LUẬN THÁNH PHẬT MẪU BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT ĐA CỬU TỤNG TINH NGHĨA
Hán dịch: Tác giả: Bồ-tát Thắng Đức Xích Y
Hán dịch: Đại sư Pháp Hộ Đời Triệu Tống
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN HẠ

Có lời hỏi: Với Thắng Nghĩa Đế thì thế nào là Tự tánh?

Đáp: Lời bài tụng đã có dụ: Đó là dợn nắng (dương diệm).

“Dợn nắng”: tức là do bụi đất, mặt trời và tia sáng cả ba thứ giả hợp với nhau. Do dợn nắng tạo hình rất nhanh, nên vừa mới trông thấy ở trước thì sau đã mất ngay. Thế nên bài tụng nói: “Mới thấy đó đã mất rồi”.

Tất cả cảnh giới và mọi thứ khác nhau hiện có ở đây, ý nghĩa cũng như thế. Tuy mỗi thứ có hình hài lồ lộ riêng biệt, nhưng đều không có tự tánh đích thực. Vì sao? Vì các tự tánh của chúng trước và sau không hòa hợp nhau, nghĩa là tự tánh của nó không có tướng nhất định. Kẻ ngu giữ lấy và vướng mắc vào cái tánh luôn chuyển đổi đó, thế nên tất cả đều bị đọa đày, sống trong cõi thế tục của loài người này. Lại nữa, ở đây người chấp và đối tượng chấp mà có cản trở nhau, đó là do tự tánh nó vốn trống không. Nó luôn trong trẻo-sáng rỡ, xưa nay vốn chẳng hề sinh, nhưng khi tâm khởi lên mà thấy nó, thì chúng như hình và bóng. Để giải thích ý nghĩa này, cho nên:

Bài tụng thứ bảy nói:

Các chấp như hình bóng,

Từ vô thủy Tâm sinh,

Mà Tướng và Thức ấy,

Như hình bóng nương nhau.

Đây có ý nói, biết các đối tượng chấp như hình bóng, tức là đây và

kia rất giống nhau, dường như thiệt. Giống nhau như thế nào? Như là hình dáng mặt mày trong gương. Nghĩa là thế nào? Nghĩa là từ nơi tâm sinh ra, nhưng chỉ riêng tâm của kẻ đó sinh ra mà thôi. Khi đó trong tâm có đủ mọi thứ hình ảnh, cảnh tướng ở ngoài đã chấp lấy, và giữ mãi chẳng chịu rời bỏ. Nghĩa này đã xong.

Còn tất cả các vật ở bên ngoài, mà ta đã chấp lấy đó thì không khác gì hình ảnh ở trong gương. Tức là các hình ảnh đó, theo thói quen lâu đời, nó là những hạt giống được đưa vào, tâm thu nhận và cất chứa tại đó. Ở trong hai cái không về người chấp và đối tượng chấp, tạo nên hai tướng cản trở nhau.

Do từ vô thủy đến nay, các hình bóng đó đều từ tâm sinh ra, hoặc đồng thời, hoặc trong những thời gian khác nhau rồi các thứ đó cùng kết chặt bên nhau; nhưng nếu ta để ý, quán sát kỹ càng, thì thấy tất cả đều là không. Chẳng phải chỉ có tâm không thôi, mà còn do các tướng của sở duyên dẫn đến việc sinh ra tâm thức của năng duyên, thế nên mới có tướng của các pháp.

Khi nói “Tướng”, tức là nói đến tính tụ tập, gồm thâu mà thành. Chẳng phải chỉ có một pháp cho đối tượng chấp giữ là như thế, mà cả tướng chủ thể bám lấy cũng có như thế… Ở đây có nghĩa là, đối tượng chấp lấy thì không có tự tánh, còn chủ thể (người) chấp thì lại chẳng thật! Tụng nói nương nhau (hỗ tương) Nương nhau có nghĩa là hòa hợp. Sự hòa hợp nương nhau đó, như hình và bóng. Vì như hình bóng, nên người chấp và vật bị chấp (năng thủ, sở thủ), hai cái đó phải nương vào nhau chặt chẽ, tánh không bao giờ lìa xa nhau được. Tức là hai cái đó ở trong chỗ không nắm bắt được mà nương nhau rồi thì tâm pháp xuất hiện, tức là tâm khởi ý niệm và hoạt động, thế là có các tướng nắm bắt được.

Tổng ý ở đây là: Tự tánh của tâm xưa nay luôn trong trẻo-sáng suốt, không có hai tướng sở thủ và năng thủ, tức người chấp và vật bị chấp. Tâm đó xưa nay đã lìa bỏ những tham-sân-si vv… và các vô minh nhơ nhớp; nó luôn luôn thanh tịnh, trắng trong, sáng sủa vì đã lìa mọi mê đắm và dính mắc. Cho nên bài tụng sau nói: “Nhìn ánh trăng trong nước” là để giải thích nghĩa này.

Bài tụng thứ tám nói:

Quán tự tịnh trong loại,

Như trăng trí sáng soi,

Nhìn ánh trăng trong nước,

Sáng rõ nhưng không có.

Quán có nghĩa là định. Định có nghĩa là để tâm chuyên chú vào một chỗ, một cảnh duy nhất. Trong cái định đó, có sự quán tưởng, suy nghĩ nhưng tâm rất tự tại. Tụng nói “Tự”, tức là các chủng tử tịnh, các hạt giống lành và sạch, tức là sự thanh tịnh trong sạch. Thanh tịnh có nghĩa là lìa các dơ bẩn, các chủng tử miệng-thân-ý của chính mình, tạo ra các duyên liên tục và sinh ra các ý tưởng.

Hãy quán tưởng các chữ sau đây:

Chữ Ngật Lý: Chữ này sẽ biến thành ánh sáng rực rỡ, chói lòa khắp nơi. Trong ánh sáng đó, từ các chủng tử của tâm, chảy ra một dòng cam lộ rực sáng, rộng lớn, chói lọi khắp nơi. Ánh sáng đó, lại có một vầng lửa thật to. Và từ vầng lửa sáng đó, sinh ra cái trí tuệ và phương tiện, lại cũng từ đó nó tiếp tục sinh ra.

Chữ Ha: Chữ này gầm rú, phát ra một tiếng rất to. Trong đó hiện ra tám cánh Hoa sen, chữ Ha nằm ở giữa, tưởng trong ngoài khắp cả mười sáu phần vị.

Lại tưởng chữ “Ca” thành vô số các vì sao, chạy khắp chung quanh. Và ở các vị trí thích hợp, nên tưởng tượng có vị Phật ngồi trên hoa sen, và cả mười sáu chỗ kia đều có vầng trăng thật sáng. Cứ quán tưởng như thế, rồi để mãi trong trí nhớ, lúc nào cũng thấy chúng hiện rõ ràng.

Chữ Hồng có ánh sáng rực rỡ. Ở trong ánh sáng đó, lại xuất hiện một ánh lửa rất lớn, chói lòa. Nên quán tự thân từ trong vầng trăng trí tuệ, mà phát sinh tâm Bồ-đề. Lại từ đó phát sinh vầng trăng trí Kim Cang. Nên biết, vầng trăng đó chính là Trí Kim cang chiếu khắp thế gian. Ánh sáng trí tuệ chiếu sáng tất cả mọi sắc tướng. Thế nên bài tụng nói, như trăng trí tuệ sáng soi là vậy.

Trí Kim cang ấy, thành tựu mà, sinh ra Tuệ và các phương tiện. Tướng Niết-bàn không có gì dụ được, cũng lại từ Tuệ này mà sinh ra. Trong Kim Cang giới, có hình tướng Bồ-tát Ma-ma-chỉ ngồi quán tưởng pháp Tam-ma-bát-để là pháp sâu kín, mầu nhiệm, tuyệt diệu, quí báu nhất. Vầng mây sâu kín, dàn trải, bồng bềnh khắp nơi, tỏa ánh sáng rực rỡ. Vị Bồ-tát đó, có thân hình chiếu tỏa ánh sáng xanh, có ba đầu và tám cánh tay. Đầu mặt ở giữa có màu xanh, mặt bên phải màu vàng và mặt bên trái màu trắng. Bên phải, cánh tay thứ nhất cầm kiếm, tay thứ hai cầm mũi tên, tay thứ ba cầm câu móc, tay thứ tư cầm chày kim cang. Ở bên trái, cánh tay thứ nhất cầm cái vòng, tay thứ hai cầm cung, tay thứ ba cầm sợi dây lụa, tay thứ tư cầm chuông. Mà Bồ-tát đó, lý và trí hợp nhau, nên các việc làm Bố thí đều ứng hợp các phương tiện. Vị Bồ-tát ấy, tướng tốt trang nghiêm, đầu đội mũ Phật A-súc-bệ, trên mặt có dáng vẻ vui tươi, ôn hòa, hiền lành, rất đáng mến. Bồ-tát cùng ngồi kiết già, đẹp như cánh hoa A-đa-tây tinh khiết trong sạch, chung quanh có vòng hào quang sáng ngời rực rỡ, với ánh sáng thật tuyệt diệu tròn đầy. Lại như hình tướng của Kim Cang Tát-đỏa, có tự tánh đầy vẻ hoan lạc, tươi tắn, đang vẫy nước Cam lồ, khắp tất cả mọi nơi. Thân Bồ-tát đấy, tức là thân của Như Lai, từ phương tiện Tuệ hiện ra. Thế nên bài Tụng mới nói như trăng trong nước.

Bài Tụng nói “Nhược”, có nghĩa là như, như trăng trong nước, đấy tức là trống không. Từ trong pháp không, mà sinh ra các pháp, nơi sinh ra nó, thì xưa nay thuộc tính chất không sinh, do đó mà dụ là trăng trong nước.

Ở đây là như thế. Ở trong tự tánh của pháp giới, chấp lấy là có tánh nhưng thật ra là không có tánh. Vì sao? Tụng nói: “Hiện đó, nhưng không chỗ có”.

Do các việc như thế, nên tất cả các pháp là không có chỗ nắm bắt. Trong Chân như mà còn có làm, có chứng, thật là không thích hợp. Có làm-có chứng, đều chỉ là phương tiện để lập ra các pháp, cùng là hư không bình đẳng, mà chứng thực cho nghĩa này:

Bài tụng thứ chín nói:

Nếu trí đã tương ưng,

Đó là tướng hư không,

Mọi hiểu biết của trí,

Đều như tướng hư không.

Nói về tương ưng, thì nên biết đó là Trí cùng với Định, hai pháp ấy tương ưng ứng hợp với nhau. Sự tương ưng đó, tức là Kim Cang. Vì có pháp tương ưng đó, nên mới gọi là tương ưng. Do sự tương ưng ấy, trí có được đó, đối với các pháp, không có đối tượng để chấp. Trong tướng không hai đó, nhờ trí tuệ làm phương tiện, sinh ra thân Như Lai, đây chẳng phải là tự tánh hí luận của các Uẩn-Xứ-Giới như đã nói trước đây. Đấy là nghĩa sau cùng.

Nhưng thân Như Lai là bất động, chỗ thành tựu các tự tánh pháp giới vốn xưa nay là không sinh. Vì sao thế? Vì tự tánh của Như Lai là lìa bỏ, đó tức là tánh không, nên thôi không thể nói được!

“Không tánh”, nghĩa là xưa nay chẳng sinh, nên gọi là không tánh. Thế nên Tụng nói là “Như Tướng hư không”.

Đây lại vì sao? Có nghĩa là lìa tất cả tánh hí luận, cho nên giống như hư không, vì hư không đó, là tướng như thế. Mà tướng hư không thì nên biết như thế, cứ đúng lý mà tìm tòi suy xét kỹ lưỡng.

“Tướng”, có nghĩa là lộ ra ngoài. Lại nữa, cần nên biết đối với tất cả pháp, không có chướng ngại; trong tự tánh mà có các tác dụng, là do trí nhập vào ba cõi, tướng của tâm và tâm sở thì như tướng hư không. Chỉ bày cái biết được về vô minh, để tùy nghi hiện ở loài hữu tình và xem tướng của hai cõi thế gian là vật dụng cho các Uẩn-Xứ-Giới tự tánh là hí luận.

Ấy là đối tượng, là lãnh vực của hiểu biết, nó có tính tạo tác. Đối tượng của hiểu biết đó, hoàn toàn tùy thuộc vào nhận thức sai lầm về các cảnh, nên gọi là đối tượng. Do đó Nhất Thiết Trí, Trí Nhất Thiết Trí, cả hai thứ trí này, đều như hư không?

Nên quán như thế, là gồm thâu chung cả nghĩa này vậy.

Cho nên Tụng nói Đều. “Đều”, nghĩa là không khác, không khác một chút nào cả.

Ở đây, trừ các hàng Thanh văn, ưa thích chứng lấy Niết-bàn Hữu Dư Y. Họ tuy là người, đã chứng được Lý vô ngã, mà đối với các việc của uẩn, còn chấp cho là có. Còn những kẻ khác, chứng Niết-bàn Vô Dư Y tức là tướng giải thoát, nay ở đây đều được nhiếp thọ chấp nhận. Như Phật đã nói: Tất cả các thứ, tất cả những cái có ở đây, đều là rỗng không. Trong đó, lại trừ đi một phần “cái không” của ngoại đạo đã nói. Do nghĩa đó ở đây, nên biết rằng trong thế gian không hề có một chút pháp nào có thể có, tất cả đều như tướng của hư không kia.

Nói “Như tướng hư không”, nên biết đó là tự tánh của hư không, nó chơn thật như thế.

Đấy là đã luận xong về chín bài Tụng như đã nói. Lại muốn chỉ bày các quả chủng trí của các Bồ-tát, nên nói một Tụng tổng kết:

Đúng lý suy tư thật tánh ấy,

Tất cả tánh ấy chẳng nương nhờ,

Có tâm thắng nguyện quả Bồ-đề,

Đại trí trang nghiêm phải đạt đươc.

Pages: 1 2