PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA BỒ-TÁT TẠNG CHÁNH PHÁP KINH
Hán dịch: Tam tạng Pháp Hộ
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

Phẩm 4: NHƯ LAI CHẲNG THỂ NGHĨ BÀN

Đức Phật bảo:

–Này Xá-lợi Tử! Bồ-tát trụ tín tâm đối với mười pháp chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, tin hiểu thanh tịnh, vượt khỏi sự phân biệt, lìa mọi nghi hối, sau lại biểu hiện thân vui, tâm vui, tướng vui, khởi ý tưởng hy hữu. Những gì là mười?

  1. Đối với thân tướng tối thắng chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, cho đến biểu hiện tướng vui, khởi ý tưởng hy hữu.
  2. Đối với âm thanh hay vi diệu chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh cho đến khởi ý tưởng hy hữu.
  3. Đối với đại trí tối thắng chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, cho đến khởi ý tưởng hy hữu.
  4. Đối với ánh sáng vi diệu chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, cho đến khởi ý tưởng hy hữu.
  5. Đối với giới định viên mãn chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, cho đến khởi ý tưởng hy hữu.
  6. Đối với Thần túc to lớn chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, cho đến khởi ý tưởng hy hữu.
  7. Đối với mười Trí lực chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai; tin hiểu thanh tịnh, cho đến khởi ý tưởng hy hữu.
  8. Đối với bốn Vô sở úy chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, cho đến khởi ý tưởng hy hữu.
  9. Đối với tâm đại Bi chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, cho đến khởi ý tưởng hy hữu.
  10. Đối với pháp Bất cộng chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, cho đến khởi ý tưởng hy hữu.

Đó là mười pháp hy hữu chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Bồ-tát trụ tín phải siêng năng tinh tấn cần cầu, không có tâm sợ hãi biếng nhác, không có lay động; dẫu thân, da, gân, thịt, cốt, tủy, máu mạch có khô cằn tiều tụy đi nữa, nếu chưa đạt được mười pháp chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, thì trong khoảng thời gian đó không được biếng nhác, phải siêng năng tinh tấn cần cầu, nhất định đạt được.

Này Xá-lợi Tử! Bồ-tát trụ tín đối với mười pháp chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, phải nên tin hiểu thanh tịnh như vậy, cho đến khởi ý tưởng hy hữu.

Lúc đó, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, lập lại kệ rằng:

Thân tướng Như Lai chẳng nghĩ bàn
Nên quán Pháp thân tịnh vi diệu
Không tướng cũng không môn đối ngại
Bồ-tát hay sinh tâm tin hiểu
Cho đến các nẻo rộng phân biệt
Chỉ âm thanh Phật chẳng nghĩ bàn
Đối Nhất thiết xứ pháp môn báu
Phải nên tin hiểu cảnh giới Phật
Hiện diện tất cả loại chúng sinh
Căn thượng, trung, hạ có sai khác
Chỉ thắng trí Phật mới biết hết
Tin hiểu trí lực chẳng nghĩ bàn
Ánh sáng chư Phật chiếu vô biên
Lưới sáng thanh tịnh chẳng nghĩ bàn
Ánh sáng rạng ngời chiếu mười pháp
Vô biên sát hải đều thấu triệt
Mâu-ni xuất thế giới thanh tịnh
Nhưng không nương tựa pháp thế gian
Bo-tát trụ tín tâm tịnh tín
Tin thần túc Phật chẳng nghĩ bàn
Cảnh giới thần thông của chư Phật
Các Bồ-tát không thể biết được
Chư Phật tâm thường trụ thiền định
Phật môn giải thoát chẳng nghĩ bàn
Pháp giới rộng lớn không phân biệt
Chỉ thắng lực Phật mới biết được
Đầy đủ trí lực đại Thánh Tôn
Không bờ không bến bằng hư không
Giả sử tất cả loại chúng sinh
Cùng đặt câu hỏi nhiều như biển
Đáp theo câu hỏi tâm vui vẻ
Như Lai vô úy chẳng nghĩ bàn
Vì một chúng sinh làm lợi ích
Vô biên chúng sinh cũng như thế
Khiến cho an trụ tâm điều phục
Như Lai đại Bi chẳng nghĩ bàn
Các tướng Như Lai đều đầy đủ
Khả năng biết rõ tất cả pháp
Pháp mon Bất cộng Phật công đức
Trí sáng hiển bày khắp mọi nơi
Mười pháp chẳng nghĩ bàn như vậy
Nhiếp pháp chư Phật nhập pháp tánh
Nếu hay khởi lên tâm tin hiểu
Bồ-tát khéo trụ tâm tịnh tín.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao goi là Bồ-tát trụ tín đối với thân tướng tối thắng của Như Lai tin hiểu thanh tịnh, cho đến khởi ý tưởng hy hữu? Bởi vì thân thanh tịnh của Như Lai có khả năng đoạn trừ tất cả pháp bất thiện, nhưng lại đầy đủ tất cả pháp thiện. Thân Như Lai đã lìa tất cả bất tịnh uế ác, gân, cốt, máu, thịt và các pháp nhiễm ô. Thân Như Lai là tự tánh sáng lạn thanh tịnh, vĩnh viễn lìa tất cả cấu nhiễm phiền não, vượt khỏi thế gian, không bị tất cả pháp thế gian làm nhiễm. Thân Như Lai tích tập vô lượng phước trí diệu hạnh, trưởng dưỡng chúng sinh, tu tập vô lượng giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến các thiện pháp, trang nghiêm đầy đủ tất cả hoa công đức thù thắng, như tấm gương sáng lớn hiện rõ các sắc tướng; lại như mặt nước trong in rõ bóng trăng.

Lại nữa, thân Như Lai như hư không giới nhiếp hết tất cả, lại như pháp giới tối thượng tối thắng. Thân Phật vô lậu, đã dứt het các lậu. Thân Phật vô vi, không còn rơi vào các nẻo, thân như hư không, thân vô đẳng đẳng, thân tối thắng trong tất cả ba cõi.

Lại nữa, thân Như Lai không thể thí dụ, thanh tịnh không dơ, lìa mọi nhiễm ô, tự tánh sáng suốt, không phải đời trước có thể quán, không phải đời sau có thể quán, không phải hiện tại có thể quán, không phải chủng tộc có thể quán, không phải sắc có thể quán, không phải tướng có thể quán, không phải tùy hình tốt đẹp có thể quán, không phải tâm có thể quán, không phải ý có thể quán, không phải thức có thể quán, không phải kiến có thể quán, không phải nghe có thể quán, không phải niệm có thể quán, không phải biểu liễu có thể quán, không phải uẩn có thể quán, không phải xứ có thể quán, không phải giới có thể quán, không phải sinh có thể quán, không phải trụ có thể quán, không phải diệt có thể quán, không phải thủ có thể quán, không phải xả có thể quán, không phải xuất ly có thể quán, không phải hành có thể quán, không phải hiển sắc có thể quán, không phải tướng trạng có thể quán, không phải hình sắc có thể quán, không phải đến có thể quán, không phải đi có thể quán, không phải giới có thể quán, không phải định có thể quán, không phải tuệ có thể quán, không phải giải thoát có thể quán, không phải giải thoát tri kiến có thể quán, không phải hữu tướng có thể quán, không phải lìa tướng có thể quán, không phải pháp tướng có thể quán, không phải các tướng thành tựu có thể quán, không phải vô sở úy có thể quán, không phải vô ngại giải có thể quán, không phai thần thông có thể quán, không phải đại Bi có thể quán, không phải thành tựu pháp bất cộng Phật có thể quán.

Chư Phật xuất hiện như huyễn, như sóng nắng, như bóng trăng in nước. Thân tự tánh vi diệu. Thân Không, Vô tướng, Vô nguyện, không bờ bến. Thân không chủng loại. Thân không tích tụ. Thân không phân biệt. Thân không nương tựa. Thân không biến đổi. Thân được thiện trụ không còn lay động. Thân tự tánh không sắc, không phải khong sắc. Thân tự tánh không thọ, không phải không thọ; không tưởng, không phải không tưởng; không hành, không phải không hành; không thức không phải không thức. Thân không thật, không sinh, không phải đại chủng. Thân chưa từng có, chưa từng có nghiệp. Thân không phải mắt sinh, không từ trong sắc mà có, cũng không phải bên ngoài; không phải ta nương tựa từ trong sắc mà có, cũng không phải bên ngoài; không phải mũi ngửi, không từ mùi hương mà có, cũng không phải bên ngoài; không phải lưỡi liễu biệt, không từ vị mà có, cũng không phải từ bên ngoài; không phải thân hòa hợp không từ xúc mà có, cũng không phải từ bên ngoài; không phải tâm sở chuyển, không phải ý sở chuyển, không phải thức sở chuyển, cũng không phải không chuyển, cũng không phải tùy chuyển, được an trụ không lay động, ngang bằng với hư không, pháp giới tối thượng lưu nhập vào hư không giới.

Này Xá-lợi Tử! Các pháp như vậy, Bồ-tát trụ tín đối với thân tướng vi diệu thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, không có phân biệt, lìa mọi nghi hối, sau lại biểu hiện thân vui, tâm vui và sinh ý tưởng hy hữu.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên lập lại kệ rằng:

Vô lượng câu-chi na-do-đa
Nhiều kiếp rộng tu hạnh Bồ-tát
Thân, miệng, ý ba nghiệp thanh tịnh
Cần cầu thân vô đẳng Thiện Thệ
Mười phương thế giới khởi ý từ
Đem hết thân mạng hành bố thí
Tâm thường lìa dục hạnh tà nhiễm
Cần cầu thân hư không vô thượng
Y phục trang sức tịnh vi diệu
Trong vô lượng kiếp hành bố thí
Thí ba-la-mật diệu hạnh viên
Các Phật tử rộng thí tối thượng
Hộ giới như trâu mao mến đuôi
Hay xả thân mạng nhẫn không oán
Nguyện cầu thân Phật tâm không nhác
Tu mọi Tinh tấn ba-la-mật
Ưa quán cảnh giới định chư Phật
Trong tâm thích khởi tuệ phương tiện
Pháp giới tối thượng thân Thiện Thệ
Con nguyện sẽ được thân như thế
Chư Phật đã từng hành thiện hạnh
Được quả Bồ-đề không ai bằng
Sẽ được thân rộng lớn hư không
Khéo lìa trần nhiễm tịnh không nhiễm
Lìa tướng ngã, nhân tự tánh không
Không tướng, không lời, không sở đắc
Vượt qua các cảnh giới của mắt
Thân đại Mâu-ni được như vậy
Lìa sắc, lìa tiếng ý thanh tịnh
Vô sinh, vô tác xưa nay không
Se được thân không động Như Lai
Mười Lực Thiện Thệ cũng như vậy
Thân như huyễn hóa vượt tất cả
Các loại voi, ngựa và nhân tướng
Ngu si hư vọng tâm điên đảo
Thấy mười Lực tôn sắc tướng Phật
Quá khứ vô lượng các Thiện Thệ
Chư Phật vị lai cũng như thế
Đồng thân pháp tánh không gì khác
Pháp giới tối thượng bằng hư không.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là Bồ-tát trụ tín đối với âm thanh vi diệu chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, cho đến khởi ý tưởng hy hữu?

Này Xá-lợi Tử! Như Lai ở trong tất cả chúng hội, âm thanh nói ra đều là điều phục, tùy thuận làm các thiện lợi, làm cho ý của tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới đều vui thích. Tuy vậy, nhưng Như Lai không nghĩ rằng: Ta có thể vì chúng hội Bí-sô tuyên nói các pháp, vì chúng hội Bí-sô-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Bà-la-môn, Sátđế-lợi, Trưởng giả, Cư sĩ, Phạm chúng… mà nói pháp ấy.

Lại nữa, Như Lai tùy nghi tuyên nói Khế kinh, Phúng tụng, Ký biệt, Ứng tụng, Tự thuyết, Thí dụ, Duyên khởi, Bản sự, Bản sinh, Phương quảng, Hy pháp, Luận nghị. Các pháp như thế, vì tất cả chúng hội cho đến Phạm chúng Như Lai tùy theo trình độ căn cơ mà nói. Các chúng sinh có thượng, trung, hạ căn, mỗi mỗi sai khác đều nghe pháp cú. Nhưng pháp cú ấy đều từ miệng Như Lai nói ra, tùy theo các căn tánh đều được hiểu rõ. Trong khoảng thời gian đó cũng không có lời nói nào trái ngược nhau, mỗi mỗi đối với pháp ấy đều hiểu một cách rõ ràng. Đó chính là các phước đời trước của Như Lai nên mới được quả báo hiện tại phát ra âm thanh vi diệu như thế, khiến các chúng sinh tùy theo pháp đó mà hiểu.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Tiếng nói của Như Lai phát ra nhỏ nhẹ, ôn tồn, thanh tịnh không có cấu bẩn, làm cho người nghe vui ham thích. Lại nữa, tiếng của Như Lai rõ ràng không thô ác, người nghe càng thêm vui, tâm không nhàm chán mõi mệt. Người nghe tâm vui phát sinh niềm vui, hiểu biết rõ ràng, sinh tâm ham thích, tâm ý điều hòa. Tiếng của Như Lai như tiếng sư tử, như tiếng sấm sét, như tiếng của hải triều âm, như tiếng Ca-lăng-tần-già vi diệu, như tiếng thanh Phạm, tiếng thái cổ, tiếng cát tường, tiếng nhu nhuyến, tiếng vang dội, tiếng thanh tịnh vi diệu, khiến các căn cua chúng sinh vui thích điều phục; tiếng làm cho chúng hội vui thích, tiếng các tướng đầy đủ tối thắng, tiếng của chư Phật Như Lai hoặc đây hoặc kia dều đầy đủ vô lượng công đức thanh tịnh.

Này Xá-lợi Tử! Các âm thanh như thế là vì các Bồ-tát trụ tín đối với âm thanh vi diệu chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, cho đến khởi ý tưởng hy hữu.

Lúc đó, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, lập lại kệ rằng:

Tiếng Phạm âm vi diệu Như Lai
Lời nói phát ra khéo điều phục
Phạm chúng không bằng âm thanh Phật
Các pháp như vậy đều đầy đủ
Tiếng Phật tương ưng với lòng Từ
Tâm Bi rộng lớn lại thù thắng
Tương ưng Hỷ, Xả cũng như thế
Mâu-ni Thánh Tôn tiếng vi diệu
Chúng sinh nghe tiếng dứt tất cả
Lửa tham, sân độc các bất thiện
Ngu si tối tăm cũng tiêu trừ
Âm thanh như vậy đều đầy đủ
Mọi người ở khắp các phương xứ
Cùng khắp tất cả trong nhân loại
Cho đến giáp tận Diêm-phù-đề
Tất cả ngôn ngữ Phật hiểu rõ
Chúng sinh tùy loại nghe tiếng Phật
Địa cư, không cư các Thiên chúng
Nghe tiếng vi diệu của Mâu-ni
Tùy âm thanh Phật được hiểu rõ
Hai chân, bốn chân và nhiều chân
Các loại không chân nghe tiếng Phật
Tùy xúc tùy nghe sinh tịch ý
Tất cả chỗ ấy tùy tiếng chuyển
Trong tam thiên đại thiên thế giới
Khai sáng điều phục loài chúng sinh
Nhiếp hết các căn thượng trung hạ
Tùy âm thanh Phật mà khéo chuyển
Người đáng điều phục nghe giải thoát
Lìa mọi phân biệt không phân biệt
Tâm chánh định nói môn Thánh đế
Trong đó không chấp cũng không trói
Vô biên chúng sinh nghe tiếng Phật
Nghe rồi dứt trừ các phiền não
Chí thành quy mạng Phật, Pháp, Tăng
Nghe rồi giới nhẫn đều đầy đủ
Âm thanh Như Lai diệu tối thượng
Tiếng ấy sâu xa lượng vo biên
Âm thanh vô biên trí vô biên
Bồ-tát trí tín không nghi hối.

*********

Lại nữa, này Xá-lợi Tư! Sao gọi là Bồ-tát trụ tín đối với đại trí tối thượng chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh vượt lên trên mọi phân biệt, lìa mọi nghi hối, sau lại biểu hiện thân vui, tâm vui, tướng vui, khởi ý tưởng hy hữu?

Này Xá-lợi Tử! Chư Phật Như Lai dùng tri kiến vô ngại chuyển tất cả pháp.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nay ta thí dụ tuyên nói làm sáng tỏ về Trí ba-la-mật-đa của Như Lai cho ông nghe và cũng khiến cho Bồ-tát trụ tín tin hiểu thanh tịnh, cho đến khởi ý tưởng hy hữu.

Này Xá-lợi Tử! Ví như tất cả cành, nhánh, cỏ, cây trong hằng hà sa số các thế giới, chất cao đến bốn ngón tay. Có người mới đem số cành nhánh đó gom lại thành một đống lớn, rồi châm lửa đốt, đốt xong tất cả đều thành tro tàn, rồi đem tro tàn ấy rải ngoài biển cả trong hằng hà sa số tất cả thế giới, tro ấy tan đều trong biển cả, trải qua trăm ngàn năm. Tro đó chỉ có trí lực đầy đủ viên man của Như Lai mới có khả năng lấy nó lên từ biển cả, rồi rải đều trong tất cả thế giới, hễ bao nhiêu tro thì bao nhiêu thế giới, bao nhiêu gốc rễ, bao nhiêu uẩn tụ, bao nhiêu nhành lá rải đều ra bao nhiêu phương xứ mà không bị giảm mất. Vì sao? Vì chư Phật Như Lai ở trong pháp khéo hiểu rõ, do hiểu rõ cho nên có khả năng biết tất cả. Như vậy, tất cả thế giới to lớn như thế, Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, có đủ đại oai đức, có đại thần thông, danh tiếng vang lừng.

Thế gian nếu có các thiện nam, thiện nữ, đối với đại trí tối thượng của Như Lai tin hiểu thanh tịnh, lìa phân biệt, đều là tâm Từ của Như Lai kiến lập, hiện chứng tất cả biên tế thiện căn, dứt trừ tận gốc khổ não. Vì sao? Vì chư Phật Như Lai khéo hiểu biết rõ. Nếu ai có khả năng đối với Như Lai mà phát sinh một niệm tin hiểu thì sẽ được công đức mà không bị hoại diệt.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nay ta lại nói thí dụ để làm sáng tỏ nghĩa này, nếu có người trí nào nhân nơi thí dụ ta nói đó mà hiểu rõ.

Ví như có người sống đến trăm tuổi, hôm nọ, người này lấy sợi lông chẻ ra trăm phần, rồi lấy một phần chấm lấy một giọt nước đem đến chỗ của Thế Tôn thưa:

–Thưa Thế Tôn! Nay con gởi giọt nước này cho Thế Tôn, sau này con sẽ đến lấy lại.

Đức Phật nhận rồi đem giọt nước ấy thả xuống sông Khắc-già, giọt nước ấy trôi theo dòng nước chảy ra biển.

Khi người này hơn trăm tuổi đến chỗ Phật thưa:

–Thưa Thế Tôn! Xưa con có gửi giọt nước cho Thế Tôn, hôm nay xin lấy lại.

Này Xá-lợi Tử! Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, đại trí tối thượng đầy đủ viên mãn liền lấy giọt nước đã được gởi trước kia từ trong biển ra trả lại cho ông già ấy, giọt nước ấy không bị biển làm giảm mất.

Nay Xá-lợi Tử! Ta đã nói thí dụ biểu thị rõ ràng, huống lại có người thấy được nghĩa này, như là giọt nước trải qua thời gian lâu, nhưng nhờ trí lực của Như Lai nên không bị tổn hoại. Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác cũng như vậy. Nếu thiện nam, thiện nữ nào đối với đại trí của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, hết các phân biệt, thì đó là nhờ tâm Từ của Như Lai kiến lập. Duyên vào công đức của Đức Phật, trong hư không mưa xuống các loại hoa, hiện chứng hết tất cả thiện căn, dứt sạch tận nguồn gốc đau khổ. Vì sao? Vì chư Phật Như Lai ở trong pháp giới đã hiểu biết được. Nếu có người nào có khả năng đối với Đức Như Lai phát sinh một niềm tin hiểu, thì được công đức không thể phá hoại.

Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu như chư Phật Như Lai lìa trí Như Lai thì còn có khả năng chuyển các pháp nữa không?

Đức Phật dạy:

–Không thể được, Xá-lợi Tử!

Xá-lợi Tử lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là trí? Sao gọi là thức?

Đức Phật dạy:

–Này Xá-lợi Tử! Nến biết, thức nó trụ vào bốn chỗ:

  1. Thức tùy sắc trụ, sắc duyên sắc trụ, nó luôn luôn thân cận, tăng trưởng chắc chắn rộng lớn mà thành.
  2. Thức tùy thọ trụ, thọ duyên thọ trụ, thường luôn thân cận, tăng trưởng chắc chắn rộng lớn mà thành.
  3. Thức tùy tưởng trụ, tưởng duyên tưởng trụ, thường luôn thân cận, tăng trưởng chắc chắn rộng lớn mà thành.
  4. Thức tùy hành trụ, hành duyên hành trụ, thường luôn thân cận, tăng trưởng chắc chắn rộng lớn mà thành.

Đó gọi là thức.

Sao gọi là trí? Là trụ vào năm thủ uẩn trí uẩn biết rõ. Đó gọi là trí. Nếu thức biết rõ địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, trụ vào thức giới, thì đó gọi là thức. Nếu thức còn sự phân biệt đối với pháp giới, thì gọi là trí. Nếu mắt thấy sắc mà phân biệt được sắc, tai nghe tiếng biết rõ tiếng, mũi ngửi hương biết rõ hương, lưỡi nếm vị biết rõ vị, thân xúc chạm biết cảm giác, ý biết pháp nhận thức rõ, thì đó gọi là thức. Nếu trong tâm vắng lặng, bên ngoài không sở hành, dùng trí thâu nhiếp, không phân biệt một pháp nhỏ nào, cũng không lìa phân biệt, thì đó gọi là trí. Nếu lại sở duyên thức sinh, tác ý thức sinh, phân biệt thức sinh, thì gọi là thức. Nếu lại không chấp, không giữ, không duyên, không biểu hiện, thì gọi là trí. Nếu đối với pháp hữu vi sở hành, thức có sở trụ, thức đối với hữu vi mà hành, thì đó gọi là thức. Nếu đối với pháp vô vi, thức không thể hoạt động, nếu là trí vô vi, thì gọi là trí. Nếu là thức ở trong pháp sinh, trụ, diệt mà phân biệt rõ ràng không sinh, không diệt, không trụ, thì gọi là thức.

Này Xá-lợi Tử! Các pháp như vậy gọi là thức, gọi là trí. Vì thế nên biết, đại trí của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn. Bồ-tát trụ tín tin hiểu thanh tịnh, vượt lên mọi phân biệt, lìa mọi nghi hối, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui, sinh ý tưởng hy hữu.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, lập lại kệ rằng:

Tất cả cây cỏ trong mười phương
Hằng hà sa số các thế giới
Có người đốt củi ấy thành tro
Rải vào trong biển trăm ngàn năm
Thế Tôn mười lực trí vi diệu
Sau lại lấy tro trong biển cả
Bao nhiêu gốc rễ và các phương
Phân bố đầy đủ không giảm mất
Tâm trì mười phương chúng sinh giới
Nghiệp tham, sân, si đều biết rõ
Tất cả ý vui và sở hành
Không tăng, không giảm đều biết được
Đại trí mười Lực thế gian tôn
Mười phương cho đến khắp pháp giới
Điều Ngự không sinh tâm phân biệt
Tất cả Phật tử đều tin hiểu.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là ánh sáng vi diệu của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn, Bồ-tát trụ tín tin hiểu thanh tịnh, vượt lên mọi phân biệt, lìa mọi nghi hối, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui, sinh ý tưởng hy hữu?

Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác có khả năng biết rõ pháp giới, Như Lai có ánh sáng rộng lớn vi diệu, thâu nhiếp tất cả tam thiên đại thiên thế giới này. Ánh sáng rạng ngời chiếu khắp tất cả, như mặt trời không bị mây che, nó tỏa ra ánh sáng. Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác cũng như vậy, trong tam thiên đại thiên thế giới, ánh sáng to lớn chiếu tỏa rạng ngời, che cả các vì sao, đá, núi, cây cỏ, thảo dược, đèn đuốc và cả đống lửa lớn ở đại địa này, siêu xuất tối thắng, to lớn vi diệu, chiếu sáng rạng ngời. Không những thế, ánh sáng còn vượt hơn cả ánh sáng mặt trời, mặt trăng.

Ánh sáng các cung điện được hóa ra của bốn đại Thiên vương thân trang nghiêm đầy đủ; ánh sáng cung điện hóa ra của Tam thập tam thiên, Dạ-ma thiên, Đâu-suất thiên, Hóa lạc thiên, Tha hóa tự tại thiên, thân trang nghiêm đầy đủ; ánh sáng các cung điện được hóa ra của Phạm chúng thiên, Phạm phụ thiên, Phạm hội thiên, Đại phạm thiên, thân trang nghiêm đầy đủ. Các ánh sáng của các cung điện ấy rạng ngời to lớn siêu xuất tối thượng. Ánh sáng các cung điện được hóa ra của Thiểu quang thiên, Vô lượng quang thiên, Quang âm thiên, Thiểu tịnh thiên, Vô lượng tịnh thiên, Biến tịnh thiên, Vô vân thiên, Phước sinh thiên, Quảng quả thiên, Vô tưởng thiên, Vô phiền thiên, Vô nhiệt thiên, Thiện kiến thiên, Thiện hiện thiên, Sắc cứu cánh thiên, thân trang nghiêm đầy đủ bằng các ánh sáng. Ánh sáng thanh tịnh của Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác vi diệu rạng ngời siêu xuất tối thắng hơn thế nữa. Vì sao? Vì Như Lai viên mãn rộng lớn vô lượng giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến.

Này Xá-lợi Tử! Nếu đem tất cả ánh sáng trong tam thiên đại thiên thế giới so với ánh sáng của Như Lai trăm phần không bằng một, cho đến ô-ba-ni-sát-đàm phần cũng không bằng một. Ví như đem vàng thường ở thế gian để vào đống vàng ròng trong Diêmphù-đàn, thì số vàng thường ấy không có ánh sáng, cũng không rực lên, không phát ánh sáng. Tất cả ánh sáng trong tam thiên đại thiên thế giới đối với ánh sáng tối thượng của Như Lai không thể lóe ánh sáng lên được. Ánh sáng của Như Lai rộng lớn tối thắng không có gì bằng, cũng không có phần hạn; nghiệp báo cực thiện hiện tiền tùy chuyển, chiếu sáng cả tam thiên đại thiên thế giới, sáng hơn cả ánh sáng mặt trời mặt trăng ngày đêm. Như Lai thương xót tất cả chúng sinh ở thế gian và khiến họ an trụ trong ánh sáng viên mãn thanh tịnh. Chỉ có ánh sáng to lớn của Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác mới chiếu sáng khắp cả a-tăng-kỳ thế giới. Vì sao? Vì Như Lai đã được Ba-la-mật-đa và Bát-nhã ba-lamật-đa tối thượng.

Này Xá-lợi Tử! Nay ta lại nói thí dụ để làm sáng tỏ nghĩa này. Ví như có người lấy các loại đất trong tam thiên đại thiên thế giới, nghiền nát thành vi trần, rồi đi đến phương Đông qua một thế giới bỏ một bụi trần, qua thế giới thứ hai lại bỏ một bụi trần, cứ như vậy cho đến phương Nam, Tây, Bắc, qua mỗi thế giới đều bỏ bụi trần.

–Này Xá-lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Bụi trần ấy bỏ hết các thế giới có hết không?

Xá-lợi Tử thưa:

–Không hết, thưa Thế Tôn! Không hết, thưa Thiện Thệ!

Đức Phật bảo:

–Này Xá-lợi Tử! Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác cũng lại như vậy, dùng ánh sáng to lớn vi diệu chiếu sáng tất cả thế giới. Các ánh sáng so với ánh sáng của Phật trăm phần không bằng một, cho đến ô-ba-ni-sát-đàm phần cũng không bằng một. Vì sao? Vì Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác đã được Ba-la-mật-đa và Bát-nhã ba-la-mật-đa tối thượng.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Tất cả cỏ, cây, vườn rừng trong đại địa, các núi Thiết vi, cho đến núi chúa Tu-di, ánh sáng của Như Lai đều chiếu đến. Không những thế, ánh sáng của Như Lai còn chiếu sáng cả tam thiên đại thiên thế giới, nhưng chúng sinh hạ liệt không tin hiểu. Hoặc có chúng sinh không thể nhìn thấy ánh sáng của Như Lai, hoặc có chúng sinh nhìn thấy ánh sáng rộng lớn tròn đầy của Như Lai, hoặc có chúng sinh thấy ánh sáng của Như Lai một câu-lôxá, hoặc có chúng sinh thấy ánh sáng của Như Lai một do-tuần, hoặc có chúng sinh thấy ánh sáng của Như Lai trong tam thiên đại thiên thế giới.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Ai là người có khả năng thấy được ánh sáng cua Phật trong trăm ngàn thế giới? Đó là các Bồ-tát đăng địa, có khả năng ở trong vô biên tất cả thế giới thấy được ánh sáng của Phật. Như Lai thương xót tất cả chúng sinh tận cả hư không giới và chúng sinh giới, dùng ánh sáng thanh tịnh chiếu khắp mọi nơi. Bồ-tát trụ tín nghe vậy rồi, tin hiểu thanh tịnh, vượt lên mọi phân biệt, lìa mọi nghi hối, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui, khởi ý tưởng hy hữu.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, lập lại kệ rằng:

Các ánh sáng mặt trời, mặt trăng
Và ánh sáng Đế Thích, Phạm vương
Đến ánh sáng Sắc cứu cánh thiên
Đều không bằng ánh sáng Đức Phật
Các ánh sáng Sắc cứu cánh thiên
Cho đến tam thiên đại thiên giới
So với ánh sáng chân lông Phật
Trong mười sáu phần không bằng một
Ánh sáng hư không là to lớn
Chúng sinh to lớn cũng như thế
Nếu thấy ánh sáng của Như Lai
Vô biên vô tận bằng hư không
Người đáng độ thấy ánh sáng Phật
Các chúng sinh mù ở thế gian
Không thấy ánh sáng của mặt trời
Trở lại nói rằng không ánh sáng
Chúng sinh hạ liệt cũng như thế
Phật phóng hào quang thường chiếu sáng
Nhưng không thấy được ánh sáng đó
Trở lại cho là không ánh sáng
Có chúng sinh thấy ánh sáng Phật
Hoặc câu-lô-xá hoặc do-tuần
Hoặc ở trong ba ngàn thế giới
Người thấy được ánh sáng Đức Phật
Chỉ có Bồ-tát đã đăng địa
Bát địa, Cửu địa và Thập địa
Thảy đều an trụ trong đại địa
Thấy ánh sáng Phật đủ đại tuệ
Bồ-tát hướng đến đại tuệ Phật
Nương vào ánh sáng vô biên ấy
Làm các Phật sự lợi chúng sinh
Các cõi nước Phật chẳng nghĩ bàn
Chư Phật Như Lai chẳng nghĩ bàn
Ánh sáng chẳng nghĩ bàn cũng thế
Chẳng nghĩ bàn khai tâm tịnh tín
Các môn phước uẩn chẳng nghĩ bàn.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là giới định viên man chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, Bồ-tát trụ tín tin hiểu thanh tịnh, vượt lên mọi phân biệt lìa mọi nghi hối, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui và khởi ý tưởng hy hữu?

Này Xá-lợi Tử! Lời nói chân thật của Như Lai nói ra như vầy: Tất cả chúng sinh ở thế gian, nếu giới uẩn thanh tịnh, thân nghiệp thanh tịnh, ngữ nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp thanh tịnh, thì các chúng sinh ấy đối với thế gian sinh, đối với thế gian già không nhiễm pháp thế gian, được pháp lìa tội của Bà-la-môn, được pháp quán tưởng Tam-ma-địa tịch tĩnh của Sa-môn, sẽ được Ba-la-mật-đa tối thượng. Như Lai lại dùng lời nói chân thật nói ra như vầy: Ta không thấy thế gian tất cả Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Người, A-tu-la… mà có thể được giới uẩn, định uẩn thanh tịnh đồng với giới, định uẩn thanh tịnh vô lượng của Như Lai. Vì sao? Vì Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác đã được Ba-la-mật-đa tối thượng, đã được Giới định ba-la-mật-đa.

–Này Xá-lợi Tử! Nay ta lại nói thí dụ để làm sáng tỏ nghĩa này, vậy ông có thích nghe không?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nay đã đúng lúc xin Thế Tôn nói, nếu các Bísô có ai được nghe giới, định thanh tịnh Ba-la-mật-đa của Như Lai rồi thì sẽ tín thọ phụng hành.

*********

Đức Phật lại hỏi Xá-lợi Tử:

–Ý ông nghĩ sao? Địa giới cùng với chúng sinh giới, giới nào nhiều?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chúng sinh giới nhiều hơn địa giới.

Đức Phật khen:

–Này Xá-lợi Tử! Đúng vậy, đúng vậy, chúng sinh giới nhiều hơn.

Này Xá-lợi Tử! Giả sử tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới, hoặc noãn sinh, hoặc thai sinh, hoặc thấp sinh, hoặc hóa sinh, hoặc co sắc, hoặc không sắc, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc không phải có tưởng, hoặc không phải không tưởng, cho đến hết cả hữu tình giới trong một sát-na, một lạp-phược, một khoảnh khắc, không trước, không sau, đều được thân người. Tất cả loài chúng sinh trên đều được thân người trong một sát-na, một lạpphược, một khoảnh khắc đều chứng quả Chánh đẳng Chánh giác, tất cả đều thành chư Phật Như Lai. Mỗi một Đức Như Lai hóa ra ngàn đầu, mỗi một đầu có ngàn mặt, mỗi một mặt đều có ngàn lưỡi, các Đức Như Lai này đầy đủ mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Vô ngại giải, Vô ngại biện tài của Như Lai.

Này Xá-lợi Tử! Các Đức Như Lai này trải qua câu-chi na-do-đa kiếp đồng xưng tán giới Ba-la-mật-đa và công đức giới uẩn của Như Lai cũng không thể hết được.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Công đức giới uẩn của một Đức Phật Như Lai không có biên tế. Như vậy công đức giới uẩn của chư Phật Như Lai, biện tài trí tuệ hiểu rõ vô thượng, cho đến nhập đại Niếtbàn, trong khoảng thời gian đó đều bằng nhau. Vì sao? Vì trong cái không tánh mà khởi lên suy nghĩ có tánh. Thế nên công đức giới uẩn của Như Lai đại tuệ vô thượng, biện tài tối thắng vô lượng vô số không có biên tế, bằng với hư không.

Này Xá-lợi Tử! Như trên đã nói, tam thiên đại thiên thế giới, cho đến Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phía trên dưới khắp tất cả mười phương hằng hà sa số các thế giới, tất cả chúng sinh trong một sátna, một lạp-phược, trong khoảnh khắc đều được thân người, cho đến chứng quả Chánh đẳng Chánh giác, nói hẹp nói rộng cho đến ở trong tánh không mà khởi lên tánh có có thể nghĩ bàn. Thế nên, công đức giới uẩn của Như Lai, đại tuệ tối thắng, biện tài tối thượng, vô lượng vô số không có cùng tận, ngang bằng với hư không. Vì sao? Vì Như Lai đã được tối thượng Ba-la-mật-đa, giới thanh tịnh viên mãn Ba-lamật-đa.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nay ta lại làm sáng tỏ sự tướng, tuyên nói định Ba-la-mật-đa của Như Lai, vậy ông có muốn nghe không?

Xá-lợi Tử thưa:

–Bạch Thế Tôn! Nay đã đúng lúc, cúi xin Thế Tôn chỉ dạy, khiến cho các Bí-sô nghe những lời chỉ dạy ấy rồi, tin theo thọ trì.

Đức Phật dạy:

–Này Xá-lợi Tử! Về sau sẽ có bảy mặt trời xuất hiện ở thế gian, lúc đó tam thiên đại thiên thế giới đều bị lửa cháy, cháy bùng lên, cháy rực lên và cháy tràn lan cả, kết thành một khối lửa lớn. Khi ấy, Đức Như Lai hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, có đủ mười pháp hy hữu hiện ra nơi đó:

1. Đất bằng phẳng như lòng bàn tay; đó là pháp hy hữu thứ nhất.

2. Trong lúc đó tam thiên đại thiên thế giới lửa cháy, cháy bùng lên, cháy lan tràn kết thành một khối. Lúc đó, Như Lai hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, nơi ấy đất không có gai gốc, trái lại, có vàng báu vọt lên; đó là pháp hy hữu thứ hai.

3. Trong tam thiên đại thiên thế giới lửa cháy, cháy bùng lên, cháy rực lên, cháy lan tràn kết thành một khối lớn. Lúc đó, Như Lai hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, đất ấy rộng rãi, Như Lai thọ dụng; đó là pháp hy hữu thứ ba.

4. Lúc ấy, tam thiên đại thiên thế giới lửa cháy, cháy bùng lên, cháy hừng hực, cháy lan tràn kết thành một khối lớn. Lúc đó, Như Lai hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, đất nơi ấy tự nhiên mọc lên loại cỏ lạ xanh tươi, mượt mà, mềm mại đều quay qua phía bên phải, như là Bảo-ca-tức-lân-na, có hương thơm vi diệu; đó là pháp hy hữu thứ tư.

5. Lúc ấy tam thiên đại thiên thế giới bị lửa cháy, cháy bùng lên, cháy hừng hực, cháy lan tràn kết thành một khối lớn. Lúc đó, Như Lai hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, đất nơi ấy tự nhiên phun lên nước tám công đức: Một là lạnh, hai là nhẹ, ba là mịn, bốn là thơm, năm là đẹp, sáu là sạch, bảy là uống không chán, tám là uống nhiều không bệnh hoạn, nên gọi là đầy đủ tám thứ nước công đức; đó là pháp hy hữu thứ năm.

6. Lúc ấy tam thiên đại thiên thế giới bị lửa cháy, cháy bùng lên, cháy hừng hực, cháy lan tràn kết thành một khối lớn. Lúc đó, Như Lai hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, nơi ấy có gió mát mẻ tự nhiên thổi đến. Này Xá-lợi Tử! Ví như tháng mùa hạ nóng bức, ai nấy cũng mệt mỏi, hoặc có người đến bên sông Khắc già bơi vào dòng nước mát, tắm rửa thân thể, bớt đi sự nóng bức, dần dần được nhẹ nhàng khoái thích, tắm xong lên bờ kinh hành. Cách sông không xa có một cây lớn mát mẻ, cành nhánh xum xuê che mát cả một vùng, cây ấy đẹp đẽ lạ thường giống như châu báu trang nghiêm xen nhau; thấy thế, anh ta đến dưới cây ấy ngoi nghỉ thoải mái, bốn phía có gió mát thổi đến. Này Xá-lợi Tử! Như Lai cũng như vậy, nhờ quả báo thiện nghiệp đời trước thanh tịnh sáng suốt, gió mát tự nhiên thổi đến; đó là pháp hy hữu thứ sáu.

7. Lúc đó, tam thiên đại thiên thế giới bị lửa cháy, cháy bùng lên, cháy hừng hực, cháy lan tràn kết thành một khối lớn. Lúc đó, Như Lai hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, đất nơi ấy tự nhiên trong nước mọc lên các loại hoa như: hoa Ưu-bát-la, hoa Bátnột-ma, hoa Câu-mẫu-đà, hoa Bôn-noa-lợi-ca đây là pháp hy hữu thứ bảy.

8. Lúc đó tam thiên đại thiên thế giới bị lửa cháy, cháy bùng lên, cháy hừng hực, cháy lan tràn kết thành một khối lớn. Lúc đó, Như Lai hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, đất nơi ấy tự nhiên có các loại hoa mọc trên đất liền như hoa A-đế-mục-ngật-đa, hoa Chiêm-ba-ca, hoa Tô-ma-na, hoa Phược-lợi-thi-ca, hoa A-du-ca, hoa Ba-sất-la, hoa Ca-lan-ni-ca, hoa La-ni, các loại hoa này đầy đủ sắc hương; đó là pháp hy hữu thứ tám.

9. Lúc đó tam thiên đại thiên thế giới bị lửa cháy, cháy bùng lên, cháy dữ dội, cháy lan tràn kết thành một khối lớn. Lúc đó, Thế Tôn hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, đất nơi ấy như là kim cang kiên cố chắc thật, không thể phá hoại; đó là pháp hy hữu thứ chín.

10. Lúc đó tam thiên đại thiên thế giới bị lửa cháy, cháy bùng lên, cháy dữ dội, cháy lan tràn kết thành một khối lớn. Lúc đó, Như Lai hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, nơi ấy thấy có tháp báu vi diệu xuất hiẹn, tất cả Trời, Người, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-lamôn đến chiêm ngưỡng đảnh lễ cúng dường, đó là pháp hy hữu thứ mười.

Này Xá-lợi Tử! Mười pháp hy hữu này lần lượt xuất hiện ở nơi ấy. Do Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác biết rõ được tánh của pháp giới, tùy theo sắc tướng mà nhập Tam-ma-địa, tâm trụ vào thiền định hưởng vui pháp lạc, trải qua hằng hà sa số kiếp như khoảng bữa ăn, Như Lai ở trong Tam-ma-địa không bị hại mất.

Này Xá-lợi Tử! Như Lai tại định, trải qua một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, trăm ngàn kiếp, một câu-chi kiếp, trăm câu-chi kiếp, ngàn câu-chi kiếp, trăm ngàn câu-chi kiếp, trăm ngàn câu-chi na-dođa kiếp, sau đó xả định. Vì sao? Vì Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác đã được Ba-la-mật-đa tối thượng. Ba-la-mật-đa tối thượng ấy đầy đủ thần thông, có đại oai đức, được đại tự tại, thế nên Như Lai viên mãn đầy đủ.

Này Xá-lợi Tử! Như Thiên tử trong Phi tưởng, Phi phi tưởng Thiên, sinh rồi duyên vào một cảnh, đó là thức sở duyên, trải qua tám vạn bốn ngàn kiếp, thức ấy không bị các thức khác chuyển, cho đến lúc tuổi thọ hết liền diệt.

Này Xá-lợi Tử! Đầu đêm Như Lai chứng quả Chánh đẳng Chánh giác. Về sau, nửa đêm nhập đại Niết-bàn, trong khoảng thời gian đó không hoai diệt pháp Tam-ma-địa. Như Lai tại định không tâm có thể chuyển, không tâm sở hành, không tâm tìm xét, không tâm biến hành, không tâm có thể tăng, không tâm có thể giảm, không tâm tán loạn, không có tâm cao, không co tâm thấp, không có tâm nhiếp hộ, không tâm ẩn mật, không tâm tùy thuận, không tâm trái nghịch, không tâm chìm đắm, không tâm động chuyển, không tâm vui thích, không tâm ái trước, không tâm phân biệt, không tâm lìa phân biệt, không tâm tính toán, không tâm theo thức lưu chuyển, không tâm nương vào tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý; không tâm nương vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không tâm hành theo pháp ấy, không tâm hành theo trí ấy, không tâm quán sát quá khứ, không tâm quán sát vị lai, không tâm quán sát hiện tại. Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác an trụ trong Tam-ma-địa như vậy, tâm không sinh khởi một pháp nhỏ nào, nhưng đối với tất cả pháp dung tri kiến vô ngại để tùy chuyển, mà không có chấp trước. Như Lai lìa tâm ý thức, ở trong định cũng không bị giảm mất, lại thường làm các Phật sự, nhưng không có chấp trước.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền nói kệ rằng:

Phật trong vô lượng trăm ngàn kiếp
Khắp cả ba cõi tu đạo hạnh
Giới văn định nhẫn tâm không tán
Viên thành quả Bồ-đề vô thượng
Quả báo thiện nghiệp Phật như vậy
Thoát khỏi thế gian giới thanh tịnh
Không cấu hý luận tịnh như không
Mười lực tịnh giới bằng hư không
Đầu đêm Như Lai thành Chánh giác
Về sau, nửa đêm vào Niết-bàn
Phật không tâm hành, không biến hành
Đối các tịch định không giảm mất
Mười lực giới uẩn cũng không giảm
Thần lực giải thoát cũng như thế
Trong trăm ngàn kiếp trụ nhất tâm
Phật không phân biệt, lìa phân biệt
Phật đối cảnh giới định như không
Phật trí vô ngại chuyển ba nghĩa
Tâm ý suy xét không dời đổi
Phật tử tin hiểu mười lực Phật.

Này Xá-lợi Tử! Các pháp như vậy, Bồ-tát trụ tín đối với giới định của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, không còn phân biệt, lìa mọi nghi hoi, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui sinh khởi ý tưởng hy hữu.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là Bồ-tát trụ tín đối với sức thần túc thông của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, cho đến khởi ý tưởng hy hữu.

Này Xá-lợi Tử! Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác thường nói: Tôn giả Đại Mục-kiền-liên thần thông đệ nhất trong chúng Bí-sô Thanh văn, nhưng đem thần thông ấy so với thần thông của Bồ-tát, ta không thấy có thần thông Thanh văn bằng với thần thông của Bồ-tát. Nếu đem thần thông của Bồ-tát so lường thần thông của Đức Phật, ta không thấy có thần thông của Bồ-tát nào ngang bằng với thần thông của Phật. Các Bồ-tát thường nghĩ như vầy: Thần thông của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn, chúng con phát tâm siêng năng tinh tấn quyết cầu thành tựu thần lực của Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nay ta lại dùng thí dụ để làm sáng tỏ trí lực thần thông của Như Lai, vậy ông có muốn nghe không?

Xá-lợi Tử thưa:

–Bạch Thế Tôn! Nay đã đúng lúc, xin Thế Tôn nói, khiến cho các Bí-sô sau khi nghe rồi, tin hiểu thọ trì.

Đức Phật dạy:

–Này Xá-lợi Tử! Ý ông nghĩ sao, Đại Mục-kiền-liên có đại thần thông không?

Xá-lợi Tử thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con đích thân nghe Thế Tôn nói và đích thân ghi nhận Đại Mục-kiền-liên là thần thông đệ nhất trong chúng Bí-sô. Đức Phật dạy:

–Này Xá-lợi Tử! Giả sử khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, tất cả thần lực của các Thanh văn đều ngang bằng với thần lực của Đại Mục-kiền-liên, cũng như lúa, mè, tre, lau, mía, rừng, bằng nhau như vậy. Sắc tướng như vậy, tất cả công đức, oai thế và sức tinh tấn, thần thông biến hóa của Thanh văn tùy theo xứ sở mà thị hiện, nhưng so với Như Lai trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, trăm ngàn phần khong bằng một, một câu-chi phần không bằng một, trăm câu-chi phần không bằng một, ngàn câu-chi phần không bằng một, trăm ngàn câu-chi phần không bằng một, toán phần, số phần và thí dụ phần, cho đến ô-ba-ni-sát-đàm phần đều không bằng một. Vì sao? Vì Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác đã được Ba-la-mật-đa tối thượng.

Này Xá-lợi Tử! Như Lai dùng sức thần thông, đặt hạt cải lên mặt đất, do sức gia trì của Như Lai, nên các Thanh văn dùng tất cả oai thần, nhưng không thể nâng hạt cải lên được, lại cũng không thể lay động, dù chỉ bằng đầu sợi lông. Vì sao? Vì Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác đã được Ba-la-mật-đa tối thượng và thần thông Ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Như trên đã nói, tam thiên đại thiên thế giới này, cho đến Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phía trên dưới, khắp cả mười phương hằng hà sa số tất cả thế giới, có tất cả loài chúng sinh, hoặc noãn sinh, hoặc thai sinh, hoặc thấp sinh, hoặc hóa sinh, hoặc có sắc, hoặc không sắc, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc không phải có tưởng, không phải không tưởng, các chúng sinh ấy, cùng lúc đều được quả Thanh văn, đầy đủ đại thần thông bằng với Đại Mục-kiềnliên. Các Thanh văn ấy cùng dùng thần thông, oai lực thần thông biến hóa, nhưng không thể nâng hạt cải dù chỉ bằng đầu sợi lông. Vì sao? Vì Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác đã được Ba-lamật-đa tối thượng và Thần thông ba-la-mật-đa, đầy đủ đại oai đức, đại thần thông, được đại tự tại.

Đức Phật hỏi:

–Này Xá-lợi Tử! Xưa ngươi đã từng nghe kiếp phong tai có gió lớn nổi lên tên là Tỳ-lam-bà, gió ấy thổi dữ dội, làm cho tam thiên đại thiên thế giới, núi chúa Tu-di, các núi Thiết vi, núi Đại thiết vi, bốn đại châu, đến tám vạn châu, kể cả biển lớn, gió thổi sóng dâng cao, nước chảy lan tràn đến một do-tuần?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Xưa con đích thân nghe Thế Tôn nói các việc như vậy.

Đức Phật bảo:

–Này Xá-lợi Tử! Lúc kiếp phong tai, gió lớn thổi cuộn lên, làm cho tam thiên đại thiên thế giới, núi chúa Tu-di và các núi khác, biển cả nước dâng lên vỡ tan lan tràn khắp tất cả, cho đến vô số trăm ngàn do-tuần, địa cư chư Thiên cũng đều bị gió thổi bay khắp tất cả, thổi đến nổi mảy trần còn không thấy huống là núi đá. Các cung điện của Dạ-ma thiên bị gió thổi tan nát bay khắp tất cả, thổi đến nổi mảy trần còn không thấy huống là cung điện. Đến cả Đâusuất thiên, Hóa lạc thiên, Tha hóa tự tại thiên, Phạm chúng thiên, Phạm phụ thiên, Phạm hội thiên, Đại phạm thiên, Thiểu quang thiên, Vô lượng quang thiên, Quang âm thiên, Thiểu tịnh thiên, Vô lượng tịnh thiên, Biến tịnh thiên, các cung điện của các cõi trời ấy đều bị gió thổi tan nát, bay tán khắp cả, thổi đến noi mảy trần còn không thấy huống là cung điện.

Này Xá-lợi Tử! Dù lúc đó gió lớn thổi như vậy, nhưng y vi diệu của Như Lai không thể lay động, dù chỉ bằng đầu sợi lông, huống là chéo y. Vì sao? Vì Như Lai chẳng thể nghĩ bàn, thần lực chẳng thể nghĩ bàn, duyên chẳng thể nghĩ bàn, sở hành chẳng thể nghĩ bàn, đại Bi đều đầy đủ.

Này Xá-lợi Tử! Lúc gió lớn thổi lên, Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phía trên dưới khắp cả mười phương hằng hà sa số tất cả thế giới làm cho gió lớn cứ thổi mãi không ngừng. Lúc đó, Như Lai dùng ngón tay chặn đứng gió lại, tức thời gió lớn dừng lại. Như vậy, thần thông trí lực của Như Lai không bị giảm mất là vì chẳng thể nghĩ bàn.

Này Xá-lợi Tử! Bồ-tát trụ tín đối với thần thông trí lực của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hối, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui, sinh ý tưởng hy hữu.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:

Tất cả chúng sinh trong ba cõi
Đều làm Thanh văn đủ trí tuệ
Trí ấy ngang bằng với Mục-liên
Đầy đủ thần thông Ba-la-mật
Như Lai ở tại nơi đất ấy
Bỏ một hạt cải rất là nhỏ
Tất cả Thanh văn dùng thần thông
Nhưng không thể nâng hạt cải lên
Sở hữu hằng hà sa số đẳng
Mười phương tất cả các thế giới
Lúc gió Tỳ-lam-bà thổi lên
Khắp cả các phương đều lay chuyển
Khi gió lớn kia thổi như vậy
Phật dùng y vi diệu chận lại
Gió không lay nổi đầu sợi lông
Nhờ thần lực Phật chẳng nghĩ bàn
Gió lớn thổi động rất mãnh liệt
Như Lai chỉ dùng môt sợi lông
Thần lực chặn đứng cơn gió dữ
Rộng lớn vô biên bằng hư không.

Này Xá-lợi Tử! Bồ-tát trụ tín đối với thần lực của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, cho đến sinh ý tưởng hy hữu.

*********

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-tát trụ tín đối với mười trí lực chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, nghe rồi phát lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui, sinh ý tưởng hy hữu. Như Lai do đầy đủ mười trí lực, cho nên hiểu biết thù thắng, hơn cả các hàng trời, người, thế gian; rống tiếng rống sư tử, chuyển phạm luân vi diệu, tất cả Trời, Người, Ma, Phạm không thể chuyển được, không đồng với pháp của Như Lai.

Mười lực là gì?

  1. Xứ phi xứ trí lực.
  2. Nghiệp báo trí lực.
  3. Chủng chủng tín giải trí lự.
  4. Chủng chủng giới trí lực.
  5. Căn thắng liệt trí lực.
  6. Chí xứ đạo trí lực.
  7. Thiền định giải thoát Đẳng trì đẳng chí nhiễm tịnh trí lực.
  8. Túc trụ tùy niệm tác chứng trí lực.
  9. Thiên nhãn tác chứng trí lực.
  10. Lậu tận tác chứng trí lực.

Này Xá-lợi Tử! Như vậy gọi là mười trí lực của Như Lai. Như Lai do đầy đủ mười trí lực nên biết rõ thắng xứ, ở trong đại chúng có khả năng rống tiếng rống sư tử, chuyển phạm luân vi diệu, cho đến tất cả thế gian không có pháp nào bằng Phật.

Sao gọi là Xứ phi xứ trí lực của Như Lai? Vì Như Lai dùng trí lực vô thượng tối thắng đối với xứ phi xứ biết rõ như thật.

Thế nào là Thị xứ? Thế nào là Phi xứ?

Này Xá-lợi Tử! Phi xứ nghĩa là không dung thọ thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Nếu ba nghiệp hành động như vậy mà chiêu cảm qua báo tốt đẹp thì không thể có. Còn nói dung thọ nghĩa là thân, miệng, ý làm ác, không chiêu cảm quả báo tốt đẹp, việc này là đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là thân, miệng, ý nghiệp làm các việc thiện, mà chiêu cảm quả báo không tốt đẹp, điều đó không thể có. Còn dung thọ nghĩa là thân, miệng, ý làm các việc thiện, chiêu cảm quả báo tốt đẹp, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ tức là nếu người keo kiệt mà chiêu cảm quả báo giàu có, điều đó không thể có. Nếu người keo kiệt chịu quả nghèo hèn, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người bố thí mà chiêu cảm quả báo nghèo cùng, thì không thể có. Nếu người bố thí mà được qua báo giàu có, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người phá giới mà được sinh lên cõi trời, thì không thể có. Nếu người phá giới mà đọa địa ngục, ngạ quỷ, bàng sinh thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người trì giới mà lại đọa địa ngục, ngạ quỷ, bàng sinh, thì không thể có. Nếu người trì giới được sinh thiên, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người sân hận mà chiêu cảm quả báo đoan chánh, thì không thể có. Nếu người sân hận mà chịu quả báo thô lỗ xấu xa, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người nhẫn nhục mà chịu quả báo thô lỗ xấu xa, thì không thể có. Nếu người nhẫn nhục chiêu cảm quả báo đoan chánh, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người biếng nhác mà được Tam-muội hiện tiền, thì không thể có. Nếu người biếng nhác không được Tammuội hiện tiền, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người tinh tấn mà không được Tammuội hiện tiền, thì không thể có. Nếu người tinh tấn mà được Tammuội hiện tiền, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người tâm tán loạn mà được đạo xuất ly, thì không thể có. Nếu người tâm tán loạn không được đạo xuất ly, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người tâm tánh hay an trụ vào một cảnh mà không được đạo xuất ly, thì không thể có. Nếu người tâm tánh hay an trụ vào một cảnh mà được đạo xuất ly, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người không có trí tuệ mà có khả năng đoạn trừ tất cả thói quen chủng tử, thì không thể có. Nếu người không co trí tuệ, thì không có khả năng đoạn trừ thói quen của chủng tử, đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người có trí tuệ mà không có khả năng đoạn trừ tất cả thói quen của chủng tử, thì không thể có. Nếu người có trí tuệ, có khả năng đoạn trừ tất cả thói quen của chủng tử, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người sát sinh khởi lên nhân giết hại, mà chiêu cảm quả sống lâu, thì không thể có. Nếu người sát sinh mà chịu lấy sự chết yểu, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người lìa sát sinh mà chiêu cảm quả chết yểu, thì không thể có. Nếu người lìa sát sinh mà chiêu cảm quả sống lâu, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người trộm cắp mà chiêu cảm quả giàu sang, thì không thể có. Nếu người trộm cắp mà chiêu cảm quả nghèo hèn, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người lìa trộm cắp mà chiêu cảm quả nghèo hèn, thì không thể có. Nếu người lìa trộm cắp mà chiêu cảm quả giàu sang, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người tà nhiễm mà được nhà cửa con cái thì không thể có. Nếu người tà nhiễm mà không được nhà cửa con cái, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người lìa tà nhiễm mà không được nhà cửa vợ con thì không thể có. Nếu người lìa tà nhiễm mà được nhà cửa vợ con, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người vọng ngữ mà không chiêu cảm sự chửi bới hủy báng thì không thể có; còn chiêu cảm sự chửi bới, hủy báng, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người lìa vọng ngữ mà lại chịu sự hủy báng chửi bới, thì không thể có; còn không chịu sự hủy báng chửi bới, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người nói hai lưỡi, mà quyến thuộc không chia lìa, thì không thể có; còn như quyến thuộc chia lìa, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người lìa nói hai lưỡi mà quyến thuộc chia lìa, thì không thể có; còn quyến thuộc không chia lìa, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người ác khẩu mà thường được nghe những lời vừa ý, thì không thể có; còn nghe những lời không vừa ý, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người lìa ác khẩu mà không nghe những lời vừa ý, thì không thể có; còn nghe những lời vừa ý, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người nói thêu dệt mà được biện tài quyết định, thì không thể có; còn không được biện tài quyết định, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người lìa nói thêu dệt mà không được biện tài quyết định, thì không thể có; còn như được, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người nhiều tham lam mà được giàu sang, thì không thể có; còn không được thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người lìa tham lam mà sự giàu sang không được tồn tại lâu dài, thì không thể có; còn được giàu sang mãi mãi, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người tâm sân nhuế mà không đọa vào địa ngục, thì không thể có, còn nếu đọa thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người lìa tâm sân nhuế mà không sinh lên cõi trời, thì không thể có; còn nếu sinh lên cõi trời thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người tà kiến, tích tập nhân tà kiến mà được Thánh đạo, thì không thể có. Người tà kiến, tích tập nhân tà kiến mà không được Thánh đạo, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người chánh kiến tích tập nhân chánh kiến, mà không được Thánh đạo, thì không thể có. Nếu người chánh kiến tích tập nhân chánh kiến lại được Thánh đạo, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người tu hạnh bố thí mà tâm không được thanh tịnh, thì không thể có; còn nếu được thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xư là nếu người trì tịnh giới mà không được tịnh tâm, thì không thể có, còn nếu được thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người khởi lên kiến chấp có sở đắc mà được thuận nhẫn, thì không thể có; còn nếu được thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người chứng Không giải thoát mà không được thuận nhẫn, thì không thể có; còn nếu được thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người làm việc ác mà tâm được khinh an, thì không thể có; còn không được thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người làm ác mà tâm được điều phục và khinh an, thì không thể có; còn không được thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu các người nữ mà thành Chuyển luân thánh vương, thì không thể có. Nếu người nam được thành, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu các người nữ làm chủ cõi trời Đế Thích, thì không thể có. Nếu người nam làm chủ thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu các người nữ làm Phạm vương, thì không thể có. Nếu các người nam làm, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu các người nữ hiện thành quả Phật, thì không thể có; còn nếu vào Bát nhân địa, lần lượt được quả, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu Tu-đà-hoàn hiện chuyển chứng vị thứ tám, thì không thể có; còn nếu ở trong uẩn đó thú chứng Niết-bàn, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu Tư-đà-hàm hiện chuyển vị thứ ba, thì không thể có; còn nếu trong uẩn đó hướng đến Niết-bàn, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu A-na-hàm mà còn trở lại nhân gian, thì không thể có; còn nếu ở trong uẩn đó hướng đến Niết-bàn, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu A-la-hán mà còn kết phược tập khí, thì không thể có; nếu không còn thì đó là lẽ đương nhiên.

Lai nữa, Phi xứ là nếu các bậc Thánh nhân mà hướng cầu các thầy ngoại đạo chỉ dạy về pháp tà dị, thì không thể có; nếu không như vậy thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu người được Vô sinh pháp nhẫn mà con bị thoái chuyển, thì không thể có; còn nếu đạt đến chứng quả Bồ-đề, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu các Bồ-tát ngồi Bồ-đề đạo tràng rồi, mà không chứng quả Bồ-đề, thì không thể có. Nếu các Bồ-tát ngồi Bồđề tràng rồi, quyết định chứng quả Chánh đẳng Chánh giác sau lại rời tòa, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu chư Phật mà còn biểu hiện thói quen của chủng tử thì không thể có. Nếu chư Phật đoạn trừ tất cả thói quen của chủng tử, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu trí của chư Phật mà còn có chướng ngại, thì không thể có. Nếu trí của chư Phật không có chướng ngại, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu ai có khả năng quán thấy đảnh tướng tối thắng của chư Phật, thì không thể có; còn không thấy được đảnh tướng của chư Phật thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu ai có khả năng biết được tâm sở hành của Như Lai, thì không thể có; còn không biết được tâm sở hành của Như Lai, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu chư Phật trụ tâm thiền định mà còn có tướng sở đắc, thì không thể có. Chư Phật tâm thường trụ thiền định, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu chư Phật mà còn nói dối không quyết định, thì không thể có. Chư Phật nói năng không hư vọng, thì đó là lẽ đương nhiên.

Lại nữa, Phi xứ là nếu chư Phật mà còn có các lỗi lầm, thì không thể có. Chư Phật lìa các lỗi lầm thì đó là lẽ đương nhiên.

Này Xá-lợi Tử! Như vậy là ta đã nói rộng các pháp bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Chư Phật Như Lai ở trong đời hiện tại hoặc biết, hoặc thấy mà còn có sự chướng ngại, thì không thể có. Nếu chư Phật Như Lai ở trong hiện tại hoặc biết, hoặc thấy không bị chướng ngại thì đó là lẽ đương nhiên.

Này Xá-lợi Tử! Như vậy là ta đã nói về trí lực Xứ phi xứ không biến tế của Như Lai. Nếu ai muốn biết được biên tế ấy, cũng giống như hư không, thì làm sao biết được. Nếu không biết được biên tế của hư không, thì cái biên tế trí lực xứ Phi xứ của Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác cũng lại như vậy. Các Bồ-tát trụ tín nghe được trí lực Xứ phi xứ chẳng nghĩ bàn của Như Lai rồi, sinh lòng tin thanh tịnh vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui, sinh ý tưởng hy hữu.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:

Mười phương hư không không cùng tận
Trí lực Xứ phi xứ cũng thế
Trí lực chân thật khắp thế gian
Nói rộng pháp chân thật tối thượng
Nếu người đầy đủ nhân giải thoát
Biết được sở hành vì nói pháp
Các chúng sinh, viên mãn pháp khí
Biết xứ phi xứ hạnh trụ xả
Hư không đại địa còn thể động
Phật nói quả báo không hư dối
Trí xứ phi xứ nếu viên thành
Thì đủ mười Lực thế xuất thế.

Này Xá-lợi Tử! Đây là trí lực thứ nhất của Như Lai. Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác do đầy đủ trí lực thù thắng như vậy, cho nên biết rõ thắng xứ, ở trong đại chúng rống lên tiếng rống sư tử, chuyển phạm âm vi diệu, thế gian không có pháp nào bằng với pháp Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là trí lực Nghiệp báo của Như Lai? Đức Như Lai dùng trí vô thượng biết rõ tất cả chúng sinh, tạo ra các nghiệp, tích tập nhân xứ trong quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nhân thân căn thông phần vị nhãn căn, như vậy nhân các căn và phần vị, Như Lai đều biết một cách như thật. Nếu các chúng sinh có căn tánh bố thí, tu trì giới hạnh, Như Lai biết rõ căn của mình và người khác, liền tuyên nói pháp bố thí. Nếu các chúng sinh có căn tánh trì giới, tu hạnh bố thí, Như Lai biết rõ căn tánh mình và người khác, liền vì tuyên nói pháp trì giới. Nếu các chúng sinh có căn tánh nhan nhục, tu hạnh tinh tấn, Như Lai biết rõ căn tánh mình và người khác, liền vì nói pháp nhẫn nhục. Nếu các chúng sinh có căn tánh tinh tấn, tu hạnh nhẫn nhục, Như Lai biết rõ căn tánh mình và người khác, liền vì nói pháp tinh tấn. Nếu các chúng sinh có căn tánh thiền định, tu hạnh tuệ thù thắng, Như Lai biết rõ căn của mình và người khác, liền vì nói pháp thiền định. Nếu các chúng sinh có căn tánh tuệ thù thắng, tu hạnh thiền định, Như Lai biết rõ căn của mình và người khác, liền vì nói pháp tuệ thù thắng.

Tóm lại, cho đến các pháp Bồ-đề phần cũng như vậy. Nếu các chúng sinh đủ căn tánh Thanh văn, tu hạnh Duyên giác thừa, Như Lai biết rõ căn của mình và người khác, liền vì tuyên nói pháp Thanh văn thừa. Nếu các chúng sinh đầy đủ tánh Duyên giác, tu hạnh Thanh văn thừa, Như Lai biết rõ căn của mình và người khác, liền vì tuyên nói pháp Duyên giác thừa. Nếu các chúng sinh đầy đủ căn tánh Đại thừa, mà tu hạnh Thanh văn, Duyên giác thừa, Như Lai biết rõ căn của mình và người khác, liền vì tuyên nói pháp Đại thừa. Nếu các chúng sinh đầy đủ căn tánh tối thượng thừa, tu hạnh Đại thừa, Như Lai biết rõ, biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tích tập nhân vui trong đời hiện tại, mà đời vị lai lại chịu quả khổ, Như Lai nhất định biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tích tập nhân khổ trong đời hiện tại, vị lai, chịu quả khổ, Như Lai nhất định biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tích tập nhân vui trong đời hiện tại, vị lai hưởng quả báo vui, Như Lai nhất định biết rõ như thật.

Này Xá-lợi Tử! Như Lai biết rõ tất cả chúng sinh có các nghiệp, hoặc nhân hoặc quả trong quá khứ, vị lai, hiện tại, Như Lai chân thật không sai không khác, mỗi mỗi quyết định biết rõ như thật. Biết rồi, Như Lai tùy theo căn tánh đó mà vì nói pháp.

Này Xá-lợi Tử! Như Lai Ứng Cung Chánh Đẳng Chánh Giác, biết rõ như thật về các nghiệp quả báo của tất cả chúng sinh tích tập nhân xứ trong quá khứ, vị lai và hiện tại. Trí lực của Như Lai không có cùng tận. Nếu ai muốn biết cái cùng tận đó, thì cũng như hư không liệu có thể biết được chăng? Nếu không biết được cái cùng tận của hư không, thì trí lực nghiệp báo của Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác cũng lại như vậy. Các Bồ-tát trụ tín được nghe trí lực Nghiệp báo chẳng nghĩ bàn của Như Lai rồi, phát lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui và sinh ý tưởng hy hữu.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:

Phật khéo biết rõ các nhân quả
Mắt trí hay quán về nghiệp pháp
Trí vô ngại khắp trong ba đời
Thấu rõ các nghiệp của chúng sinh
Các nhân khổ vui và sở nguyện
Các chúng sinh ở trong năm nẻo
Tất cả luân chuyển các nhân khổ
Nhất định Thiện Thệ đều biết rõ
Tất cả các nghiệp báo hắc bạch
Nhân quả nguyện cầu cũng như vậy
Năng Nhân đều biết rõ chân thật
Như xem báu như ý trong tay
Nếu các nghiệp báo tu nhân ít
Quả báo đương lai được vô lượng
Nếu nhân vô lượng quả lại nhỏ
Thiện Thệ chân thật đều hiểu rõ
Tu hạnh Thanh văn quả như nguyện
Duyên giác Bồ-đề nhân nguyện đồng
Trí vô thượng quả nguyện cũng vậy
Thiện Thệ đều hiểu rõ như thật
Nếu nghiệp đời trước tu nhân khổ
Đời sau chiêu cảm quả báo vui
Đối với các nghiệp tu nhân vui
Đời sau chiêu cảm quả báo khổ
Nhân khổ quả khổ pháp như vậy
Nhân vui quả vui cũng như thế
Tự nghiệp tự quả nhân hòa hợp
Thiện Thệ đều hiểu rõ như thật
Pháp khổ các cõi chuyển ba đời
Các chúng sinh khắp trong năm nẻo
Môn chân thật không đoạn không khác
Phật trí vô thượng đều hiểu rõ.

Này Xá-lợi Tử! Đây là trí lực thứ hai của Như Lai. Như Lai do đầy đủ trí lực thù thắng, cho nên biết rõ thắng xứ, ở trong đại chúng rống tiếng rống sư tử, chuyển phạm luân vi diệu, tất cả thế gian, trời, người, ma, Phạm đều không thể chuyển, cho đến không có pháp nào bằng pháp Như Lai.

Các quả báo khác Như Lai cũng đều biết rõ như thật. Sao gọi là biết rõ? Này Xá-lợi Tử! Nghĩa là các Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác biết rõ như thật về các nghiệp quá khứ và tích tập nhân lành, lìa các bất thiện được quả báo thiện trong đời vị lai của các chúng sinh. Nếu các chúng sinh tạo nghiệp bất thiện, tích tập nhân bất thiện, lìa các thiện pháp, đến đời vị lai chịu quả bất thiện, mỗi mỗi Như Lai đều biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tích tập nghiệp nhân, đến đời vị lai chiêu cảm quả hạ liệt, nhất định Như Lai biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tích tập nghiệp nhân, đời hiện tại chiêu cảm quả thù thắng, đến đời vị lai cũng chiêu cảm quả thù thắng, nhất định Như Lai đều biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tích tập nghiệp nhân, ở đời quá khứ làm hạnh hạ liệt, đến đời vị lai khởi lên đại hạnh, nhất định Như Lai đều biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tích tập nghiệp nhân ít, sẽ chiêu cảm quả to lớn thù thắng, nhất định Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh tích tập nghiệp nhân to lớn, sẽ chiêu cảm quả ít thù thắng, nhất định Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh tu hạnh Thanh văn, cảm quả Thanh văn, nhất định Như Lai biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tu hạnh Duyên giác, cảm quả Duyên giác, nhất định Như Lai biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tu nhân Phật trí, cảm quả Phật trí, nhất định Như Lai biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tích tập nhân khổ trong đời hiện tại, đến đời vị lai chiêu cảm quả vui nhất định Như Lai biết rõ như thật.

*********

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là trí lực mỗi mỗi tin hiểu của Như Lai? Nghĩa là, chư Phật Như Lai đối với các chúng sinh, các Bổđặc-già-la, mỗi mỗi tin hiểu sai khác, Như Lai biết rõ mỗi mỗi như thật. Nếu các chúng sinh vốn có lòng tham ái, đối với sân khởi lên hiểu biết, như trong kinh đã nói rộng. Nếu các chúng sinh vốn là si mê, đối với sân khởi lên hiểu biết, Như Lai mỗi mỗi biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh vốn tạo pháp bất thiện, đối với pháp bất thiện khởi lên hiểu biết, mỗi mỗi Như Lai đều biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh vốn tạo thiện pháp, hiểu rõ thiện pháp, mỗi mỗi Như Lai đều biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tu hạnh thấp kém, đối với pháp thù thắng khởi lên sự tin hiểu, Như Lai đều biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tu hạnh thù thắng, nhưng lại hiểu rõ pháp hạ liệt, Như Lai đều biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tu hạnh thấp kém, nhưng lại tin hiểu phần vị thù thắng, Như Lai đều biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tu hạnh thù thắng, mà lại tin hiểu thấp kém, Như Lai đều biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tin hiểu tà định, rồi chấp vào pháp định ấy, Như Lai đều biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tin hiểu chánh định và tham khảo thực hành pháp định ấy, Như Lai đều biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tu giải thoát về môn chánh định, Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh tin hiểu định pháp của Dục giới rồi vào Dục giới ấy, Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh tin hiểu định pháp của Sắc giới, rồi vào Sắc giới ấy, Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh tin hiểu định pháp của Vô sắc giới, rồi nhập vào Vô sắc giới ấy, Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh tin hiểu định pháp ba cõi, rồi vào khắp ba cõi, Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh vốn trụ phần vị thấp kém, mà lại được pháp thù thắng, Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh vốn trụ phần vị thù thắng mà lại được pháp thấp kém, Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh khởi lên mỗi mỗi tin hiểu, mỗi mỗi sắc tướng, mỗi mỗi thọ dụng, mỗi mỗi lãnh nạp, Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh tin hiểu nghiệp đời trước, nên chiêu cảm đọa lạc, Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh tin hiểu pháp giải thoát, rồi hành trì pháp giải thoát ấy, Như Lai đều biết như thật. Như Lai biết như thật rồi, tùy theo căn cơ thích ứng mà nói pháp.

Này Xá-lợi Tử! Trí lực tin hiểu của Như Lai không có biên tế, ngang bằng với hư không. Các Bồ-tát trụ tín đối với trí lực tin hiểu tối thắng của Như Lai, nghe rồi phát lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui và sinh ý tưởng hy hữu.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:

Thế gian mỗi mỗi pháp tin hiểu
Quá, vị, hiện tại không hạn lượng
Rồi lại suy nghĩ theo tin hiểu
Phật Nhân Trung Tôn đều hiểu rõ
Nếu đối pháp tham khởi tin hiểu
Mà vốn trụ vào bản chất sân
Hoặc sân hoặc si nghĩa cũng thế
Phật tùy tín giải đều hiểu rõ
Trụ tham trụ si và các pháp
Tùy tâm sở trì khó đo lường
Nghiệp hành liên tục không gián đoạn
Thắng Trí Năng Nhân đều biết rõ
Nếu các chúng sinh hạnh thấp kém
Trở lại tin hiểu pháp rộng lớn
Hạnh lớn hiểu thấp nghĩa cũng thế
Phật Điều Ngự Tôn đều hiểu rõ
Nếu các chúng sinh chấp tà định
Trở lại khởi lên cũng như thế
Môn giải thoát khắp trong ba cõi
Phật tùy tin hiểu đều biết rõ
Chỗ sinh sắc tướng mỗi mỗi khác
Thọ dụng sai biệt cũng như thế
Tùy theo nghiệp trước quả không sai
Lưỡng Túc Thắng Tôn đều hiểu rõ
Tùy theo tin hiểu biết rõ rồi
Hợp với căn cơ mà nói pháp
Môn thắng giải trí lực thứ ba
Phật tử nên sinh tin thanh tịnh.

Này Xá-lợi Tử! Trí lực tin hiểu thứ ba của Như Lai như vậy. Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác do đầy đủ trí lực thù thắng, cho nên biết rõ thắng xứ; ở trong đại chúng rống tiếng rống sư tử, chuyển phạm luân vi diệu. Tất cả thế gian, Trời, Người, Ma, Phạm đều không thể chuyển, không có pháp nào ngang bằng với pháp Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là trí lực mỗi mỗi giới của Như Lai? Nghĩa là, Như Lai biết rõ như thật về mỗi mỗi giới. Nếu các chúng sinh ở trong các thế gian, trưởng dưỡng bằng các phước hạnh, Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh trưởng dưỡng không phải bằng phước hạnh, Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh trưởng dưỡng bằng hạnh bất động, Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh tu hạnh xuất ly, Như Lai đều biết như thật.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như Lai biết rõ nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới như thật.

Sao gọi là năng tri? Nghĩa là Phật biết rõ trong không, ngoài không và trong ngoài đều không, cho đến biết rõ như thật về ý giới, pháp giới và ý thức giới.

Sao gọi là năng tri? Nghĩa là Phật biết rõ trong không, ngoài không và trong ngoài đều không.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như Lai biết rõ như thật về địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới và hư không giới.

Sao gọi là năng tri? Vì như hư không, cho nên biết rõ cũng như vậy. Như Lai biết rõ Dục giơi, Sắc giới và Vô sắc giới phân biệt khởi lên; biết hữu vi giới là tướng tạo tác, biết vô vi giới là tướng không tạo tác; biết tạp nhiễm giới là tướng khách trần phiền não, biết thanh tịnh giới là tướng tự tánh xan lạn; biết cảnh giới các hành là tướng vô minh tác ý không như lý, biết cảnh giới Niết-bàn là tướng sáng suốt tác ý như lý.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nếu các giới nương vào các giới an trụ, các giới tùy thuận, các giới kiến lập, các giới tác dụng, các giới ý thú, các giới tịch định, các giới trụ trước, mỗi mỗi Như Lai đều biết như thật, tùy theo cái hiểu biết đó mà vì nói pháp.

Này Xá-lợi Tử! Đây là trí lực mỗi mỗi giới của Như Lai, trí lực thù thắng như vậy không có biên tế. Nếu các Bồ-tát trụ tín đối với trí lực của Như Lai, nghe rồi phát lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui và sinh ý tưởng hy hữu.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:

Tất cả chúng sinh ở thế gian
Đều nương vào tất cả cảnh giới
Cảnh giới hướng đến cũng như vậy
Phật Vô Thượng Tôn đều biết rõ
Phước, không phước và hạnh bất động
Các giới xuất ly nghĩa như vậy
Hướng đến các giới tâm an trụ
Niết-bàn không động tâm vắng lặng
Tất cả nhãn giới và sắc giới
Nhãn thức giới kia cũng như vậy
Nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý giới
Như Lai đều biết rõ như thật
Đối pháp giới ấy biết rõ rồi
Ý thức giới kia cũng như vậy
Biết rõ các pháp trong ngoài không
Là đại trí lực của Năng Nhân
Địa giới, thủy giới và hỏa giới
Cùng với phong giới cũng như vậy
Biết rõ các giới cũng như thế
Cũng như hư không không khác gì
Tất cả Dục giới và Sắc giới
Vô sắc giới kia cũng như vậy
Như Lai biết rõ hết tất cả
Và sự phân biệt nó khởi lên
Nhưng hư không kia không biên tế
Các giới vô biên cũng như vậy
Tuy Phật biết hết khắp tất cả
Không khởi ngã tâm hay hiểu rõ
Biết rõ các giới không sở sinh
Cũng biết các giới không sở diệt
Các giới như vậy tâm vắng lặng
Trượng Phu Vô Thượng đều biết rõ
Như hư không không có biên tế
Trí Phật vô biên cũng như thế
Dùng trí vô ngại đều biết rõ
Mỗi mỗi tin hiểu đều giải thoát
Biết tâm khởi lên tin hiểu rồi
Vô số chúng sinh đều điều phục
Như Lai viên thành lực thứ tư
Phật tử nên sinh tin thanh tịnh.

Này Xá-lợi Tử! Đây là trí lực thứ tư của Như Lai, nói rộng cho đến không có pháp nào ngang bằng với Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là trí lực thắng liệt căn của Như Lai? Nghĩa là các chúng sinh có căn tánh hoặc thù thắng, hoặc thấp kém, Như Lai đều biết rõ một cách như thật.

Sao gọi là năng tri? Nghĩa là hạ căn, trung căn và lợi căn, cũng

lại biết hết các căn thù thắng. Cho đến tích tập, phân biệt từ tham mà khởi lên các căn tánh nghiệp; từ sân mà khởi lên các căn tánh nghiệp; từ si mà khởi lên các căn tánh nghiệp, Như Lai đều biết rõ như thật. Như vậy, do phân biệt các nghiệp hư vọng mà khởi lên tham, sân, si tất cả Như Lai đều biết rõ như thật. Như vậy, phân biệt các căn từ tham, sân, si ít mà khởi lên, Như Lai đều biết như thật. Phân biệt các căn từ tham, sân, si nhiều mà khởi lên, Như Lai cũng đều biết như thật. Phân biệt các căn từ tham, sân, si, chấp trước mà khởi lên, Như Lai cũng biết như thật. Hoặc thiẹn nhân căn tánh, hoặc không thiện nhân căn tánh, hoặc bất động nhân can tánh, hoặc xuất ly nhân căn tánh, Như Lai đều biết như thật.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như Lai biết hết tất cả nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, ý căn của chúng sinh; nữ căn, nam căn, mạng căn, khổ căn, lạc căn, ưu căn, hỷ căn, xả căn, tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, vị tri đương tri căn, dĩ tri căn, cụ tri căn, hai mươi hai căn như vậy, Như Lai đều biết rõ như thật.

Lại nữa, trong các căn, hoặc nhãn căn nhân thông với phần vị nhĩ căn, không phải tỷ căn, thiệt căn, thân căn, Như Lai đều biết như thật. Hoặc nhĩ căn nhân thông phần vị tỷ căn; hoặc tỷ căn nhân thông phần vị thiệt căn; hoặc thiệt căn nhân thông phần vị thân căn; hoặc thân căn nhân thông phần vị nhãn căn. Như vậy, các căn nhân và phần vị Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh có căn tánh bố thí, tu trì giới hạnh, Như Lai đều biết rõ căn tánh của người ấy, liền vì nói pháp bố thí. Nếu các chúng sinh có căn tánh trì giới, tu hạnh bố thí, Như Lai biết rõ căn tánh người ấy, liền vì nói pháp trì giới. Nếu các chúng sinh có căn tánh nhẫn nhục, tu hạnh tinh tấn, Như Lai biết rõ căn tánh của người ấy, liền vì nói pháp nhẫn nhục. Nếu các chúng sinh có căn tánh tinh tấn, tu hạnh nhẫn nhục, Như Lai biết rõ căn tánh của nười ấy, liền vì nói pháp tinh tấn. Nếu các chúng sinh có căn tánh thiền định, tu hạnh tuệ thù thắng, Như Lai biết rõ căn tánh của người ấy liền noi pháp thiền định. Nếu các chúng sinh có căn tánh tuệ thù thắng, tu hạnh thiền định, Như Lai biết rõ căn tánh của người ấy, liền vì nói pháp tuệ thù thắng.

Tóm lại, cho đến các pháp Bồ-đề cũng nói như vậy. Nếu các chung sinh đầy đủ căn tánh Thanh văn, tu hạnh Duyên giác thừa, Như Lai biết rõ căn tánh của người ấy, liền vì nói pháp Thanh văn thừa. Nếu các chúng sinh đầy đủ căn tánh Duyên giác, tu hạnh Thanh văn thừa, Như Lai biết rõ căn tánh của người ấy, liền vì nói pháp Duyên giác thừa. Nếu các chúng sinh đầy đủ căn tánh Đại thừa, tu hạnh Thanh văn, Duyên giác thừa, Như Lai biết rõ như thật, liền vì nói pháp Đại thừa. Nếu các chúng sinh đầy đủ căn tánh Tối thượng thừa, tu hạnh Đại thừa, Như Lai biết rõ căn tánh của người ấy, liền vì nói pháp Tối thượng thừa. Nếu các chúng sinh đầy đủ căn tánh không kham nhậm phi pháp, Như Lai biết rõ người ấy không thể kham nhậm phi pháp, liền khuyên bỏ pháp đó đi. Nếu các chúng sinh có thể kham nhậm, là bậc pháp khí, Như Lai liền vì nói chánh pháp.

Này Xá-lợi Tử! Như Lai đối với tất cả chúng sinh, hoặc quán sát các căn mà biết rõ, hoặc khong quán sát các căn cũng biết rõ; hoặc người có căn xuất ly, Như Lai đều biết rõ, người không có căn xuất ly, Như Lai cũng biết rõ. Sau khi biết rõ như vậy rồi, tùy theo các chúng sinh có những căn tánh gì, hoặc các hanh pháp hoặc ý thích nhân, hoặc duyên, hoặc chướng, hoặc chỗ rốt ráo, mỗi mỗi Như Lai đều biết rõ như thật.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:

Các căn tánh hướng đến bờ kia
Biết tánh chúng sinh và ý vui
Các căn thế gian đều biết hết
Nhân Trung Sư tử nói chánh pháp
Quán khắp hạ, trung và thượng căn
Trí chưa từng có chuyển khắp cả
Biết các chúng sinh căn giải thoát
Trí nói thắng pháp khiến hiểu rõ
Quyết định phiền não nó khởi lên
Tùy căn chúng sinh nhiều hay ít
Biết rõ các căn tánh như vậy
Tùy thuận tuyên nói pháp trí hành
Nếu các chúng sinh đủ thiện căn
Hoặc người đủ căn tánh bất thiện
Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý căn
Căn tánh khổ, vui, buồn, hỷ xả
Và căn tín, tấn, niệm, định, tuệ
Nam, nữ mạng căn cũng như vậy
Vì họ tuyên nói tín căn ấy
Các căn khác thắng nghĩa cũng vậy
Căn tánh sở hành và các tướng
Tùy ý chúng sinh mà cảm hóa
Ứng căn tuyên nói pháp thù thắng
Trí khéo biết rõ các pháp khổ
Thanh văn các căn khó giải thoát
Chỉ Phật Bồ-đề mới xuất ly
Thanh văn không biết nhân Phật trí
Vì nói Bồ-đề lực tối thắng.

Này Xá-lợi Tử! Đây là trí lực thứ năm của Như Lai, cho đến rộng nói thì không có pháp nào bằng Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là trí lực chí xứ đạo của Như Lai? Nghĩa là, con đường hướng đến Biến nhất thiết xứ của Như Lai, Như Lai đều biết như thật.

Sao gọi là năng tri? Nếu các chúng sinh giới trụ Chánh định tụ, trụ Bất định tụ, trụ Tà định tụ, mỗi mỗi Như Lai đều biết rõ. Nếu chúng sinh giới trụ Chánh định tụ, đã có nhân lực và nghiệp đời trước, lợi căn thông minh sáng suốt, Như Lai biết chúng sinh ấy có khả năng kham nhậm, là pháp khí giải thoát, tùy theo nhân lực đời xưa mà vì nói pháp. Nếu chúng sinh giới trụ Bất định tụ, do duyên lực đã thành thục, tùy theo căn cơ thích ứng của chúng sinh đó, Như Lai nói pháp dạy dỗ liền được giải thoát. Nếu duyên lực chưa thành thục, thì không được giải thoát, Như Lai đợi đến khi nhân duyên hòa hợp, gặp Phật ra đời, liền vì nói pháp. Chúng sinh ấy nghe Phật nói pháp rồi, siêng năng thực hành kiên cố mới được quả thù thắng. Nếu chúng sinh giới trụ Tà định tụ, không tu chánh nghiệp, căn tánh tối tăm, không phải là chánh khí, Như Lai không nói pháp cho người ấy, vì người ấy không có khả năng kham nhậm, không phải là pháp khí giải thoát, Như Lai biết rồi liền bỏ. Thế nên, các Bồ-tát phải siêng năng tu hành mặc giáp tinh tấn.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như Lai biết rõ ba thứ tham: Có thứ tham khởi lên tướng thiện, lại có loại tham khởi lên tướng biên tế, lại có thứ tham khởi lên nhân đời trước. Như Lai biết rõ ba loại sân: Có loai sân khởi lên tướng não hại, lại có loại sân khởi lên ý tham không biết đủ, lại có loại sân khởi lên tập nghiệp đời trước. Như Lai biết rõ ba thứ si: Có thứ si khởi lên nhân vô minh, lại có thứ si khởi lên nhân hữu thân kiến, lại có thứ si khởi lên nhân nghi hoặc, mỗi mỗi Như Lai đều biết rõ như thật.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như Lai đối với các khổ, dùng thần thông nhanh chóng để biết, là vì lợi căn; hoặc đối với khổ dùng thần thông chậm rãi để biết, là vì căn nhu nhuyến.

Lại nữa, Như Lai đối với các thứ vui, dùng thần thông nhanh chóng để biết, là vị lợi căn; hoặc đối với các thứ vui dùng thần thông chậm rãi để biết, là vì căn nhu nhuyen. Lại đối với chỗ chậm rãi, dùng thần thông chậm rãi để biết, là vì chướng đạo; đối với chỗ chậm rãi dùng thần thông nhanh chóng để biết khiến được khinh an. Đối với điều nhanh chóng, dùng thần thông chậm rãi để biết, vì không có rốt ráo an ổn; đối với điều nhanh chóng, dùng thần thông nhanh chóng để biết, là vì không có sai khác. Lại có chỗ được sức quyết trạch không phải sức tu tập; hoặc có sức tu tập viên mãn, nhưng không phai sức quyết trạch; cả sức tu tập và sức quyết trạch đều được viên mãn; sức tu tập và sức quyết trạch cả hai không viên mãn, mỗi mỗi Như Lai đều biết như thật.

Lại nữa, có chỗ ý vui đầy đủ, hạnh không đầy đủ, có hạnh đầy đủ, ý vui không đầy đủ; có ý vui đầy đủ, hạnh cũng đầy đủ, ý vui không đầy đủ, hạnh cũng không đầy đủ, mỗi mỗi Như Lai đều biết như thật.

Lại nữa, có chỗ thân nghiệp thanh tịnh mà ngữ nghiệp và ý nghiệp không thanh tịnh. Lại có chỗ ý nghiệp thanh tịnh mà thân, ngữ không thanh tịnh. Lại có chỗ thân, ngữ, ý nghiệp đều không thanh tịnh. Lại nữa, có chỗ thân, ngữ, ý nghiệp đều thanh tịnh, mỗi mỗi Như Lai đều biết như thật.

Này Xa-lợi Tử! Tất cả chúng sinh đối với tất cả chỗ, tạo ra nghiệp nhân, hoặc động, hoặc tịnh, Như Lai dùng trí vô ngại tùy theo chúng sinh mà hóa độ.

Này Xá-lợi Tử! Như vậy, trí lực chí xứ đạo của Như Lai không có biên tế, ngang bằng với hư không. Các Bồ-tát trụ tín nghe rồi phát lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui và sinh ý tưởng hy hữu.

*********

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:

Phật khéo biết rõ lực Chí xứ
Biết rõ nhân các Chánh định tụ
Và các chúng sinh Bất định tụ
Tướng thành thục kia đều biết rõ
Ba loại tham Phật đều biết cả
Sân, si ba loại Phật cũng biết
Ba thứ phiền não có sai khác
Phật đều biết rõ nhân duyên xứ
Biết rõ khổ xứ, tánh lợi căn
Thần thông chậm rãi căn nhu nhuyến
Lại xứ lợi căn cũng như vậy
Phật đều biết rõ tướng chậm rãi
Có chỗ chậm rãi sức chậm rãi
Hoặc chỗ chậm rãi tánh lợi căn
Hoặc chậm, hoặc nhanh căn chậm chạp
Thần thông nhanh chóng tướng không khác
Có sức quyết trạch không sức tu
Hoặc có sức tu không quyết trạch
Sức quyết trạch, tu đều đầy đủ
Cả hai đều không, đều biết rõ
Có chỗ ý vui hoặc đầy đủ
Nhưng mà hành nghiệp chưa đầy đủ
Đều có, đều không cả hai thứ
Phật quán sát khắp đều biết rõ
Có chỗ thân nghiệp được thanh tịnh
Không phải ngữ, ý tịnh cũng vậy
Hoặc lại ngữ, thân đều thanh tịnh
Ý không thanh tịnh nghĩa cũng thế
Hoặc là ý nghiệp được thanh tịnh
Ngữ, thân không thanh tịnh cũng thế.
Hoặc lại ngữ, ý đều thanh tịnh
Thân không thanh tịnh nghĩa cũng vậy
Thân, ngữ, ý nghiệp đều thanh tịnh
Phật quán sát khắp đều biết rõ
Như vậy thành tựu môn vắng lặng
Thắng trí lực thứ sáu của Phật.

Này Xá-lợi Tử! Đây là trí lực Chí xứ đạo thứ sáu của Như Lai. Do Như Lai đầy đủ trí lực thù thắng cho nên biết rõ thắng xứ, cho đến thế gian không có phap nào bằng Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là trí lực khởi Thiền định giải thoát đẳng trì đẳng chí nhiễm tịnh của Như Lai? Nghĩa là, Như Lai đối với mình, đối với người có thiền định giải thoát đẳng trì đẳng chí các pháp nhiễm tịnh, đều biết như thật.

Sao gọi là năng tri? Tất cả pháp tạp nhiễm của chúng sinh, hoặc nhân, hoặc duyên, Như Lai đều biết như thật và các pháp thanh tịnh của chúng sinh ấy, hoặc nhân hoặc duyên, Như Lai cũng đều biết như thật.

Sao gọi là nhân? Sao gọi là duyên? Trong các pháp tạp nhiễm của tất cả chúng sinh, tác ý không như lý là nhân, vô minh là duyên. Vô minh là nhân, hành là duyên. Hành là nhân, thức là duyên. Thức là nhân, danh sắc là duyên. Danh sắc là nhân, lục xứ là duyên. Lục xứ là nhân, xúc là duyên. Xúc là nhân, thọ là duyên. Thọ là nhân, ái là duyên. Ái là nhân, thủ là duyên. Thủ là nhân, hữu là duyên. Hữu là nhân, sinh là duyên. Sinh là nhân, sở duyên là duyên. Phiền não là nhân, nghiệp là duyên. Kiến là nhân, ái là duyên. Thùy miên là nhân, sở khởi là duyên. Các tạp nhiễm của tất cả chúng sinh như vậy là nhân, như vậy là duyên, mỗi mỗi Như Lai đều biết như thật.

Lại nữa, nhân duyên là tất cả chúng sinh đối với pháp thanh tịnh có hai nhân và hai duyên. Nếu các chúng sinh nghe lời tùy thuận từ người khác, liền tác ý chắc chắn, đối với Tam-ma-địa khéo quán tưởng, khéo trụ tâm vào một cảnh tánh.

Lại nói về hai nhân hai duyên là đã khởi trí và chưa khởi trí. Hai nhân hai duyên là suy xét sinh pháp, không chứng Niết-bàn. Hai nhân hai duyên là đầy đủ minh hạnh, thủ chứng giải thoát. Hai nhân hai duyên là tu tập môn giải thoát, trí tự tánh giải thoát. Hai nhân hai duyên là tận trí, vô sinh trí. Hai nhân hai duyên là biết rõ chân thật, sở đắc chân thật. Như vậy tất cả chúng sinh, đối với pháp thanh tịnh có nhân như vậy, có duyên như vậy, mỗi mỗi Như Lai đều biết như thật.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Tất cả chúng sinh có nhiều loại, thanh tịnh sở duyên, tạp nhiễm sở duyên. Có người giữ thanh tịnh sở duyên, suy xét như thật. Có người giữ tạp nhiễm sở duyên, suy xét như thật. Có người trong tạp nhiễm sở duyên lại giữ thanh tịnh sở duyên, suy xét như thật. Có người trong thanh tịnh sở duyên lại giữ tạp nhiễm sở duyên, là vì chấp chặt vào tăng thượng mạn.

Xá-lợi Tử! Trí thù thắng của Như Lai rộng lớn vô biên, có khả năng chuyển khắp, biết tất cả như thật. Nghĩa là xa lìa các tội nghiệp, thu thập thiện pháp, nhập vào Sơ thiền định môn Ly sinh hỷ lạc, từ định Sơ thiền nhập vào Diệt thọ tưởng định, rồi xả. Cho đến từ Diệt thọ tưởng định nhập trở lại Sơ thiền rồi xả.

Tám giải thoát nghĩa là thuận nhập, nghịch nhập và nghịch thuận nhập. Những gì là tám?

  1. Có sắc quán các sắc giải thoát.
  2. Bên trong không sắc tưởng quán các sắc bên ngoài giải thoát.
  3. Thân thanh tịnh giải thoát tác chứng trụ cụ túc.
  4. Không vô biên xứ giải thoát.
  5. Thức vô biên xứ giải thoát.
  6. Vô sở hữu xứ giải thoát.
  7. Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát.
  8. Diệt thọ tưởng giải thoát.

Tám giải thoát này, hoặc thuận, hoặc nghịch, đẳng trì đẳng chí và Tam-muội da đều hay quán tưởng. Nhưng Phật Như Lai đối với Tam-ma-địa đều không phân biệt cũng không sở duyên và bỉ sở nhập. Như Lai trụ trong một Tam-ma-địa biến nhập tất cả Tam-mađịa, xả một định thì các định khác cũng vậy. Như Lai đối với tâm Đẳng dẫn không có chuyển liên tục, không có tâm sở đắc, không có tâm năng quán. Tất cả Tam-ma-địa của Duyên giác hơn Tam-ma-địa của Thanh văn. Tam-ma-địa của Bồ-tát hơn Tam-ma-địa Duyên giác. Tam-ma-địa chư Phật hơn Tam-ma-địa Bồ-tát. Vì sao? Vì trí thù thắng tăng thượng của Như Lai biến chuyển khắp tất cả. Nếu người phát tâm Thanh văn có nói ra điều gì, hay giảng dạy giáo pháp, Như Lai đều biết. Nếu người phát tâm Duyên giác, hoặc người phát tâm Bồ-tát, Như Lai cũng biết như thật, rồi tùy theo trình độ thích ứng mà nói pháp dạy dỗ.

Này Xá-lợi Tử! Đây là trí lực khởi lên Thiền định giải thoát đẳng trì đẳng chí nhiễm tịnh thứ bảy của Như Lai, không có cùng tận, ngang bằng với hư không. Các Bồ-tát trụ tín nghe rồi phát lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, biểu hiện thân tướng vui, tâm vui và sinh ý tưởng hy hữu.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập bằng kệ rằng:

Có các chúng sinh tánh tạp nhiễm
Và các chúng sinh nhân thanh tịnh
Bậc Đại Vô Úy đều biết rõ
Biết rồi tùy ứng mà nói pháp
Nhưng các phiền não từ đâu có?
Từ duyên vô minh mà sinh ra
Vô minh là nhân, hành là duyên
Cho đến chi hữu sinh các khổ
Tất cả phiền não các căn bản
Nguyên do tác ý không như lý
Từ nhân duyên ấy sinh chi hữu
Phật biết rõ rồi vì khai sáng
Các nghiệp căn bản gọi là hành
Vô minh và thức lại làm duyên
Cho đến các khổ chi hữu sinh
Theo âm thanh khác khởi các pháp
Tác ý sâu xa nhưng nội quán
Biết rõ hai nhân và hai duyên
Biết rõ nhân chúng sinh như thật
Vì khi nhân kia vắng lặng rồi
Chúng sinh nếu cầu nhân giải thoát
Phải nên quán sát pháp các duyên
Điều Ngự Thánh Tôn đều biết rõ
An trụ vững chắc giới thanh tịnh
Như ứng quán sát kỹ pháp không
Rồi khéo tu tập môn giải thoát
Giải thoát nạn khổ trong ba cõi
Thanh tịnh như thật khéo khai sáng
Chúng sinh tin pháp Phật thanh tịnh
Không, vô tướng, nguyện giải thoát môn
Tam-ma-bát-để lại tuyên bày
Thanh văn, Duyên giác các thiền định
Chúng sinh đủ cả các phiền não
Phật nói thiền định giải thoát môn
Viên thành lực thứ bảy không nhiễm
Điều phục, khó điều Phật khéo nói

Này Xá-lợi Tử! Đây là trí lực thứ bảy của Như Lai. Như Lai do đầy đủ trí lực thù thắng cho nên biết rõ thắng xứ, cho đến hết thảy không có pháp nào ngang bằng với Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là trí lực nhớ nghĩ việc đời trước của Như Lai? Đức Như Lai dùng trí vô thượng, tùy theo nhớ nghĩ mà biết rõ việc chính mình, hoặc người khác. Vô số nhiều loại các việc đời trước, hoặc một đời, hoặc hai đời, ba, bốn, năm đời; hoặc mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, trăm đời, ngàn đời, trăm ngàn đời, cho đến việc từ vô số câu-chi na-do-đa trăm ngàn đời, tùy theo nhớ nghĩ Như Lai đều biết. Hoạc kiếp thành, hoặc kiếp hoại, hoặc kiếp thành hoại, cho đến vô số kiếp thành hoại, ở nơi nào, chỗ nào, đời xa xưa có các chúng sinh có tên như vậy, dòng họ như vậy, chủng tộc như vậy, tướng như vậy, sắc tướng như vậy, hình thể như vậy, tuổi thọ như vậy, sống lâu như vậy, chịu khổ như vậy, hưởng vui như vậy, chết ở nơi nào, sinh ở nơi nào, lại chết ở nơi này rồi lại sinh nơi khác, hoặc có biểu hiện, hoặc không biểu hiện, hoặc mình, hoặc người, Như Lai đều nhớ nghĩ vô số các việc đời trước. Nếu các chúng sinh có nhân như vậy, do nhân đó, cho nên mới có ra như vậy, mỗi mỗi Như Lai đều biết như thật, biết rồi lại nói pháp yếu. Các tâm hạnh quá khứ của tất cả chúng sinh Như Lai đều biết rõ chắc chắn, hoặc tâm liên tục, hoặc tâm sở duyên, hoặc tâm sinh khởi, đối với tâm sở duyên không hoại không diệt.

Này Xá-lợi Tử! Như Lai biết rõ như thật về tâm tương tục, cho đến có những tâm tương tục gì của tất cả chúng sinh. Như Lai cũng biết rõ như thật về tâm khởi từ đâu, dù trải qua hằng hà sa số kiếp nói không thể hết được, nhưng Như Lai đều biết như thật. Vì thế nên biết, chư Phật Như Lai biết rõ tâm hạnh của tất cả chúng sinh không có biên tế, trải qua câu-chi kiếp nói cũng không hết, trí vô thượng tối thắng của Như Lai cũng không có biên tế.

Này Xá-lợi Tử! Như vậy, trí lực tác chứng nhớ nghĩ việc đời trước của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn, không có gì so sánh, không có hạn lượng, không thể tính đếm, không thể nói hết. Đối với cái không biên tế của chúng sinh, chỉ có trí lực thần thông nhớ nghĩ của Như Lai mới có thể biết được. Nếu các chúng sinh, sinh các thiện căn, hoặc Phật thừa, hoặc Duyên giác thừa, hoặc Thanh văn thừa, hoặc các thiện pháp, Như Lai tùy niệm đều biết hết. Như Lai dùng đại oai lực, tùy theo thiện căn sở duyên của các chúng sinh mà vì nói pháp, khiến các chúng sinh ấy không còn thoái chuyển đối với quả Chánh đẳng Chánh giác, tin hiểu như vậy đều được xuất ly, hoặc phát tâm Thanh văn thừa, hoặc phát tâm Duyên giác thừa, hoặc phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Này Xá-lợi Tử! Đây là trí lực tác chứng nhớ nghĩ việc đời trước thứ tám của Như Lai, không có biên tế, ngang bằng với hư không. Các Bồ-tát trụ tín nghe rồi phát lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, cho đến sinh ý tưởng hy hữu.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, lập lại bằng kệ rằng:

Trăm câu-chi kiếp không biên tế
Phật chiếu thấu tận việc đời trước
Biết rõ tâm tự tha năm loại
Như xem trái Am-ma trong tay
Thọ lượng kiếp số và sắc tướng
Chúng sinh sinh diệt tạo nghiệp nhân
Người đủ pháp khí cũng đều biết
Quá khứ vô biên không cùng tận
Thế gian chúng sinh tâm, tâm sở
Cứ sinh liên tục không gián đoạn
Đại trí Thánh Tôn biết hết cả
Quá khứ vô lượng các tâm pháp
Phật biết một tâm chúng sinh rồi
Hằng hà sa số tâm cũng vậy
Ba cõi vô tế, lại vô biên
Cho đến hậu tế không thể tận
Như vậy trí sở hành vô tận
Vô số cũng lại không hạn lượng
Biển trí Thế Tôn rộng vô biên
Đều biết chúng sinh thiện ý vui
Tôn trọng Năng Nhân đủ vô lượng
Thần thông trí lực đều rộng lớn
Như xưa đã tu nhân thiện pháp
Dùng oai thần lực để nhớ nghĩ
Vô lượng việc phước lớn như vậy
Ba thứ trí thông khéo nhớ nghĩ
Đại tâm an trụ không thoái chuyển
Đã tu thắng hạnh đạo giải thoát
Chánh trí Thiện Thệ lượng vô biên
Hay biết tất cả tâm chúng sinh
Trí lực thứ tám rộng vô biên
Phật tử nên sinh tin thanh tịnh.

Này Xá-lợi Tử! Đây là trí lực thứ tám của Như Lai. Do Như Lai có đầy đủ trí lực thù thắng, cho nên biết rõ thắng xứ, cho đến không có một pháp nào ngang bằng với Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là trí lực Thiên nhãn tùy niệm tác chứng của Như Lai? Nghĩa là, Như Lai dùng trí vô thượng, thiên nhãn thanh tịnh, hơn cả Nhục nhãn, quán thấy tất cả chúng sinh thế gian, lúc sinh lúc diệt, giàu sang, nghèo hèn, thiện tướng ác tướng, hướng đến đường lành, rơi vào nẻo ác, tất cả đều tùy theo nghiệp báo của chúng sinh nào chịu quả báo ấy. Như Lai đều biết.

Lại nữa, nếu chúng sinh, thân, miệng, ý tạo các bất thiện, hủy báng các Hiền thánh, khởi các từ kiến; do tích tập nhân tà kiến đó, cho nên khi mạng chung đọa vào đường ác, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu các chúng sinh, thân, miệng, ý nghiệp làm các việc lành, không hủy báng Hiền thánh, khởi lên chánh kiến; do tích tập nhân chánh kiến đó, cho nên khi mạng chung, được sinh lên cõi trời.

Lại nữa, Thiên nhãn Như Lai thanh tịnh, nhìn khắp mười phương tất cả cõi Phật, như hư không giới không có biên tế, cũng như pháp giới không có hạn lượng, không thể nói được. Tất cả mười phương hằng hà sa số cõi Phật, trí sáng của Như Lai thảy đều chiếu hiện, hoặc thấy tất cả lửa lớn cháy, hoặc thấy các tướng thành hoại, hoặc thấy chúng sinh từ trong ánh sáng đến, hoặc thấy chúng sinh lúc sinh, lúc diệt; hoặc thấy Bồ-tát hiện trong ánh sáng, hoặc thấy Bồ-tát từ Đâu-suất Thiên diệt rồi lại sinh xuống nhân gian, giáng thần thai mẹ, Bồ-tát sinh rồi bước đi bảy bước, các việc Bồ-tát trụ thai, vào thai đều quán thấy cả. Hoặc thấy chư Phật Thế Tôn hiện trong ánh sáng, hoặc thấy Bồ-tát thành quả Chánh giác, hoặc thấy chư Phật chuyển đại pháp luân, hoặc thấy chư Phật xả thọ mạng duyên hành, nhập đại Niết-bàn; hoặc thấy các Thanh văn hiện trong các ánh sáng, lại thấy Thanh văn hướng chứng Niết-bàn; hoặc thấy các Duyên giác hiện trong các ánh sáng, lại thấy Duyên giác hiện các thần thông tạo sự thanh tịnh lớn; hoặc có chúng sinh không thể nương vào ánh sáng của Phật để đến. Hoặc thấy chúng ngoại đạo và chúng Tiên ngũ thông không thể bằng với Thanh văn, Duyên giác và Bồ-tát, thế nên không thể nương vào ánh sáng mà đến, nhưng lại nhờ vào ánh sáng trí lực Thiên nhãn thanh tịnh của Như Lai, nên cũng đều nương vào ánh sáng mà đến. Hoặc lại Như Lai hiện xa luân bằng với ánh sáng rộng lớn, có các chúng sinh nương ánh sáng mà đến. Như vậy, cho đến tam thiên đại thiên thế giới, vô lượng vô biên chúng sinh giới, tất cả trời, người đều hiện trong ánh sáng trí của Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Thiên nhãn thanh tịnh của Như Lai nhìn khắp các chúng sinh giới trong tất cả cõi Phật. Sau khi quán sát thấy chúng sinh nào thích ứng hóa độ, thì tùy theo trình độ thích ứng đó mà Như Lai hiện ra trước để hóa độ. Chúng sinh ấy tuy được hóa độ rồi, nhưng các chúng sinh khác không thể biết.

Này Xá-lợi Tử! Đây là trí lực Thiên nhãn tác chứng thứ chín của Như Lai, không có biên tế, ngang bằng với hư không. Các Bồ-tát trụ tín nghe rồi phát lòng tin thanh tịnh cho đến sinh ý tưởng hy hữu.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:

Thiên nhãn Thiện Thệ sạch không nhơ
Tích tập thiện nhân vô số kiếp
Phat nhãn quán chiếu khắp mười phương
Cõi Phật rộng lớn không thể bàn
Hoặc thành hoặc hoại các sự tướng
Hoặc thấy lửa dữ bùng cháy lên
Hoặc thấy nhiều cõi trống rỗng cả
Trí tự nhiên Phật đều chiếu sáng
Chúng sinh giới rộng lớn khó bàn
Hoặc sắc, vô sắc cũng như vậy
Hoặc sinh ác thú hay thiện thú
Trí tự nhiên Phật đều chiếu sáng
Hiện tại câu-chi các Như Lai
Cho đến các Thánh Tôn Niết-bàn
Và các Duyên giác cùng Thanh văn
Trí tự nhiên Phật đều chiếu sáng
Bồ-tát vì muốn lợi chúng sinh
Các vị tu hành hạnh Bồ-đề
Giác trí minh đạt không nhiếp tạng
Trí tự nhiên Phật đều chiếu sáng
Như vậy Thiện Thệ mắt không nhơ
Vi tế chúng sinh đều quán thấy
Trí nhãn lực thứ chín khó bàn
Phật tử phải nên sinh tịnh tín.

Này Xá-lợi Tử! Đây là trí lực thứ chín của Như Lai. Như Lai do đầy đủ trí lực thù thắng cho nên biết rõ thắng xứ cho đến không có pháp nào ngang bằng với Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là trí lực lậu tận tác chứng của Như Lai? Nghĩa là, Như Lai dùng trí lực vô thượng, tận sạch các lậu, không phải lậu tùy tăng, tâm thiện giải thoát, tuệ thiện giải thoát, tự chứng thông rồi tùy theo các sở hành, ngã sinh đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn thọ thân sau. Như Lai dùng trí lực lậu tận thanh tịnh xán lạn này, đoạn tất cả thói quen chủng tử, tất cả Thanh văn, Duyên giác không thể sánh kịp.

Thanh văn lậu tận là còn có hạn lượng, không đoạn tập khí. Duyên giác lậu tận cũng còn có hạn lượng, xả đại Bi và biện tài.

Như Lai lậu tận là đầy đủ các tướng, đoạn trừ tất cả thói quen chủng tử, đại Bi nhiếp thọ, biện tài vô úy sâu xa, quán sát khéo léo, tất cả thế gian không có ai hơn Ngài, trụ tướng nhất tâm hòa hợp mà thành. Vì sao? Vì Như Lai không còn nghiệp chủng tư, không còn chủng tử phiền não, oai nghi không có lỗi lầm. Cũng như hư không trong sáng quang đãng, mây mờ trần cấu không thể nhiễm. Trí lực lậu tận của Như Lai cũng lại như vậy, tất cả chủng tử phiền não không thể nhiem. Như Lai an trụ trí lực lậu tận thanh tịnh như vậy, đã hết các lậu hoặc, nói pháp lậu tận, cũng nói pháp đoạn thủ chấp trước, khiến các chúng sinh biết rõ tất cả không khởi phân biệt hư vọng và chấp trước, khiến các chúng sinh suy xét như thật. Như Lai dùng phương tiện khéo léo nói pháp, thí dụ, khiến các chúng sinh biết được như thật về các lậu không thật, đối với tất cả các pháp không dính mắc vào một pháp nhỏ nào, đối với mọi chấp trước đều được vắng lặng.

Này Xá-lợi Tử! Như Lai biết rõ các lậu tập của tất cả chúng sinh, các pháp lậu diệt, các lậu hướng đến đạo diệt, Như Lai biết như thật rồi, tùy theo trình độ thích ứng mà nói pháp yếu. Cac Bồ-tát trụ tín đối với trí lực lậu tận tác chứng của Như Lai, nghe rồi sinh lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, cho đến sinh ý tưởng hy hữu.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:

Trí lực lậu tận Phật đầy đủ
Rộng lớn vô lượng tịnh không chướng
Đầy đủ mười Lực trí thù thắng
Hướng chứng quả Bồ-đề vô thượng
Không đồng trí lậu tận Thanh văn
Chủng tập hạn lượng chướng trói buộc
Nhân Trung tối thượng bậc tối thắng
Dứt sạch chủng tâp và hạn lượng
Các trí lậu tận của Duyên giác
Chưa đủ đại Bi và Biện tài
Thế Tôn viên thành trí lậu tận
Đại Bi, Biện tài đều vô lượng
Phật khéo an trụ trí lậu tận
Biết rõ thế gian lậu không thật
Tất cả các pháp đều hư vọng
Lý này như ứng đều biết rõ
Thương nghĩ thế gian rất khổ não
Thuyết pháp vô ngã, không, vô thường
Các tướng hư giả không có thật
Nên quán vị vắng lặng tối thượng
Không ngã, không nhân, không chúng sinh
Tác giả, thọ giả cũng đều không
Đối với tất cả pháp hư vọng
Tâm Phật từ bi quán giải thoát
Như Lai lìa hết các mệt mỏi
Pháp thật trí cũng không quên mất
Năng Nhân thường trụ môn tương ưng
Rộng lợi thế gian nói chánh pháp
Mười Lực bẻ gãy các tà pháp
Mười Lực vô biên bằng hư không
Khéo hay an trụ mười lực tôn
Chuyển luân vô thượng không gì bằng.

Này Xa-lợi Tử! Đây là trí lực thứ mười của Như Lai. Như Lai do đầy đủ mười Trí lực như vậy, cho nên biết rõ thắng xứ, ở trong hàng trời người hay rống tiếng rống sư tử, chuyển phạm luân vi diệu, tất cả trời, người, ma, Phạm đều không thể chuyển, không có pháp nào bằng với Như Lai. Các Bồ-tát trụ tín đối với trí lực tối thắng chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, nên sinh lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, biểu hiện thân tướng vui, tâm vui, sinh ý tưởng hy hữu.

*********

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là bốn pháp Vô sở úy chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, mà các Bồ-tát trụ tín phải nên sinh lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, cho đến sinh ý tưởng hy hữu?

Này Xá-lợi Tử! Pháp Vô sơ úy của Như Lai có bốn thứ, do Như Lai có đầy đủ bốn Vô sở úy này, cho nên biết rõ thắng xứ, ở trong đại chúng rống tiếng rống sư tử, chuyển phạm luân vi diệu, ngoài ra các Sa-môn, Bà-la-môn khác đều không thể chuyển. Tất cả thế gian Trời, Người, Ma, Phạm không có pháp nào bằng với Như Lai.

Này Xá-lợi Tử! Bốn Vô sở úy là gì?

Một là, Nhất thiết trí vô úy. Nghĩa là Phật Như Lai đầy đủ trí thù thắng vô thượng, ở trong đại chúng nói như vầy: “Ta thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, pháp này chỉ có Phật mới tự chứng biết, ngoài ra các hàng trời, người, thế gian không có pháp nào bằng với pháp Phật nói. Như Lai nhờ pháp này cho nên thành Chánh đẳng giác.”

Sao gọi là Như Lai thành Chánh đẳng giác? Vì tất cả pháp bình đẳng, cho nên Phật Như Lai thành Chánh đẳng giác. Đối với các pháp không cao, không thấp, hoặc pháp dị sinh, hoặc pháp Thánh nhân, hoặc pháp chư Phật, hoặc pháp hữu học, hoặc pháp vô học, hoặc pháp Duyên giác, hoặc pháp Bồ-tát, hoặc pháp thế gian, hoặc pháp xuất thế gian, hoặc pháp có tội, hoặc pháp không tội, hoặc pháp hữu lậu, hoặc pháp vô lậu, hoặc pháp hữu vi, hoặc pháp vô vi, đối với các pháp như vậy, Như Lai đều bình đẳng. Đây gọi là Như Lai hiện thành Chánh giác.

Trong đó, sao gọi là bình đẳng? Nghĩa là, Không bình đẳng, vì thấy được tự tánh; vô tướng bình đẳng, ấy là tướng tự tánh; vô nguyện bình đẳng, ấy là tam giới tự tánh; vô sinh bình đẳng, ấy là sinh tự tánh; vô tác bình đẳng, ấy là tác tự tánh; vô khởi bình đẳng, tức là khởi tự tánh; vô hàm tàng bình đẳng, tức là hàm tàng tư tánh; như đã nói bình đẳng, tức ba đời tự tánh; minh giải thoát bình đẳng, tức vô minh hữu ái tự tánh; Niết-bàn bình đẳng, tức các hành tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Vì các pháp bình đẳng như vậy, cho nên Như Lai hiện thành Chánh giác. Như Lai ở trong đại chúng được vô sở úy, đem pháp này chỉ dạy chúng hội, khiến các chúng hội được sinh hoan hỷ, vì thân được vui, cho nên tâm rất tín thuận, lại khiến chúng hội vui vẻ khoái thích. Như Lai đại Bi, tương ưng đầy đủ chân thật, tánh bình đẳng, tánh như thật, tánh không khác, tánh không chủng loại, tánh không sở quán, tánh vô sinh, tánh không lìa, tánh không sở thủ. Tuy Như Lai đầy đủ pháp vô úy, nhưng thật không dính mắc vào một pháp nhỏ nào, cũng không phải không dính mắc. Pháp Vô sở úy của Như Lai không có dối gạt, bình đẳng như thật, pháp giới bình đẳng. Đối với các pháp bình đẳng này, bao gồm tất cả pháp giới, pháp như thật của Như Lai thênh thang vô ngại, thậm thâm vi diệu, khó hiểu khó biết. Như Lai khởi tâm đại Bi dùng pháp này bày các phương tiện, vì các chúng sinh, rộng tuyên nói pháp xuất ly của Thánh Tôn. Pháp này có khả năng chấm dứt các khổ. Tất cả chúng sinh không sư phạm, vì đại nguyện lực, Như Lai làm sư phạm; người chưa thành Chánh giác, khiến thành Chánh giác; tất cả chúng sinh chạy theo các cảnh đoạn kiến, Như Lai dùng pháp vô úy khiến được thanh tịnh.

Này Xá-lợi Tử! Pháp Vô sở úy của Như Lai vô cùng vô tận, ngang bằng với hư không. Nếu ai biết cái cùng tận của hư không, thì biết được cái Cùng tận vô sở úy của Như Lai. Các Bồ-tát trụ tín nghe pháp này rồi, nên sinh lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, cho đến sinh ý tưởng hy hữu. Đây gọi là Vô úy thứ nhất của Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Lậu tận vô úy thứ hai của Như Lai là Phật Như Lai đầy đủ trí thù thắng vô thượng, ở trong đại chúng nói như vầy: “Ta đã hết các lậu, được Vô sở úy. Tất cả thế gian trời, người không có pháp nào ngang bằng với pháp Phật nói.”

Sao gọi là Như Lai đã tận các lậu? Phật Như Lai đã hết dục lậu, tâm được giải thoát, đoạn diệt tất cả chủng tử tham lam. Như Lai đã hết hữu lậu, tâm được giải thoát, đoạn diệt tất cả chủng tử sân hận. Như Lai đã hết vô minh lậu, tâm được giải thoát, đoạn diệt tất cả chủng tử si mê. Như Lai đã hết kiến lậu, đoạn diệt hết tất cả chủng tử phiền não. Đây gọi là Như Lai đoạn tận các lậu. Nói như thế chỉ là dựa theo thế tục, chứ không phải Thắng nghĩa đế.

Thắng nghĩa đế là trí tuệ tối thượng của bậc Thánh, hoặc biết, hoặc đoạn, hoặc tu, hoặc chứng. Tuy vậy, nhưng không dính mắc vào một pháp nhỏ nào. Vì sao? Vì như đã nói, tận biết đúng như thật. Nếu các chúng sinh tu hạnh xuất ly, Như Lai đều biết như thật.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như Lai biết như thật nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới.

Sao gọi là năng tri? Vì Đức Phật biết rõ trong không, ngoài không, trong ngoài đều không, cho đến biết như thật về ý giới, pháp giới, ý thức giới.

Sao gọi là năng tri? Nghĩa là, Đức Phật biết rõ trong không, ngoài không, trong ngoài đều không.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như Lai biết rõ như thật về địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới và hư không giới.

Sao gọi là năng tri? Như hư không, biết rõ cũng như vậy. Như Lai biết rõ Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới đều khởi từ phân biệt; biết hữu vi giới là tướng tạo tác; biết vô vi giới là tướng không tạo tác; biết tạp nhiễm giới là tướng khách trần phiền não; biết thanh tịnh giới là tướng tự tánh xán lạn; biết các hành giới là tướng vô minh tác ý không như lý; biết Niết-bàn giới là tướng trí sáng suốt tác ý như lý.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nếu nương vào các giới, an trụ các giới, tùy thuận các giới, kiến lập các giới, tác dụng các giới, ý thú các giới, tịch định các giới, trụ trước các giới, mỗi mỗi Như Lai đều biết như thật. Như Lai tùy theo đối tượng biết đó rồi vì nói pháp.

Này Xá-lợi Tử! Đây gọi là trí lực mỗi mỗi giới của Như Lai. Lực thù thắng như vậy không có biên tế. Nếu các Bồ-tát trụ tín đối với trí lực thù thắng của Như Lai, nghe rồi phát lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, biểu hiện thân tướng vui, tâm vui và sinh ý tưởng hy hữu.

Các Bồ-tát trụ tín nghe pháp vô úy biên tế của Như Lai rồi, sinh lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, cho đến sinh ý tưởng hy hữu. Đây là pháp vô uy thứ hai của Như Lai. Do Như Lai đầy đủ vô sở úy, cho nên tất cả trời, người, thế gian không có pháp nào bằng pháp của Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Ba là, Thuyết chướng đạo vô úy. Nghĩa là, chư Phật Như Lai đầy đủ trí thù thắng vô thượng, ở trong đại chúng nói lên như vầy: “Ta nói các pháp chướng đạo hay chướng Thánh đạo, cho đến tất cả trời, người, thế gian không có pháp nào bằng với pháp của Như Lai.”

Sao gọi là pháp chướng đạo? Có một pháp hay chướng Thánh đạo là tâm của các chúng sinh không thanh tịnh. Hai pháp hay chướng Thánh đạo là không biết tàm, không biết quý. Ba pháp hay chướng Thánh đạo là thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Bốn pháp hay chướng Thánh đạo, bốn pháp ấy đều làm cho chúng sinh đọa vào đường ác. Đó là tham dục sẽ đọa vào đường ác, sân nhuế sẽ đọa đường ác, ngu si sẽ đọa vào đường ác, sợ hãi sẽ đọa vào đường ác. Năm pháp hay chướng Thánh đạo là sát sinh, trộm cắp, tà nhiễm, nói dối, uống rượu. Sáu pháp hay chướng Thánh đạo là không tôn trọng Phật, không tôn trọng pháp, không tôn trọng Tăng, không tôn trọng giới học, không tôn trọng định học, không tôn trọng người tu hạnh đầu đà. Bảy pháp hay chướng Thánh đạo là mạn, quá mạn, mạn quá mạn, ngã mạn, tà mạn, tăng thượng mạn, ty mạn. Tám pháp hay chướng Thánh đạo là tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà cần, tà niệm, tà định. Chín pháp hay chướng Thánh đạo là đối với ngã thân làm việc không nghĩa lợi, sinh tâm tổn hại, đã làm, đang làm, sẽ làm; đối với cái gì ngã thích, làm việc không nghĩa lợi, sinh tâm tổn hại, đã làm, đang làm và sẽ làm; đối với cái gì ngã không thích, làm việc không nghĩa lợi, sinh tâm tổn hại, đã lam, đang làm và sẽ làm. Mười pháp hay chướng Thánh đạo là sát sinh, trộm cắp, tà nhiễm, nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, nói ác, tham sân, tà kiến.

Này Xá-lợi Tử! Các pháp như trên hay chướng Thánh đạo, cho đến tác ý không như lý, tương ưng sinh ra kết sử, pháp này vô vị, không nên quán, không nên làm. Do tham lam và điên đảo, cho nên không xuất ly, sinh khởi mọi ái kiến, chấp trước vào thân, miệng, ý nghiệp, ái trước càng tăng. Như Lai biết rõ các pháp chướng Thánh đạo, biết như thật rồi, vì các chúng sinh nói rõ pháp chướng đạo, khiến các chúng sinh tịch chỉ, cận chỉ, nói pháp trừ đoạn, chỉ dạy tất cả, khiến các chúng hội đều được hoan hỷ, thân được vui vẻ, tâm rất tín thuận, lại khiến chúng hội khoái thích. Như Lai đại Bi tương ưng chân thật đầy đủ, tánh bình đẳng, tánh như thật, tánh không khác, tánh không chủng loại, tánh không sở quán, tánh không sinh, tánh không lìa, tánh không chấp thủ. Tuy Như Lai đầy đủ pháp vô úy, nhưng lại không dính mắc một pháp nhỏ nào, cũng không phải không dính mắc. Pháp Vô sở úy của Như Lai không có dối gạt, vì bình đẳng như thật, pháp giới bình đẳng, pháp bình đẳng ấy bao trùm tất cả thế giới, thênh thang vô ngại. Chánh pháp thậm thâm này chẳng thể nghĩ bàn, vô lượng vô số. Như Lai đầy đủ pháp đó rồi, tâm đại Bi thôi thúc vì các chúng sinh nói pháp đoạn trừ chướng đạo, khiến tất cả được tịch chỉ cận chỉ.

Này Xá-lợi Tử! Pháp Vô sở úy của Như Lai vô biên vô tận, bằng với hư không. Nếu ai biết cái cùng tận của hư không, thì biết được cái cùng tận vô úy của Như Lai. Các Bồ-tát trụ tín nghe pháp này rồi, sinh lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, cho đến sinh ý tưởng hy hữu. Đây là pháp vô úy thứ ba của Như Lai. Như Lai do đầy đủ vô úy cho nên tất cả trời, người, thế gian không có pháp nào bằng pháp của Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bốn là, Vô úy dứt trừ con đường khổ. Phật Như Lai đầy đủ trí thù thắng vô thượng, ở trong đại chúng nói như vầy: “Ta nói pháp xuất ly của bậc Thánh, nó có khả năng dứt sạch đường khổ, cho đến tất cả trời, người, thế gian không có pháp nào bằng pháp Phật nói.”

Sao gọi là pháp xuất ly của bậc Thánh hay chấm dứt con đường khổ? Pháp ấy có một, là con đường xuất ly của bậc Thánh. Những gì là một? Là tâm của các chúng sinh đều thanh tịnh. Hai pháp xuất ly của bậc Thánh là Xa-ma-tha và Tỳ-bát-xá-na. Ba pháp xuất ly của bậc Thánh là Không, Vô tướng và Vô nguyện. Bốn pháp xuất ly cua bậc Thánh là Thân niệm xứ, Thọ niệm xứ, Tâm niệm xứ và Pháp niệm xứ. Năm pháp xuất ly của bậc Thánh là Tín căn, Tinh tấn căn, Niệm căn, Định căn và Tuệ căn. Sáu pháp xuất ly của bậc Thánh là niệm Phật, niệm pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên. Bảy pháp xuất ly của bậc Thánh là Trạch pháp giác chi, Tinh tấn giác chi, Hỷ giác chi, Khinh an giác chi, Xả giác chi, Niệm giác chi, Định giác chi. Tám pháp xuất ly của bậc Thanh là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Chín pháp hoan hỷ căn bản là con đường xuất ly của bậc Thánh là hoan hỷ, khoái thích, khinh an, vui vẻ, đẳng trì, tri kiến, như thật, tịch tĩnh, ly nhiễm. Mười pháp xuất ly của bậc Thánh là xa lìa sát sinh, xa lìa trộm cắp, xa lìa tà nhiễm, xa lìa nói dối, xa lìa nói thêu dệt, xa lìa nói hai lưỡi, xa lìa ác khẩu, xa lìa tham dục, xa lìa sân nhuế, đầy đủ chánh kiến.

Này Xá-lợi Tử! Như vậy là ta đã nói các pháp xuất ly của bậc Thánh. Pháp ấy có khả năng chấm dứt con đường khổ, cho đến các thiện pháp Bồ-đề phần, tương ưng giới uẩn, tương ưng định uẩn, tương ưng tuệ uẩn, tương ưng giải thoát uẩn, tương ưng giải thoát tri kiến uẩn, tương ưng bốn pháp Thánh đế. Các pháp này đều là con đường xuất ly của bậc Thánh.

Lại có con đường xuất ly của bậc Thánh, đó là sở hành chân chánh. Sở hành chân chánh này không có pháp nào có thể hành, cũng không phải không hành, không vào, không ra, không lấy, không bỏ. Vì sao? Vì nếu đã hành hoặc sẽ hành, cả hai đều lìa. Tất cả các pháp không hai cũng vậy. Điều này nên thấy biết như thật vì đó là con đường xuất ly của bậc Thánh Như Lai biết rõ con đường xuất ly của bậc Thánh rồi, đem triển khai thuyết giảng cho các chúng sinh, khiến các chúng hội đều sinh hoan hỷ. Do thân vui cho nên tâm rất tín thuận, lại khiến chúng hội vui vẻ thích thú. Đại Bi Như Lai tương ưng chân thật đầy đủ, là vì tánh bình đẳng, tánh như thật, tánh không khác, tánh không chủng loại, tánh không sở quán, tánh không sinh, tánh không lìa, tánh không sở thủ. Tuy Như Lai đầy đủ pháp vô úy như vậy, nhưng không dính mắc vào một pháp nhỏ nào, cũng không phải không dính mắc. Pháp Vô sở úy của Như Lai không có dối gạt, là vì bình đẳng như thật. Pháp giới bình đẳng, pháp bình đẳng ấy bao trùm tất cả thế giới, thênh thang vô ngại. Chánh pháp thậm thâm này vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn. Như Lai đầy đủ pháp ấy rồi, với tâm đại Bi thôi thúc, vì các chúng sinh khai triển tuyên nói pháp xuất ly của bậc Thánh, khiến các chúng sinh đều giác ngộ, dứt sạch tận gốc khổ.

Này Xá-lợi Tử! Đây là pháp Vô sở úy thứ tư của Như Lai. Do Như Lai đầy đủ bốn Vô sở úy, cho nên biết rõ thắng xứ, ở trong đại chúng rống tiếng rống sư tử, chuyển phạm luân vi diệu. Các Sa-môn, Bà-la-môn khác không thể chuyển được; cho đến tất cả thế gian Trời, Người, Ma, Phạm không có pháp nào bằng với pháp của Như Lai.

Này Xá-lợi Tử! Bốn pháp Vô sở úy của Như Lai vô biên vô tận, bằng với hư không. Nếu ai biết cái cùng tận của hư không thì là biết được cái cùng tận vô úy của Như Lai. Các Bồ-tát trụ tín nghe được pháp vô úy chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, sinh lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, biểu hiện thân tướng vui, tâm vui và sinh ý tưởng hy hữu.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:

Tất cả các pháp đều bình đẳng
Trí Tự Nhiên Phật tùy biết rõ
Do vậy hiện chứng Phật Bồ-đề
Như Lai bình đẳng quán sát khắp
Thế gian tất cả pháp dị sinh
Cùng pháp chư Phật đều bình đẳng
Hữu học, Vô học các pháp môn
Và pháp Duyên giác cũng như vậy
Tất cả các pháp ở thế gian
Và pháp môn tối thắng xuất thế
Pháp thiện ác không động cũng vậy
Cùng đạo Niết-bàn đều bằng nhau
Kể cả pháp không, pháp không tướng
Pháp vô nguyện ấy cũng như vậy
Trong các pháp vô sinh vô tác
Như Lai bình đẳng đồng quán chiếu
Biết rõ pháp bình đẳng này rồi
Phật vì chúng sinh rộng tuyên nói
Giáo hóa chúng sinh về giải thoát
Vô úy đệ nhất của Mâu-ni
Ba pháp giải thoát ở thế gian
Nói môn giải thoát cho chúng sinh
Phật đại vô úy Nhân Trung Tôn
Đây là pháp vô úy thứ hai
Tuy biết chư Phật diễn chánh pháp
Cớ gì thân cận không giải thoát
Tâm không thanh tịnh, không tàm quý
Bởi các nghiệp này làm chướng ngại
Lại do ba nghiệp thân, miệng, ý
Không tuân giới pháp lại làm ác
Tham, sân, si, bố khởi bốn tội
Năm tội giết hại và trộm cắp
Tà nhiễm, vọng ngôn cùng uống rượu
Sáu không tôn trọng, bảy mạn sinh
Tám thứ tà pháp bùng nổi lên
Chín thứ não xứ nhiều lỗi lầm
Sau khởi mười thứ nghiệp bất thiện
Nó làm chướng ngại đạo giải thoát
Tác ý quá lắm không biết rõ
Vì bị si ám nó che lấp
Chấp trước hư vọng và say mê
Siêng làm điên đảo biết rõ rồi
Rồi lại thân cận với chánh pháp
Đây là pháp vô úy thứ ba
Pháp môn thanh tịnh, không hạn lượng
Vì gần chánh pháp chứng Bồ-đề
Chỉ trí của Phật biết tịch tĩnh
Biết rồi rộng thí pháp cam lồ
Phật rất khen ngợi Bồ-đề phần
Cho đến rất nhiều thiện pháp khác
Quen gần là pháp môn giải thoát
Phật, Đấng Thập Lực khéo tuyên nói
Siêng năng kiên cố lìa các nhiễm
Đối với thiện pháp đều tương ưng
Pháp này phi pháp tâm không chấp
Tịch tĩnh giải thoát lìa sợ hãi
Biết rõ như thật các thiện pháp
Như hư không thênh thang không ngại
Không chấp trước pháp cũng như vậy
Có thể xuất ly biển ba cõi
Trong biển ba cõi người mê đắm
Đấng Thập Lực Tôn nói nghiệp ấy
hật khiến giải thoát tâm thương xót
Bốn pháp vô úy bằng hư không.

Này Xá-lợi Tử! Ta đã nói bốn pháp Vô úy chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai. Các Bồ-tát trụ tín nghe pháp này rồi, nên sinh lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, cho đến sinh ý tưởng hy hữu.

Vô sinh tức là vô tận, ở trong cái rốt ráo tận không có cái để đối trị, đây gọi là tận. Như đã nói tận, cũng lại không có pháp tận có thể tận. Đó là vô vi. Vô vi tức là không diệt, không trụ. Nếu nói có sinh thì Như Lai không sinh, pháp tánh thường trụ, pháp giới thường trụ, các pháp cũng lại tùy theo trí sở hành. Nhưng sở hành đó đều không sở hành, cũng không phải không sở hành, cũng có thể được pháp vô lậu. Tuy lại như vậy, Như Lai an trụ tâm đại Bi cũng vì chúng sinh tuyên nói rộng rãi, đoạn trừ các pháp lậu. Như Lai ở trong đại chúng được sự không sợ sệt, rồi đem pháp này chỉ dạy chúng hội, khiến các chúng hội đều được hoan hỷ; do thân được hoan hỷ cho nên tâm rất tín thuận, lại khiến chúng hội vui vẻ khoái thích. Như Lai đại Bi tương ưng đầy đủ chân thật, là tánh bình đẳng, tánh như thật, tánh không sai khác, tánh không chủng loại, tánh không sở quán, tánh không sinh, tánh không lìa, tánh không sở thủ. Tuy Như Lai đầy đủ pháp vô úy như vậy, nhưng không dính mắc một pháp nhỏ nào, cũng không phải không dính mắc. Pháp vô úy của Như Lai không có hư dối, vì là bình đẳng như thật, pháp giới bình đẳng; pháp bình đẳng ấy bao trùm cả thế giới, thênh thang vô ngại. Chánh pháp thậm thâm này vô lượng, vô số chẳng thể nghĩ bàn. Như Lai đầy đủ pháp vô úy rồi, với tâm đại Bi thôi thúc, truyền đạt rộng rãi pháp này cho các chúng sinh.

Này Xá-lợi Tử! Pháp vô úy của Như Lai vô biên vô tận bằng với hư không. Nếu ai biết cái cùng tận của hư không thì là biết được cái cùng tận vô úy của Như Lai.

*********

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là tâm đại Bi chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, các các Bồ-tát trụ tín nghe nói pháp này rồi, thì nên sinh lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, cho đến sinh ý tưởng hy hữu?

Này Xá-lợi Tử! Tâm đại Bi của Như Lai là không bỏ tất cả chúng sinh, thường hành bi mẫn là vì thành thục, do chuyển hóa với tâm đại Bi cho nên không chỗ nào là không chuyển. Vì thế nên biết, tâm đại Bi của Như Lai không có hạn lượng, chẳng thể nghĩ bàn, không thể so sánh, cũng không có số lượng, không thể nói hết, thật là thậm thâm, như vậy ngữ nghiệp không thể tuyên nói. Vì sao? Vì tùy theo sở chứng của Như Lai nên Bồ-đề cũng vậy. Như vậy khởi tâm đại Bi là vì các chúng sinh, tùy theo Bồ-đề như vậy nên đại Bi cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Sao gọi là Như Lai chứng đắc Bồ-đề? Vì Như Lai không có căn bản, không có chỗ trụ, cho nên mới chứng Bồ-đề.

Sao gọi là căn bản? Sao gọi là trụ? Nghĩa là, có thân kiến làm căn bản, nương vào phân biệt hư vọng mà trụ. Do Bồ-đề của Như Lai bình đẳng cho nên hiểu biết bình đẳng, cả hai pháp cũng đều bình đẳng. Đây gọi là không trụ, không căn bản. Nhờ đó mà Như Lai hiện thành Chánh đẳng Bồ-đề. Nhưng các chúng sinh đối với pháp không trụ, không căn bản đó không thể biết được. Vì muốn khiến tất cả chúng sinh biết rõ, cho nên Như Lai mới chuyển tâm đại Bi.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề là tịch tĩnh cận tịch, do vậy nên ta thành Chánh giác.

Sao gọi là tịch tĩnh? Sao gọi là cận tịch? Bên trong gọi là tịch tĩnh, bên ngoài gọi là cận tịch. Vì sao? Vì mắt vốn Không, cho nên ngã và ngã sở đều không có tự tánh. Đây gọi là tịch tĩnh. Như vậy, vì tai, mũi, lưỡi, thân, ý vốn Không, nên ngã và ngã sở đều không có tự tánh. Đây gọi là cận tịch. Biết mắt vốn Không rồi, nên sắc không sơ thủ. Đây gọi là tịch tĩnh. Cho đến biết ý vốn Không rồi, thì pháp không sở thủ. Đây gọi là cận tịch. Nhưng các chúng sinh đối với pháp Bồ-đề tịch tĩnh này không thể hiểu nổi. Vì muốn tất cả chúng sinh đều giác ngộ, nen Như Lai mới chuyển tâm đại Bi.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề là tự tánh xán lạn, do vậy cho nên ta thành chánh giác.

Sao gọi là tự tánh xán lạn? Nghĩa là tự tánh không bị nhiễm, ngang bằng với hư không, tự tánh của hư không trải khắp tất cả. Vì hư không bình đẳng, cho nên tất cả pháp bình đẳng, tự tánh sáng suốt như vậy, tánh sáng suốt này tùy theo sở ứng mà biết rõ. Các kẻ ngu dị sinh do bị khách trần phiền não làm nhiễm, cho nen không biết được pháp tự tánh sáng suốt. Vì muốn tất cả chúng sinh giác ngộ, cho nên Như Lai chuyển tâm đại Bi.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề là không ra không vào, do vậy nên ta thành Chánh giác.

Sao gọi là không ra? Là vì vô tướng cho nên không ra. Lại không ra là vì tất cả pháp không xả.

Không vào là không dính mắc tất cả pháp. Như Lai đối với pháp không ra không vào này quán chiếu bình đẳng. Như Lai không thử không bỉ, tất cả pháp lìa bỉ thử. Vì thế Như Lai hiện thành Chánh giác. Các chúng sinh không thể hiểu nổi pháp không ra không vào này. Vì muốn khiến tất cả chúng sinh đều giác ngộ, nên Như Lai chuyển tâm đại Bi.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề là không tướng, không sở duyên, do vậy nên ta thành Chánh giác.

Sao gọi là không tướng? Sao gọi là không sở duyên? Nghĩa là, nhãn thức không sở đắc, đó là không tướng. Sắc không sở quán, đó là không sở duyên. Cho đến ý thức không sở đắc, tức là vô tướng.

Pháp không sở quán, tức là không sở duyên.

Này Xá-lợi Tử! Pháp không tướng, không sở duyên này là cảnh giới của bậc Thánh.

Sao gọi là cảnh giới của bậc Thánh? Ba cõi là cảnh giới của bậc Thánh. Các cảnh giới của bậc Thánh tức là không phải cảnh giới. Kẻ ngu dị sinh không thể hiểu nổi. Vì muốn tất cả chúng sinh đều giác ngộ, nên Như Lai chuyển tâm đại Bi.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề không phải là quá khứ, vị lai, hiện tại; ba đời bình đẳng, ba luân thanh tịnh, do vậy nên ta thành Chánh giác.

Sao gọi là ba luân thanh tịnh? Nghĩa là, tâm quá khứ không chuyển, thức vị lai không hay biết, ý hiện tại không lay động. Nhưng tâm, ý và thức đều không chỗ trụ; quá khứ không phân biệt, vị lai không lãnh nạp, hiện tại không hý luận. Các chúng sinh không thể hiểu nổi ba pháp bình đẳng, ba luân thanh tịnh này. Vì muốn tất cả chúng sinh giác ngộ, cho nên Đức Như Lai chuyển tâm đại Bi.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề là vô vi, do vậy nên ta thành Chánh giác. Có nghĩa là không phải nhãn thức sở tri, cho đến cũng không phải ý thức sở tri, nên gọi là vô vi. Vô vi tức là không, nhưng đối với pháp hữu vi cũng đều hiểu rõ. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp là không tánh, không tánh tức là không hai. Pháp vô vi không phải là thân chứng, các chúng sinh không thể hiểu nổi. Vì muốn tất cả chúng sinh giác ngộ, nên Như Lai chuyển tâm đại Bi.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề là câu không sai biệt, do vậy nên ta thành Chánh giác.

Sao gọi là không sai biệt? Sao lại gọi là câu? Như sở thuyết gọi là câu, không trụ gọi là không sai biệt; pháp giới gọi là câu, không chủng chủng tánh gọi là không sai biệt; thật tế gọi là câu, tánh không động gọi là không sai biệt; không gọi là câu, không sở đắc gọi là không sai biệt; vô tướng gọi là câu, không tầm từ gọi là không sai biệt; vô nguyện gọi là câu, không phần vị gọi là không sai biệt; không chúng sinh gọi là câu, chúng sinh không tự tánh gọi là không sai biệt; hư không gọi là câu, không sở đắc gọi là không sai biệt; không sinh gọi là câu, không diệt gọi là không sai biệt; vô vi gọi là câu, không sở hành gọi là không sai biệt; Bồ-đề gọi là câu, cận tịch gọi là không sai biệt; Niết-bàn gọi là câu, không sở chuyển gọi là không sai biệt.

Này Xá-lợi Tử! Các pháp này các chúng sinh không thể hiểu nổi. Vì muốn tất cả chúng sinh giác ngộ, nên Như Lai mới chuyển tâm đại Bi.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề không thể đem thân tâm để chứng. Vì sao? Vì thân này là vô tri, vô tác, vô chuyển, như cỏ, cây, ngói, đá. Tâm này như huyễn hóa, như bóng trăng in nước, như bóng nắng, cần nên biết rõ như vậy. Nếu thân tâm như vậy thì là Bồ-đề. Nói như thế là tùy theo sở hành của thế tục, chứ Bồ-đề không có một pháp nhỏ nào để nói. Hoặc thân, hoặc tâm, hoặc pháp, hoặc phi pháp, hoặc chân thật, hoặc không chân thật, hoặc thành thật, hoặc hư vọng đều không ngôn thuyết. Vì sao? Vì Bồ-đề không ngôn thuyết, tất cả pháp ấy cũng không có phần vị để dung chứa ngôn thuyết. Cũng như hư không thật không có phần vị, không ngôn thuyết, Bồ-đề cũng vậy, không có phần vị, cũng không có ngôn thuyết.

Này Xá-lợi Tử! Nếu quán sát điều đó như thật thì tất cả pháp vốn không có ngôn thuyết. Pháp không có ngôn thuyết cũng không phải không thuyết, các chúng sinh không thể hiểu nổi lý của các pháp này. Vì muốn tất cả chúng sinh giác ngộ, nên Như Lai mới chuyển tâm đại Bi.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề không dính mắc cũng không hàm tàng.

Sao gọi là không dính mắc? Sao gọi là không hàm tàng? Nghĩa là, do biết nhãn cho nên gọi là không dính mắc. Sắc không sở quán nên gọi là không hàm tàng. Cho đến biết rõ ý thì gọi là không dính mắc. Pháp không sở đắc gọi là không hàm tàng.

Này Xá-lợi Tử! Do Như Lai không dính mắc, không hàm tàng, cho nên hiện thành Chánh giác.

Lại nữa, nhãn không dính mắc, sắc không hàm tàng, thức không chỗ trụ. Cho đến ý không dính mắc, pháp không hàm tàng, thức không chỗ trụ. Thức không trụ kia không trụ vào tâm của tất cả chúng sinh. Đây sao gọi là biết? Vì có bốn pháp trụ vào tâm của chúng sinh. Những gì là bốn? Là trụ vào sắc, thọ, tưởng, hành thức của tất cả chúng sinh. Bốn pháp này trụ vào tâm chúng sinh, nhưng chỗ trụ ấy cũng không trụ. Như Lai biết rõ tận gốc chân thật của pháp không trụ ấy, nhưng các chúng sinh lại khong hiểu nổi. Vì muốn tất cả chúng sinh giác ngộ, nên Như Lai mới chuyển tâm đại Bi.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề là không khái niệm. Do Không ấy cho nên Bồ-đề cũng Không, các pháp cũng Không. Vì các pháp Không ấy, cho nên Như Lai hiện thành Chánh giác, cũng không phải Không, không có sở chứng, hoac Không, hoặc Bồ-đề đồng một lý trí không có hai. Vì Không và Bồ-đề vốn không hai cho nên pháp không có chủng loại. Do các pháp không hai, không có chủng loại, cho nên không có danh, không có tướng, không hành, rốt ráo không hành không có trong pháp tập. Đây gọi là Không. Trong đó lìa chấp trước kiến thủ, nhưng trong Thắng nghĩa đế không có một pháp nhỏ nào có thể được. Vì lý do đó cho nên gọi là Không. Nói cái Không này cũng như Không, vậy cái Không này muốn nhấn mạnh là Không, cũng không có ngôn ngữ để nói là Không, cái không đó cũng Không có ngôn ngữ để nói. Đối với cái Không ấy, nếu có người hiểu thì tất cả pháp ấy chỉ là mượn danh tự để đặt ra. Nhưng danh tự ấy không tại địa phương, mà cũng không rời địa phương, như mượn danh tự ấy không tại địa phương mà cũng không lìa địa phương. Do vậy các pháp đều mượn danh mà có ra. Tất cả các pháp cũng vậy, không tại địa phương, cũng không lìa địa phương. Như Lai biết rõ như thật, xưa nay như vậy, không sinh, không khởi, biết như thật rồi, tự tánh giải thoát, không trói, không mở, nhưng kẻ ngu dị sinh không thể hiểu nổi pháp này. Vì muốn tất cả chúng sinh giác ngộ, nên Như Lai mới chuyển tâm đại Bi.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề như hư không nhưng đều bình đẳng, không cao, không thấp. Nếu ai biết các pháp rốt ráo đều Không thì cũng có thể nói không cao không thấp.

Này Xá-lợi Tử! Vì tất cả các pháp không cao không thấp, nên Như Lai hiện thành Chánh giác. Tuy có thành nhưng không có một pháp nhỏ vi trần nào hoặc cao, hoặc thấp mà có thể thi tác, trí như thật biết được các pháp không có bỉ thử.

Sao gọi là trí như thật? Nghĩa là không có pháp căn bản, tuy là có sở sinh, nhưng không nhiếp thọ, cũng không chủ tể. Do không chủ tể, không nhiếp thọ, hoặc sinh, không sinh, tùy duyên mà chuyen. Nhưng ở trong đó không có pháp có thể chuyển, cũng không phải không chuyển. Như Lai đối với pháp này cũng không nói tướng đoạn diệt, các chúng sinh lại không thể hiểu nổi pháp đoạn diệt này. Vì muốn tất cả chúng sinh đều giác ngộ, nên Như Lai mới chuyển tâm đại Bi.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề là như sở thuyết cú. Sao gọi là như sở thuyết cú? Như Bồ-đề ấy, sắc pháp cũng vậy, nhưng không lìa chân như. Như Bồ-đề ấy, thọ, tưởng, hành, thức cũng thế, cũng không lìa chân như. Như Bồ-đề ấy, địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới cũng thế, cũng không lìa chân như. Như Bồđề ấy, nhãn giới, sắc giới, thức giới, cho đến ý giới, pháp giơi, ý thức giới cũng vậy, không lìa chân như. Do vậy mà có ra các pháp môn của bậc Thánh như uẩn, xứ, giới… Vì pháp như thật, cho nên Như Lai hiện chứng Bồ-đề. Vì pháp không điên đảo nên hiện chứng Bồ-đề. Như trước đã nói, sau cũng như vậy, tiền tế không sinh, hậu tế không đến, trung tế lìa tánh. Như vậy, như sở thuyết cú. Như nói một pháp, nhiều pháp cũng vậy; như nói nhiều pháp, một pháp cũng thế. Như đã nói hoặc một hoặc nhiều đều không sở đắc, nhưng các chúng sinh lại không thể hiểu nổi như sở thuyết cú. Vì muốn tất cả chúng sinh giác ngộ, nên Như Lai mới chuyển tâm đại Bi.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề là nhập tướng, nhập vô tướng.

Sao gọi là tướng? Sao gọi là vô tướng? Đây nói tướng tức là sinh khởi tất cả thiện pháp. Vô tướng nghĩa là tất cả pháp đều không sở đắc.

Lại nữa, tướng là tâm vô sở trụ phần vị; vô tướng là pháp vô tướng Tam-ma-địa.

Lại nữa, tướng tức là suy nghĩ, so lường, tính đếm, tìm xét; vô tướng là vượt qua xưng lường.

Sao gọi là vượt qua xưng lường? Nghĩa là thức nghiệp là không. Lại nữa, tướng là tìm xét hữu vi; vô tướng tức là tác chứng vô vi. Tướng này là pháp vô tướng, kẻ ngu dị sinh không thể hiểu nổi, cũng không thể biết. Vì muốn tất cả chúng sinh giác ngộ, nên Như Lai chuyển tâm đại Bi.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề là vô lậu, vô thủ.

Sao gọi là vô lậu? Sao gọi là vô thủ? Vô lậu là lìa bốn pháp lậu. Một là lìa dục lậu; hai là lìa hữu lậu; ba là lìa vô minh lậu; bốn là lìa kiến lậu.

Vô thủ là lìa bốn thủ. Một là lìa dục thủ; hai là lìa ngã ngữ thủ; ba la lìa kiến thủ; bốn là lìa giới cấm thủ. Bốn thủ này, tất cả đều do vô minh che lấp, nước ái tưới tươi tốt pháp ngã kiến chấp thủ uẩn, xứ, giới. Như Lai đều biết rõ ngã ngữ thủ ấy là căn bản, được ngã thanh tịnh rồi, tất ca chúng sinh đều được thanh tịnh. Pháp thanh tịnh ấy không có phân biệt một pháp nhỏ nào. Nếu không phân biệt tức là tác ý kiên cố sâu xa. Nếu tác ý kiến cố tương ưng thì vô minh không thể khởi lên; do vô minh không khởi, cho nên mười hai chi hữu cũng không khởi. Như vậy tức là vô sinh, tức là quyết định. Nếu quyết định tức là nghĩa điều phục. Đó chính là Thắng nghĩa. Trong Thắng nghĩa đế không có Bổ-đặc-già-la. Nếu không có Bổ-đặc-giàla, thì nghĩa không thể nói. Nếu nghĩa không thể nói thì là nghĩa duyên sinh. Nếu là nghĩa duyên sinh thì là nghĩa chánh pháp. Nếu là nghĩa chánh pháp thì là nghĩa Như Lai. Do vậy nên quán các pháp đều từ duyên sinh. Nếu có the thấy pháp thì là thấy Như Lai, như những gì đã thấy, thì phải như thật suy xét, rốt cuộc không có một pháp nhỏ nào để thấy. Nếu không có pháp để thấy thì là thấy vô tướng và vô sở duyên, nếu thấy như vậy tức là thấy chân thật. Do pháp này nên Như Lai hiện thành Chánh giác, vì bình đẳng cho nên bình đẳng, kẻ ngu dị sinh không thể hiểu nổi pháp vô lậu vô thủ này. Vì muốn tất cả chúng sinh giác ngộ, nên Như Lai mới chuyển tâm đại Bi.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề vốn thanh tịnh, không nhơ, không nhiễm trước.

Sao gọi là thanh tịnh? Sao gọi là không nhơ? Sao gọi là không nhiễm trước? Có nghĩa là, Không là thanh tịnh, vô tướng là không nhơ, vô nguyện là không nhiễm trước. Vô sinh là thanh tịnh, vô tác là không nhơ, vô khởi là không nhiễm trước. Tự tánh là thanh tịnh, viên tịnh là không nhơ, sáng suốt là không nhiễm trước. Không hý luận là thanh tịnh, lìa hý luận là không nhơ, hý luận cận tịch là không nhiễm trước. Chân như là thanh tịnh, pháp giới là không nhơ, thật tế là không nhiễm trước. Hư không là thanh tịnh, thênh thang là không nhơ, rộng lớn là không nhiễm trước. Biết bên trong là thanh tịnh, bên ngoài không sở hành là không nhơ; trong và ngoài không sở đắc là không nhiễm trước. Biết uẩn là thanh tịnh, tự tánh giới là không nhơ, xứ lìa các nghiệp là không nhiễm trước. Quá khứ tận trí là thanh tịnh, vị lai vô sinh trí là không nhơ, hiện tại pháp giới an trụ trí là không nhiễm trước.

Này Xá-lợi Tử! Thanh tịnh, không nhơ, không nhiễm trước này có một pháp có khả năng nhiếp tất cả, pháp đó là tịch tĩnh câu. Nếu tịch tĩnh thì là biến tịch. Nếu biến tịch thì là cận tịch. Nếu cận tịch thì là không tịch. Đây chính là điều Mâu-ni Thánh Tôn đã nói.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như hư không, Bồ-đề cũng vậy; như Bồ-đề các pháp cũng thế; như các pháp, chúng sinh cũng vậy, sát độ cũng vậy, Niết-bàn cũng vậy. Đây gọi là Niết-bàn bình đẳng, là chánh nhân của tất cả pháp, biên tế rốt ráo thanh tịnh, không có đối trị, lìa nhân đối trị, xưa nay thanh tịnh, xưa nay không nhơ, xưa nay không nhiễm trước. Vì biết tất cả pháp hoặc sắc, vô sắc vốn như vậy, nên Như Lai hiện thành Chánh giác, quán các chúng sinh giới thanh tịnh, không nhơ, không nhiễm trước, liền khởi thần thông du hý, chuyển tâm đại Bi đối với chúng sinh.

Xá-lợi Tử nên biết! Tâm đại Bi của Như Lai thanh tịnh, không dơ, không nhiễm trước thường vận hành đối với chúng sinh, nhưng lại không chấp trước, không sinh khởi, không quán sát, khắp cả mười phương, tất cả thế giới, thênh thang vô ngại.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bi của Như Lai vô biên vô tận, ngang bằng với hư không. Nếu ai biết cái cùng tận của hư không thì là biết cùng tận đại Bi chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai. Các Bồ-tát trụ tin nghe tâm đại Bi chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai rồi nên sinh lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, cho đến sinh ý tưởng hy hữu.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền nói kệ rằng:

Vì không căn bản không trụ pháp
Hiện chứng Bồ-đề Phật đã nói
Như đã biết rõ cũng như vậy
Vì các chúng sinh tuyên chỉ dạy
Biết nội nhãn căn gọi là Không
Biết ngoại sắc pháp Không cũng vậy
Tịch tĩnh cận tịch diệu pháp môn
Phật chứng Bồ-đề nói như vậy
Các chúng sinh ấy không hiểu biết
Tỳ-bát-xá-na, Xa-ma-tha
Khai giác cú nghĩa vì chúng sinh
Tâm Phật đại Bi phương tiện chuyển
Tự tánh các pháp vốn sáng suốt
Bồ-đề thanh tịnh bằng hư không
Do các chúng sinh không biết rõ
Tâm Phật đại Bi phương tiện chuyển
Tất cả chúng sinh nhiều chấp thủ
Không thể tương ưng với như lý
Không vào, không ra môn diệu pháp
Phật chứng Bồ-đề nói như vậy
Do các chúng sinh không hiểu biết
Như Lai mới khởi tâm đại Bi
Các pháp không tướng, không sở duyên
Đây là cảnh giới của các Thánh
Không phải cảnh giới của kẻ ngu
Phật chứng Bồ-đề phương tiện nói
Nhưng các dị sinh không hiểu biết
Muốn chúng giác ngộ Phật nói ra
Như Lai vì các chúng sinh đó
Tùy theo trình độ khởi đại Bi
Tự tánh vô vi pháp vi diệu
Xưa nay không sinh cũng không diệt
Nên biết pháp ấy không chỗ trụ
Trong đó tương ưng với ba tướng
Nhưng các kẻ ngu không hiểu biết
Về tự tánh các pháp hữu vi
Tùy theo trình độ khởi đại Bi
Khiến chúng sinh rõ lý pháp này
Bồ-đề không phải thân giác tri
Không phải tâm giác cũng như vậy
Tự tánh của thân vốn không biết
Tâm như pháp huyễn cũng như vậy
Nhưng kẻ ngu si không thể biết
Tự tánh thân tâm là như vậy
Tùy sự thích ứng khởi đại Bi
Khiến chúng sinh biết lý pháp này
Phật chứng Bồ-đề thật tối thắng
Bậc trí tự nhiên ngồi Bồ-đề
Ngồi rồi quán khắp chúng sinh giới
Tất cả quay tròn trong nẻo ác
Thấy vậy Phật sinh tâm thương xót
Trong vòng sinh tử chuyển đại Bi
Chấp trước vào các pháp kiêu mạn
Lưới khổ trói buộc chấp là vui
Vô thường, bất tịnh, ngã, chúng sinh
Điên đảo chấp vào các thứ ấy
Phật thấy vậy rồi sinh thương xót
Đối kẻ chấp trước chuyển đại Bi
Si mê bao phủ cả ba cõi
Tối tăm không được ánh sáng chiếu
Như mặt trời sáng bị mây che
Trí sáng vô cấu đều che khuất
Phật thấy vậy sinh tâm thương xót
Trong vòng sinh tử chuyển đại Bi
Tham ái nên sinh các nẻo ác
Phá hoại chánh đạo bị tàn hại
Địa ngục, bàng sinh cùng ngạ quỷ
Chúng sinh tạo nghiệp nên đọa lạc
Như trước Phật nói các chánh đạo
Khai sáng chỉ bày các chúng sinh
Thấy vậy Phật sinh tâm thương xót
Trong vòng sinh tử chuyển đại Bi
Biết rõ các pháp tánh như thật
Bỗng nhiên chiếu sáng bằng hư không
Như Phật đã nói các thế gian
Không biết pháp thanh tịnh tối thượng.

Này Xá-lợi Tử! Như vậy là ta đã nói pháp đại Bi chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai. Các Bồ-tát trụ tín nghe pháp này rồi, nên sinh lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui và phát sinh ý tưởng hy hữu.

*********

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như Lai có mười tám pháp Bất cộng. Các Bồ-tát trụ tín nghe lời này rồi, nên sinh lòng tin thanh tịnh, không còn phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, cho đến sinh ý tưởng hy hữu. Như Lai do đầy đủ mười tám pháp này, nên biết rõ thắng xứ, ở trong đại chúng rống tiếng rống sư tử, chuyển phạm luân vi diệu. Các Samôn, Bà-la-môn khác không thể chuyển; tất cả thế gian, Trời, Người, Ma, Phạm không có pháp nào bằng với pháp của Như Lai.

Sao gọi là mười pháp của Như Lai? Một là, ba nghiệp của Như Lai không có các lỗi lầm.

Thân Như Lai không có lỗi lầm, dù người trí, hay người ngu không có ai bằng pháp của Như Lai nói. Vì sao? Vì thân nghiệp của Thế Tôn thanh tịnh không có các lỗi lầm, thân tướng Như Lai ngay thẳng, các cử chỉ oai nghi đáng chiêm ngưỡng; hoặc cúi, hoặc ngữa, hoặc co, hoặc duỗi, mỗi mỗi cử chỉ không có khiếm khuyết sai lầm; mặc Tăng-già-lê, tay cam bình bát, y Tăng-già-lê cách đất bốn ngón tay, gió Tỳ-lam-bà không thể thổi lay động; bước chân, hạ chân, đi, đứng, ngồi, nằm, oai nghi như pháp; ở trong thành ấp, xóm, làng, hoặc vào, hoặc ra, mỗi bước chân không tổn hại tướng Thiên bức luân, trong hư không mưa các loại hoa sen và các nước hương thơm. Lại nữa, khi Như Lai bước đi, các chúng sinh trong đường bàng sinh được vui sướng trong bảy đêm, sau khi mạng chung được sinh lên cõi trời. Thân Phật sáng chói chiếu sáng tất cả, dưới đến địa ngục A-tỳ, các chúng sinh ở trong địa ngục nhờ tiếp xúc ánh sáng đều được thọ vui. Đây gọi là thân Như Lai không có các lỗi lầm.

Lại nữa, lời của Như Lai không có các lỗi lầm. Lời nói không có lỗi lầm này dù người trí hay người ngu, không có ai bằng pháp Phật nói. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì Như Lai nói ra đều biết thời. Đây là lời nói chân thật, lời nói thành tín chắc chắn, lời noi bình đẳng, lời nói như với việc làm, lời nói không xen tạp, lời nói làm cho chúng sinh vui, lời nói không trùng lập, lời nói văn hay nghĩa tốt trang nghiêm vi diệu. Như Lai chỉ dùng một tiếng, tùy ý các chúng sinh mỗi moi đều vui, lời nói đều sinh hoan hỷ. Đây gọi là lời nói của Như Lai không có các lỗi lầm.

Lại nữa, tâm Như Lai không có các lỗi lầm. Tâm không có lỗi lầm này dù người trí hay kẻ ngu, không có ai bằng pháp ngữ của Như Lai. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì tâm Như Lai thường trụ thiền định, nhưng không bỏ các Phật sự, tuy luôn thi tác, nhưng tâm không sở quán, đối với tất cả pháp tri kiến vô ngại thường vận chuyển. Đây gọi là tâm Như Lai không có lỗi lầm. Với tâm như vậy, Như Lai dùng pháp không lỗi lầm vì các chúng sinh tuyên nói cũng vậy, khiến tất cả đoạn trừ các lỗi lầm. Đó là pháp Bất cộng thứ nhất của Như Lai.

Này Xá-lợi Tử! Tâm Như Lai không có ai trước; tất cả ma, chúng ma và các tà dị ngoại đạo khác không thể tìm thấy sơ hở của Như Lai. Vì sao? Vì Như Lai đã xa lìa sự thuận nghịch, tôn trọng hay tổn hại. Tất cả chúng sinh nếu khởi lên tâm tôn trọng thì tâm Như Lai cũng không cao; nếu không tôn trọng thì tâm ấy cũng không giận. Tất cả việc Như Lai làm hoặc thấy đều không lưu tán, không khởi ái trước, nhưng lại không trái với thế gian. Do tâm Như Lai không ái trước, nên tu hạnh không tranh cãi. Như Lai không ngã, không chấp, không dính mắc, lìa mọi trói buộc, thế nên Như Lai không ái trước. Do không ái trước đó, cho nên mới vì chúng sinh tuyên nói pháp đoạn ái trước. Đây là pháp Bất cộng thứ hai của Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như Lai không thất niệm. Nếu có thất niệm thì có si ám. Do Như Lai không có si ám, nên đối với thiền định, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí không có chướng ngại. Như Lai quán sát tất cả tâm hạnh động chuyển của chúng sinh rồi, tùy theo trình độ thích ứng tuyên nói pháp yếu. Do không quên mất, cho nên đối với nghĩa các pháp biện tài thuyết giảng, nhưng lại không quên mất Vô ngại giải. Như Lai ở trong quá khứ, vị lai, hiện tại đầy đủ tri kiến Vô ngại, tự hiểu rồi liền vì chúng sinh khai triển tuyên nói pháp quá khứ, vị lai, hiện tại tri kiến Vô ngại giải không quên mất. Đây là pháp Bất cộng thứ ba của Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như Lai thường trụ Tam-ma-hê-đa, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc ăn, ăn rồi hoặc im lặng, tâm không sở đắc. Như Lai đã được pháp Tam-ma-địa thậm thâm và Ba-la-mật-đa tối thượng; năng quán, sở quán đều không chướng ngại. Tất cả chúng sinh và chúng sinh tụ đều không thể quán tâm của Như Lai, chỉ trừ khi nhờ sức gia trì của Như Lai. Tâm Như Lai thường trụ Tam-ma-hê-đa rồi, liền vì chúng sinh tùy theo thích ứng tuyên nói pháp xả thanh tịnh trong Tam-ma-địa. Đây là pháp Bất cộng thứ tư của Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như Lai không có các tưởng, không đối với các tưởng và các cảnh giới mà trụ tâm. Vì sao? Vì Như Lai ở trong cõi nước không có các tưởng, cõi nước như hư không, không có cùng tận, đối với các chúng sinh không có các tưởng. Vì tự tánh của chúng sinh không có các thứ, nên đối với chư Phật không có các tưởng. Pháp giới không sai biệt là vì trí bình đẳng, nên đối với các pháp không có các tưởng là vì lìa tham lam. Như Lai đối với các chúng sinh giữ giới đầy đủ không khởi kính tâm, thấy người hủy giới không khởi mạn tâm; người không nhiêu ích hiện khơi nhiêu ích, không đâu không nhiêu ích, nhiêu ích khắp tất cả; người không điều phục, điều phục bình đẳng; người tà định cũng không khinh mạn, đối với tất cả pháp Như Lai khởi hạnh bình đẳng. Đó là Như Lai không có các tưởng. Như Lai dùng pháp này vì các chúng sinh tuyên nói đoạn trừ các tưởng. Đây là pháp Bất cộng thứ năm của Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như Lai đối với pháp xả đều phải lựa chọn. Vì sao? Vì Như Lai đối với người tu đạo cũng hành xả pháp, người không tu đạo cũng không xả bỏ; đối với người có tâm tu cũng hành xả pháp, người không có tâm tu cũng không xả bỏ; đối với người thọ trì giới cũng hành xả pháp, người không trì giới cũng không xả bỏ; đối với người tu tuệ cũng hành xả pháp, người không tu tuệ cũng không xả bỏ; đối với trí hành xả không bỏ ngu si, xả xuất thế gian chứ không bỏ thế gian; đối với bậc Thánh xuất ly lại hành xả pháp, không phải Thánh xuất ly cũng không xả bỏ. Như Lai chuyển phạm luân vi diệu lại hành xả pháp, đối với chúng sinh không xả tâm đại Bi. Như Lai tự chứng pháp bình đẳng xả, không mượn đối trị, nhưng có thể tùy thuận.

Này Xá-lợi Tử! Lại nữa, Như Lai đối với pháp xả không cao không thấp, cũng không chỗ trụ, đạt được bất động, lìa hai pháp, không ra không vào, dựa thời mà xả, không vượt qua thời, không lay động, không sai khác, không phân biet, không sở quán, không hòa hợp, không biểu thị, không thật, không hư, không thành, không vọng cũng không lãnh nạp. Như vậy, Như Lai đầy đủ xả pháp. Như Lai dùng pháp này vì các chúng sinh triển khai rộng rãi, khiến cho ai nấy đều đầy đủ xả pháp. Đây là pháp Bất cộng thứ sáu của Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sở dục của Như Lai không giảm. Sao gọi là dục? Là thiện pháp dục. Sao gọi là không giảm? Là đại Bi tâm dục của Như Lai không giảm, đại Bi tâm dục không giảm, thuyết pháp dục không giảm, hóa độ chúng sinh dục không giảm, thành thục chúng sinh dục không giảm, quán sát dục không giảm, chỉ dạy Bồ-tát dục không giảm, khiến hạt giống Tam bảo không đoạn dục không giảm. Sở dục của Như Lai hướng đến trí tuệ là con đường trước nhất. Như vậy sở dục của Như Lai đều vì khiến tất cả chúng sinh viên mãn quả Nhất thiết trí vô thượng, tùy theo trình độ thích ứng tuyên nói pháp yếu. Đây là pháp Bất cộng thứ bảy của Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Tinh tấn của Như Lai không giảm. Như Lai dùng sức tinh tấn hóa độ tất cả chúng sinh, không bỏ tinh tấn, khiến người nghe pháp không biết mệt mỏi. Đối với người chấp nhận nghe pháp, Như Lai cũng không coi họ có phải là pháp khí hay không, tùy theo trình độ thích ứng mà Như Lai nói pháp yếu, không sinh mệt mỏi, không có gián đoạn. Lúc thuyết pháp không nghĩ đến an uống, trong khoảng thời đó không bỏ chúng sinh. Như Lai qua hằng hà sa số các cõi Phật, trong đó nếu có một chúng sinh chưa được hóa độ thì thân, miệng, tâm của Như Lai không biết mệt mỏi, ba nghiệp khinh an, phát khởi tinh tấn, cần hành như lý, khiến các chúng sinh được giải thoát của bậc Thánh. Đó là Như Lai vì các chúng sinh phát đại tinh tấn. Đây là pháp Bất cộng thứ tám của Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như Lai đối với nhất thiết xứ, nhất thiết chủng, nhưng các niệm không giảm, chánh niệm của Như Lai đều không quên mất. Vì sao? Vì chư Phật Như Lai liên tục hiện chứng quả Chánh đẳng Chánh giác. Các tâm của tất cả chúng sinh trong quá khứ, hiện tại, vị lai Như Lai đều có khả năng nắm giữ quán sát, rốt ráo không có quên mất, tùy theo tất cả tâm hạnh của các chúng sinh mà biết rõ. Như Lai không suy nghĩ quán sát, chánh niệm không giảm, trụ ba tụ pháp, rõ căn chúng sinh, hiểu tất cả ý vui của chúng sinh, quán hạnh chúng sinh, nhưng Như Lai cũng không suy nghĩ quán sát, thuyết pháp không gián đoạn. Vì sao? Vì tùy theo đó niệm của Như Lai không giảm, niệm liền tịch tĩnh, không có quên mất. Như Lai dùng pháp này triển khai rộng rãi cho các chúng sinh. Đây là pháp Bất cộng thứ chín của Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đẳng trì của Như Lai không giảm. Pháp Đẳng trì của Như Lai tức là tất cả pháp bình đẳng. Như Lai đã nói các pháp bình đẳng.

Sao gọi là Đẳng trì của Như Lai không giảm? Nếu chân như bình đẳng thì Đẳng trì bình đẳng; nếu Đẳng trì bình đẳng thì các Đức Như Lai bình đẳng. Nếu nhập vào pháp môn bình đẳng này thì gọi là Tam-ma-hê-đa. Nếu tham tế bình đẳng thì lìa tham tế bình đẳng. Nếu sân tế bình đẳng thì lìa sân tế bình đẳng. Nếu si tế bình đẳng thì lìa si tế bình đẳng. Nếu hữu vi tế bình đẳng thì vô vi tế bình đẳng. Nếu sinh tử tế bình đẳng thì Niết-bàn tế bình đẳng. Nếu nhập pháp môn bình đẳng này thì gọi là Đẳng trì của Như Lai không giảm. Vì sao? Vì Đẳng trì không giảm, cho nên rốt ráo không giảm.

Lại nữa, pháp Đẳng trì của Như Lai chẳng phải mắt tương ưng, chẳng phải tai, mũi, lưỡi, thân ý tương ưng. Như Lai đối với các căn ấy không có khiếm khuyết phá hoại, không nương vào địa giới, cũng không nương thủy, hỏa, phong giới; không nương Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; không nương vào giới này hay giới khác. Vì không nương tựa cho nên không giảm. Đó là rốt ráo không giảm. Do Đẳng trì của Như Lai không giảm, cho nên Như Lai dùng pháp này tuyên nói rộng rãi cho các chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh được pháp môn Đẳng trì của Như Lai. Đây là pháp Bất cộng thứ mười của Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Tuệ Như Lai không giảm. Thắng tuệ của Như Lai sao gọi là năng tri? Nghĩa là, trí của Như Lai đối với tất cả pháp không tin từ nơi người khác; trí sở đắc của Như Lai đối với tất cả pháp không có chúng sinh, thọ giả, Bổ-đặc-già-la; trí thiện xảo của Như Lai vô tận vô ngại; trí của Như Lai phân biệt cú nghĩa; trí của Như Lai, trong một câu, gia trì tuyên nói tám trăm ngàn kiếp; trí của Như Lai tùy theo các câu hỏi mỗi mỗi giải nói đoạn trừ nghi hoặc; trí của Như Lai không có chướng ngại, đối với nhất thiết xứ; trí của Như Lai khéo tuyên nói kiến lập ba thừa; trí của Như Lai khéo biết rõ tám vạn bốn ngàn tâm hạnh; trí của Như Lai tùy ứng tuyên nói tám vạn bốn ngàn pháp uẩn. Như vậy, tuệ thù thắng tối thượng của Như Lai vô biên vô tận, nói không thể hết. Tue thù thắng không giảm của Như Lai vì chúng sinh rộng tuyên nói pháp tuệ không cùng tận. Đây là pháp Bất cộng thứ mười một của Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Giải thoát của Như Lai không giảm. Sao gọi là giải thoát của Như Lai không giảm? Nghĩa là, tùy theo sự thích ứng, Như Lai đều khiến giải thoát. Các chúng Thanh văn nghe tiếng mà được giải thoát. Các chúng Duyên giác, giác ngộ duyên sinh mà được giải thoát. Chư Phật Thế Tôn lìa các chướng ngại hai thủ mà được giải thoát.

Đây nói giải thoát nghĩa là: chư Phật đời trước đã qua, chư Phật đời sau chưa đến, chư Phật hiện tại không trụ. Do vậy, nhãn sắc, hai thủ giải thoát. Tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm hai thủ giải thoát; không chấp thủ, không dính mắc, không nương tựa giải thoát. Vì tâm tự tánh sáng suốt, trí cũng như vậy. Đây gọi là tướng nhất tâm tương ưng tuệ thù thắng. Như Lai do đó mà hiện chứng quả Chánh đẳng Chánh giác. Khi đã chứng ngộ rồi, Như Lai dùng pháp này tuyên nói rộng rãi cho các chúng sinh. Đây là pháp Bất cộng thứ mười hai của Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Tất cả thân nghiệp của Như Lai, trí là con đường trước nhất, thực hành bằng trí. Do vì thân nghiệp của Như Lai đầy đủ, cho nên tất cả chúng sinh thấy thân Phật đều được điều phục, nghe Phật nói pháp đều được điều phục, quán Phật im lặng đều được điều phục, thấy Phật thọ thực đều được điều phục, thấy oai nghi Phật đều được điều phục, chiêm ngưỡng các tướng Phật đều được điều phục, quán vẻ đẹp Phật đều được điều phục, chiêm ngưỡng đảnh tướng không thể thấy của Phật và phóng hào quang đều được điều phục, thấy Phật bước chân, hạ chân trong thành ấp xóm làng, hoặc vào, hoặc ra đều được điều phục. Trong bốn oai nghi của chư Phật Như Lai đều là điều phục chúng sinh. Đó là thân nghiệp của Như Lai, trí là con đường trước nhất, thực hành bằng trí tuệ. Đây là pháp Bất cộng thứ mười ba của Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Tất cả ngữ nghiệp của Như Lai trí là con đường trước nhất, thực hành bằng trí tuệ. Vì sao? Vì chư Phật Như Lai không nói pháp hư dối, nói pháp không đoạn, ham thích nói pháp. Lời nói của Như Lai khiến người chưa biết được biết; không cao, không thấp, không phiền toái, không quanh co, không thô lỗ, không ác độc, không nham hiểm, nói lời nhu nhuyến, không có lời hủ bại, không có lời khinh động, không có lời nhiễu não, không nói gấp gáp, không nói trì trệ, nói lời rõ ràng, khéo nói lời diễn thuyết, khéo nói lời để người biết rõ; lời nói vi diệu, âm thanh vi diệu, không khiếm khuyết phá hoại, không sai lầm, lời nói ngọt ngào to lơn thù thắng vi diệu, không trần lìa trần, không dơ bẩn, không tối tăm, rõ ràng vô ngại, hòa hợp sáng suốt, thần thông mạnh mẽ, tiếng vang không phá hoại, có khả năng sinh niềm vui vi diệu, thân được hoan hỷ, tâm rất tín thuận, dứt trừ tham ái, dứt trừ sân nhuế, dứt trừ ngu si, nhiếp phục ác ma, chận các tội nghiệp, dứt trừ lời nói tà dị, chận đứng lời nói không rõ ràng; tiếng nói như tiếng trống, tiếng như Ca-lăng-tần-già, tiếng như Đế Thích, tiếng như Phạm vương, tiếng như hải triều, tiếng như sấm chớp, tiếng như động đất, tiếng như Nhạn vương, tiếng như Khổng tước vương du hý, tiếng như Câu-chỉ-la, tiếng như chim mệnh mệnh, tiếng như nai chúa, tiếng như sáo; tiếng rõ ràng dễ thể nhập, tiếng làm cho ý vui thích nghe, tiếng trong sáng sâu xa không ú ớ, tiếng sinh niềm vui vi diệu, tiếng sinh thiện căn, tiếng văn cú không gián đoạn, tiếng thích nói văn cú, tiếng nghĩa cú hòa hợp, tiếng pháp cú hòa, hợp tiếng biết thời, tiếng thuận thời, tiếng không vượt quá thời, tiếng biết được căn tánh của mình và người khéo diễn nói, tiếng bố thí trang nghiêm, tiếng trì giới thanh tịnh, tiếng nhẫn nhục nhu hòa, tiếng tinh tấn dũng mãnh, tiếng thích thiền định vi diệu, tiếng trí tuệ rốt ráo, tiếng đại Từ hòa hợp, tiếng đại Bi không mệt mỏi, tiếng đại Hỷ sáng suốt, tiếng đại Xả rốt ráo, tiếng kiến lấp ba thừa, tiếng khiến hạt giống Tam bảo không gián đoạn, tiếng an lập phần vị ba tụ, tiếng ba giải thoát môn thanh tịnh, tiếng quán bốn Đế, tiếng quán sát trí, tiếng không hủy báng người trí, tiếng các Thánh khen ngợi, tiếng biết hư không vô lượng, tiếng các tướng đầy đủ.

Này Xá-lợi Tử! Các tiếng như vậy gọi là tất cả ngữ nghiệp của Như Lai trí là con đường trước nhất, hành động bằng trí tuệ. Đây là pháp Bất cộng thứ mười bốn của Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Ý nghiệp của Như Lai trí là con đường trước nhất, mọi việc làm đều bằng trí tuệ. Vì sao? Vì tâm pháp của Như Lai không thể nói; ý pháp, thức pháp của Như Lai không thể đem trí tuệ biện tài mà đo lường. Trí tuệ của Như Lai tùy theo trình độ mà biết rõ tâm của tất cả chúng sinh, tùy theo trình độ mà biết rõ ý tất cả chúng sinh, thông đạt trí của tất cả chúng sinh, quyết định được các pháp. Các pháp đẳng trì cũng không tin từ nơi người khác, vượt khỏi sở duyên, lìa các duyên sinh, dứt trừ ba cõi và các nẻo ác, thoát khỏi các pháp ma, các dị đoan của ma, giải thoát pháp quanh co huyễn hoặc, xả bỏ ngã và ngã sở, khử trừ vô minh si ám che lấp, tu Bát chánh đạo, lìa mọi nghi hoặc, bằng với hư không, pháp giới bình đẳng không sai biệt.

Này Xá-lợi Tử! Các pháp như vậy với ý nghiệp của Như Lai trí là trước nhất, mọi việc làm đều bằng trí tuệ. Đây là pháp Bất cộng thứ mười lăm của Như Lai.

*********

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đời quá khứ Như Lai dùng tri kiến vô trước vô ngại tùy chuyển để chuyển. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Đời quá khứ trong các cõi Phật, tất cả các việc hoặc thành hoặc hoại, Như Lai dùng phương tiện đếm biết hết tất cả. Lại trong cõi Phật, có tất cả cây cối cỏ thuốc, Như Lai cũng đều biết rõ. Lại trong cõi Phật, có tất cả loại chúng sinh và việc làm của chúng sinh, Như Lai đều biết rõ. Lại trong cõi Phật, tất cả chúng sinh có các tánh hạnh, các sắc tướng, cho đến khắp cả, Như Lai đều biết. Lại trong cõi Phật, chư Phật xuất thế hóa độ, cho đến mỗi mỗi vì các chúng sinh tuyên nói chánh pháp. Hoặc có chúng sinh dùng pháp Thanh văn để hóa độ, hoặc có chúng sinh đem pháp Duyên giác để hóa độ, hoặc có chúng sinh dùng pháp Đại thừa để hóa độ, cho đến cõi Phật rộng lớn, các chúng Bí-sô rất đông, tuổi thọ lâu dài, chánh pháp trụ thế lâu dài, gần gũi chúng sinh, ăn uống thọ dụng các việc, cho đến chúng sinh thở ra thở vào. Như vậy, tất cả chúng sinh ở đời quá khứ có các tướng, hoặc sinh, hoặc diệt, thọ sinh các nẻo, mỗi mỗi căn tánh, mỗi mỗi ý vui, Đức Phật đều biết rõ. Do tâm Như Lai không đắm trước, cho nên biết rõ tất cả pháp. Các tâm vô biên, các tâm khởi lên, Như Lai dùng phương tiện tính đếm biết rõ tất cả. Như Lai dùng trí hiện lượng quán sát như thật tâm của các chúng sinh trong đời quá khứ. Trí tối thắng của Như Lai chưa từng gián đoạn, vì trình độ thích ứng chúng sinh tuyên nói chánh pháp.

Xá-lợi Tử, đây là pháp Bất cộng thứ mười sáu của Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đời vị lai Như Lai dùng tri kiến vô

trước vô ngại tùy chuyển mà chuyển. Thế nào đời vị lai chư Phật Như Lai sẽ xuất hiện ở thế gian, Phật đều biết rõ? Cho đến đời vị lai kiếp thiêu, lửa cháy rụi sạch, nước lớn dâng len, gió mạnh thổi dữ dội, nhưng các cõi Phật vẫn an nhiên không lay động, cho đến các địa giới trong các cõi Phật nát như vi trần và tất cả cỏ thuốc cây rừng, cho đến tướng trạng của tất cả tinh tú, đến khắp cả các coi Phật. Chư Phật xuất thế, Duyên giác xuất thế, Thanh văn xuất thế, Bồ-tát chứng quả, cho đến chúng sinh thở ra, thở vào, ăn uống thọ dụng hoặc đi, hoặc đứng, cho đến khắp hết tất cả chúng sinh, mỗi mỗi chúng sinh đều hướng đến giải thoát, hoặc Thanh văn thừa, hoặc Duyên giác thừa, hoặc người tu Đại thừa được giải thoát. Tất cả việc đó Như Lai đều biết rõ.

Lại nữa, khắp tất cả các cõi Phật, chỗ sinh ra của mỗi mỗi chúng sinh và tâm tâm sở sinh khởi, các việc đó Như Lai đều biết rõ. Tuy biết như vậy, nhưng Như Lai đối với các chúng sinh đời vị lai không có chấp trước, chỉ ở đời vị lai như ứng quán sát, vì các chúng sinh tuyên nói chánh pháp. Này Xá-lợi Tử! Đây là pháp Bất cộng thứ mười bảy của Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đời vị lai Như Lai dùng tri kiến vô trước vô ngại tùy chuyển mà chuyển. Hiện tại mười phương tất cả các cõi Phật, Như Lai dùng ba thứ phương tiện tinh đếm biết rõ tất cả. Hiện tại tất cả chư Phật, tất cả Bồ-tát, tất cả Duyên giác, tất cả Thanh văn, Như Lai đều biết rõ? Cho đến hiện tại tất cả tướng trạng của tinh tú Như Lai cũng đều biết rõ và hiện tai tất cả cỏ thuốc cây cối Như Lai cũng biết rõ; cho đến địa giới trong tất cả mười phương, nát vụn như vi trần Như Lai dùng phương tiện tính đếm biết rõ số vi trần đó.

Lại nữa, tất cả thủy giới trong mười phương, nước phun lên nhỏ như đầu sợi lông. Lại nữa, tất cả hỏa giới trong mười phương sinh diệt nhanh chóng. Lại tất cả phong giới trong mười phương thổi dữ dội theo nhiều cách khác nhau, thổi giáp tất cả, Như Lai dùng phương tiện tính đếm biết hết tất cả.

Lại nữa, giả sử tất cả không giới trong mừơi phương tụ lại, nhỏ li ti như đầu sợi lông, Như Lai dùng phương tiện tính đếm biết rõ tất cả. Lại nữa, hiện tại ba loại chúng sinh giới, Như Lai đều biết. Lại nữa, hiện tại địa ngục có tất cả chúng giới, nguyên nhân sinh và nguyên nhân diệt của họ, Như Lai đều biết. Lại nữa, hiện tại có tất cả súc sinh giới, nguyên nhân sinh, nguyên nhân diệt của họ, Như Lai đều biết. Lại nữa, hiện tại có tất cả ngạ quỷ giới, nguyên nhân sinh và nguyên nhân diệt của họ, Như Lai đều biết.

Lại nữa, hiện tại tất cả cõi người, nguyên nhân sinh và nguyên nhân diệt của họ Như Lai đều biết rõ. Lại nữa, hiện tại các cõi trời nguyên nhân sinh và nguyên nhân diệt của họ Như Lai đều biết rõ.

Lại nữa, hiện tại tất cả chúng sinh và tâm sở ứng nhậm trì của chúng sinh, hoặc có phiền não, hoặc lìa phiền não, Như Lai đều biết. Lai nữa, hiện tại tất cả chúng sinh, tùy theo căn tánh của họ, người nên hóa độ hoặc không nên hóa độ, Như Lai đều biết. Nhưng Phật Như Lai không có hai thứ tùy lưu thức chuyển. Như Lai đem diệu lý pháp môn tối thượng khong hai tuyên nói cho chúng sinh. Này Xálợi Tử! Đây là pháp Bất cộng thứ mười tám của Như Lai.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như Lai do đầy đủ mười tám pháp Bất cộng này, nên sáng chói trong đại chúng và khắp cả mười phương tất cả thế giới, đầy đủ mọi oai quang, danh xưng tối thượng tốt đẹp hy hữu.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Mười tám pháp Bất cộng của Như Lai cũng như hư không không có ngằn mé. Nếu ai biết được ngằn mé của hư không thì biết được ngằn mé pháp Bất cộng của Như Lai. Các Đại Bồ-tát trụ tín nghe pháp này rồi, nên sinh lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, biểu hiện thân tướng vui, tâm vui và phát sinh ý tưởng hy hữu.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:

Điều phục Thánh giả không lỗi lầm
Thân, ngữ, ý nghiệp đều không động
Như ứng nói pháp lợi chúng sinh
Đây là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Tâm Phật không cao cũng không thấp
Chấm dứt tất cả mọi trái thuận
Tu hạnh không tranh tâm giải thoát
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Phật, Đấng Điều Phục không thất niệm
Giải thoát hành pháp đều biết rõ
Bốn Vô ngại giải đã viên minh
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Như Lai đi đứng và ngồi nằm
Tất cả đều trụ tâm thiền định
Không chúng sinh tưởng tâm không loạn
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Như Lai không có các thứ tưởng
Đối với cõi Phật và chúng sinh
Khởi hạnh bình đẳng danh tiếng lớn
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Tâm Phật đều hay quyết trạch xả
Chánh đạo quyết định khéo quán sát
Không có phân biệt lìa phân biệt
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Năng Nhân không giảm thiện pháp dục
Luôn luôn thực hành bi phương tiện
Điều phục vô lượng các quần sinh
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Tinh tấn chưa từng có giảm thiếu
Điều phục các kiến rộng vô biên
Khéo điều thân, miệng, ý cũng vậy
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Như Lai không giảm mất chánh niệm
Giác ngộ Bồ-đề đến đạo tràng
Đối pháp giác ngộ tâm không giác
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Phật không phân biệt lìa phân biệt
Bình đẳng an trụ tâm thiền định
Các pháp quyết định không chỗ nương
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Phật tuệ sát-na đều biết rõ
Các hạnh chúng sinh cũng đều biết
Tùy theo ý vui nói pháp môn
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Nghe tiếng giác ngộ là Thanh văn
Tưởng pháp duyên sinh gọi Duyên giác
Lìa trước không dơ bằng hư không
Tâm đại Xả này chẳng nghĩ bàn.
Thuở xưa an trụ tâm không giác
Tự tánh giải thoát tâm nhậm trì
Pháp giải thoát ấy tùy ứng nói
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Hiện tướng oai nghi chúng chiêm ngưỡng
Thân thẳng nhìn ngay vào thành ấp
Tướng tốt trang nghiêm các ánh sáng
Chúng sinh nhìn thấy đều điều phục
Chúng sinh thấy được ánh sáng Phật
Vô số chúng sinh được diệu lạc
Nhờ tiếp ánh sáng điều phục sinh
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Phật dùng một âm diễn nói pháp
Tùy ý chúng sinh nghe hiểu được
Như vang theo tiếng lý tương ưng
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Tâm nghiệp Thiện Thệ vốn không có
Trí tạo tác nghiệp đều không quên
Thánh trí tùy nhập tâm chúng sinh
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Thiền định đẳng trì khéo tương ưng
Chấm dứt tất cả mọi hý luận
Hành pháp bình đẳng bằng hư không
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Như Lai biết rõ đời quá khứ
Chuyển tất cả pháp không chướng ngại
Trí giải thoát biết rõ các nẻo
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Tất cả pháp vị lai thế gian
Hoặc là có được hoặc không được
Chúng sinh cõi nước và Như Lai
Phật đều biết rõ không mệt mỏi,
Tâm Phật chưa từng có tán loạn
Quán sát căn cơ đời vị lai
Biết chúng sinh và pháp cũng vậy
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Các chỗ chuyển trong đời hiện tại
Như Lai đều biết không đắm trước
Phật, Đấng Điều Ngự bằng hư không
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Như Lai đã có pháp Bất cộng
Là mười tám pháp chẳng nghĩ bàn
Như thật khai sáng như hư không
Bồ-tát nên sinh lòng tịnh tín.

Này Xá-lợi Tử! Như Lai do đầy đủ mười tám pháp Bất cộng như vậy, cho nên Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác biết rõ thắng xứ, ở trong đại chúng rống tiếng rống sư tử, chuyển phạm luân vi diệu. Ngoài ra, các Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Người, Ma, Phạm đều không thể chuyển, không có pháp nào bằng pháp Như Lai.

Này Xá-lợi Tử! Các bố thí trụ tín được nghe pháp chẳng nghĩ bàn của Như Lai rồi, nên sinh lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui, sinh ý tưởng hy hữu.