LUẬN TỲ BÀ SA
Tác giả: A la hán Thi Đà Bàn Ni
Hán dịch: Đời Phù Tần, Đại sư Tăng Già Bạt Trừng, người nước Kế Tân
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 14

Phần thứ 41: XỨ TRUNG ẤM

(Xuất xứ: Kiền độ kiết sử, phẩm Người của Luận A Tỳ Đàm) Trung ấm:

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì nhằm ngăn dứt ý tưởng của người khác, làm sáng tỏ lý chánh, nên tạo ra phần Luận này,

Hoặc có thuyết nói: Vì cho là có trung ấm. Hoặc có thuyết nói: Vì cho là không có trung ấm. Phái Tỳ-bà-xà-bà-đề cho là không có trung ấm, còn phái Dục-đa-bà-đề thì cho là có trung ấm.

Hỏi: Phái Tỳ-bà-xà-bà-đề vì sao cho là không có trung ấm?

Đáp: Vì phái ấy dựa theo Khế kinh Phật, nên cho là không có trung ấm: Năm tội vô gián đã gây tạo xong, tăng trưởng không gián đoạn, tất sinh trong địa ngục. Nếu vì không gián đoạn sinh vào địa ngục, thế nên không có trung ấm. Như nơi Khế kinh khác kệ nói:

Mạng căn Phạm chí hết

Chưa đến chốn Diêm vương

Giữa không xứ để dừng

Tất đến không thể bỏ.

Nếu giữa không có xứ để dừng, thế nên không có trung ấm.

Lại nữa, nói những sự việc thí dụ của thế tục, như ánh sáng, như hình bóng không có trung gian. Như thế, hoặc khi lâm chung, hoặc khi sinh không có trung gian, tức đem Khế kinh này làm chứng, nên phái Tỳ-bà-xà-bà-đề nói là không có trung ấm.

Hỏi: Phái Dục-đa-bà-đề vì sao cho là có trung ấm?

Đáp: Vì từ Khế kinh khởi, nên cho là có trung ấm. Phái ấy nêu dẫn: Nơi Khế kinh Đức Thế Tôn nói: Vì ba sự kết hợp nên vào thai mẹ: Là cha mẹ hòa hợp giao ái. Thân người mẹ vào thời gian này là điều hòa thích hợp. Và hương ấm đã đến. Nếu hương ấm đã đến tức là có trung ấm.

Khế kinh khác nói năm A-na-hàm: Trung bát Niết-bàn. Sinh bát Niết-bàn. Hành bát Niết-bàn. Vô hành bát Niết-bàn. Thượng lưu đến A-ca-nị-tra. Nếu nói Trung bát Niết-bàn thế nên có trung ấm.

Khế kinh khác nói: Phạm chí Bà Tha đến chỗ Đức Thế Tôn hỏi: Thưa Sa-môn Cù-đàm! Nếu vào thời gian lìa bỏ thân này xong, chưa sinh vào xứ khác, chúng sinh nương theo ý hành. Thưa Cùđàm! Ngay bấy giờ, chúng sinh này dựa nhận vào đâu để trụ? Samôn Cù-đàm! Chúng sinh kia nên nói là dựa nhận vào đâu để trụ?

Đức Thế Tôn nói: Này Bà Tha! Nếu vào thời gian lìa bỏ thân này xong, chưa sinh vào xứ khác, chúng sinh nương theo ý hành. Này Bà Tha! Ngay bấy giờ, chúng sinh này đã dựa thọ (thủ) ái để trụ. Ta nói chúng sinh kia dựa vào thọ ái để trụ.

Nếu nói chúng sinh sau khi lìa bỏ thân này, chưa sinh vào xứ khác, chúng sinh ấy nương theo ý hành, thế nên có trung ấm.

Lại nữa, tức nên nêu vấn nạn: Nếu nói không có trung ấm, như có người từ châu Diêm-phù-đề mạng chung, sinh nơi châu Uất-đơnviệt, là người ấy đã dứt bỏ cõi này, trong xứ kia chưa có mà có. Nếu như vậy tức nên pháp không có mà có. Chớ nên có lỗi như thế. Vì vậy là có trung ấm.

Hai thuyết như thế, thuyết nói có trung ấm là tốt.

Hỏi: Nếu có trung ấm, thì phái Dục-đa-bà-đề này đối với những nêu dẫn của phái Tỳ-bà-xà-bà-đề làm sao thông hợp?

Đáp: Chứng cứ của Khế kinh nêu dẫn ấy có ý có thể thông suốt.

Hỏi: Có ý gì để có thể thông suốt?

Đáp: Nơi Khế kinh Đức Phật nói: Năm tội vô gián đã gây tạo xong, tăng trưởng không gián đoạn, tất sinh trong nẻo địa ngục. Đức Phật ở nơi Khế kinh này đã trừ bỏ nẻo khác, hành khác. Trừ bỏ nẻo khác: Nghĩa là năm tội vô gián đã gây tạo xong, tăng trưởng không gián đoạn, tất sinh trong nẻo địa ngục, không sinh nơi nẻo khác. Trừ bỏ hành khác: Nghĩa là năm tội vô gián chính là thọ nhận sinh báo, không nhận hiện báo, không nhận hậu báo. Đây gọi là ý của Khế kinh này đã thông.

Như ông đã nói: Khế kinh này nêu: Năm tội vô gián đã gây tạo xong, tăng trưởng không gián đoạn, tất sinh trong địa ngục. Kẻ có tội này cần phải đủ năm tội vô gián, đã gây tạo xong, tăng trưởng không gián đoạn, tất sinh trong địa ngục.

Từng có bốn, ba, hai, một tội vô gián cũng sinh nơi địa ngục chăng? Hoặc có, ngoại trừ năm tội vô gián, lại có tội khác cũng sinh nơi địa ngục chăng? Từng có luôn luôn là năm tội vô gián đã gây tạo xong, tăng trưởng không gián đoạn, tức thì sinh nơi địa ngục chăng? Hay là sống ở đời đến một trăm tuổi chăng?

Khế kinh này hoặc có ý, hoặc không có ý, chỉ không nói là không có trung ấm.

Hỏi: Nếu như vậy thì như kệ này nói làm sao thông?

Mạng căn Phạm chí hết

Chưa đến chốn Diêm vương Giữa không xứ để dừng Tất đến không thể bỏ.

Đáp: Ở kệ này, Đức Phật đã trừ bỏ nẻo khác, hành khác. Trừ bỏ nẻo khác: Nghĩa là Phạm chí này đã tạo hành ác, tăng trưởng xong, tất sinh nơi địa ngục, không sinh vào nẻo khác.

Trừ bỏ hành khác: Nghĩa là Phạm chí này đã tạo hành ác, tăng trưởng xong, tất thọ nhận sinh báo, không thọ nhận hiện pháp báo, hậu báo.

Hỏi: Như thí dụ của thế gian này làm sao thông hợp? Như ánh sáng, như hình bóng, không có trung gian, như thế hoặc mạng chung, hoặc sinh không có trung gian?

Đáp: Thí dụ này không cần phải thông hợp, vì đấy không phải là Khế kinh, không phải là Luật, không phải là A-tỳ-đàm. Không thể dùng thí dụ của thế gian để làm hoại pháp của Hiền Thánh. Vì thí dụ của thế gian khác, pháp của Hiền Thánh khác.

Lại nữa, nên nói về lỗi của thí dụ. Thí dụ đã có lỗi thì nghĩa cũng nên bỏ. Vì ánh sáng và hình bóng không phải là mạng căn, không có tâm ý, không phải là số chúng sinh. Như mạng chung, như sinh là có mạng căn, có tâm ý, là số chúng sinh. Nếu cần thông hợp thì thí dụ này nên có ý gì?

Đáp: Thí dụ này chính là nói có trung ấm, không phải là nói không có trung ấm. Như ánh sáng, như hình bóng, không có trung gian. Như thế, tử ấm, trung ấm không có trung gian. Trung ấm, sinh ấm cũng không có trung gian. Như thế, thí dụ này chính là nói có trung ấm, không phải là nói không có trung ấm.

Hỏi: Phái Tỳ-bà-xà-bà-đề này đối với những nêu dẫn của phái Dục-đa-bà-đề kia làm sao có thể thông hợp?

Đáp: Thuyết kia như nói: Do ba sự kết hợp nên vào thai mẹ: Là cha mẹ hòa hợp giao ái. Thân người mẹ vào thời gian này là điều hòa thích hợp. Và hương ấm đã đến. Ở đây không nên nói là hương ấm đã đến. Vì sao không nên nói? Vì ở đây không có các nhạc khí như đàn, trống để nói là hương ấm đã đến.

Hỏi: Nếu không nên nói hương ấm thì sự việc này là thế nào?

Đáp: Nên nói là hành ấm. Vì sao? Vì hương ấm kia nhân nơi hành ấm, thế nên nói là hành ấm.

Có thuyết nói: Sự việc này không nên luận. Vì sao? Vì nếu nói hương ấm, hoặc nói hành ấm, thì cũng không thể dứt bỏ trung ấm.

Hỏi: Ở đây làm sao thông suốt đối với năm A-na-hàm: Trung bát Niết-bàn. Sinh bát Niết-bàn. Hành bát Niết-bàn. Vô hành bát Niết-bàn. Thượng lưu đến A-ca-nị-trá?

Đáp: Thuyết kia nói là có trung thiên. Người kia sinh nơi trung thiên mạng chưa hết mà chết.

Có thuyết cho: Sự việc này không nên luận. Vì sao? Vì Khế kinh Phật không nói tên Trung thiên. Khế kinh Phật nói: Từ Tứ Thiên vương đến xứ Phi tưởng phi bất tưởng thiên, không nghe có Trung thiên.

Lại nữa, Khế kinh này nói: Sinh bát Niết-bàn. Hành bát Niếtbàn. Vô hành bát Niết-bàn. Muốn khiến có thiên mạng là Sinh bát Niết-bàn, Hành bát Niết-bàn, Vô hành bát Niết-bàn chăng?

Lại nữa, như ông nói: Mạng chưa hết mà qua đời gọi là Trung bát Niết-bàn: Trừ Bồ-tát và người châu Uất-đơn-việt, mạng của tất cả chúng sinh khác chưa hết mà mất, là muốn khiến tất cả chúng sinh đều là Trung bát Niết-bàn.

Hỏi: Vậy làm sao thông hợp? Như Phạm chí Bà Tha đến chỗ Đức Thế Tôn hỏi: Thưa Sa-môn Cù-đàm! Nếu vào thời gian lìa bỏ thân này xong, chưa sinh đến xứ khác, nói rộng như trên.

Đức Thế Tôn nói: Này Bà Tha! Nếu vào thời gian xả bỏ thân này xong, chưa sinh đến xứ khác, chúng sinh nương theo ý hành. Này Bà Tha! Ngay lúc ấy, chúng sinh kia dựa vào thọ (thủ) ái để trụ. Về sự việc này làm sao thông hợp?

Đáp: Thuyết kia nói: Trong đây là nêu bày: Trời ở cõi vô sắc nương theo ý hành. Phạm chí kia có bạn đồng học rất kính mến, trước đấy đã mạng chung, ông ta dùng thiên nhãn quán xét khắp cõi dục nhưng không thấy, quán xét khắp cõi sắc cũng không thấy. Như không tìm thấy bạn, nên Phạm chí kia khởi suy niệm: Bạn đồng học kia đã đoạn diệt, hay là thế nào? Phạm chí kia nghe nói có Sa-môn Cù-đàm là bậc Nhất thiết trí, Nhất thiết kiến, nên đến đó để hỏi về gốc ngọn.

Bấy giờ, Phạm chí kia đến chỗ Đức Thế Tôn để thưa hỏi, và Đức Thế Tôn đã đáp, nói rộng như trên.

Do đấy nên nhận biết là trời của cõi vô sắc dựa vào ý hành.

Hỏi: Khế kinh Phật phần nhiều nói nhân nơi ý hành, hoặc biến hóa, hoặc trung ấm, hoặc trời sắc, vô sắc, hoặc người thời khởi thủy, hoặc địa ngục. Ở đây làm sao nhận biết trời của vô sắc nhân nơi ý hành? Phạm chí kia cũng hỏi ở đây làm sao biết được trung ấm nhân nơi ý hàng?

Đáp: Tức dựa vào Khế kinh này để nhận biết. Trong ấy nói xả bỏ thân này xong, chưa sinh đến xứ khác. Thế nên Khế kinh này nói trung ấm nhân nơi ý hành.

Hỏi: Nếu không có trung ấm thì như chúng sinh ở châu Diêmphù-đề mạng chung, sinh nơi châu Uất-đơn-việt, là người ấy đã dứt bỏ ở cõi này, trong xứ kia không có mà có. Nếu không có mà có thì đấy là pháp không có mà có?

Đáp: Thuyết kia nói chúng sinh ấy mạng chung không bỏ ấm lúc chết (tử ấm), chính là nên thọ nhận ấm lúc sinh (sinh ấm), ấm lúc sinh rồi, sau đó tức bỏ ấm lúc chết. Như con sâu có tên là Xích hoạch hoàn toàn không bỏ chân sau, chính là để chân trước đứng vững. Khi đã an định chân trước, sau đó mới giở chân sau lên. Như thế, chúng sinh kia mạng chung không bỏ tử ấm, chính là để thọ sinh ấm trước. Đã nhận sinh ấm rồi, sau đấy mới bỏ tử ấm.

Hỏi: Như ông đã nói, ở nơi nhân gian mạng chung sinh trong địa ngục, thì chúng sinh ấy không nên bỏ ấm của nhân gian để được ấm địa ngục. Nếu không bỏ ấm nhân gian để được ấm địa ngục, thì chúng sinh kia nên tức người là địa ngục? Nếu tức người là địa ngục thì đấy là hủy hoại cõi, nẻo. Như Đức Thế Tôn nói năm nẻo: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, trời, người là cùng trái nhau. Tức thuyết kia là quả vô trí, quả tối tăm, quả ngu si, quả bất động, vì nói không có trung ấm. Chỉ nói có trung ấm là chân thật, là có thể tướng. Đó gọi là vì nhằm ngăn trừ ý tưởng của người khác, hiện bày ý của mình, vì nói pháp như đẳng, nên tạo ra phần Luận này.

Lại nữa, không chỉ là nhằm ngăn trừ ý tưởng của người khác, hiện bày ý của mình, mà chính là để giảng nói pháp như đẳng, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Nếu có trung ấm thì hình tướng của trung ấm là thế nào?

Đáp: Như trẻ con khoảng bốn, năm tháng tuổi là hình tướng của trung ấm.

Hỏi: Nếu hình tướng như thế thì không nên có tưởng điên đảo: Đối với mẹ hiện có tâm dâm. Đối với cha hiện có tâm hại. Hoặc đối với cha hiện có tâm dâm. Đối với mẹ hiện có tâm hại?

Đáp: Tuy hình tướng trung ấm nhỏ, nhưng rất nhanh nhẹn, các căn nhạy bén. Như người vẽ lên vách, tạo hình tượng người già, hình nhỏ nhưng già. Như thế, hình tướng của trung ấm kia tuy nhỏ, nhưng rất nhanh nhẹn, các căn nhạy bén.

Hỏi: Trung ấm của Bồ-tát hình tướng là lớn hay nhỏ?

Đáp: Như nơi bản thân có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm, thân sắc vàng ròng, hào quang tròn sáng chiếu xa một tầm, âm thanh là Phạm âm, tiếng nói vi diệu như chim Ca-tỳ-lănggià, nhìn ngắm mãi không chán. Vì thế nên lúc trụ nơi trung ấm, hào quang tịnh diệu tỏa chiếu khắp trăm ức thiên hạ. Mặt trời, mặt trăng tuy có nhiều sức tối diệu, cũng không thể soi chiếu khắp. Trung ấm của Bồ-tát do hào quang tinh diệu soi chiếu khắp. Trông thấy hào quang vi diệu xong, mỗi mỗi chúng sinh đều cùng nhận biết nhau, các chúng sinh khác cũng thế.

Hỏi: Nếu Bồ-tát sinh trung ấm như vậy, thì như nơi kệ của Tôn giả Pháp Thật nói làm sao thông?

Bồ-tát thanh tịnh diệu

Cưỡi voi trắng quý lớn

Từ trời Đâu Thuật xuống

Giáng thần vào thai mẹ.

Hỏi: Kệ này không cần phải thông hợp. Vì sao? Vì không phải là Khế kinh, không phải là Luật, không phải là A-tỳ-đàm, chỉ vì người tạo tụng muốn cho câu nghĩa thuận hợp. Nếu cần thông suốt kệ này thì nên có ý gì?

Đáp: Đây là hiện bày phong tục tốt của địa phương. Nghĩa là trong nước kia người ta nằm mộng thấy tướng ấy cho là điềm lành, nên mẹ của Bồ tát nằm mộng thấy sự việc ấy, muốn khiến cho các Bà-la-môn đoán tướng nghe xong đều nói: Tướng này rất tốt, tức người tạo kệ nhân đấy nên viết như thế. Bồ tát đã ở trong chín mươi mốt kiếp không bị đọa vào nẻo ác, huống chi là thân sau cùng lại nhận trung ấm ấy để vào thai mẹ.

Hỏi: Hành tướng của trung ấm nơi các nẻo như thế nào?

Đáp: Người sinh vào địa ngục, chân ở trên, đầu hướng xuống dưới. Như Phật đã nói kệ:

Các người đọa địa ngục

Chân trên, đầu hướng xuống

Ý ác với Tiên nhân

Giới đức cùng khổ hạnh.

Người sinh nơi cõi trời: Đầu ở trên, chân ở dưới, như mũi tên bắn vào hư không.

Người sinh nơi các phương: Thân nghiêng mà đi, như chim bay trên hư không, như hiện thần túc bay đi.

Hỏi: Hình của trung ấm như thế nào?

Đáp: Người sinh nơi địa ngục như hình của địa ngục. Như thế, cho đến người sinh nơi cõi trời như hình của trời.

Hỏi: Trung ấm tự thấy nhau chăng?

Đáp: Thấy nhau.

Hỏi: Nếu thấy nhau thì thấy những gì?

Đáp: Người sinh nơi địa ngục trở lại thấy về địa ngục. Như thế, cho đến người sinh nơi cõi trời trở lại thấy cảnh trời.

Lại có thuyết nói: Trung ấm trời thấy năm nẻo. Trung ấm người thấy bốn nẻo. Trung ấm ngạ quỷ thấy ba nẻo. Trung ấm súc sinh thấy hai nẻo. Trung ấm địa ngục thấy một nẻo.

Nên nói như vầy: Trung ấm địa ngục thấy địa ngục. Như thế, cho đến trung ấm trời thấy cảnh trời.

Hỏi: Mắt thường có thể thấy trung ấm chăng?

Đáp: Không thể thấy.

Hỏi: Làm sao nhận biết?

Đáp: Có Khế kinh Phật. Khế kinh Phật nói: Nếu nam, hoặc nữ phạm giới, cùng với pháp ác kết hợp, thì khi chúng sinh kia thân hoại, chưa sinh đến nẻo ác, ý đã dựa vào hành, như lông dê đen, ánh sáng như đêm tối mờ mịt. Nếu là thiên nhãn rất tịnh thì có thể thấy trung ấm. Nếu nam, hoặc nữ giữ giới, cùng với pháp thiện kết hợp, thì khi chúng sinh kia thân hoại, chưa sinh vào nẻo thiện, ý đã dựa theo hành, như áo trắng sạch, ánh sáng như vào đêm có trăng tròn đầy. Nếu là thiên nhãn rất tịnh thì có thể thấy trung ấm. Do Khế kinh này có thể biết, thiên nhãn không tịnh, thì không thể thấy trung ấm, huống chi mắt thường mà có thể thấy.

Hỏi: Trung ấm trụ trong thời gian bao lâu?

Đáp: Trung ấm sinh nơi cõi trời và địa ngục thì nhanh hơn sinh vào các nẻo ngạ quỷ, súc sinh. Sinh nơi nẻo người như khi cha mẹ hòa hợp, thì không lâu sau liền sinh.

Hỏi: Hoặc có chúng sinh hòa hợp nên sinh thì có thể như thế. Nếu không hòa hợp như mẹ hoặc ở Thiên trúc, cha hoặc đến Chấn đán, duyên sinh khó có thể hòa hợp, làm sao trung hữu đi đến để sinh?

Đáp: Nên xem trung ấm kia đối với chúng sinh duyên có chuyển biến hay không chuyển biến. Nếu trung hữu kia đối với người mẹ duyên không chuyển biến, đối với người cha thì duyên chuyển biến, tức lúc ấy người mẹ tuy là tiết hạnh, oai nghi đầy đủ, nhưng cần phải hướng đến người nam khác hòa hợp, khiến trung ấm kia được sinh. Nếu đối với người cha duyên không chuyển biến, còn đối với người mẹ duyên chuyển biến, thì khi đó người cha tuy hết sức chánh trực, oai nghi đầy đủ, nhưng cần phải hướng đến người nữ khác hòa hợp để trung ấm kia được sinh.

Hỏi: Nếu cả hai cha mẹ đều cùng là duyên không chuyển biến, cả hai đều cùng không hòa hợp, thì trung ấm này sau cùng sẽ sinh như thế nào?

Đáp: Tức chúng sinh kia do duyên nơi nghiệp. Ví như người cha công việc kinh doanh chưa xong, chợ quán chưa ổn định liền có tâm trở lại. Người kia tìm đường về, khi đi không bị đao binh, lửa, chất độc làm hại, cũng không nhân nơi người khác để hòa hợp, sau cùng chính là trở lại với mình. Như thế cha mẹ đều cùng duyên hòa hợp, trung ấm kia liền được sinh.

Hỏi: Nếu chúng sinh thường hành dục, sự việc này có thể như thế. Còn các chúng sinh hành dục theo thời tiết, như ngựa hành dục vào mùa xuân, trâu bò hành dục vào mùa hè, chó hành dục vào mùa thu, báo hành dục vào mùa đông, làm sao chúng sinh kia thọ nhận trung ấm thích hợp khiến cha mẹ hòa hợp để sinh?

Đáp: Do các chúng sinh kia trụ nơi phần vị trung ấm, vì sức tăng thượng của nghiệp khiến cho cha mẹ tuy tâm dục không phải lúc cũng được dồi dào thêm, hướng đến nhau, hòa hợp, tạo cho trung ấm kia được sinh.

Hoặc nói: Trong loài tương tợ cũng được sinh. Như vào mùa xuân, tính dục của loài ngựa tăng, mùa khác không như thế. Lừa thì tất cả mùa tính dục luôn thịnh, nên trung ấm sinh trong loài ngựa do không phải mùa nên chuyển sinh trong loài lừa. Bò và bò rừng, chó và dã can, gấu và bi v.v… cũng như thế.

Tôn giả Bà-tu-mật nói: Trung ấm nên nói là trụ lại trong bảy ngày hay nên nói là hơn? Đáp: Trung ấm nên nói là trụ lại trong bảy ngày. Vì sao? Vì thân ốm yếu nên trụ lại trong bảy ngày, không quá bảy ngày.

Hỏi: Nếu đủ bảy ngày, cha mẹ không hòa hợp, lúc đó là mất đi chăng?

Đáp: Không mất, chỉ sinh trở lại trung ấm.

Lại nói: Trung ấm nên nói là trụ lại trong thời gian bốn mươi chín ngày.

Tôn giả Đàm-ma-đa-la nói: Nếu cha mẹ không hòa hợp thì trung ấm cũng có thể trụ lại trong thời gian lâu.

Hỏi: Trung ấm có y phục hay không có y phục?

Đáp: Trung ấm của tất cả chư thiên nơi cõi sắc có y phục. Vì sao? Vì như pháp thân là không lõa hình, nên sinh thân cũng như vậy. Trong cõi dục trung ấm của Bồ-tát có y phục và trung ấm của Tỳkheo-ni Bạch Tịnh cũng có y phục. Trung ấm của tất cả chúng sinh khác đều không có y phục.

Lại có thuyết nói: Trung ấm của Tỳ-kheo-ni Bạch Tịnh có y phục, còn trung ấm của Bồ-tát không có y phục.

Hỏi: Vì sao trung ấm của Tỳ-kheo-ni Bạch Tịnh có y phục, còn trung ấm của Bồ-tát thì không có?

Đáp: Vì Tỳ-kheo-ni Bạch Tịnh đã dùng y để bố thí Thánh chúng.

Hỏi: Bồ-tát đã thí y nhiều, không phải Tỳ-kheo-ni Bạch Tịnh đã thí y nhiều. Vậy vì sao trung ấm của Tỳ-kheo-ni Bạch Tịnh có y phục, còn trung ấm của Bồ-tát không có y phục?

Đáp: Vì Tỳ-kheo-ni Bạch Tịnh dùng y thí cho Thánh chúng, phát thệ nguyện: Xin khiến tôi ở nơi trung ấm luôn có y phục. Do đấy nên ở trung ấm của Tỳ-kheo-ni Bạch Tịnh luôn có y phục. Tức dùng y này vào trong thai mẹ, cũng do y này để ra khỏi thai mẹ. Thân tướng Tỳ-kheo-ni Bạch Tịnh tăng trưởng, y cũng tăng trưởng theo. Đến khi lớn khôn, xuất gia học đạo, lấy y đã mặc đem cắt rọc may thành năm y, chứng quả A-la-hán, bỏ Niết-bàn hữu dư, nhập Niết-bàn vô dư, bát Niết-bàn, tức dùng y quấn quanh thân để trà tỳ.

Công đức của Bồ-tát đã tạo nên đều nguyện cầu đạt đạo Chánh chân vô thượng, thế nên thân sau cùng của Bồ-tát đã chứng đắc đạo quả tối diệu đối với tất cả chúng sinh.

Vì vậy nên trung ấm của Tỳ-kheo-ni Bạch Tịnh có y phục, còn trung ấm của Bồ-tát không có y phục.

Hỏi: Thức ăn của trung ấm là gì?

Đáp: Các thức ăn hiện có trong nhà bếp, trong kho lẫm đều có thể ăn được.

Hỏi: Như mưa xuống rất nhiều. Như thế, chúng sinh bị đọa vào địa ngục A-tỳ, số trung ấm của họ cũng nhiều như vậy, huống chi là số trung ấm của nẻo khác. Nếu tất cả thân trung ấm đó đều đến lấy ăn thì các chúng sinh ở đây nên lấy gì để ăn?

Lại nữa, thức ăn này rất nặng, còn hóa thân thì rất vi tế, làm sao họ ăn thức ăn này mà tiêu hóa được?

Đáp: Sự việc này không nên luận (Thuyết trên là phi lý).

Hỏi: Nếu không như vậy thì sự việc ấy là thế nào?

Đáp: Nên dùng mùi hương làm thức ăn. Trung ấm của các chúng sinh có đức thì ăn mùi hương của hoa quả, hương vị của thức ăn ngon. Những chúng sinh không có đức thì ăn các thứ bất tịnh ở cầu xí và hơi bùn nhơ dùng làm thức ăn.

Hỏi: Trung ấm ở nơi xứ nào?

Đáp: Trung ấm ở nơi cõi dục, cõi sắc, không phải cõi vô sắc.

Hỏi: Vì sao trung ấm ở nơi hai cõi ấy, không phải cõi vô sắc?

Đáp: Vì có sắc tức có trung ấm. Còn trong cõi vô sắc không có sắc, thế nên không có trung ấm.

Hỏi: Vì sao có sắc tức có trung ấm?

Đáp: Như dùng khuôn dấu in trên đất sét, tức hiện ra đường vằn. Như thế, trung hữu của bản hữu nếu có sắc, thấy rồi là biết có trung ấm như vậy. Thế nên nói có sắc tức có trung ấm.

Hoặc nói: Có qua lại lui tới tức là có trung ấm. Vì trong cõi vô sắc không có qua lại lui tới, thế nên không có trung ấm.

Hỏi: Nơi thân này mạng chung tức sinh thân này, trung ấm kia làm sao có qua lại?

Đáp: Vì các chúng sinh ấy, hoặc có người thức diệt từ nơi ngón chân, hoặc diệt từ nơi đỉnh đầu, hoặc diệt từ nơi rốn, hoặc diệt từ nơi tim.

Nếu thức diệt từ nơi ngón chân: Nên biết người ấy sẽ sinh trong nẻo ác. Nếu thức diệt từ nơi đỉnh đầu: Nên biết người ấy sẽ sinh lên cảnh trời. Nếu thức diệt từ nơi rốn: Nên biết người ấy tất sinh vào các phương khác. Nếu thức diệt từ nơi tim: Nên biết người ấy tất bát Niết-bàn.

Các chúng sinh này do phần nhiều đều ái chấp gương mặt mình, nếu thức từ nơi ngón chân diệt trở lại hướng đến mặt là trung ấm kia đã qua lại.

Lại nữa, nếu thức diệt từ nơi ngón chân, tức hướng đến ngón chân. Trong cõi vô sắc không có điều này, nên ở đấy không có trung ấm.

Hỏi: Trung ấm là thuộc về nẻo chăng?

Nếu thuộc về nẻo, thì như nơi Luận Thi Thiết đã nói làm sao thông hợp? Luận kia đã hỏi: Bốn loài là gồm thâu năm nẻo hay là năm nẻo gồm thâu bốn loài? Đáp: Bốn loài gồm thâu năm nẻo, không phải là năm nẻo gồm thâu bốn loài.

Không gồm thâu những gì? Đáp: Không gồm thâu trung ấm.

Còn nếu không thuộc về nẻo, thì như Tôn giả Đàm-ma-nan-đề đã nói làm sao thông? Như nói: Trung ấm là thuộc về nẻo, như hạt giống chưa thành mầm thì vẫn gọi là hạt lúa. Như vậy, trung ấm của địa ngục tuy chưa đến địa ngục nhưng vẫn gọi là địa ngục. Như thế cho đến cảnh trời.

Đáp: Trung ấm là thuộc về nẻo.

Hỏi: Nếu trung ấm là thuộc về nẻo, thì đối với thuyết của Tôn giả Đàm-ma-nan-đề đã nói là khéo thông hợp, còn như nơi Luận Thi Thiết đã nêu bày làm sao thông hợp?

Đáp: Văn của luận ấy nên nói như thế này: Hỏi: Bốn loài gồm thâu năm nẻo hay năm nẻo gồm thâu bốn loài? Đáp: Tùy theo chủng loại, cả hai cùng gồm thâu lẫn nhau. Nhưng không nói như thế, nên biết văn ấy là người tụng đã nhầm lẫn.

Lại có thuyết nói: Trung ấm không thuộc về nẻo.

Hỏi: Nếu trung ấm không thuộc về nẻo, thì thuyết của Luận Thi Thiết đã nói là khéo thông hợp, còn như Tôn giả Đàm-ma-nan-đề đã nói làm sao thông hợp?

Đáp: Thuyết của Tôn giả kia nói là không hướng đến nẻo khác, không nói là gồm thâu. Tức chúng sinh kia có trung ấm địa ngục, thì không hướng tới nẻo khác, chủ yếu là nên sinh trong địa ngục… Như thế cho đến cảnh trời. Thế nên Tôn giả Đàm-ma-nan-đề nói là không hướng đến nẻo khác, không nói là gồm thâu.

Nên nói như thế này: Trung ấm không thuộc về nẻo. Vì sao? Vì trung ấm là tán loạn, còn nẻo thì không tán loạn. Không nên nói là không tán loạn gồm thâu tán loạn. Cũng không nên nói là tán loạn gồm thâu không tán loạn.

Hoặc nói: Trung ấm là không nhất định, còn nẻo thì nhất định. Không nên cho không nhất định gồm thâu nhất định. Cũng không nên cho nhất định gồm thâu không nhất định.

Hoặc cho: Nẻo là đã đến làm tên gọi. Trung ấm là phương sẽ hướng đến. Do đấy nên trung ấm không thuộc về nẻo.

Hỏi: Trung ấm có đủ các căn hay không đủ các căn?

Đáp: Có thuyết nói: Trung ấm có đủ các căn.

Lại có thuyết cho: Trung ấm không có đủ các căn.

Hỏi: Nếu trung ấm không có đủ các căn, thì bản hữu không có đủ các căn, vì bản hữu kia tức là trung ấm. Nên thuyết trước là đúng.

Lại có thuyết nêu: Là khác.

Nên nói như thế này: Trung ấm gồm đủ các căn. Vì sao? Vì trung ấm là bắt đầu hành tác.

Lại nữa, chúng sinh kia nơi sáu môn (sáu nhập) thường tìm kiếm hữu, thế nên trung ấm có đủ các căn.

Hỏi: Trung ấm đi nhanh chóng hay là thần túc đi nhanh chóng?

Đáp: Có thuyết nói: Thần túc đi nhanh chóng, không phải là trung ấm.

Lại có thuyết cho: Trung ấm đi nhanh chóng, không phải là thần túc. Vì sao? Vì sức của hành (nghiệp) là mạnh, không phải là sức của thần túc.

Nên nói như thế này: Thần túc đi nhanh chóng, không phải là trung ấm.

Hỏi: Nếu thần túc đi nhanh chóng, không phải là trung ấm, vì sao nói sức của nghiệp là mạnh không phải là sức của thần túc?

Đáp: Sở dĩ nói sức của nghiệp mạnh, không phải là sức của thần túc, là vì thần túc có thể ngăn ngại thần túc. Thần túc của Đức Phật có thể ngăn ngại thần túc của tất cả chúng sinh. Thần túc của tất cả chúng sinh không thể ngăn ngại thần túc của Phật. Thần túc của Phật-bích-chi, trừ Đức Phật, có thể ngăn ngại thần túc của tất cả chúng sinh. Thần túc của tất cả chúng sinh không thể ngăn ngại thần túc của Phật-bích-chi. Thần túc của Tôn giả Xá-lợi-phất, trừ Phật-bích-chi, có thể ngăn ngại thần túc của tất cả chúng sinh. Thần túc của tất cả chúng sinh không thể ngăn ngại thần túc của Tôn giả Xá-lợi-phất. Cho đến thần túc của người lợi căn có thể làm ngăn ngại thần túc của hàng độn căn. Trung ấm không phải là đối tượng khiến chúng sinh có thể ngăn ngại. Không phải là pháp, không phải là chú thuật, cũng không phải là thuốc có thể ngăn ngại được. Không phải là Đức Phật, Phật-bích-chi và Thanh văn đạt Ba-la-mật có thể ngăn ngại trung ấm đi lên xứ sinh. Vì thế nên nói sức của nghiệp mạnh, không phải là sức của thần túc. Song thần túc đi nhanh chóng không phải là trung ấm.

Như nơi Khế kinh Đức Thế Tôn nói: Do ba sự hòa hợp nên vào thai mẹ. Sự hòa hợp của cha mẹ là vì dâm dục. Như người mẹ hoặc thời gian gồm đủ, tức người nữ kia thân thể dâm dục gồm đủ như sông tràn ngập nước. Như thế người nữ kia thân thể dâm dục gồm đủ.

Lại có thuyết cho: Người mẹ hoặc thời gian gồm đủ là trường hợp người nữ bị bệnh. Thế nên nói hoặc thời gian gồm đủ.

Có thể đảm nhận: Là người nữ kia có đủ sức mang thai, gìn giữ đến chín tháng mười tháng. Thế nên nói có thể đảm nhận.

Hương ấm đã đến: Hương ấm là trung ấm. Hương ấm ở vào thời gian này có hai ý: tâm ái và tâm hại. Nếu là người nữ thì trung ấm kia đối với người cha có tâm ái, đối với người mẹ có tâm hại, khởi suy nghĩ: Nếu không có người nữ kia, thì ta cùng với người nam này hòa hợp. Trung ấm kia không thấy người mẹ, tự thấy mình cùng với người cha hòa hợp. Vật bất tịnh của cha mẹ, trung ấm kia nghĩ cho là mình có. Vừa thấy vật bất tịnh là mê muội. Mê muội xong thì ấm này chuyển dày lên. Khi ấm đã chuyển dày lên, tức là bỏ trung ấm, được sinh ấm. Nếu là người nam thì trung ấm kia đối với người mẹ có tâm ái, đối với người cha có tâm hại, khởi suy nghĩ: Nếu không có người nam kia, thì ta cùng với người nữ này hòa hợp. Trung ấm kia không thấy người cha, tự thấy mình cùng với người mẹ hòa hợp. Vật bất tịnh của cha mẹ, trung ấm kia nghĩ cho là của mình có. Vừa thấy vật bất tịnh là mê muội. Mê muội xong thì ấm này chuyển dày lên. Khi ấm đã chuyển dày lên, tức là bỏ trung ấm, được sinh ấm.

Tất cả phàm phu đều có ý nghĩ điên đảo như thế khi vào thai mẹ, chỉ một Bồ-tát là không có tâm điên đảo lúc vào thai mẹ.

Nơi Khế kinh Đức Thế Tôn nói: Cha mẹ có đức, hương ấm không có đức, thì không được vào thai mẹ. Hương ấm có đức, cha mẹ không có đức, cũng không được vào thai mẹ. Cha mẹ có đức, hương ấm cũng có đức, cả ba sự việc cùng hòa hợp tức được vào thai mẹ.

Hỏi: Như người nam tôn quý cùng với người nữ hạ tiện hòa hợp, hoặc người nam hạ tiện cùng với người nữ tôn quý hòa hợp, làm sao ba sự việc cùng hòa hợp?

Đáp: Người nam tôn quý cùng với người nữ hạ tiện hòa hợp, thì người nữ hạ tiện kia tức theo người nam nên được tôn quý. Hoặc nếu người nam hạ tiện cùng với người nữ tôn quý hòa hợp, thì người nữ tôn quý kia sẽ theo người nam nhận lấy xứ nghèo hèn. Như thế ba sự việc là cùng hòa hợp.

Hỏi: Trung ấm do nơi xứ nào vào thai mẹ?

Đáp: Trung ấm thuận theo xứ được ưa thích mà vào. Vì sao? Vì trung ấm đối với vách tường, cây, gỗ, núi, sông, vách đá, đều không bị ngăn ngại.

Nên nói như thế này: Trung ấm từ nơi sản môn mà vào thai mẹ. Do sự việc này nên hài nhi song sinh, đứa ra trước là nhỏ (em), đứa ra sau là lớn (anh). Vì sao? Vì đứa bé này vào thai trước.

Hỏi: Như trong một bào thai có trung ấm của năm nẻo, có thể đạt được, như: heo, chó, cá, tôm, ểnh ương. Hoặc trung ấm của địa ngục ở trong thai cũng có thể đạt được, sao không đốt cháy thai kia?

Đáp: Vì lửa của địa ngục kia là do nghiệp đã gây tạo. Kẻ tạo nghiệp ác liền bị thiêu đốt, người không tạo nghiệp ác thì không bị thiêu đốt.

Lại nữa, đối với các địa ngục lớn căn bản, các chúng sinh kia cũng còn không luôn bị thiêu đốt, huống chi là trung ấm lại luôn bị thiêu đốt chăng? Như nơi Luận Thi Thiết, nói: Hoặc có lúc nơi đại địa ngục Hoạt có gió lạnh tạm thời nổi lên, lần lượt có tiếng xướng to: Chúng sinh đẳng hoạt (cùng sống), chúng sinh cùng sống. Tức thì các chúng sinh ấy được sống trở lại, da thịt, huyết mạch được sinh trở lại.

Như nơi địa ngục lớn căn bản kia, các chúng sinh cũng còn không luôn bị thiêu đốt, huống chi là trung ấm lại luôn bị thiêu đốt chăng?

Ở đây nói bốn thứ trung ấm: (1) Trung ấm. (2) Ý thừa hành. (3) Hương ấm. (4) Cầu hữu.

Hỏi: Vì sao nói là trung ấm?

Đáp: Vì ở giữa hai ấm nên gọi là trung ấm. Hai ấm là Tử ấm, Sinh ấm. Vì từ trung gian hai ấm này sinh, nên gọi là trung ấm.

Hỏi: Vì sao nói là ý thừa hành?

Đáp: Vì do ý sinh ra nên gọi là ý thừa hành. Chúng sinh hoặc do hành (nghiệp) sinh, hoặc do kiết sinh, hoặc do ý sinh. Do hành sinh: Là địa ngục, chủ yếu tất do hành ấy dẫn dắt, trọn không chết giữa chừng. Do kiết sinh: Là noãn sinh, thai sinh và trời hóa sinh thuộc cõi dục. Do ý sinh: Là trung ấm hóa sinh và trời cõi sắc vô sắc, là người đầu tiên sinh đến. Vì ở đây là ý sinh, nên trung ấm gọi là ý thừa hành.

Hỏi: Vì sao nói là hương ấm?

Đáp: Vì dùng mùi hương để bảo tồn thọ mạng, thế nên trung ấm gọi là hương ấm.

Hỏi: Vì sao nói là cầu hữu?

Đáp: Vì thường tìm kiếm hữu ở nơi cửa sáu nhập, thế nên trung ấm gọi là cầu hữu.

Như nơi Khế kinh Đức Thế Tôn nói: Điều Đạt tức thân vào địa ngục.

Hỏi: Điều Đạt có trung ấm hay không có trung ấm?

Đáp: Điều Đạt có trung ấm, song tử ấm tức diệt, trung ấm liền sinh. Trung ấm tức diệt, sinh ấm liền sinh.

Như nơi Khế kinh nói: Bấy giờ, Thích-đề-hoàn-nhân ở trước Đức Thế Tôn nói kệ:

Đại tiên phải nên biết

Ta tức nơi tòa này

Lại được thọ mạng trời

Xin Thế Tôn nhớ giữ.

Hỏi: Thích-đề-hoàn-nhân là có sống chết hay là không có sống chết? Nếu có sống chết, thì trung ấm của Thích-đề-hoàn-nhân kia là thế nào? Nếu không có sống chết, thì vì sao Thiên Đế Thích lại nói là “Lại được thọ mạng trời”?

Đáp: Thích-đề-hoàn-nhân là chết rồi sinh lại.

Hỏi: Nếu chết rồi sinh lại thì sự việc ấy là thế nào?

Đáp: Trung ấm của chư thiên là hóa sinh của sinh ấm. Hóa: Là thân chết không hiện, không thể nhận biết.

Hỏi: Như nói: Vị trời này như hình của mười sáu nam nữ đang ngồi trên đầu gối trời. Bấy giờ, chư thiên không thấy chăng?

Đáp: Có thấy, song chư thiên suy nghĩ thế này: Thích-đề-hoànnhân này có diệu lực rất lớn, oai đức rất lớn, thần túc cũng rất lớn, đối trước Đức Như Lai hiện bày thần túc của mình.

Lại có thuyết nói: Các trời có oai đức lớn kia, như Nhân-đà-la, Phi-lâu-na, Y-sa-na. Như thế, chư đại thiên ấy bản hữu trung hữu có lớn, nhỏ. Một loại như vậy, Thích-đề-hoàn-nhân mạng chung rồi lại sinh thân lớn, song các trời không biết.

Nên nói như thế này: Thích-đề-hoàn-nhân là không chết, không sinh lại.

Hỏi: Nếu Thích-đề-hoàn-nhân không chết, không sinh lại, thì như nơi kệ trên, vì sao lại nói: Lại được thọ mạng trời?

Đáp: Vì trừ bỏ năm tướng suy, nên nói kệ như thế. Chư thiên có năm tướng suy, có năm tướng chết.

Năm tướng suy: (1) Thân chư thiên trong sạch, mềm mại, xuống ao hương tắm, ra khỏi ao xong, nước không dính thân. Lúc suy thì nước dính nơi thân. (2) Thân lực của chư thiên luôn mạnh mẽ, mắt không hề nháy. Lúc suy thì thân lực yếu kém, mắt luôn nháy. (3) Cảnh giới năm dục của chư thiên là rất tốt đẹp, đoan nghiêm, không gì có thể so sánh, thường không ưa thích một xứ, ý như bánh xe của thợ gốm. Lúc suy thì luôn giữ lấy một xứ. (4) Xiêm y, chuỗi anh lạc của chư thiên va chạm vào nhau phát ra âm thanh vi diệu cũng như năm thứ âm nhạc. Lúc suy thì không có âm thanh. (5) Chư thiên có hào quang sáng tỏa khắp, như báu ma-ni, bóng không thể thấy. Lúc suy liền có hiện bóng. Lại có thuyết nói: Bóng không thể thấy, nhưng ánh sáng thì không còn tươi đẹp. Đây gọi là năm tướng suy.

Năm tướng chết: Mũ hoa của chư thiên chưa từng khô héo nay thì khô héo. Y báu chưa từng có vết nhơ nay thì có có vết nhơ. Mồ hôi dưới nách chảy ra. Hình sắc thay đổi. Không ưa thích trụ nơi bản tòa. Đây gọi là năm tướng chết.

Vì tướng suy có thể ngăn trừ nhưng tướng chết thì không thể ngăn trừ. Thích-đề-hoàn-nhân đã sinh năm tướng suy, tức không lâu sẽ sinh năm tướng chết, bèn suy nghĩ: Ta nên nương dựa vào người nào để giải thoát năm tướng chết cho ta? Xét ra chỉ có Đức Phật. Nên lập tức đến chỗ Đức Thế Tôn để được nghe pháp diệu, rất hoan hỷ kiến đế, tức thì trừ được năm tướng suy. Vì thế, Thích-đề-hoàn-nhân đã dùng lời hòa ái bạch Đức Thế Tôn cùng nói kệ ấy.

Hoặc cho: Vì nhằm trừ bỏ nẻo ác nên nói kệ ấy. Đức Phật ở trong nẻo ác đã cứu vớt Thích-đề-hoàn-nhân, đặt yên trong nẻo trời người. Vì ông ta đã dứt bỏ nẻo ác, nên dùng lời nói dịu dàng hòa ái bạch Đức Thế Tôn: Tôi tức nên ở nơi nẻo ác, phải diệt hoại, rất may được gặp Đức Thế Tôn cứu vớt khỏi nẻo ác. Như người cứu tù nhân thoát khỏi ngục đặt vào chỗ yên ổn. Tù nhân kia thường đến chỗ người ấy, dùng lời nói dịu dàng đáp tạ: Tôi đáng lẽ phải bị đoạn hoại ở trong ngục, nay được gặp ân nhân nên thoát khỏi nạn này. Như thế, Đức Phật Thế Tôn ở nơi nẻo ác đã cứu vớt Thích-đề-hoàn-nhân ra khỏi, nên ông ta dùng lời dịu dàng bạch Đức Thế Tôn: Tôi tức nên ở nơi nẻo ác, diệt hoại, rất may được gặp Đức Thế Tôn cứu vớt ra khỏi, do tuệ vô thượng nên bảo tồn được mạng này, đều là ân của Đức Thế Tôn. Đây gọi là vì nhằm trừ bỏ nẻo ác nên nói kệ ấy.

Hoặc nêu: Vì kiến đạo đoạn trừ bệnh kiết nên nói kệ ấy. Đức Thế Tôn cứu thoát, Thích-đề-hoàn-nhân được kiến đạo đoạn trừ bệnh kiết, an trụ nơi đệ nhất nghĩa. Như y sư chữa trị bệnh, khiến bệnh được lành, người kia thường đến chỗ lương y, dùng lời dịu dàng đáp tạ. Người ấy nói: Tôi đáng lẽ đã bị đoạn hoại vì bệnh, may gặp ân nhân mới thoát khỏi bệnh này. Như thế, Đức Phật Thế Tôn đã giảng nói pháp diệu, Thích-đề-hoàn-nhân kiến đạo đoạn trừ bệnh kiết, an trụ nơi đệ nhất nghĩa. Thích-đề-hoàn-nhân kia tức thì kiến đạo đoạn trừ hết bệnh kiết, nên dùng lời dịu dàng bạch Đức Thế Tôn: Tôi tức nên ở nơi kiến đoạn, bị đoạn hoại do bệnh kiết, may được gặp Đức Thế Tôn cứu vớt nên đã kiến đạo đoạn trừ bệnh kiết, do tuệ vô thượng nên mạng này được tồn tại, đều là nhờ ân của Đức Thế Tôn. Đây gọi là vì kiến đạo đoạn trừ bệnh kiết nên nói kệ ấy.

Hoặc nói: Muốn khiến cho nghiệp báo của hiện pháp được tăng ích, trường thọ. Thích-đề-hoàn-nhân thấy Phật, nghe pháp, thọ nhận báo của hiện pháp, tăng ích, trường thọ. Đây gọi là vì thọ nhận báo của hiện pháp nên nói kệ này.

Hỏi: Trung ấm là chuyển hay là không chuyển?

Đáp: Không chuyển ở nơi cõi, nẻo, xứ sở.

Hỏi: Nếu trung ấm nơi cõi không chuyển, thì như nơi Kinh Sinh nói về Tỳ-kheo không đa văn làm sao thông suốt? Như nói: Một Tỳ-kheo không đa văn ngồi thiền. Vì nhân nơi duyên của đời trước nên được thiền thứ nhất thế tục. Tỳ-kheo ấy suy nghĩ: Ta được quả Tu-đà-hoàn, được thiền thứ hai thế tục. Lại nghĩ: Ta được quả Tưđà-hàm, được thiền thứ ba thế tục. Lại nghĩ: Ta được quả A-na-hàm, được thiền thứ tư thế tục. Lại nghĩ: Ta đã được quả A-la-hán. Vị Tỳkheo kia ở đây, chưa được tưởng là được, bỏ phương tiện, không gia tăng mong cầu, chưa đắc muốn đắc, chưa đạt được muốn đạt được, chưa chứng muốn chứng. Tỳ-kheo ấy liền mạng chung, sinh trung ấm của địa thiền thứ tư, liền khởi suy nghĩ: Tất cả kiết ta đã dứt hết, đã đoạn hết thảy sinh tử, tức nên bát Niết-bàn, không nên sinh lại, vì sao có trung ấm này? Tất là không có giải thoát. Nếu khiến nên có giải thoát thì ta nay phải có.

Hỏi: Tỳ-kheo kia sinh khởi tà kiến, hủy báng Niết-bàn, nên đối với trung ấm của địa thiền thứ tư chuyển sinh trong đại địa ngục A-tỳ?

Đáp: Lúc bản hữu của Tỳ-kheo kia chuyển, không phải nhập nơi trung ấm chuyển. Tỳ-kheo kia ở đây chưa được tưởng là được, bỏ phương tiện, không gia tăng mong cầu, chưa đắc muốn đắc, chưa đạt được muốn đạt được, chưa chứng muốn chứng. Tỳ-kheo ấy lúc lâm chung có ứng điềm lành là sinh trung ấm của địa thiền thứ tư. Vừa thấy điềm ứng kia, Tỳ-kheo ấy khởi suy nghĩ thế này: Tất cả kiết ta đã dứt hết, đã đoạn hết thảy sinh tử, tức nên bát Niết-bàn, không nên sinh lại, vì sao lại có điềm ứng trước này? Tất là không có giải thoát. Nếu khiến có giải thoát thì ta nay nên có. Tỳ-kheo kia phát sinh tà kiến, hủy báng Niết-bàn, tức thì điềm ứng trước của địa thiền thứ tư chuyển sinh trong địa ngục A-tỳ. Đây gọi là lúc bản hữu chuyển, không phải nhập nơi trung ấm chuyển.

Hỏi: Nếu trung ấm nơi nẻo không chuyển, thì như nơi Kinh Sinh kia nói về hành thiện, hành ác, làm sao thông hợp? Như nói: Ở thành Xá-vệ có hai người: Một người hành thiện, một người hành ác.

Người hành thiện khi mạng chung, nhân nơi hành của hậu sinh báo, nên sinh trung ấm của địa ngục. Người ấy suy nghĩ: Ta thường tu thiện, không tạo hành ác, tức nên sinh lên cõi trời, không đọa nơi địa ngục, vì sao lại sinh trung ấm của địa ngục? Người kia nhớ nghĩ sự việc tu thiện xong, trung ấm của địa ngục liền chuyển sinh được trung ấm của hàng trời, tức thì sinh lên cõi trời.

Kẻ hành bất thiện khi mạng chung, nhân nơi hành của hậu sinh báo, nên sinh trung ấm của cõi trời. Người ấy suy nghĩ: Ta thường gây tạo nhiều hành ác, không tu hành thiện, tức nên bị đọa nơi địa ngục, không nên sinh lên cõi trời, vì sao lại sinh trung ấm của cõi trời? Thấy xong, liền có suy nghĩ thế này: Tất không có quả báo thiện, ác. Nếu có thì ta nay phải có. Người kia sinh khởi tà kiến, hủy báng nhân quả, nên trung ấm của trời chuyển sinh trung ấm của địa ngục, tức thì sinh vào địa ngục.

Hỏi: Nếu trung ấm nơi nẻo không chuyển, thì vì sao hai người này lại chuyển?

Đáp: Vì khi bản hữu của hai người kia chuyển, không phải là nhập nơi trung ấm chuyển.

Phàm tất cả chúng sinh, lúc sắp mạng chung, tất có ứng trước điềm thiện, ác. Nếu người hành thiện thì có điềm lành ứng hiện trước, kẻ hành bất thiện thì có điềm ác ứng hiện trước.

Điềm lành ứng hiện trước, như kệ nói:

Nếu thấy người hành thiện

Lâm chung nói lời này:

Tôi xem vườn thượng uyển

Nước sông tuôn ao hoa.

Điềm ác ứng hiện trước, như kệ nói:

Nếu thấy kẻ hành ác

Lâm chung nói lời này:

Tôi thấy lửa, dao, gươm

Chim dữ, chó, chồn, sói.

Người hành thiện, nhân nơi hành của hậu sinh báo, khi mạng sắp hết, ứng điềm sinh nơi địa ngục, thấy rồi liền suy nghĩ: Ta thường gắng sức tu thiện, không làm điều ác, tức nên được sinh lên cõi trời, không nên đọa nơi địa ngục, vì sao ứng điềm sinh nơi địa ngục? Người ấy nhớ lại việc tu thiện của mình rồi, thì điềm ứng sinh nơi địa ngục đã chuyển, mạng chung được sinh lên cõi trời. Kẻ hành bất thiện, nhân nơi hành của hậu sinh báo, nên khi sắp chết, ứng điềm sinh lên cõi trời, thấy xong liền suy nghĩ: Ta luôn gây tạo hành ác, không tu hành thiện, đáng lý phải đọa nơi địa ngục, không nên sinh lên cõi trời, vì sao lại ứng điềm sinh lên cõi trời? Như thế tất không có quả báo thiện, ác. Nếu khiến có thì ta nay phải có. Người ấy sinh khởi tà kiến, hủy báng nhân quả, nên ứng điềm lành sinh lên cõi trời liền chuyển, mạng chung sinh trong đại địa ngục A-tỳ. Đây gọi là khi bản hữu chuyển, không phải nhập nơi trung ấm chuyển.

Hỏi: Nếu trung ấm nơi xứ sở không chuyển, thì như nơi Kinh Sinh nói về vua Bình Sa làm sao thông hợp? Như nói: Từ trung ấm của trời Đâu Thuật đến trời cõi Đâu Thuật. Bấy giờ, Tỳ-sa-môn Thiên vương của trời Tứ Thiên vương cho dọn thức ăn thịnh soạn, hương vị thơm phức. Vua Bình Sa vừa ngửi biết mùi hương ấy tức thì trung ấm của trời Đâu Thuật liền chuyển, sinh nơi trời Tứ Thiên vương. Nếu trung ấm nơi xứ sở không chuyển thì vua Bình Sa làm sao chuyển?

Đáp: Trường hợp vua Bình Sa cũng là lúc bản hữu chuyển, không phải là nhập nơi trung ấm chuyển.

Có thuyết nói: Phụ vương của vua A-xà-thế, theo pháp trị nước không lỗi, không ác, nhưng đã bị chính ông bắt giam nơi lao ngục, lột da dưới chân, không cho ăn uống gì cả, nên bị nỗi đói khát bức bách, chịu nhiều khổ não. Vua Bình Sa khởi suy niệm: Đức Thế Tôn không thấy nỗi khổ của ta chăng? Đức Thiện Thệ không nghĩ đến ta chăng?

Bấy giờ, Đức Thế Tôn cùng với năm trăm Tỳ-kheo đang ngụ tại núi Kỳ-xà-quật, nước Ma-kiệt-đà. Lúc ấy, Đức Thế Tôn đã nhận biết ý nghĩ của vua Bình Sa, liền bảo Tôn giả Mục-kiền-liên: Này Mục-kiền-liên! Ông nên nhanh chóng đến chỗ vua Bình Sa, đem lời Ta nói, khéo an ủi nhà vua.

Đức Thế Tôn nói thế này: Đại vương! Ta đối với đại vương, những gì nên làm đều đã làm xong. Nghĩa là Ta đã cứu vớt vĩnh viễn khổ đau nơi các nẻo ác, một ít trường hợp trong nẻo người quyết định thọ nhận nghiệp ác Phật hãy còn không tránh khỏi, huống chi vua là tiểu Thánh mà có thể thoát khỏi sao! Đại vương nên tự an tâm, chớ lo buồn phiền!

Vâng lời Đức Thế Tôn dạy, Tôn giả Mục-kiền-liên liền nhập tam muội, biến khỏi núi Kỳ-xà-quật, hiện đến lao ngục kia, rồi từ tam muội khởi, nói với vua Bình Sa: Đại vương! Đức Thế Tôn có lời thăm đại vương và nói thế này: Đại vương! Ta đối với đại vương, những gì nên làm đều đã làm xong. Nói rộng như trên. Tôn giả Mụckiền-liên nhân đấy cũng giảng nói vô số pháp. Do bị đói khát bức bách, nên vua Bình Sa không lãnh hội được gì.

Nhà vua bèn hỏi Tôn giả Mục-kiền-liên: Thưa Tôn giả! Trên các cõi trời nơi nào có thức ăn ngon nhất để khi tôi sinh lên cảnh ấy sẽ được ăn? Tôn giả Mục-kiền-liên tức thì khen ngợi thức ăn nơi trời Tứ Thiên vương, cho đến trời Tha hóa tự tại.

Vua Bình Sa tức nên sinh nơi trời Đâu Thuật, nhưng khi nghe nói đến thức ăn uống của các cõi trời kia rồi, liền suy nghĩ: Ta nên ăn trước thức ăn của cõi trời gần đây, sau đấy sẽ sinh nơi trời Đâu Thuật. Nghĩ như thế xong liền mạng chung, sinh lên trời Tứ Thiên vương, làm thái tử của Tỳ-sa-môn Thiên vương tên là Tôn Thắng Tử.

Đây gọi là lúc ở bản hữu chuyển, không phải là nhập nơi trung ấm chuyển.

Do sự việc này, tức có thể biết: Trung ấm nơi cõi không chuyển, nơi nẻo cũng không chuyển, nơi xứ sở cũng không chuyển.

Như nơi Luận Thi Thiết nói: Con người khởi thủy, dùng hông, ức để đi, gọi là Ma-hầu-lặc, chúng sinh sinh gọi là voi.

Hỏi: Chúng sinh kia mạng chung rồi làm Ma-hầu-lặc, voi, hay là không mạng chung không sinh? Nếu mạng chung rồi lại sinh, thì trung ấm là như thế nào? Nếu không mạng chung không sinh, thì vì sao nói con người hoặc là Ma-hầu-lặc, hoặc là voi?

Đáp: Chúng sinh kia mạng chung rồi lại sinh.

Hỏi: Nếu mạng chung rồi lại sinh thì trung ấm kia là thế nào?

Đáp: Nghĩa là trung ấm của bản ấm kia đều là hóa sinh. Hóa thì thân không thể nhìn thấy.

Lại có thuyết nói: Chúng sinh kia cũng không mạng chung, cũng không sinh.

Hỏi: Nếu không mạng chung không sinh thì vì sao nói con người hoặc là Ma-hầu-lặc, hoặc là voi?

Đáp: Vì chúng sinh kia từ nơi trời Quang Âm mạng chung sinh đến đây, nên là như thế. Là ở trong loài súc sinh nhưng hình dáng như người. Về sau, khi chuyển thức ăn uống dở, vì chúng sinh xấu ác, ý xấu ác, phần nhiều là xảo trá, nên hình người chuyển mất, trở thành súc sinh như: tôm, ểnh ương, ếch nhái. Màu sắc ban đầu thì đen, mình tròn, về sau, sắc xanh, hình vuông. Như thế, chúng sinh kia từ trời Quang Âm đến, sinh trong loài súc sinh, nhưng có hình người. Do sinh khởi bốn sự việc ác, nên hình người chuyển mất, trở thành hình súc sinh.

Đó gọi là chúng sinh kia nói là Ma-hầu-lặc, hoặc là voi, song là không mạng chung không sinh.

Nói rộng về Xứ trung ấm xong.

*

Phần thứ 42: XỨ BỐN LOÀI

Bốn loài: (1) Noãn sinh. (2) Thai sinh. (3) Thấp sinh. (4) Hóa sinh.

Hỏi: Thế nào là Noãn sinh (Sinh bằng trứng)?

Đáp: Nghĩa là các chúng sinh sinh bằng trứng. Vào nơi trứng, bị trứng ràng buộc, bị trứng bao bọc, phải mổ vỡ vỏ trứng để sinh ra, cùng sinh khởi, cùng khởi thành, chuyển thành hữu.

Hỏi: Noãn sinh này gồm những gì?

Đáp: Như các loài chim nhạn, uyên ương, khổng tước, anh vũ, yểng, bồ câu, thiên thu. Hoặc rồng, hoặc kim sí điểu, hoặc người. Như thế, các chúng sinh ấy sinh bằng trứng. Vào nơi trứng, bị trứng ràng buộc, bị trứng bao bọc, phải mổ vỡ vỏ trứng để sinh ra, cùng sinh khởi, cùng khởi thành, chuyển thành hữu. Đó gọi là Noãn sinh.

Hỏi: Thế nào là Thai sinh?

Đáp: Nghĩa là các chúng sinh sinh bằng màng bọc. Vào nơi màng bọc thai, bị màng bọc thai ràng buộc, màng bọc thai bao trùm, phải phá vỡ màng bọc thai để sinh ra, cùng sinh khởi, cùng khởi thành, chuyển thành hữu.

Hỏi: Thai sinh này gồm những gì?

Đáp: Như các loài voi, ngựa, heo, dê, la, lừa, lạc đà, trâu bò, nai hươu. Hoặc rồng, hoặc kim sí điểu, hoặc người. Như thế, các chúng sinh ấy sinh bằng màng bọc thai. Vào nơi màng bọc thai, bị màng bọc thai ràng buộc, màng bọc thai bao trùm, phải phá vỡ màng bọc thai để sinh ra, cùng sinh khởi, cùng khởi thành, chuyển thành hữu. Đó gọi là Thai sinh.

Hỏi: Thế nào là Thấp sinh?

Đáp: Nghĩa là các chúng sinh nhân nơi bộng tre, trúc, bộng cây mục, nhân nơi cá, thịt ương hôi, hoặc nhân nơi thức ăn uế tạp, hoặc nhân nơi nhà xí, chốn bùn lầy nhơ nhớp, hoặc nhân nơi phân phế thải, hoặc nhân nơi khí nóng bốc lên, hoặc vô số thứ cùng áp sát nhau, bức bách nhau sinh ra, cùng sinh khởi, cùng khởi thành, chuyển thành hữu.

Hỏi: Thấp sinh này gồm những gì?

Đáp: Như các loài bọ hung, muỗi mòng, ngài, lằn, kiến. Hoặc rồng, hoặc kim sí điểu, hoặc người. Như thế, các chúng sinh ấy nhân nơi bộng tre, trúc, bộng cây mục, nhân nơi cá, thịt ương hôi, hoặc nhân nơi thức ăn uế tạp, hoặc nhân nơi nhà xí, chốn bùn lầy nhơ nhớp, hoặc nhân nơi phân phế thải, hoặc nhân nơi khí nóng bốc lên, hoặc vô số thứ cùng áp sát nhau, bức bách nhau sinh ra, cùng sinh khởi, cùng khởi thành, chuyển thành hữu. Đó gọi là Thấp sinh.

Hỏi: Thế nào là Hóa sinh?

Đáp: Nghĩa là các chúng sinh thành tựu tất cả căn, đầy đủ chi phần thân, cùng một lúc sinh, cùng sinh khởi, cùng khởi thành, chuyển thành hữu.

Hỏi: Hóa sinh này gồm những gì?

Đáp: Là tất cả địa ngục, tất cả ngạ quỷ, tất cả trung ấm, tất cả trời. Hoặc rồng, hoặc kim sí điểu, hoặc người. Như thế, các chúng sinh ấy đã thành tựu tất cả căn, đầy đủ chi phần thân, cùng một lúc sinh, cùng sinh khởi, cùng khởi thành, chuyển thành hữu. Đó gọi là Hóa sinh.

Hỏi: Bốn loài có tánh gì?

Đáp: Tánh là bốn ấm, năm ấm. Ở cõi dục, cõi sắc tánh là năm ấm. Ở cõi vô sắc tánh là bốn ấm.

Đây là tánh của bốn loài, là thể tướng hiện có nơi thân.

Đã nói về tánh xong, tiếp theo là nói về hành.

Hỏi: Vì sao gọi là loài? Loài có nghĩa gì?

Đáp: Vì chúng sinh đã sinh ra ách, nên gọi là loài.

Hỏi: Nếu chúng sinh đã sinh ra ách, nên gọi là loài, thì cõi, nẻo cũng là ách đối với chúng sinh, vì sao không nói là loài?

Đáp: Vì chỉ có ách của chúng sinh và ách của tất cả chúng sinh. Về cõi tuy là ách của tất cả chúng sinh, nhưng không phải là số chúng sinh, cũng là ách. Về nẻo tuy là ách của chúng sinh, nhưng không phải là ách của tất cả chúng sinh, vì lìa trung ấm. Loài này chỉ là ách của chúng sinh và ách của tất cả chúng sinh. Thế nên nói là bốn loài.

Hỏi: Bốn loài này nơi cõi có bao nhiêu loài?

Đáp: Ở cõi dục, tất cả bốn loài đều có thể đạt được. Cõi sắc, vô sắc, tất cả chỉ là hóa sinh.

Hỏi: Bốn loài này nơi nẻo có bao nhiêu loài?

Đáp: Địa ngục, ngạ quỷ, trời chỉ có một loại hóa sinh.

Lại có thuyết nói: Ngạ quỷ có thể đạt được thai sinh. Như nữ ngạ quỷ kia hướng về Tôn giả Mục-kiền-liên, nói kệ:

Ban ngày hai lăm con

Trong đêm cũng hai lăm

Vừa sinh ta đã ăn

Ý ta cũng không no.

Súc sinh và nẻo người, tất cả bốn loài đều có thể đạt được.

Hỏi: Thế nào là nhận biết trong nẻo người có noãn sinh?

Đáp: Như nói: Cõi Diêm-phù-lợi có nhiều người đi buôn vào biển để tìm châu báu, bắt được hai con ngỗng trời, hình sắc chúng rất đẹp đẽ, tùy ý biến hóa: mất một còn một. Con chim còn lại đã cùng với người lái buôn vui chơi, ấp ủ trong một nhà. Khi hội hợp với người lái buôn kia, bèn lần lượt đẻ ra hai trứng. Hai trứng ấy về sau thành thục dần, sinh ra hai đồng tử hết sức đoan nghiêm tuấn tú. Lớn lên đều xuất gia học đạo, được quả A-la-hán: Một tên Tôn giả Kỳ-thi-ba-la, một tên Tôn giả Ưu-bát-thi-ba-la, nghe đồn từ lâu đã làm chủ chùa Nam Sơn.

Hỏi: Thế nào là nhận biết trong nẻo người có thấp sinh?

Đáp: Như nói: Có Đảnh Sinh Vương, Tôn giả Già-la, Tôn giả Ưu-ba Già-la-lợi nữ.

Hỏi: Thế nào là nhận biết trong nẻo người có hóa sinh?

Đáp: Như người thời kiếp sơ.

Có thuyết nói: Tất cả từ bốn loài sinh đều được Thánh pháp. Thánh nhân đã được Thánh pháp thì không còn là noãn sinh, thấp sinh.

Hỏi: Vì sao Thánh nhân đã được Thánh pháp thì không còn là noãn sinh, thấp sinh?

Đáp: Noãn sinh, thấp sinh là thuộc về súc sinh. Thánh nhân đã lìa nẻo súc sinh.

Hoặc nói: Hai loài này có nhiều ngu tối. Còn Thánh nhân thì đã được quán.

Hoặc cho: Noãn sinh, thấp sinh thì bị bức bách chật hẹp, Thánh nhân thì tâm ý rộng lớn.

Hoặc nêu: Noãn sinh, thấp sinh thì không thể nương dựa. Thánh nhân thì thành tựu pháp nương dựa.

Nếu Ba-lê nữ có được sự nương dựa thì không nên khinh thường người nữ kia là hạ tiện. Phạm chí Đàn-đề không nêu dụ. Không dám khinh thường người nữ vì có chủ.

Hoặc nói: Thánh nhân sợ hai loài thấp sinh, noãn sinh. Nếu trứng từ thai mẹ xuất sinh phải mổ vỡ trứng để chui ra. Do sự việc này, nên chim gọi là hai loài. Như Sa-môn và Phạm chí gọi là hai loài. Từ thai mẹ sinh, xuất gia, học đạo.

Tôn giả Cù-sa nói: Vì sao Thánh nhân đã được Thánh pháp, không trở lại là noãn sinh, thấp sinh?

Đáp: Như cha hướng về con cũng như thế.

Hỏi: Thế nào là như cha hướng về con cũng như thế?

Đáp: Như đã thành Bồ-tát thì không là noãn sinh, thấp sinh. Như thế, Thánh nhân đã được Thánh pháp, thì không còn là noãn sinh, thấp sinh.

Hỏi: Trong bốn loài, loài nào là rộng hơn hết?

Đáp: Có thuyết nói: Noãn sinh là rộng hơn hết. Thuyết này nói: Ở lưng chừng núi, đầm, bình nguyên, dọc theo ven biển phía Tây nước ngoài, trứng đầy dẫy trong đó. Lừa, la, lạc đà, voi, ngựa, heo, dê, trâu bò, nai hươu đều đạp bể số trứng ấy. Như thế, noãn sinh là rộng hơn hết.

Lại có thuyết cho: Thai sinh là rộng nhất. Thuyết này nói: Một con cá, một con ễnh ương đẻ con đầy bảy ruộng lúa, bảy con sông.

Như thế, thai sinh là rộng hơn hết.

Lại có thuyết nêu: Thấp sinh là rất rộng. Như thời tiết các tháng mùa hạ, những vùng đất mặn, đất tro, trong nước tiểu của trâu bò và nước đọng lại ở những nơi ẩm ướt, từ cõi dục cho đến Phạm thiên, trong một khoảnh khắc, các loài côn trùng sinh sản đầy ắp trong đó. Như thế, thấp sinh là rộng hơn hết.

Nên nói như thế này: Hóa sinh là rộng hơn hết. Vì sao? Vì hóa sinh đều gồm thâu ba nẻo và phần ít của hai nẻo. Đều gồm thâu ba nẻo: Là địa ngục, ngạ quỷ, trời. Phần ít của hai nẻo: Là súc sinh và người. Lại nữa, tất cả chúng sinh ở cõi dục, cõi sắc đều sinh trung ấm. Trung ấm là hóa sinh. Thế nên hóa sinh là rộng hơn hết.

Hỏi: Nơi bốn loài, loài nào là thắng diệu?

Đáp: Hóa sinh là thắng diệu.

Hỏi: Nếu hóa sinh là thắng diệu, vì sao Đức Phật Thế Tôn không từ hóa sinh?

Đáp: Vì không cùng hòa hợp. Nghĩa là khi có người hóa, thì bấy giờ không có Phật. Khi có Phật thì bấy giờ không có người hóa sinh. Đó gọi là vì không cùng hòa hợp, nên Đức Phật, Thế Tôn không từ hóa sinh.

Hoặc nói: Do thân hóa sinh không có sức mạnh, nên không vượt hơn mười lực, bốn vô sở úy.

Hoặc cho: Vì hóa thân thì mềm yếu, không cho đến đạo Chánh chân vô thượng.

Hoặc nêu: Đây hoàn toàn là niệm ái tột cùng, nối tiếp với người thân. Bồ-tát luôn hoàn toàn yêu thích tu thiện. Do đấy nên từ thai sinh, không từ hóa sinh.

Hoặc nói: Bồ-tát suốt nơi đêm dài sinh tử tạo nghiệp cầu tìm cha mẹ đáng kính. Cha mẹ cũng trong đêm dài sinh tử cầu tìm con cái hiếu thuận. Nếu Bồ-tát từ nơi hóa sinh xuất sinh, thì nghiệp của thệ nguyện không quả, không báo. Thế nên Bồ-tát từ thai sinh, không từ hóa sinh.

Hoặc cho: Vì thọ nhận sự việc thuyết pháp. Nếu Đức Thế Tôn từ hóa sinh xuất hiện, đi đến chỗ tụ họp, biện luận, quở trách, thì các Tỳ-kheo kia tức khởi suy nghĩ: Người này không có cha mẹ, không có anh em, chị em cùng các họ hàng thân thuộc, chỉ đến quở trách chúng ta. Như nơi đất Diêm-phù-lợi có nhiều gia đình hào quý nhất, thân tộc rất đông. Thành Ca-duy-la-vệ là hơn hết trong nhân gian thời bấy giờ, nên Đức Thế Tôn sinh vào nơi ấy. Như miệng ngậm nước bọt, không thích để lâu, nên xuất gia, học đạo ở trong khu rừng được ca tụng nhất. Vì thế, nên khi thuyết pháp, có nhiều người thọ nhận sự hóa độ. Đó gọi là vì người thọ nhận sự việc giảng nói pháp, nên Đức Phật, Thế Tôn từ thai sinh, không từ hóa sinh.

Hoặc nêu: Vì nhằm dứt trừ mọi sự hủy báng, nên Đức Thế Tôn từ thai sinh, không từ hóa sinh. Như Đức Thế Tôn ở trong đại chúng, hết thảy mọi người không ai là không thấy biết: Từ nơi trời Đâu Thuật mạng chung, hạ sinh nơi thai mẹ. Mười tháng đã mãn, sinh ở vườn Lâm Tỳ, liền đi bảy bước, có hai rồng phun nước tắm thân. Hai mươi chín tuổi xuất gia, ba mươi lăm tuổi đắc đạo. Tu khổ hạnh sáu năm xong, ăn cháo sữa của hai cô gái dâng cúng, cùng hàng phục ma, các thứ hệ thuộc, thành tựu đạo vô thượng. Như thế cũng còn có dị học đến hủy báng: Quá một trăm kiếp, ở trong biển cả, sinh ra một người huyễn, ăn tất cả của thí. Huống chi là Đức Thế Tôn từ hóa sinh thì đám dị học há không gia tăng sự hủy báng? Đó gọi là vì nhằm dứt trừ mọi sự hủy báng, nên Đức Thế Tôn từ thai sinh, không từ hóa sinh.

Hoặc nói: Vì tạo lợi ích cho người khác, nên Đức Thế Tôn từ thai sinh, không từ hóa sinh. Nếu Đức Thế Tôn từ hóa sinh, thì khi bát Niết-bàn, chúng sinh tức không nhìn thấy thân xá-lợi. Nếu được thấy xá-lợi, thì như hiện nay, Đức Phật đã bát Niết-bàn một ngàn năm. Xá-lợi như hạt cải, hàng trăm ngàn chúng sinh đều cung kính, cúng dường. Cung kính cúng dường xong, tức nguyện cầu nơi đạo Phật, Phật-bích-chi, Thanh văn, sẽ được sinh vào các gia đình cao sang, dung mạo đoan nghiêm, trong nẻo người, trời đều không thể sánh, cho đến nhập cảnh giới Niết-bàn vô dư. Nếu Đức Thế Tôn từ hóa sinh, thì từng ấy công đức đều đoạn dứt, không hiện bày. Do đấy nên Đức Phật, Thế Tôn từ thai sinh, không từ hóa sinh.

Hỏi: Vì sao thân hóa sinh lúc mạng chung là không thể thấy?

Đáp: Vì thân hóa sinh là một lúc sinh, một lúc diệt. Như người lội vào nước, một lúc chìm, một lúc nổi, nổi rồi lại chìm, không hiện trở lại. Như thế, thân hóa sinh là một lúc sinh, một lúc diệt.

Hoặc nói: Thân hóa sinh có nhiều sắc được tạo, có ít bốn đại. Vì bốn đại nhiều nên khi mạng chung có thể thấy. Có nhiều sắc được tạo nên khi mạng chung thì không thể thấy.

Hoặc cho: Thân hóa sinh thì căn nhiều, phi căn ít. Vì phi căn nhiều, nên vào lúc mạng chung là có thể thấy. Hóa sinh thì ít tóc, lông, móng tay, răng, xương, thế nên thân hóa sinh vào lúc mạng chung là không thể thấy.

Hỏi: Nếu thân hóa sinh, vào lúc mạng chung là không thể thấy, thì như nơi Khế kinh kia nói làm sao thông? Như nói: Loài kim sí điểu hóa sinh tóm bắt loài rồng hóa sinh mà ăn. Nếu thân hóa sinh không hiện bày, làm sao lấy rồng kia làm thức ăn?

Đáp: Vì ý muốn ăn nên bắt lấy, song không trừ bỏ được cơn đói khát.

Hoặc nói: Hóa thân là rất mềm mại, vào bụng tức sẽ ăn. Như dầu, tô, vào bụng là sẽ ăn. Như thế, hóa thân vì rất mềm mại nên vào bụng tức sẽ ăn.

Hoặc cho: Vì cùng nuốt một lúc, thế nên nói là sẽ ăn.

Hoặc nêu: Loài kim sí điểu kia có ý tạo phương tiện, trước hết nuốt lấy đuôi rồng, sau đấy đến đầu. Lúc mạng rồng chưa đoạn, cho là sẽ ăn. Thế nên hóa thân sẽ ăn.

Hỏi: Nếu hóa thân vào lúc mạng chung không hiện bày, thì như nơi Khế kinh khác kia đã nói làm sao thông? Như nói: Lính của địa ngục bắt lấy tội nhân nọ, lột da từ chân đến cổ, từ cổ đến chân. Vì sao có thể thấy?

Đáp: Vì còn vướng mắc nơi thân nên có thể thấy. Lìa thân thì không thể thấy. Như ánh sáng của chớp ra khỏi lớp mây thì trông thấy, tắt mất thì không thấy. Như thế, vì vướng mắc nơi thân nên có thể thấy, lìa thân thì không thể thấy.

Hỏi: Chim trên cõi trời là noãn sinh hay là hóa sinh? Nếu là noãn sinh, thì lúc mạng chung thân sẽ thấy. Chư thiên thấy rồi sao có thể không khởi tâm oán ghét? Chư thiên có sáu thứ ưa thích. Nghĩa là mắt thấy sắc, đều thấy những thứ đáng ưa thích, không thấy những thứ không ưa thích. Vui mừng, không phải là không vui mừng. Nhớ nghĩ, không phải là không nhớ nghĩ. Sắc thiện, không phải là sắc bất thiện. Sắc khoái lạc, không phải là sắc không khoái lạc. Là tinh diệu, không phải là không tinh diệu. Như thế, cho đến ý cũng như vậy.

Đáp: Có thuyết nói: Chim trên cõi trời là noãn sinh.

Hỏi: Nếu là noãn sinh thì vào lúc mạng chung thân có thể thấy. Chư thiên thấy rồi, sao có thể không khởi tâm oán ghét?

Đáp: Chim trên cõi trời, vào lúc mạng chung là có thể thấy, song do gió thổi đi nhanh.

Nên nói như thế này: Chim trên cõi trời là hóa sinh.

Nói rộng về Xứ bốn loài xong.

HẾT – QUYỂN 14