LUẬN TỲ BÀ SA
Tác giả: A la hán Thi Đà Bàn Ni
Hán dịch: Đời Phù Tần, Đại sư Tăng Già Bạt Trừng, người nước Kế Tân
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 12

Phần thứ 35: XỨ BỐN VÔ SẮC

Bốn vô sắc: (1) Xứ không. (2) Xứ thức. (3) Xứ bất dụng. (4) Xứ hữu tưởng vô tưởng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì nhằm ngăn trừ ý tưởng của người khác, cùng làm rõ nghĩa đúng đắn, nên tạo ra phần Luận này.

Hoặc có thuyết cho trong vô sắc có sắc. Hoặc có thuyết cho trong vô sắc không có sắc. Phái Tỳ-bà-xà-bà-đề thì cho trong vô sắc có sắc. Phái Dục-đa-bà-đề thì cho trong vô sắc không có sắc.

Hỏi: Vì sao phái Tỳ-bà-xà-bà-đề cho trong vô sắc có sắc?

Đáp: Vì phái kia dựa theo Khế kinh Phật nên cho trong vô sắc có sắc. Phái ấy nêu dẫn: Nơi Khế kinh Đức Thế Tôn nói: Danh sắc duyên thức, thức duyên danh sắc, nhưng trong vô sắc có thức. Nếu trong vô sắc có thức, tức cũng nên có sắc.

Lại nơi Khế kinh khác nói: Thọ mạng, noãn, thức, ba pháp này thường kết hợp, trọn không lìa nhau. Ba pháp này không thể thiết lập riêng lẻ. Nếu ba pháp ấy không thể thiết lập riêng lẻ, tức trong vô sắc có thức. Nếu trong vô sắc có thức, tức cũng nên có noãn. Noãn tức là sắc.

Nơi Khế kinh khác, Đức Thế Tôn nói: Nếu tạo ra thuyết này: Ngã lìa sắc, lìa thống (thọ), tưởng, hành, để thiết lập riêng thức: hoặc đến, hoặc trụ, hoặc sinh, hoặc sau cùng. Ở đây, không nên tạo ra thuyết ấy, vì trong vô sắc có thức. Nếu trong vô sắc có thức, tức cũng nên có bốn thức trụ.

Lại nêu vấn nạn về lỗi: Nếu trong vô sắc không có sắc, là từ cõi dục, cõi sắc mạng chung, sinh nơi cõi vô sắc, người kia thọ mạng hai vạn, bốn vạn, sáu vạn, hoặc tám vạn kiếp, sắc vĩnh viễn đoạn. Nếu từ cõi vô sắc ấy mạng chung, sinh nơi cõi dục, cõi sắc, nơi tám vạn kiếp, sắc đã vĩnh viễn đoạn, rồi sinh trở lại, thì sắc do đâu để khởi? Nếu nơi tám vạn kiếp sắc đã vĩnh viễn đoạn trừ mà khởi trở lại được thì bậc A-la-hán đã nhập Niết-bàn vô dư, tất cả hành hữu vi đều hoàn toàn đoạn dứt, về sau, cũng sinh trở lại. Nếu A-la-hán nhập Niết-bàn vô dư, tất cả hành hữu vi đều hoàn toàn đoạn dứt, về sau, cũng sinh trở lại, tức nên không có giải, không có thoát, không có lìa, không có xuất yếu. Chớ nên có lỗi như vậy. Thế nên trong vô sắc có sắc.

Do Khế kinh này là chứng cứ, nên phái Tỳ-bà-xà-bà-đề nói: Trong vô sắc có sắc.

Hỏi: Phái Dục-đa-bà-đề dựa vào đâu để cho trong vô sắc không có sắc?

Đáp: Cũng dựa theo Khế kinh khởi để cho trong vô sắc không có sắc. Phái ấy nêu dẫn: Nơi Khế kinh Đức Thế Tôn nói: Cảnh giới kia đã dứt, đạt giải thoát, vượt qua sắc đến vô sắc.

Như thế, thân tác chứng nơi hình tượng chánh thọ, thành tựu đầy đủ. Như vượt qua sắc đến vô sắc, thế nên trong vô sắc không có sắc.

Lại, Khế kinh khác nói: Lìa dục đến sắc, lìa sắc đến vô sắc. Nếu đã lìa sắc đến vô sắc, thế nên trong vô sắc không có sắc.

Lại, Khế kinh khác cho: Tất cả vượt qua tưởng sắc, diệt trừ tưởng có đối, không nghĩ nhớ đến tưởng xen tạp, vô lượng không là không, thành tựu sự du hóa. Nếu vượt qua tất cả tưởng sắc, thế nên trong vô sắc không có sắc.

Lại, Khế kinh khác nêu: Trong phẩm Thiền nói được, có thể được, có thể có. Hoặc sắc, hoặc thống (thọ), tưởng, hành, thức, hành giả kia quán các pháp này như bệnh, như ung nhọt, như gai nhọn, như mũi tên, như rắn độc, quán vô thường, khổ, không, phi ngã. Trong phẩm Vô sắc nói được, có thể được, có thể có. Hoặc thống (thọ), hoặc tưởng, hành, thức, hành giả kia quán các pháp này như bệnh, như ung nhọt, như gai nhọn, như mũi tên, như rắn độc, quán vô thường, khổ, không, phi ngã. Như trong phẩm Thiền nói có sắc. Còn trong phẩm Vô sắc không nói sắc. Vì thế nên có thể biết trong vô sắc không có sắc.

Lại nêu vấn nạn về lỗi: Nếu trong vô sắc có sắc, thì pháp đoạn theo thứ lớp không thể nhận biết. Nghĩa là các pháp có ở cõi dục, pháp này có ở cõi sắc, vô sắc. Như thế, pháp đoạn theo thứ lớp không thể nhận biết. Nếu pháp đoạn theo thứ lớp không thể nhận biết, thì pháp đoạn cứu cánh cũng không thể nhận biết. Do nhân nơi pháp đoạn theo thứ lớp, nên đến cứu cánh có thể thiết lập. Nếu đến cứu cánh không đoạn, tức nên không có giải, không có thoát, không có lìa, không có xuất yếu. Chớ nên có lỗi như thế. Thế nên trong vô sắc không có sắc.

Do Khế kinh này là chứng cứ, nên phái Dục-đa-bà-đề nói: Trong vô sắc không có sắc.

Hai thuyết như thế thì thuyết cho: Trong vô sắc không có sắc là tốt.

Hỏi: Nếu trong vô sắc không có sắc, thì phái Dục-đa-bà-đề này đối với các Khế kinh do phái Tỳ-bà-xà-bà-đề đã nêu bày làm sao thông hợp?

Đáp: Khế kinh ấy là nói có ý nên có thể thông hợp.

Hỏi: Thế nào là có ý và có thể thông hợp?

Đáp: Tức Đức Phật, Thế Tôn, hoặc dựa nơi cõi dục nên nói Khế kinh. Hoặc dựa nơi cõi sắc. Hoặc dựa nơi cõi vô sắc. Hoặc dựa nơi cõi dục, cõi sắc. Hoặc dựa nơi cõi sắc, vô sắc. Hoặc dựa nơi ba cõi. Hoặc lìa nơi ba cõi.

Dựa nơi cõi dục nên nói, không phải là cõi sắc, vô sắc: Như nói ba cõi là cõi dục, cõi giận và cõi hại. Khế kinh này là dựa nơi cõi dục nên nói không phải là cõi sắc, vô sắc.

Dựa nơi cõi sắc nên nói, không phải là cõi dục, không phải là cõi vô sắc: Là như phẩm Thiền đã nói ở trên. Khế kinh này là dựa nơi cõi sắc nên nói không phải là cõi dục, không phải là cõi vô sắc.

Dựa nơi cõi vô sắc nên nói, không phải là cõi dục, không phải là cõi sắc: Là như phẩm Vô sắc đã nói ở trên. Khế kinh này là dựa nơi cõi vô sắc nên nói không phải là cõi dục, không phải là cõi sắc.

Dựa nơi cõi dục, cõi sắc nên nói, không phải là cõi vô sắc: Như Khế kinh này nói: Danh sắc duyên thức, thức duyên danh sắc. Khế kinh này vì dựa nơi cõi dục, cõi sắc nên nói không phải là cõi vô sắc. Vì sao? Vì trong cõi dục, cõi sắc này là có sắc. Thế nên ở đây danh sắc duyên thức, thức duyên danh sắc. Trong vô sắc không có sắc, thế nên ở cõi kia danh duyên thức, thức duyên danh. Do đấy nên Khế kinh ấy dựa nơi cõi dục, cõi sắc nên nói không phải là cõi vô sắc.

Dựa nơi cõi sắc, cõi vô sắc nên nói, không phải là cõi dục: Như thiền kinh đã nói ý kinh, sinh kinh. Khế kinh ấy dựa nơi cõi sắc, cõi vô sắc nên nói không phải là cõi dục.

Dựa nơi ba cõi nên nói: Như nói: Cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc.

Khế kinh này dựa nơi ba cõi nên nói.

Lìa nơi ba cõi nên nói: Như nói: Tỳ-kheo! Ta sẽ nói về Niết-bàn và đạo Niết-bàn. Khế kinh này vì lìa nơi ba cõi nên nói.

Như nói: Thọ mạng, noãn, thức, ba pháp này thường kết hợp trọn không lìa nhau. Ba pháp này không thể thiết lập riêng lẻ. Khế kinh này cũng dựa nơi cõi dục, cõi sắc nên nói, không phải là cõi vô sắc. Vì sao? Vì trong cõi dục, cõi sắc này là có sắc. Thế nên ba pháp này thường kết hợp trọn không lìa nhau. Ba pháp này không thể thiết lập riêng lẻ.

Do trong vô sắc không có sắc, thế nên thọ mạng và thức kia, hai pháp này thường kết hợp trọn không lìa nhau. Hai pháp này không thể thiết lập riêng lẻ.

Đó gọi là Khế kinh này nói là có ý, có thể thông hợp.

Như đã nói: Ba pháp nơi Khế kinh này thường kết hợp trọn không lìa nhau, không thể thiết lập riêng lẻ. Ba pháp này cũng có thể được thiết lập riêng lẻ: Vì giới, nhập, ấm.

Vì giới nên thiết lập riêng lẻ: Thọ mạng thuộc về pháp giới. Noãn thuộc về sắc giới. Thức thuộc về bảy ý giới.

Vì nhập nên thiết lập riêng lẻ: Thọ mạng thuộc về pháp nhập. Noãn thuộc về xúc nhập. Thức thuộc về ý nhập.

Vì ấm nên thiết lập riêng lẻ: Thọ mạng thuộc về hành ấm. Noãn thuộc về sắc ấm. Thức thuộc về thức ấm.

Như thế, ba pháp này không thể thường kết hợp, vì chúng cũng có thể được thiết lập riêng lẻ: Vì giới, vì nhập, vì ấm.

Chớ nên tạo ra thuyết ấy, vì Khế kinh này nói: Ba pháp thường kết hợp trọn không lìa nhau. Ba pháp này không thể thiết lập riêng lẻ.

Như nói: Nếu tạo ra thuyết này thì ngã lìa sắc, lìa thống (thọ), tưởng, hành và thiết lập riêng thức: Hoặc đến, hoặc trụ, hoặc sinh, hoặc sau cùng. Ở đây không nên tạo ra thuyết này: Do Khế kinh này cũng dựa nơi cõi dục, cõi sắc để thiết lập nêu bày. Vì sao? Vì trong cõi dục, cõi sắc này là có sắc, thế nên thức này là bốn thức trụ, tức nên thiết lập. Vì trong vô sắc không có sắc, nên thức kia là ba thức trụ, tức nên thiết lập. Nghĩa là tạo ra thuyết này: Ngã trừ bốn thức trụ, thiết lập riêng một mình thức, thì thức này trọn không thể thiết lập. Nghĩa là trừ một thức trụ, còn ba thức trụ nên thiết lập, tức ba thức trụ đó có thể thiết lập.

Như nói: Nếu trong vô sắc không có sắc, thì nói là từ cõi dục, cõi sắc mạng chung, sinh nơi cõi vô sắc, người kia thọ mạng hoặc hai vạn đến tám vạn kiếp, sắc đã vĩnh viễn đoạn. Nếu từ cõi vô sắc kia mạng chung sinh nơi cõi dục, cõi sắc, thì nơi tám vạn kiếp kia, sắc đã vĩnh viễn đoạn, trở lại sinh khởi nữa, thì bậc A-la-hán đã nhập Niếtbàn vô dư, tất cả hành hữu vi đã vĩnh viễn đoạn, về sau cũng sinh trở lại. Nếu A-la-hán đã nhập Niết-bàn vô dư, tất cả hành hữu vi đã vĩnh viễn đoạn, về sau cũng sinh trở lại, tức nên không có giải, không có thoát, không có lìa, không có xuất yếu. Đừng nên có lỗi như thế.

Thế nên trong vô sắc nếu có sắc, thì điều này không nên thông hợp, vì đây không phải là Khế kinh, không phải là Luật, A-tỳ-đàm, nên không thể dùng thí dụ của thế gian làm hoại pháp của Hiền Thánh. Vì thí dụ của thế gian khác, pháp của Hiền Thánh khác.

Sự việc này, nếu thông hợp tức nên có ý gì?

Hoặc nhân nơi sắc, vô sắc sinh sắc, vô sắc. Hoặc nhân nơi sắc, vô sắc sinh vô sắc. Hoặc nhân nơi vô sắc sinh vô sắc. Hoặc nhân nơi vô sắc sinh sắc, vô sắc.

Nhân nơi sắc, vô sắc sinh sắc, vô sắc: Nghĩa là như từ cõi dục, cõi sắc mạng chung, trở lại sinh nơi cõi dục, cõi sắc.

Nhân nơi sắc, vô sắc sinh vô sắc: Như từ cõi dục, cõi sắc mạng chung, sinh nơi cõi vô sắc.

Nhân nơi vô sắc sinh vô sắc: Như từ cõi vô sắc mạng chung, sinh nơi cõi vô sắc.

Nhân nơi vô sắc sinh sắc, vô sắc: Như từ cõi vô sắc mạng chung, sinh nơi cõi dục, cõi sắc.

Hoặc có sắc nối tiếp đoạn rốt ráo, hoặc đoạn trong giây lát. Sắc nối tiếp đoạn rốt ráo: Là người kia không còn sinh trở lại. Sắc nối tiếp đoạn trong giây lát: Là người kia còn sinh trở lại.

A-la-hán kia nhập Niết-bàn vô dư, tất cả hành hữu vi đã vĩnh viễn đoạn, thế nên không còn sinh trở lại.

Hỏi: Phái Tỳ-bà-xà-bà-đề kia đối với các Khế kinh do phái Dục-đa-bà-đề đã nêu bày làm sao thông hợp?

Đáp: Phái Tỳ-bà-xà-bà-đề nói: Như nơi Khế kinh Đức Phật nói: Hành giả kia đã dứt bỏ, đạt giải thoát, vượt qua sắc, đến vô sắc. Như thế hình tượng chánh thọ, thân tác chứng, là thành tựu. Khế kinh Phật này nói: Vì vượt qua sắc thô, nên nói trong vô sắc có sắc, song bốn đại vi tế, phân tán khắp cõi không.

Có thuyết nói: Vấn đề này không nên luận. Vì sao? Vì nói cực vi sắc, đối với bốn ấm cũng là thô. Tuy nhiên, thuyết kia nói bốn ấm, không nói sắc ấm. Do đấy, nên không nhận biết trong vô sắc không có sắc.

Hỏi: Như nói: Lìa dục đến sắc, lìa sắc đến vô sắc, điều ấy làm sao thông hợp?

Đáp: Như sắc kia lìa cõi dục, vì ở trong cõi sắc nên có sắc. Như thế, cõi vô sắc lìa sắc, thì ở trong cõi vô sắc cũng nên có sắc.

Có thuyết nói: Điều này không nên luận. Vì sao? Vì nếu cõi sắc kia lìa sắc nơi cõi dục này thì có thể như vậy. Nhưng vì cõi sắc kia lìa dục trong cõi dục ấy không lìa sắc, vì trong sắc không có dục. Như thế, cõi vô sắc kia lìa sắc trong cõi sắc này, do đấy nên trong cõi vô sắc không có sắc.

Khế kinh khác là minh chứng: Tức điều nêu kia là không thể thông hợp, cho thấy đấy là quả vô trí, quả tối tăm, quả si, quả không tinh tấn. Nghĩa là muốn cho trong cõi vô sắc có sắc, chỉ là trong cõi vô sắc không có sắc.

Ở đây, vì muốn dứt trừ ý tưởng của người khác, hiện bày ý của mình, cùng nói pháp như đẳng, nên tạo ra phần Luận này.

Hoặc không chỉ nhằm đoạn trừ ý tưởng của người khác, không chỉ để hiện bày ý của mình mà chính là cũng nhằm làm sáng tỏ lý chánh của các pháp nên tạo ra phần Luận này.

Bốn vô sắc: Xứ không, xứ thức, xứ bất dụng, xứ hữu tưởng vô tưởng (Xứ không vô biên, xứ thức vô biên, xứ vô sở hữu và xứ phi tưởng phi bất tưởng).

Thế nào là xứ không? Như Luận Bà-tu-mật nói: Xứ không là chánh thọ và sinh của xứ không. Nghĩa là thống (thọ), tưởng, hành, thức thiện.

Hỏi: Vì sao như nơi thiền, hoặc nói chánh thọ (định) và sinh, hoặc nói sinh không phải chánh thọ, còn nơi vô sắc thì nói tất cả là chánh thọ và sinh?

Đáp: Vì vô sắc kia không phải là vô số thứ, không phải là có nhiều tướng, không phải là không tương tợ, thế nên tất cả nói là chánh thọ và sinh. Thiền thì có vô số thứ, có từng ấy tướng, không tương tợ, thế nên hoặc nói chánh thọ và sinh, hoặc nói sinh không phải chánh thọ.

Hoặc cho: Vô sắc không phải là vô số công đức trang nghiêm, thế nên tất cả nói là chánh thọ và sinh. Thiền có vô số công đức trang nghiêm, thế nên hoặc nói chánh thọ và sinh, hoặc nói sinh không phải chánh thọ.

Hoặc nêu: Vô sắc không có nhiều pháp diệu, thế nên tất cả nói là chánh thọ và sinh. Thiền có nhiều pháp diệu, thế nên hoặc nói chánh thọ và sinh, hoặc nói sinh không phải chánh thọ.

Hoặc nói: Vô sắc là vi tế không thể trông thấy, khó có thể hiện bày, thế nên tất cả nói là chánh thọ và sinh. Thiền là thô, có thể thấy, có thể hiện bày, thế nên hoặc nói chánh thọ và sinh, hoặc nói sinh không phải chánh thọ.

Bốn định vô sắc: Xứ không, xứ thức, xứ bất dụng, xứ hữu tưởng vô tưởng.

Thế nào là xứ không? Ở đây, Tỳ-kheo vượt qua tất cả tưởng sắc, diệt tưởng có đối, không nghĩ đến các tưởng khác, lấy vô lượng không là vô lượng xứ không, thành tựu đầy đủ.

Tỳ-kheo vượt qua tất cả tưởng sắc: Tưởng sắc là ở nơi bốn thiền, tưởng sắc hiện bày phân tán khắp đại địa, tưởng kia nên diệt, thế nên nói vượt qua tất cả tưởng sắc.

Diệt tưởng có đối: Là tưởng tương ưng với năm thức thân.

Hỏi: Như khi trừ bỏ dục của cõi dục là đã diệt tưởng tương ưng của năm thức thân, hoặc lúc nơi thiền thứ nhất trừ bỏ dục đã diệt, vì sao khi ở nơi thiền thứ tư trừ bỏ dục nói là diệt tưởng có đối?

Đáp: Tuy có tưởng tương ưng của năm thức thân, hoặc lúc trừ bỏ dục của cõi dục đã diệt, hoặc khi nơi thiền thứ nhất trừ bỏ dục đã diệt, nhưng xứ tưởng kia chưa diệt. Nghĩa là thiền thứ tư trừ bỏ dục xong, xứ tưởng kia mới diệt. Vì do tưởng diệt nên nói như thế.

Hoặc cho: Vì diệt chỗ nương dựa nên nói như thế. Tuy có tưởng tương ưng của năm thức thân, hoặc khi trừ bỏ dục của cõi dục đã diệt, hoặc lúc nơi thiền thứ nhất trừ bỏ dục đã diệt, song vì sự nương dựa chưa diệt. Nghĩa là thiền thứ tư trừ bỏ dục xong, thì chỗ nương dựa liền diệt. Thế nên vì chỗ nương dựa diệt nên nói như thế.

Lại có thuyết nói: Tưởng có đối: Là tưởng tương ưng với giận.

Hỏi: Như tưởng tương ưng với giận, khi cõi dục trừ bỏ dục, tưởng ấy đã vĩnh viễn diệt. Vì sao khi nơi thiền thứ tư trừ bỏ dục mới nói?

Đáp: Vì diệt trừ nhân nên nói. Nghĩa là nhân và duyên sinh ra giận, là nhân của sắc, duyên của sắc, là sắc kia khi thiền thứ tư trừ bỏ dục là vĩnh viễn diệt. Đây gọi là vì nhân và duyên diệt nên nói.

Vì vậy nên nói là diệt tưởng có đối.

Không nghĩ đến các tưởng khác: Là các tưởng tản mát khắp của địa thiền thứ tư.

Hỏi: Vì sao nói không nghĩ nhớ?

Đáp: Vì tưởng tản mát khắp của thiền thứ tư kia làm thoái lui chánh thọ (định) của xứ không, nên Đức Thế Tôn nói không nghĩ nhớ đến tưởng này để tu đạo chánh thọ của xứ không. Vì vậy nên nói không nghĩ đến các tưởng khác.

Vô lượng không là vô lượng xứ không, thành tựu đầy đủ:

Hỏi: Vì sao nói là xứ không? Vì tánh hay là vì duyên? Nếu là tánh tức nên là tánh của bốn ấm. Nếu là duyên tức nên duyên nơi bốn đế.

Đáp: Xứ không không phải do tánh, cũng không phải do duyên, chỉ vì phương tiện nên nói là xứ không. Như Luận Thi Thiết nói: Thế nào là phương tiện nơi chánh thọ của xứ không? Thế nào là phương tiện thành nơi chánh thọ của xứ không? Chánh thọ của xứ không này là thời gian mới bắt đầu thực hành. Hoặc ở trên đỉnh núi, hoặc ở trên gác cao, hoặc ở trên đài cao, nghĩa là xứ rất cao của đất này không nghĩ đến. Hành giả kia đối với xứ rất cao của đất này cũng không nghĩ đến. Hành giả chỉ nghĩ đến không, ý hiểu rõ là không. Hành giả kia quán là không, phân biệt là không. Vì từ không, nên thành tựu chánh thọ này. Do thành tựu định ấy, nên nói là xứ không.

Hoặc nói: Pháp này nên như thế. Vì địa kia bắt đầu không có sắc, nên địa ấy gọi là xứ không.

Hoặc cho: Vì lìa sắc nên nói là xứ không. Hành giả kia đối với sắc của địa dưới, duyên nơi sắc xong, trừ bỏ dục của cõi dục, cho đến thiền thứ ba. Hành giả kia đối với trên thiền thứ tư lại không có sắc nào để có thể duyên. Khi trừ bỏ dục của thiền thứ tư, bấy giờ hành giả kia sinh khởi tưởng không. Như người vin lấy cành cây, đến mục tiêu cuối cùng của cây là ở phía trên cành. Trên cành ấy lại không có cành nào nữa để có thể duyên vịn lấy. Lúc đó, liền khởi tưởng không. Như thế, hành giả đối với sắc của địa dưới, duyên nơi sắc, trừ bỏ dục của cõi dục cho đến thiền thứ ba. Trên thiền thứ tư lại không có sắc có thể duyên, nên lúc trừ bỏ dục của thiền thứ tư, ngay lúc ấy liền khởi tưởng không. Vì lìa sắc nên nói là xứ không.

Hoặc nêu: Do từ xứ không khởi tưởng tương tợ.

Có thuyết nói: Có một Tỳ-kheo được chánh thọ của xứ không. Tỳ-kheo ấy từ định khởi, đưa tay sờ chạm chiếc giường. Người đồng học hỏi: Ông tìm kiếm cái gì?

Tỳ-kheo đáp: Tôi tự tìm chính mình.

Người đồng học nói: Ông đang ở trên giường lại còn tìm gì nữa? Nghĩa là từ định khởi tưởng tương tợ là nói vô lượng xứ không.

Vô lượng không là vô lượng xứ không thành tựu đầy đủ: Nghĩa là bốn ấm thiện của địa xứ không kia đều được thành tựu. Thế nên nói vô lượng xứ không thành tựu đầy đủ.

Lại nữa, Tỳ-kheo vượt qua tất cả vô lượng xứ không, vô lượng xứ thức thành tựu đầy đủ.

Hỏi: Vì sao nói là xứ thức? Vì tánh hay là vì duyên? Nếu vì tánh, tức nên có tánh của bốn ấm. Nếu vì duyên, tức nên duyên nơi bốn đế.

Đáp: Vô lượng xứ thức cũng không phải do tánh, cũng không phải do duyên, chỉ vì do phương tiện (gia hạnh) nên nói là vô lượng xứ thức. Như Luận Thi Thiết đã nói: Thế nào là phương tiện nơi chánh thọ của vô lượng xứ thức? Thế nào là siêng năng tinh tấn thành tựu chánh thọ của vô lượng xứ thức? Là thời gian mới bắt đầu thực hành, quán tưởng nhãn thức tịnh. Quán tưởng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức tịnh. Quán ngọn lửa của đống lửa lớn tịnh. Quán đèn sáng tịnh. Hành giả kia suy nghĩ là thức, ý hiểu rõ là thức, quán là thức, phân biệt là thức. Vì là từ thức, nên thành tựu chánh thọ này. Do thành tựu định ấy, nên gọi là vô lượng xứ thức.

Hoặc nói: Vì tưởng tương tợ của hành giả kia, nên từ định này khởi, phát sinh thức vui thích, hài lòng, thế nên nói là vô lượng xứ thức.

Vô lượng xứ thức thành tựu đầy đủ: Là bốn ấm thiện của vô lượng xứ thức, đều đạt thành tựu. Thế nên nói là vô lượng xứ thức thành tựu đầy đủ.

Lại nữa, Tỳ-kheo vượt qua tất cả vô lượng xứ thức, xứ vô sở hữu thành tựu đầy đủ.

Hỏi: Trong kia không có những gì?

Đáp: Có sở hữu là vô lượng hành. Trong kia không có vô lượng hành này, thế nên nói là xứ vô sở hữu.

Tôn giả Bà-tu-mật nói: Hành giả kia không có ngã, chấp ngã nên gọi là xứ vô sở hữu.

Hỏi: Như nơi tất cả địa, không có ngã, chấp ngã, vì sao xứ vô sở hữu nói là không có ngã, chấp ngã?

Đáp: Nơi tất cả địa đều chấp ngã ý không có, chỉ như một ít dục xâu kết, ràng buộc, như xứ vô sở hữu. Vì thế nên nói xứ vô sở hữu không có ngã, chấp ngã.

Lại nói: Trong xứ vô sở hữu kia không có thường, chấp thường và thường trụ, thế nên nói là xứ vô sở hữu.

Lại cho: Trong xứ vô sở hữu kia không có xứ vướng mắc, không có xứ nương dựa, không có xứ quy hướng, thế nên nói là xứ vô sở hữu.

Thành tựu đầy đủ: Trong đây nói là bốn ấm thiện của xứ vô sở hữu đều được thành tựu. Thế nên nói là thành tựu đầy đủ.

Lại nữa, Tỳ-kheo vượt qua tất cả xứ vô sở hữu, xứ phi tưởng phi bất tưởng, thành tựu đầy đủ.

Hỏi: Vì sao nói là xứ phi tưởng phi bất tưởng?

Đáp: Vì nơi xứ ấy tưởng không nhất định, phi tưởng cũng không nhất định.

Tưởng không nhất định: Là như tưởng trong chánh thọ của bảy tưởng là định, nhưng ở đây thì không như vậy.

Phi tưởng cũng không nhất định: Là như định vô tưởng, định diệt tận, nhưng ở đây cũng không như thế.

Hỏi: Nếu không như vậy thì sự việc ấy là thế nào?

Đáp: Vì nơi xứ ấy là chậm chạp, không nhạy bén, không nhanh chóng, không quyết đoán rõ ràng. Thế nên nói là xứ phi tưởng phi bất tưởng.

Thành tựu đầy đủ: Trong đây là nói bốn ấm thiện của xứ phi tưởng phi bất tưởng đều được thành tựu. Thế nên nói là thành tựu đầy đủ.

Hỏi: Vì sao nơi một cõi kia, hoặc thọ mạng tăng gấp hai lần, hoặc không tăng. Như xứ không thọ mạng là hai vạn kiếp, xứ thức thọ mạng là bốn vạn kiếp. Vì sao xứ vô sở hữu không nói thọ mạng là tám vạn kiếp? Vì sao xứ phi tưởng phi bất tưởng nói thọ mạng là mười sáu vạn kiếp?

Đáp: Vì nhân báo của các xứ ấy có giới hạn. Nghĩa là giới hạn của nhân như thế nào thì báo cũng như thế.

Hoặc nói: Xứ không có vô lượng hành, hoặc không là vô lượng hành. Vô lượng hành: Là thọ nhận thọ mạng vạn kiếp. Không là vô lượng hành: Cũng thọ nhận thọ mạng vạn kiếp. Thế nên xứ không kia thọ nhận thọ mạng là hai vạn kiếp. Xứ thức cũng có vô lượng hành, hoặc không là vô lượng hành. Vô lượng hành: Là thọ nhận thọ mạng hai vạn kiếp. Không là vô lượng hành: Cũng thọ nhận thọ mạng hai vạn kiếp. Thế nên xứ thức kia thọ nhận thọ mạng là bốn vạn kiếp. Vì trên xứ thức không có vô lượng hành, tức phần thọ mạng của vô lượng hành kia đã đoạn dứt nên nói như thế.

Hoặc cho: Trong xứ không có chỉ, có quán. Chỉ: Là thọ nhận thọ mạng vạn kiếp. Quán cũng như vậy. Thế nên xứ không kia thọ nhận thọ mạng hai vạn kiếp. Xứ thức cũng có chỉ, có quán. Chỉ: Là thọ nhận thọ mạng hai vạn kiếp. Quán cũng thọ nhận thọ mạng hai vạn kiếp. Thế nên xứ thức kia thọ nhận thọ mạng là bốn vạn kiếp. Vì chỉ quán của xứ thức mỏng dần, tức phần quán bị đoạn dứt nên nói như vậy.

Hoặc nêu: Tánh của tất cả địa kia là thọ mạng hai vạn kiếp: Tánh của xứ không là thọ mạng hai vạn kiếp. Tánh của xứ thức cũng như vậy, do vượt qua một địa, nên được hai lần hai vạn kiếp thọ mạng. Vì thế xứ thức thọ nhận thọ mạng là bốn vạn kiếp.

Tánh của xứ vô sở hữu cũng là hai vạn kiếp thọ mạng, do vượt qua hai địa, nên lại thọ nhận thọ mạng là bốn vạn kiếp. Do đấy xứ vô sở hữu thọ nhận thọ mạng là sáu vạn kiếp.

Tánh của xứ phi tưởng phi bất tưởng cũng là hai vạn kiếp, do vượt qua ba địa, nên lại thọ nhận thọ mạng là sáu vạn kiếp. Vậy nên xứ phi tưởng phi bất tưởng thọ nhận thọ mạng là tám vạn kiếp.

Thế nên nói nơi một cõi kia, hoặc thọ mạng tăng gấp hai lần, hoặc không tăng.

Có thuyết nói: Cõi dục và xứ phi tưởng phi bất tưởng không có Thánh đạo (đạo vô lậu).

Hỏi: Vì sao cõi dục và xứ phi tưởng phi bất tưởng không có Thánh đạo?

Đáp: Vì nơi các cõi ấy không phải là ruộng, không phải là đất, không phải là vật chứa đựng, nên nói như thế.

Hoặc cho: Ở đây nói hai biên: (1) Biên cõi dục. (2) Biên xứ phi tưởng phi bất tưởng. Vì Thánh đạo đoạn trừ hai biên, nên trong hai cõi kia không có Thánh đạo.

Hoặc nêu: Ở đây nói cõi và xứ kia là gốc của hữu. Một cõi dục là gốc của hữu. Hai là xứ phi tưởng phi bất tưởng là gốc của hữu. Còn Thánh đạo kia đã trừ bỏ hai gốc của hữu, nên nơi hai cõi kia không có Thánh đạo.

Hoặc nói: Vì cõi dục này không phải là cõi định, không phải là địa tư duy (tu), không phải là địa trừ bỏ dục. Xứ phi tưởng phi bất tưởng thì chậm chạp, không nhạy bén, không nhanh chóng, không quyết đoán nhất định. Còn Thánh đạo là quyết định, là tư duy, có thể trừ bỏ dục, không chậm, rất nhạy bén, nhanh chóng. Vì vậy nên nói như thế.

Hoặc cho: Vì cõi dục này là tăng trạo cử. Xứ phi tưởng phi bất tưởng thì chỉ tăng thượng. Còn Thánh đạo là chỉ, quán. Do đấy nên cõi dục và xứ phi tưởng phi bất tưởng không có Thánh đạo.

Nói rộng về Xứ bốn vô sắc xong.

*

Phần thứ 36: XỨ TÁM GIẢI THOÁT

Tám giải thoát: Là sắc quán sắc, là giải thoát thứ nhất.

Trong không có tưởng sắc, quán sắc ngoài, là giải thoát thứ hai.

Tịnh giải thoát, thân tác chứng, thành tựu đầy đủ là giải thoát thứ ba.

Lại nữa, Tỳ-kheo vượt qua tất cả tưởng sắc, diệt tưởng có đối, không nghĩ đến các tưởng khác, vô lượng không, là vô lượng xứ không, thành tựu đầy đủ, là giải thoát thứ tư.

Lại nữa, Tỳ-kheo vượt qua tất cả vô lượng xứ không, vô lượng thức là vô lượng xứ thức, thành tựu đầy đủ là giải thoát thứ năm.

Lại nữa, Tỳ-kheo vượt qua tất cả vô lượng xứ thức, xứ vô sở hữu, thành tựu đầy đủ là giải thoát thứ sáu.

Lại nữa, Tỳ-kheo vượt qua tất cả xứ vô sở hữu, xứ phi tưởng phi bất tưởng, thành tựu đầy đủ là giải thoát thứ bảy.

Lại nữa, Tỳ-kheo vượt qua tất cả xứ phi tưởng phi bất tưởng, nhập chánh thọ tưởng diệt, thân tác chứng, thành tựu đầy đủ là giải thoát thứ tám.

Hỏi: Tám giải thoát có tánh gì?

Đáp: Ba giải thoát đầu có tánh là căn thiện không tham. Vô lượng xứ không, vô lượng xứ thức, xứ vô sở hữu, xứ phi tưởng phi bất tưởng đều có tánh là bốn ấm. Giải thoát của tưởng diệt có tánh là hành ấm bất tương ưng.

Về cõi: Ba giải thoát đầu thuộc cõi dục, cũng thuộc cõi sắc. Giải thoát của vô lượng xứ không, giải thoát của vô lượng xứ thức và giải thoát của xứ vô sở hữu hoặc thuộc cõi vô sắc, hoặc không hệ thuộc. Giải thoát của xứ phi tưởng phi bất tưởng và giải thoát của tưởng diệt thuộc cõi vô sắc.

Về địa: Hai giải thoát đầu là địa thiền thứ nhất, địa thiền thứ hai. Tịnh giải thoát là địa bốn thiền căn bản. Giải thoát của vô lượng xứ không tức địa xứ không. Giải thoát của vô lượng xứ thức là địa vô lượng xứ thức. Giải thoát của xứ vô sở hữu tức địa xứ vô sở hữu. Giải thoát của xứ phi tưởng phi bất tưởng và giải thoát của tưởng diệt là địa xứ phi tưởng phi bất tưởng.

Về chỗ dựa: Ba giải thoát đầu đều dựa vào cõi dục. Giải thoát của vô lượng xứ không cho đến giải thoát của xứ phi tưởng phi bất tưởng đều nương dựa vào ba cõi. Giải thoát của tưởng diệt dựa vào cõi dục, cõi sắc.

Về hành: Hai giải thoát đầu là hành bất tịnh. Tịnh giải thoát là hành tịnh: Giải thoát của vô lượng xứ không, giải thoát của vô lượng xứ thức, giải thoát của xứ vô sở hữu hoặc là mười sáu hành, hoặc lìa mười sáu hành. Giải thoát của xứ phi tưởng phi bất tưởng và tưởng diệt là lìa hành.

Về duyên: Ba giải thoát đầu là duyên nơi sắc ấm. Giải thoát của xứ không cho đến giải thoát của xứ phi tưởng phi bất tưởng là duyên nơi bốn đế. Giải thoát của tưởng diệt thì không duyên.

Về ý chỉ (Niệm xứ): Ba giải thoát đầu là thân ý chỉ. Giải thoát của xứ không cho đến giải thoát của xứ phi tưởng phi bất tưởng là ba ý chỉ. Giải thoát của tưởng diệt là pháp ý chỉ.

Về trí: Ba giải thoát đầu tuy tánh không phải là trí, nhưng cùng với đẳng trí tương ưng. Giải thoát của xứ không cho đến giải thoát của xứ vô sở hữu hoặc là sáu trí, hoặc không phải. Giải thoát của xứ phi tưởng phi bất tưởng là một đẳng trí. Giải thoát của tưởng diệt không phải là trí.

Về định: Ba giải thoát đầu tánh không phải là định, cũng không phải tương ưng với định. Giải thoát của xứ không cho đến giải thoát của xứ vô sở hữu hoặc là định, hoặc là lìa định. Giải thoát của xứ phi tưởng phi bất tưởng và giải thoát của tưởng diệt không phải là định.

Về thống (Thọ): Hai giải thoát đầu tương ưng với hai căn là hỷ căn, xả căn. Tịnh giải thoát cho đến giải thoát của xứ phi tưởng phi bất tưởng tương ưng với một xả căn. Giải thoát của tưởng diệt không cùng với các thọ căn tương ưng.

Hỏi: Tám giải thoát này: Nên nói là quá khứ, nên nói là vị lai, hay nên nói là hiện tại?

Đáp: Nên nói là quá khứ, nên nói là vị lai, nên nói là hiện tại.

Hỏi: Nên nói là duyên nơi quá khứ, nên nói là duyên nơi vị lai, nên nói là duyên nơi hiện tại, hay nên nói là không duyên nơi đời?

Đáp: Bảy giải thoát nên nói là duyên nơi quá khứ, nên nói là duyên nơi vị lai, nên nói là duyên nơi hiện tại, nên nói là không duyên nơi ba đời. Giải thoát của tưởng diệt nên nói là không duyên.

Hỏi: Nên nói là duyên nơi ý mình, nên nói là duyên nơi ý người khác, hay nên nói là không duyên nơi ý?

Đáp: Bảy giải thoát nên nói là duyên nơi ý mình, nên nói là duyên nơi ý người khác, nên nói là không duyên nơi ý. Giải thoát của tưởng diệt nên nói là không duyên.

Hỏi: Nên nói là duyên nơi danh hay nên nói là duyên nơi nghĩa?

Đáp: Bảy giải thoát nên nói là duyên nơi danh, nên nói là duyên nơi nghĩa. Giải thoát của tưởng diệt nên nói là không duyên.

Đây là tánh giải thoát, là thể tướng hiện có nơi thân.

Đã nói về tánh, tiếp theo là nói về hành.

Hỏi: Vì sao gọi là giải thoát? Giải thoát có nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa buông bỏ tất cả là nghĩa giải thoát.

Hỏi: Nếu buông bỏ tất cả là nghĩa giải thoát thì giải thoát những gì? Đối với sự việc nào là không buông bỏ?

Đáp: Hai giải thoát đầu là buông bỏ về tâm tham sắc. Giải thoát thứ ba là buông bỏ tâm quán bất tịnh. Giải thoát của xứ không cho đến giải thoát của xứ phi tưởng phi bất tưởng là buông bỏ tâm nơi địa dưới. Giải thoát của tưởng diệt có hai sự buông bỏ: (1) Tâm vĩnh viễn diệt. (2) Hoàn toàn buông bỏ. Tâm vĩnh viễn diệt: Là đoạn dứt tất cả tâm. Hoàn toàn buông bỏ: Là buông bỏ tất cả sự nối tiếp của cộng duyên.

Hỏi: Như nói: Trong không có tưởng sắc, quán sắc ngoài: Nếu khi trong không có tưởng sắc tức quán sắc ngoài, hay vì quán sắc ngoài, không phải là trong không có tưởng sắc?

Nếu khi trong không có tưởng sắc tức quán sắc ngoài, thì sao trong một lúc có hai thứ tâm? Nếu cùng một lúc có hai thứ tâm thì sao không là phá bỏ tâm? Nếu đã phá bỏ tâm thì sao không thể có vô lượng tâm?

Nếu vì quán sắc ngoài, không phải là trong không có tưởng sắc, thì như nơi Khế kinh này nói làm sao thông? Như trong kinh này nói: Trong không có tưởng sắc, quán sắc ngoài.

Đáp: Lúc quán sắc ngoài bên trong không có tưởng không sắc.

Hỏi: Nếu quán sắc ngoài bên trong không có tưởng không sắc, thì như nơi Khế kinh này nói làm sao thông? Như nói: Trong không có tưởng sắc, quán sắc ngoài.

Đáp: Khế kinh này nói về căn thiện và phương tiện của căn thiện. Nếu nói trong không có tưởng sắc: Là nói về phương tiện của căn thiện kia. Quán sắc ngoài: Đây là nói về căn thiện căn bản.

Hoặc nói: Ở đây là nói so sánh, phân biệt với trước. Hành giả kia so sánh phân biệt với trước xong, như trong tôi không có tưởng sắc, nên quán sắc ngoài, vì thế nói trong không có tưởng sắc, quán sắc ngoài.

Hỏi: Tưởng bất tịnh của hành giả kia đã hết, là cảnh giới sắc nhập của cõi dục hay là không phải? Nếu tưởng bất tịnh của hành giả kia đã hết, là cảnh giới sắc nhập của cõi dục, thì như nơi Khế kinh nói về Tôn giả A-na-luật, làm sao thông hợp? Như nói: Tôn giả A-na-luật đang ngụ trong vùng rừng núi. Bấy giờ, có bốn thiên nữ hóa các sắc thượng diệu xong, đi đến chỗ Tôn giả A-na-luật, lễ nơi chân Tôn giả rồi đứng qua một bên, thưa: Thưa Tôn giả A-naluật! Bốn thiên nữ chúng tôi đối với bốn sự việc đều được tự tại. Bốn sự việc ấy là sắc trời, y phục trời, trang sức trời, nhạc trời. Thưa Tôn giả! Bốn thiên nữ chúng tôi tùy theo ý muốn tức có thể hóa hiện bốn sự việc của trời, năm thứ dục v.v… của trời, để cùng chung vui với Tôn giả.

Tôn giả A-na-luật suy nghĩ: Ta nay nên có thể ở địa thiền thứ tư, tưởng bất tịnh hiện ở trước xong nên quán bất tịnh. Tôn giả A-na-luật suy nghĩ như thế xong, tưởng bất tịnh của địa thiền thứ tư liền hiện ở trước, bèn quán bất tịnh đối với bốn thiên nữ. Cuối cùng đối với bất tịnh không thể hiện khởi được.

Tôn giả A-na-luật nói với bốn thiên nữ: Các cô đều nên tạo ra màu xanh.

Bốn thiên nữ đáp: Xin vâng.

Tôn giả A-na-luật suy nghĩ: Màu này rất đẹp. Nếu các thiên nữ kia đều đồng một màu, thì đối với quán bất tịnh có thể hiện khởi.

Bấy giờ, bốn thiên nữ nghe theo lời Tôn giả A-na-luật đều hóa toàn màu xanh, cùng đến trước Tôn giả ca múa, vui cười, nhưng đối với quán bất tịnh, Tôn giả cũng không thể hiện khởi.

Tôn giả A-na-luật lại nói: Các cô đều nên tạo ra màu vàng, màu đỏ.

Bốn thiên nữ đáp: Xin vâng.

Tôn giả A-na-luật suy nghĩ: Khi quán duyên hành, hoặc từ quán bất tịnh có thể hiện khởi.

Lúc này, bốn thiên nữ nghe theo lời Tôn giả A-na-luật đều hóa ra màu vàng, đều hóa ra màu đỏ, cùng đến trước Tôn giả ca múa, vui cười, nhưng đối với quán bất tịnh, Tôn giả cũng không thể hiện khởi.

Tôn giả A-na-luật lại bảo: Các cô đều nên hóa ra màu trắng.

Bốn thiên nữ đáp: Xin vâng.

Tôn giả A-na-luật suy nghĩ: Màu trắng này khi quán bất tịnh là rất thuận hợp. Nếu tạo thành màu trắng thì đối với quán bất tịnh có thể hiện khởi.

Khi ấy, bốn thiên nữ nghe theo lời Tôn giả A-na-luật đều hóa ra màu trắng, cùng đến trước Tôn giả ca múa, vui cười, nhưng đối với quán bất tịnh, Tôn giả cũng không thể hiện khởi.

Tôn giả suy niệm: Sắc của bốn thiên nữ này thật là khác thường. Suy nghĩ xong, liền thâu giữ các căn.

Nếu tưởng bất tịnh của hành giả kia đã hết, là cảnh giới sắc nhập của cõi dục, thì như nơi Khế kinh này nói làm sao giải thích?

Đáp: Tôn giả A-na-luật tuy đối với tưởng bất tịnh không thể hiện khởi, nhưng chư vị lợi căn đối với quán bất tịnh có thể hiện khởi được, như Đức Phật, Phật-bích-chi và Thanh văn đạt Ba-la-mật.

Hỏi: Đối với thân Phật có thể khởi quán bất tịnh hay là không thể?

Đáp: Thân Phật là rất tốt đẹp, rất vi diệu. Các người đã đạt được tưởng bất tịnh đến quán bất tịnh nơi thân Phật, cuối cùng không thể quán bất tịnh đối với ngón chân của Phật, huống chi là đối với sắc thân thượng diệu của Đức Phật lại có thể khởi quán bất tịnh? Chỉ có Đức Phật quán Đức Phật mới có thể khởi được tưởng bất tịnh.

Lại có thuyết cho: Tưởng bất tịnh có hai thứ: (1) Quán tướng riêng. (2) Quán tướng chung. Quán tướng riêng: Thì hoàn toàn không thể khởi tưởng bất tịnh đối với thân Phật. Quán tưởng chung: Hoặc có thể đối với thân Phật khởi tưởng bất tịnh.

Lại, tưởng bất tịnh có hai thứ: (1) Sắc hoại. (2) Duyên hành. Tưởng bất tịnh của sắc hoại: Là hoàn toàn không thể đối với thân Phật khởi tưởng bất tịnh. Tưởng bất tịnh của duyên hành: Hoặc có thể đối với thân Phật khởi tưởng bất tịnh.

Hỏi: Tịnh giải thoát là có sắc nên quán sắc hay là vì trong không có tưởng sắc, quán sắc ngoài?

Nếu là có sắc nên quán sắc, thì giải thoát thứ nhất và giải thoát thứ ba này có khác biệt gì?

Nếu là trong không có tưởng sắc, quán sắc ngoài, thì giải thoát thứ hai và giải thoát thứ ba này đâu có khác biệt?

Đáp: Tịnh giải thoát là trong không có tưởng sắc, quán sắc ngoài.

Hỏi: Nếu tịnh giải thoát là trong không có tưởng sắc, quán sắc ngoài, thì giải thoát thứ hai và giải thoát thứ ba đâu có khác biệt?

Đáp: Về tên gọi tức khác biệt: Đây là giải thoát thứ hai. Đây là giải thoát thứ ba.

Về địa cũng có khác biệt: Giải thoát thứ hai là địa thiền thứ nhất, thiền thứ hai. Tịnh giải thoát là địa bốn thiền căn bản.

Trừ bệnh cũng có khác biệt: Giải thoát thứ hai là trừ dục cõi sắc. Tịnh giải thoát là trừ bất tịnh.

Hoặc nói: Giải thoát thứ hai duyên nơi quán bất tịnh, không khởi kiết. Tịnh giải thoát là duyên nơi quán tịnh, cũng không khởi kiết. Duyên nơi quán bất tịnh, không khởi kiết: Điều này không là lạ. Duyên nơi quán tịnh không khởi kiết, điều này mới là lạ. Đó gọi là khác biệt của giải thoát thứ hai và giải thoát thứ ba.

Hỏi: Ở đây nói tịnh giải thoát rất vi diệu, duyên cũng rất vi diệu. Vậy vì sao nói tịnh giải thoát là rất vi diệu, duyên cũng rất vi diệu?

Đáp: Vì tịnh giải thoát này không phải là người thường có thể đạt được. Chỉ những người từ cõi trời Diệu thắng giải lạc tịnh qua đời rồi sinh xuống làm người mới có thể khởi tu.

Như nói: Có vị Tỳ-kheo lạ đi đến chỗ Đức Thế Tôn. Đến rồi, lễ nơi chân Thế Tôn, lui ra ngồi qua một bên. Đức Thế Tôn vì Tỳ-kheo ấy giảng nói pháp vi diệu, khuyên tinh tấn, cùng khuyên tinh tấn, dùng vô lượng phương tiện, cùng khuyên tinh tấn xong thì yên lặng.

Khi ấy, Tỳ-kheo nghe Đức Thế Tôn giảng nói pháp, tâm rất hoan hỷ, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, trịch vai bên phải, chắp tay hướng về Đức Thế Tôn, thưa: Kính mong Đức Thế Tôn ban cho con một căn phòng sạch đẹp.

Lúc đó, Tôn giả A-nan ở phía sau Đức Thế Tôn, tay cầm phất trần quạt hầu. Đức Thế Tôn quay lại bảo A-nan: Ông hãy vì Tỳ-kheo khách này dọn một phòng để khách nghỉ qua đêm.

Vâng lời Đức Thế Tôn, Tôn giả A-nan dọn một phòng cho vị Tỳ-kheo ấy. Tỳ-kheo khách nói với Tôn giả A-nan: Tôn giả A-nan hãy vì tôi cho người quét dọn, rửa ráy phòng này cho thật sạch, trừ bỏ các thứ uế tạp, treo dải lụa nhiều màu cùng phướn, lọng, đốt các thứ hương, rải các thứ hoa, đặt một chiếc giường rộng, trải nệm mềm êm.

Tôn giả A-nan nghe Tỳ-kheo khách căn dặn xong liền đến thưa lại mọi sự việc với Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn nói: Này A-nan! Ông nên nhanh chóng vì Tỳ-kheo khách kia tạo đầy đủ các thứ y như lời ông ta đã nói.

Tôn giả A-nan thường được vua Ba-tư-nặc thỉnh cúng dường. Giờ đây, vâng lời Đức Thế Tôn, Tôn giả A-nan liền đi đến cung vua Ba-tư-nặc để mượn các thứ dụng cụ về trang trí đầy đủ tiện nghi như đã kể trên. Xong rồi, trở lại phòng mình nghỉ ngơi.

Bấy giờ, vị Tỳ-kheo khách kia ở trong phòng, ngay đêm đó phát khởi tịnh giải thoát, tác chứng ba minh, đạt được sáu thần thông, hành thuận nghịch đối với tám giải thoát, từ sớm đã dùng thần túc bay lên không mà đi. Trời vừa sáng, Tôn giả A-nan liền lại phòng ấy xem thì thấy căn phòng trống vắng, không thấy Tỳ-kheo khách đâu cả.

Tôn giả A-nan bèn đi đến chỗ Đức Thế Tôn, thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Tối hôm qua, vị Tỳ-kheo khách đã được con cho người trang hoàng căn phòng đầy đủ như thế, sáng nay đã bỏ đi rất sớm.

Đức Thế Tôn bảo: A-nan! Ông chớ hiểu lầm Tỳ-kheo khách kia. Vì sao? Này A-nan! Tỳ-kheo kia ở trong phòng ấy, tức ngay đêm rồi, đã phát khởi tịnh giải thoát, tác chứng ba minh, đạt được sáu thần thông, hành thuận nghịch đối với tám giải thoát xong, sáng sớm dùng thần túc bay lên hư không mà đi.

Này A-nan! Tỳ-kheo khách kia là người từ cõi trời Diệu thắng giải lạc tịnh qua đời rồi sinh làm người ở đây. Nếu hôm qua chúng ta không cung cấp đầy đủ các thứ cần thiết cho Tỳ-kheo kia, thì vị ấy rốt cuộc không thể phát khởi công đức như vậy. Do đấy nên biết pháp giải thoát ấy không phải người thường có thể đạt được.

Thế nên nói tịnh giải thoát là rất vi diệu, duyên cũng rất vi diệu.

Hỏi: Như hai chánh thọ này: Chánh thọ (Định) vô tưởng cùng chánh thọ tưởng diệt, cả hai đều không có tâm, vì sao chánh thọ tưởng diệt lập làm giải thoát, còn chánh thọ vô tưởng thì không lập?

Đáp: Vì mạnh mẽ siêng gắng thực hành, tạo nhiều phương tiện, nên chánh thọ tưởng diệt được lập làm giải thoát. Còn do không mạnh mẽ siêng gắng thực hành, không tạo nhiều phương tiện, nên chánh thọ vô tưởng không được lập làm giải thoát.

Hoặc nói: Vì chưa từng hành, chưa từng được, chưa từng chuyển, nên chánh thọ tưởng diệt được lập làm giải thoát. Do đã từng hành, từng được, từng chuyển, nên chánh thọ vô tưởng không được lập làm giải thoát.

Hoặc cho: Vì không chung, nên chánh thọ tưởng diệt được lập làm giải thoát. Vì là chung, nên chánh thọ vô tưởng không được lập làm giải thoát.

Hoặc nêu: Vì pháp này có thể đạt được, không phải là người ngoài, nên chánh thọ tưởng diệt được lập làm giải thoát. Do pháp này và người ngoài có thể đạt được, nên chánh thọ vô tưởng không được lập làm giải thoát.

Hỏi: Làm sao nhận biết chánh thọ vô tưởng là pháp có thể đạt được?

Đáp: Vì có chứng cứ. Như nói: Được chánh thọ vô tưởng, hành giả kia từ trong định khởi, dừng bỏ mọi sự lui tới, mang y, cầm bát, ngọa cụ, nói năng dịu dàng, hòa nhã, ăn uống thong thả. Có Tỳ-kheo trưởng lão đạt được quán diệu trí, quán xong, khởi suy nghĩ: Tỳ-kheo kia là người rất tốt đẹp, đầy đủ oai nghi phép tắc, ta nên quán xem Tỳ-kheo ấy đạt được công đức gì? Tỳ-kheo trưởng lão quán biết chính là phàm phu, chỉ được chánh thọ vô tưởng. Nhận biết rồi, nên từ tam muội khởi, gọi Tỳ-kheo nọ đến bảo: Ông không phải là người tốt đẹp, vì đã lìa bỏ các căn thiện vi diệu trong pháp Phật để đồng hành với hàng dị học, đâu dùng để làm gì? Ông nên nhanh chóng dứt bỏ. Lúc này, Tỳ-kheo kia tìm kiếm nhiều phương tiện, muốn bỏ tâm trước đó, rốt cuộc không thể bỏ.

Có thuyết nói: Tỳ-kheo kia cho đến thoái chuyển trở về nhà, nhưng vẫn không thể lìa tâm cũ. Tỳ-kheo ấy sau khi mạng chung đã sinh nơi trời Vô tưởng.

Do đấy nên biết chánh thọ vô tưởng là pháp có thể đạt được.

Hoặc nói: Do Thánh nhân có thể đạt được, không phải là phàm phu, nên chánh thọ tưởng diệt được lập làm giải thoát. Do hoàn toàn là phàm phu có thể đạt được, không phải là Thánh nhân, nên chánh thọ vô tưởng không lập làm giải thoát.

Hoặc cho: Vấn đề này như trước đã nói: Do hai sự việc nên gọi là giải thoát: (1) Buông bỏ mọi sự nối tiếp của duyên chung. Tâm đều được đoạn dứt. Chánh thọ vô tưởng kia không thể buông bỏ tất cả sự nối tiếp của duyên chung, cũng không thể đoạn dứt hết tâm. Thế nên chánh thọ tưởng diệt được lập làm giải thoát, còn chánh thọ vô tưởng không lập làm giải thoát.

Hỏi: Vì sao định vô sắc lập đầy đủ làm giải thoát, còn thiền không lập đầy đủ làm giải thoát?

Đáp: Vì thiền này là thô, có thể trông thấy, thế nên không lập đầy đủ làm giải thoát. Định vô sắc rất vi tế, không thể trông thấy, thế nên lập đầy đủ làm giải thoát.

Hoặc nói: Thiền có vô số thứ, không phải một tướng, không giống nhau, thế nên không lập đầy đủ làm giải thoát. Định vô sắc không phải là vô số thứ, không phải là không một tướng, không phải là không giống nhau, thế nên lập đầy đủ làm giải thoát.

Hoặc cho: Vì thiền có nhiều công đức, có nhiều pháp diệu, thế nên không lập đầy đủ làm giải thoát. Định vô sắc vì không có nhiều công đức, không có nhiều pháp diệu, thế nên lập đầy đủ làm giải thoát.

Hoặc nêu: Thiền được trang nghiêm do vô số căn thiện, thế nên không lập đầy đủ làm giải thoát. Định vô sắc không có vô số căn thiện để trang nghiêm, thế nên lập đầy đủ làm giải thoát.

Hoặc nói: Vì thiền giải thoát hoàn toàn là hữu lậu, thế nên không lập đầy đủ làm giải thoát. Còn giải thoát của vô sắc thì có hữu lậu, vô lậu, thế nên lập đầy đủ làm giải thoát.

Hỏi: Vì sao giải thoát của thiền hoàn toàn là hữu lậu, còn giải thoát của vô sắc thì gồm có hữu lậu, vô lậu?

Đáp: Do giải thoát của thiền là tư duy đắc giải, còn giải thoát của vô sắc là tư duy chân thật. Thế nên giải thoát của thiền hoàn toàn là hữu lậu, còn giải thoát của vô sắc thì gồm có hữu lậu, vô lậu.

Hỏi: Vì sao nơi tám giải thoát, tịnh giải thoát, giải thoát tưởng diệt nói là thân tác chứng, còn các giải thoát khác thì không nói?

Đáp: Giải thoát khác cũng có nói. Như nơi Kinh Đại Nhân kia đã nói: Này Tôn giả A-nan! Như Tỳ-kheo đối với tám giải thoát, thân tác chứng, hành thuận nghịch, thành tựu đầy đủ. Do đấy nên có thể biết, các giải thoát khác cũng nói là thân tác chứng.

Hỏi: Một Khế kinh này nói thân tác chứng nơi tám giải thoát, vì sao Khế kinh khác chỉ nói thân tác chứng nơi hai giải thoát?

Đáp: Vì hai giải thoát này là mạnh mẽ, siêng năng thực hành, tạo nhiều phương tiện. Do đấy nên nói thân tác chứng nơi hai giải thoát.

Hoặc nói: Vì hai giải thoát này được nói là biên vực của cõi. Tịnh giải thoát là nói về biên vực của cõi sắc. Giải thoát của tưởng diệt là nói về biên vực của cõi vô sắc. Nên nêu bày như thế.

Hoặc cho: Vì hai giải thoát này được nói là biên vực của địa. Tịnh giải thoát là nói về biên vực của địa thiền thứ tư. Giải thoát của tưởng diệt là nói về biên vực của địa xứ phi tưởng phi bất tưởng.

Hoặc nêu: Tịnh giải thoát là duyên nơi quán tịnh, không khởi kiết, nên Đức Thế Tôn nói: Thân nên tác chứng. Giải thoát của tưởng diệt không phải là tâm pháp, tức do thân được sinh, không phải do tâm được sinh, là thân lực có thể đạt được, không phải là tâm lực có thể đạt được, nên Đức Thế Tôn nói: Thân nên tác chứng.

Hoặc nói: Nơi Kinh Đại Nhân, Đức Thế Tôn nói là thân tác chứng nơi tám giải thoát, tức thành tựu đầy đủ, do hai giải thoát ấy đều thành tựu đầy đủ. Vậy Đức Thế Tôn nói tịnh giải thoát, giải thoát của tưởng diệt có thân tác chứng.

Có thuyết nói: Khế kinh Phật này nói tám giải thoát là phương.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn nói tám giải thoát là phương?

Đáp: Vì để giáo hóa chúng sinh. Có người thọ nhận sự giáo hóa nên nghe tên phương liền được giải thoát. Thế nên Đức Thế Tôn vì giáo hóa các chúng sinh, nên nói tám giải thoát là phương.

Như thế kinh khác nói: Vì giáo hóa chúng sinh nên nói đế là phương. Như thế, Đức Thế Tôn nói tám giải thoát là phương.

Hoặc nói: Khế kinh này nói là có nhân, có duyên. Như nói: Vua Ba-tư-nặc bảo người chuyên bắt voi: Ông là người chuyên bắt voi, nên nhanh chóng bắt voi hoang kia rồi bẩm báo cho ta biết. Người bắt voi vâng lời vua, đến nơi chốn hoang dã bắt voi. Bắt được voi xong, ông ta trở lại tâu vua: Kính báo đại vương được biết, hạ thần đã bắt được voi, tùy đại vương phân xử.

Bấy giờ, vua bảo người quản tượng chuyên thuần luyện voi: Ông là người chuyên thuần luyện voi, nên nhanh chóng điều phục voi hoang này. Sau khi thuần luyện xong, hãy trở lại đây bẩm báo cho ta biết.

Người chuyên điều phục voi kia vâng lời vua, dẫn voi hoang về để chế ngự khiến thuần phục. Điều phục voi xong, người quản tượng trở lại trình tấu vua: Tâu đại vương! Theo lời đại vương sai bảo, hạ thần điều phục voi, nay đã làm xong phận sự, xin hồi báo đại vương biết.

Lúc ấy, nhà vua muốn thử nghiệm xem voi này đã được thuần luyện như thế nào, nên vua cưỡi voi ra khỏi thành. Voi ấy từ xa trông thấy bầy voi cái lớn, lập tức chạy về hướng đó. Viên quản tượng chuyên trị voi đã cố hết sức kìm giữ vẫn không được, tuy đã dùng móc sắt để móc vào thịt nhưng voi vẫn không hề hay biết.

Nhà vua giục viên quản tượng: Ông mau mau đưa voi này về, nếu không ta sẽ mất mạng. Người quản tượng thưa: Tâu đại vương! Hạ thần đã cố hết sức chế ngự nhưng không thể được. Thế là vua và người quản tượng đành chờ chết.

Duyên may đã đến khi voi chạy vào vùng rừng cây, bấy giờ, người quản tượng kia với tay vịn lấy cành cây trao cho vua. Nhân đấy vua và người chế ngự voi cùng nắm chặt lấy cành cây nhảy xuống đất. Thấy vậy, voi kia liền vụt chạy đến bầy đàn.

Như vậy là nhà vua cùng người quản tượng chuyên điều phục voi đều bị nhiều thương tích. Trở về cung, vua trách người quản tượng và theo pháp trị tội.

Người thuần luyện voi tâu: Con voi ấy thực sự là đã thuần. Xin đại vương cho chứng nghiệm.

Lúc này, chú voi hết cơn “tham dục” liền nhanh chóng theo đường về cung.

Người thuần luyện voi bèn dắt đến trước vua. Ông ta gắp một viên sắt cháy đỏ, bỏ trên đầu voi rồi bảo: Đây là biện pháp sau cùng để điều phục ngươi, phải gắng sức chịu đựng. Nếu không gắng chịu, ta tất phải dùng mọi cực hình dẫn dạy từ đầu để lần lượt dạy lại ngươi. Chú voi như nghe hiểu nên cố gắng đứng yên chịu đựng.

Khi ấy, viên sắt nóng đỏ đốt đỉnh đầu voi cháy như cây đuốc nhỏ. Vua thấy vậy cho là lạ và bảo ném viên sắt nóng kia xuống đất, rồi nói với người quản tượng: Chú voi này trước đây đã được thuần thục, cớ sao lại làm như thế?

Người quản tượng tâu vua: Thần chỉ có thể điều phục thân, nhưng không thể điều phục tâm.

Vua hỏi: Người nào có thể điều phục được tâm?

Người quản tượng tâu: Thưa có. Đó là Đức Phật, Thế Tôn, có thể điều phục được các bậnh về thân và tâm của chúng sinh.

Nhà vua rất vui mừng, bèn cùng người quản tượng cỡi voi đã được điều phục đi đến chỗ Đức Phật. Đến nơi, thấy Đức Thế Tôn đang giảng nói pháp cho hàng trăm ngàn người vây quanh. Vua đến lễ Phật rồi ngồi sang một bên. Đức Phật liền giảng nói cho vua nghe giáo pháp thâm diệu, không phải là đối tượng nhận biết của hàng Nhị thừa. Nhân đấy, Đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: Như pháp thuần luyện voi, ngay khi điều phục thì trong cả tám phương, chỉ nên hướng về một phương để dạy. Dẫn dạy bò, ngựa cũng như thế. Đấng Điều ngự vô thượng, khi giáo hóa các chúng sinh được hóa độ, đã nhanh chóng dựa vào tám phương để chỉ dạy các đệ tử.

Thế nên nơi Khế kinh Đức Phật nói tám giải thoát là phương.

Hỏi: Vì sao giải thoát nói là như phương?

Đáp: Vì đồng tám sự, nên gọi là phương. Giải thoát có tám, phương cũng có tám.

Hỏi: Như phương có mười, giải thoát có tám, vì sao nói là đồng tám sự nên gọi là phương?

Đáp: Như người điều phục voi kia có thể chế ngự tám phương, nhưng rốt cuộc không thể khiến đến phương trên, phương dưới. Thế nên vì đồng tám sự nên gọi làphương.

Hoặc cho: Như voi, nhân nơi phương nên hướng tới. Như thế, người thọ nhận Phật hóa độ theo nơi duyên nên giải thoát hiện ở trước.

Tôn giả Cù-sa nói: Giải thoát và phương có ba sự đồng, ba sự khác biệt.

Ba sự đồng: (1) Như voi không hướng đến phương, thì người không thể điều phục, chế ngự nó. Cũng vậy, Đức Thế Tôn không nhân nơi người được hóa độ, thì không thể khiến giải thoát hiện ở trước. (2) Như voi và người điều phục cùng hướng tới một phương, không hướng đến phương khác. Như thế, Đức Thế Tôn vì người thọ nhận sự hóa độ, nên khiến một giải thoát hiện ở trước, không phải là giải thoát khác. (3) Như voi và người điều phục cùng hướng tới một phương, xa lìa phương khác. Như thế, Đức Thế Tôn vì người thọ nhận sự hóa độ, nên khiến một giải thoát hiện ở trước, xa lìa giải thoát khác. Đây là nói về ba sự đồng.

Ba sự khác biệt: (1) Voi không hướng đến phương, thì người không thể điều phục. Đức Thế Tôn thì không như vậy, ngự ở một phương, vì người thọ nhận sự hóa độ, tuy họ ở xa, cũng có thể khiến cho giải thoát hiện ở trước. (2) Voi, người điều phục voi cùng hướng tới một phương, không hướng đến phương khác. Đức Thế Tôn thì không như vậy, vì tám người thọ nhận sự hóa độ, có thể khiến trong cùng một lúc, tám giải thoát hiện ở trước. (3) Voi, người điều phục voi cùng hướng tới một phương, xa lìa phương khác. Đức Thế Tôn thì không như vậy, vì người thọ nhận sự hóa độ, có thể khiến một giải thoát hiện ở trước, các giải thoát còn lại, do gần nên cũng được thành tựu. Đây là nói ba sự khác biệt.

Nói rộng về Xứ tám giải thoát xong.

*

Phần thứ 37: XỨ TÁM TRỪ NHẬP

Tám Trừ nhập (Tám Thắng xứ): Những gì là tám?

Tỳ-kheo này bên trong có tưởng sắc, quán ít sắc bên ngoài, hoặc đẹp hoặc xấu, sắc kia hoại đã nhận biết, đã thấy rõ, tạo tưởng như thế. Đây là trừ nhập thứ nhất.

Lại nữa, Tỳ-kheo này bên trong có tưởng sắc, quán vô lượng sắc bên ngoài, hoặc đẹp hoặc xấu, sắc kia hoại đã nhận biết, đã thấy rõ, tạo tưởng như thế. Đây là trừ nhập thứ hai.

Lại nữa, Tỳ-kheo này bên trong không có tưởng sắc, quán ít sắc bên ngoài, hoặc đẹp hoặc xấu, sắc kia hoại đã nhận biết, đã thấy rõ, tạo tưởng như thế. Đây là trừ nhập thứ ba.

Lại nữa, Tỳ-kheo này bên trong không có tưởng sắc, quán vô lượng sắc bên ngoài, hoặc đẹp hoặc xấu, sắc kia hoại đã nhận biết, đã thấy rõ, tạo tưởng như thế. Đây là trừ nhập thứ tư.

Lại nữa, Tỳ-kheo này bên trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài: sắc xanh là xanh, thấy màu xanh, ánh sáng xanh, vô lượng, vô lượng tịnh, ý ái, ý lạc, không chán. Như hoa sen xanh, sắc xanh là xanh, thấy màu xanh, ánh sáng xanh. Như áo được tạo thành ở Ba-la-nại, vò đập áo thật kỹ khiến vừa ý vui vẻ, sắc xanh là xanh, thấy màu xanh, ánh sáng xanh. Như thế, Tỳ-kheo này bên trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài, sắc xanh là xanh, thấy màu xanh, ánh sáng xanh, vô lượng, vô lượng tịnh, ý ái, ý lạc, không chán. Sắc kia hoại đã nhận biết, đã thấy rõ, tạo tưởng như thế. Đây là trừ nhập thứ năm.

Lại nữa, Tỳ-kheo này bên trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài: sắc vàng là vàng, thấy màu vàng, ánh sáng vàng, vô lượng, vô lượng tịnh, ý ái, ý lạc, không chán. Như hoa Ca-la-ni, sắc vàng là vàng, thấy màu vàng, ánh sáng vàng. Như áo được tạo thành ở Ba-la-nại, vò đập áo thật kỹ khiến vừa ý vui vẻ, sắc vàng là vàng, thấy màu vàng, ánh sáng vàng. Như thế, Tỳ-kheo này bên trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài, sắc vàng là vàng, thấy màu vàng, ánh sáng vàng, vô lượng, vô lượng tịnh, ý ái, ý lạc, không chán. Sắc kia hoại đã nhận biết, đã thấy rõ, tạo tưởng như thế. Đây là trừ nhập thứ sáu.

Lại nữa, Tỳ-kheo này bên trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài: sắc đỏ là đỏ, thấy màu đỏ, ánh sáng đỏ, vô lượng, vô lượng tịnh, ý ái, ý lạc, không chán. Như hoa Tần-đầu-ca-la, sắc đỏ là đỏ, thấy màu đỏ, ánh sáng đỏ. Như áo được tạo thành ở Ba-la-nại, vò đập áo thật kỹ khiến vừa ý vui vẻ, sắc đỏ là đỏ, thấy màu đỏ, ánh sáng đỏ. Như thế, Tỳ-kheo này bên trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài, sắc đỏ là đỏ, thấy màu đỏ, ánh sáng đỏ, vô lượng, vô lượng tịnh, ý ái, ý lạc, không chán. Sắc kia hoại đã nhận biết, đã thấy rõ, tạo tưởng như thế. Đây là trừ nhập thứ bảy.

Lại nữa, Tỳ-kheo này bên trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài: sắc trắng là trắng, thấy màu trắng, ánh sáng trắng, vô lượng, vô lượng tịnh, ý ái, ý lạc, không chán. Như ngôi sao sáng, sắc trắng là trắng, thấy màu trắng, ánh sáng trắng. Như áo được tạo thành ở Ba-la-nại, vò đập áo thật kỹ khiến vừa ý vui vẻ, sắc trắng là trắng, thấy màu trắng, ánh sáng trắng. Như thế, Tỳ-kheo này bên trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài, sắc trắng là trắng, thấy màu trắng, ánh sáng trắng, vô lượng, vô lượng tịnh, ý ái, ý lạc, không chán. Sắc kia hoại đã nhận biết, đã thấy rõ, tạo tưởng như thế. Đây là trừ nhập thứ tám.

Hỏi: Tám trừ nhập có tánh gì?

Đáp: Tánh là căn thiện không tham. Nếu gồm chung pháp tương ưng, pháp cùng có của chúng thì tánh là năm ấm.

Về cõi: Hoặc thuộc cõi dục, hoặc thuộc cõi sắc.

Về địa: Bốn trừ nhập đầu là thuộc địa thiền thứ nhất, thiền thứ hai. Bốn trừ nhập sau là thuộc địa thiền thứ tư. Vì sao? Vì từ giải thoát thứ nhất đến giải thoát thứ hai. Hoặc vì bốn trừ nhập đầu nên từ giải thoát tịnh thành bốn trừ nhập sau.

Về chỗ dựa: Đều dựa vào cõi dục.

Về hành: Bốn trừ nhập đầu là hành bất tịnh. Bốn trừ nhập sau là hành tịnh.

Về duyên: Đều duyên nơi cõi dục, duyên nơi sắc nhập trong cõi dục.

Về ý chỉ (Niệm trụ): Là thân ý chỉ.

Về trí: Tuy tánh không phải là trí, nhưng tương ưng với đẳng trí.

Về định: Không phải là định.

Về thống (Thọ): Bốn trừ nhập đầu tương ưng với hỷ căn. Bốn trừ nhập sau tương ưng với xả căn.

Hỏi: Tám trừ nhập: Nên nói là quá khứ, nên nói là vị lai, hay nên nói là hiện tại?

Đáp: Tám trừ nhập nên nói là quá khứ, nên nói là vị lai, nên nói là hiện tại.

Hỏi: Nên nói là duyên nơi quá khứ, nên nói là duyên nơi vị lai, hay nên nói là duyên nơi hiện tại?

Đáp: Nên nói là duyên nơi quá khứ, nên nói là duyên nơi vị lai, nên nói là duyên nơi hiện tại.

Hỏi: Nên nói là duyên nơi danh hay nên nói là duyên nơi nghĩa?

Đáp: Nên nói là duyên nơi danh, nên nói là duyên nơi nghĩa.

Hỏi: Nên nói là duyên nơi ý mình hay duyên nơi ý người khác?

Đáp: Nên nói là duyên nơi ý mình, nên nói là duyên nơi ý người khác.

Đây là tánh của trừ nhập.

Đã nói về tánh, tiếp theo là nói về hành.

Hỏi: Vì sao gọi là trừ nhập? Trừ nhập có nghĩa gì?

Đáp: Vì duyên hoại nên gọi là trừ nhập. Như nói: Có thể làm hoại xứ sở. Thế nên Đức Thế Tôn nói là trừ nhập. Đây là vì duyên hoại nên gọi là trừ nhập.

Tám trừ nhập: Những gì là tám?

Tỳ-kheo này bên trong có tưởng sắc, quán ít sắc bên ngoài: Vì ít tự tại nên gọi là ít. Vì ít duyên nên gọi là ít.

Đẹp: Là các sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, tươi đẹp vừa ý, nên gọi là đẹp.

Xấu: Là các sắc xanh, vàng, đỏ, trắng không tươi đẹp vừa ý, nên gọi là xấu.

Sắc kia hoại đã nhận biết, đã thấy rõ: Là trong sắc kia đã lìa dục, đoạn dục, vượt qua dục. Đó gọi là sắc kia hoại đã nhận biết, đã thấy rõ.

Tự tại quở trách, tự tại dạy bảo: Như chủ nhà có tôi tớ thì thường tự tại trách mắng, tự tại dạy bảo. Như thế, trong sắc kia đã lìa dục, đoạn dục, vượt qua dục, tức sắc hoại đã nhận biết, đã thấy rõ, là tự tại chỉ dạy, tự tại quở trách. Thế nên nói là sắc kia hoại đã nhận biết, đã thấy rõ.

Tạo tưởng như thế: Là tu tập tưởng kia như thế, nên nói là tạo tưởng như thế.

Đây là trừ nhập thứ nhất. Thứ nhất: Là theo số thứ tự, thuận theo số nên có thứ nhất. Lại nữa, theo thứ lớp chánh thọ tức có thứ nhất, nên gọi là thứ nhất.

Trừ nhập: Là trừ nhập vào lúc nào? Tức lúc đang hành chánh thọ đã hủy hoại sắc nên gọi là trừ nhập.

Lại nữa, Tỳ-kheo này bên trong có tưởng sắc, quán vô lượng sắc bên ngoài: Vì tự tại vô lượng, duyên vô lượng, nên gọi là vô lượng.

Đẹp: Là các sắc xanh, vàng, đỏ, trắng tươi đẹp vừa ý, nên gọi là đẹp.

Xấu: Là các sắc xanh, vàng, đỏ, trắng không tươi đẹp vừa ý, nên gọi là xấu.

Sắc kia hoại đã nhận biết, đã thấy rõ: Tức là trong sắc ấy hành giả kia đã lìa dục, đoạn dục, vượt qua dục.

Tự tại quở trách, tự tại dạy bảo: Như chủ nhà có tôi tớ, tức luôn tự tại trách mắng, chỉ dạy. Như thế hành giả kia ở trong sắc ấy đã lìa dục, đoạn dục, vượt qua dục.

Sắc ấy hoại đã nhận biết, thấy rõ là tự tại quở trách, dạy bảo. Thế nên nói sắc kia hoại đã nhận biết, đã thấy rõ.

Tạo tưởng như thế: Là tu tập theo tưởng như thế, nên nói là tạo tưởng như thế.

Đây là trừ nhập thứ hai. Thứ hai: Là theo số thứ tự nên có hai, thuận theo thứ lớp tức có hai. Lại nữa, theo thứ lớp chánh thọ tức có hai, nên nói là thứ hai.

Trừ nhập: Là trừ nhập vào lúc nào? Là lúc đang hành chánh thọ đã hủy hoại sắc, nên nói là trừ nhập.

Lại nữa, Tỳ-kheo này bên trong không có tưởng sắc, quán một ít sắc bên ngoài: Vì ít tự tại, vì ít duyên, nên gọi là một ít.

Đẹp: Là các sắc xanh, vàng, đỏ, trắng tươi đẹp vừa ý, nên gọi là đẹp.

Xấu: Là các sắc xanh, vàng, đỏ, trắng không tươi đẹp vừa ý, nên gọi là xấu.

Sắc kia hoại đã nhận biết, đã thấy rõ: Là trong sắc ấy đã lìa dục, đoạn dục, vượt qua dục, tức gọi là sắc hoại đã nhận biết, đã thấy rõ.

Tự tại quở trách, tự tại dạy bảo: Như chủ nhà có tôi tớ thì tự tại quở trách, tự tại dạy bảo. Như thế là trong sắc kia đã lìa dục, đoạn dục, vượt qua dục, tức là sắc hoại đã nhận biết, đã thấy rõ, là tự tại chỉ bảo, tự tại quở trách. Thế nên nói sắc kia hoại đã nhận biết, đã thấy rõ.

Tạo tưởng như thế: Là tu tập tưởng kia như vậy, nên nói là tạo tưởng như thế.

Đây là trừ nhập thứ ba. Thứ ba: Là theo số thứ tự, thuận với số thứ lớp tức có ba. Lại nữa, theo thứ lớp chánh thọ tức có ba, nên nói là thứ ba.

Trừ nhập: Là trừ nhập vào lúc nào? Vì khi đang hành chánh thọ là đã hủy hoại sắc, nên nói là trừ nhập.

Lại nữa, Tỳ-kheo này bên trong không có tưởng sắc, quán vô lượng sắc bên ngoài: Vì tự tại vô lượng, vì duyên vô lượng, nên gọi là vô lượng.

Đẹp: Là các sắc xanh, vàng, đỏ, trắng tươi đẹp vừa ý, nên gọi là đẹp.

Xấu: Là các sắc xanh, vàng, đỏ, trắng không tươi đẹp vừa ý, nên gọi là xấu.

Sắc kia hoại đã nhận biết, đã thấy rõ: Là trong sắc ấy đã lìa dục, đoạn dục, vượt qua dục, tức là sắc hoại đã nhận biết, đã thấy rõ.

Tự tại quở trách, tự tại dạy bảo: Như chủ nhà có tôi tớ thì có thể tự tại quở trách, tự tại dạy bảo. Như thế, ở trong sắc kia đã lìa dục, đoạn dục, vượt qua dục, tức là sắc hoại đã nhận biết, đã thấy rõ, là tự tại quở trách, tự tại dạy bảo. Thế nên nói là sắc kia hoại đã nhận biết, đã thấy rõ.

Tạo tưởng như thế: Là tu tập tưởng kia như vậy, nên nói là tạo tưởng như thế.

Đây là trừ nhập thứ tư. Thứ tư: Là theo số thứ tự nên có bốn, thuận theo số thứ lớp tức có bốn. Lại nữa, theo thứ lớp chánh thọ tức có bốn, nên nói là thứ tư.

Trừ nhập: Là trừ nhập vào lúc nào? Vì vào lúc hành chánh thọ đã hủy hoại sắc, nên nói là trừ nhập.

Lại nữa, Tỳ-kheo này bên trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài, màu xanh: Là hiện tưởng màu xanh, hiện chủng loại xanh, hiện nhóm xanh. Thế nên nói là màu xanh.

Sắc: Như sắc ấy màu xanh, như vậy hình tướng của sắc ấy cũng là màu xanh, thế nên nói là sắc xanh.

Thấy xanh: Là hành của mắt, cảnh giới của mắt, ánh sáng của mắt, thế nên nói là thấy xanh.

Ánh sáng xanh: Là tia sáng xanh, ánh sáng xanh, ngọn lửa xanh, thế nên nói là ánh sáng xanh.

Vô lượng: Là vô lượng, vô biên không thể tính kể, thế nên nói là vô lượng.

Vô lượng tịnh: Như sắc kia là vô lượng, như vậy, tịnh trong sắc kia cũng là vô lượng, thế nên nói là vô lượng tịnh.

Ý ái: Là nghĩ đến sắc kia yêu thích, vui mừng, thế nên nói là ý ái. Ý lạc: Là ý hiện rõ trong vui, tự cảm thấy vui, thế nên nói là ý lạc.

Không chán: Là nhận lấy vui thích, thế nên nói là không chán.

Như hoa sen xanh, sắc xanh là xanh, thấy màu xanh, ánh sáng xanh. Như loại áo được tạo thành ở Ba-la-nại, vò đập thật kỹ khiến vừa ý, vui vẻ. Tức sắc xanh là xanh, thấy màu xanh, ánh sáng xanh.

Như thế, Tỳ-kheo này bên trong không có tưởng sắc, quán màu xanh của sắc bên ngoài, sắc xanh, thấy màu xanh, ánh sáng xanh, vô lượng, vô lượng tịnh, ý ái, ý lạc, không chán.

Sắc kia hoại đã nhận biết, đã thấy rõ: Là trong sắc ấy đã lìa dục, đoạn dục, vượt qua dục, tức là sắc hoại đã nhận biết, đã thấy rõ, tự tại quở trách, tự tại dạy bảo. Như chủ nhà có tôi tớ thì tự tại quở trách, tự tại dạy bảo. Như thế, trong sắc kia đã lìa dục, đoạn dục, vượt qua dục, chính là sắc hoại đã nhận biết, đã thấy rõ.

Tự tại quở trách, tự tại dạy bảo: Như chủ nhà có tôi tớ thì tự tại quở trách, tự tại dạy bảo. Như thế, ở trong sắc kia đã lìa dục, đoạn dục, vượt qua dục, chính là sắc hoại đã nhận biết, đã thấy rõ, là tự tại quở trách, tự tại dạy bảo, sai khiến. Thế nên nói sắc kia hoại đã nhận biết, đã thấy rõ.

Tạo tưởng như thế: Là tu tập tưởng kia như thế, nên nói là tạo tưởng như vậy.

Đây là trừ nhập thứ năm. Thứ năm: Là số thứ tự tức có năm. Thuận với số thứ lớp nên có năm. Lại nữa, theo thứ lớp chánh thọ tức có năm, nên nói là thứ năm.

Trừ nhập: Là trừ nhập vào lúc nào? Là khi đang hành chánh thọ đã hủy hoại sắc, nên nói là trừ nhập.

Như trừ nhập màu xanh, thì trừ nhập nơi các màu vàng, đỏ, trắng cũng như thế.

Hỏi: Vì sao vô sắc không lập làm trừ nhập?

Đáp: Do Đức Phật, Thế Tôn đối với các pháp đều thấu tỏ thông đạt, người khác không thể vượt hơn. Đức Phật đều nhận biết về tướng của các pháp, đều nhận biết về hành của chúng. Nếu các pháp có tướng trừ nhập thì được lập làm trừ nhập, không có tướng của trừ nhập thì không lập làm trừ nhập.

Hoặc nói: Trừ nhập: Là có thể làm hủy hoại sắc, nên gọi là trừ nhập. Trong vô sắc không có sắc để có thể hủy hoại, vì thế vô sắc kia không lập làm trừ nhập.

Nói rộng về Xứ tám trừ nhập xong.

*

Phần thứ 38: XỨ MƯỜI NHẤT THIẾT NHẬP

Mười nhất thiết nhập (Mười Biến xứ): Những gì là mười? Đây là một tư duy các phương trên dưới không có hai vô lượng. (1) Nhất thiết nhập của đất. (2) Nhất thiết nhập của nước. (3) Nhất thiết nhập của lửa. (4) Nhất thiết nhập của gió. (5) Nhất thiết nhập của màu xanh. (6) Nhất thiết nhập của màu vàng. (7) Nhất thiết nhập của màu đỏ. (8) Nhất thiết nhập của màu trắng. (9) Nhất thiết nhập của vô lượng xứ không. (10) Nhất thiết nhập của vô lượng xứ thức. Tức tư duy các phương trên dưới không có hai vô lượng.

Hỏi: Mười Nhất thiết nhập có tánh gì?

Đáp: Tám nhất thiết nhập đầu có tánh là căn thiện không tham. Nhất thiết nhập của vô lượng xứ không, nhất thiết nhập của vô lượng xứ thức có tánh là bốn ấm.

Về cõi: Tám nhất thiết nhập đầu thuộc cõi sắc. Nhất thiết nhập của vô lượng xứ không, vô lượng xứ thức thuộc cõi vô sắc.

Về địa: Tám nhất thiết nhập đầu là thuộc địa bốn thiền căn bản. Vì sao? Vì từ tịnh giải thoát thành tám nhất thiết nhập. Nhất thiết nhập của vô lượng xứ không là địa vô lượng xứ không. Nhất thiết nhập của vô lượng xứ thức tức địa vô lượng xứ thức.

Về chỗ dựa: Hết thảy đều dựa vào cõi dục.

Về hành: Tám nhất thiết nhập đầu là hành tịnh. Nhất thiết nhập của vô lượng xứ không, vô lượng xứ thức đều không thiết lập hành.

Về duyên: Tám nhất thiết nhập đầu là duyên nơi cõi dục. Nhất thiết nhập của vô lượng xứ không, vô lượng xứ thức là duyên nơi cõi vô sắc.

Về ý chỉ (Niệm xứ): Tám nhất thiết nhập đầu là thân ý chỉ. Nhất thiết nhập của vô lượng xứ không, vô lượng xứ thức là ba ý chỉ.

Về trí: Tám nhất thiết nhập đầu tuy tánh không phải là trí, nhưng tương ưng với đẳng trí. Nhất thiết nhập của vô lượng xứ không, vô lượng xứ thức là đẳng trí.

Về định: Không phải là định.

Về thọ: Tất cả tương ưng với xả căn.

Hỏi: Mười nhất thiết nhập: Nên nói là quá khứ, nên nói là vị lai, hay nên nói là hiện tại?

Đáp: Mười nhất thiết nhập nên nói là quá khứ, nên nói là vị lai, nên nói là hiện tại.

Hỏi: Nên nói là duyên nơi quá khứ, nên nói là duyên nơi vị lai, hay nên nói là duyên nơi hiện tại?

Đáp: Nên nói là duyên nơi ba đời.

Hỏi: Nên nói là duyên nơi danh hay nên nói là duyên nơi nghĩa?

Đáp: Nên nói là duyên nơi danh, duyên nơi nghĩa.

Hỏi: Nên nói là duyên nơi ý mình hay nên nói là duyên nơi ý người khác?

Đáp: Nên nói là duyên nơi ý mình, duyên nơi ý người khác.

Đây là tánh của mười nhất thiết nhập, là thể tướng hiện có nơi thân.

Đã nói về tánh của nhất thiết nhập, tiếp theo là nói về hành.

Hỏi: Vì sao nói là nhất thiết nhập? Nhất thiết nhập có nghĩa gì?

Đáp: Vì duyên khắp nên gọi là nhất thiết nhập.

Mười nhất thiết nhập: Này Tỳ-kheo, đây là nhất thiết nhập của đất: Nghĩa là duyên khắp.

Một tư duy: Một: Là theo số thứ tự thì có một. Thuận với số thứ lớp tức có một. Lại nữa, theo thứ lớp chánh thọ tức có một.

Các phương: Là bốn phương và bốn hướng.

Trên, dưới: Trên tức phương trên, dưới tức phương dưới.

Không có hai: Là không cùng có, không phân tán.

Vô lượng: Là vô lượng, vô hạn, không thể tính kể.

Nhất thiết nhập của nước, của lửa, của gió. Nhất thiết nhập của các màu xanh, vàng, đỏ, trắng. Nhất thiết nhập của vô lượng xứ không, vô lượng xứ thức.

Vô lượng nhất thiết nhập: Vì duyên khắp

Mười tư duy: Là theo số thứ tự thì có mười. Thuận nơi số thứ lớp tức có mười. Lại nữa, theo thứ lớp của chánh thọ tức có mười.

Các phương: Là bốn phương và bốn hướng.

Trên, dưới: Trên tức phương trên, dưới tức phương dưới.

Không có hai: Là không cùng có, không phân tán.

Vô lượng: Là không thể lường xét, không thể hạn lượng, không thể tính kệ.

Hỏi: Vì sao xứ vô sở hữu, xứ phi tưởng phi bất tưởng không lập làm nhất thiết nhập?

Đáp: Đức Phật, Thế Tôn đối với các pháp luôn thấu tỏ thông đạt, người khác không thể vượt hơn. Đức Phật, Thế Tôn đều nhận biết các pháp tướng, nhận biết về hành của chúng. Nghĩa là nếu pháp nào có tướng nhất thiết nhập thì lập làm nhất thiết nhập, pháp nào không có tướng nhất thiết nhập thì không lập làm nhất thiết nhập.

Hoặc nói: Vì có vô lượng hành, nên vô lượng xứ không, vô lượng xứ thức đều được lập làm nhất thiết nhập. Xứ vô sở hữu, xứ phi tưởng phi bất tưởng không có vô lượng hành, thế nên không lập làm nhất thiết nhập.

Hỏi: Ở đây nói phương trên, phương dưới và các phương, đối với tám nhất thiết nhập đầu thì nên như vậy. Còn phương trên, phương dưới và các phương, đối với nhất thiết nhập của vô lượng xứ không, vô lượng xứ thức đều không có địa, không thể thấy, vì sao nói là trên, dưới và các phương?

Đáp: Các xứ đó tuy không có trên dưới, nhưng vì hành chánh thọ, nên có thể đạt được trên dưới. Nghĩa là người hành chánh thọ kia, hoặc ở trên, ở dưới, hoặc ở giữa, thế nên nói là trên, dưới. Như Khế kinh nói: Các hiền hành địa, tất cả người hành chánh thọ đều có suy nghĩ này: Địa tức là ta. Ta tức là địa. Ta cùng với địa là một không hai.

Hỏi: Ở đây vì sao nói tất cả người hành chánh thọ hành địa như thế đều cho địa là ta?

Đáp: Người hành chánh thọ, vì đã từng hành trì chánh thọ, nên nói là người hành chánh thọ. Như vốn từng làm Sa-môn, nên dùng Sa-môn làm tên. Từng ở nơi A-luyện, nên dùng A-luyện làm tên. Từng giữ giới luật, nên dùng giới luật làm tên. Từng làm pháp sư, nên dùng pháp sư làm tên. Như thế, người hành chánh thọ, vì đã từng hành trì chánh thọ, nên nói là người hành chánh thọ.

Hỏi: Vì sao thiền thứ ba không lập làm giải thoát, trừ nhập, nhất thiết nhập?

Đáp: Vì lạc của thiền thứ ba là tối diệu so với tất cả các thứ lạc trong sinh tử, hành giả thường tham đắm lạc ấy, không cầu đạt căn thiện này, thế nên không lập.

Hỏi: Nếu như vậy vì sao trong thiền thứ ba nói có thần thông biến hóa?

Đáp: Như thế trong thiền thứ ba kia hoặc có căn thiện, hoặc không có, chớ nên cho căn thiện của địa thiền thứ ba kia là không.

Hoặc nói: Vì thần thông biến hóa ấy của thiền thứ ba có thể nuôi lớn lạc kia, lại không làm tổn giảm giải thoát, trừ nhập, nhất thiết nhập. Nhưng các thứ này đối với lạc là tổn hại không phải là nuôi lớn. Vì thế thiền thứ ba không lập làm giải thoát, trừ nhập, nhất thiết nhập.

Hỏi: Giải thoát, trừ nhập, nhất thiết nhập có khác biệt gì?

Đáp: Giải thoát là khiến buông bỏ tất cả. Trừ nhập là làm hoại nơi duyên. Nhất thiết nhập là duyên rộng khắp. Đây là sự khác biệt giữa giải thoát, trừ nhập, nhất thiết nhập.

Nói rộng về Xứ mười nhất thiết nhập xong.

HẾT – QUYỂN 12