LỜI PHẬT DẠY

NHẪN THỌ
Diễn đọc: Tạng Thư Phật Học

 

 

NHẪN THỌ
(Trích Kinh Lời Vàng của Dương Tú Hạc soạn tập)
Cố Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch

Bồ tát nhẫn chịu tất cả điều ác. Với chúng sanh, tâm bình đẳng, chẳng lay động như chốn đại địa. Kinh Hoa Nghiêm

Nếu lấy tranh đấu để ngăn tranh đấu chắc chắn không thể ngăn được, duy có nhẫn nhục mới có thể ngăn được. Đó là phương pháp thật cao cả. Kinh Trung A Hàm

Như có người bạo ác, với việc phi lý, mà cứ phỉ báng nhau mãi. Có người trí lấy lời chân thật an ủi nhẫn chịu mới có thể trừ được. Kinh Chư Pháp Tập Yếu

Sanh Văn phạm chí đến xin thưa Phật rằng: đệ tử của Ngài với đệ tử của kẻ khác có điểm nào đặc biệt không? Và có công đức chi hơn?

Đức Phật đáp: có. Hai hạng đệ tử xuất gia và tại gia của Ta có những điểm đặc biệt: kinh đoanh việc gì nếu thất bại, họ vẫn không buồn rầu khóc lóc, cũng chẳng phát điên cuồng. Hay họ bị những điều đói khát lạnh nóng, mưa gió, ép bức, hoặc bị roi gậy đánh dập, hay bị mắng nhiếc độc ác, họ cũng có thể nhẫn nại được cả, ấy là những điều mà kẻ khác không thể chịu được vậy. Đệ tử của Ta có những công đức như vậy đó. Ông Phạm Chí nghe rồi xin thọ giáo liền quy y Tam bảo thành kẻ Ưu bà tắc. Kinh Tạp A Hàm

Đức Thế Tôn dạy: thà lấy gươm bén mổ bụng, lột da, hay gieo mình vào lửa, quyết không làm ác; thà đầu đội núi Tu di chịu để cho tan thân, hoặc nhảy xuống biển cả cho các trạnh nuốt thây, cẩn thận đừng làm ác. Kinh Nhẫn Nhục

Tuy nghe nhiều tiếng xấu, người tu khổ hạnh phải nhẫn nhục, chẳng nên tự nói khổ, cũng chẳng nên sanh lòng buồn. Nghe tiếng xấu mà sợ hãi, đấy là loại thú rừng núi, là chúng sanh tánh tình vội vã, chẳng thành pháp xuất gia.

Người tu hành phải đủ sức nhẫn nhục tiếng xấu ba bực: thượng, trung, hạ để vững tâm an trụ. A? là pháp xuất gia vậy.

Do một lời nói của kẻ khác, không thể khiến ngươi thành đứa giặc cướp và cũng do lời nói của họ không thể khiến ngươi chứng A la hán. Như ngươi tự biết mình thời chư thiên cũng biết ngươi vậy. Kinh Tỳ Kheo Tị Nữ Nhơn Ố Danh

Bồ tát bị mắng nhiếc lâu trăm ngàn kiếp, chẳng sanh lòng giận dữ, hay được khen ngợi trăm ngàn đời cũng chẳng đặng sanh tâm vui mừng. Ấy là vì đã liễu đạt lời nói người đời là lẽ sinh diệt của tiếng tăm như chiêm bao, như tiếng vang. Luận Trí Độ

Do quán năm nghĩa để dứt lòng giận dữ:

1. Quán tất cả chúng sanh từ nhiều kiếp đến nay, đối với ta đã có ân huệ
2. Quán tất cả chúng sanh thường tiêu diệt từng mỗi niệm
3 .Quán có pháp mà không có chúng sanh thì đâu có năng tổn và sở tổn
4. Quán tất cả chúng sanh đều đã chịu khổ, sao lại làm cho khổ thêm
5. Quán tất cả chúng sanh là con mình, làm sao sanh tâm tổn hại được Luận Nhiếp Đại Thừa

Đứa dữ nghe người lành, cố tâm đến phá rối, ngươi tự phải cấm dứt, chớ giận trách làm chi; nó đến phá rối mình, là nó tự chuốc lấy dữ. Kinh Tứ Thập Nhị Chương

Kẻ Sa môn tu hành, lấy nhẫn làm đầu; phải như nước trong, không chút nhơ bẩn. Nước đối với thây người chết, chó chết, rắn chết, và đồ đại tiểu tiện đều rửa tẩy, nhưng nước vẫn trong sạch. Cần phải trì tâm như cầm chổi quét đất, quét sạch chỗ dơ; chổi đối với thây người chết, chó chết, rắn chết và đồ đại tiểu tiện thảy đều quét sạch, nhưng chổi chẳng hư hao, cũng như sức mạnh và ánh sáng của gió, lửa đối với thây chết, chó chết, rắn chết và đồ đại tiểu tiện đều thổi bay, đốt cháy. Nhưng sức mạnh và ánh sáng của gió, lửa vẫn chẳng hao mòn.

Nếu người muốn đến giết mình, mắng mình, mình cũng chẳng nên giận; hay đến khen mình hoặc cười mĩa mình, mình chẳng nên giận; hoặc họ đến phá mình chẳng cho phụng sự Phật pháp, cũng chẳng nên giận dữ. Cần phải từ tâm chánh ý thì tội diệt phước sanh. Kinh Tiên Ý

Nhẫn có 10 điều:

1. Quán cái ta và tướng mạo của ta
2. Quán nghĩ chủng tánh
3. Phá từ kiêu mạn
4. Ai đến chẳng trả thù
5. Quán tướng vô thường
6. Tu từ bi
7. Tâm chẳng buông lung
8. Bỏ các việc đói khát khổ vui
9. Dứt trừ giận dữ
10. Tu tập trí huệ

Nếu người nào có thể hoàn thành được 10 sự kiện này, phải biết người ấy đã tu được hạnh nhẫn nhục. Kinh Bảo Tích

Ngài Thiện Thuận Tỳ kheo từ nước Xá Vệ khởi hành, vì muốn các chúng sanh được lễ Phật nghe pháp, nên Ngài đem một số đông người cùng đi đến chỗ Phật.

Bấy giờ vua nước ấy nghi Tỳ kheo nầy chắc có mưu mô muốn chiếm đoạt ngôi vua hay là cõi ngưới gì đây? Vua sai bốn người lực sĩ chận đường Tỳ kheo rồi mắng chửi đủ thứ và đánh đập nữa. Nhưng Ngài thản nhiên chẳng giận dữ gì cả. Khi ấy vua lại thay bốn lực sĩ khác đến khuyên bảo Tỳ kheo rằng: “Sao Ngài chẳng trả thù bọn người đánh mắng kia? Nếu Ngài ra tay thì chúng tôi giúp sức.” Ngài vẫn thản nhiên chẳng nghe lời.

Bầy giờ vua lại lập kế khác đưa vàng bạc và của báu cho bốn người ấy và đến bảo Ngài rằng: “Ngươi sẵn có phương tiện đông người sao chẳng cướp lấy của cải bọn kia? Ngươi thi hành đi, lỡ xảy ra điều gì trẩm sẽ giúp sức.”

Tỳ kheo lúc lắc đầu tâu: Tôi tuy nghèo cùng không thể tự sống, nhưng những của “chẳng cho” thì quyết chẳng lấy.

Vua nghe Ngài nói lời ấy cảm mến bãi mưu. Kinh Bảo Tích

Bồ tát thường hay tu pháp nhẫn nhục, khiêm nhường, cung kính, vui vẻ, chẳng hại mình hại người, chẳng tự cao, chẳng tâng bốc người, chẳng khen ngợi mình, chẳng khen ngợi người. Bồ tát chỉ nghĩ như vậy: “Ta phải thường thuyết pháp để xa lìa tất cả ác, dứt hẳn tâm tham; sân, si, kiêu mạn, tán loạn, bũn xĩn, ganh tị, dua nịnh. Chỉ biết lấy pháp đại nhẫn nhục mà an lập.”

Bồ tát vì muốn thành tựu pháp thanh tịnh nhẫn nhục dù có chúng sanh thốt ra những lời độc ác mắng chửi, khinh uế và tay cầm dao gậy đánh đập hủy hại. Bồ tát chẳng sanh lòng giận dữ. Nên nghĩ như vầy: “Nếu Ta vì khổ này mà sanh lòng giận dữ chẳng tự điều phục, chẳng gìn giữ, chẳng hiểu rõ, chẳng yên lặng và chẳng chơn thật thì làm sao khởi tâm vui mừng đặng mà giải thoát được.”

Người nào quan sát được như vậy gọi là Bồ tát tu hạnh không giận dữ. Kinh Hoa Nghiêm

Không hủy nhục tất cả chúng sanh, gọi là nhẫn nhục rốt ráo; tự thân bị thương tổn cũng chẳng sân, gọi là gần gũi rốt ráo; nói pháp khiến phát tâm Bồ đề, gọi là chơn thật rốt ráo. Trọn nên được cả ba món này thì gọi là trọn nên hạnh nhẫn nhục rốt ráo vậy. Kinh Bát Nhã

Sau khi đức Như Lai nhập diệt, nếu có người hủy báng Phật, Pháp, Tăng các người chẳng nên giận dữ lo rầu, mà nên nghĩ thế này: “Nếu ta sanh lòng giận dữ thì chẳng phải sa môn.” Chẳng phải hạnh sa môn là chẳng tùy thuận đạo pháp vậy. Kinh Hoa Thủ

Tự mình ngăn giận, như ngừng xe chạy, là người lái giỏi bỏ tối vào sáng.

Giận dữ chẳng thấy pháp, giận dữ chẳng biết đạo; nếu hay trừ giận dữ, phước lành thường thuận thân. Kinh Pháp Cú

Nhẫn, hay sanh việc hòa bình giữa mình và người; nghĩa là tự mình chẳng bị tội lỗi do giận dữ làm ô nhiểm tức là mình hoà bình; đã không ôm lòng hờn giận, chẳng làm khổ kẻ khác tức là người hòa bình vậy. Luận Nhiếp Đại Thừa

Bấy giờ có vị Ma Già thiên tử hỏi Phật bằng lời kệ: Giết gì được ngủ yên, giết gì được vui vẻ, và giết người hạng nào, được Cù Đàm ngợi khen?

Khi ấy đức Thế Tôn cũng đáp lại bằng kệ: Nếu giết kẻ giận dữ, được an ổn ngủ nghỉ, nếu hay giết giận dữ, khiến người được vui mừng, giết gốc độc giận dữ, thì được Ta khen ngợi. Người giết giận dữ rồi, đêm dài không lo sợ. Kinh Tạp A Hàm

Đức Phật bảo đại chúng: Nhẫn hơn hết trên đời, nhẫn là Đạo an vui, nhẫn hộ thân cô độc, là Hiền Thánh ưa vui, nhẫn hay làm bạn thân, nhẫn thêm đẹp tiếng khen, nhẫn giàu sang được lâu, nhẫn được đủ tướng tốt, nhẫn hay được oai lực, nhẫn soi biết thế gian, nhẫn hay thành nghề khéo, sức nhẫn phục oán địch, sức nhẫn dẹp lo rầu, nhẫn được tướng mạo tốt, nhẫn được đông họ hàng, nhẫn dời lấy báo tốt, nhẫn được đến đạo lành, kẻ nhẫn được sống lâu, kẻ nhẫn được ba ngôi, nhẫn chẳng hại chúng sanh, nhẫn xa lìa trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ỷ ngữ, tham dục, và giận dữ… nhẫn mới thành tựu: bố thí, trì giới, tinh tấn, thiền định và trí huệ. Chính là Phật Pháp vậy. Kinh Đại Tập

Phật dạy: nếu có Bồ tát an trụ lòng từ nhẫn có 10 món lợi ích, những gì là mười?

1. Lửa không thể cháy
2. Dao không thể cắt
3. Độc không thể trúng
4. Nước không thể trôi
5. Được quỉ thần hộ
6. Được thân tướng trang nghiêm
7. Đóng các đường ác
8. Tùy sở thích sanh về Phạm thiên
9. Ngày đêm thường yên
10. Thân chẳng lìa vui sướng Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội

Nhẫn nhục là đức cả; vì khổ hạnh trì giới chẳng so sánh bằng. Ai tu được nhẫn nhục, mới được gọi là bực đại nhơn có sức mạnh. Kinh Di Giáo

Phật dạy: kẻ nhẫn là nhiều sức mạnh vậy, vì chẳng ôm lòng ác, lại thêm khỏe mạnh. Người nhẫn không ác, chắc được người khác tôn trọng. Kinh Tứ Thập Nhị Chương

Ánh sáng nhẫn nhục mạnh hơn sức mạnh của mặt trời trăng; rồng voi, tuy gọi rất mạnh, sánh với nhẫn nhục muôn phần chẳng kịp một; ánh sáng bảy báu kẻ phàm quí trọng, nhưng hay rước khổ, vì gây tai họa; báu của nhẫn nhục thủy chung được yên.

Bố thí mười phương, tuy được phước lớn, phước chẳng bằng nhẫn. Ôm nhẫn tu trì, đời đời không oán, lòng dạ an nhiên, trọn không độc hại.

Đời không chỗ nương, duy nhẫn đáng nương, là nhà yên ổn, chẳng sanh tai quái. Nhẫn, áo giáp thần, chẳng bị đao binh. Nhẫn là đại thuyền, vượt qua bể khổ. Nhẫn là thuốc hay cứu sống nhiều mạng. Chí hướng kẻ nhẫn muốn gì chẳng được! Kinh Nhẫn Nhục

Khi đức Phật đang ngự tại nước Ca Tỳ La Vệ có người tên Sai Ma Kiệt hỏi Phật rằng: “Bồ tát tu hạnh gì mau chứng Đạo vô thượng chánh chơn, đủ 32 tướng tốt; và đến khi lâm chung, tâm chẳng tán loạn, chẳng đọa; và đối với tất cả pháp không bị ngăn ngại?”

Phật đáp: Hạnh của Bồ tát lấy nhẫn nhục làm gốc. Nhẫn nhục có 4 món:

1. Khi bị mắng chửi làm thinh chẳng trả thù
2. Khi bị đánh đập chẳng giận hờn
3. Có kẻ giận dữ đến, mình lấy lòng từ nghinh tiếp
4. Có kẻ khinh hủy đến, chẳng nghĩ điều ác của họ Kinh Bồ Tát Sanh Địa

Nhẫn nhục là chánh nhơn của Bồ đề: vô thượng chánh đẳng chánh giác kết quả của nhẫn nhục vậy. Kinh Ưu Bà Tắc Giới

Tinh tu đức nhẫn nhục, hiển hiện Bồ đề Phật. Kinh Hoa Nghiêm