NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH (1)

Tác giả: Bồ-Tát Thế Thân
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 8

PHẦN THỨ 7: GIỚI HỌC TĂNG THƯỢNG

Luận nói: “Như vậy đã nói nhân quả tu sai biệt, trong đây giới tăng thượng thù thắng làm sao thấy được? Như địa Bồ-tát trong Bồ-tát chánh thọ luật nghi nói: “Lại nữa, phải biết sơ lược do bốn thứ thù thắng nên giới nầy là thù thắng: 1. Do sai biệt thù thắng. 2. Do học xứ cộng, bất cộng thù thắng. 3. Do quảng đại thù thắng. 4. Do thậm thâm thù thắng.

Giải thích: Trong đây hỏi đáp để biện luận chỗ học thi-la của các Bồ-tát, đối với Thanh-văn, Độc-giác có sai biệt lớn, nên gọi là thù thắng. Lại nữa, ba học của giới tăng thượng nầy, tức là đã nói trước về chỗ gồm thâu của tự tánh Ba-la-mật-đa. Tại sao lại lập riêng? Đối với việc nói Ba-la-mật-đa trước kia, là kiến lập nghĩa riêng, bây giờ hiển thị, để hiển bày về tướng lần lượt nơi tánh nhân nên lập riêng ba học, là nương vào thi-la mà phát sinh tĩnh lự, lại nương vào tĩnh lự để phát sinh Bát-nhã.

Luận nói: “Sai biệt thù thắng, là Bồ-tát giới có ba phẩm riêng: 1. Giới luật nghi. 2. Giới nhiếp thiện pháp. 3. Giới nhiêu ích hữu tình. Giới luật nghi trong ấy, phải biết có hai giới kiến lập nghĩa; giới nhiếp thiện pháp, phải biết tu tập tất cả pháp Phật nên kiến lập nghĩa; giới nhiêu ích hữu tình, phải biết thành thục tất cả hữu tình nên kiến lập nghĩa”.

Giải thích: Sai biệt thù thắng, là Thanh-văn, Độc-giác chỉ có một thứ giới luật nghi, không có giới nhiếp thiện pháp và giới nhiêu ích hữu tình. Bồ-tát thì có đủ ba thứ, nên thù thắng.

Luận nói: “Học xứ cộng bất cộng thù thắng, là tất cả tánh tội của các Bồ-tát không hiện hành, cùng với Thanh-văn là cộng, tương tợ giá tội có hiện hành, thì cùng với Thanh-văn là bất cộng. Đối với học xứ nầy, có học xứ chỉ có Thanh-văn phạm, Bồ-tát thì không phạm; có học xứ chỉ có Bồ-tát phạm, Thanh-văn thì không phạm. Bồ-tát thì có đủ giới của thân ngữ và tâm, Thanh-văn thì chỉ có hai thứ giới của thân và ngữ, nên giới tâm, Bồ-tát cũng có phạm, không phải Thanh-văn. Tóm lại, tất cả tạo lợi ích cho hữu tình không có tội nghiệp thân ngữ ý thì Bồ-tát tất cả đều phải hiện hành, đều phải tu học. Như vậy nên biết gọi là cộng bất cộng thù thắng”.

Giải thích: Tất cả tánh tội trong cộng bất cộng, là sát sinh… gọi là tánh tội, tương tợ giá tội, là đào đất, làm đứt cỏ… gọi là bất cộng. “Đối với học xứ này”, là hậu học xứ. “Có học xứ chỉ có Thanh-văn phạm, Bồ-tát thì không phạm”, như hai thứ an cư quán sát lợi ích hữu tình liền hành qua đêm. “Có học xứ chỉ có Bồ-tát phạm, Thanh-văn thì không phạm”, là quán hữu ích mà không hành. “Cho nên giới, tâm Bồ-tát cũng có phạm, không phải Thanh-văn”, là khi chỉ khởi tầm tư của dục bên trong, thì Bồ-tát thành phạm giới, không phải Thanh-văn. “Tất cả tạo lợi ích cho hữu tình không có tội nghiệp thân ngữ ý thì Bồ-tát tất cả đều phải hiện hành, đều phải tu học”, là có thể tạo lợi ích mà không có tội, như vậy ba nghiệp, Bồ-tát phải tu, hoặc tuy tạo lợi ích mà không phải vô tội, như lấy vật phi pháp của người nữ trao cho người khác, vì ngăn che sự nầy nên nói vô tội.

Luận nói: “Quảng đại thù thắng, lại do bốn thứ quảng đại: 1. Do vô số vô lượng học xứ quảng đại. 2. Do thâu nhận vô lượng phước đức quảng đại. 3. Do thâu nhận cho lợi ích an lạc hết thảy hữu tình ý lạc quảng đại. 4. Do kiến lập chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng quảng đại”.

Giải thích: Vô số vô lượng học xứ quảng đại, là tu học xứ của các Bồ-tát cũng là chủng chủng cũng là vô lượng, do đấy đối với tất cả hữu tình kia làm sự thành thục và sự thâu nhận. Thâu nhận vô lượng phước đức quảng đại, là thâu nhận vô lượng tư lương phước đức của các Bồtát, không phải Thanh-văn. Thâu nhận lợi ích an lạc cho hết thảy hữu tình, ý lạc quảng đại, là đối với các hữu tình khuyến khích khiến cho tu thiện, gọi là ý lạc lợi ích; hoặc ngay nơi Bổ-đặc-già-la nầy, nguyện do thiện kia sẽ đắc thắng quả, gọi là ý lạc an lạc. Kiến lập chánh đẳng Bồđề Vô thượng quảng đại, là các Bồ-tát do thi-la nầy mà kiến lập chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, không phải Thanh-văn.

Luận nói: “Thậm thâm thù thắng, là các Bồ-tát do phẩm loại phương tiện thiện xảo đó, hành mười thứ tạo nghiệp như sát sanh… mà không có tội, sinh vô lượng phước, mau chứng chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng. Lại nữa, các Bồ-tát hiện hành biến hóa hai nghiệp thân ngữ, phải biết cũng là thậm thâm thi-la, do nhân duyên nầy hoặc làm quốc vương, thị hiện làm các thứ phiền não nơi hữu tình, để an lập họ vào Tỳ-nại-da. Lại nữa, hiện vô số sự bản sinh, thị hiện làm bức não các hữu tình khác, chân thật dẫn dắt họ, trước hết khiến cho tâm của người khác sinh tịnh tín sâu rộng, sau đó chuyển cho thành thục, gọi là học xứ Thi-la thậm thâm thù thắng của Bồ-tát”.

Giải thích: Trong “thậm thâm thù thắng, là các Bồ-tát do phẩm loại phương tiện thiện xảo đó”, trong đây hiển thị công năng của Bồtát như vậy, công năng phương tiện thiện xảo như vậy, các Bồ-tát nếu biết như vậy, phẩm loại Bổ-đặc-già-la như vậy, đối với các sự bất thiện vô gián nầy sắp khởi gia hạnh, dùng tha tâm trí biết rõ tâm chúng sinh, không có phương tiện nào khác có thể chuyển nghiệp của họ, biết rõ như thật họ do nghiệp nầy, quyết thối chuyển cõi thiện, định sinh vào cõi ác, đã biết sinh như vậy, tâm như vậy, Bồ-tát nghĩ “ta tạo tác nghiệp nầy sẽ bị đọa vào cõi ác, ta nên tự đến, cần phải giải thoát cho họ”, đối với chúng sinh hiện tại tuy thêm ít khổ, nhưng vị lai khiến họ thọ nhiều an lạc, do đó Bồ-tát ví như lương y, vì tạo lợi ích tâm tuy sát hại chúng sinh nhưng không có chút tội nào, nhiều đời có phước, do phước đó mà mau chứng chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, những giới như vậy rất là thậm thâm.

Lại nữa, các Bồ-tát hiện khởi biến hóa hai nghiệp thân ngữ, nên biết cũng là thậm thâm Thi-la. Do đạo lý nầy, hoặc làm quốc vương thị hiện tạo vô số sự não hại hữu tình, hoặc an lập hữu tình trong Tỳ-nại-da. Tự thể biến hóa gọi là biến hóa. Trong đây nên nói, như vua vô yểm túc biến hóa chỉ dẫn cho đồng tử thiện tài. “Lại nữa, hiện vô số sự bản sinh”, như các sự bản sinh Tỳ-thấp-bà, An-dát-la… Trong đây Bồ-tát đem con trai, con gái của mình thí cho bà-la-môn, đều là biến hóa. “Thị hiện làm bức não các hữu tình khác, chân thật dẫn dắt họ”, là các Bồtát cuối cùng không bức não thật hữu tình khác, vì dẫn dắt thật hữu tình khác, như vậy cũng gọi là thậm thâm thù thắng.

Luận nói: “Do lược nói bốn thứ thù thắng nầy, phải biết luật nghi Thi-la của Bồ-tát là rất thù thắng. Học xứ của Bồ-tát sai biệt như vậy, phải biết lại có vô lượng sai biệt, như trong Tỳ-nại-da cù-sa khế kinh nói phương quảng .

Giải thích: Như vậy là lược nói bốn thứ sai biệt, trong kinh Tỳnại-da cù-sa, nói rộng có trăm ngàn sai biệt.

 

PHẦN THỨ 8: TÂM HỌC TĂNG THƯỢNG

Luận nói: “Như vậy đã nói giới Tăng thượng thù thắng, còn Tâm tăng thượng thù thắng làm sao thấy được? Phải biết sơ lược do sáu thứ sai biệt: 1. Do đối tượng duyên sai biệt. 2. Do các chủng loại sai biệt. 3. Do đối trị sai biệt. 4. Do gắng nhận sai biệt. 5. Do dẫn phát sai biệt. . Do tác nghiệp sai biệt”.

Giải thích: Để hiển Tâm học tăng thượng thù thắng nên đặt ra vấn đáp này.

Luận nói: “Đối tượng duyên sai biệt, là pháp Đại thừa làm đối tượng duyên”.

Giải thích: “Là pháp Đại thừa làm đối tượng duyên”, là các Bồtát quyết định duyên đối với Đại thừa, không phải Thanh-văn quyết định.

Luận nói: “Các chủng loại sai biệt, là các Tam-ma-địa Đại thừa quang minh, tập phước, định vương, hiền thủ, kiện hành… chủng loại vô lượng”.

Giải thích: “Đại thừa quang minh, tập phước, định vương…”, là để hiển các Tam-ma-địa với các chủng loại sai biệt như vậy, chỉ Đại thừa mới có, thừa Thanh-văn… một thứ cũng không có.

Luận nói: “Đối trị sai biệt, là trí duyên nơi tổng tướng của tất cả pháp, dùng cái nêm để lói cái nêm nơi đạo lý dứt trừ tất cả chướng thô trọng trong thức A-lại-da”.

Giải thích: Trí duyên tổng pháp đối trị tất cả chướng ngại mà trụ, như dùng cái nêm vi tế lói trừ cái nêm thô trụ trong bản thức. Các pháp tạp nhiễm huân tập chủng tử gọi là thô, các đối trị đạo có thể trừ tạp nhiễm kia nên có nghĩa là vi tế.

Luận nói: “Gắng nhân sai biệt, là trụ tĩnh lự lạc, tùy theo chỗ dục đó mà thọ sinh”.

Giải thích: Do có gắng nhân trụ nơi tĩnh lự lạc, tùy chỗ có lợi ích các hữu tình, thì liền trụ tĩnh lự lạc kia sinh tĩnh lự bất thối. Hàng Thanhvăn, Độc-giác không có các sự như vậy.

Luận nói: “Dẫn phát sai biệt, là có thể dẫn phát tất cả thế giới thần thông vô ngại”.

Giải thích: Do tĩnh lự nầy mà dẫn phát thần thông tất cả thế giới đều không có chướng ngại.

Luận nói: “Tác nghiệp sai biệt, là có thể làm chấn động, sáng tỏ đầy khắp chuyển biến hiển bày sự vãng lai, thâu mở, tất cả sắc tượng đều nhập vào trong thân, chỗ đi đến đồng loại, hoặc hiển hoặc ẩn, tạo tác tự tại, chế ngự thần thông của người khác, thí biện niệm lạc, phóng ánh sáng lớn, dẫn phát đại thần thông như vậy”.

Giải thích: “Tác nghiệp sai biệt”, là sự tạo sự nghiệp phát khởi thần thông, trong đó có thể làm động tất cả thế giới nên gọi là “chấn động”. Ngay nơi thế giới đó có thể đốt cháy nên gọi là sáng tỏ. “Đầy khắp”, phải biết tức là ánh sáng chiếu khắp. “Hiển bày”, là do oai lực nầy khiến cho không có chủ thể và đối tượng, các loại hữu tình khác có thể thấy rõ vô lượng thế giới và thấy chư Phật Bồ-tát khác. “Chuyển biến”, phải biết là chuyển biến tất cả đất khiến cho thành nước. “Vãng lai”, là một sát-na có thể qua lại vô lượng thế giới. “Thâu mở”, thâu lại có thể cuốn mười phương vô lượng thế giới vào trong một cực vi mà cực vi không tăng, mở ra là có thể mở một cực vi bao quát mười phương vô lượng thế giới, mà thế giới không giảm. “Tất cả sắc tượng đều nhập vào trong thân”, là trong thân hiện vô lượng vô số tất cả sự nghiệp. “Chỗ đi đến đồng loại”, là như đi đến cõi trời tam thập tam thiên, sắc tượng và tiếng nói cùng đồng loại, vì hoá độ chư thiên nên đi đến tất cả xứ cũng lại như vậy. Hiển là hiển hiện, ẩn là ẩn tàng. “Tạo tác tự tại”, là như biến ma vương làm thân Phật… “Chế phục thần thông của người khác”, là có thể chiếu soi, che khuất tất cả thần thông. Đối với người thỉnh hỏi thì thí cho biện tài nên gọi là “thí biện”, đối với người nghe thì thí cho niệm thí cho lạc, vì khiến đắc định nên gọi là “thí niệm lạc”. “Phóng ánh sáng lớn”, là vì muốn triệu tập Bồ-tát trụ ở nơi thế giới phương khác. “Dẫn phát đại thần thông như vậy”, là dẫn điều nói đại thần thông ở trước. Như vậy là cái mà tất cả Thanh-văn không có, nên là thù thắng.

Luận nói: “Lại nữa, có thể dẫn phát và thâu tóm các nan hành, là mười nan hành. Mười nan hành là: 1. Tự thệ nan hành, vì thệ nguyện thọ Bồ-đề Vô thượng. 2. Bất thối nan hành, vì sinh tử nhiều khổ không thể thối chuyển. 3. Bất bội nan hành, vì tất cả hữu tình tuy hành tà hạnh nhưng không buông bỏ họ. 4. Hiện tiền nan hành, vì hữu tình oán hận nên hiện làm tất cả sự lợi ích. 5. Bất nhiễm nan hành, vì sinh tại thế gian nhưng không bị thế gian làm nhiễm ô. . Thắng giải nan hành, vì trong Đại thừa tuy chưa hiểu rõ, nhưng đối với tất cả pháp quảng đại thậm thâm sinh tín giải. 7. Thông đạt nan hành, vì đủ có thể thông đạt Bổ-đặc-già-la vô ngã. 8. Tùy giác nan hành, vì đối với những lời bí mật mà chư Như Lai nói có khả năng tùy theo đó mà giác ngộ. 9. Không lìa không nhiễm nan hành, không xả bỏ sinh tử mà không nhiễm. 10.

Gia hạnh nan hành, vì có thể tu tập pháp an trụ của chư Phật, giải thoát tất cả chướng ngại, tận cùng biên vực sinh tử, không khởi công dụng, thường khởi tất cả hành nghĩa lợi của tất cả hữu tình.

Giải thích: Như nói Bồ-tát tu các nan hành, trong đó những gì gọi là nan hành? Tất cả nan hành chỗ hiển có mười thứ, trong đó không lìa không nhiễm nan hành, là không buông xả nên gọi là không lìa, đối với sinh tử không hoàn toàn lìa bỏ, cũng không nhiễm ô, điều nầy rất là khó, chín nan hành còn lại nghĩa cũng dễ hiểu.

Luận nói: “Lại nữa, trong tùygiác nan hành, đối với Phật những gì là ngôn từ bí mật mà các Bồ-tát có thể theo đó biết rõ? Là như kinh nói.

Giải thích: Vì hiển ý nghĩa sâu xa của ngôn từ bí mật nên đặt câu hỏi này. “Như kinh nói”, sau sẽ giải thích.

Luận nói: “Thế nào là Bồ-tát có thể hành tuệ thí? Sự thí của Bồtát không ít, mà với mười phương vô lượng thế giới rộng hành tuệ thí. Vì sao các Bồ-tát ưa hành tuệ thí, nếu họ không ưa thí? Thế nào là Bồtát trong ân tuệ thí sinh tín giải sâu xa, nếu các Bồ-tát không tin Như Lai mà hành bố thí? Các Bồ-tát sách tấn đối với thí , nếu các Bồ-tát trong huệ thí không tự sách tấn? Thế nào là Bồ-tát đối với thí hết mực ưa thích, nếu các Bồ-tát không có chỗ thí chút ít tạm thời? Thế nào là Bồ-tát thí quảng đại, nếu các Bồ-tát trong huệ thí lìa tưởng lưu tán? Thế nào là Bồ-tát thí thanh tịnh, nếu các Bồ-tát ôn-ba-đà xan? Thế nào là Bồ-tát thí cứu cánh, nếu các Bồ-tát không trụ cứu cánh? Thế nào là Bồ-tát thí tự tại, nếu các Bồ-tát trong huệ thí không tự tại chuyển? Thế nào là Bồ-tát thí vô tận, nếu các Bồ-tát không trụ vô tận? Như vậy bố thí, đối với giới làm đầu, đối với huệ làm sau, tùy chỗ thích ứng của nó phải biết cũng vậy”.

Giải thích: Thế nào là Bồ-tát có thể hành huệ thí? Là tất cả hữu tình của các Bồ-tát thâu tóm làm tự thể, nên thí kia tức là thí chính mình, đó là ý nghĩa này. Thế nào là Bồ-tát lạc hành tuệ thí? Là các Bồtát không ưa thích tu hành vị trước mà bố thí, chỉ ưa thích tu hành tịnh thí của Bồ-tát. “Tham trước vị”, là có ý nói tham nhiễm, hoặc có chỗ khác đến cầu bố thí. Thế nào là Bồ-tát trong huệ thí sinh tín giải sâu xa? Là các Bồ-tát tự đắc thí tâm mà hành huệ thí, không dựa vào duyên khác. Thế nào là Bồ-tát sách tấn đối với thí? Là tự tánh chủ thể thí của các Bồ-tát, đoạn dứt xan lận, không chờ người khác sách tấn mà cũng tự sách tấn, tùy ý có thể thí, là ý thú này. Thế nào là Bồ-tát đối với thí hết mức ưa thích? Là các Bồ-tát thường hành thí nên không có thí tạm thời, thí tất cả nên không có thí chút ít. Thế nào là Bồ-tát thí quảng đại? Là các Bồ-tát nương vào định mà hành thí, tức là nghĩa lìa dục mà hành thí. “Sa-lạc”, là hiển rõ chắc thật, nên giải chỗ sâu kín là lưu tán… hiện tại lấy mật nghĩa để lìa tưởng lưu tán, vì nương vào định hành thí nên trở thành rộng lớn. Thế nào là Bồ-tát thí thanh tịnh? Là các Bồ-tát dứt trừ xan túc (tâm keo kiệt muốn đủ) mà hành thí. “Ôn-ba-đà”, là hiển bày sự sinh khởi, mật nghĩa là bạt túc (trừ tâm muốn đủ). “Ba-đà”, gọi là túc, “Ôn” gọi là bạt, hiện tại lấy mật nghĩa là dứt trừ tâm keo kiệt muốn đủ khiến nghiêng che mặt mà hành huệ thí, nên gọi là ôn-bađà-xan. Thế nào là Bồ-tát thí cứu cánh? Là các Bồ-tát không trụ cứu cánh và Niết-bàn vô dư như Thanh-văn, Độc-giác, nên rốt ráo thường có thể hành thí. Thế nào là Bồ-tát thí tự tại? Là các Bồ-tát khiến cho … chướng của việc bố thí không đắc tự tại mà hành huệ thí, khiến chỗ đối trị chướng không được tự tại mà thí được tự tại. Thế nào là Bồ-tát thí vô tận? Là các Bồ-tát không trụ Niết-bàn, thường hành huệ thí, vô tận trong đây là có ý chọn lấy Niết-bàn, không đồng với Thanh-văn trụ Niết-bàn, thí đó mới vô tận.

Luận nói: “Thế nào là có thể sát sinh? Là nếu đoạn sinh tử lưu chuyển của chúng sinh. Thế nào là không cho mà lấy? Là nếu hữu tình không có người cho mà tự nhiên gồm thâu lấy. Thế nào là dục tà hạnh? Là nếu các dục biết rõ là tà mà hành chánh hạnh. Thế nào là có thể vọng ngữ? Là nếu trong vọng có thể nói là vọng. Thế nào là bối-thú-ni (nói lời li gián)? Là nếu có thể thường ở nơi không tối thắng. Thế nào là ba-lỗ-sư (nói lời thô ác)? Là nếu khéo an trụ đối tượng nhận thức là bờ giác. Thế nào là nói lời thiêu dệt? Là nếu chính thuyết phẩm loại sai biệt của các pháp. Thế nào là có thể tham dục? Là nếu có niệm niệm muốn tự chứng đắc Vô thượng tĩnh lự. Thế nào là có thể sân hận? Là nếu đối với tâm đó chính ghét hại tất cả phiền não. Thế nào là có thể tà kiến? Là nếu tất cả xứ tà tánh biến hành đều thấy như thật.

Giải thích: Như trong kinh nói: “Này Bí-sô! Ta là người hay sát sinh”, trong đây là hiển ý nghĩa đó. Thế nào là dục tà hạnh? Là biết các dục đều tà mà tu chánh hạnh. Thế nào là bối-thú-ni? Bối-thú-ni là hiển bày lời nói ly gián, ý nghĩa bí mật là thường thắng không. “Bối” là biểu hiện về thắng, “thú” là biểu hiện về không, “ni” là biểu hiện về thường. Hiện tại lấy mật nghĩa tương ưng với câu đáp, nên đáp: “Là nếu có thể thường trụ nơi không tối thắng”. Thế nào là Ba-lỗ-sư? Balỗ-sư nầy là hiển bày lời nói thô ác, ý nghĩa bí mật là trụ bờ kia, “ba” là biểu hiện về bờ kia, “Lỗ-sư” là biểu hiện về trụ. Hiện tại lấy mật nghĩa tương ưng với câu đáp nên đáp: “Là nếu khéo an trụ đối tượng nhận thức là bờ kia”, là nghĩa đến chỗ nhận thức về bờ kia mà trụ. Thế nào là có thể tà kiến? Là trong sắc… quán như thật thấy tà tánh biến hành, tức là trong Y tha khởi, quán như thật thấy Biến kế sở chấp là nghĩa tà tánh. Trong văn mười nghiệp đạo bất thiện, các nghĩa khác dễ hiểu.

Luận nói: “Pháp Phật sâu xa, thế nào là pháp Phật sâu xa? Trong đây phải giải thích pháp thường trụ là pháp của chư Phật, vì Pháp thân của Phật là thường trụ. Lại nữa, pháp đoạn diệt là pháp của chư Phật, vì tất cả chướng vĩnh viễn đoạn diệt. Lại nữa, pháp sinh khởi là pháp của chư Phật, vì thân biến hóa hiện tại khởi. Lại nữa, có pháp sở đắc là pháp của chư Phật, vì tám vạn bốn ngàn hạnh của các hữu tình và đối trị các hạnh đó đều có thể đắc. Lại nữa, có pháp tham là pháp của chư Phật, vì tự thệ nguyện thâu nhận hữu tình có tham làm thể của chính mình. Lại nữa, có pháp sân là pháp của chư Phật, lại có pháp si là pháp của chư Phật, lại có pháp dị sinh là pháp của chư Phật, phải biết cũng như thế. Lại nữa, pháp vô tham là pháp của chư Phật, vì thành tựu viên mãn chân như, tất cả cấu không thể nhiễm. Lại nữa, pháp không nhiễm ô là pháp của chư Phật, vì sinh tại thế gian nhưng các thế gian pháp không thể nhiễm ô, nên gọi là pháp Phật sâu xa.

Giải thích: Lại có chỗ khác khế kinh nói: “Pháp thường trụ là pháp của chư phật… nói rộng cho đến pháp không nhiễm ô là pháp của chư Phật”, ý nghĩa sâu xa trong đây bây giờ sẽ hiển thị. Vì thể Pháp thân của Phật là thường trụ, nói pháp nầy làm pháp thường trụ. Pháp đoạn diệt, là chỗ có chướng cấu đều đoạn trừ. Do nghĩa nầy nên nói pháp nầy làm pháp đoạn diệt. Pháp sở đắc pháp là pháp của Phật, là tám vạn bốn ngàn hạnh của hữu tình và đối trị tám vạn bốn ngàn hạnh kia đều có thể được, nên nói pháp nầy tên là hữu sở đắc. Pháp vô nhiễm, là chân như thanh tịnh, là chỗ không thể nhiễm của tất cả chướng cấu, nên nói pháp nầy tên là pháp vô nhiễm. Các nghĩa khác dễ hiểu không phiền giải thích lại.

Luận nói: “Lại nữa, vì có khả năng dẫn phát tu đến bờ kia thành thục hữu tình, làm thanh tịnh quốc độ Phật là pháp của chư Phật, phải biết cũng là tác nghiệp sai biệt đẳng trì của Bồ-tát”.

Giải thích: Trước chưa nói tác nghiệp sai biệt, bây giờ trong đây lại hiển tác nghiệp đẳng trì của Bồ-tát, là các Bồ-tát nương vào Tamma-địa có thể tu tất cả Ba-la-mật-đa. Lại nữa, nương vào định nầy có thể thành thục tất cả hữu tình, phát khởi vô số phương tiện của các thần thông, dẫn hữu tình nhập chánh pháp. Lại nữa, do lực nầy có thể khéo làm thanh tịnh tất cả cõi Phật, tâm được tự tại, tùy sự mong muốn mà cõi Phật có thể trở thành các bảo vật như kim ngân. Lại nữa, do lực nầy có thể chánh tu tập tất cả pháp Phật, đó là tác nghiệp sai biệt của Tamma-địa .

 

PHẦN THỨ 9: (Đoạn 1): TUỆ HỌC TĂNG THƯỢNG

Luận nói: “Như vậy, đã nói thù thắng của tâm tăng thượng, thù thắng của tuệ tăng thượng làm sao thấy được? Là trí Vô phân biệt, hoặc tự tánh, hoặc chỗ dựa, hoặc nhân duyên, hoặc đối tượng duyên, hoặc hành tướng, hoặc nhận giữ, hoặc trợ bạn, hoặc dị thục, hoặc đẳng lưu, hoặc xuất ly, hoặc đến cứu cánh, hoặc gia hạnh không phân biệt hậu đắc thắng lợi, hoặc sai biệt hoặc hậu đắc thí dụ không phân biệt, hoặc tác sự không công dụng, hoặc thậm thâm, phải biết trí Vô phân biệt gọi là tuệ tăng thượng thù thắng”.

Giải thích: Hiện tại là chính lúc nói tuệ tăng thượng. Trong đây có ý nói trí Vô phân biệt gọi là huệ học tăng thượng. Trí nầy lại có ba thứ: 1. Trí Vô phân biệt gia hạnh, là tầm tư tuệ. 2. Trí Vô phân biệt căn bản, là tuệ chánh chứng. 3. Trí Vô phân biệt hậu đắc là huệ khởi dụng. Trong đây tuệ mong cầu là tuệ tăng thượng thứ nhất, tuệ nội chứng là tuệ tăng thượng thứ hai, tuệ gồm thâu là tuệ tăng thượng thứ ba. Bây giờ lại thành lập trí Vô phân biệt, vì chỉ có trí nầy thông với nhân quả, chính trí tầm tư là nhân của trí nầy, chính trí hậu đắc là quả của trí nầy, nên thành lập trí nầy thì thành lập luôn cả hai trí kia.

Luận nói: “Trí Vô phân biệt trong đây, là lìa năm thứ tướng để làm tự tánh: 1. Lìa không tác ý. 2. Lìa địa có lỗi có tầm có từ. 3. Lìa tưởng thọ diệt tịch tĩnh. 4. Lìa tự tánh sắc. 5. Lìa chân nghĩa khác với lường tính. Lìa năm tướng nầy, phải biết gọi đó là trí Vô phân biệt”.

Giải thích: Lại trước hết nói cả thảy tự tánh của trí Vô phân biệt. Thể tướng trong đây gọi là tự tánh, là trí Vô phân biệt của các Bồ-tát lìa năm thứ tướng để làm tự tánh. “Năm thứ tướng”, nếu không tác ý là trí Vô phân biệt, thì ngủ, say, ngất xỉu… đáng lẽ thành trí Vô phân biệt. Nếu địa có lỗi có tầm có từ là trí Vô phân biệt thì các địa của đệ nhị tĩnh lự trở lên phải thành trí Vô phân biệt. Nếu như vậy thì thế gian đáng lẽ phải đắc trí Vô phân biệt. Nếu trong các vị của tưởng thọ diệt… tâm và tâm pháp không chuyển là trí Vô phân biệt thì vị của các định diệt không có tâm, thì trí đáng lẽ không thành. Nếu như tự tánh sắc là trí Vô phân biệt, như các sắc kia là trì độn vô tư duy, thì trí nầy đáng lẽ thành trì độn, vô tư duy. Lại có nghĩa khác, nếu như tánh sắc không nên thành, hoặc đối với chân nghĩa khác với lường tính chuyển, thì trí Vô phân biệt đáng lẽ có phân biệt, là phân biệt nói đây là chân nghĩa. Nếu trí xa lìa năm tướng như vậy, thì chân nghĩa chuyển trong chân nghĩa không khác với lường tính. Đây là chân nghĩa trí Vô phân biệt, khi có tướng duyên chân nghĩa như vậy, ví như nhãn thức không khác với lường tính, đây là nghĩa của nó.

Luận nói: “Đối với điều đã giảng như vậy thì trí Vô phân biệt trong thành lập tướng, lại nói nhiều bài tụng”.

Giải thích: Đối với điều đã nói trên, trí Vô phân biệt trong thành lập sơ lược, có nói rộng nhiều bài tụng.

Luận nói:

“Tự tánh các Bồ-tát,
Xa lìa năm thứ tướng,
Là trí Vô phân biệt,
Không khác xét nơi chân”.

Giải thích: Do bài tụng thứ nhất nầy hiển chỗ nói trí Vô phân biệt đã nói trên, nghĩa của tự tánh thứ nhất đã nói như vậy, tự tánh của trí nầy nương vào đó mà chuyển. Tiếp theo tụng sẽ nói.

Luận nói:

“Chỗ dựa các Bồ-tát,
Phi tâm mà là tâm,
Là trí Vô phân biệt,
Không nghĩa tư chủng loại”.

Giải thích: Như vậy điều nói về trí Vô phân biệt, là phải nói dựa tâm hay là dựa phi tâm. Nếu nói dựa tâm có thể lường xét, gọi là tâm dựa tâm mà chuyển, thì vô phân biệt đó không đúng đạo lý, nếu dựa phi tâm thì không thành trí. Để tránh hai lỗi như vậy nên nói tụng này. Chỗ dựa của trí nầy không gọi là tâm vì bất tư nghì, cũng không phải phi tâm vì là chỗ nêu dẫn của tâm. Chỗ dựa của sinh là chủng loại của tâm, cũng gọi là tâm nhân theo chủng loại kia mà sinh. Tụng tiếp theo sẽ hiển thị.

Luận nói:

“Nhân duyên các Bồ-tát,
Có nói, nghe huân tập,
Là trí Vô phân biệt,
Và tác ý như lý”.

Giải thích: “Nhân duyên các Bồ-tát”, là nhân của trí này. “Có nói, nghe huân tập”, là do âm thanh của người khác. “Và tác ý như lý”, là huân tập nầy làm nhân ý, trí Vô phân biệt nhân theo đây mà sinh. Lại có đối tượng duyên gì, tụng tiếp theo sẽ hiển thị.

Luận nói:

“Sở duyên các Bồ-tát,
Pháp tánh không thể nói,
Là trí Vô phân biệt,
Tánh chân như vô ngã”.

Giải thích: “Pháp tánh không thể nói”, là do tự tánh Biến kế sở chấp mà tất cả các pháp đều không thể nói. Những gì gọi là tánh không thể nói? Là chân như được làm sáng tỏ bởi tánh vô ngã, Biến kế sở chấp Bổ-đặc-già-la, và hết thảy pháp đều không có tự tánh, gọi là tánh vô ngã, tức là chỗ hiển hữu tánh của vô tánh nầy gọi là chân như, chớ lấy đoạn diệt mà nói “lời” này. Lại nữa, đối với hành tướng của đối tượng duyên và chỗ tạo tác, tụng tiếp theo sẽ hiển thị.

Luận nói:

“Hành tướng các Bồ-tát,
Ở trong đối tượng duyên,
Là trí Vô phân biệt,
Sở tri vô tướng kia”.

Giải thích: Hành tướng của Bồ-tát là sự hiện vô tướng trong đối tượng duyên, tức là trí nầy bình đẳng trong chân như. Bình đẳng sinh khởi thì không khác với tướng của vô tướng. Lấy làm hành tướng, như nhãn lấy sắc mà thấy tướng xanh vàng, không phải xanh vàng nầy cùng với sắc có khác nhau. Tướng nầy cũng vậy, trí cùng với chân như không khác với hành tướng, tức là trong đây vì giải thích nghi vấn nên lại nói hai bài tụng.

Luận nói:

“Nghĩa tự tánh tương ưng,
Không ngoài chỗ phân biệt,
Chữ lần lượt tương ưng,
Đó là nghĩa tương ưng”.
Không lìa năng thuyên kia,
Trí chuyển nơi sở thuyên
Vì phi thuyên bất đồng,
Tất cả không thể nói”.

Giải thích: Nếu tất cả pháp đều không thể nói thì lấy những gì để làm bị phân biệt? Giải thích câu hỏi nầy nên nói những câu như vậy. “Nghĩa tự tánh tương ưng, không ngoài chỗ phân biệt”, tức là tương ưng làm nghĩa của tự tánh, tức là chỗ phân biệt không lìa tự tánh nầy, nên nói là “không ngoài”. Tánh nầy làm sao thành? Vì thành lập lại nên nói lời như vậy. “Tự (chữ) lần lượt tương ưng, đó là nghĩa tương ưng”, là riêng từng chữ tương tục nêu truyền để thành ý nghĩa của nó, là “nghĩa tương ưng”, như nói chước-sô, hai chữ phát âm không lìa nhau mới thành nghĩa là nhãn, nghĩa tương ưng đó làm chỗ phân biệt. Lại nữa, tất cả pháp đều là không thể nói thì do đâu mà thành lập? Nên lại nói “không lìa năng thuyên kia, trí chuyển nơi đối tượng được nêu bày”, nếu không hiểu rõ danh của năng thuyên thì biết rõ đối với nghĩa sở thuyên không khởi, nên tất cả pháp đều là không thể nói. Nếu nói phải chờ danh của năng thuyên đối với nghĩa sở thuyên có hiểu biết khởi, để ngăn cản lỗi nầy, nên nói câu “vì phi thuyên bất đồng”. Năng thuyên danh cùng với nghĩa sở thuyên tương xứng lẫn nhau, mỗi mỗi đều khác tướng, năng thuyên đối với sở thuyên đều là không thể nói, do nguyên nhân nầy nên nói “tất cả pháp đều không thể nói”. Trí Vô phân biệt nhận giữ chỗ nào ?

Luận nói:

“Các Bồ-tát nhận giữ,
Là trí Vô phân biệt,
Các hành hậu sở đắc,
Vì tiến tới tăng trưởng”.

Giải thích: Do trí Vô phân biệt hậu sở đắc đắc hạnh Bồ-tát, hạnh nầy nương trí Vô phân biệt. “Vì tiến hướng tăng trưởng”, là khiến cho các hạnh Bồ-tát tăng trưởng như vậy, trí Vô phân biệt là các Bồ-tát kia nhận giữ. Trí nầy lại lấy gì làm trợ bạn ?

Luận nói:

“Các Bồ-tát trợ bạn,
Nói là hai thứ đạo,
Là trí Vô phân biệt,
Năm tánh đến bờ kia”.

Giải thích: Hai thứ đạo: 1. Đạo tư lương. 2. Đạo chỗ dựa. Đạo tư lương là thí, giới, nhẫn và tinh tấn Ba-la-mật-đa. Đạo chỗ dựa tức là tĩnh lự Ba-la-mật-đa, như đã nói trước chỗ sinh các thiện của Ba-la-mật-đa và nương vào tĩnh lự Ba-la-mật-đa mà trí Vô phân biệt liền được sinh trưởng, trí nầy gọi là huệ Ba-la-mật-đa. Cho đến khi chưa đắc Phật quả về sau, chỗ cảm quả dị thục của trí Vô phân biệt nầy tại nơi đâu?

Luận nói:

Các Bồ-tát dị thục,
Trong hai hội của Phật,
Là trí Vô phân biệt,
Do gia hạnh chứng đắc”.

Giải thích: “Trong hai hội của Phật”, là trong hội của thân thọ dụng và trong hội của thân biến hóa, nếu khi trí Vô phân biệt gia hạnh chuyển thì trong hội của thân biến hóa thọ sinh, thọ quả dị thục. Nếu chứng đắc trí Vô phân biệt thì trong hội của thân thọ dụng thọ sinh, thọ quả dị thục. Để hiển nghĩa nầy, lại nói do gia hạnh mà chứng đắc, thì trí Vô phân biệt nầy cái gì đẳng lưu?

Luận nói:

Các Bồ-tát đẳng lưu,
Trong mỗi mỗi đời sau,
Là trí Vô phân biệt,
Tự thể chuyển tăng thắng.

Giải thích: “Các Bồ-tát đẳng lưu, trong mỗi mỗi đời sau”, là kế trước đã nói đại hội của hai thân trong mỗi mỗi đời sau. “Là trí Vô phân biệt, tự thể chuyển tăng thắng”, tức là ngay chỗ tu đó mà trí Vô phân biệt dần dần tăng thắng, phải biết tức là quả đẳng lưu kia. Trí Vô phân biệt xuất ly như thế nào ?

Luận nói:

Các Bồ-tát xuất ly,
Đắc thành tựu tương ưng,
Là trí Vô phân biệt,
Phải biết nơi mười địa.

Giải thích: “Các Bồ-tát xuất ly”, vì tiến đến cứu cánh nên gọi là xuất ly, tức là tiến đến nghĩa đại Niết-bàn. “Đắc thành tựu tương ưng, là trí Vô phân biệt”, ban đầu đạt được trí nầy gọi là đắc tương ưng, thì sau đó vô lượng trăm ngàn đại kiếp thành tựu tương ưng. “Phải biết nơi mười địa”, tức là từ địa thứ nhất cho đến địa thứ mười, thứ lớp như vậy, trí nầy từ địa thứ nhất chỉ gọi là đắc, sau đó nhiều thời gian mới gọi là thành tựu, nên Bồ-tát trải qua vô số kiếp mới chứng Niết-bàn. Do thời gian như vậy mới đến cứu cánh, thì trí Vô phân biệt cái gì làm cứu cánh mà trước đã nói thứ lớp đạt được?

Luận nói:

Các Bồ-tát cứu cánh,
Đắc ba thân thanh tịnh,
Là trí Vô phân biệt,
Đắc tự tại tối thượng.

Giải thích: “Đắc ba thân thanh tịnh”, tức là đắc nghĩa ba thân tịnh của Như Lai. Thanh tịnh, là trong địa thứ nhất chỉ đắc ba thân, đến địa thứ mười mới hoàn toàn thanh tịnh. “Đắc tự tại tối thượng”, là trí Vô phân biệt không phải chỉ chứng tịnh ba thân lấy làm cứu cánh, mà lại đạt được mười thứ tự tại, tự tại nầy như sau nói, phải biết tướng của nó. Trí Vô phân biệt có thắng lợi gì? Trong đây ba thứ trí Vô phân biệt: 1. Trí Vô phân biệt gia hạnh. 2. Trí Vô phân biệt căn bản. 3. Trí Vô phân biệt hậu đắc. Trong đây trí Vô phân biệt gia hạnh, là ban đầu các Bồ-tát từ người khác nghe lý vô phân biệt, kế đó tuy chưa thể tự thấy lý nầy, nhưng có sinh thắng giải, rồi thắng giải nầy làm chỗ nương phương tiện suy tầm lý vô phân biệt, gọi đó là trí Vô phân biệt gia hạnh, do đây có thể sinh trí Vô phân biệt, vì thế, cũng đắc danh vô phân biệt, như vậy trí Vô phân biệt gia hạnh có thắng lợi là vô nhiễm. Thí dụ đó như thế nào ?

Luận nói:

Như hư không chẳng nhiễm,
Là trí Vô phân biệt,
Vô số cực trọng ác,
Do chỉ tin thắng giải.

Giải thích: Vì muốn hiển thị không thể nhiễm kia nên nói câu “vô số ác cực trọng”. Vì muốn hiển thị nhân bất chủ thể nhiễm nên nói “do chỉ tin thắng giải”. Nói do chỉ tin ưa lý vô phân biệt mà khởi thắng giải, nên có thể đối trị các thứ cõi ác, đây là hiển thị không nhiễm các ác, trong đây thắng lợi không nhiễm của trí căn bản không phân biệt, tướng của nó thế nào?

Luận nói:

Như hư không chẳng nhiễm,
Là trí Vô phân biệt,
Giải thoát tất cả chướng,
Đắc thành tựu tương ưng.

Giải thích: Từ đâu mà giải thoát? Là giải thoát tất cả chướng. Do đâu mà giải thoát? Là giải thoát thành tựu tương ưng như vậy, do đối với các địa chỉ đắc tương ưng. Thành tựu tương ưng lấy làm nhân, đây là hiển thị trí Vô phân biệt có thể trị các chướng. Trong đây thắng lợi vô nhiễm của trí hậu đắc vô phân biệt, tướng của nó thế nào?

Luận nói:

Như hư không không nhiễm,
Là trí Vô phân biệt,
Thường hành nơi thế gian,
Thế pháp không thể nhiễm.

Giải thích: Do trí lực nầy quán sát các sự lợi lạc của các hữu tình, nghĩ tưởng đến thế gian kia thọ sinh, đã thọ sinh rồi, tất cả thế pháp không thể làm nhiễm ô, thế pháp có tám thứ: 1. Lợi. 2. Suy. 3. Dự. 4. Huỷ. 5. xưng. 6. Cơ. 7. Khổ. 8. Lạc. Vì từ chỗ sinh của trí Vô phân biệt thì trí nầy cũng đắc danh vô phân biệt, bây giờ sẽ hiển thị ba trí sai biệt này.

Luận nói:

Như câm cầu thọ nghĩa,
Như câm đang thọ nghĩa,
Như phi câm thọ nghĩa,
Ba trí dụ như vậy.
Như ngu cầu thọ nghĩa,
Như ngu đang thọ nghĩa,
Như phi ngu thọ nghĩa,
Ba trí dụ như vậy.
Như năm cầu thọ nghĩa,
Như năm đang thọ nghĩa,
Như mạt-na thọ nghĩa,
Ba trí dụ như vậy.
Như chưa hiểu nơi luận,
Cầu luận thọ nghĩa pháp,
Thứ lớp dụ ba trí,
Phải biết các gia hạnh.

Giải thích: Trong đây ba trí như thí dụ của nó, phải biết sai biệt thí dụ như người câm cầu thọ nghĩa của cảnh, không thể nói được, như vậy trí Vô phân biệt gia hạnh, phải biết cũng vậy. Ví dụ như người câm đang thọ nghĩa của cảnh, im lặng không nói năng, như vậy trí Vô phân biệt hậu đắc phải biết cũng như thế. Ví như người không phải câm, đã thọ nghĩa của cảnh rồi, như chỗ thọ đó mà khởi nói năng, như vậy trí Vô phân biệt hậu đắc, phải biết cũng như thế. Trong đây có ý lấy văn tự có thể tạo tác gọi là ngôn thuyết, như ngu trong bài tụng, không có chỗ hiểu rõ thì gọi là ngu, như thí dụ câm ở trước, chính là an lập ba trí sai biệt. Như thí dụ năm trong bài tụng, năm là nhãn… năm ô phân biệt, phải biết trong đó cầu thọ chính là thọ cùng vô phân biệt. Gia hạnh căn bản đối với nghĩa chân như sai biệt cũng như thế, như ý thọ nghĩa cũng có thể phân biệt, như vậy hậu đắc cũng có thể thọ nghĩa, cũng có thể phân biệt. Như vậy ba trí như thí dụ câm trước an lập sai biệt. Như luận trong bài tụng, nếu chưa hiểu luận thì đối với luận cầu hiểu, như vậy trí Vô phân biệt gia hạnh phải biết cũng như thế. Như ôn tập luận thì chỉ thọ đối với năm pháp, như vậy căn bản trí Vô phân biệt phải biết cũng như thế. Chữ pháp trong đây, có ý lấy văn tự như giải thích luận, đối với pháp đối với nghĩa đều có thể lãnh thọ, như vậy trí Vô phân biệt hậu đắc phải biết cũng như thế theo thứ tự mà nói, để hiển thị ba trí tương tợ đối với nghĩa pháp lãnh thọ sai biệt. Tiếp theo sẽ hiển thị thí dụ sai biệt của căn bản hậu đắc.

Luận nói:

Như người đang nhắm mắt,
Là trí Vô phân biệt,
Khi người kia mở mắt,
Trí hậu đắc cũng vậy.
Phải biết như hư không,
Là trí Vô phân biệt,
Trong đó hiện sắc tượng,
Trí hậu đắc cũng vậy.

Giải thích: Bài tụng thứ nhất hiển thị hai trí sai biệt, tướng của nó có thể biết. “Như hư không”, là thí dụ như hư không hiện hữu khắp không có nhiễm ô, phi đối tượng phân biệt, phi sở phân biệt, như vậy trí Vô phân biệt căn bản phải biết cũng như thế. Khắp tất cả pháp nhất vị không tánh nên gọi là hiện hữu khắp, chỗ tất cả pháp không thể nhiễm ô nên gọi là vô nhiễm. Tự vô phân biệt nên gọi là phi chủ thể phân biệt, cũng không bị pháp khác phân biệt hành tướng nên gọi là phi đối tượng phân biệt, như vậy phải biết trí Vô phân biệt ví như hư không. “Hiện sắc tượng”, là ví dụ chỗ hiện sắc tượng trong hư không có thể phân biệt, như vậy trí Vô phân biệt hậu đắc phải biết cũng như vậy. Vì đối tượng phân biệt đó cũng là chủ thể phân biệt, nếu lấy trí Vô phân biệt như vậy tu thành Phật quả, đã lìa tác ý công dụng phân biệt thì làm sao có thể thành sự an lạc, lợi ích các hữu tình?

Luận nói:

Như thiên nhạc mạt-ni ,
Vô tưởng thành tự sự,
Vô số Phật sự thành,
Thường lìa tư cũng vậy.

Giải thích: Như lìa phân biệt sự tạo tác thành, trong tụng nầy, thí dụ mạt-ni thiên nhạc là hiển như ngọc như ý, tuy không có phân biệt nhưng có thể làm thành tùy theo sự ưa thích của hữu tình. Lại nữa, như thiên nhạc không có người hoà tấu, tùy theo ý thích của hữu tình sinh xứ đó mà phát ra vô số âm thanh, như vậy phải biết trí Vô phân biệt của chư Phật, Bồ-tát tuy lìa phân biệt mà có thể làm thành tựu vô số sự nghiệp. Tiếp theo hiển thị chỗ thậm thâm của trí Vô phân biệt nầy, trí ấy làm duyên cho tánh Y tha khởi, phân biệt sự chuyển thì làm duyên cho các cảnh khác. Nếu như thế thì có lỗi gì? Nếu duyên phân biệt thì vô phân biệt tánh đáng lẽ không được thành. Nếu duyên các cảnh khác, các cảnh khác quyết định không có làm sao được duyên?

Luận nói:

Không phải đây và kia,
Phi trí mà là trí,
Cùng với cảnh không khác,
Trí thành không phân biệt.

Giải thích: “Không phải đây và kia”, là trí nầy không duyên phân biệt làm cảnh, vì không có phân biệt, không duyên cảnh khác tức là duyên y tha, vì chân như pháp tánh của các pháp phân biệt làm cảnh giới. Pháp và pháp tánh hoặc nhất hoặc dị thì không thể nêu, đây là nói trí Vô phân biệt căn bản, không duyên phân biệt cũng không duyên pháp khác.

Hỏi: Lại nữa, trí Vô phân biệt căn bản nầy là trí hay là không phải trí? Nếu như thế thì có lỗi gì? Nếu là trí, tại sao là trí mà là không phân biệt? Nếu phi trí, tại sao nói là trí Vô phân biệt?

Đáp các câu hỏi này: “Phi trí mà là trí”, đây là hiển trí Vô phân biệt căn bản không phải quyết định là trí, tương tợ trí nầy không sinh trong trí Vô phân biệt gia hạnh. “Cũng phi phi trí”, vì từ nhân của trí phân biệt gia hạnh mà được sinh. Lại có nghĩa khác, “không phải đây, không phải kia, không phải trí mà là trí”, vì không phải đối với phân biệt nầy chuyển nên gọi là phi trí, vì không phải đối với các phân biệt khác tức là đối với pháp tánh phân biệt mà chuyển nên cũng là trí, câu trước và câu sau giải thích lẫn nhau. “Cùng với cảnh không khác, trí thành vô phân biệt”, không giống như trí Vô phân biệt gia hạnh, vì có tánh của chủ thể giữ lấy và đối tượng được giữ lấy của nó chuyển gọi là vô phân biệt, cùng với vô phân biệt của chỗ giữ lấy cảnh mà chuyển. Bình đẳng bình đẳng gọi là vô phân biệt, trí nầy không trụ trong hai tánh của đối tượng được giữ lấy và chủ thể giữ lấy. Như đức Bạc-giàphạm trong khế kinh khác nói: “Tất cả pháp đều là vô phân biệt”. Vì muốn hiển thị nghĩa vô phân biệt, lại nói tụng.

Luận nói:

Phải biết tất cả pháp,
Bản tánh không phân biệt,
Sở phân biệt không có,
Trí Vô phân biệt không.

Giải thích: “Phải biết tất cả pháp, bản tánh là vô phân biệt”, là tất cả pháp hoàn toàn, nghĩa tự, tánh là vô phân biệt. Tại sao vậy? Vì sở phân biệt không có. Đây là chỉ rõ sở phân biệt là không có, bản tánh của các pháp không có phân biệt.

Hỏi: Nếu sở phân biệt là không có, thì tại sao hoàn toàn tất cả hữu tình không được giải thoát?

Đáp: Trí Vô phân biệt không có đây để làm rõ kia, không có trí Vô phân biệt, tuy tất cả pháp hoàn toàn, tự tánh không có phân biệt nhưng không được giải thoát. Nếu đối với lý vô phân biệt nơi các pháp mà trí chân chứng sinh thì hiện thấy các pháp không có tánh phân biệt, tức là được giải thoát, vì trí nầy chưa sinh nên chưa được giải thoát. Trí chân chứng, phải biết tức là trí Vô phân biệt. Bây giờ sẽ hiển thị ba trí sai biệt này.