phi ấm, phi dị ấm, phi đồng, phi bất đồng, phi nhất, phi dị, phi đồng, phi bất đồng, nên đều lìa tất cả lượng”. Đây là y theo Bát-nhã và trí chướng đối nhau. Trí tức Bát-nhã, sở tri tức trí chướng. Y theo trước hợp lại mà nói, nếu khác thì lìa chướng vô trí, nếu không khác thì chướng đâu phải là trí, nhưng nói chẳng khác, chẳng phải không khác là văn tóm lược đó thôi! Bát-nhã này và trí chướng chẳng phải khác, chẳng phải không khác, thì không hai không khác với pháp thân giải thoát, cho nên lại tổng kết mà nêu bày chung, nói phi thường, phi vô thường v.v… là Tổng kết không ngoài chẳng phải hai bên hiển bày trung đạo, chẳng phải năng sở nói lên một tướng, chẳng phải bốn câu nói lên quên lời. Lại nói lìa tất cả lượng, lượng tức là số.

7. Tổng kết chỉ quy về pháp thân tự tánh:

“Lìa tất cả lượng thì không có lời nói, không có lời nói thì vô sinh. Vô sinh thì vô diệt, vô diệt thì vắng lặng, vắng lặng là tự tánh Niếtbàn. Tự tánh Niết-bàn thì vô sự vô nhân, vô sự vô nhân thì không phan duyên. Không phan duyên thì vượt ngoài tất cả luống dối, vượt ngoài tất cả luống dối tức là Như lai. Như lai tức là Tam-miệu Tam-phật-đà. Này Đại Tuệ! Ấy gọi là Tam-miệu Tam-phật-đà, Phật đà. Này Đại Tuệ! Tam-miệu Tam-phật-đà, là lìa tất cả căn lượng”. Xét rằng lìa các ngôn lượng, tức là vô sinh vắng lặng tự tánh Niết-bàn. Đã hiểu rõ bản tánh lại là tông, kết luận nói là vô sự vô nhân, chỉ có một pháp thân cao vời độc lập, không thấy các pháp là chỗ phan duyên, cho nên vượt ngoài tất cả luống dối, gọi là Tam-miệu Tam-phật-đà. Lặp lại tiếng Phật-đà là dịch khác với tri giác, tổng kết hai tên. Nói đến chỗ này có thể nói là cùng cực. Nhưng lại lặp lại lìa tất cả căn lượng là tổng kết trả lời câu hỏi chỉ quy về pháp thân tự tánh.

8. Tụng chung về Phật-đà lìa tướng:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng.

“Lìa hết các căn lượng
Vô sự cũng vô nhân
Đã lìa giác, sở giác
Cũng lìa tướng, sở tướng
Ấm duyên Đẳng chánh giác
Một, khác không thể thấy
Nếu không có người thấy
Làm sao mà phân biệt
Chẳng tác, chẳng bất tác
Chẳng sự cũng chẳng nhân
Chẳng ấm chẳng ở ấm
Cũng chẳng có dư tạp
Cũng chẳng có các tánh
Như kia vọng tưởng chấp
Nên biết cũng chẳng vô
Pháp pháp này cũng thế”.

Đều xa lìa hết trở xuống bốn câu là tụng chung về Phật-đà lìa tướng. Ấm duyên, ấm là năm ấm, duyên là duyên của phan duyên như giới nhập v.v… Chánh giác tức pháp thân. Một khác chớ nên thấy, đã không người năng thấy, thì đâu có pháp một khác để phân biệt ư! Bốn câu Phi tác… chính là nói lên pháp thân trung đạo. Dư tạp là lỗi của các pháp. Cũng phi hữu trở xuống bốn câu, là lìa hai chấp hữu vô. Nói pháp thể của Như lai là do phàm phu vọng tưởng phân biệt mà thấy. Tuy lìa các tướng mà cũng chẳng phải không có thật tướng để thấy. Pháp pháp này cũng như thế, nghĩa là pháp thân này chẳng thể nói có chẳng thể nói không, pháp vốn như vậy.

9. Có, không đối đãi nhau mà lập:

“Vì hữu nên có vô
Vì vô nên có hữu
Nếu không chẳng nên thọ
Nếu có chẳng nên tưởng
Hoặc đối ngã phi ngã
Lời nói lượng không dứt
Chìm đắm ở hai bên
Tự hoại, hoại thế gian
Giải thoát tất cả lỗi
Chính quán sát ngã thông
Đó gọi là chánh quán
Chẳng hủy Đại đạo sư”.

Vì có nên không vì không nên có, đây là có không đối đãi nhau mà lập. Có không mỗi pháp đã không có tự thể thì đâu nên chấp chặt, cho nên nói chẳng nên thọ, chẳng nên tưởng. Kia hoặc chưa hiểu hai ngã vốn không, dính mắc lời nói, đây là đắm chìm trong hai kiến chấp hữu vô, chẳng những hoại mình mà còn hoại người, làm sao mà ra khỏi sinh tử được. Nếu thông hiểu được pháp thân, giải thoát tự tại, lìa tất cả lỗi, thì đó gọi là quán sát thông suốt, không chê bai Phật.

10. Dùng bất sinh bất diệt để lìa hữu vô:

“Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Như Đức Thế tôn nói Tu-đa-la “Nhiếp Thọ bất sinh bất diệt”. Thế tôn lại nói chẳng sinh chẳng diệt là tên khác của Như lai. Vì sao Thế tôn là vô tánh nên nói bất sinh bất diệt cho là tên khác của Như lai. Phật bảo Đại Tuệ: Ta nói tất cả pháp chẳng sinh chẳng diệt, các thứ hữu vô chẳng hiện. Đại Tuệ bạch Phật: Thế tôn! Nếu tất cả pháp bất sinh thì pháp nhiếp thọ không thật có, vì tất cả pháp chẳng sinh. Nếu trong danh tự có pháp, cúi xin Đức Thế tôn nói cho con nghe. Phật bảo Đại Tuệ: Lành thay! Lành thay! Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghĩa, ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông nghe. Đại Tuệ bạch Phật: Xin vâng thọ giáo”.

Phật bảo Đại Tuệ: Ta nói Như lai chẳng phải vô tánh, cũng chẳng phải bất sinh bất diệt, nhiếp tất cả pháp. Vì chẳng đợi duyên nên bất sinh bất diệt, cũng chẳng phải vô nghĩa. Trong kinh nói bất sinh bất diệt, là chẳng phải một, ý chỉ cho điều được giải thích chẳng phải không có đồng khác. Như nói Tu-đa-la nhiếp thọ bất sinh bất diệt, nhiếp thọ nghĩa là xả bỏ nhiếp thọ lý kia. Lại nói đây là tên khác của Như lai, Đại Tuệ cho rằng bất sinh bất diệt là nghĩa vô tánh. Vì sao gọi là tên khác, chẳng lẽ Như lai cũng là vô tánh ư! Phật đáp dùng bất sinh bất diệt để lìa hữu vô, cho nên nói các thứ hữu vô chẳng hiện. Đây là dùng một lời đáp hai câu hỏi kia. Đại Tuệ lại cho rằng bất hiện là bất sinh. Nếu tất cả pháp bất sinh thì đâu phải tên khác của Như lai. Nếu là tên khác thì đối với danh tự chẳng lẽ cũng có nghĩa pháp bất sinh, cho nên lại đặt câu hỏi. Trong đây đáp rằng chẳng phải vô tánh, nghĩa là Như lai chẳng phải pháp vô, cũng chẳng phải nhiếp thủ bất sinh bất diệt, cũng chẳng đợi duyên sinh diệt mà nói bất sinh bất diệt. Nói cũng chẳng phải vô nghĩa, ở văn sau sẽ trả lời.

11. Ý sinh pháp thân là danh hiệu của Như lai:

Này “Đại Tuệ! Ta nói ý sinh pháp thân là danh hiệu của Như lai. Bất sinh chẳng phải là cảnh giới của tất cả ngoại đạo, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát Thất trụ. Này Đại Tuệ! Chẳng sinh là tên khác của Như lai. Này Đại Tuệ! Thí như Nhân-đà-la Thích-ca, Bất-lan-đà-la những vật như thế, mỗi mỗi vật đều có nhiều tên, cũng chẳng phải có nhiều tên mà có nhiều tánh, cũng chẳng phải vô tự tánh”. Nói ta nói thân ý sinh v.v… văn kia cũng tóm lược, nên nói ta nói bất sinh bất diệt là nghĩa bất sinh, bất sinh mà sinh là tên khác của tất cả pháp thân đều từ đây mà ra, cho nên nói ý sinh pháp thân là danh hiệu của Như lai. Nói bất sinh kia là lặp lại nghĩa tất cả pháp bất sinh ở trên. Nhưng chẳng sinh ở đây là con đường rốt ráo của Như lai. Chẳng phải trình độ của ngoại đạo thiên chấp, cho nên nói chẳng phải cảnh giới của họ. Thất trụ tức là Địa thứ bảy, vì Bồ-tát Thông giáo đến Địa thứ tám mới chứng Vô sinh, do đó bất sinh là tên khác của Như lai, tức bất sinh bất diệt gọi là nghiêng về nghĩa Viên giáo, chính là nghĩa ở đây. Thí như Nhân-đàla v.v… đây dẫn tên khác của trời Đế-thích, huống chi là tên khác của Như lai chẳng phải một. Vì địa vị an trụ của Đế-thích và hư không cho đến tay chân, tùy theo mỗi vật đều có tên khác, tên kia tuy nhiều người chỉ có một, cho nên không nhiều tánh tùy vật mà hiển bày nghĩa, chẳng phải vô tự tánh.

12. Trăm ngàn danh hiệu không thêm không bớt:

“Cũng thế Này Đại Tuệ! Ta ở thế giới Ta-bà này, trải ba A-tăngkỳ có trăm ngàn danh hiệu. Kẻ ngu thảy đều nghe, mỗi người gọi tên ta mà không hiểu đó là tên khác của Như lai. Này Đại Tuệ! Hoặc có chúng sinh biết ta là Như lai, có chúng sinh biết ta là Nhất thiết trí, có chúng sinh biết ta là Phật, có chúng sinh biết ta có là đấng cứu thế, có chúng sinh biết ta là tự giác, có chúng sinh biết là Đạo sư, có chúng sinh biết ta là Quảng đạo, có chúng sinh biết ta là Nhất thiết đạo, có chúng sinh biết ta là Tiên nhân, có chúng sinh biết ta là Phạm, có chúng sinh biết ta là Tỳ-nữu, có chúng biết ta là Tự tại, có chúng sinh biết ta là Thắng, có chúng sinh biết ta là Ca-tỳ-la, có chúng sinh biết ta là Chân Thật biện, có chúng sinh biết ta là Nguyệt, có chúng sinh biết ta là Nhật, có chúng sinh biết ta là Chủ, có chúng sinh biết ta là Vô sinh, có chúng sinh biết ta là Vô diệt, có chúng sinh biết ta là Như Như, có chúng sinh biết ta là Đế, có chúng sinh biết ta là Thật tế, có chúng biết ta là Pháp tánh, có chúng biết ta là Niết-bàn, có chúng biết ta là Thường, có chúng biết ta là Bình đẳng, có chúng biết ta là Bất nhị, có chúng biết ta là Vô tướng, có chúng biết ta là Giải thoát, có chúng biết ta là đạo, có chúng sinh biết ta là ý sinh. Đại Tuệ trải qua ba A-tăng-kỳ có trăm ngàn danh hiệu như thế, chẳng thêm chẳng bớt, thế giới này và thế giới khác thảy đều biết ta như trăng đáy nước chẳng ra chẳng vào”.

Ta ở thế giới Ta-bà có trăm ngàn danh hiệu này chỉ nêu ba mươi ba tên khác nhau, người ngu thảy đều nghe mỗi người nói tên ta, nghĩa là mỗi tên đều có nghĩa, mà không biết tên khác của Như lai, cho nên không biết thể ấy là một, vốn bất sinh không diệt. Cho đến nói trải qua ba a-tăng-kỳ có trăm ngàn danh hiệu như thế. A-tăng-kỳ, Hán dịch là vô số thời, đây chính thành quả lập ra giáo hóa của Như lai. Trăm ngàn danh hiệu không thêm không bớt, bởi hễ nêu lên một danh hiệu thì thâu nhiếp tên gọi các pháp, ở nhiều không thêm ở một không bớt, cõi này, cõi khác đều biết danh hiệu Phật. Nói như trăng đáy nước chẳng ra chẳng vào, trăng dụ cho ứng thân, nước dụ cho tâm chúng sinh, tâm chúng sinh thanh tịnh Như lai liền ứng, như trăng đáy nước. Nhưng trăng ở hư không bóng hiện đáy nước, mà trăng không rơi xuống, cho nên nói không vào, cũng không lìa nước cho nên nói không ra.

13. Đối với tất cả pháp chỗ nào cũng mê chấp:

“Các kẻ ngu kia không thể biết ta, vì họ rơi vào hai bên. Nhưng họ đều cung kính cúng dường ta, mà không khéo hiểu biết nghĩa thú của câu lời, chẳng phân biệt được danh, chẳng hiểu tự thông. Chấp chặt các thứ lời nói dương cú, đối với bất sinh bất diệt nghĩ là vô tánh, chẳng biết danh hiệu Như lai khác nhau, như Nhân-đà-la Thích-ca, Bất-lan-đà-la, mà chẳng hiểu tự thông bội quy về chỗ cùng tột, đối với tất cả pháp chỗ nào cũng chấp đắm”. Này Đại Tuệ! Các kẻ ngu kia… giải thích lại ngoại đạo kia không biết bất sinh bất diệt vốn là ứng thân trung đạo, nên rơi vào hai bên hữu vô. Tuy đều có việc cung kính mà không thể biết rõ danh tự cú nghĩa, cho nên nói chẳng phân biệt được danh, chẳng hiểu tự thông. Do chấp đắm ngôn giáo, mê muội thật lý, cho rằng bất sinh bất diệt là vô thể tánh, cho nên đối với các danh hiệu khác nhau của Như lai đều không biết. Như không biết Nhân-đà-la v.v… đều tên khác của trời Đế-thích. Đã chẳng hiểu tự thông trở về chỗ cùng tột thì đối với tất cả các pháp tùy lời mà sinh kiến chấp, cho nên nói tùy lời mà chấp đắm.

14. Chẳng phải Như lai không nói pháp:

Này “Đại Tuệ! Những người si mê kia nói như vầy”: Nghĩa như lời nói, nghĩa nói không khác Vì sao? Vì nghĩa không có thân cho nên ngoài lời nói không còn có nghĩa nào khác, chỉ dừng nơi lời nói. Này

Đại Tuệ! Kia bị ác thiêu đốt trí, chẳng biết tự tánh lời nói, chẳng biết nghĩa sinh diệt của lời nói, là bất sinh diệt. Này Đại Tuệ! Tất cả lời nói rơi vào văn tự, nghĩa thì chẳng rơi, lìa tánh, phi tánh, không thọ sinh cũng vô thân. Này Đại Tuệ! Như lai chẳng nói pháp rơi vào văn tự, vì văn tự hữu vô không thật có, trừ chẳng rơi vào văn tự”. Đoạn này chỉ bày lại việc quên tên thì không thừa nhận, nghĩa như lời nói v.v… Xét rằng có nghĩa năng thuyên văn tự, có nghĩa sở thuyên đạo lý. Người si mê đạo lý thì nói nghĩa văn tự như chỗ lời nói, nghĩa là nghĩa sở thuyết không có khác. Đã trưng dẫn giải thích cho rằng vì nghĩa vô thân, thân tức là thể. Nói nghĩa văn tự năng thuyên lại không có thể, do không biết nghĩa đạo lý sở thuyên, nên vượt ra ngoài lời nói, chỉ dừng nơi lời nói mà thôi. Do ác kiến kia thiêu đốt tiêu diệt chánh trí, chẳng biết ngôn giáo Như lai. Nói nghĩa sinh diệt là vô sinh diệt, nhưng tất cả lời nói rơi vào văn tự, nghĩa thì chẳng rơi. Nói lìa tánh phi tánh, đó là lìa lỗi hữu vô. Đã lìa lỗi ấy thì không còn thọ sinh, cũng không có thể tướng, đó gọi là ý chỉ ngoài lời nói. Như lai chẳng nói pháp rơi vào văn tự, nghĩa là lìa tánh văn tự lìa, tức là giải thoát. Không thể dùng hữu vô cầu mong, vậy thì Như lai chẳng phải không nói pháp. Nếu có lìa văn tự mà hiểu thì gọi là nói.

15. Như lai nói tức không nói:

Này “Đại Tuệ! Nếu có người nói rằng: “Như lai nói pháp rơi vào văn tự” thì người này nói dối, vì pháp lìa văn tự. Cho nên Này Đại Tuệ! Các Phật và các vị Bồ-tát của chúng ta không nói một chữ, chẳng đáp một chữ. Vì sao? Vì pháp lìa văn tự chẳng phải không có nghĩa lợi ích. Lời nói là vọng tưởng của chúng sinh. Này Đại Tuệ! Nếu chẳng nói tất cả pháp thì giáo pháp sẽ hoại. Giáo pháp hoại thì không có các Đức Phật, Bồ-tát, Duyên giác, Thanh văn, nếu không thì ai nói và vì ai?”. Nếu có người không hiểu Như lai nói tức không nói, nghĩa là nói pháp rơi vào văn tự, thì đó là chê bai Phật pháp, cho nên nói đây là nói dối. Lại bảo Đại Tuệ rằng: ta và các Đức Phật, Bồ-tát không hề nói một chữ, đáp một lời, vì tánh lìa văn tự. Chẳng phải không có nghĩa lợi ích mà nói, tức là chẳng phải không tùy nghi giảng nói làm lợi ích cho chúng sinh. Nhưng nói tức không nói, hoặc cho rằng có nói, ấy là do phàm ngu vọng tưởng phân biệt đó thôi! Y theo lý thì bặt lời trùm duyên có thể nói, nói thì thành giáo. Nếu có duyên mà không nói thì giáo pháp không lập. Nếu giáo không lập thì căn cơ Đại thừa, Tiểu thừa không có phần tu chứng, như vậy thì ai là người độ, ai là người được độ, mà lập ra căn cơ giáo pháp ư!

16. Chấp lời nói thì sẽ thành bịnh:

“Cho nên Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát chớ chấp vào lời nói, tùy nghi phương tiện nói rộng kinh pháp. Vì phiền não hy vọng của chúng sinh chẳng phải một, nên ta và các Đức Phật tùy các thứ hiểu biết khác nhau của chúng sinh mà nói các pháp, giúp cho lìa tâm, ý, ý thức, chẳng phải vì được chỗ tự giác Thánh trí”.

Pháp tất nhiên chẳng thể không nói, nếu chấp lời nói thì sẽ thành bệnh, cho nên bảo rằng chớ chấp lời nói. Nhưng tùy nghi phương tiện mà nói, vì căn cơ chúng sinh ưa thích khác nhau, phiền não chẳng phải một, ta và các Đức Phật đều nói như thế, nhưng căn cơ của chúng sinh kia tất nhiên chưa được chỗ Thánh trí tự giác, hễ có thể do lìa vọng tưởng tâm thức thì gọi là nói.

17. Phải khéo hiểu biết tất cả giáo pháp:

Này “Đại Tuệ! Đối với tất cả các pháp không thật có, giác tự tâm hiện lượng, lìa hai thứ vọng tưởng. Các vị Đại Bồ-tát y theo nghĩa, chẳng y theo văn tự. Nếu người thiện nam, người thiện nữ y theo văn tự là tự hoại Đệ nhất nghĩa, cũng không thể giác ngộ cho người, rơi vào ác kiến nối nhau mà vì chúng nói, chẳng khéo biết rõ tất cả pháp, tất cả địa, tất cả tướng, cũng chẳng biết chương cú. Nếu người khéo biết tất cả pháp, tất cả tướng, tất cả địa, thông hiểu chương cú, đầy đủ tánh nghĩa thì họ hay dùng chánh lạc vô tướng, để tự vui thích, bình đẳng Đại thừa dựng lập cho chúng sinh”. Tất cả pháp không thật có v.v… Kinh Nhập Lăng-già chép: khiến biết các pháp tự tâm hiện, không có cảnh giới bên ngoài, lìa hai thứ vọng tưởng năng thuyết sở thuyết. Lại khuyên răn học giả rằng: Phải y theo nghĩa không y theo tự, nếu y theo văn tự thì hại nghĩa, đâu thể giúp cho người khác được lợi ích. Nói rơi vào ác kiến nối nhau v.v… thì đối với lời nói nối nhau chấp đắm mà nói cho người nghe. Đây chính là không khéo hiểu biết tất cả giáo pháp, tướng, địa, trụ, nhân, quả và chương, đoạn, cú, nghĩa. Nếu khéo hiểu các nghĩa này thì sẽ ưa thích vô tướng, giúp các chúng sinh an trụ Đại thừa bình đẳng.

18. Tuy là pháp Đại thừa nhưng không nên gặp ai cũng nói:

Này “Đại Tuệ! Nhiếp thọ Đại thừa thì nhiếp thọ các Đức Phật, Bồ-tát, Duyên giác, Thanh văn. Nhiếp thọ các Đức Phật, Bồ-tát, Duyên giác, Thanh văn thì nhiếp thọ tất cả chúng sinh. Nhiếp thọ tất cả chúng sinh thì nhiếp thọ chánh pháp. Nhiếp thọ chánh pháp thì hạt giống Phật chẳng hư, hạt giống Phật chẳng hư thì biết rõ được chỗ vào cao siêu. Biết được chỗ vào cao siêu là các Đại Bồ-tát thường được hóa sinh, lập ra Đại thừa thần thông tự tại, hiện các sắc tượng, thông đạt các tướng phiền não hy vọng của loại hình chúng sinh, nói pháp đúng như thật. Như thật là chẳng khác, như thật là tướng chẳng đến chẳng đi, tất cả luống dối đều dứt, đó gọi là như thật. Này Đại Tuệ! Thiện nam, thiện nữ chẳng nên nhiếp thọ theo lời nói mà chấp đắm. Vì chân thật là lìa văn tự”. Đây là nói theo văn trên, đã nhiếp thọ pháp Đại thừa thì tất cả Thánh phàm không thể không nhiếp thọ, như vậy gọi là chánh pháp, là hạt giống Phật, là biết rõ được chỗ vào cao siêu tự giác Thánh. Được vào rồi thì sẽ khởi dụng giáo hóa chúng sinh, dựng lập Đại thừa. Mười lực vô úy tùy loại hiện hình, an ủi các khao khát mong dứt bỏ các phiền não, giảng nói pháp đúng như thật. Pháp như thật này chẳng có tên gọi khác, bặt tướng đến đi, tất cả lời nói suông thảy đều dứt hết. Nhưng pháp như thật, tuy là Đại thừa nhưng không nên gặp ai cũng nói làm cho họ chấp đắm, do lìa văn tự gọi là chân thật.

19. Mê đắm lời nói thì mất thật nghĩa bậc nhất:

Này “Đại Tuệ! Như dùng ngón tay chỉ vật cho kẻ ngu thấy, kẻ ngu nhìn ngón tay mà chẳng thấy vật thật. Cũng thế, kẻ ngu y theo lời nói chỉ bày rồi nhiếp thọ chấp đắm, không bao giờ bỏ, không bao giờ lìa được lời nói, chỉ ra đệ nhất thật nghĩa lìa. Này Đại Tuệ! Thí như đứa bé nên cho thức ăn chín, không nên cho thức ăn sống. Nếu cho thức ăn sống thì nó sình bụng, vì không biết phương tiện thứ lớp làm cho chín. Này Đại Tuệ! Chẳng sinh chẳng diệt như thế, nếu chẳng có phương tiện tu hành tức là chẳng khéo, cho nên phải khéo tu phương tiện, chớ theo lời nói như nhìn ngón tay”. Đây dùng hai ví dụ để nói lên tướng được, mất: 1. Dụ dùng ngón tay chỉ vật, là dụ cho nghĩa thật của lời nói. 2. Dụ trẻ con ăn thức ăn chín, là dụ phương tiện tu pháp, nhưng đều hiểu rõ lý kia có được có mất, mê đắm lời nói thì mất đệ nhất thật nghĩa. Như chỉ nhìn ngón tay thì không thấy vật, không khéo tu phương tiện thì không khế hợp lý bất sinh bất diệt, như trẻ con ăn thức ăn sống mà không ăn thức ăn chín, như thế mà không bị sình bụng thật may mắn. Cho nên lại răn rằng: Khéo phương tiện tu hành chớ theo lời nói.

20. Phải là quên lời được ý:

“Thế nên Này Đại Tuệ! Đối với nghĩa chân thật phải phương tiện tu. Nghĩa chân thật là vắng lặng nhiệm mầu, là nhân Niết-bàn. Còn lời nói là do vọng tưởng hợp, vọng tưởng là do nhóm họp sinh tử. Này Đại Tuệ! Nghĩa chân thật là từ học rộng mà được. Này Đại Tuệ! Học rộng là giỏi về nghĩa, chẳng phải giỏi về lời nói. Giỏi nghĩa là không theo các kinh luận của ngoại đạo, tự thân chẳng theo cũng không bảo người theo, đó gọi là Đại đức học rộng. Cho nên người muốn cầu nghĩa phải gần gũi bậc học rộng, nên gọi là giỏi nghĩa. Trái với người này, chấp đắm lời nói, nên phải lìa xa”: Nghĩa chân thật lìa tướng lời nói, cho nên nói lặng lẽ nhiệm mầu. Nếu lý này hiển tức là quả Niết-bàn, chưa hiển gọi là nhân. Nếu chấp lời nói không hợp với thật nghĩa thì hòa hợp với vọng tưởng để thành nhân sinh tử. Nhưng nghĩa chân thật này, phải do văn tuệ mà được, lại nói giỏi nơi nghĩa thì chẳng những luống học rộng mà thôi, chủ yếu là quyên lời được ý. Nếu theo lời nói mà sinh chấp đắm thì đâu khác ngoại đạo. Vì giỏi về nghĩa thì mình và người không lầm lời nói bên ngoài, đó gọi là Đại đức học rộng, cho nên người học Đại thừa, không thể không gần gũi bậc Đại đức học rộng, nếu không thì không giỏi nghĩa, rơi vào lời nói, cho nên lại khuyên bảo.

21. Bồ-tát Đại Tuệ nêu bốn câu hỏi:

“Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại nương oai thần Phật mà bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Đức Thế tôn nói về “chẳng sinh chẳng diệt” không có gì kỳ lạ đặc biệt. Vì sao? Vì tất cả ngoại đạo về nhân cũng nói “chẳng sinh chẳng diệt”. Thế tôn cũng nói hư không chẳng phải số duyên diệt và cõi Niết-bàn bất sinh bất diệt. Thế tôn! Ngoại đạo nói nhân sinh các thế gian. Thế tôn cũng nói vô minh, ái, nghiệp, vọng tưởng làm duyên sinh các thế gian. Kia do duyên này gọi là khác nhau nhân duyên của vật bên ngoài cũng giống như thế. Thế tôn cùng ngoại đạo luận chẳng có khác nhau. Cát bụi, thắng diệu, tự tại, chúng sinh chủ… chín vật như thế bất sinh bất diệt. Thế tôn cũng nói tất cả tánh bất sinh bất diệt, hữu vô, không thật có. Ngoại đạo cũng nói bốn đại chẳng hoại, tự tánh bất sinh bất diệt, bốn đại thường là bốn đại, cho đến trôi lăn khắp các đường chẳng bỏ tự tánh. Lời Thế tôn nói cũng giống như thế. Cho nên ta nói không có gì kỳ lạ đặc biệt, cúi mong Đức Thế tôn nói cho chúng con nghe chỗ khác nhau, vì sao kỳ lạ đặc biệt hơn các ngoại đạo. Nếu không khác nhau thì tất cả ngoại đạo đều cũng là Phật, vì bất sinh bất diệt. Nhưng, Thế tôn nói trong một thế giới có nhiều Phật ra đời là điều không bao giờ có. Như trước đã nói trong một thế giới lẽ ra nên có nhiều Phật, vì không khác nhau”:

Đoạn trên nói “bất sinh bất diệt”, là nói về chánh giáo, chưa phân biệt lý do khác với ngoại đạo. Vì vậy nên Đại Tuệ lại đặt câu hỏi về đồng, khác. Gồm có bốn vấn nạn.

a) Lấy nhân sinh ra pháp ngoại đạo nói và ba pháp vô vi Phật đã nói làm vặn hỏi, hư không tức hư không vô vi, phi số duyên diệt tức phi trạch diệt, vô vi Niết-bàn tức là trạch diệt vô vi.

b) Dùng nhân sinh kia và mười hai duyên sinh do Phật nói làmvặn hỏi.

c) Dùng cát bụi v.v… sinh và tất cả tánh chẳng sinh diệt do Phật nói làm vặn hỏi. Chín vật gồm: a) Thời, b) Phương, c) Hư không, d) Cát bụi, e) Bốn đại chủng, f) Đại Phạm thiên, j) Trời Thắng diệu, h) trời Đại tự tại, l) Chúng sinh chủ, tức thần ngã.

d) Lấy bốn đại do kia nói và bốn đại do Thế tôn nói làm vặn hỏi.

Đây đều do ngoại đạo nói đồng với Phật nói. Như văn rất dễ hiểu.

22. Chỉ cần giác tự tâm hiện lượng thì vọng tưởng chẳng sinh:

“Phật bảo Này Đại Tuệ! Ta nói bất sinh bất diệt, khác với bất sinh bất diệt mà ngoại đạo nói. Vì sao? vì các ngoại đạo kia chấp có tánh, tự tánh, được tướng bất sinh bất biến, ta chẳng rơi vào loại hữu vô như thế. Này Đại Tuệ! Ta nói lìa hữu vô chẳng phải tánh, chẳng phải không tánh, như các thứ huyễn, mộng hiện, cho nên chẳng phải vô tánh. Thế nào là vô tánh? Nghĩa là sắc vô tự tánh tướng nhiếp thọ, vì hiện, chẳng hiện, vì nhiếp, chẳng nhiếp. Bởi lẽ ấy tất cả tánh, vô tánh chẳng phải vô tánh. Chỉ giác tự tâm hiện lượng thì vọng tưởng bất sinh, an ổn vui sướng, việc đời dứt hẳn”.

Trong đây đáp, trước là bác bỏ điều sai, sau đó nêu điều đúng. Nói ngoại đạo có tánh tự tánh v.v… nghĩa là ngoại đạo nói tánh có tự tánh, như nói bốn đại là thường, do tánh cứng, ướt, ấm, động đều chẳng hoại chẳng loạn, cho là được tướng bất sinh bất biến, nhưng cũng đắm tâm vọng chấp. Tuy nói bất sinh bất diệt, mà thật có sinh diệt, rơi vào hữu vô, Phật dạy ta chẳng phải như thế, ta nói bất sinh bất diệt lìa hữu vô sinh diệt, chẳng phải có, chẳng phải không, như huyễn mộng sắc hiện, đó chẳng phải Vô Sắc, tánh không thật có, đó là phi hữu. Nói sắc vô tự tánh tướng nhiếp thọ, vì sắc tướng mộng huyễn vốn chẳng thật có, người ngu vọng tưởng nên hiện, thật ra chẳng hiện. Vọng tâm nhiếp lấy, thật không thể nhiếp lấy, cho nên biết tất cả các pháp cũng chẳng phải có, chẳng phải không, nhưng hiểu rõ các pháp chỉ do tâm hiện, ngoài tâm không có cảnh, cho nên vọng tưởng tự diệt, được an vui Niết-bàn, dứt hẳn sinh tử.

23. Vọng tưởng chẳng thật như thành càn-thát-bà và người huyễn hóa:

“Phàm phu ngu si vọng tưởng tác sự chẳng phải các bậc Thánh hiền. Vọng tưởng chẳng thật, như thành Càn-thát-bà và người huyễn hóa. Này Đại Tuệ! Như thành Càn-thát-bà và người huyễn hóa thấy các chúng sinh mua bán ra vào. Kẻ ngu vọng tưởng nói thật có ra vào, mà thật không có người ra người vào, chỉ vì vọng tưởng. Cho nên Này Đại

Tuệ! Phàm phu ngu si lầm tưởng cho rằng bất sinh bất diệt, kia cũng không có hữu vi vô vi, như người huyễn sinh, thật ra không có hoặc sinh hoặc diệt, vì tánh vô tánh chẳng thật có. Tất cả pháp cũng giống như thế, xa lìa sinh diệt. Phàm phu ngu si rơi vào bất như thật, khởi vọng tưởng sinh diệt chẳng phải các hiền Thánh”: Sinh diệt hữu vi ở thế gian khởi do vọng tâm, đây chính là phàm phu mê loạn, cho nên nói chẳng phải Hiền Thánh. Thành Càn-thát-bà dụ cho vọng cảnh chẳng thật, như văn có thể thấy. Kẻ ngu khởi lầm bất sinh bất diệt, vọng tưởng kia vốn là sinh diệt, vọng cho rằng bất sinh không diệt. Kia cũng không có hữu vi vô vi, là nói kia không bỏ hữu vi, đó là thật không biết sinh diệt là không, vô vi đó là thật không biết vô sinh diệt. Như thấy người huyễn sinh, thật ra không có sinh diệt, tất cả các pháp cũng giống như vậy, kẻ ngu sở dĩ sanh ra vọng tưởng là do không thấy lý như thật, rơi vào luống dối, Thánh Hiền thì không như vậy.

24. Sở dĩ là Thánh Hiền là do hiểu rõ vọng tưởng tức chân thật:

“Chẳng như thật, là chẳng thế, như tánh tự tánh vọng tưởng cũng chẳng khác. Nếu khác với vọng tưởng thì chấp đắm tất cả tánh tự tánh, chẳng thấy vắng lặng, vì không thấy vắng lặng nên cuối cùng chẳng rời vọng tưởng. Cho nên Này Đại Tuệ! Vô tướng kiến là thắng chẳng phải như tướng kiến. Tướng kiến là nhân thọ sinh cho nên không thắng. Này Đại Tuệ! Vô tướng là vọng tưởng bất sinh, chẳng khởi, chẳng diệt, ta nói là Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Niết-bàn là thấy nghĩa chân thật, lìa vọng tưởng tâm, tâm sở pháp ở trước. Đạt được Như lai tự giác Thánh trí, ta nói là Niết-bàn”. Nói không như thật, Kinh Nhập Lăng-già chép: Luống dối là không đúng như pháp tánh, nghĩa là khác với Thánh hiền. Thánh hiền sở dĩ là Thánh hiền, là do hiểu rõ vọng tưởng tức chân thật, chẳng phải có vọng tưởng riêng. Như phàm phu kia tánh tự tánh vọng tưởng vốn cũng chẳng khác với lý như thật. Nếu nói rằng lý như thật khác với vọng tưởng, thì chấp đắm tự tánh các pháp không thấy thể, xưa nay vắng lặng, không thấy thể này, nên vọng tưởng tình chấp không thể xa lìa. Nói vô tướng kiến là thắng: đã nói chấp tướng không thấy vắng lặng, thì muốn thấy vắng lặng nên lấy vô tướng lắm thắng, chẳng phải tướng kiến. Vì chấp tướng kiến là nhân của sinh tử, cho nên không gọi là thắng, nhưng vô tướng là lìa vọng tưởng, khế hợp với bất sinh bất diệt, đó là Phật nói Niết-bàn rốt ráo. Lại nói rằng: Niết-bàn là thấy nghĩa chân thật, chưa thấy Niết-bàn là do tâm sở vọng tưởng ở trước, nếu lìa được tất cả thì đạt đến địa vị Phật.

25. Đức Phật nói hệ để lặp lại nghĩa trên:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

“Dứt trừ sinh luận kia
Lập ra nghĩa bất sinh
Ta nói pháp như thế
Kẻ ngu không thể biết
Tất cả pháp bất sinh
Vô tánh, không thật có
Càn-thát-bà huyễn mộng
Có tánh là vô nhân
Bất sinh, vô tự tánh
Vì sao không sẽ nói
Do xa lìa hòa hợp
Tánh giác biết chẳng hiện
Cho nên không bất sinh
Ta nói vô tự tánh
Nói mỗi mỗi hòa hợp
Tánh hiện chẳng phải có
Phân tích không hòa hợp
Chẳng như ngoại đạo thấy”.

Dứt trừ sinh luận kia, nghĩa là bác bỏ luận chấp của ngoại đạo. Ngoại đạo tuy có nói bất sinh bất diệt, nhưng vọng tưởng phân biệt là nhân sinh diệt, cho nên nói sinh luận. Phật nói bất sinh diệt là thật lý trung đạo, đối với kia có sinh cho nên nói nghĩa bất sinh. Tất cả pháp trở xuống bài tụng này nói chẳng phải có, chẳng phải không, như thành Càn-thát-bà huyễn mộng. Tuy có mà vô nhân. Bất sinh vô tự tánh: nương văn trên lặp lại nêu ra, nói bất sinh là vô tự tánh, vô tánh là không. Thế nào là ta nói? Do lìa hòa hợp trở xuống là giải thích, nghĩa là đối với căn trần lìa tướng hòa hợp mà tánh giác biết tự nhiên chẳng hiện; chẳng hiện là không không thì chẳng sinh. Vì vậy nên Phật nói vô tự tánh. Nói mỗi mỗi trở xuống là lặp lại giải thích nghĩa trên, như văn có thể thấy.

26. Phật đạo nói bất sinh, ngoại đạo chấp vô nhân sinh:

“Huyễn mộng và tóc rũ
Sóng nắng, Càn-thát-bà
Các thứ việc thế gian
Vô nhân mà tướng hiện
Dẹp trừ luận hữu nhân
Nêu bày nghĩa vô sinh
Vì nêu bày vô sinh
Dòng pháp mãi không dứt
Thịnh hành luận vô nhân
Làm ngoại đạo sợ hãi”.

Mộng huyễn… dụ cho pháp thế gian, vô nhân mà hiện tướng nói vốn không, tất cả đều nói lên nghĩa bất sinh. Kia phá lập thì chiết phục luận hữu nhân của ngoại đạo, nêu bày nghĩa vô sinh, nhưng ngoại đạo vốn chấp vô nhân mà sinh, còn nói có nhân là vì kia nói bất sinh bất diệt chính là vọng chấp, thật là nhân của sinh tử, nên bác bỏ là luận hữu nhân. Ngoại đạo đã diệt thì chánh pháp được truyền bá, luận vô sinh được nói rộng rãi, giúp cho ngoại đạo nghe mà sợ hãi.

27. Có bốn câu hỏi đáp về luận thuyết vô nhân: Khi ấy, Đại Tuệ dùng kệ hỏi Phật:

“Thế nào do nhân gì?
Kia lại vì sao sinh?
Ở chỗ nào hòa hợp?
Mà làm luận vô nhân?
Đức Thế tôn lại dùng kệ đáp:
Quán sát pháp hữu vi
Chẳng vô nhân, có nhân
Kia thuộc luận sinh diệt
Chỗ thấy từ đó diệt”.

Bài kệ vấn đáp này là nói về nghĩa luận vô nhân. Hỏi có bốn ý: Thế nào? Do nhân gì? Cớ gì? Chỗ nào? Mà làm luận vô nhân ư? Đáp cũng có bốn: Quán sát pháp hữu vi, là đáp chỗ nào! Hữu vi tức là pháp sinh diệt ở thế gian. Chẳng vô nhân có nhân, là đáp thế nào! Nghĩa là Phật pháp chẳng phải có, chẳng phải không. Kia thuộc sinh diệt luận, là dáp do nhân gì! Tức là do luận sinh diệt của ngoại đạo kia. Chỗ thấy từ đó diệt, là đáp cớ gì! Nghĩa là dứt trừ tà kiến của ngoại đạo kia.

28. Hỏi về nghĩa Vô sinh:

Khi ấy, Đại Tuệ nói kệ hỏi Phật:

“Thế nào là vô sinh?
Là vô tánh phải chăng?
Là đoái xem các duyên
Có pháp gọi vô sinh
Tên không nên vô nghĩa
Xin vì phân biệt nói”

Đây hỏi nghĩa vô sinh, vì các pháp vô tự tánh gọi là vô sinh phải không! Vì đoái lại đợi các nhân duyên gọi là vô sinh phải không? Hay vì có pháp gọi là vô sinh riêng chăng? Đã gọi vô sinh, thì phải có nghĩa vô sinh, xin Phật nói cho chúng con nghe.

29. Phật đáp về nghĩa Vô sinh:

Đức Thế tôn lại dùng kệ đáp:
Chẳng vô tánh vô sinh
Cũng chẳng đoái các duyên
Chẳng có tánh mà gọi,
Tên cũng chẳng vô nghĩa
Tất cả các ngoại đạo
Thanh văn và Duyên giác
Thất Trụ chẳng cảnh giới
Đó gọi tướng vô sinh.

Trong đây đáp trước là ngăn lời hỏi, vì vô sinh không rơi vào hữu vô cho nên đều bác bỏ. Tên gọi cũng chẳng phải vô nghĩa, văn sau sẽ đáp. Gồm có ba ý:

1) Dùng địa vị chứng đắc để hiển bày, vì đây là giai vị vô sinh nhẫn, chẳng phải cảnh giới của phàm phu, Tiểu thừa và Bồ-tát thiên giáo an trụ. Thất trụ là Địa thứ bảy, vì Bồ-tát đạt đến Địa thứ tám mới phá được vô minh cho nên nói chẳng phải cảnh giới Thất Trụ.

“Xa lìa các nhân duyên
Cũng lìa tất cả việc
Nếu trụ tâm hữu vi
Năng tưởng, sở tưởng lìa
Thân kia chuyển biến theo
Ta nói là vô sinh”

2) Do lìa các duyên cho nên chẳng đợi duyên. Đã lìa các duyên cũng lìa tất cả việc sinh tử, chỉ có tâm vắng lặng nhiệm mầu như thế mà an trụ. Do đó năng tưởng, sở tưởng phân biệt đều lìa, vọng tâm đã là diệu tâm, mà thân cũng càng tốt đẹp đó là vô sinh, do Phật nói.

30. Vì hữu vô chẳng thật có nên trong ngoài đều dứt:

“Không ngoại tánh, vô tánh
Cũng vô tâm nhiếp thọ
Dứt trừ tất cả chấp
Ta nói là vô sinh
Như thế vô tự tánh
Không thảy, nên phân biệt
Chẳng không nên nói không
Vô sinh nên nói không”

3)  Vì hai tánh hữu vô chẳng thật có nên trong ngoài đều dứt. Không ngoại tánh tức là quên bên ngoài. Không tâm nhiếp thọ là quên bên trong. Trong ngoài đã quên thì dứt bỏ kiến chấp một, khác v.v… cũng như vậy, vô sinh tức vô tự tánh, vô tánh nên không không cũng có thể được, cho nên nói: Chẳng không nên nói không. Không tức là vô sinh. Lại nói vô sinh thuyết không.

31. Nêu lên nghĩa duyên sinh vô sinh:

“Nhân duyên số hòa hợp
Nên có sinh có diệt
Lìa các số nhân duyên
Không có sinh diệt riêng
Lìa bỏ số nhân duyên
Lại không có tánh khác
Nếu nói có một, khác
Là ngoại đạo vọng tưởng
Tánh hữu vô bất sinh
Chẳng có cũng chẳng không
Trừ số kia chuyển biến
Ấy đều chẳng thật có”.

Ở đây đối với duyên sinh nêu lên nghĩa vô sinh, theo văn sau thì có mười hai nhân duyên, số pháp hòa hợp nên có sinh diệt. Nhưng mười hai hoặc nghiệp nhân duyên cũng từ nhân duyên căn trần mà khởi. Nếu lìa nhân duyên năng sinh thì pháp sở sinh đâu có, cho nên nói không có sinh diệt riêng. Nếu lìa nhân duyên sinh diệt, thì đâu còn còn có kiến chấp một, khác đồng với ngoại đạo. Nếu lìa một khác, cũng lìa bốn câu: có, không, chẳng phải có, chẳng phải không v.v… chỉ trừ bị nhân duyên xoay chuyển thì sẽ thông đạt vô sinh, các câu có không này đều chẳng thật có.

32. Nghĩa vô sinh không thật có:

“Chỉ có các tục số
Xoay vần làm móc xích
Lìa xích nhân duyên kia
Nghĩa sinh không thật có
Tánh vô sinh chẳng khởi
Lìa các lỗi ngoại đạo
Chỉ nói duyên móc xích
Phàm ngu không thể hiểu
Nếu lìa duyên móc xích
Mà có tánh sinh mà riêng
Thì là luận vô nhân
Phá hoại nghĩa móc xích
Như đèn rõ các tướng
Móc xích hiện cũng vậy
Ấy là lìa móc xích
Lại có các tánh riêng”.

Các tục số, tức nhân duyên thế tục sinh tử, nghĩa là phàm phu từ xưa đến nay chỉ theo vọng duyên trôi lăn trong vòng sinh tử, như móc xích nối nhau chẳng dứt. Nếu biết rõ vọng duyên sinh tức là vô sinh, thì có thể nói nghĩa sinh không thật có. Nói sinh vô tánh không khởi… nghĩa là hiểu rõ sinh vô sinh tánh chấp chẳng khởi, thì lìa ngoại đạo tà kiến. Chỉ ta nói nghĩa nhân duyên móc xích, giúp cho họ hiểu sinh tức vô sinh. Phàm ngu không thể hiểu, nếu lìa ngoài nhân duyên năng sinh, mà có pháp sở sinh riêng thì ta nói luận vô nhân, mà trở lại tự bác bỏ nghĩa móc xích. Như đèn bày các tướng… Phật dạy ta nói nghĩa móc xích là muốn làm cho mọi người hiểu sinh tức vô sinh, nếu không thì lìa ngoài pháp sinh này mà tìm vô sinh riêng, như các vật do đèn mà hiển bày, chẳng phải ngay nơi vật là sáng, cho nên nói móc xích hiện cũng vậy, nghĩa là móc xích hiện như vậy thì ngoài nhân duyên có các pháp riêng.

33. Sinh tức vô sinh gọi là pháp nhẫn vô sinh:

“Vô tánh, không có sinh
Như tự tánh hư không
Nếu lìa các móc xích
Tuệ không hề phân biệt
Lại có Vô Sinh khác

Pháp hiền Thánh chứng đắc Kia sinh mà vô sinh Ấy là Vô Sinh nhẫn”.

Biết rõ pháp pháp do nhân duyên sinh tánh tướng không thật có, đó gọi là vô sinh, thì thể tánh kia như hư không, chẳng ngăn ngại. Nếu lìa duyên sinh mà tìm vô sinh riêng là trí tuệ không có dụng quán sát, cho nên nói tuệ không hề phân biệt. Lại có vô sinh khác là chỉ cho pháp mà các bậc Hiền Thánh trên đã chứng được, do hiểu rõ sinh tức vô sinh, đó gọi là vô sinh pháp nhẫn.

34. Hiểu rõ sinh tức vô sinh thì buộc thành mở:

“Nếu khiến các thế gian
Quán sát móc xích ấy
Tất cả lìa móc xích
Ngay đó được Tam-muội
Si ái các nghiệp thảy
Đó là móc xích trong
Dùi, gỗ, đất bánh xe
Hạt giống thảy gọi ngoài
Nếu khiến có tánh khác
Mà từ nhân duyên sinh
Kia chẳng nghĩa móc xích
Cho nên chẳng thành tựu
Nếu sinh vô tự tánh
Kia lấy gì móc xích
Vì xoay vần sinh nhau
Nên biết nghĩa nhân duyên.

Ở đây nói chúng sinh ở thế gian nếu tiến tu quán sát pháp nhân duyên sinh, đương thể tức không thì chứng được Tam-muội vô sinh, lìa móc xích. Nhưng nhân duyên sở quán có trong có ngoài, trong thì mười hai nhân duyên như vô minh v.v… ngoài thì các việc như dùi gỗ đất bánh xe… khoan dùi được lửa, bùn đất nặn thành bình, hạt giống sinh mầm chồi, ba thứ này gọi là nhân duyên bên ngoài. Nhân duyên bên ngoài này dùng thí dụ bên trong, chính là nói lìa nhân duyên có pháp sinh riêng. Nếu cho rằng có pháp riêng từ duyên khác mà sinh thì đó chẳng phải khéo quán sát nghĩa nhân duyên, không thể thành tựu pháp nhẫn vô sinh. Nếu hiểu rõ sinh tức vô sinh, thì buộc thành mở, nên nói kia lấy gì móc xích, nếu không thì trôi lăn trong sinh tử, đó gọi là nghĩa Nhân duyên.

35. Ngoại đạo vọng chấp tánh bốn đại chẳng hoại:

“Pháp cứng, ướt, ấm, động
Phàm phu sinh vọng tưởng
Lìa số không pháp khác
Ấy là nói vô tánh”.

Bốn câu này là nói ngoại đạo vọng chấp tánh bốn đại chẳng hoại, cho là bất sinh bất diệt. Lìa số v.v… nghĩa là lìa nhân duyên mà nói pháp vô sinh.

36. Trong cõi Phật mười phương chỉ có pháp Nhất thừa:

“Như thầy thuốc trị bệnh
Chẳng có bao nhiêu cách
Vì bệnh có khác nhau
Nên có nhiều cách trị
Ta vì chúng sinh kia
Phá hoại các phiền não
Biết căn tánh hơn kém
Nói độ môn độ họ
Chẳng gốc phiền não khác
Mà có các thứ pháp
Chỉ nói pháp Nhất thừa
Ấy tức là Đại thừa”.

Ý ở đây dụ cho sự lập giáo của Như lai, hoặc nói về bản ý xuất thế, chỉ nói Nhất thừa để độ chúng sinh, như người thầy thuốc giỏi chỉ dùng thuốc A-già-đà để trị bệnh tất cả chúng sinh, cho nên nói: chẳng có bao nhiêu cách, nhưng căn cơ chúng sinh khác nhau, không khỏi phải nương vào phương tiện, vì nói ba thừa dần dần điều phục, như tùy bệnh khác nhau mà cho các thứ thuốc, nhưng chẳng phải do căn cơ khác nhau mà pháp có khác, nếu quyền cơ thuần thục thì đều trở về nhất thật, cái gọi là trong các cõi Phật mười phương chỉ có pháp Nhất thừa.

37. Thưa hỏi lại về vô thường:

“Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Tất cả ngoại đạo đều khởi vọng tưởng vô thường, Thế tôn cũng nói tất cả hạnh vô thường, là pháp sinh diệt. Nghĩa này thế nào? Là tà hay chánh? Là có mấy thứ vô thường?” Thường và vô thường tên gọi không khác ngoại đạo, không dùng nghĩa quyết định thì tà chánh làm sao phân biệt? Ở trên nói rõ bất sinh bất diệt là nghĩa chân thường, đã phá bỏ chấp của ngoại đạo, mà chưa phân biệt rõ sự khác nhau giữa vô thường tà chánh, cho nên quyết định thưa hỏi lại, lời hỏi có thể thấy rõ.

38. Nói về bảy thứ vô thường của ngoại đạo:

“Phật bảo Đại Tuệ: Tất cả ngoại đạo có bảy thứ vô thường, chẳng phải pháp của ta. Bảy thứ ấy là gì? Kia có nói rằng “làm rồi mà bỏ” ấy gọi là vô thường, có thuyết “hình xứ hoại”, đó gọi là vô thường, có thuyết ngay nơi sắc là vô thường, có thuyết giữa sắc chuyển biến, đó gọi vô thường, không xen hở tự nó tan hoại, như sự chuyển biến sữa thành lạc khoảng giữa không thể thấy, vô thường hủy hoại tất cả tánh chuyển, có thuyết tánh vô thường, có thuyết tánh không tánh vô thường, có thuyết tất cả pháp bất sinh vô thường vào tất cả pháp! Bảy thứ vô thường đều là ngoại đạo chấp”. Trước nêu thứ lớp giải thích. Trong đây 62 chỉ nêu sắc chuyển biến vô thường, có liên quan đến giải thích nghĩa. Sắc là sắc do bốn đại tạo, chuyển biến gọi là sinh trụ dị diệt. Không xen hở tự nó tan hoại v.v… nghĩa là nối nhau chẳng dứt giúp cho biến khác tự nhiên trở về diệt, như sự chuyển biến của sữa lạc, tuy không thấy được nhưng ở trong pháp tự nhiên biến hoại tất cả pháp. Các thứ khác trong văn dưới giải thích đầy đủ, trong giải thích hoặc bao gồm phá chấp, hoặc chỉ giải thích nghĩa, nhưng không thứ lớp, không ngoài tánh sắc.

39. Bất sinh còn không có huống chi có sinh tử để diệt:

Này “Đại Tuệ! Tánh, vô tánh, vô thường nghĩa là bốn đại và tự tướng sở tạo hoại, bốn đại tự tánh không thật có, bất sinh. Tánh vô tánh, nghĩa là tánh bốn đại đều vô tự tánh, tướng năng tạo và sở tạo đều trở về biến hoại, cho nên gọi là vô thường”. Tự tánh bốn đại… trở xuống là phá chấp của ngoại đạo, ý nói đại chủng tự tánh xưa nay bất sinh, bất sinh còn không có thì làm gì có sinh để diệt mà nói là vô thường ư!

40. Nêu nghĩa chánh và bác bỏ nghĩa tà:

“Kia chẳng sinh vô thường: chẳng phải thường, vô thường, tất cả pháp hữu vô bất sinh, phân tích cho đến cát bụi thì không thể thấy, ấy là nghĩa bất sinh. Phi sinh, đó gọi là tướng bất sinh vô thường, nếu chẳng hiểu được điều này thì rơi vào nghĩa sinh vô thường của tất cả ngoại đạo”. Trước nêu nghĩa chính sau bác bỏ nghĩa tà. Nói phi thường v.v… Phật dạy thường và vô thường tất cả hữu vô, các tướng đối pháp thể vốn bất sinh, cho đến phân tích đến cát bụi cũng không thể thấy, vì nghĩa đó nên nói vô sinh, đây là tướng bất sinh vô thường do Như lai nói, nếu không hiểu nghĩa này thì sẽ rơi vào kiến chấp nghĩa sinh vô thường của ngoại đạo, do ngoại đạo không hiểu rõ ý chỉ vô sinh. Tuy nói vô sinh nhưng thật là có sinh, cho nên bác bỏ nói sinh vô thường.

41. Việc có thể hoại mà tánh chẳng thể hoại:

Này “Đại Tuệ! Tánh vô thường, là tự tâm vọng tưởng, chẳng phải tánh thường, vô thường. Vì sao? Vì vô thường tự tánh chẳng hoại. Này Đại Tuệ! Đây là việc tất cả tánh, vô tánh vô thường. Trừ vô thường ra, thì không gì có khả năng làm cho tất cả pháp tánh không tánh: như gậy, gạch đá phá hoại các vật”. Nói tự tâm vọng tưởng v.v… Nghĩa là kia đối với phi thường, phi vô thường, tự sinh phân biệt cho là vô thường, làm hoại các pháp mà tự tánh chẳng hoại, đây là việc tánh, vô tánh, vô thường ở trước, ý nói việc có thể hoại mà tánh không thể hoại. Các pháp thế gian có hoại, là do vô thường, nên vô thường ở khắp trong các pháp. Như vậy gạch đá có công năng phá hoại các vật mà tự thể của nó chẳng hoại.

42. Phật dạy các pháp hoại diệt thật cũng có nhân:

“Hiện thấy mỗi mỗi không khác, tánh này là việc vô thường, chẳng phải tác sở tác có khác nhau, đây là vô thường đây là sự. Tác và sở tác chẳng khác: tất cả tánh thường vì vô nhân tánh. Này Đại Tuệ! Tất cả tánh, vô tánh có nhân, phàm ngu chẳng thể biết được”. Đây là phá chấp ngoại đạo. Phật cho rằng các pháp hiện thấy trước mắt không khác vô thường, đâu có tánh khác với sự, cho nên nói chẳng phải tác, sở tác có khác nhau, nên biết vô thường tức sự, sự tức vô thường, đây là năng sở không khác nên gọi là nghĩa thường. Về vô nhân tánh: Kinh Nhập Lăng-già chép: không thấy có nhân. Nói vô thường không phá hoại nhân các pháp, tất cả tánh… trở xuống: Phật dạy các pháp hoại diệt thật cũng có nhân, nhưng ý này hơi ẩn, phàm phu chẳng thể biết được.

43. Tất cả tánh tức là tất cả pháp:

“Chẳng phải nhân chẳng phải việc tương tự sự sinh. Nếu sinh thì tất cả pháp đều vô thường. Do việc chẳng tương tự này nên tác và sở tác không có khác nhau, mà đều thấy có khác. Nếu tánh vô thường nghĩa là rơi vào tác nhân tánh tướng. Nếu rơi thì tất cả tánh chẳng rốt ráo. Tất cả tánh tác nhân tướng rơi thì tự vô thường nên vô thường. Vì vô thường là vô thường nên tất cả tánh chẳng vô thường lẽ ra là thường”. Chẳng phải nhân chẳng tương tự sự sinh v.v… nghĩa là vô thường nếu chẳng có nhân thì không khác sự sinh. Nếu kia sinh thì tất cả pháp đều sinh với nó, thảy đều không thường, há chẳng phải việc khác nhau . Do nghiệm xét vô thường phải có nhân, như ngoại đạo chấp thì pháp này pháp kia, năng tác sở tác lẽ ra không khác nhau, mà hiện thấy có khác nhau, tại sao vọng chấp vô nhân sinh khác nhau ư! Nếu tánh vô thường, thì tánh ấy phải rốt ráo vô tác, vô tác tức là thường. Đã nói vô thường thì rơi vào các pháp hữu tác, chẳng phải nghĩa rốt ráo, lấy đó làm nhân thì rơi vào làm tánh tướng cho nhân, mất nghĩa bản tánh. Nói tự vô thường lẽ ra nên vô thường, nghĩa là nếu tánh năng tác là vô thường thì lẽ ra đồng với pháp sở tác đều là vô thường, tự tánh đã vô thường thì pháp sở tác vô thường lẽ ra phải là thường. Tất cả tánh tức là tất cả pháp.

44. Đức Như lai tổng kết bác bỏ lỗi của ngoại đạo:

“Nếu vô thường nhập vào tất cả tánh thì nên rơi vào ba đời. Sắc quá khứ kia cũng phải hoại, sắc bất sinh ở vị lai bất sinh nên sắc hiện tại cũng bị hoại. Sắc là bốn đại nhóm họp khác nhau, bốn đại và tạo sắc tự tánh chẳng hoại, vì lìa khác và chẳng khác. Tất cả ngoại đạo chấp tất cả bốn đại chẳng hoại, tất cả bốn đại và tạo sắc ở trong ba cõi, tại sở tr thì có sinh diệt, lìa bốn đại tạo sắc, tất cả ngoại đạo ở chỗ nào mà suy nghĩ tánh vô thường? Bốn đại chẳng sinh, vì tự tánh tướng chẳng hoại”. Nếu vô tánh thường trùm khắp trong các pháp thì thuộc thay đổi trong ba đời. Sắc quá khứ đã hoại, sắc vị lai chưa sinh, sắc hiện tại cùng hoại. Sắc tức sắc của bốn đại khác nhau, bốn đại năng tạo và sắc sở tạo, tánh kia chẳng hoại lìa khác chẳng khác. Tất cả ngoại đạo này, cho rằng thể tánh bốn đại chẳng hoại như thế. Tất cả ba cõi… trở xuống, Kinh Nhập Lăng-già chép: trong ba cõi năng tạo và sở tạo đều là tướng sinh trụ diệt, đâu còn có tánh vô thường riêng, năng sinh đối với chúng sanh mà chẳng diệt ư! Đây là Đức Như lai tổng kết bác bỏ lỗi của ngoại đạo.

45. Chẳng phải mới tạo ra vô thường:

“Lìa mới tạo vô thường, chẳng phải bốn đại còn có cái khác với bốn đại, mỗi đại có tướng khác. Vì tự tướng chẳng phải khác nhau thật có. Kia chẳng khác nhau, đây thảy chẳng còn tạo, hai phương tiện chẳng làm, nên biết là vô thường”. Kinh Nhập Lăng-già chép: mới tạo tức bỏ vô thường, chẳng phải đại chủng tạo đại chủng lẫn. Vì mỗi đại chủng khác nhau nên chẳng phải tự tướng tạo, vì không khác nên chẳng còn chung tạo, vì trái lìa nên phải biết là chẳng phải mới tạo vô thường. Hai phương tiện, nghĩa là đồng khác lại có phương tiện tạo.

46. Bốn đại tạo sắc chẳng hoại:

“Hình xứ kia hoại vô thường, nghĩa là bốn đại và tạo sắc bất hoại, đến rốt ráo chẳng hoại. Này Đại Tuệ! Rốt ráo, phân tích cho đến hạt bụi nhỏ quán sát hoại, bốn đại và hình xứ tạo sắc thấy khác dài ngắn không thật có chẳng phải bốn đại. Bốn đại chẳng hoại, hiện hình xứ hoại, rơi vào Số luận”. Hình xứ tức hình trạng, chính là bốn đại tạo sắc chẳng hoại, ngoại đạo chấp đây là bốn đại tạo sắc chẳng hoại, ngoại đạo chấp đây là năng tạo, sở tạo đến tột chẳng hoại, rốt ráo cũng như cùng cực, cùng tận. Nghĩa là phân tích tạo sắc đến cát bụi con không thể hoại, nhưng quán sát các các chấp diệt hoại, hình trạng dài ngắn v.v… chẳng hoại nặng tạo, sở tạo sắc thể. Đây là lời nói của tục số, cho nên nói rơi vào Số luận.

47. Sắc tức là hành xứ vô thường:

“Sắc là vô thường, nghĩa là sắc tức là vô thường. Kia là hình xứ vô thường, chẳng phải bốn đại. Nếu bốn đại vô thường thì chẳng phải số lời nói của thế tục. Lời nói của thế tục chẳng phải tánh, sẽ rơi vào Thế luận. Thấy tất cả tánh chỉ có lời nói, chẳng thấy tự tánh sinh”. Sắc tức vô thường, ở đây nói sắc tức là hình xứ vô thường. Chẳng phải bốn đại, nghĩa là chẳng phải bốn đại chủng tánh. Nếu là đại chủng cũng vô thường, đối với số lời nói của thế tục có trái có rơi, trái thì chẳng phải thế tục, rơi thì trái với chân, tiến lùi đều mất, đều chẳng phải chánh luận. Lại nói lời nói của thế tục chẳng phải tánh, là tổng kết lỗi trước. Thế luận tức là kiến chấp của ngoại đạo Lô-già-na kia, do họ vọng thấy các pháp chỉ có lời nói, chẳng có tự tánh tướng.

48. Việc vô thường hoại mà tánh chẳng hoại:

“Chuyển biến vô thường, nghĩa là sắc khác tánh hiện, chẳng phải bốn đại. Như vàng làm các món đồ trang sức chuyển biến hiện ra, chẳng phải tánh vàng bị hoại, chỉ các món đồ trang sức bị hoại. Như thế các tánh chuyển biến v.v… cũng giống như vậy” Sắc khác tánh hiện: sắc tức là sắc do bốn đại tạo ra, nghĩa là sắc thể biến khác nên tánh vô thường hiện, do chỗ hiện là hoại, chẳng phải bốn đại chủng hoại. Như vàng làm thành các đồ trang sức, đồ trang sức có biến hoại mà tánh vàng chẳng thay đổi. Nói việc vô thường hoại mà tánh chẳng hoại cũng giống như vậy.

49. Tổng kết bác bỏ bảy thứ vô thường của ngoại đạo:

“Như thế v.v… các thứ ngoại vô thường chấp vọng tưởng, khi lửa đốt bốn đại thì tự tướng chẳng bị thiêu đốt. Mỗi tự tướng hoại lẫn nhau, thì bốn đại tạo sắc lẽ ra nên đoạn”. Đây là tổng kết bác bỏ bảy thứ vô thường của ngoại đạo. Hễ các chấp đắm của ngoại đều nói theo bốn đại, đã chẳng phải chánh kiến cho nên nói vọng tưởng. Kinh Nhập Lăng-già chép: Kia tạo ra thuyết này, lửa không thể thiêu đốt tự tướng của các đại, chỉ mỗi thứ phân tán. Nếu thiêu đốt được thì năng tạo, sở tạo đều đoạn diệt. Vì bốn đại chủng bất hoại là chấp thường, bốn đại phân tán là chấp đoạn, các vọng tưởng kia không ngoài hai chấp này.

50. Như lai chỉ bày chánh giáo để phân biệt với ngoại giáo khác:

Này “Đại Tuệ! Ngã pháp khởi chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Vì sao? Vì tánh bên ngoài không quyết định, chỉ nói ba cõi duy tâm, chẳng nói các tướng có sinh có diệt. Bốn đại nhóm họp khác với bốn đại và tạo sắc nên vọng tưởng hai thứ năng nhiếp và sở nhiếp. Biết hai thứ vọng tưởng, lìa hai thứ chấp ngoại tánh vô tánh” đây là Như lai chỉ bày chánh giáo, để phân biệt với ngoại giáo khác. Ta nói các pháp khởi, đối với vô thường chẳng phải vô thường mà có thể thường, có thể vô thường, tức toàn thể khởi dụng, ngoại đạo mê muội điều này rơi vào chấp đắm hữu vô. Như trên đã nêu rõ. Ở đây đối với tà mà bày chánh, nên nói chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, cho nên dưới đây nêu để giải thích. Do pháp ngoại đạo không chắc chắn có, chỉ nói các pháp trong ba cõi đều do tâm hiện. Nói vi tâm là vọng tâm sát-na hiện ra, hoặc nói tâm mầu nhiệm là sai. Đã hiểu rõ các pháp duy tâm, thì ngoài tâm không có pháp, không đồng với kia nói các tướng có sinh, có diệt. Các tướng là gì? Tức là tướng bốn đại hội hợp khác nhau, và bốn đại sắc năng tạo, sở tạo. Vì ngoại đạo cho rằng năng tạo đại chủng chẳng hoại, sở tạo các sắc có hoại. Phật dạy chẳng phải thường, chẳng phải vô thường thì đều bất sinh không diệt. Hai thứ vọng tưởng năng nhiếp, sở nhiếp, Kinh Nhập Lăng-già chép: thể tánh hai thứ Năng thủ, sở thủ, tất cả đều từ phân biệt khởi, cho nên có thể hiểu biết như thật thể tánh hai thứ năng thủ, sở thủ khởi vọng tưởng, tức biết các pháp duy tâm, lìa kiến chấp hữu vô.

51. Nêu tướng năng giác bất giác:

“Giác tự tâm hiện lượng vọng tưởng là tư tưởng tác hành sinh, chẳng phải không tác hành. Lìa tâm tánh thì không có tánh vọng tưởng, thế gian, xuất thế gian, và xuất thế gian thượng thượng, tất cả pháp chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng giác tự tâm hiện lượng, rơi vào hai bên ác kiến nối nhau. Tất cả ngoại đạo bất giác tự vọng tưởng phàm phu này không có cội gốc, nghĩa là thế gian, xuất thế gian, xuất thế gian thượng thượng, nói từ vọng tưởng sinh, phàm phu chẳng thể giác biết”. Đây là nêu tướng năng giác bất giác, giác tức là trí năng giác. Tự tâm hiện lượng v.v… đều là cảnh giới giác. Chúng sinh từ vô thể mê muội đối với thể duy tâm chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, cho nên khởi vọng tưởng.

Nay giác biết vọng tưởng do tư tưởng tác hành sinh, chẳng phải bất tác hành, đều là vọng tưởng. Đã biết rõ vọng tưởng thì lìa kiến chấp phân biệt hữu vô của tự tâm. Lìa chấp đắm này rồi thì các pháp thế gian, xuất thế gian, xuất thế gian thượng thượng, thể chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, lại vốn như một. Chẳng giác kia rơi vào hai bên, ác kiến có không nối nhau. Đây là do ngoại đạo thường ở trong vọng tưởng không biết tự tâm hiện lượng. Nói phàm phu không có cội gốc, là không biết các pháp khởi căn bản, chỉ cho rằng các pháp thế gian, xuất thế gian sinh ra vọng tưởng lời nói. Nhưng ba pháp này có cảnh giới lời nói khác nhau chẳng phải chỗ giác biết của phàm phu.

52. Đức Phật nói kệ để lặp lại nghĩa trên:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

Xa lìa nơi sở tạo
Cùng với hình xứ khác
Tánh và sắc vô thường
Ngoại đạo ngu vọng tưởng
Các tánh không có hoại
Mỗi đại tự tánh trụ
Ngoại đạo tưởng vô thường
Chìm trong các chấp đắm
Các ngoại đạo kia thảy
Vô hoặc sinh, hoặc diệt
Mỗi đại tánh tự thường
Sao nói tưởng vô thường
Tất cả duy tâm lượng
Hai thứ tâm trôi lăn
Nhiếp thọ và sở nhiếp
Không có ngã, ngã sở
Phạm thiên là cội cây
Cành nhánh trùm rộng khắp
Như thế điều ta nói
Chỉ là tâm lượng kia.

Bốn câu đầu là tổng kết nêu lên lìa các chấp, các tánh không có hoại v.v… Bài tụng trên là bác bỏ chung các chấp, nghĩa là kia dù vọng tưởng vô thường, mà tự tánh bốn đại chẳng hoại, cho nên nói: Mỗi đại tự tánh trụ. Lại nói: các chúng ngoại đạo kia v.v… lại nêu lên các ngoại đạo, nghĩa là kia chấp thật vốn bất sinh diệt, bốn đại tánh thường, cố nhiên tự như vậy, đâu được chắc chắn gọi là nghĩ là vô thường ư! Lại từ nơi quan trọng mà nêu bày nói rằng tất cả tâm hiện lượng… Kinh Nhập Lăng-già chép: Năng thủ và sở thủ tất cả tâm. Hai thứ từ tâm hiện, không có ngã, ngã sở, ngoại đạo chấp trời Tự Tại ban đầu tạo ra chúng sinh là có tình bổn. Như cây mọc lên cành lá che trùm tất cả, Phật dạy ta nói ngoại đạo chấp đắm như vậy đều là ngoại đạo vọng tưởng tâm lượng.

53. Khéo biết định Diệt tận thì chẳng rơi vào Chánh thọ của phàm phu nhị thừa:

“Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin giảng nói tất cả Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác diệt chánh thọ thứ lớp nối nhau. Nếu giỏi về tướng diệt chánh thọ thứ lớp nối nhau, con và các Bồ-tát chẳng bao giờ vọng xả bỏ diệt chánh thọ lạc môn, chẳng rơi vào tất cả Thanh văn, Duyên giác, ngoại đạo ngu si”: Diệt chánh thọ, chánh thọ tức Tam-muội, chính là định diệt tận. Định này ba thừa đồng nhập mà vị thứ cạn sâu khác nhau. Khéo biết đây rồi thì đối với đại diệt định chẳng bỏ, chẳng rơi vào chánh thọ của phàm phu Tiểu thừa, câu hỏi rất dễ thấy.

54. Thông giáo ba thừa cùng thực hành Thập địa gồm có bốn nghĩa:

“Phật bảo Đại Tuệ: Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghĩ, ta sẽ nói cho ông nghe. Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin nói cho con nghe. Phật bảo Đại Tuệ: Đại Bồ-tát Lục địa và Thanh văn, Duyên giác nhập diệt chánh thọ: Đại Bồ-tát địa thứ bảy niệm niệm chánh thọ, lìa tất cả tánh tự tánh tướng chánh thọ, chẳng phải Thanh văn Duyên giác. Các Thanh văn, Duyên giác rơi vào hữu hành, giác biết tướng năng giác sở giác diệt chánh thọ. Cho nên Bồ-tát Thất đọa chẳng phải niệm chánh thọ, được tất cả pháp tướng không khác nhau, chẳng phải được từng phần các thứ tướng tánh, giác tất cả pháp lành, không lành tánh tướng chánh thọ. Cho nên, Bồ-tát địa thứ bảy không có niệm lành chánh thọ. Này Đại Tuệ! Bồ-tát Địa thứ tám và Thanh văn, Duyên giác tâm ý, ý, thức tướng vọng tưởng diệt”. Trong đây đáp, tướng địa vị tăng tiến chẳng phải nhiều đường, đều y theo thông giáo ba thừa cùng thực hành Thập địa mà nói, gồm có bốn nghĩa: 1. Do Lục địa, Địa thứ bảy đối rõ cạn sâu, thì Lục địa là Ba thừa đồng nhập định diệt tận, địa vị này rất cạn vì Bồ-tát đắc định không khác gì hàng Nhị thừa. Bồ-tát Địa thứ bảy nhớ nghĩ chánh thọ v.v… Niệm niệm thì ra vào không xen hở, lìa tất cả tánh, tự tánh tướng chánh thọ thì không chấp tất cả tướng năng nhiếp, sở nhiếp, cho nên khác với người Nhị thừa rơi vào có hành giác. Có hành giác, là hữu vi hành. Quyết dứt các tướng, sau mới được định. Cho nên Bồ-tát địa thứ bảy chẳng niệm chánh thọ, nghĩa là chẳng phải họ trụ chánh thọ của niệm. Lại nói rằng: Được tất cả pháp tướng không khác nhau, chính là giác tất cả pháp tánh tướng không khác nhau. Chẳng phải được từng phần: Là chẳng phải người Nhị thừa kia ở trong định được từng phần các tánh tướng. Pháp lành, bất lành, nghĩa là Bồtát đến Địa thứ bảy thì, còn chẳng trụ trong pháp lành, huống chi là niệm không lành ư! Ấy gọi là vô thiện niệm chánh thọ. 2. Y theo Địa thứ bảy, Địa thứ tám để phân biệt rõ tướng khác, tức là tướng ý thức vọng tưởng có diệt, chưa diệt, cao thấp khác nhau, đến Địa thứ tám ba thừa vọng tưởng đều diệt, khác với Địa thứ bảy.

55. Ngoại đạo rơi vào hữu vô, vọng chấp hai thủ.

“Bồ-tát từ Địa thứ nhất đến Địa thứ bảy, quán ba cõi lượng tâm, ý, ý thức, lìa ngã, ngã sở, tự vọng tưởng tu, rơi vào ngoại tánh các thứ tướng. Hai thứ kẻ ngu tự tâm nhiếp, sở nhiếp: vừa rồi vô tri bất giác các lỗi ác thói quen luống dối từ vô thỉ xông ướp”. Kế là nói rõ ba thừa từ Địa thứ nhất đến Địa thứ bảy quán ba cõi các pháp duy tâm, ý, thức. Nhưng tuy đồng quán mà vọng tưởng khác nhau, có diệt không diệt, được mất, lìa ngã, ngã sở v.v… thì được, rơi vào ngoại tánh các tướng v.v… thì mất. Hai thứ tự tâm: là ngoại đạo rơi vào hữu vô, vọng chấp năng thủ, sở thủ, hoàn toàn chắng biết bất giác vô thỉ lỗi ác thói quen huân tập nên.

56. Bồ-tát được Phật che chở, vì giáo hóa chúng sanh nên không nhập Niết-bàn:

“Đại Tuệ Đại Bồ-tát Địa thứ tám là Thanh văn, Duyên giác Niếtbàn. Bồ-tát là do Tam-muội giác gia trì, nên môn Tam-muội lạc chẳng vào Niết-bàn. Nếu chẳng gia trì thì Như lai địa chẳng đầy đủ, vì xả bỏ tất cả việc hữu vi của chúng sinh, hạt giống Phật sẽ bị dứt mất. Các Đức Phật, Thế tôn vì chỉ bày vô lượng công đức không thể suy nghĩ nói năng của Như lai. Thanh văn, Duyên giác đối với môn Tam-muội được vui dắt dẫn nên nghĩ là Niết-bàn” 3. Nói rõ Địa thứ tám ba thừa đồng một Niết-bàn mà có trụ, bất trụ khác nhau. Bồ-tát v.v… Nói Bồ-tát được Tam-muội giác lực của các Đức Phật che chở, vì giáo hóa chúng sinh đối với môn Tam-muội không nhập Niết-bàn. Nếu không che chở, thì không thể đầy đủ công hạnh đến địa vị Như lai, ấy là bỏ chúng sinh mà không hóa độ, cũng làm hư hạt giống Như lai. Cho nên các Đức Phật nói công đức không thể suy nghĩ nói năng để khuyến khích tiến lên, giúp cho chúng sinh đạt đến rốt ráo. Người Nhị thừa tự điều phục tự độ, chấp Tam-muội lạc nghĩ là Niết-bàn, đó là sai lầm.

57. Phân biệt bộ loại khác nhau:

Này “Đại Tuệ! Ta phân bộ Địa thứ bảy khéo tu tướng tâm, ý, ý thức, khéo tu ngã, ngã sở, nhiếp thọ người pháp vô ngã, tự tướng, cộng tướng sinh diệt, khéo được bốn vô ngại quyết định lực môn Tam-muội, địa vị thứ lớp nối nhau vào pháp đạo phẩm”. Phân bộ nghĩa là phân biệt bộ loại có thiện, bất thiện, diệt, bất diệt v.v… khác nhau, ý muốn cho Bồ-tát khéo tu tướng tâm, ý, thức, hiểu rõ thức tánh vốn không để dứt vọng tưởng. khéo tu ngã, ngã sở v.v… nghĩa là hiểu rõ hai pháp chấp người pháp, nhiếp thọ hai tánh vô ngã, không rơi vào tự tướng, cộng tướng sinh diệt, khéo được bốn vô ngại biện tài và quyết định năng lực Tam-muội thì định tuệ bình đẳng, do đó dần dần bước lên các địa. Đắc Bồ-đề phần.

58. Phật nói địa thứ lớp nối nhau:

“Chẳng khiến Đại Bồ-tát chẳng giác tự tướng, cộng tướng, chẳng rành về Địa thứ bảy rơi vào lối tà của ngoại đạo, cho nên lập địa thứ lớp. Này Đại Tuệ! Kia thật không có hoặc sinh hoặc diệt, trừ tự tâm hiện lượng nên nói địa thứ lớp nối nhau và các hạnh ba cõi, là điều kẻ ngu không thể giác. Điều kẻ ngu không thể giác, ta và các Đức Phật nói địa thứ lớp nối nhau và nói các hạnh ba cõi”. Chẳng để cho Bồ-tát: Phật sợ Bồ-tát không hiểu rõ tự tướng, cộng tướng, không biết thứ lớp các địa, rơi vào đường tà của ngoại đạo, như cho nên nói địa vị thứ lớp. Lại bảo rằng: Kia thật không có sinh diệt, thứ lớp các địa trong ba cõi trở lại, tất cả đều do tự tâm hiện ra, nhưng những kẻ ngu không thể hiểu biết. Do không hiểu nên ta và các Đức Phật vì nói như thế.

59. Chấp đắm hai thứ vô ngã chẳng phải chánh tuệ vắng lặng:

“Lại nữa Này Đại Tuệ! Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát địa thứ tám bị cái vui của diệt môn Tam-muội làm cho say mê, chẳng khéo rõ tự tâm hiện lượng, bị thói quen tự tướng, cộng tướng làm chướng, rơi vào người pháp vô ngã, kiến chấp pháp nhiếp thọ, vọng tưởng khởi Niết-bàn, chẳng phải trí tuệ giác Niết-bàn”. . Nêu bày Nhị thừa đến Bồ-tát địa bị cái vui Tam-muội làm cho say. Diệt tức định diệt tận. Mê say tức là cái vui Tam-muội, do kia mê say, không thể khéo biết duy tâm hiện, bị thói quen tự tướng, cộng tướng che lấp: chấp đắm hai thứ vô ngã nhiếp thọ, nghĩa là kiến chấp pháp, vọng tưởng không dứt, nghĩ là Niết-bàn, chẳng phải chánh tuệ vắng lặng.

60. Bồ-tát thông giáo thấy lý chân không Niết-bàn:

Này “Đại Tuệ! Bồ-tát thấy cái vui của diệt môn Tam-muội, bổn nguyện thương xót, đại bi thành tựu, biết phân biệt mười câu vô tận, chẳng vọng nghĩ là Niết-bàn. Kia đã Niết-bàn, vọng tưởng chẳng sinh, lìa vọng tưởng năng nhiếp, sở nhiếp, giác rõ tự tâm hiện lượng tất cả các pháp, vọng tưởng chẳng sinh, chẳng rơi ngoài tâm ý, ý thức, chấp đắm vọng tưởng tướng tánh, tự tánh, chẳng phải Phật pháp, nhân chẳng sinh, tùy trí tuệ mà sinh được Như lai tự giác địa”. Thấy diệt Tam-muội v.v… là nói Bồ-tát Thông giáo thấy lý chân không Niết-bàn, khác với chấp vui của Nhị thừa. Nhớ nghĩ bi nguyện độ sinh, tu hành mười vô tận ái, chẳng nghĩ là Niết-bàn. Đã chẳng trụ không thì lìa năng thủ, sở thủ, hiểu rõ các pháp duy tâm, chẳng sinh phân biệt, chẳng lìa tâm thức, chấp đắm tánh tướng của pháp. Vọng tưởng đã bất sinh thì không còn nhân thọ sinh, thành tựu nhân Phật pháp, đạt đến địa vị Như lai.

61. Khi mộng chẳng phải không thức rồi chẳng phải có:

“Như người nằm mộng thấy dùng phương tiện qua sông, khi chưa qua đã thức, thức rồi suy nghĩ là chánh hay tà? Hay chẳng phải chánh chẳng phải tà? Các cái thấy nghe hiểu biết từ vô thỉ nhân tưởng, các thói quen, các thứ hình xứ rơi trong tưởng hữu vô nên tâm ý, ý thức mộng hiện: “Đây là ví dụ pháp của Bồ-tát tự hành hóa tha, ý nói rằng khi mộng chẳng phải không, thức rồi chẳng phải có, mà chính là chẳng thật chẳng hư, chính là dụ cho Bồ-tát Địa thứ tám, mới thấy thật lý rốt ráo là độ sinh. Dùng Tam-muội như huyễn lập ra, cho nên như khi mộng tác dụng, và được pháp nhẫn vô sinh hiển bày vô công dụng đạo, như thức rồi mà được. Nói chưa qua sông mà tỉnh: địa vị chưa cùng cực nên chưa đến bờ giac ngộ. Là tà hay là chánh: Xét sự hư thật này. Chẳng phải chánh, chẳng phải tà: Nói cùng tột lý kia. Các sự thấy nghe hiểu biết từ vô thỉ do tưởng v.v… nghĩa là các chúng sinh mê muội chỉ vì thấy nghe hiểu biết từ vô thỉ đến nay bị vọng tưởng huân tập, mà có các thứ hình trạng rơi vào chấp hữu vô, cho nên có việc tâm thức mộng hiện.

62. Mộng sinh tử được dụ như con sông lớn:

Này “Đại Tuệ! Như thế Đại Bồ-tát đối với Bồ-tát địa thứ tám thấy vọng tưởng sinh. Từ Địa thứ nhất chuyển tiến đến thứ bảy địa, thấy tất cả pháp phương tiện như huyễn v.v… độ tâm vọng tưởng năng nhiếp, sở nhiếp, rồi thì thực hành phương tiện Phật pháp, người chưa được khiến được. Này Đại Tuệ! đây là Bồ-tát Niết-bàn phương tiện chẳng hoại, lìa tâm ý, ý thức, được pháp nhẫn vô sinh. Này Đại Tuệ! Đối với Đệ nhất nghĩa không có thứ lớp nối nhau, nói pháp không thật có, vọng tưởng vắng lặng”. Đây là hợp với ví dụ ở trên, nghĩa là Bồ-tát này chấp vọng tưởng sinh, tức dụ mông sinh tử như con sông lớn, từ Địa thứ nhất chuyển tiến lên Địa thứ bảy, thấy các pháp là phương tiện như huyễn… tức là nghĩa phương tiện năng độ. Độ tâm hạnh vọng tưởng năng nhiếp, sở nhiếp rồi, tức là tự tu hành, vượt tất cả nghĩa vọng tưởng về căn cảnh v.v… khởi phương tiện Phật pháp, người chưa được giúp cho được, tức là dùng tự độ để độ chúng sinh, cũng là nghĩa chúp cho người chưa độ được độ. Niết-bàn phương tiện chẳng hoại, nghĩa là Bồ-tát đắc Niết-bàn mà chẳng hoại việc phương tiện độ sinh. Lìa tâm ý: là nói Bồ-tát đến Địa thứ tám được vô công dụng đạo như dụ thức rồi mà được. Cũng là kết thúc nêu bày tên nhẫn, cho nên nói được pháp nhẫn vô sinh. Đối với Đệ nhất nghĩa v.v… kết thúc nêu bày, là nói đối với Đệ nhất nghĩa không có thứ lớp mà nói có thứ lớp, không có nối nhau mà nói có nối nhau, không thật có vọng tưởng nói có vọng tưởng, pháp không vắng lặng nói pháp vắng lặng, vì trong Đệ nhất nghĩa đế một pháp cũng không thật có, huống chi là thứ lớp nối nhau ư! Nhưng đều nương vào tâm lượng chúng sinh, phương tiện hóa môn vốn không có nói trong phân biệt.

63. Đức Phật nói kệ để lặp lại nghĩa trên:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

“Tâm lượng không thật có
Trụ này và Phật địa
Khứ, lai và hiện tại
Các Phật ba đời nói
Tâm lượng Địa thứ bảy
Không thật có thứ tám
Hai địa gọi là Trụ
Phật địa gọi Tối thắng
Tự giác trí và tịnh
Đây tức là địa ta
Chỗ Tự tại tối thắng
Thanh tịnh mầu trang nghiêm
Chiếu sáng như lửa mạnh
Ánh sáng soi khắp nơi
Sáng lòa chẳng hư mắt
Xoay vần hóa ba cõi
Hóa ba cõi hiện tại
Hoặc có khi trước hóa
Nơi kia giảng nói thừa
Đều là Như lai địa
Thập địa tức là sơ
Sơ tức là Địa thứ tám
Đệ cửu tức thứ bảy
Thất cũng lại là bát
Thứ hai là thứ ba
Thứ tư là thứ năm
Thứ ba là thứ sáu
Không có thứ lớp gì”.

Tám câu đầu, trước chung sau riêng. Riêng là đệ Địa thứ bảy vẫn giữ gìn tâm lượng, Địa thứ tám thì không thật có, y cứ hai địa này phân biệt rõ gọi là Trụ. Trụ nghĩa là y chỉ. Địa thứ tám tuy không thật có nhưng vẫn còn định trụ, chỉ Phật địa là tối thắng. Tự giác trí và tịnh v.v… các bài kệ tụng đều nói Như lai địa, chẳng hư mắt, là nói ánh sáng của Như lai tuy chiếu soi khắp nơi, nhưng khác với ánh sáng điện chớp làm hại mắt người, xoay vần khắp nơi. Nghĩa là Như lai xoay vần hóa độ ba cõi, lập ra giáo hóa vô cùng hóa độ chung cả ba đời, trước là chỉ thời quá khứ. Thừa tức là Đại thừa, Tiểu thừa. Nói Thập địa là Địa thứ nhất v.v… là do không thứ lớp hiển bày viên dung kia. Rốt ráo mà nói là vắng lặng, chân như có địa vị thứ lớp gì cho nên nói không có thứ lớp gì.

64. Chỗ chứng chẳng phải thường chẳng phải vô thường

“Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác là thường hay vô thường? Phật bảo Đại Tuệ: Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, nghĩa là cả hai đều có lỗi. Nếu thường thì có lỗi làm chủ về thường, tất cả ngoại đạo nói tác giả, không có sở tác. Cho nên Như lai thường, vô thường, chẳng phải tác, thường có lỗi. Nếu Như lai vô thường thì có lỗi tác vô thường, sở tướng của ấm thì tướng vô tánh, ấm hoại thì lẽ ra dứt, mà Như lai chẳng phải dứt”. Ở trước nói thường, vô thường rất nhiều, mà chưa nói rõ pháp của Như lai chứng là thường hay vô thường, nói theo lý, thì điều nói ở trước đâu phải ngoài điều này, nếu không nói riêng về hoặc thì mê muội, cho nên lại vì người chưa hiểu mà thưa hỏi. Trong đây đáp, trước là chỗ chứng chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, vì lý sở chứng kia dừt trăm phi, lìa cả các lỗi, khác với vọng chấp của ngoại đạo kia cho nên nói song phi (bác bỏ cả hai). Nếu cho rằng thường, vô thường thì cả hai đều có lỗi. Nếu Như lai là thường thì đồng với ngoại đạo chấp thần ngã là thường của năng tác. Chủ tức là thần ngã, mà Như lai nói thường là vô sở tác, cho nên thường mà chẳng thường, chẳng phải cái thường do kia tạo tác mà có lỗi. Nếu Như lai vô thường là có sở tác, đồng với năm ấm là có tướng sở tướng; tướng kia vô tánh nên ấm hoại đáng lẽ dứt, nhưng thường của Như lai thì chẳng dứt.

65. Tất cả những gì làm ra đều vô thường:

Này “Đại Tuệ! Tất cả sở tác đều vô thường, như bình, y…tất cả đều là lỗi vô thường, bậc Nhất thiết trí đầy đủ phương tiện nên ứng với vô nghĩa, vì là sở tác nên tất cả sở tác đều phải là Như lai, vì không có nhân tánh khác nhau. Cho nên Này Đại Tuệ! Như lai chẳng phải thường, chẳng phải vô thường”. Nói tất cả sở tác như bình, y… đều qui về vô thường, thì nói lên chỗ tu phước trí của Như lai đều không vô ích. Nếu đồng sở tác thì tất cả hữu tác lẽ ra đều phải là Phật. Đầy đủ nghĩa là đầy đủ phước đức trang nghiêm. Không có nhân tánh khác nhau, nghĩa là Phật và các pháp sở tác là đồng thì chẳng có nhân tánh riêng, cho nên tổng kết nói, v.v…

66. Như lai là thường:

“Lại nữa Này Đại Tuệ! Như lai chẳng phải như hư không là thường. Như hư không thường thì tự giác Thánh trí có các lỗi vô nghĩa. Này Đại Tuệ! Thí như hư không chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, lìa thường, vô thường, một, khác, đồng, chẳng đồng. Thường, vô thường đều có lỗi nên không thể nói, vì thế Như lai là phi thường. Lại nữa Này Đại Tuệ! Nếu Như lai vô sinh là thường, như sừng thỏ, sừng ngựa… vì vô sinh là thường nên phương tiện vô nghĩa. Bởi vô sinh là thường thì có lỗi nên Như lai phi thường. Lại nữa Này Đại Tuệ! Còn có các việc khác biết Như lai là thường. Vì sao? Vì đã được trí Vô gián thường nên Như lai là thường”. Nói Như lai chẳng phải như hư không là thường v.v… Kinh Nhập Lăng-già chép: Nếu là thường thì lẽ ra như hư không, không đợi nhân thành, nhưng tự giác Thánh trí chính là kiết quả do Như lai tu đức, hiển bày thì không phải là lỗi. Lại nói thí như hư không chính là nói lên bác bỏ cả hai, lìa các cú, cho nên không thể nói thường. Lại nữa, nếu là thường thì là vô sinh, như sừng thỏ, sừng ngựa xưa nay bất sinh thì không có nghĩa phương tiện lợi ích chúng sinh, cho nên nói Như lai phi thường. Lại nữa, còn có các việc khác biết Như lai là thường, như trên nói chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, là y theo tánh đức viên lìa, nhưng Như lai xứng tánh viên chứng cũng được nói là thường, nói đã được trí Vô gián, là trí rốt ráo thỉ giác vô ngại.

67. Có Phật hay không Phật thì tánh tướng vẫn thường trụ:

Này “Đại Tuệ! Hoặc Như lai, ra đời hoặc không ra đời, pháp cũng quyết định trụ, Thanh văn, Duyên giác, chư Phật Như lai Vô gián trụ, chẳng trụ hư không, người ngu chẳng thể hay biết. Này Đại Tuệ! Trí Như lai chứng được là do Bát-nhã huân, chẳng phải tâm, ý, ý thức các ấm, giới, nhập xứ huân. Này Đại Tuệ! Tất cả ba cõi đều là do vọng tưởng sinh ra chẳng thật, Như lai chẳng từ tưởng luống dối không thật sinh ra. Này Đại Tuệ! Do hai pháp nên có thường, vô thường, chẳng phải không hai, không hai là vắng lặng, vì tất cả pháp không hai tướng”. Nếu Như lai ra đời v.v… Đây là nói pháp tánh, Như lai chứng có Phật hay không Phật tánh tướng vẫn thường trụ, lý này cùng khắp, không xen hở phàm Thánh, cho nên nói Vô gián trụ. Nói chẳng trụ hư không là nói lên thường trụ, chỉ vì phàm phu mê muội nên không biết. Trí do Như lai chứng được v.v… là trí của tu đức, toàn tánh được Bát-nhã huân phát, khác với tâm thức của chúng sinh là ấm, giới, nhập v.v… sở huân. Lại nói rằng Như lai khác với ba cõi từ vọng tưởng sinh, cho nên từ công đức chân thật sinh ra. Nói hai pháp: Là hai pháp luống dối sinh và chân thật sinh, nhưng trong pháp luống dối tuy nói thường, vô thường chưa hiển thật lý, đều thuộc về vô thường, lý chân thật rốt ráo của Như lai, lý vốn chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Chỉ nói thường là ý nói nghiêng ý về viên, nhưng pháp thường mà Như lai chứng tức là vô thường, đó là không thông đạt ý chỉ này. Lời nói phân biệt có thường, vô thường, cho nên nói chẳng phải không hai. Nhưng không hai, tức là lý vắng lặng. Xét về tất cả các pháp đều đầy đủ lý không hai, cho nên nói không có hai tướng sinh.

68. Thật lý mà Như lai chứng đắc vốn lìa vọng tưởng nói năng hữu vô:

“Cho nên Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác chẳng phải thường, chẳng phải không thường. Này Đại Tuệ! Cho đến lời nói phân biệt sinh thì có lỗi thường, vô thường. Phân biệt giác diệt thì lìa kiến chấp thường, vô thường của kẻ ngu chẳng được vắng lặng, trí tuệ lìa hẳn sự huân xông của thường vô thường, chẳng phải thường vô thường”. Ở đây nói thật lý mà Như lai chứng đắc vốn lìa vọng tưởng lời nói hữu vô, có liên quan đến lời nói phân biệt thì rơi vào lỗi hai bên. Phân biệt giác diệt thì tức đường lời nói bặt, chỗ tâm hành diệt, đạt đến đây là lìa các lỗi, do nên nói lìa hẳn thường vô thường. Nói phi thường vô thường huân, do phân biệt hai thứ phi cũng là ác kiến, nếu lìa phân biệt thì sở huân cũng lìa.

69. Đức Phật nói kệ để lặp lại nghĩa trên:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

Các vật đều vô nghĩa
Sinh lỗi thường, vô thường
Nếu không phân biệt giác
Lìa hẳn thường vô thường
Từ tông sở lập này
Có ra các nghĩa tạp
Bình đẳng tự tâm lượng
Lời nói không thật có?

Các thứ vô nghĩa v.v… nghĩa là còn mê muội tu đức chưa hiển hiện, đều rơi vào lỗi thường, vô thường. Nếu không còn phân biệt thì lìa hai bên đến chỗ vắng lặng. Từ đó mà lập tông, nghĩa là ngoại đạo chấp thường, và bảy thứ vô thường đều là tà kiến, cho nên nói có các nghĩa tạp. Nếu dùng trí Phật… quán sát tự tâm hiện lượng, khế hợp với thật lý, thì tất cả phân biệt lời nói đều không thật có.

 

LĂNG-GIÀ A-BẠT-ĐA-LA BẢO
KINH CHÚ GIẢI

QUYỂN 4
(Phần 2)

1. Pháp ấm giới nhập có mê có hiểu:

“Khi ấy, Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin Đức Thế tôn lại nói cho con nghe về sự sinh diệt của ấm giới nhập, kia không có ngã thì cái gì sinh, cái gì diệt? Kẻ ngu y theo sinh diệt, chẳng biết khổ hết, chẳng biết Niết-bàn. Phật bảo: Lành thay! Lành thay! Hãy lắng nghe! Ta sẽ nói. Đại Tuệ bạch Phật: xin vâng thọ giáo”: Ấm, giới, nhập sinh diệt, văn trước có nói, mà Đại Tuệ lại có thỉnh, ý nói pháp ấm, giới, nhập có mê có hiểu: do hiểu nên kia không có ngã, thì cái gì là sinh, diệt? Vì mê nên kẻ ngu nương vào sinh diệt, chẳng biết khổ hết, chẳng biết Niết-bàn, thì làm sao thoát khỏi sinh tử cho được!

2. Như lai tạng là nhân thiện bất thiện:

“Phật bảo Đại Tuệ: Như lai tàng là nhân lành, không lành, có công năng sinh khởi sự tạo tác tất cả đường sinh, thí như cô đào hát biến hiện các đường lìa ngã, ngã sở. Vì chẳng giác kia nên ba duyên hòa hợp phương tiện mà sinh. Ngoại đạo chẳng giác chấp là tác giả. Vì từ vô thỉ thói quen luống dối xấu ác huân tập gọi là tàng thức. Sinh ra vô minh trụ địa đi chung với bảy thức, như thân sóng biển, thân thường sinh chẳng dứt, lìa lỗi vô thường, xa lìa ngã luận thì tự tánh không nhỏ rốt ráo thanh tịnh”. Trong đây đáp, nói Như lai tạng là nhân lành không lành. Như lai, nghĩa là lý tánh Như lai, hiện ra nhất niệm đầy đủ gọi là tàng. Căn trần nhất niệm tâm khởi theo duyên nhiễm tịnh, nhiễm tức vô minh, theo nhiễm duyên vô minh, thì đó là sinh tử trong chín cõi, tịnh tức giáo hạnh, theo tịnh duyên giáo hạnh, thì gọi là bốn chủng đạo diệt. Bốn chủng: tức sinh diệt, vô sinh, vô lượng, vô tác, cho nên nói đó là nhân lành, không lành. Nhân ắt cảm quả. Nói tất cả đường sinh tức quả báo thiện ác trong mười cõi. Thí như trở xuống: Thí dụ trên, pháp do tùy duyên tạo ra vốn lìa hai ngã, như cô đào hát nương vào chú thuật cho nên biến hiện các thứ hình tượng, đâu có chấp hai ngã. Nói ba duyên, đó là căn, trần, thức; căn trần hòa hợp nhất niệm tâm khởi. Do bất giác cho nên tùy theo duyên nhiễm, chỉ tạo hoặc nghiệp mà thành sinh tử trong chín cõi, ngoại đạo kia do bất giác nên vọng chấp tạo tác, do thói quen xấu huân tập từ vô thỉ, gọi là Thức tạng, bảy thức chuyển sinh không gọi trụ địa, ban đầu do vô minh khởi, từ cội gốc sinh ra cành lá vô minh, cho nên dụ rằng như sóng biển, thân thường sinh chẳng dứt, đây là theo nhiễm duyên từ tế đến thô. Nếu có thể nhất niệm soi chiếu trở lại, thuận theo tịnh duyên thì lìa lỗi vô thường và hai chấp ngã, tự tánh thanh tịnh, nên nói rằng tánh đức Như lai rốt ráo hiển hiện.

3. Các thức có sinh có diệt:

“Các thứ khác có sinh có diệt. Ý, ý thức v.v… niệm niệm có bảy, vì vọng tưởng chẳng thật nên chấp các cảnh giới, các thứ hành xứ chấp chặt danh tướng, chẳng giác sắc tướng do tự tâm hiện, chẳng giác khổ vui, chẳng đến giải thoát, các thứ danh tướng trói buộc, tham sinh rồi sinh tham, hoặc nhân hoặc phan duyên, các thọ căn kia diệt, thứ lớp chẳng sinh. Còn tự tâm vọng tưởng chẳng biết khổ vui, nhân diệt thọ tưởng, chánh thọ thiền thứ tư”. Đây là nói các thức có sinh có diệt. Các thức: là ý thức và ý ý thức, cùng năm ý thức trước, đó gọi là bảy thức, chẳng phải thứ bảy của Nhị thừa thức. Do niệm niệm mà khởi, khởi thì đồng thời. Vì vọng tưởng chẳng thật, nghĩa là sáu thức chấp cảnh. Các thứ hình xứ là sáu trần. Căn, trần đã hình thành thì chấp đắm danh tướng, do không biết sắc v.v… do tự tâm hiện nên sinh khổ lạc thọ, xoay vần sinh tử không do đâu giải thoát, danh tướng trói buộc từ tham khởi tham. Nhân và sở duyên nương tựa lẫn nhau đều gọi là sinh tướng. Các thọ kia trở xuống ấy gọi là diệt tướng, nghĩa là thọ căn và tưởng hành.. thứ lớp bất sinh, chỉ còn tự tâm vọng tưởng, nghĩa là tâm thọ tưởng diệt, tức định diệt tận, hoặc thiền thứ tư.

4. Ấm, giới, nhập đâu phải là chẳng diệt:

“Người khéo tu hành chân đế giải thoát, nghĩ là giải thoát, chẳng lìa chẳng chuyển gọi là Như lai tàng thức, bảy thức trôi lăn chẳng diệt. Vì sao? Vì kia do phan duyên mà các thức sinh, chẳng phải cảnh giới của Thanh văn, Duyên giác tu hành, chẳng giác vô ngã, tự tướng, cộng tướng, nhiếp thọ sinh ấm, giới, nhập. Thấy Như lai tàng thì năm pháp, ba tự tánh, người pháp vô ngã sẽ diệt”. Khéo tu hành chân đế giải thoát v.v… là hạnh tu của Thanh văn, đối với diệt định này nghĩ là giải thoát, chẳng phải rốt ráo diệt. Chẳng lìa chẳng chuyển v.v… Kinh Nhập Lănggià chép: Mà thật chưa xả, chưa chuyển tên gọi tàng thức trong Như lai tàng. Nếu không có tàng thức thì bảy thức diệt, do chẳng chuyển chẳng diệt nên thức thứ bảy thức thứ sáu, làm nhân và phan duyên mà sinh, là cảnh giới mà những người tu theo hai thừa chẳng thể biết được. Vì kia chỉ biết tánh của người vô ngã, đối với ấm giới nhập thì chấp tự tướng và cộng tướng. Nếu thấy Như lai tàng thì năm pháp, ba tự tánh đều vô ngã tướng, đâu phải ấm giới nhập là chẳng diệt.

5. Nếu không có tên gọi thức tàng thì chuyển vọng thức thành Như lai tàng:

“Địa thứ lớp nối nhau chuyển tiến, các kiến chấp ngại đạo không thể làm nghiêng động, đó gọi là trụ Bồ-tát bất động địa, được mười thứ Tam-muội đạo môn lạc, do Tam-muội giác gia trì, quán sát Phật pháp không thể suy nghĩ, bàn luận tự nguyện chẳng thọ môn Tam-muội lạc và thật tế, hướng đến tự giác Thánh thú, chẳng tu hành chung với tất cả Thanh văn, Duyên giác và các ngoại đạo, được mười chủng tánh đạo và thân trí ý sinh của hiền Thánh, lìa hạnh Tam-muội. Cho nên Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát muốn cầu thắng tiến phải thanh tịnh Như lai tàng và tên gọi thức tàng”. Do trước ngộ nhập được dự vào Địa thứ nhất thứ lớp tăng tiến, đến địa vị đạo đức cao sâu không bị tà kiến ngoại đạo làm lay động, đến đệ Bát Bất động địa; ở địa vị này được mười môn Tammuội lạc, được năng lực Tam-muội của các Đức Phật che chở, Giác tức là Phật, là có khả năng quán sát pháp và năng lực bổn nguyện của các Đức Phật, khác với Tiểu thừa đắm vui Tam-muội mà không trụ mé thật, tức sinh khởi giáo hóa làm lợi lạc chúng sinh, đạt được tự chứng trí, đâu đồng với sự tu hành của phàm phu Tiểu thừa. Được mười chủng tánh đạo của hiền Thánh, tức chủng tánh của bậc Thánh thập địa. Thập địa đều là Thánh, nói bao gồm cả hiền, nghĩa là đối với các vị đạt đến địa vị cùng tột mà nói. Và thân trí ý sinh, nghĩa là nương Thập địa mà đạt đến Phật địa, Thân là pháp thân, trí tức là báo thân, ý sinh là hóa thân. Đã được ba thân, lìa nhân hạnh Tam-muội, cho nên khuyên bảo rằng: Muốn thắng tiến đến địa vị Như lai thì phải thanh tịnh Như lai tàng và tên gọi thức tàng. Như lai tàng vốn không thể làm cho thanh tịnh, phải làm thanh tịnh cấu bẩn. Thức tàng dùng danh ngôn, do quên Như lai tàng chuyển thành vọng thức, không có tự thể riêng, chỉ có danh, nếu không có tên thức tàng thì chuyển vọng thức thành Như lai tàng.

6. Như lai tàng vốn không sanh diệt:

Này “Đại Tuệ! Nếu không có tên gọi thức tạng thì Như lai tạng bất sinh diệt. Này Đại Tuệ! Nhưng các phàm Thánh đều có sinh diệt. Người tu hành tự giác Thánh thú hiện trụ pháp lạc, chẳng bỏ phương tiện. Này Đại Tuệ! Như lai tàng, thức tàng này, tất cả Thanh văn, Duyên giác tâm tưởng được thấy, tuy tự tánh thanh tịnh mà bị khách trần che đậy nên còn thấy bất tịnh, chẳng phải các Như lai. Này Đại Tuệ! Như lai, là cảnh giới hiện ra, như xem trái A-ma-lặc trong lòng bàn tay”. Như lai tàng vốn bất sinh diệt, nay đã vốn không thì có gì mà sinh diệt. Nhưng các phàm Thánh đều có sinh diệt, phàm nghĩa là ngoại phàm nội phàm, phàm tức Thập tín, nội phàm tức Thập trụ Thập hạnh, Thập hướng, cũng gọi là Hiền. Thánh là Thập địa. Thánh cũng có sinh diệt, tuy có thể tu hành được con đường của bậc Thánh tự giác, nhưng còn ở trong nhân vị, chưa lìa khỏi biến dịch sinh tử. Nói không bỏ phương tiện: 1. Tự thực hành phương tiện tăng trưởng đạo hạnh. 2. Phương tiện giáo hóa làm lợi ích chúng sinh. Cả hai đều có nghĩa sinh diệt. Như lai tàng này v.v… Kinh Nhập Lăng-già chép: Như lai tàng thức tàng này bản tánh thanh tịnh vì bị khách trần phiền não làm nhơ nên bất tịnh, tất cả hai thừa và ngoại đạo, so lường khởi kiến chấp, không thể hiện chứng. Như lai đối với điều này hiện thấy rõ ràng như thấy trái A-ma-lặc trong lòng bàn tay.

7. Thuyết của Như lai vốn không nhờ chứng:

Này “Đại Tuệ! Ta đối với nghĩa này dùng thần lực dựng lập, giúp cho phu nhân Thắng-man và các Bồ-tát trí sáng đầy đủ… Tuyên dương giảng nói Như lai tàng và thức tàng, gọi là bảy thức sinh cùng lúc. Thanh văn chấp đắm, thấy người pháp vô ngã, cho nên phu nhân Thắng-man nương oai thần Phật nói cảnh giới Như lai, chẳng phải cảnh giới Thanh văn, Duyên giác và các ngoại đạo. Như lai tàng và Thức tàng là chỉ cho cảnh giới Phật và các Bồ-tát có trí tuệ sắc bén y nơi nghĩa. Cho nên ông và các Đại Bồ-tát đối với Như lai tàng thức tàng phải siêng tu học, đừng chỉ nghe biết mà khởi tướng biết đủ”. Ta đối với trở xuống là chỉ cho kinh Đức Phật ngày trước nói làm chứng. Thuyết của Như lai vốn không nhờ chứng, chỉ vì đối với kinh kia đã từng nói rộng, cho nên ở đây nói lược để chỉ bày. Kinh Nhập Lăng già chép:ta cùng phu nhân Thắngman và các Bồ-tát trí tuệ sâu mầu nói Như lai tàng và tên gọi thức tàng cùng thức thứ bảy sinh cùng lúc, giúp cho các Thanh văn thấy pháp vô ngã, cho nên Phu nhân Thắng-man, v.v… trở xuống văn nói có thể thấy. Nói đừng chỉ nghe biết mà nghĩ là biết đủ, là nói Như lai tàng và thức tàng là cảnh giới Phật chẳng phải ba tuệ đầy đủ, chẳng thể hiểu được, nên khuyên bảo tu học, là do ý này.

8. Đức Phật nói kệ để lặp lại nghĩa trên:

“Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

Như lai tàng sâu kín
Đi chung với thức thứ bảy
Hai thứ nhiếp thọ sinh
Người trí xa lìa hẳn
Như gương bóng hiện tâm
Thói quen vô thỉ huân
Như người thật quán sát
Các sự đều vô sự
Người ngu thấy chỉ trăng
Nhìn tay chẳng nhìn trăng
Người chấp chặt danh tự
Chẳng thấy Ngã chân thật
Tâm là cô đào hát
Ý như người hòa nhạc
Năm thức là bè bạn
Vọng tưởng xem chúng hát”.

Bài tụng trên đây nói Như lai tàng đi chung với thức thứ bảy cho đến do hai thứ tự tướng, cộng tướng nhiếp thọ thì sinh ấm giới nhập, đây là theo vọng duyên. Nếu trái với vọng thì thấy được Như lai tàng, được xa lìa sinh tử. Như gương bóng hiện tâm v.v… như dụ trên nói, nghĩa là thể tánh của thức thứ tám xưa nay không có vật, do thói quen xấu từ vô thỉ huân, chuyển sinh các thức v.v… như gương hiện hình bóng, xứng tánh mà thấy, thấy đi hư thì bóng mất. Lại dùng ngón tay chỉ mặt trăng, để dụ giả danh thật pháp có được có mất. Nếu không thể quên lời khế hợp với lý, thì cũng như nhìn ngón tay mà không thấy mặt trăng. Tâm nghĩa là Như lai tạng tâm, tùy duyên khắp tạo như sự hóa hiện của cô đào hát. Ý tức ý căn, lại khởi ý thức, thức khởi thiện ác, như người đánh đàn hay, năm thức chấp trần, ý thức đồng khởi, đó gọi là bè bạn. Vọng tưởng phân biệt như thấy cô đào hát.

9. Tổng kết chỉ bày các tướng như thú nhập v.v…

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin Ngài nói về tướng năm pháp, tự tánh thức, hai thứ vô ngã, phân biệt rốt ráo, con và các Đại Bồ-tát khác đối với tất cả địa thứ lớp nối nhau, phân biệt pháp này vào tất cả Phật pháp, cho đến Như lai tự giác địa. Phật bảo Này Đại Tuệ! Lắng nghe! Lắng nghe! Hay khéo suy nghĩ. Đại Tuệ: bạch Phật: xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: năm pháp, tự tánh thức, hai thứ vô ngã phân biệt thú tướng, đó là: Danh tướng, vọng tưởng, chánh trí, như như. Nếu người tu hành, tu hành nhập vào Như lai tự giác Thánh thú, lìa các kiến chấp đoạn thường, hữu vô, v.v… hiện pháp lạc chánh thọ trụ hiện ở trước. Này Đại Tuệ! Chẳng giác năm pháp, tự tánh thức, hai vô ngã, tự tâm hiện ngoại tánh, làm phàm phu vọng tưởng, chẳng phải các bậc hiền Thánh” Năm pháp v.v… ở trên tuy đã nói nhưng chưa từng y theo các địa phân biệt. Sở dĩ nêu bày kia, là nhập vào tất cả Phật pháp, đến Như lai địa, cho nên lại thưa hỏi. Trong đây đáp, trước hết nêu chung năm pháp và tướng mê ngộ, nghĩa là người tu hành nhập vào Như lai tự giác Thánh thú thì năm pháp chung cho tướng ngộ, cho nên nói nếu người tu hành v.v… nếu trái lại là chẳng giác biết thì năm pháp chung cho tướng mê, cho nên nói chẳng giác năm pháp kia v.v… đó là biết pháp không có tự tánh, mê ngộ là do người. Ở đây còn tổng kết chỉ bày các tướng thú nhập v.v… thấy đủ trong văn sau.

10. Căn cứ vào pháp phàm phu để chỉ bày tướng mê:

“Đại Tuệ Bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Thế nào là kẻ ngu vọng tưởng sinh, chẳng phải các bậc Thánh hiền? Phật bảo Đại Tuệ: Kẻ ngu chấp đắm tục số danh tướng, tùy tâm trôi giạt. Trôi giạt rồi sinh các thứ tướng mạo, rơi vào các kiến chấp ngã, ngã sở, hy vọng, chấp đắm sắc đẹp, chấp đắm rồi không biết che đậy, cho nên sinh nhiễm đắm. Nhiễm đắm rồi nghiệp tham sân si chứa nhóm. Chứa nhóm rồi hy vọng tự trói, như tằm làm kén, rơi xuống biển sinh tử, các chỗ hoang vắng, như bánh xe quay nước. Vì kẻ ngu không thể biết tự tánh như huyễn, ngựa nắng, trăng đáy nước, tự tánh lìa ngã, ngã sở, khởi tất cả vọng tưởng chẳng thật, lìa năng tưởng, sở tưởng và sinh trụ diệt, từ tự tâm vọng tưởng sinh, chẳng được tự tại, thời tiết, hạt bụi nhỏ thắng diệu sinh. Phàm phu ngu si rơi vào dòng danh tướng”. Trong phần nêu lên để thích, y cứ riêng danh tướng vọng tưởng, y theo pháp phàm phu để chỉ bày tướng mê, nghĩa là nương sáu trần v.v… danh tướng tục số, khởi các phân biệt. Tâm kia trôi giạt theo vọng, rơi vào kiến chấp ngã, ngã sở, hy vọng chấp đắm các sắc, làm ngăn che Thánh trí, khởi tham sân si, gây ra các nghiệp, như tằm làm kén, vọng tưởng tự trói buộc, rơi xuống biển lớn sinh tử các đường. Như trên là nói tướng mê không ra khỏi ba đường, văn nêu rõ có thể thấy. Như tằm làm kén là dụ cho tự trói buộc. Như bánh xe quay nước, là dụ luân hồi sinh tử: Như ngựa nắng giả huyễn, v.v… là dụ không biết tánh huyễn, lìa ngã ngã sở; khởi tất cả vọng tưởng chẳng thật v.v… nghĩa là danh tướng khởi các vọng tưởng, vọng tưởng vốn chẳng thật, khởi các huyễn tướng, huyễn tướng vốn luống dối lìa năng tướng sở tướng, cũng chẳng có sinh trụ diệt thật có, thì trở về tự tâm mà thôi. Thật chẳng phải tự tại v.v… do tà nhân sinh ra, phàm ngu không biết, vọng chấp cảnh bên ngoài, rơi vào các dòng danh tướng trôi giạt.

11. Giải thích lại hai pháp danh tướng:

Này “Đại Tuệ! Tướng kia là chỗ chiếu soi của nhãn thức gọi là sắc, chỗ soi của tai, mũi, lưỡi, thân, ý, ý thức gọi là thanh, hương vị, xúc, pháp, đó gọi là Tướng. Này Đại Tuệ! Vọng tưởng kia lập ra các danh, nói lên các tướng, như đây chẳng khác, các tên gọi voi ngựa, xe cộ, nam nữ… ấy gọi là vọng tưởng. Này Đại Tuệ! Chánh trí là danh tướng kia không thật có, cũng như khách đi qua, các thức chẳng sinh, chẳng đoạn, chẳng thường, không rơi vào chỗ tất cả ngoại đạo, Thanh văn, Duyên giác”. “Tướng kia v.v… là tìm giải thích hai pháp danh tướng, không ra ngoài sáu thức, chấp sáu trần kia. Danh là tên. Sở thủ là tướng. Hiển hiện lập bày các danh tướng là vọng tưởng. Các tên như Voi ngựa, v.v… dùng các tên này để nói lên tướng kia. Danh tướng đã lập nghĩa là việc này chắc chắn như thế chẳng khác, đó gọi là vọng tưởng phân biệt”. Trên đã nói ba pháp thuộc phàm phu. Chánh trí trở xuống là y theo pháp Thánh hiền để nói rõ tướng ngộ. Danh tướng không thật có, nghĩa là muốn cầu chánh trí, nhưng ngộ danh tướng chẳng thật, giống như khách đi qua. Thức tâm chẳng khởi, xa lìa đoạn thường, không rơi vào cảnh giới của phàm phu Tiểu thừa, đó gọi là chánh trí.

12. Nói về như như:

Lại nữa Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát do rằng chánh trí này chẳng lập danh tướng, chẳng phải không lập danh tướng, lìa bỏ hai kiến chấp dựng lập và chê bai, biết danh tướng chẳng sinh, ấy gọi Như như. Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát trụ như như ấy được cảnh giới không thật có, nên chứng Hoan hỷ địa Bồ-tát. Được Hoan hỷ địa Bồ-tát rồi, lìa hẳn tất cả cõi ác ngoại đạo, chánh trụ chỗ xuất thế gian thú pháp tướng thành thục, phân biệt tất cả pháp như huyễn, v.v… tự giác pháp thú tướng, lìa các vọng tưởng, kiến chấp quái lạ dị tướng, thứ lớp đến Pháp vân địa. Trong khoảng giữa đó nhờ năng lực Tam-muội tự tại thần thông khai mở, được Như lai địa rồi, các thứ biến hóa chiếu soi thị hiện thành thục chúng sinh, như trăng đáy nước, rốt ráo tròn đầy mười câu vô tận, vì các thứ ý giải của chúng sinh mà phân biệt nói pháp, pháp thân lìa ý tạo tác, đó gọi là Bồ-tát, nhập sở đắc như như: Đoạn này nói rõ như như. Do trước chánh trí quán sát danh tướng chẳng phải có chẳng phải không nên nói không lập, chẳng phải không lập, xả bỏ hai bên hữu vô, không rơi vào hai thứ chê bai tổn hại hay lợi ích, tất cả danh tướng chẳng sinh, đó gọi là nghĩa như như. Bồ-tát trụ như như… chính là nêu rõ tướng như như chứng đắc. Đã nói Như như thì đâu có đắc ư! Là dùng vô đắc mà đắc, đắc pháp tự tha nhân quả. Nói cảnh giới không thật có là lìa tướng hai bên không hữu, do đó mà lên đến Hoan hỷ địa, tức Địa thứ nhất của Biệt giáo. Không lìa mà lìa, lìa tất cả đường ác của ngoại đạo, vô trụ mà trụ, trụ vào đường chánh xuất thế gian, vô phân biệt mà phân biệt, hiểu rõ tất cả pháp thảy đều như huyễn, không chứng mà chứng, chứng tự giác pháp thú, cũng lìa các vọng tưởng thấy tánh khác tướng, tức năng kiến, sở kiến. Văn trước nói rằng tướng kiến đều lìa. Như thế thứ lớp đến Pháp Vân địa, do năng lực Tam-muội… và các công đức, do khai pháp đến Như lai địa, vì chúng sinh nên hiện khắp sắc thân, như trăng đáy nước, thành tựu đầy đủ mười vô tận nguyện, tùy theo ý giải của chúng sinh mà nói pháp chọ họ nghe, thân kia thanh tịnh, lìa tâm ý thức, đó gọi là tướng như như sở đắc.

13. Nói năm pháp thì nghĩa của ba tự tánh ở trong đó:

“Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Tại sao Thế tôn nói ba thứ tự tánh vào năm pháp, là mỗi thứ có tự tánh tông ư? Phật bảo Đại Tuệ: Ba thứ tự tánh và tám thức, hai thứ vô ngã đều vào năm pháp. Này Đại Tuệ! Danh và tướng kia là vọng tưởng tự tánh. Này Đại Tuệ! Nếu y vọng tưởng kia sinh tâm và tâm pháp thì gọi là sinh cùng lúc, như mặt trời và ánh sáng đi chung với nhau, các thứ tướng mỗi tướng phân biệt giữ gìn riêng, đó gọi là duyên khởi tự tánh. Này Đại Tuệ! Chánh trí như như không thể làm hư hoại nên gọi là thành tự tánh”. Trên đã nói rõ năm pháp thì nghĩa của ba tự tánh ở trong đó, nay trước sau hội nhiếp, cho nên lại thưa hỏi, ngoài sự nhiếp nhập thì mỗi thứ đều có tự tướng tông ư! Trong đây đáp, trước đáp tổng nhập rất dễ hiểu, tiếp theo phối hợp riêng pháp tướng. Ban đầu dùng danh tướng đối vọng tưởng, từ chỗ nhân mà nói, do vọng tưởng kia lại thuộc về nhân duyên, là từ chỗ sinh khởi. Nếu nương vọng tưởng sinh tâm, tâm pháp: là nói tâm vương tâm sở nương phân biệt mà khởi, khởi là cùng lúc, như mặt trời cùng ánh sáng không lìa bỏ nhau, phân biệt các tướng tự giữ gìn, danh kia mỗi mỗi không khác nhau, đó gọi là duyên khởi tự tánh. Chánh trí như như đều chẳng phải hữu tác cho nên không thể hoại, đó gọi là viên thành tự tánh. Ấy gọi là ba tự tánh nhập vào trong năm pháp.

14. Năm pháp được xếp vào tám thức:

“Lại nữa Này Đại Tuệ! Tự tâm hiện vọng tưởng tám thứ phân biệt. Nghĩa là tướng thức tàng, ý, ý thức và năm thức thân, tướng chẳng thật vì vọng tưởng. Hai thứ nhiếp thọ ngã và ngã sở diệt thì hai vô ngã sinh. Cho nên Này Đại Tuệ! Năm pháp này Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Như lai tự giác Thánh trí, các địa nối nhau thứ lớp, tất cả Phật pháp đều vào trong ấy”. Ở đây nói năm pháp được xếp vào trong tám thức, nơi tự tâm hiện mà khởi vọng tưởng, có tám thứ phân biệt, đều là tướng luống dối chẳng thật. Nếu lìa được hai thứ ngã chấp thì năng sở nhiếp thọ đều diệt, hai vô ngã trí do đó mà sinh, tức chánh trí như, như là tri. Thức v.v… tuy khác đồng nhưng đều quy về năm pháp, không có tự tướng tông riêng để nói. Nhưng năm pháp này, tức ba thừa cùng Phật và tất cả các pháp đều vào trong ấy.

15. Lại nêu danh giải thích nghĩa:

“Lại nữa Này Đại Tuệ! Năm pháp là tướng, danh, vọng tưởng, như như, chánh trí. Này Đại Tuệ! Nếu nơi chốn, hình tướng, sắc tượng v.v… hiện, đó gọi là tướng. Nếu kia có tướng như thế gọi là bình v.v… thì cái này chẳng phải cái khác, đó gọi là Danh. Lập bày các danh hiển bày các tướng như bình v.v… tâm, tâm pháp, đó gọi là vọng tưởng. Danh kia, tướng kia rốt ráo không thật có. Từ đầu đến cuối chẳng giác, đối với các pháp không xoay vần, lìa vọng tưởng chẳng thật, đó gọi là Như như. Chân thật quyết định rốt ráo tự tánh không thật có, kia là như tướng, ta và các Đức Phật thuận theo nhập xứ, khắp vì chúng sinh như thật giảng nói lập bày hiển hiện, đối với kia tùy nhập chánh giác, chẳng đoạn chẳng thường, vọng tưởng chẳng khởi, thuận theo tướng tự giác Thánh thú là tướng, mà tất cả ngoại đạo Thanh văn, Duyên giác không đạt được, đó gọi là chánh trí. Này Đại Tuệ! Đó gọi là năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai thứ vô ngã, tất cả Phật pháp đều vào trong đó. Cho nên Này Đại Tuệ! Phải tự phương tiện học, cũng dạy bảo người, chớ theo người khác: Đoạn này lại nêu danh giải thích nghĩa, lại tự một đường, về đại thể thì đồng, chỉ khác về chi tiết tất cả đều như vậy. Trước tướng sau danh không ra ngoài danh thật, xen lẫn có trước có sau. Còn cả hai chẳng đồng, là trước y theo tự hành cho nên trước trí sau như, ở đây bao gồm hóa độ chúng sinh nên trái với thứ lớp kia, cho nên nói ta và các Đức Phật thuận theo nhập xứ, là như như. Khắp vì chúng sinh như thật giảng nói… là chánh trí. Cho nên biết văn này bao gồm tự tu hành và giáo hóa chúng sinh. Trong đây nói tướng, nghĩa là các hình dáng nhìn thấy như sắc, v.v… đều khác nhau. Danh: là y vào các tướng kia mà đặt tên bình… do danh tướng này nên có tâm, tâm sở các thứ phan duyên, đó gọi là Vọng tưởng. Hiểu rõ danh tướng rốt ráo chẳng thật có, chỉ do tâm mê xoay vần phân biệt, như thế quán sát lìa các vọng tưởng, đó gọi là như như. Chân thật quyết định v.v… là chỉ rõ lại tướng như, nêu bày các Đức Phật nhập xứ, y nơi tự chứng như thật giảng nói chẳng đoạn chẳng thường, phàm phu Tiểu thừa chấp nghiêng về tà không thể chứng đắc nên gọi là Chánh trí. Lại nói rằng: Tất cả Phật pháp đều vào trong ấy, là y theo nghĩa thu nhiếp lẫn nhau, tổng kết chung bốn thứ, cho nên khác với trên, khuyên bảo rằng: Phải tự học và dạy bảo người, lại nói chớ theo người, nghĩa là chớ để cho danh tướng xoay chuyển.

16. Đức Phật nói kệ để lặp lại nghịa trên:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng: “Năm pháp, ba tự tánh Và cùng tám thứ thức. Hai thứ không có ngã

Đều thuộc về Đại thừa
Danh tướng tưởng luống dối
Tự tánh hai thứ tướng
Chánh trí và như như
Đó tức là thành tướng”.

Đều thuộc về Đại thừa, nghĩa là bốn pháp trên đều thuộc về tất cả pháp Đại thừa, trái lại, tất cả các pháp cũng nằm trong bốn pháp này.

17. Chư Phật nhiều như số cát sông Hằng:

“Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch phật: Bạch Đức Thế tôn! Như Đức Thế tôn đã nói câu “Chư Phật quá khứ nhiều như cát sông Hằng, vị lai, hiện tại cũng giống như thế”. Thế nào Thế tôn, như lời dạy mà tin nhận, hay lại có nghĩa khác? Cúi xin Như lai thương xót giải thích”: Chư Phật ba đời nhiều như cát sông hằng, kinh dạy rất nhiều, số lượng các Đức Phật quả như đã nói mà tin nhận hay là có nghĩa riêng ư! Cho nên lại thưa hỏi rằng:

18. Dựng lập để giáo hóa người:

“Phật bảo Đại Tuệ: chớ như lời dạy mà tin nhận, số lượng các Đức Phật ba đời chẳng phải nhiều như cát sông hằng. Vì sao? Vì quá chỗ mong cầu của thế gian, chẳng phải năng thí dụ và sở thí dụ, do phàm ngu chấp thường, ngoại đạo vọng tưởng, nuôi lớn ác kiến, sinh tử không cùng, muốn làm cho nhàm chán vòng sinh tử, siêng năng thắng tiến, nên nói với họ các Đức Phật dễ thấy, chẳng phải như hoa ưu-đàm-bát khó thấy được. Dứt phương tiện cầu, có khi lại xem các người được hóa độ mà nói như vầy: Phật khó được gặp như hoa ưu-đàm-bát. Hoa ưuđàm-bát không ai đã thấy, hiện thấy, sẽ thấy. Như lai thế gian đều thấy, vì chẳng do sự lập ra tự thông nên nói rằng: Như lai ra đời như hoa ưuđàm-bát. Này Đại Tuệ! Người tự lập ra tự thông quá sự hy vọng của thế gian. Những người phàm ngu kia không thể tin cảnh giới tự giác Thánh trí, không dùng cái gì thí dụ được. Chân thật Như lai quá hơn tướng tâm ý, ý thức thấy được, không thể làm ví dụ. Này Đại Tuệ! Nhưng ta nói thí dụ Phật nhiều như cát sông Hằng không có lỗi lầm”. Trong đây đáp, trước hết chỉ ra chỗ chẳng đúng. Bởi số lượng các Đức Phật hơn cát sông Hằng, cũng quá tâm lượng hy vọng của thế gian, cho nên chẳng có năng thí dụ và sở thí dụ, đâu đợi hằng sa mà thôi, vì phàm phu lập ra thí dụ nghĩa chẳng phải một đường. Như phàm phu kia chưa được hóa độ, sinh tử không cùng, Phật nói cho họ nghe các Đức Phật dễ thấy, chẳng phải như hoa ưu-đàm, giúp cho họ bất sinh nhàm chán, lui sụt, tưởng dứt phương tiện vọng cầu kia mà tiến cầu Phật đạo, dùng khó hiển bày dễ để tiến lên. Có khi quán các người được hóa độ mà nói rằng: Phật khó gặp như hoa ưu-đàm, giúp cho họ vui mừng, kính mến mà hướng về đạo, do đó mà sách tấn. Lại nói rằng hoa ưu-đàm khó thấy, không ai đã thấy, hiện thấy, sẽ thấy, nhưng Như lai đối với người thế gian đều đã thấy, cho nên biết Như lai như hoa ưu-đàm, thật nghĩ là là người khó gặp. Nhưng hai thí dụ nói khó nói dễ này, đều là hóa dụng bên sự của Như lai, chẳng phải cảnh giới tự chứng của Như lai, cho nên nói không dùng lập ra tự thông. Nếu luận về tự chứng thì thế gian không ai bằng, chẳng thể ví dụ được, tất cả phàm ngu không thể tin nhận, cũng chẳng phải tâm, ý, ý thức thấy biết được. Nhưng có khi dựng lập giáo hóa người, đâu có lỗi gì!

19. Như lai không có tâm phân biệt thương ghét:

Này “ Đại Tuệ! Thí như cát sông Hằng, tất cả cá trạnh, thâu-thu, ma-la, sư tử, voi ngựa, người thú dẫm đạp, cát chẳng nghĩ rằng kia não loạn ta mà sinh vọng tưởng, tự tánh thanh tịnh không có các nhơ nhớp. Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác, tự giác Thánh trí là sông Hằng, đại lực thần thông tự tại là cát. Tất cả ngoại đạo, các người, thú v.v… là tất cả não loạn, Như lai chẳng nghĩ mà sinh vọng tưởng. Như lai lặng lẽ không có nghĩ tưởng, bản nguyện của Như lai là dùng cái vui Tam-muội để làm cho chúng sinh an vui, không có não loạn, ví như cát sông Hằng không có khác nhau. Lại vì dứt bỏ tham sân. “Hằng sa các vật vô tình ở thế gian, tuy là cá trạnh, người thú… dẫm đạp cũng bất sinh niệm não loạn, để dụ cho Như lai Thánh trí thần thông tự tại, bị các ngoại đạo người thú não loạn, mà bất sinh ra nghĩ tưởng, vì năng lực bổn nguyện của Như lai là làm lợi lạc an vui cho chúng sinh, không có phân biệt thương ghét. Thâu-thu ma-la, Hán dịch là sát tử ngư ( cá sấu).

20. Tánh cát chẳng hư hoại dụ cho pháp thân Như lai thường trụ:

“Thí như cát sông Hằng là tự tánh của đất này, khi kiếp tận lửa cháy, cháy tất cả đất mà mặt đất kia chẳng bỏ tự tánh với hỏa đại đồng sinh. Những kẻ ngu khác nghĩ là đất bị cháy mà đất không cháy, vì là nhân của lửa. Cũng thế, Này Đại Tuệ! Như lai pháp thân như cát sông Hằng chẳng hư hoại”: Ở đây nói tánh cát chẳng hư hoại, là dụ cho pháp thân Như lai thường trụ. Nói tự tánh của đất có sự có lý, nói về sự tức là đồng một tánh cứng cho nên gọi là cát hay đá. Về lý thì cùng một chân tánh cứng ướt ấm động, cho nên khi kiếp tận lửa hết mà tánh của đất tự như vậy. Vì đất với lửa đồng sinh, kẻ ngu không biết thấy đó cho là lửa cháy. Lửa là nhân, vì đất không có lửa thì không cháy, lửa không có đất thì không nối nhau. Đất không thể cháy được, pháp thân Như lai không thay đổi cũng giống như vậy.

21. Như lai lìa phần đoạn và biến dịch vì nhân duyên hữu lậu, vô lậu đều dứt:

Này “Đại Tuệ! Thí như cát sông Hằng không có hạn lượng, ánh sáng Như lai cũng giống như thế, không có hạn lượng, vì thành thục chúng sinh nên soi khắp tất cả các Đức Phật đại chúng. Này Đại Tuệ! Thí như cát sông Hằng mà tìm cát khác thì không bao giờ được. Cũng thế Này Đại Tuệ! Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác bất sinh tử, sinh diệt, vì có nhân duyên nên dứt vậy”. Tiết này ý nói cát sông Hằng không có hạn lượng, ví như ánh sáng Như lai vô lượng chiếu soi khắp nơi. Nói tìm cát khác không bao giờ được, là dụ nói Như lai lìa hai món sinh tử là phần đoạn và biến dịch, vì nhân duyên hữu lậu vô lậu đều dứt.

22. Như lai dùng trí phương tiện thành thục chúng sanh nhưng thể pháp thân chẳng thêm chẳng bớt:

Này “Đại Tuệ! Thí như cát Hằng thêm bớt không thể biết được, cũng như thế, Này Đại Tuệ! Trí tuệ của Như lai thành thục cho chúng sinh chẳng thêm chẳng bớt, vì chẳng phải pháp thân. Pháp thân là có hoại, pháp thân Như lai chẳng phải loại pháp thân này”. Ở đây dụ Như lai dùng trí phương tiện mà thành thục chúng sinh, nhưng đối với thể pháp thân chẳng thêm chẳng bớt, không đồng với sắc thân có sinh có diệt. Thân pháp là sắc thân.

“Như ép cát sông Hằng thì không thể ra dầu được. Cũng thế, tất cả chúng sinh dùng điều cực khổ ép ngặt Như lai, cho đến chúng sinh chứng được Niết-bàn, chẳng bỏ pháp giới, tự Tam-muội nguyện lạc, do có tâm đại bi”: Cát bụi không có dầu, dụ cho Như lai tuy bị chúng sinh dùng các khổ ép ngặt, cho đến những người không biết gì hết, chưa Niết-bàn mà muốn bỏ thâm tâm nguyện lạc cũng không thể được, dùng tâm đại bi thành thục chúng sinh đầy đủ.

23. Như lai nói tất cả các pháp thuận theo Niết-bàn:

Này “Đại Tuệ! Thí như cát sông Hằng theo nước trôi đi, chẳng phải không có nước. Cũng thế này Đại Tuệ! Tất cả các pháp do Như lai nói theo dòng Niết-bàn, cho nên nói như cát sông Hằng. Như lai không trôi theo các pháp, vì đi là nghĩa hoại. Này Đại Tuệ! Mé gốc sinh tử không thể biết, không biết thì làm sao nói đi? Này Đại Tuệ! Đi là nghĩa đoạn, mà kẻ ngu chẳng biết” Cát sông Hằng trôi theo dòng, người ngu chỉ thấy cát trôi mà không thấy nước. Nếu dùng trí quán sát thì chẳng phải không có nước. Đây là ví dụ Như lai nói tất cả các pháp thuận theo Niết-bàn cũng như thuận dòng mà chẳng phải nghĩa đi, cho nên nói Như lai không trôi theo các dòng, nghĩa là đối với pháp mà ngộ tánh, không bị xoay chuyển theo tướng, cho nên khác với dòng trôi, vì đi là nghĩa sinh tử hoại diệt, mé gốc sinh tử v.v… Kinh Nhập Lăng-già chép: Mé gốc sinh tử không thể biết được; đã không thể biết làm sao nói đường? Này Đại Tuệ! Đường nghĩa là đoạn, phàm phu chẳng biết đường tức là đi.

24. Tổng kết nêu bày giải thích thành tựu:

Này “Đại Tuệ! Bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Nếu chúng sinh mé gốc sinh tử không thể biết, thì làm sao biết được giải thoát? Phật bảo Này Đại Tuệ! Do thói quen vọng tưởng lỗi ác từ vô thỉ luống dối được dứt thì, tự tâm hiện, biết nghĩa bên ngoài, vọng tưởng thân chuyển mà giải thoát chẳng diệt. Cho nên vô biên, chẳng phải đều không thật có, vì vọng tưởng kia khởi vô biên tên khác. Quán sát trong ngoài lìa bỏ vọng tưởng không khác chúng sinh, tri và sở tri, tất cả pháp đều vắng lặng. Chăng biết tự tâm hiện vọng tưởng nên vọng tưởng sinh, nếu biết thì diệt”. Sinh tử giải thoát lý bản tế… làm sao một bên rất dễ hiểu một bên không thể biết? Trong đây đáp, nói luống dối từ vô thỉ v.v… chính là lý do giải thoát. Nói do tự tâm hiện nên biết cảnh bên ngoài, thì vọng tưởng thân chuyển tức là giải thoát. Vọng tưởng đã chuyển tức là giải thoát thật chẳng diệt, chẳng diệt thì trùm khắp tất cả mọi nơi, cho nên nói vô biên. Thể đã vô biên nên nói chẳng phải đều không thật có. Vì vọng tướng kia v.v… Nói vọng tưởng chuyển xứ kia khởi danh giải thoát vô biên v.v… Gọi là chuyển thể mà không chuyển cho nên nói tên khác. Quán sát trong ngoài, là do trước dùng tự tâm hiện kiết nghĩa bên ngoài, thì bên ngoài không có tướng bên ngoài, trở lại dùng này chiếu soi nội tâm thì trong ngoài như một, lìa bỏ vọng tưởng chỉ có một chân như, không còn pháp nào khác, cho nên nói không khác chúng sinh. Trí và tri chướng hoàn toàn không đối đãi, cho nên các pháp thảy đều vắng lặng. Chẳng biết tự tâm hiện, là lặp lại tổng kết nêu bày giải thích thành tựu. Vọng tưởng sinh diệt này đều do tự tâm biết và chẳng biết mà thôi! Nếu biết tự tâm vọng thì không gì không diệt, nhưng có nói biết mà vọng chẳng diệt, thì đó chưa gọi là biết chân thật.

25. Đức Phật nói kệ để lặp lại nghĩa trên:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

“Quán sát các Đạo sư
Giống như cát sông Hằng
Chẳng hoại cũng chẳng đi
Cũng lại không rốt ráo
Ấy tức là bình đẳng
Quán sát các Như lai
Giống như cát sông Hằng…
Đều lìa tất cả lỗi.
Theo dòng mà tánh thường
Ấy là Phật chánh giác”.

Bài tụng Bất hoại ở trên dụ cho pháp thân thường trụ. Chẳng đi là dụ do Như lai nói pháp chẳng bị trôi theo các dòng. Cũng lại chẳng rốt ráo, nghĩa là dùng chẳng hoại, chẳng đi quán sát Như lai, thì chưa gọi là rốt ráo. Phải quán các Đức Phật giống như cát sông Hằng bình đẳng không khác, lìa các lỗi lầm. Lại nói theo dòng mà tánh thường, nghĩa là thuận theo dòng rốt ráo Niết-bàn, đó gọi là chánh giác chân thường.

26. “Khi ấy, Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: 

Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin nói cho con nghe tướng hoại trong từng sát-na của tất cả các pháp. Bạch Đức Thế tôn! Thế nào là sát-na của tất cả các pháp? Phật bảo Này Đại Tuệ! Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghĩ, ta sẽ nói cho ông nghe. Phật bảo Đại Tuệ: Tất cả pháp, nghĩa là lành, không lành, vô ký, hữu vi, vô vi, thế gian, xuất thế gian, có tội, không tội, hữu lậu, vô lậu, thọ, chẳng thọ”. Sát-na là thời gian rất ngắn, niệm là rất nhỏ nhiệm. Như nói người tráng sĩ trong khoảng thời gian búng ngón tay có sáu mươi mốt sát-na, cho nên dùng tâm niệm sanh diệt không dừng làm sát-na, lại lấy tính chất vô thường biến hoại của vật làm sát-na, đó đều là thức tướng luống dối của chúng sinh. Trên nói vọng tưởng thân chuyển, là nói ấm v.v… vô thường, cho nên nêu tướng hoại trong sát-n của các pháp làm câu hỏi. Trong đây đáp, trước là nêu tên tất cả pháp, sau là giải thích.

27. Nói lược về tâm, ý, ý thức và thói quen:

Này “Đại Tuệ! Lược nói tâm, ý, ý thức và thói quen, ấy là do năm thọ ấm, tâm, ý, ý thức thói quen ấy nuôi lớn: phàm ngu vọng tưởng lành, không lành”: Nói lược là đối với đoạn dưới nói rộng. Tâm thức, thói quen là nhân sinh tử, năm ấm là quả sinh tử. Do không hiểu rõ tâm thức thói quen ấy nuôi lớn, cho nên có ba cõi, sáu phàm hữu lậu vọng tưởng sát-na, lành, không lành tức ba điều lành và ba điều ác.

Này “Đại Tuệ! Tu về Tam-muội lạc, Tam-muội chánh thọ, hiện pháp lạc trụ gọi là hiền Thánh thiện vô lậu”: Tu Tam-muội v.v… tức nhân quả vô lậu. Nhân tâm muội là quả pháp lạc trụ, đây là pháp vô lậu của hiền Thánh ba thừa. Vô lậu tức là lìa niệm sát-na.

28. Nói rộng tướng sát-na chẳng phải sát-na:

Này “Đại Tuệ! Lành, không lành nghĩa là tám thức, tám thức gồm những gì? Nghĩa là Như lai tàng tên tàng thức, tâm ý, ý thức và năm thức thân, chẳng phải điều ngoại đạo nói. Này Đại Tuệ! Năm thức thân đi chung với tâm, ý, ý thức. Tướng lành, không lành xoay vần biến hoại, nối nhau trôi chảy, chẳng hoại thân sinh, vừa sinh vừa diệt. Chẳng giác tự tâm hiện, thứ lớp diệt, thức khác sinh. Hình tướng khác nhau, nhiếp thọ ý thức, năm thức đều tương ưng sinh. Thời gian sát-na chẳng dừng gọi là sát-na”. Lành, không lành trở xuống là nói rộng tướng sátna chẳng phải tướng sát-na, danh tuy lại nêu, nghĩa thì chung chỉ bày. Như lai tàng gọi là thức tàng, tức thức thứ tám, thức này cho đến danh tướng năm thức vượt ra ngoài chánh giáo, cho nên nói phẳng phải ngoại đạo nói. Nói năm thức thân, chính là nói tướng sát-na. Tâm, ý, ý thức đi chung tức là năm thức như mắt, v.v… cùng tâm, ý, thức đồng thời chấp cảnh, có tướng lành, không lành, hoặc thứ lớp khởi, hoặc xen lẫn khởi, cho nên nói lần lượt biến hoại nối nhau trôi chảy, giữa căn cảnh chưa bắt đầu gián đoạn. Bất hoại là bất đoạn. Thân sinh là năm thức thân sinh. Có sinh tức có diệt cho nên nói vừa sinh vừa diệt, do chẳng biết các cảnh tự tâm hiện nên chấp hình tướng khác nhau, niệm niệm khởi diệt, cho nên nói thứ lớp diệt các thức sinh, nhiếp thọ ý thức, do năm căn xen lạm năm trần thức trở về ý thức, khởi thiện khởi ác, cũng do ý thức đồng thời chấp cảnh mà khởi phân biệt, cho nên nói tương ưng sinh, thời gian sát-na chẳng dừng là nói các thức diệt khởi không dừng, không nơi đây thì nơi kia, không có thời gian tạm dừng, đó gọi là tướng sát-na.

29. Rơi vào chấp đoạn, chẳng phải Niết-bàn vô lậu nên gọi là hoại pháp vô vi:

Này “Đại Tuệ! Sát-na ấy gọi Thức tàng. Như lai tàng, ý câu sinh thức là thói quen sát-na, còn thói quen vô lậu chẳng phải nghĩa sát-na, phàm phu chẳng giác biết được. Vì chấp đắm sát-na luận nên không giác tất cả pháp sát-na chẳng phải sát-na, rồi khởi chấp đoạn hoại pháp vô vi”. Sát-na v.v… là lặp lại tổng kết trước, khởi sau. Hai thứ tướng này tuy chung nương các thức mà sinh khởi, nhưng chỗ nghe thì riêng, cho nên gọi là Thức tàng… đó là vì các thức từ thói quen thức là sát-na. Từ thói quen vô lậu là chẳng phải sát-na. Đã là vô lậu vẫn gọi là thói quen, nghĩa là thể của nó là thức thứ bảy chấp tưởng vẫn còn. Tuy chẳng phải sát-na, nhưng chưa gọi là rốt ráo chân thường vô lậu, chính là cảnh giới của Thánh hiền ba thừa, cho nên nói phàm phu chẳng giác biết được. Phàm ngu chấp đắm tạo ra sát-na luận, chẳng những phải không giác biết chẳng phải sát-na, mà còn cũng không tự biết kia là sát-na. Đo chấp đoạn, nghĩa là phàm phu, ngoại đạo khổ hạnh vọng chấp Niếtbàn, đây là rơi vào chấp đoạn, chẳng phải Niết-bàn vô lậu nên gọi là hoại pháp vô vi.

30. Phân biệt thức thứ bảy và Như lai tàng:

Này “Đại Tuệ! Thức thứ bảy chẳng trôi lăn, chẳng chịu khổ vui, chẳng phải nhân Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Như lai tàng chịu khổ vui cùng đi chung với nhân, hoặc sinh hoặc diệt. Bị bốn trụ địa và vô minh trụ địa làm mê say, phàm ngu bất giác, sát-na bị vọng tưởng huân tâm”. Thức thứ bảy chẳng trôi lăn là nương vào nghĩa vô lậu ở trên, đối với thức thứ sáu, thứ tám phân biệt có khác nhau, vì biết người hai thừa đây đã dứt kiến hoặc, tư hoặc không còn trôi lăn trong ba cõi, không còn chịu khổ vui sinh tử, cho nên khác với thức thứ sáu, chẳng phải nhân Niết-bàn cho nên khác với thức thứ tám, vì thức thứ tám thọ huân có khả năng thành nhân Niết-bàn. Như lai tàng chính là nói thức thứ tám, nó có khả năng bao gồm cả thiện ác, theo duyên trôi lăn sinh tử, nhân quả khổ vui. Bốn trụ địa, là vô minh cành nhánh. Vô minh trụ địa là vô minh gốc rễ. Do vô minh này say mê nên thọ hai thứ sinh tử, phàm ngu vọng tưởng huân tâm không thể biết được nên khởi kiến chấp sát-na.

31. Phật đáp câu hỏi về sát-na:

“Lại nữa Này Đại Tuệ! Như vàng, kim cương, xá-lợi Phật có tính chất kỳ lạ đặc biệt không bao giờ làm tổn hoại được. Này Đại Tuệ! Nếu được Vô gián mà có sát-na thì Thánh lẽ ra chẳng phải bậc Thánh. Nhưng Thánh không hề chẳng phải Thánh, như kim cương tuy trải nhiều số kiếp mà cân lượng chẳng giảm bớt. Tại sao phàm ngu chẳng rõ lời nói ẩn chứa của ta, đối với tất cả pháp trong ngoài nghĩ là sátna?”. Như lai vốn đáp câu hỏi về sát-na. Sát-na thì có tổn hoại, mà lại dùng bất khả tổn hoại để nói, bời vi mê thì đó là sát-na, ngộ thì chẳng phải sát-na, dụ như kim cương… tinh chất cứng chắc trong vàng, vì trăm lần luyện khoáng thì chất bã lắng xuống, chỉ còn hoàn toàn nguyên chất vàng, vật không thể hoại được, nó là tánh đặc biệt ở thế gian này. Lại dụ xá-lợi Phật do muôn hạnh huân tu, cấu nhiễm đều sạch hết, chỉ một tánh thuần nhất chân thật không gì phá hoại được, đây là tánh đặc biệt xuất thế gian. Chân thường mà Như lai chứng được cũng giống như vậy, cho nên nói nếu được Vô gián mà có sát-na v.v… Phật bảo: ta dùng Vô gián Tam-muội chứng đắc chân thường, đâu có sát-na. Nói Thánh lẽ ra chẳng phải Thánh, xét rằng bậc Thánh chưa từng có lý chẳng phải Thánh, thì biết đã ngộ chẳng mê, kia không sát-na rõ ràng, cho nên nói kim cương tuy trải qua nhiều số kiếp mà cân lượng chẳng giảm bớt, tại sao phàm phu không hiểu lời bí mật đó, đối với tất cả pháp nghĩ là sátna. Ẩn chứa là bí mật.

32. Đại Tuệ nương theo sáu độ mà thưa hỏi:

“Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Như Thế tôn nói sáu pháp Ba-la-mật đầy đủ thì được thành Chánh giác, Sáu pháp ấy là gì?”. Sát-na sinh diệt là sự sinh tử bờ bên này. Chân thường bất hoại là lý Niết-bàn bờ bên kia, từ bờ bên này mà qua đến bờ bên kia. Do sát-na mà rốt ráo chân thường là công đức của sáu độ kia, cho nên Đại Tuệ nương theo đó mà thưa hỏi.

33. Ba-la-mật:

a) Ba-la-mật thế gian: “Phật bảo Đại Tuệ: Ba-la-mật có chia ra ba thứ: Thế gian, xuất thế gian, xuất thế gian thượng thượng. Này Đại Tuệ! Thế gian Ba-la-mật là ngã và ngã sở nhiếp thọ chấp đắm, nhiếp thọ hai bên, là chỗ các thứ thọ sinh, ưa sắc, thanh, hương, vị, xúc nên đầy đủ bố thí Ba-la-mật, giới, nhẫn, tinh tấn, thiền định, trí tuệ cũng giống như thế, phàm phu thần thông và sinh Phạm thiên”. Trong đây đáp, nói sáu độ có ba thứ: ban đầu nói sáu độ thế gian, là nói ngã, ngã sở nhiếp thọ chấp đắm v.v… nghĩa là phàm phu tu kia mắc bốn lỗi, có chỗ gọi là chấp ngã, ngã sở, tức là không có niệm độ sau: 1. chấp đắm hai bên, thì không thể thấu đạt lý trung đạo đến bờ bên kia; 2. vì cầu quả báo tốt đẹp thì không tránh khỏi sinh từ; 3. ưa đắm sáu trần thì chẳng phải không trụ tướng mà bố thí; . Ngoại đạo được năm thần thông và sinh Phạm thiên, cũng do tu sự vô lậu sáu độ mà được.

b) Ba-la-mật xuất thế gian: “Đại Tuệ! Ba-la-mật Xuất thế gian, là Thanh văn, Duyên giác rơi vào nhiếp thọ Niết-bàn, hành sáu Ba-la-mật thích tự mình được vui Niết-bàn”. Đây là chỗ tu của người hai thừa, chỉ nương bốn đế, mười hai nhân duyên, thực hành sáu độ này. Nói rơi vào nhiếp thọ Niết-bàn, chỉ vì tự độ mà ưa thích lý chân không, khác với chỗ tu của Bồ-tát.

c) Ba-la-mật xuất thế gian thượng thượng: “Xuất thế gian thượng thượng Ba-la-mật, là giác tự tâm hiện lượng, vì vọng tưởng nhiếp thọ và tự tâm là hai, nên chẳng sinh vọng tưởng. Đối với các đường không có phần nhiếp thọ tự tâm sắc tướng không chấp đắm, vì an vui tất cả chúng sinh khởi bố thí Ba-la-mật. Khởi phương tiện thượng thượng, duyên vào vọng tưởng kia chẳng sinh là giới, ấy là trì giới Ba-la-mật. Tức đối với vọng tưởng kia chẳng sinh là nhẫn, biết năng nhiếp, sở nhiếp, ấy là nhẫn nhục Ba-la-mật. Đầu hôm, giữa đêm và gần sáng, tinh tấn phương tiện. Tùy thuận phương tiện tu hành, vọng tưởng chẳng sinh, ấy là Tinh tấn Ba-la-mật. Vọng tưởng diệt hết, chẳng rơi vào nhiếp thọ Niết-bàn của Thanh văn, ấy là thiền định Ba-la-mật. Tự tâm vọng tưởng chẳng phải tánh, trí tuệ quán sát chẳng rơi vào hai bên, thân trước càng thù thắng không thể hoại, được tự giác Thánh thú, đó là Bát-nhã Ba-la-mật”.

Đây là hạnh tu của viên đốn của Bồ-tát. Nhiếp thọ nghĩa là sáu căn nhiếp thọ sáu trần và tự tâm là hai. Tu bố thí độ trị san tham, năng trị sở trị là hai. Bồ-tát Đại thừa đã giác rõ các pháp duy tâm hiện. Cái gọi là không trụ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà thực hành bố thí thì năng trị, sở trị hai mà không hai. Hai không hai cho nên thể của ba luân là không, nên nói rằng chẳng sinh vọng tưởng, năng thí không, chẳng nhiếp thọ năng thọ không, không chấp đắm sắc tướng, vật sở thí không. Bồ-tát thực hành bố thí như vậy là làm lợi lạc tất cả chúng sinh, cho nên nói thượng thượng phương tiện. Tức là đối với duyên kia v.v… nghĩa là đem tâm lành tu bố thí, đối với giữ giới v.v… cũng vọng tưởng chẳng sinh, mỗi mỗi xứng tánh mà giữ giới; như vậy mà trì giới thì chẳng giữ chẳng phạm; như vậy mà an nhẫn thì không trái, không thuận; như vậy mà tinh tấn thì có gì là siêng năng, có gì là biếng nhác; như vậy mà tu thiền thì không định, không loạn; như vậy mà thực hành Bát-nhã thì không ngu si, không trí tuệ, tự nhiên chẳng phải tức là hai bên, chẳng phải lìa hai bên, an trụ trung đạo vượt thẳng qua bờ bên kia, đó gọi là tướng thượng thượng Ba-la-mật. Trong nhẫn nói biết năng nhiếp, sở nhiếp tức là năng thủ sở thủ tự tánh đều không. Trong tinh tấn nói hai thứ phương tiện: 1. Tướng riêng, nghĩa là tụng kinh v.v… 2. Tướng chung, nghĩa là bao gồm năm độ đều phải tinh tấn mà thực hành. Trong thiền độ nói chẳng rơi vào nhiếp thọ Niết-bàn của Thanh văn, nghĩa là định lực Thanh văn thiên lệch rất nhiều và ưa đắm Niết-bàn, Bồ-tát thì không như vậy, mà sáu độ đều nói vọng tưởng chẳng sinh, hoặc nói đều diệt, hoặc nói chẳng phải tánh, vậy thì sáu độ tuy khác mà do lìa vọng làm gốc, nếu lìa vọng thì hạnh gì mà không thành. Thân trước càng cao quý không thể hư hoại, nghĩa là sáu độ tăng tiến cho đến Bát-nhã, được thân trí tuệ, chuyển biến thù thắng năm thức trước, không thể phá hoại, được tự giác Thánh thú, đạt đến trí Bát-nhã, vì thế ba phẩm tuy chung cho trung hạ mà ý thật ở nơi thượng thượng, người tu phải nên phân biệt rõ.

34. . Đức Phật nói kệ để lặp lại nghĩa trên:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nói kệ rằng:

“Không vô thường sát-na
Kẻ ngu vọng tưởng làm
Như sông, đèn, hạt giống
Mà nghĩ là sát-na
Sát-na dứt phiền loạn
Vắng lặng lìa chỗ làm
Tất cả pháp chẳng sinh
Ta nói nghĩa sát-na”.

Như lai thường thí dụ như dòng sông, như hạt giống, như đèn… phá vọng tưởng tác pháp hữu vi kia đều là không, vô thường, sát-na, phàm phu không hiểu rõ lời nói ẩn chứa này, mà khởi sát-na vọng tưởng. Sátna dứt phiền loạn… chính bài tụng trên nói nghĩa ẩn mật, nghĩa là hiểu rõ được sát-na, có thể dứt phiền loạn. Thể vắng lặng thì tự nhiên lìa sở tác, cho nên tất cả pháp chẳng sinh, do đó nên nói nghĩa sát-na.

35. Sinh diệt là lý thường:

“Vật sinh thì có diệt
Chẳng nói cho kẻ ngu
Tánh Vô gián nối nhau
Được vọng tưởng huân xông
Do Vô minh làm nhân
Tâm từ kia sinh ra
Cho đến sắc chưa sinh
Trung gian có phần gì?”

Vật sinh thì có diệt, cố nhiên sinh diệt là lý thường. Nếu nói cho người ngu nghe thì làm vẫn đục danh tướng, do đó phá pháp sinh diệt.

Trước là nêu bày tướng sinh làm chỗ bác bỏ, nghĩa là tánh Vô gián nối nhau, tức sát-na sinh diệt. Do vọng tưởng huân xông, vô minh làm nhân, cho nên sát-na vọng tâm từ kia mà sinh, kế là nói năng phá trung gian, đầu tiên là bác bỏ tướng sinh. Nói cho đến sắc chưa sinh v.v… nương vào tâm nói trên, tuy sinh mà sắc chưa sinh, trung gian tự không có chỗ nương, tâm này Vô Sắc mà chẳng sinh. Có phần gì? Kinh Nhập Lănggià chép: trụ ở chỗ nào?

36. Nói về sự nối nhau diệt:

“Nối nhau thứ lớp diệt
Tâm khác theo kia sinh
Khi chẳng trụ vào sắc
Duyên chỗ nào mà sinh?
Vì từ kia sinh ra
Nhân không như thật sinh
Tại sao không thành tựu
Mà biết sát-na hoại?”

Đây là nói về sự nối nhau diệt, nghĩa là sắc tuy đã sinh, mà tâm nối nhau diệt, đó là sắc tâm không đối đãi nhau, dù có các tâm theo sắc kia sinh, nhưng nếu tâm không trụ vào sắc, thì duyên vào đâu mà sinh? Vì niệm niệm không dừng mà cũng không chấp lấy, nên tâm ấy tuy có sắc cũng có tánh vô sinh. Hoặc là từ kia sinh thì tự có thể được tánh vô sinh, cho nên nói nhân không như thật mà sinh. Thứ lớp bác bỏ diệt tướng, do trên cầu sát-na thành tướng còn không thể được, huống chi có sát-na diệt tướng ư! Hoại tức là diệt. Đã phá sinh diệt thì trở lại gốc chân thường.

37. Có bốn pháp bất hoại:

“Người tu hành chánh thọ
Kim cương xá-lợi Phật
Cung điện trời quang âm
Thế gian việc chẳng hoại
Trụ nơi chánh pháp được
Như lai đầy đủ trí
Tỳ-kheo được bình đẳng
Làm sao thấy sát-na
Càn-thát-bà huyễn thảy
Sắc không có sát-na
Đối sắc chẳng thật thảy
Xem đó như chân thật”.

Bài tụng này nói có bốn pháp bất hoại:1. Tu hành được chánh định. 2. Kim cương. 3. Xá-lợi Phật. . Cung điện trời quang âm, tầng trời này ba tai chẳng phá hoại được, lại vì khi hậu kiếp mới sinh thành. Tầng trời này và Kim cương là việc chẳng hoại ở thế gian, chánh định và xá-lợi Phật là việc xuất thế gian chẳng hoại, kế là chỉ bày người có khả năng được sự chẳng hoại. Nói trụ trong chánh pháp được, nghĩa là Như lai dùng chánh trí trang nghiêm đầy đủ, Tỳ-kheo dùng bình đẳng chánh định đều do chánh pháp mà được, nhưng Kim cương và quang âm tuy gọi là bất hoại, nhưng đều là vô thường. Làm sao thấy sát-na? Bài tụng trên tổng kết, bác bỏ, nghĩa là nếu không như trên khởi kiến chấp sát-na, phải dùng lý gì thấy sát-na ư! Cho nên ví dụ như thành Càn-thátbà, nhưng huyễn sắc tất nhiên chẳng phải sát-na, mà chúng sinh đối với pháp luống dối chấp cho là thật có, vậy cũng như thấy thành Càn-thátbà là huyễn sắc mà cho là thật, chẳng phải sát-na là gì, nếu hiểu rõ sát-na vọng thì đó là chân thật.

38. Nói bày thắc mắc:

“Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Thế tôn thọ ký cho A-la-hán được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đồng với các Bồ-tát không khác nhau. Tất cả pháp chúng sinh không đến Niết-bàn thì ai đến Phật đạo? Từ khi mới thành Phật cho đến vào Niết-bàn, ở trong khoảng giữa thời gian ấy không nói một chữ, cũng không có đối đáp? Vì Như lai thường định, cũng không suy nghĩ, không xét nét, do hóa Phật hóa làm Phật sự? Vì sao nói biết tướng hoại lần lượt sát-na? Kim cương lực sĩ thường theo hộ vệ, tại sao không lập ra bản tế, mà hiện ma, nghiệp ma, quả báo nghiệp ác, chiến-già ma-nạp, con gái Tôn-đà-lợi, ôm bát không mà về, nghiệp ác chướng hiện? Tại sao Như lai được trí Nhất thiết chủng mà chẳng lìa các lỗi ấy”.

Văn này có bảy thắc mắc: 1. Hỏi thọ ký Thanh văn. 2. Từ tất cả chúng sinh cho đến không trả lời, hỏi vì sao Phật nói không nói pháp. 3. Như lai thường trở xuống là hỏi đâu đợi suy nghĩ nói pháp. . Hóa Phật trở xuống là hỏi tướng hoại sát-na. . Hỏi vì sao Kim cương lực sĩ theo hộ vệ. 6. Hỏi bản tế. 7. Hỏi chín thứ não bại, chín thứ não hại như thiên ma khởi binh, Bà-la-môn Chiến-già là cô gái dùng chậu gỗ úp trên bụng cột lại vu báng Phật tư thông với y. Tôn-đà-lợi giết con gái đem chôn trong đất chùa để vu báng Phật phạm dâm sát. Trong thôn Ba-lợina Phật khất thực ôm bát không mà về, và ăn lúa ngựa, đầu lưng đều đau đớn, gai đâm chân, hầm lửa, cơm độc, các báo hiện, đó là chín.

39. Đáp thắc mắc đầu:

“Phật bảo Đại Tuệ: Lắng nghe! Lắng Nghe! Hãy khéo suy nghĩ, ta sẽ nói cho ông nghe. Đại Tuệ bạch Phật: Lành thay! Thế tôn! Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: Vì Niết-bàn vô dư tiến lên thực hành hạnh Bồ-tát. Thế giới này và các thế giới khác những người tu hạnh Bồ-tát ưa Niết-bàn của Thanh văn thừa, vì khiến lìa Thanh văn thừa tiến, đến Đại thừa nên hóa Phật thọ ký cho Thanh văn, chẳng phải pháp Phật. Này Đại Tuệ! Do đó nên thọ ký các Thanh văn và Bồ-tát không khác. Này Đại Tuệ! Chẳng khác ấy, Thanh văn, Duyên giác, các Đức Phật Như lai, phiền não chướng dứt, một vị giải thoát, chẳng phải trí chướng dứt. Này Đại Tuệ! Trí chướng là thấy pháp vô ngã, thù thắng thanh tịnh. Phiền não chướng là thói quen trước kia, người vô ngã dứt, thức thứ bảy diệt, pháp chướng giải thoát, thức tàng thói quen diệt, rốt ráo thanh tịnh”.

Ở đây đáp thắc mắc đầu: Nói là Niết-bàn vô dư cho nên nói vân vân, quả sinh tử trói buộc dứt hết, nên gọi là vô dư, nhưng chẳng phải rốt ráo, tuy là thọ ký vẫn phải thực hành hạnh Bồ-tát, đây chính là dắt dẫn Tiểu thừa tiến lên. Lại nói: thế giới này và các thế giới khác… là nói Bồ-tát bắt đầu tu đại hạnh lại ưa quả Tiểu thừa, vì hàng Thanh văn nói thọ ký việc để sách tấn họ, cho nên nói tiến hướng đến Đại thừa. Điều này tức là ý kinh này nói thọ ký cho Thanh văn. Thọ ký Thanh văn nói trong Kinh Pháp Hoa, nay là hóa Phật quyền thọ ký, cho nên nói chẳng phải pháp Phật. Nói không khác với Bồ-tát v.v… là y theo cùng dứt hoặc chướng, giải thoát một vị mà nói như vậy, chẳng phải trí chướng dứt. Trí chướng dứt thì thấy pháp vô ngã, được cảnh giới thanh tịnh cao siêu của Như lai, chẳng phải Thanh văn. Thanh văn chỉ dứt phiền não kiến tư hoặc, thấy người vô ngã, chưa phá vô minh thấy pháp vô ngã, cho nên khác Bồ-tát. Lại nói thức thứ bảy diệt, chính là dùng thức thứ bảy thứ tám mà nói về hai chướng: có giải thoát, chưa giải thoát, Nhị thừa chỉ diệt thức thứ bảy mà pháp chướng chưa thoát. Cái gọi là chỉ lìa luống dối gọi là giải thoát. Nếu pháp chướng v.v… diệt mới gọi là rốt ráo thanh tịnh, vậy nên biết đồng khác chẳng thể xem nhẹ.

40. Đáp thắc mắc thứ hai:

“Vì pháp bản trụ trước sau chẳng có tánh”: Trong đây đáp thắc mắc thứ hai, nghĩa là pháp bản trụ không thêm không bớt cho nên trước không có Phật đạo để đắc, sau không có Niết-bàn để nhập, trung gian cũng không có pháp để nói, cho nên nói trước sau không có tánh; phi tánh là lìa tự tánh.

41. Đáp thắc mắc thứ ba:

“Vì bổn nguyện vô tận, Như lai không nghĩ không xét mà giảng nói pháp, vì dùng chánh trí giáo hóa, vì niệm chẳng vọng, nên không nghĩ không xét. Vì bốn trụ địa và vô minh trụ địa thói quen đã dứt, hai thứ phiền não dứt, thì lìa hai thứ sinh tử, giác biết người pháp vô ngã và hai chướng dứt”. Đây là đáp thắc mắc thứ ba. Như lai độ sinh thệ nguyện vô tận, không mưu cầu mà ứng, không nói mà nói, cho nên nói không nghĩ không xét, vì cuối cùng chánh trí soi chiếu khắp pháp giới, như gương hiện hình, ảnh đâu đợi suy nghĩ, sau mới nói pháp ư! Lại nói tự trụ địa… nghĩa là quả cùng tận rốt ráo, đã dứt hai chướng, đã lìa hai thứ sinh tử, đã chứng hai pháp vô ngã, chẳng lẽ không là việc làm của hóa Phật ư!

42. Đáp thắc mắc thứ tư:

Này “Đại Tuệ! Tâm, ý, ý thức v.v… có bảy là nhân thói quen sátna, lìa các điều lành vô lậu, chẳng còn trôi lăn. Này Đại Tuệ! Như lai tàng là trôi lăn là nhân khổ vui Niết-bàn, người có trí tuệ không loạn ý và phàm phu ngu si không thể giác ngộ được”. Đây là đáp thắc mắc thứ tư. Tâm ý v.v… gọi là bảy thức thân, tức một là đệ lục sự thức, mà sátna có hoại không hoại, do lời nói có khác nhau. Nếu cho rằng các thức từ nhân sát-na thói quen, thì có hoại, từ vô lậu thì không hoại, do lìa tánh kia chẳng phải sát-na nên chẳng còn trôi lăn, tức không có nghĩa hoại. Nhưng thói quen sát-na là phần của thức thứ sáu, các điều lành vô lậu là phần của thức thứ bảy. Đây là thức thứ sáu, thứ bảy đối nhau nêu rõ nghĩa hoại, chẳng hoại. Nếu y theo thức thứ bảy, thứ tám dựa vào nhau thì thức thứ bảy chấp ngã tâm tưởng chưa dứt nên sẽ hoại, chỉ có thức thứ tám không hoại, cho nên đặc biệt nói bảy ý như nhãn thức v.v…, thức thứ tám chẳng hoại. Như lai tàng là hiển bày riêng tàng thức, nghĩa là thức này đang trôi lăn nên gọi là luân chuyển, ở Niết-bàn gọi Niết-bàn, cùng chung với khổ vui mà chẳng phải như bất tịnh, vậy thì “bất tức bất ly, phi hoại bất hoại”, cho nên phàm ngu chẳng giác biết được. Không loạn là Tiểu thừa chấp không, là bị không làm loạn.

43. Đáp thắc mắc thứ năm:

“Này Đại Tuệ! Kim cương lực sĩ theo hộ vệ ấy là hóa Phật chẳng phải Như lai chân thật. Này Đại Tuệ! Chân Như lai lìa tất cả căn lượng, tất cả căn lượng phàm phu, Thanh văn, Duyên giác và ngoại đạo thảy đều diệt, được hiện pháp lạc trụ, Vô gián pháp trí nhẫn, nên chẳng phải Kim cương lực sĩ hộ vệ. Tất cả hóa Phật chẳng từ nghiệp sinh. Hóa Phật chẳng phải Phật, chẳng lìa Phật. Do thợ gốm, bánh xe v.v… chúng sinh tạo ra hình tướng mà nói pháp, chẳng phải chỗ tự thông nói cảnh giới tự giác”. Đây là trả lời thắc mắc thứ năm. Trong câu hỏi này có đối luận, biệt luận, đối luận thì Phật có chân hóa, cho nên nói người được lực sĩ hộ vệ là hóa Phật, lìa tất cả căn lượng v.v… Nói chân Phật không rơi vào pháp tự tha ấm giới nhập được hiện pháp lạc trụ, Vô gián pháp trí nhẫn, rốt ráo trụ nơi trí đoạn. Công đức pháp thân thường đi chung với định, cho nên không cần hộ vệ. Về Biệt luận, thì tuy hóa cũng không hệ vệ vì có hai ý, vì hóa nghĩa là hóa hiện, cũng là ứng. Lại nữa, không mà có gọi là Hóa, đều tùy căn cơ ứng hiện, khác với phàm phu tùy thật nghiệp mà sinh thì không đợi hộ vệ (một ý). Lại nói hóa Phật là chẳng phải Phật, chẳng lìa Phật, là từ chân thật khởi hóa, cho nên chẳng phải một, chẳng phải khác, cũng không đợi hộ vệ (hai ý). Nhưng hóa dụng phải nhờ chúng sinh, chúng sinh có tạo nên các duyên phải đầy đủ, cho nên Phật cũng dùng duyên đầy đủ mà nói pháp, nên gọi là nhân thợ gốm v.v… Chính là chấp duyên đủ nghĩa, đó tức không hộ mà hộ. Như Kim cương lực sĩ đâu chẳng phải hóa ư! Chẳng phải chỗ tự thông là khác với chân Phật, chỉ nói cảnh giới tự giác.

44. Đáp thắc mắc thứ sáu:

“Lại nữa Này Đại Tuệ! “Kẻ ngu nương bảy thức thân diệt rồi khởi lên chấp đoạn, vì tự vọng tưởng nên chẳng biết bản tế. Tự vọng tưởng tuệ diệt nên được giải thoát”. Đây là trả lời thắc mắc thứ sáu. Bản tế chẳng phải không thể lập bày, chỉ vì chúng sinh chưa thể tự vượt ra ngoài vọng tưởng, đối với bản tế có chỗ không biết, rất đỗi vọng tưởng, không thể ra khỏi chấp đoạn, chấp thường, cho nên nói kẻ ngu nương bảy thức thân diệt… Y theo sự hiểu biết của kia, vì cùng tột ngoài thức thứ bảy không hiểu biết gì, nên khởi chấp đoạn, mà không biết thức tàng vô tận, thấy niệm niệm kia nối nhau nên khởi chấp thường. Do kia tự vọng tưởng bên trong mà không đề cập đến bên ngoài cho nên không thể biết, phải đợi vọng tưởng chuyển diệt mới gọi là giải thoát tuệ diệt, là nêu lên vọng không tự diệt, phải do tuệ mà diệt.”

45. Đáp thắc mắc thứ bảy:

“Vì bốn trụ địa vô minh trụ địa thói quen dứt nên tất cả lỗi dứt”. Đây đáp thắc mắc thứ bảy. Như lai năm trụ phiền não, thói quen chính đều sạch, dứt hai thứ sinh tử, đâu còn các việc như nghiệp ma v.v…, nhưng vì chúng sinh mà phương tiện thị hiện đó thôi. Bảy câu hỏi bảy câu đáp này, nương kinh để phân chia tiết, hoặc chia làm mười, hoặc chia làm sáu, người đọc phải xem kỹ lưỡng.

46. Đức Phật nói kệ để lặp lại nghĩa trên:

“Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

Ba thừa cũng phi thừa
Như lai chẳng diệt mất
Được tất cả Phật ký
Nói lìa các lỗi ác
Vì các trí Vô gián
Và Niết-bàn vô dư
Dẫn dụ người thấp kém
Cho nên nói ẩn che
Trí mà các Phật khởi
Tức phân biệt nói đạo
Các thừa chẳng phải thừa
Kia là phi Niết-bàn
Dục sắc hữu và kiến
Nói là bốn trụ địa
Điều mà ý thức khởi
Nhà thức, chỗ ý ở
Ý và nhãn thức thảy
Đoạn diệt nói vô thường
Hoặc khởi chấp Niết-bàn,
Và vì nói thường trụ”.

Phi thừa là chẳng phải Phật thừa. Chẳng diệt mất là Phật chân thật, vì kia chẳng phải thừa nên thọ ký Nhất thừa, vì đó là Phật chân thật nên nói lìa các lỗi ác. Bài kệ này là đáp hai thắc mắc đầu và cuối gồm có hỏi đáp năm thắc mắc còn lại, bị các trí Vô gián che lấp, bài tụng này đáp ý rất dễ hiểu. Trí mà các Phật khởi, bài tụng này đáp thắc mắc thứ hai, nghĩa là từ khi bắt đầu tu đạo ngồi dưới gốc cây, đến khi chứng đắc trí, về sau tức phân biệt nói đạo. Đây là dùng nói để hiển bày không nói, chẳng gọi là không nói. Vì lời nói không tự tánh, nên ba thừa mà chẳng phải Phật thừa. Chân không Niết-bàn mà chẳng phải rốt ráo Niết-bàn, cho là không nói. Dục sắc hữu và kiến v.v… bài tụng này nói bốn trụ địa, nghĩa là hoặc kiến tư trong ba cõi chia làm bốn trụ. Ý thức trở xuống, bài tụng này đáp thắc mắc thứ sáu, nghĩa là ý do thức thứ tám mà khởi, mà thức thứ tám trụ nơi ý, cho nên gọi là nhà. Do đó mà nói tự không dung hợp vì bảy thức thân diệt thì khởi chấp đoạn. Lại nữa ý và nhãn thức v.v… ở chỗ đoạn diệt nói vô thường, hoặc khởi chấp Niết-bàn, đây đều là phàm phu, ngoại đạo tự vọng tưởng chấp, cho nên không biết bản tế. Vì vậy mà Như lai nói thường trụ.

47. Đức Phật nói kệ để pặp lại nghĩa trên:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

“Các vị Bồ-tát kia
Chí mong cầu Phật đạo
Rượu thịt hành và tỏi
Nếu ăn thì thế nào?
Cúi mong đấng Vô thượng
Thương xót giảng nói cho
Điều kẻ ngu tham đắm
Nhơ hôi không tốt đẹp
Vật cọp sói ưa thích
Làm sao mà nên ăn?
Ăn vào sinh các lỗi
Không ăn là phước lành
Cúi xin nói con nghe
Tội phước ăn, chẳng ăn”

Đức Như lai ở trong cung quỷ vương nói pháp, các dạ-xoa nghĩ rằng giờ ăn sắp đến, chẳng phải thịt thì không ăn. Đại Tuệ, vì muốn các quỷ vương sinh tâm từ, nên thỉnh Như lai nói tội lỗi ăn thịt, không ăn thịt.

48. Ngoại đạo còn không ăn thịt, chẳng lẽ Phật lại ăn thịt:

Bồ-tát Đại Tuệ nói kệ hỏi Phật rồi, lại bạch Phật rằng: Cúi xin Đức Thế tôn vì chúng con nói công đức và tội lỗi của việc ăn thịt, không ăn thịt. Con và các Bồ-tát ở đời hiện tại, vị lai, sẽ vì chúng sinh có các thứ ưa muốn ăn thịt phân biệt nói pháp, khiến chúng sinh kia từ tâm với nhau, được từ tâm rồi, mỗi người nơi trụ địa thanh tịnh sáng tỏ, chóng được rốt ráo Vô thượng Bồ-đề. Hàng Thanh văn, Duyên giác dừng nghĩ nơi địa vị của mình rồi, cũng được chóng thành vô thượng Bồ-đề. Các chúng ngoại đạo pháp ác tà luận, tà kiến đoạn thường điên đảo chấp chặt, còn có pháp ngăn không cho ăn thịt, huống là Như lai cứu giúp thế gian, thành tựu chánh pháp mà ăn thịt hay sao?

Kinh Nhập Lăng-già chép: Lộ-già-da v.v… các chúng ngoại đạo khởi kiến chấp hữu vô đoạn thường, còn có việc ngăn cấm không cho ăn thịt, huống chi Như lai là bậc Chánh đẳng giác Đại bi là chỗ chúng sinh nương nhờ mà cho phép mình và người đều ăn thịt hay sao?

49. Chúng sanh làm quyến thuộc qua lại với nhau:

“Phật bảo Đại Tuệ: Lành thay! Lành thay! Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghĩ, ta sẽ nói cho ông nghe. Đại Tuệ bạch Phật: xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: Có vô lượng nhân duyên không nên ăn thịt.

Nhưng nay ta sẽ nói sơ lược cho ông nghe: Vì tất cả chúng sinh từ trước đến nay nhân duyên xoay vần, thường làm sáu thân, vì tưởng người thân không nên ăn thịt” Kinh Nhập Lăng-già chép:: Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay ở trong sinh tử luân hồi không dứt, chẳng phải chưa hề làm cha mẹ anh em, nam nữ quyến thuộc với nhau, cho đến bạn bè thân yêu giúp đỡ lẫu nhau, nay sinh làm loài cầm thú…tại sao lại còn ăn thịt ư!

50. Không nên ăn các thức thịt:

“Thịt của các loài, lạc đà, chó, chồn, trâu, ngựa, người, thú… vì người hàng thịt bán lẫn lộn, chẳng nên ăn thịt. Do khí phần bất tịnh sinh trưởng nên chẳng được ăn thịt. Vì chúng sinh ngửi mùi thấy tanh hôi sinh sợ hãi, như Chiên-đà-la và Đàm-bà v.v… chó thấy oán ghét, sợ hãi sủa vang, chẳng nên ăn thịt”. Tiếng Phạm Chiên-đà-la, Hán dịch là đồ giả. Đàm-bà, Hán dịch Thực cẩu nhục nhân, còn gọi là lạp sư.

51. Tác hại của việc ăn thịt:

“Lại nữa, vì ăn thịt khiến người tu hành chẳng sinh từ tâm cho nên không ăn thịt. Vì kẻ phàm phu tham đắm ăn đồ hôi hám bất tịnh, không được tướng tốt, chẳng nên ăn thịt. Vì ăn thịt khiến cho chú thuật không thành tựu, chẳng nên ăn thịt. Vì người sát sinh thấy hình khởi thức, đắm trước mùi vị, chẳng nên ăn thịt, Vì người ăn thịt kia các vị trời thấy bỏ đi, chẳng nên ăn thịt. Vì khiến miệng hôi hám không nên ăn thịt. Vì nhiều ác mộng, chẳng nên ăn thịt. Vì trong chốn vắng lặng cọp sói ngửi mùi, chẳng nên ăn thịt. Vì khiến ăn uống không tiết độ, chẳng nên ăn thịt. Vì khiến người tu hành chẳng sinh thỏa mãn, không nên ăn thịt”. Ta thường nói rằng: Hễ có ăn uống thì nên nghĩ là như ăn thịt con, nghĩ là như uống thuốc, không nên ăn thịt. Vì vậy, cho phép ăn thịt thật là điều vô lý.

52. Dẫn việc xưa để chứng minh:

Lại nữa Này Đại Tuệ! Thưở xưa, có ông vua tên Sư tử Tô-đà-bà, ăn các thứ thịt cho đến thịt người, thần dân chịu không nổi liền định mưu phản, dứt hết bổng lộc. Bởi ăn thịt có các tội lỗi như thế, không nên ăn thịt.

Lại nữa Này Đại Tuệ! Các người sát sinh là vì tài lợi kẻ hàng thịt sát sinh buôn bán, những chúng sinh ngu si ăn thịt kia lấy tiền làm lưới mà bắt các thứ thịt. Người sát sinh hoặc do tài vật, hoặc dùng câu lưới bắt những chúng sinh dưới nước, trên đất, bay trên hư không, các thứ giết hại đem bán cầu lợi. Đại Tuệ ta cũng có dạy chẳng cầu chẳng tưởng mà có thịt cá. Do các nghĩa ấy, không nên ăn thịt.

“Này Đại Tuệ! Có khi ta nói cấu năm thứ thịt, hoặc cấm mười thứ thịt. Nay ở kinh này thì bất cứ thứ thịt nào, bất cứ lúc nào đều không được ăn, tất cả đều nên dứt. Này Đại Tuệ! Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác còn không có ăn, huống là ăn thịt, cũng không dạy người. Vì lòng đại bi làm trước nên xem tất cả chúng sinh ví như con một, cho nên không cho ăn thịt con”.

Trong văn nói cũng dạy không cầu không tưởng mà có thịt cá, nên đủ hai nghĩa: 1. Hàng thịt buôn bán, chẳng phải chỉ tự sát sinh mà cũng bảo người giết là giáo, vì tài lợi nên dùng câu lưới… bắt các chúng sinh kia, là cầu. 2. Thấy hình khởi thức thân sinh đắm vị, là tưởng. Kế đến bảo kẻ ngu ăn thịt chúng sinh, tuy không tự giết, nhưng do ăn thịt nên kẻ hàng thịt nổi lên mua bán, tức là nghĩa bảo giết. Dùng tiền làm lưới bắt các thứ thịt, tức là nghĩa cầu. Nghĩa tưởng giống như trên. Nhưng năm thứ thường của Nho giáo lấy nhân làm đầu. Nói rằng: câu mà không có lưới, cung tên không bắn ban đêm, không giết bào thai, không chết yểu, quân tử xa lánh nhà bếp, đều là đầu mối của lòng nhân, mà không cấm ăn thịt. Đức Phật xếp giới không giết chúng sinh là giới thứ nhất, xem con trùng nhỏ nhít không khác con mình. Vì vậy nếu không có giới thì làm hư hạt, giống từ bi, lòng nhân kia há chẳng rộng ư?

53. Đức Phật nói kệ để lặp lại nghĩa trên:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

“Đã từng làm quyến thuộc
Thịt là vật hôi tanh
Do bất tịnh nuôi lớn
Nghe mùi đều sợ hãi
Tất cả thịt và hành
Và các thứ tỏi nén
Các thứ rượu buông lung
Tu hành thường lánh xa
Cũng thường lìa dầu mè
Và các giường thủng lỗ
Vì các trùng nhỏ kia
Ở trong rất sợ hãi”.

Nói lìa dầu mè, phong tục nước ngoài đâm mè chờ đến có trùng mới lấy dầu ra ăn, như chao ủ lên men làm sao ăn được. Giường có lỗ hở có nhiều rận rệp đều không được nằm ngồi, vì có các thứ rận rệp nên khi người nằm ngồi chúng đều sinh kinh sợ.

54. Phải lìa bỏ việc ăn thịt:

“Ăn uống sinh buông lung
Buông lung sinh vọng giác.
Từ giác sinh tham dục
Cho nên không được ăn
Do ăn sinh tham dục
Tham khiến tâm say mê
Say mê lớn ái dục
Không giải thoát sinh tử
Vì lợi, giết chúng sinh.
Do tài bắt các thịt
Cả hai đều nghiệp ác
Chết đọa ngục khiếu hô
Nếu không dạy tưởng cầu
Thì không ba tịnh nhục
Kia đều do nhân có
Cho nên không được ăn
Những người tu hành kia
Do đó đều xa lìa
Các Phật khắp mười phương
Tất cả đều qưở trách
Xoay vần ăn thịt nhau
Chết sinh loài cọp sói
Hôi nhơ đáng chán ghét
Sinh đâu thường ngu si
Nhiều đời làm Chiên-đà
Giống thợ săn, Đàm-bà
Hoặc sinh Đà-di-ni
Và các tánh ăn thịt
La-sát, mèo, chồn thảy
Khắp trong đó sinh ra
Phược tượng và đại vân
Ương-quật-lợi-ma-la”.

Đà-di-ni Hán dịch la-sát nữ. Phược Tượng, Đại Vân, Ương-quậtlợi-ma-la đều là tên kinh.

“Và kinh Lăng-già này
Ta đều cấm ăn thịt
Các Phật và Bồ-tát
Thanh văn đều quở trách
Ăn rồi không hổ thẹn
Đời đời thường tối si
Trước nói thấy, nghe, nghi
Đã dứt tất cả thịt
Vọng tưởng chẳng hay biết
Nên sinh chỗ ăn thịt
Như lỗi tham dục kia
Chướng ngại giải thoát Thánh
Rượu thịt, hành tỏi, nén
Thảy đều chướng Thánh đáo
Chúng sinh đời vị lai
Đối thịt ngu si nói
Rằng thanh tịnh không tội
Phật cho chúng ta ăn
Ăn tưởng như uống thuốc
Cũng như ăn thịt con
Biết đủ sinh nhàm lìa
Tu hành hạnh khất thực
Người an trụ từ tâm
Ta thường nói nhàm lìa
Cọp sói các thú dữ
Thường ở chung với ta
Nếu ăn các máu thịt
Chúng sinh sẽ kinh sợ
Cho nên người tu hành
Từ tâm chẳng ăn thịt
Ăn thịt không từ tuệ
Thường trái chánh giải thoát
Và trái biểu tướng Thánh
Cho nên không ăn thịt
Được sinh dòng phạm chí
Và các chỗ tu hành
Nhà giàu sang trí tuệ
Đều nhờ không ăn thịt”.

55. Bồ-tát Đại Tuệ lại thỉnh Phật rũ lòng thương xót răn bảo cấm ăn thịt:

Phật nói phẩm Tâm sắp hết, Đại Tuệ lại thỉnh Phật rủ lòng thương xót răn bảo cấm rượu thịt v.v… để kết thúc. Vì Đức Phật lập ra giáo hóa, lấy một tánh bình đẳng làm gốc, lấy từ bi đồng thể làm tâm. Vì cho rằng người nhập đạo làm tông, chẳng phải trước ở nơi thanh tịnh lìa lỗi, lấy sự cứu vật độ sinh làm sự chẳng phải trên đối với tội phước nhân quả, do đó sau phần chánh tông Lăng-nghiêm có nói bốn thứ minh hối, ba thứ dần dần thứ lớp, mà trong kinh này răn bảo đầy khắp, có thể dùng so sánh lưu thông. Văn trước thỉnh răn bảo chung, kế là thỉnh răn bảo riêng. Trong phần Phật đáp có nêu đầy đủ, chẳng nên ăn thịt gồm có mười bảy duyên v.v… kế là đến nêu sự ngăn cấm ở trong chung riêng. Ban đầu nói phương tiện Tiểu giáo, hoặc chia năm thứ, đó là thấy, nghe, nghi giết… còn do tự chết hoặc khai cho ăn, hoặc chế mười thứ, nghĩa là thịt người, rắn, voi v.v… mà không đề cập các loài khác, dường như nên hứa chung, nhưng nói rất cẩn thận, chỉ nói chế ngăn mà thôi, không hề nói khai cho. Dù có nhất thời phương tiện cũng không được như thế. Kế nói kinh này khai trừ phương tiện, tất cả đều dứt, lời ấy có thể nói rất tha thiết. Nhưng Luận giả vẫn cấm ăn thịt, vì một nghi hỏi. Vì người ghi có nói rằng: Kinh này Bồ-tát không nên ăn thịt, cho nên biết vẫn còn khai trong Tiểu giáo, liền bảo rằng kinh này chỉ cấm Bồ-tát, nhưng còn Tiểu giáo thì khai cho; hoặc cho rằng người ghi chép lầm lẫn, nay nói là sai. Chính nói Lăng-già thích hợp sau bốn bộ A-hàm. Còn Tiệm Giáo nói khác với Phạm Võng đốn chế, do thấy bộ kinh này thích hợp với Phương Đẳng, như vậy mà thôi. Cái gọi tồn là riêng văn kia, đâu có cho rằng vẫn có việc ấy, vả lại còn cho là lầm nữa ư! Than ôi! Vì ngăn dứt nghiêm ngặt mà chế cấm, mà người đời còn chống trái, huống chi không răn bảo ư! Sẽ có nhiều người kiến chấp càng sâu huân tập theo nghiệp, đến nỗi không còn khen ngợi phạm hạnh, cũng khiến người khác không học theo luật nghi, tôi biết người này tự để lại lỗi lầm về sau. Nhưng Kinh này nói: Tất cả pháp do tự tâm hiện. Nếu biết thiện ác do tâm thì làm sao thuận theo vọng tưởng mà trái với Thánh giáo được ư! Khuyên hãy cố gắng./.