Nói về Pháp Lực tới Niết Bàn

 

Nam mô A Di Đà Phật.

Pháp Lực tới Niết Bàn được Phật nói trong Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Mười dừng ở và một số Kinh khác. Bài này chỉ là tập hợp, tóm lược lại các Kinh đã được Phật nói.

Bồ Tát Bồ Tát lớn dùng vô lượng Trí tuệ như thế dễ quan sát Đạo Phật. Muốn cầu chuyển biến tốt hơn Giải thoát Vắng lặng. Muốn chuyển biến suy nghĩ tốt hơn Trí tuệ Như Lai. Muốn nhập vào tạng Pháp bí mật sâu của Như Lai. Muốn quan sát Trí tuệ lớn không thể nghĩ bàn. Muốn quan sát các Tam muội Đà La Ni, lại muốn làm cho Thanh tịnh. Muốn làm cho Thần thông rộng lớn. Muốn phân biệt Thế giới khác biệt. Muốn tu lực không đâu sợ của các Phật, mười tám không cùng Pháp, không thể phá hỏng. Muốn thực hành thuận theo lực chuyển vầng Pháp của các Phật. Muốn không vứt bỏ do nhận lấy nguyện lớn Đại Bi.

Bồ Tát này vì các người Trời, Sa Môn Bà La Môn, Càn Thát Bà cùng với tất cả chúng sinh. Làm ao Pháp sạch mát. Giúp bảo vệ Pháp đúng. Giống Phật không đứt mất. Do được Đà La Ni Thanh tịnh. Nói Pháp không có chướng ngại. Do được nghĩa Đà La Ni. Nghĩa biện luận không thể hết. Do được Pháp Đà La Ni. Biện luận Pháp không thể hết. Do được Đà La Ni Lời nói đúng. Lời biện luận không thể hết. Do được Đà La Ni không có chướng ngại. Nói nghĩa vị không thể hết. Do được Đà La Ni tưới đỉnh Cam Lộ của Phật. Giúp cho chúng sinh vui mừng biện luận không thể hết. Do được Đà La Ni tự hiểu biết. Cùng một biện luận hòa hợp không thể hết. Do nhập vào Đà La Ni cùng một biện luận. Nói đủ loại nghĩa tên vị câu thân không thể hết. Do được Đà La Ni Lời nói đúng. Vô lượng biện luận không thể hết. Do được Đà La Ni vô lượng ca ngợi. Ở Ba nghìn Đại thiên Thế giới thân biến hóa như Phật. Âm thanh vi diệu đầy đủ. Với tất cả Pháp không bị chướng ngại. Mà làm việc Phật.

Thuận theo cần được giáo hóa. Thuận theo hiểu được âm thanh. Thuận theo Căn chúng sinh. Dùng âm thanh Thanh tịnh của lưỡi dài rộng. Thuận theo thời nói Pháp. Không ngược với Đại Bi. Tùy theo yêu cầu của họ. Với mỗi một lời nói sinh ra vô lượng âm thanh. Đều giúp cho vui mừng. Nếu có chúng sinh. Đều biết vô lượng không thể tính A tăng kì Pháp các lời nói. Biết vô lượng Nghiệp, biết vô lượng báo ứng. Như thế cùng với vô lượng vô số A tăng kì chúng sinh. Tràn đầy vô lượng vô biên A tăng kì Thế giới. Ban cho Bồ Tát làm quyến thuộc. Bồ Tát ở trong hội này phát ra một lời nói Pháp. Đều giúp cho chúng sinh của các nơi này. Đều được mở hiểu. Có như thế cùng với vô lượng vô biên A tăng kì các Đại chúng, ban cho Bồ Tát làm quyến thuộc. Cũng lại như thế.

Khi đó Bồ Tát lại làm nghĩ nhớ như thế. Nếu nơi một đầu sợi lông. Trong một nghĩ nhớ có vô lượng vô biên A tăng kì Đại chúng tới hội họp. Lần lượt nhớ mãi như thế. Hết tất cả Kiếp Quá khứ Tương lai. Đại chúng tới hội họp do còn không hết. Lời nói âm thanh của các Đại chúng đó khác nhau. Hỏi được đều khác. Bồ Tát nghe như thế cùng với tất cả hỏi khó. Tâm không sợ hãi. Mà làm nghĩ nhớ đó. Nếu giúp cho tất cả chúng sinh. Đều tới hỏi khó. Do dùng một lời nói. Quyết bỏ lưới nghi của họ. Đều giúp cho vui mừng. Bồ Tát nói Pháp. Lời nói không ảo vọng. Với mỗi một lời nói. Có vô lượng vô biên Trí tuệ trang nghiêm. Thành công vô biên các tạng công Đức. Ánh quang Tuệ rộng chiếu sáng tất cả. Các Pháp đầy đủ. Thành công Tất cả các loại Trí tuệ.

Bồ Tát này đã yên ở hạnh Pháp thiện. Hay tự Thanh tịnh. Cũng hay lợi ích tất cả chúng sinh. Như Ba nghìn Đại thiên Thế giới này. Thậm chí trong vô lượng vô biên không thế đọc đếm các Thế giới. Tự hóa ra thân đó được màu vàng mười. Âm thanh vi diệu đầy đủ. Với tất cả Pháp không bị chướng ngại. Mà làm việc Phật. Dùng vô lượng vô biên môn Pháp Thanh tịnh. Hóa độ chúng sinh.

Bồ Tát Bồ Tát lớn này có mười loại thân. Thân nhập vào vô lượng vô biên Cõi Pháp. Vì trừ diệt tất cả Thế gian. Thân Tương lai vì tất cả hướng tới sinh. Thân không sinh do vui sâu Pháp bình đẳng không sinh. Thân không mất do cắt đứt lời nói của tất cả các Pháp. Thân không thực do chân thực không động. Thân rời ngu si ảo vọng do thuận theo cần cảm hóa. Thân không đến đi do rời sinh nơi đây chết nơi kia. Thân không phá hỏng do tính Cõi Pháp không phá hỏng. Thân một tướng do cắt bỏ đường lời nói Ba Đời. Thân không có hình tướng do hay phân biệt các hình tướng Pháp.

Bồ Tát Bồ Tát lớn thành công mười loại thân như thế. Hay vì tất cả chúng sinh làm Bố thí. Vì nuôi lớn Căn thiện. Vì cứu giúp tất cả chúng sinh. Vì ban cho không sợ hãi lớn. Được tất cả chúng sinh Trở về nương theo. Vì giúp cho dừng ở yên ổn lớn. Vì chúng sinh tôn trọng hướng dẫn. Vì mở tỏ rõ môn Đạo Bình Đẳng. Là Thầy của tất cả chúng sinh. Vì Phương tiện giúp cho nhập vào Pháp chân thực. Là đèn sáng của tất cả chúng sinh. Vì giúp cho thấy Nghiệp báo. Là sáng của tất cả chúng sinh. Vì được Pháp rất sâu. Là đuốc sáng lớn của tất cả chúng sinh. Vì giúp cho rời ngu si hiểu Pháp chân thực. Là quang sáng của tất cả chúng sinh. Vì giúp cho được Bậc Sáng. Là đèn sáng khắp hướng tới của tất cả chúng sinh. Vì hiện ra rõ lực Tự do của Như Lai. Bồ Tát Bồ Tát lớn này đã yên dừng ở hạnh Pháp thiện. Vì tất cả chúng sinh làm ao Pháp sạch mát. Vì được các Pháp tận cùng rất sâu của Phật.

Bồ Tát suy nghĩ như thế được vào Bậc thứ chín. Bồ Tát dừng ở Bậc này. Biết như thực hạnh Pháp thiện không thiện không nhớ, biết hạnh Pháp Phiền não hết Phiền não, hạnh Pháp Thế gian ra ngoài Thế gian, hạnh Pháp nghĩ bàn không nghĩ bàn, hạnh Pháp yên định không yên định, hạnh Pháp Thanh Văn Bích Chi Phật, hạnh Pháp Đạo Bồ Tát, hạnh Pháp Bậc Như Lai, hạnh Pháp Có hình Không có hình. Thuận theo Trí tuệ như thế. Biết khó thực hành của tâm Bồ Đề. Biết nạn Phiền não, nạn Nghiệp, nạn các Căn. Nạn tham muốn, nạn tính, nạn tâm ngay thẳng, nạn sinh, nạn thói quen, nạn ba tích chứa khác biệt. Biết các tướng tâm khác biệt của chúng sinh, tướng tâm trang sức đời, tướng tâm chuyển biến nhanh, tướng tâm hỏng không hỏng, tướng tâm không hình, tướng tâm Tự do vô biên, tướng tâm Thanh tịnh khác biệt, tướng tâm bẩn không bẩn, tướng tâm buộc tháo, tướng tâm siểm nịnh chất trực, tướng tâm thuận theo Đạo. Đều biết như thực.

Bồ Tát đó biết tướng sâu, tướng thiển cận của Phiền não, biết tâm cùng tướng, không tướng ly rời tướng, biết tướng sai khiến ràng buộc khác biệt, biết tướng tâm đó tương ứng, không tương ứng, tùy theo sinh đó thời được tướng quả báo, biết tướng khác biệt ở trong Ba Cõi, biết tướng yêu ngu si, thấy nhập sâu vào như tướng mũi tên, biết tướng kiêu mạn ngu si tội nặng, biết tướng không cắt bỏ của Nhân duyên Ba Nghiệp đó, thậm chí như thực biết tướng thực hành khác biệt của tám vạn bốn nghìn Phiền não.

Bồ Tát đó biết tướng không ghi nhớ, thiện không thiện của các Nghiệp, tướng phân biệt không thể phân biệt, tâm cùng tướng, không tướng ly rời tướng, tướng tự nhiên hết, tướng hành Đạo hết, tướng tập hợp đủ loại, không mất tướng quả báo, tướng lần lượt, tướng có báo ứng, tướng không có báo ứng, tướng báo ứng đen tối, Tướng báo ứng sáng trắng, tướng báo ứng đen tối sáng tối, tướng Nghiệp sáng sai, tối sai, có thể hết, biết tướng Nghiệp phát ra, nhận tướng khác biệt của Pháp Nghiệp, biết vô lượng Nhân duyên phát ra tướng Nghiệp, biết tướng Nghiệp Thế gian Nghiệp ra ngoài Thế gian sai khác, hiện ra tướng báo ứng, tướng báo ứng sinh, tướng báo ứng đời sau, theo các Bậc tướng yên định, tướng không yên định, Thậm chí như thực biết tướng khác biệt của tám vạn bốn nghìn các Nghiệp.

Bồ Tát đó biết tướng sai khác cao giữa mềm mại của các Căn, biết tướng khác biệt không khác biệt thời trước thời sau, biết tướng cao giữa thấp, biết tướng cùng Phiền não, không tướng ly rời tướng, tùy theo các Bậc tướng yên định, tướng không yên định, tướng thuần thục, tướng chưa thuần thục, tùy theo tướng chuyển đổi Căn, tướng dễ hỏng, tướng cầm lấy hình tướng sâu, tướng tăng cao, tướng không thể phá hỏng, tướng chuyển đổi, tướng không chuyển đổi, tướng khác biệt của Ba Đời, tướng khác biệt xa xưa cùng sinh, thậm chí như thực biết tướng khác biệt của tám vạn bốn nghìn các Căn.

Bồ Tát đó biết tướng khác biệt cao, giữa, mềm mại của các tham muốn. Thậm chí như thực biết tướng khác biệt của tám vạn bốn nghìn các tham muốn. Bồ Tát đó biết tướng khác biệt cao giữa mềm mại của các tính. Thậm chí như thực biết tướng khác biệt của tám vạn bốn nghìn các tính. Bồ Tát đó biết tướng khác biệt cao, giữa, mềm mại của tâm ngay thẳng. Thậm chí như thực biết tướng khác biệt của tám vạn bốn nghìn tâm ngay thẳng. Bồ Tát đó biết các sai khiến sinh cùng tâm, sinh không cùng tâm. Tâm tương ứng, tâm không tương ứng. Xa xưa tới nay não loạn tướng chúng sinh, cùng với tướng tất cả Thần thông Giải thoát Thiền định, tướng ngược lại, hình tướng trói buộc của Ba Cõi, hình tướng không hiện ra của tâm vô lượng, hình tướng mở ra môn Phiền não, hình tướng không biết đối nghịch, hình tướng tất cả không có, hình tướng mở ra môn Pháp không có Đạo Thánh. Đều biết như thực.

Bồ Tát đó biết hình tướng khác biệt của các Sinh. Gọi là Địa ngục, Súc sinh, Quỷ đói. A Tu La, Người, Trời, Cõi Sắc thân, Cõi không có Sắc thân, có tưởng nhớ, không tưởng nhớ khác biệt. Nghiệp là ruộng. Yêu là nước. Ngu tối là che phủ. Biết là hạt giống. Thân đời sau là mầm. Danh Sắc cùng nhau sinh mà không cùng ly rời. Ngu Yêu liên tục. Muốn sinh, muốn làm, muốn nhận. Không thích Niết Bàn. Hình tướng liên tục khác biệt của Ba Cõi. Đều biết như thực.

Bồ Tát đó biết các tập quán có phát ra không phát ra. Tùy theo nơi sinh có thói quen. Tùy theo chúng sinh thực hành có thói quen. Tùy theo Nghiệp Phiền não có thói quen. Thiện không thiện không ghi nhớ có thói quen. Ly rời tham muốn có thói quen. Tùy theo thân đời sau có thói quen. Lần lượt tùy theo hướng tới có thói quen. Nghiệp Phiền não xa xưa giữ lấy không cắt đứt. Ly rời chắc là không có Pháp. Đều biết như thực.

Bồ Tát đó biết hình tướng yên định, không yên định của chúng sinh. Hình tướng yên định đúng. Hình tướng yên định sai. Hình tướng không yên định. Hình tướng yên định đúng trong Thấy đúng. Hình tướng yên định sai trong thấy sai. Ly rời hai hình tướng không yên định này. Mỗi một hình tướng yên định trái ngược. Hình tướng yên định đúng của năm Căn. Rời hai hình tướng không yên định này. Hình tướng yên định sai, vị trí sai. Hình tướng yên định đúng, vị trí đúng. Ly rời hai hình tướng không yên định này. Nhập sâu vào tụ tập sai, hình tướng khó chuyển đổi. Tu sửa hình tướng Nhân duyên Đạo Bình Đẳng. Hình tướng giúp bảo vệ chúng sinh không yên định. Đều biết như thực.

Bồ Tát Bồ Tát lớn thuận theo Trí tuệ như thế. Tên là yên ở Bậc Tuệ Thiện. Bồ Tát dừng ở Bậc này. Biết hình tướng khác biệt, các hạnh như thế của chúng sinh. Theo Giải thoát đó mà cùng với Nhân duyên. Pháp giáo hóa chúng sinh của Bồ Tát đó. Pháp độ thoát chúng sinh. Biết như thực mà vì nói Pháp. Hình tướng của Bậc Thanh Văn, hình tướng của Bậc Bích Chi Phật, hình tướng của Bậc Bồ Tát, hình tướng của Bậc Như Lai. Biết như thực theo Nhân duyên chúng sinh mà vì nói Pháp. Theo Căn, theo tâm, theo tham muốn khác biệt mà vì nói Pháp. Lại theo nơi làm, theo nơi Trí tuệ mà vì nói Pháp. Biết tất cả nơi đi mà vì nói Pháp. Tùy theo tính chúng sinh nhập sâu vào nơi khó mà vì nói Pháp. Theo hướng tới, theo sinh, theo Phiền não, theo chuyển đổi thói quen cho nên nói Pháp. Theo bậc Pháp giúp Giải thoát cho nên nói Pháp.

Bồ Tát đó dừng ở Bậc này. Là Thầy Pháp lớn bảo vệ tạng Pháp các Phật. Nhập vào nghĩa sâu vi diệu. Sử dụng vô lượng Phương tiện Trí tuệ. Lời nói bốn Trí tuệ không trở ngại giảng Pháp. Bồ Tát đó thường theo bốn Trí tuệ không trở ngại. Mà không thể phá hỏng. Thế nào là bốn ?

Một là không trở ngại của Pháp. Hai là không trở ngại của Nghĩa. Ba là không trở ngại của Từ ngữ. Bốn là không trở ngại của Ham thích nói.

Bồ Tát đó do Trí tuệ không trở ngại của Pháp. Biết tự hình tướng của các Pháp. Do Trí tuệ không trở ngại của Nghĩa. Biết Pháp khác biệt. Do Trí tuệ không trở ngại của Từ ngữ. Biết nói các Pháp không thể phá hỏng. Do Trí tuệ không trở ngại của Ham thích nói. Biết nói các Pháp lần lượt không cắt đứt. Lại nữa do Trí tuệ không trở ngại của Pháp. Biết hình thể tính không có của các Pháp. Do Trí tuệ không trở ngại của Nghĩa. Biết hình tướng sinh mất của các Pháp. Do Trí tuệ không trở ngại của Từ ngữ. Biết tên giả của các Pháp, không cắt bỏ nói tên giả. Do Trí tuệ không trở ngại của Ham thích nói. Biết thuận theo tên giả, không phá hỏng, nói không có giới hạn. Lại nữa do Trí tuệ không trở ngại của Pháp. Biết hình tướng khác biệt của các Pháp Hiện tại. Do Trí tuệ không trở ngại của Nghĩa. Biết tướng khác biệt của các Pháp Quá khứ Tương lai. Do Trí tuệ không trở ngại của Từ ngữ.  Biết nói các Pháp Hiện tại Quá khứ Tương lai không thể phá hỏng. Do Trí tuệ không trở ngại của Ham thích nói. Với mỗi một đời được nói Pháp sáng không giới hạn.

Lại nữa do Trí tuệ không trở ngại của Pháp. Biết các Pháp khác biệt. Do Trí tuệ không trở ngại của Nghĩa. Biết Nghĩa các Pháp khác biệt. Do Trí tuệ không trở ngại của Từ ngữ. Tùy theo các tiếng nói mà vì nói Pháp. Do Trí tuệ không trở ngại của Ham thích nói. Tùy theo sở thích hiểu mà vì nói Pháp. Lại nữa do Trí tuệ không trở ngại của Pháp. Do Pháp Trí tuệ Phương tiện. Biết các Pháp khác biệt không thể phá hỏng. Do Trí tuệ không trở ngại của Nghĩa. Do so sánh Trí như thực biết các Pháp khác biệt. Do Trí tuệ không trở ngại của Từ ngữ. Dùng Trí tuệ Thế gian nói các Pháp khác biệt. Do Trí tuệ không trở ngại của Ham thích nói. Biết dễ nói Nghĩa không có hình tướng. Lại nữa do Trí tuệ không trở ngại của Pháp. Biết một hình tướng của các Pháp không phá hỏng. Do Trí tuệ không trở ngại của Nghĩa. Biết Uẩn, Nhập, Cõi Giới, Pháp bốn Chân lý Nhân duyên. Do Trí tuệ không trở ngại của Từ ngữ.  Do vì âm thanh vi diệu. Hướng tới trở về của tất cả Thế gian. Do Trí tuệ không trở ngại của Ham thích nói. Nói được chuyển thành tốt hơn. Có thể giúp chúng sinh được Pháp sáng không có giới hạn.

Lại nữa do Trí tuệ không trở ngại của Pháp. Biết Pháp Bậc Phật thành quả hút lấy tất cả không khác biệt. Do Trí tuệ không trở ngại của Nghĩa. Biết các Bậc Pháp khác biệt. Do Trí tuệ không trở ngại của Từ ngữ. Có thể nói các Bậc Pháp không khác biệt. Do Trí tuệ không trở ngại của Ham thích nói.  Dùng một môn Pháp nói Pháp sáng không có giới hạn. Lại nữa do Trí tuệ không trở ngại của Pháp. Có thể nhập vào hạnh của tất cả Bồ Tát, hạnh Trí tuệ, hạnh Pháp, thuận theo hạnh Trí tuệ. Do Trí tuệ không trở ngại của Nghĩa. Có thể phân biệt nói nghĩa mười Bậc khác biệt. Do Trí tuệ không trở ngại của Từ ngữ. Nói thuận theo các Bậc, Đạo không thể phá hỏng. Do Trí tuệ không trở ngại của Ham thích nói. Nói hình tướng không có giới hạn của tất cả hành động.

Lại nữa do Trí tuệ không trở ngại của Pháp. Biết tất cả Phật ở trong một nghĩ nhớ được thành Bồ Đề. Do Trí tuệ không trở ngại của Nghĩa. Biết đủ loại thời khắc, đủ loại Nước Phật khác biệt. Do Trí tuệ không trở ngại của Từ ngữ. Thuận theo các Phật được Đạo nói việc khác biệt. Do Trí tuệ không trở ngại của Ham thích nói. Với một câu Pháp nói vô biên Kiếp mà không tận cùng. Lại nữa do Trí tuệ không trở ngại của Pháp. Biết tất cả lời Phật, tất cả lực Phật, không sợ, không cùng Pháp, Đại Từ Đại Bi, Trí tuệ không trở ngại. Tất cả các loại Trí tuệ chuyển vầng Pháp. Do Trí tuệ không trở ngại của Nghĩa. Biết âm thanh của Như Lai. Nói tám vạn bốn nghìn tâm chúng sinh thuận theo, các Căn ham thích thực hành khác biệt. Do Trí tuệ không trở ngại của Từ ngữ. Do âm thanh của Như Lai. Nói tất cả các hạnh không thể phá hỏng. Do Trí tuệ không trở ngại của Ham thích nói. Do lực Trí tuệ các Phật. Thuận theo nói âm thanh được chúng sinh ham thích.

Bồ Tát Bồ Tát lớn dễ biết Trí tuệ không trở ngại như thế. Yên ở Bậc thứ chín. Tên là được tạng Pháp Phật. Là Thầy Pháp lớn. Được các nghĩa Nhận giữ nhớ không quên. Nhận giữ nhớ không quên các Pháp. Phát ra Trí tuệ Nhận giữ nhớ không quên. Nhận giữ nhớ không quên các sáng suốt. Nhận giữ nhớ không quên Tuệ Thiện. Nhận giữ nhớ không quên tiền tài. Tên là nghe Nhận giữ nhớ không quên. Nhận giữ nhớ không quên uy Đức. Nhận giữ nhớ không quên không trở ngại. Nhận giữ nhớ không quên trở về không có giới hạn. Nhận giữ nhớ không quên tạng nghĩa hỗn tạp. Được như thế cùng với trăm vạn A tăng kì Nhận giữ nhớ không quên. Tùy theo Phương tiện nói vô lượng ham thích, nói như thế, nói Pháp môn khác biệt.

Bồ Tát đó được vô lượng môn Nhận giữ nhớ không quên như thế. Có thể nghe Pháp ở nơi ở của vô lượng Phật. Nghe xong không quên. Như Pháp nghe được. Có thể dùng vô lượng môn khác biệt vì người diễn thuyết. Bồ Tát đó ở nơi ở của một Phật. Dùng trăm vạn A tăng kì Nhận giữ nhớ không quên. Nghe nhận Pháp đúng. Như từ một Phật. Vô lượng Phật khác cũng lại như thế. Bồ Tát đó khi làm lễ kính Phật. Do nghe Pháp sáng. Không phải Thanh Văn học nhiều được lực Nhận giữ nhớ không quên. Với mười vạn Kiếp có thể nhận giữ. Bồ Tát đó được lực Nhận giữ nhớ không quên như thế. Lực Ham thích nói Trí tuệ không trở ngại. Do vì nói Pháp. Ở trên tòa Pháp. Chúng sinh ở trong đầy khắp Đại thiên Thế giới. Tùy ý nói Pháp. Bồ Tát đó ở trên tòa Pháp. Chỉ ngoại trừ các Phật và Bồ Tát nhận chức vị. Ở trong tất cả là tốt đẹp cao nhất.

Bồ Tát đó ở trên tòa Pháp. Hoặc dùng một âm thanh. Muốn giúp cho tất cả đều cùng được hiểu rõ. Liền được hiểu rõ. Hoặc dùng đủ loại âm thanh. Muốn giúp cho tất cả đều được mở hiểu. Liền được mở hiểu. Hoặc dùng im lặng chỉ phóng Quang sáng. Muốn giúp tất cả đều được hiểu Pháp. Liền được hiểu Pháp. Hoặc tất cả lỗ chân lông. Đều phát ra tiếng Pháp. Hoặc tất cả vật có Sắc thân, không có Sắc thân của Ba nghìn Đại thiên Thế giới. Đều phát ra tiếng Pháp. Hoặc dùng một âm thanh tràn khắp Cõi Pháp. Muốn làm cho được hiểu. Liền đều được hiểu. Tất cả chúng sinh ở Ba nghìn Đại thiên Thế giới của Bồ Tát đó. Dùng vô lượng âm thanh cùng một lúc hỏi khó. Do hỏi đều khác lạ.

Bồ Tát đó ở trong một nghĩ nhớ. Đều nhận tất cả hỏi khó như thế. Dùng một âm thanh trả lời đều giúp cho mở hiểu. Như thế hoặc hai hay ba. Hoặc trăm hay nghìn. Thậm chí chúng sinh ở trong đầy khắp Ba nghìn Đại thiên Thế giới không thể nói, không thể nói. Rộng vì nói Pháp. Dựa vào Thần lực của Phật. Có thể vì chúng sinh rộng làm việc Phật. Lại gấp bội siêng hút lấy. Trí sáng như thế. Ở trong một bụi trần có hội lớn bằng số bụi trần của Thế giới không thể nói, không thể nói. Phật ở trong nơi này. Tùy theo tâm chúng sinh mà vì nói Pháp. Giúp cho mỗi một tâm chúng sinh được rất nhiều vô lượng các Pháp. Như một Phật, tất cả các Phật cũng như thế. Như tất cả Thế giới mười phương ở một bụi trần. Cũng lại như thế. Ở trong đó sinh lực ghi nhớ lớn. Ở trong một nghĩ nhớ. Nhận được Pháp sáng từ tất cả Phật. Một câu không mất. Như hội lớn bên trên, chúng sinh tràn đầy bên trong. Vì Pháp sáng quyết định nói Pháp Thanh tịnh. Ở trong một nghĩ nhớ giúp cho chúng sinh được như thế. Đều được mở hiểu. Huống chi chúng sinh ở trong rất nhiều Thế giới.

Bồ Tát đó dừng ở Bậc như thế. Căn thiện chuyển thành tốt hơn. Nhập sâu vào nơi các hạnh Phật. Thường ở tất cả hội Phật. Nhập sâu vào Giải thoát của Bồ Tát. Bồ Tát thuận theo Trí tuệ như thế. Thường thấy các Phật. Ở trong mỗi một Kiếp vô lượng vô biên trăm nghìn vạn trăm triệu dùng đồ cúng tốt nhất, cúng dưỡng các Phật. Ở nơi ở của các Phật đủ loại hỏi khó. Thông suốt các Nhận giữ nhớ không quên. Tất cả Căn thiện chuyển thành sáng sạch tốt hơn.

Như luyện vàng mười. Trang nghiêm đầy đủ. Vì Vua Chuyển Luân nương nhờ mũ báu. Tất cả Vua nhỏ không thể đoạt được. Bồ Tát cũng như thế. Dừng ở Bậc Tuệ Thiện. Tất cả Căn thiện chuyển thành sáng sạch tốt hơn. Thanh Văn Bích Chi Phật, Bồ Tát các Bậc không thể phá hỏng. Căn thiện của Bồ Tát đó chuyển thành sáng. Có thể chiếu sáng nơi hoạn nạn Phiền não của chúng sinh. Như Vua Phạm lớn. Tất cả nơi hoạn nạn của Ba nghìn Thế giới. Đều cùng có thể chiếu sáng. Bồ Tát cũng như thế. Ở Bậc Tuệ Thiện. Căn thiện sáng sạch. Chiếu sáng nơi hoạn nạn Phiền não của các chúng sinh.

Tên là nói sơ lược Bậc Tuệ Thiện của Bồ Tát. Nếu nói rộng khắp. Chắc là vô lượng vô biên Kiếp. Không thể tận cùng. Bồ Tát ở Bậc này. Đa phần làm Vua Phạm lớn. Thống lĩnh Ba nghìn Đại thiên Thế giới. Không có thể hơn. Hiểu nghĩa như thực. Ở trong Tự do mà được Tự do. Dễ có thể đọc nói Thanh Văn Bích Chi Phật, Pháp tới Niết Bàn của Bồ Tát. Chúng sinh hỏi khó không thể tận cùng. Do làm Nghiệp thiện. Bố thí, lời nói nhân ái, lợi ích, cùng làm việc. Đều không ly rời nhớ Phật. Không ly rời nhớ Pháp. Thậm chí không ly rời nhớ Tất cả loại Trí tuệ. Thường sinh tâm đó. Con đang với tất cả chúng sinh là đứng hàng đầu là tốt hơn. Thậm chí với tất cả chúng sinh là dừng dựa vào. Bồ Tát đó nếu muốn siêng thực hành Tinh tiến như thế. Ở trong một nghĩ nhớ được trăm vạn A tăng kì Tam muội bằng số bụi trần của Ba nghìn Đại thiên Thế giới. Thậm chí có thể tỏ rõ Bồ Tát bằng số bụi trần của trăm vạn A tăng kì Ba nghìn Đại thiên Thế giới. Dùng làm quyến thuộc. Nếu dùng lực nguyện Thần thông Tự do. Lại vượt qua số đó. Trăm nghìn vạn trăm triệu Na do tha Kiếp không thể tính biết.

Bồ Tát ở bậc tám tên là được tạng Pháp Phật. Có thể nghe Pháp ở nơi ở của vô lượng Phật. Nghe xong không quên. Tùy ý nói Pháp giáo hóa chúng sinh. Là thầy Pháp lớn chỉ không bằng Phật và Bồ Tát nhận chức vị.

Nam mô A Di Đà Phật.
Phật Tử Bùi Đức Huề biên soạn tháng 1/2015.