LUẬN
ĐẠI TRÍ ĐỘ
Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ kheo ni THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG
TẬP III
QUYỂN 44
Phẩm thứ mười một
Huyễn Nhơn
(Người Huyễn)
KINH:
Lúc bấy giờ, ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Nếu có người hỏi con rằng “Người huyễn học Đàn Ba La Mật,…, dẫn đến học Bát Nhã Ba La Mật; học tứ niệm xứ,…, dẫn đến học thập bát bất cộng pháp có được Nhất Thiết Chủng Trí không ?”, thì con phải giải đáp như thế nào ?
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Ta hỏi lại ông. Ông hãy tùy ý đáp lại lời của ta.
Này Tu Bồ Đề ! Ý ông nghĩ sao ? Sắc cùng với huyễn,…, dẫn đến thức cùng với huyễn khác nhau chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề đáp : Bạch Thế Tôn ! Chẳng khác vậy.
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Sắc,…, dẫn đến pháp nhãn,…, dẫn đến ý; nhãn thức,…, dẫn đến ý thức; nhãn giới,…, dẫn đến ý giới; nhãn xúc,…, dẫn đến ý xúc; nhãn xúc nhân duyên sanh thọ,…, dẫn đến ý xúc nhân duyên sanh thọ cùng với huyễn khác nhau chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề đáp : Bạch Thế Tôn ! Chẳng khác vậy.\
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Sáu pháp Ba La Mật, Tứ niệm xứ,…, dẫn đến thập bát bất cộng pháp cùng với huyễn khác nhau chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề đáp : Bạch Thế Tôn ! Chẳng khác vậy.
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Không, Vô tướng, Vô Tác cùng với huyễn khác nhau chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề đáp : Bạch Thế Tôn ! Chẳng khác vậy.
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Vô Thượng Bồ Đề cùng với huyễn khác nhau chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề đáp : Bạch Thế Tôn ! Chẳng khác vậy.
Vì sao ? Vì sắc chẳng khác huyễn, huyễn chẳng khác sắc; sắc tức là huyễn, và huyễn tức là sắc… dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề cũng là như vậy. Vô Thượng Bồ Đề chẳng khác huyễn, huyễn chẳng khác Vô Thượng Bồ Đề; Vô Thượng Bồ Đề tức là huyễn, và huyễn tức là Vô Thượng Bồ Đề.
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Ý ông nghĩ sao ? Huyễn có cấu, có tịnh chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề đáp : Bạch Thế Tôn ! Chẳng vậy.
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Nếu huyễn chẳng san, chẳng diệt, thì người huyễn có thể đọc Bát Nhã Ba La Mật, và có thể được Nhất Thiết Chủng Trí chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề đáp : Bạch Thế Tôn ! Chẳng vậy.
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Ngũ ấm giả danh có phải Bồ Tát chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề đáp : Bạch Thế Tôn ! Chẳng vậy.
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Nếu các pháp chỉ là giả danh, thì chẳng có thân, ngữ, ý, dẫn đến chẳng có thân nghiệp, ngữ nghiệp và ý nghiệp. Các pháp đều chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng cấu, chẳng tịnh như vậy cả, thì học Bát Nhã Ba La Mật có được Nhất Thiết Chủng Trí chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề đáp : Bạch Thế Tôn ! Chẳng vậy.
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát phải như vậy mà học Bát Nhã Ba La Mật, thì sẽ được Nhất Thiết Chủng Trí. Vì sao ? Vì là được vô sở đắc vậy.
Ngài Tu Bồ Đề thưa : Bạch Thế Tôn ! Bồ Tát nên như vậy mà học Bát Nhã Ba La Mật, như người huyễn học, sẽ được Vô Thượng Bồ Đề. Vì sao ? Vì ngũ ấm tức là người huyễn, người huyễn tức là ngũ ấm.
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Ý ông nghĩ sao ? Ngũ ấm học Bát Nhã Ba La Mật có được Nhất Thiết Chủng Trí chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề đáp : Bạch Thế Tôn ! Chẳng vậy. Vì sao ? Vì ngũ ấm tánh là vô sở hữu, là bất khả đắc.
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Ngũ ấm như mộng, như ảnh, như hưởng, như diệm, như hóa, học Bát Nhã Ba La Mật, có được Nhất Thiết Chủng Trí chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề đáp : Bạch Thế Tôn ! Chẳng vậy. Vì sao ? Vì mộng tánh,… dẫn đến hóa tánh đều là vô sở hữu, là bất khả đắc.
Bạch Thế Tôn ! Lục tình cũng là như vậy. Ngũ ấm tức là lục tình, lục tình tức là ngũ ấm. Tất cả các pháp ấy đều là nội không,…, dẫn đến đều là vô pháp hữu pháp không, nên đều là vô sở hữu, là bất khả đắc cả.
LUẬN :
Hỏi : Vì lý do gì mà ngài Tu Bồ Đề hỏi Phật “Người huyễn học Bát Nhã Ba La Mật có được Nhất Thiết Chủng Trí, có được làm Phật chăng” ?
Đáp : Chẳng thể được, vì người huyễn là dư dối.
Chỗ Phật đáp ngài Xá Lợi Phất là chỗ thậm thâm, là nghĩa không, nên ngài Tu Bồ Đề mới dấy niệm nghĩ rằng “Các pháp chỉ là nhất tướng, là vô tướng, chẳng có gì khác nhau. Nếu vậy, thì người huyễn cùng với Bồ Tát cũng chẳng có gì khác nhau cả”.
Tuy nhiên, nên biết rằng Bồ Tát, do có làm các công đức, nên sẽ được làm Phật; còn người huyễn, chẳng có làm các công đức, nên chẳng có thể làm Phật được.
Hỏi : Vì sao người huyễn chẳng có làm các công đức ?
Đáp : Vì chẳng có tâm thức (vô tâm thức), nên chẳng làm được các công đức.
Hỏi : Ngài Tu Bồ Đề dấy niệm nghĩ rằng Bồ Tát thật sự cũng chẳng có hành các công đức, mà người ngoài thấy tợ như có hành, cho nên nói hành như người huyễn. Đối với các sự việc, như ăn uống, bố thì tài vật, xuất gia, trì giới, tinh tấn, thiền định, thuyết pháp v.v…, thì người vô trí coi là có hành, mà chẳng biết rằng đó chỉ là như huyễn. Lại nữa, theo Phật, thì các pháp đều là nhất tướng, là vô tướng cả. Mà đã là vô tướng, thì Phật, Bồ Tát cùng với người huyễn chẳng có gì khác nhau cả. Như vậy, người huyễn hành các Phật sự, như hành sáu pháp Ba La Mật, hàng phục chúng ma, tọa đạo tràng, phóng quang minh, thuyết pháp, độ sanh v.v… so với Bồ Tát đâu có gì sai khác ?
Ngài Tu Bồ Đề nghi về trường hợp người huyễn có thể được Nhất Thiết Chủng Trí, được làm Phật, nên mới thưa hỏi Phật, xin Phật giải đáp. Như vậy, vì sao Phật chẳng có đáp thẳng, mà phải hỏi ngược lại ?
Đáp : Ngài Tu Bồ Đề, dùng trí huệ, quán ngũ ấm, quán ba cõi… đều là không, nên sanh tâm nhàm chán các phiền não, tập khí. Tuy ngài biết rõ tổng tướng của các pháp là không nhưng chẳng có thể quán Phật pháp cũng là như huyễn, là vô sở hữu. Ngài Tu Bồ Đề quán ngũ ấm và thế gian là không, để làm chỗ chứng Phật pháp. Phật khẳng định Phật pháp cũng là như huyễn, là vô sở hữu. Đây là lý do vì sao Phật hỏi ngược lại ngài Tu Bồ Đề rằng : “Ý ông nghĩ sao ? Sắc cùng với huyễn có khác nhau chăng ?… Dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề cùng với huyễn có khác nhau chăng ?
Nếu có khác, thì mới nên hỏi. Nếu chẳng có khác, thì cũng chẳng nên hỏi làm gì nữa.
Hỏi : Nếu nói sắc chẳng khác huyễn, thì còn chấp nhận được. Thế nhưng nơi người huyễn có sắc. Như vậy làm sao có thể nói là người huyễn cùng với ngũ ấm chẳng có gì khác nhau cả ?
Đáp : Người huyễn có hiện các tướng ưu, bi, khổ, lạc… Người vô trí lầm chấp, mà cho là thật có thọ, tưởng, hành, thức.
Lại nữa, Phật nêu thí dụ cho biết rằng ngũ ấm là hư vong, là như huyễn, người thọ ngũ ấm cũng là hư vọng, là như huyễn. Như vậy, thì sự thọ ngũ ấm, tuy có, mà cùng với huyễn chẳng có khác. Vì Phật muốn giải rõ, nên nêu thí dụ ngũ ấm là hư vọng, chúng sanh là hư vọng, cùng với huyễn chẳng khác nhau.
–oOo–
Bởi nhân duyên vậy, nên ngài Tu Bồ Đề nhất tâm, trù lượng, biết rõ ngũ ấm cùng với huyễn chẳng có gì khác nhau. Vì sao ? Vì ngũ ấm là như huyễn, mà phàm phu dùng nhục nhãn lầm chấp cho là thật có, khiến sanh ra ưu, bi, khổ, lạc…; lại do thọ ngũ ấm mà huệ nhãn bị ngăn che, khiến sanh ra tham dục, sân nhuế… cùng vô lượng phiền não, kiết sử khác.
–oOo–
Lại nữa, ví như nhờ huyễn thuật mà nhà huyễn thuật có thể biến hiện ra thành quách, nhà cửa, cung điện, ngựa xe… trên sân khấu, làm cho người xem lầm chấp, cho là thật có.
Cũng như vậy, hành giả phải quán ngũ ấm đều do vô minh tạo tác, mà có biến hiện ra các chi hành, thức, danh sắc… trong thập nhị nhân duyên.
Người thấy các huyễn sự, huyễn vật mà sanh tâm chấp đắm, thì khi huyễn nghiệp diệt rồi, sẽ sanh tâm luyến tiếc.
Người thọ ngũ ấm cũng là như vậy. Do nhân duyên huyễn nghiệp ở đời trước, mà có sanh ra thân ngũ ấm ở đời này. Thân đời này thọ ngũ dục, rồi khởi tham, sân, si, cùng vô lượng phiền não, kiết sử khác. Khi vô thường đến hủy hoại thân này, thì huyễn nghiệp ở đời này lại dẫn sanh thân ngũ ấm ở đời sau.
Bởi vậy nên nói ngũ ấm là như huyễn. Nhưng vì ngũ ấm đã kết thành các nghiệp, nên phàm phu chẳng còn nhận ra được thật tướng của ngũ ấm.
–oOo–
Do Phật hỏi như trên, nên ngài Tu Bồ Đề tự nghĩ rằng huyễn cùng sắc chẳng khác nhau. Nếu đã chẳng khác, thì các pháp đều là không. Biết rõ các pháp đều là không, thì vào được chỗ bất sanh, bất diệt. Nhưng nếu là bất sanh, bất diệt, thì làm sao có được quả vị Phật ?
Ngài Tu Bồ Đề lại tự nghĩ rằng nếu là như vậy, thì vì sao Bồ Tát còn phải hành đạo để cầu Vô Thượng Bồ Đề ?
Phật biết rõ tâm niệm của ngài Tu Bồ Đề, nên liền đáp rằng ngũ ấm là hư vọng, chỉ là danh tự. Đã ở trong danh tự, thì chẳng có nghiệp, chẳng có nghiệp ở nhân duyên, chẳng có các tâm và tâm sở pháp, dẫn đến chẳng có cấu, chẳng có tịnh. Vì sao ? Vì là rốt ráo không vậy. Bồ Tát nên như người huyễn mà hành Bát Nhã Ba La Mật. Vì sao ? Vì ngũ ấm tức là người huyễn, người huyễn tức là ngũ ấm, chẳng có gì sai khác cả.
Các nghiệp nhân duyên đời trước là huyễn nghiệp dẫn sanh thân ngũ ấm ở đời sau. Bởi vậy nên ngũ ấm cũng là giả danh, chẳng thể thành Phật được. Vì sao ? Vì tánh của ngũ ấm là vô sở hữu, là như mộng, như tưởng, như ảnh, như diệm, như hóa.
Hỏi : Vì sao nói ngũ ấm tức là lục tình, và lục tình tức là ngũ ấm ?
Đáp : Do ở thập nhị nhân duyên hòa hợp, mà sắc pháp và tâm pháp chưa thuần thục, khiến phải thọ cảnh nên mới sanh ra thức.
Theo thức, sanh ra lục tình. Ở cả hai thời đều có sự tạo tác của ngũ sắc ấm. Khi nói đến lục tình, là nói đến sự thành tựu của ý tình, mà lục tình chẳng ly ngũ ấm.
Hỏi : Ở trong thập nhị nhân duyên đã có nói về ngũ ấm rồi. Nay sao lại nói trong thức, trong lục tình có ngũ ấm ?
Đáp : Vì thức là nguồn gốc hành pháp trong hiện tại của chúng sanh. Tuy nhiên có nhiều người hiểu sai lạc về danh sắc. Nên biết, khi sắc pháp và tâm pháp chưa thuần thục, chưa có công năng, thì chưa thể nói lục tình là chỗ thọ khổ, thọ lạc, hay là chỗ sanh tội, sanh phước được.
Bởi vậy, nên nói ngũ ấm có trong thức và trong lục tình.
Phật biết 500 năm về sau, người tu học sẽ phân biệt các pháp tướng sai khác nhau, mà cho rằng sắc pháp ly thức, và thức ly sắc pháp.
Muốn phá các chấp ấy, khiến người tu học vào được nơi rốt ráo không, nên Phật đã thuyết như trên đây. Tuy trong thức chẳng có lục tình mà Phật thuyết theo thức sanh ra lục tình; tuy trong lục tình chẳng có có ngũ ấm, mà Phật thuyết lục tình tức ngũ ấm, và ngũ ấm tức lục tình.
Lại nữa, vì đời trước trú tâm nơi lục tình, dấy sanh các ức tưởng phân biệt, nên mới sanh ra có ngũ thân ấm ở đời nay. Rồi đời nay trú tâm nơi lục tình, dấy sanh các ức tưởng phân biệt, khởi sanh các kiết sử phiền não, dẫn đến phải tương tục tạo ra thân ngũ ấm ở đời sau.
Bởi nhân duyên vậy, nên nói : Thức tức là lục tình, lục tình tức là ngũ ấm.
Thật ra tất cả các pháp đều là bất khả đắc, vì đều là nội không,… dẫn đến đều là vô pháp hữu pháp không.
KINH:
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Bồ Tát sơ phát tâm, khi nghe thuyết về Bát Nhã Ba La Mật, có kinh, có hãi, có sợ chăng ?
Phật dạy :Này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát mới phát tâm đại thừa, nếu chưa có đủ các lực phương tiện, nếu chẳng gặp được các thiện tri thức, thì mới kinh, mới hãi, mới sợ, khi nghe thuyết về Bát Nhã Ba La Mật.
Ngài Tu Bồ Đề hỏi : Bạch Thế Tôn ! Như thế nào gọi là lực phương tiện, để theo đó Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, mà chẳng kinh, chẳng hãi, chẳng sợ?
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Có Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, đúng theo tâm Tát Bà Nhã, quán sắc vô thường, sắc khổ, sắc vô ngã, sắc không, sắc vô tướng, sắc vô tác, sắc ly, sắc tịch diệt,… dẫn đến quán thức vô thường, thức khổ, thức vô ngã, thức không, thức vô tướng, thức vô tác, thức ly, thức tịch diệt… đều là bất khả đắc. Đây là Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật có các lực phương tiện…
Lại, này Tu Bồ Đề ! Có Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, quán tướng vô thường, tướng khổ, tướng không, tướng vô tướng, tướng vô tác, tướng ly, tướng tịch diệt của ngũ ấm đều là bất khả đắc. Quán như vậy rồi, Bồ Tát phát nguyện rằng ra nên vì chúng sanh, nói về pháp vô thường, pháp khổ, pháp vô ngã, pháp không, pháp vô tướng, pháp vô tác, pháp ly, pháp tịch diệt đều là bất khả đắc. Đây là Bồ Tát hành Đàn Ba La Mật.
Lại, này Tu Bồ Đề ! Có Bồ Tát chẳng dùng tâm Nhị thừa, quán ngũ ấm vô thường,…, dẫn đến chẳng dùng Nhị Thừa quán ngũ ấm tịch diệt đều bất khả đắc. Đây là Bồ Tát hành Thi La Ba La Mật.
Lại, này Tu Bồ Đề ! Có Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, đúng theo tâm Tát Bà Nhã, quán tướng vô thường của ngũ ấm,…, dẫn đến quán tướng tịch diệt của ngũ ấm đều là bất khả đắc, quán sự nhẫn thọ các tướng ấy cũng là bất khả đắc. Đây là Bồ Tát hành Sẵn Đề Ba La Mật.
Lại, này Tu Bồ Đề ! Có Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, đúng theo tâm Tát Bà Nhã quán tướng vô thường của ngũ ấm,… dẫn đến quán tướng tịch diệt của ngũ ấm đều là bất khả đắc. Quán như vậy mà vẫn chẳng xả, chẳng ly tâm Tát Bà Nhã. Đây là Bồ Tát hành Tỳ Lê Gia Ba La Mật.
Lại,này Tu Bồ Đề ! Có Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, chẳng có khởi tâm Nhị Thừa, chẳng có khởi các tâm bất thiện. Đây là Bồ Tát hành Thiền Ba La Mật.
Lại,này Tu Bồ Đề ! Có Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, chẳng hành sắc không,…, dẫn đến chẳng hành thức không, vì biết rõ sắc tức là không, không tức là sắc,…, dẫn đến biết rõ thức tức là không, không tức là thức; chẳng hành nhãn không,…, dẫn đến chẳng hành ý xúc nhân duyên sanh thọ không, vì biết rõ nhãn tức là không, không tức là nhãn,…, dẫn đến biết rõ ý xúc nhân duyên sanh thọ; chẳng hành tứ niệm xứ,…, dẫn đến chẳng hành thập bát bất cộng pháp, vì biết rõ tứ niệm xứ tức là không, không tức là tứ niệm xứ,…, dẫn đến biết rõ thập bát bất cộng pháp tức là không, không tức là thập bát bất cộng pháp, Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật như vậy nên chẳng kinh, chẳng hãi, chẳng sợ.
Ngài Tu Bồ Đề hỏi : Bạch Thế Tôn ! Thế nào là bậc thiện tri thức hộ trì, khiến Bồ Tát chẳng kinh, chẳng hãi, chẳng sợ !
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Có vị thiện tri thức thuyết sắc vô thường, sắc khổ, sắc vô ngã, sắc không, sắc vô tướng, sắc vô tác, sắc ly, sắc tịch diệt đều là bất khả đắc,…, dẫn đến thuyết ý xúc nhân duyên sanh thọ cũng đều là như vậy; lại thuyết giữ gìn thiện căn, chẳng hướng về Thanh Văn và Bích Chi Phật đạo, mà chỉ hướng về Nhất Thiết Chủng Trí. Đây là bậc thiện tri thức của Bồ Tát.
Lại, này Tu Bồ Đề ! Có vị thiện tri thức thuyết tứ niệm xứ,…, dẫn đến thập bát bất cộng pháp đều là bất khả đắc; lại thuyết giữ gìn thiện căn, chẳng hướng về Thanh Văn và Bích Chi Phật đạo, mà chỉ hướng về Nhất Thiết Chủng Trí. Đây là bậc thiện tri thức của Bồ Tát.
LUẬN :
Hỏi : Vì sao ngày Tu Bồ Đề khởi tâm nghi, và hỏi Phật “Bồ Tát sơ phát tâm, khi nghe thuyết về Bát Nhã Ba La Mật có kinh, có hãi, có sợ chăng” ?
Đáp : Vì ngài nghe nói chẳng thật có Bồ Tát, chẳng thật có Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, chẳng thật có ngũ ấm, nên sanh nghi vậy.
–oOo–
Phật dạy do nội ngoại nhân duyên chưa đầy đủ, nên Bồ Tát sơ phát tâm mới sanh sợ hãi.
– Về nội nhân duyên, thì do chẳng có chánh ức niệm, do ở trong chúng sanh, mà chẳng có đại bi tâm, chẳng có các lức phương tiện.
– Về ngoại nhân duyên, thì do chưa được nghe thuyết về Bát Nhã Ba La Mật, chẳng có các bậc thiện tri thức chỉ bày các đoạn nghi.
Do nội ngoại nhân duyên chưa đầy đủ nhu vậy, nên Bồ Tát sơ phát tâm, khi nghe thuyết về Bát Nhã Ba La Mật, liền sanh tâm sợ hãi.
–oOo–
Khi ngài Tu Bồ Đề hỏi về các lực phương tiện, thì Phật dạy rằng “Bồ Tát phải tương ưng với Nhất Thiết Chủng Trí, và khi hành Phật sự phải quán hết thảy pháp đều là bất khả đắc”.
Hỏi : Trước đây nói Bồ Tát có lực phương tiện, biết rõ sắc cùng hết thảy pháp là vô thường,…, nên chẳng có sợ hãi. Nay vì sao nói Bồ Tát quán các pháp đúng theo tâm Tát Bà Nhã, hướng về Nhất Thiết Chủng Trí, nên chẳng sợ hãi ?
Đáp : Trước đây nói trường hợp Bồ Tát quán các pháp đều “không”, nhưng vì tâm còn thô trọng, nên đã khởi chấp về “không”. Nay nói về trường hợp Bồ Tát ức tưởng quán phân biệt, ở trong chúng sanh mà khởi tâm đại bi, chẳng chấp hết thảy pháp, nên ở nơi trí huệ được vô sở đắc. Vì muốn độ chúng sanh, nên khi hành các pháp vô thường, khổ, vô ngã v.v…, mà Bồ Tát vẫn quán các pháp đó đề bất khả đắc. Lại vì muốn chúng sanh lìa chấp điên đảo, mà Bồ Tát thuyết như vậy.
–oOo–
Tâm Bồ Tát chẳng còn đắm chấp, nên chẳng còn thấy có pháp gì để trụ chấp cả. Như thầy thuốc, chẩn mạch, bốc thuốc, chỉ nhằm chữa trị cho các bệnh nhân chóng lành bệnh. Khi bệnh nhân đã được hoàn toàn bình phục rồi thì chẳng còn bảo họ phải dùng thuốc nữa.
–oOo–
Nên biết pháp thì, tài thí mà chẳng thủ chấp, mới là Đàn Ba La Mật.
Đàn Ba La Mật cùng với năm Ba La Mật kia chỉ là những phương thuốc hay, mà Bồ Tát dùng để độ chúng sanh. Bồ Tát phải xả bỏ các Ba La Mật, dẫn đến phải xả bỏ thập bát KHÔNG, mới thấy được sắc tức là không, không tức là sắc vậy. Vì sao ? Vì từ trước đến nay, các pháp vốn tự tánh không.
–oOo–
Cũng nên biết bậc thiện tri thức của Bồ Tát là người dùng trí huệ Bát Nhã để hướng dẫn Bồ Tát biết rõ các pháp vô thường, khổ, vô ngã, v.v… đều là bất khả đắc; rồi dạy Bồ Tát hồi hướng công đức về Vô Thượng Bồ Đề.
KINH :
Ngài Tu Bồ Đề hỏi : Bạch Thế Tôn ! Như thế nào gọi là Bồ Tát hành Bát Nhã Ba Mật, mà chẳng có các lực phương tiện ?
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Nếu đã tùy theo ác tri thức rồi, thì khi nghe thuyết về Bát Nhã Ba La Mật, liền sanh tâm sợ hãi.
Này Tu Bồ Đề ! Có Bồ Tát, ly tâm Tát Bà Nhã, mà tu Bát Nhã Ba La Mật, rồi niệm được Bát Nhã Ba La Mật, và cũng niệm được năm pháp Ba La Mật kia.
Lại có Bồ Tát, ly tâm Tát Bà Nhã, mà quán ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới, quán nội không,… dẫn đến quán vô pháp hữu pháp không; rồi ở nơi các pháp không, dấy niệm đắc.
Lại có Bồ Tát, ly tâm Tát Bà Nhã, mà tu tứ niệm xứ,…, dẫn đến tu thập bát bất cộng pháp; rồi dấy niệm đắc.
Phải biết, đây là hạng Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, mà chẳng có các lực phương tiện, nên khi nghe thuyết về Bát Nhã Ba La Mật liền sanh tâm sợ hãi.
Ngài Tu Bồ Đề hỏi : Bạch Thế Tôn ! Vì sao nói Bồ Tát đã tùy theo ác tri thức rồi, thì nghe Bát Nhã Ba La Mật liền sanh sợ hãi ?
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Có ác tri thức dạy xa lìa Bát Nhã Ba La Mật, và xa lìa năm Ba La Mật kia.
Lại có ác tri thức dạy chẳng có ác ma, chẳng có ma sự.
Lại có ác tri thức, giả hiện thân Phật, đến dạy tu Bát Nhã Ba La Mật, dạy tu năm Ba La Mật kia.
Lại có ác tri thức, giả hiện thân Thanh Văn, dạy tu theo kinh Thanh Văn.
Lại có ác ma, giả hiện thân Phật, đến nói với người tu rằng “Ngươi chẳng có chân tâm, nên ngươi chẳng sao có thể có được Vô Thượng Bồ Đề”.
Lại có ác ma đến nói với người tu rằng “Sắc là không, là vô ngã, thọ, tưởng, hành, thức là không, là vô ngã,…, nhãn xúc nhân duyên sanh thọ,… dẫn đến ý xúc nhân duyên sanh thọ là không, là vô ngã; tứ niệm xứ,…, dẫn đến thập bát bất cộng pháp là không, là vô ngã. Như vậy, ngươi còn cầu Vô Thượng Bồ Đề làm gì nữa ?”.
Lại có ác ma, giả hiện thân Bích Chi Phật, đến nói với người tu rằng “mười phương đều là không, trong đó chẳng có Bồ Tát, chẳng có Thanh Văn”.
Lại có ác ma, giả hiện thân Hòa Thượng, đến bảo Bồ Tát rời khỏi Bồ Tát đạo, rời bỏ Nhất Thiết Chủng Trí, rời bỏ tứ niệm xứ, rời bỏ bát Thánh đạo, rời bỏ sáu pháp Ba La Mật, rời bỏ thập bát bất cộng pháp, rời bỏ luôn các tam muội không, vô tướng và vô tác và khuyên Bồ Tát nên chứng Tứ quả Thanh Văn.
Lại có ác ma giả hiện thân cha mẹ, đến nói với Bồ Tát rằng “con hãy nên tu chứng Tứ quả Thanh Văn còn quả Vô Thượng Bồ Đề thì phải tu trong vô lượng a tăng kỳ kiếp, phải ở trong các nẻo đường sanh tử, thọ vô lượng khổ đau, như bị chặt tay chân v.v…
Lại có ác ma giả hiện thân Tỳ Kheo, đến nói với Bồ Tát rằng “các pháp vô thường, khổ, không, vô ngã,… đều là những pháp có thể được (hữu khả đắc) nhãn,…, dẫn đến ý, tứ niệm xứ,…, dẫn đến thập bát bất cộng pháp cũng đều là những pháp có thể được cả.
Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Những ác ma hiện ra các ma sự trên đây đều là những ác tri thức của Bồ Tát. Người tu hành biết như vậy rồi, phải nên xa lìa các ác tri thức.
LUẬN :
Trước đây đã lược nói về sự tu mà chẳng có các lực phương tiện. Nay rộng nói về ảnh hưởng của sự tu chẳng có các lực phương tiện, khiến phải bị các ác ma cám dỗ.
Nơi đây nêu lên các trường hợp Bồ Tát ly hết thảy trí tâm, tu sáu pháp Ba La Mật, dẫn đến tu thập bát bất cộng pháp mà còn niệm đắc, là Bồ Tát tu mà chẳng có các lực phương tiện.
–oOo–
Người tu mà chẳng có các lực phương tiện rất dễ bị cám dỗ. Vì sao ? Vì các ác tri thức có muôn ngàn phương kế để hại người tu hành.
Đây là đại ác nhân duyên, nên Phật phải vạch rõ các mưu mô thâm độc của ác tri thức, để người tu được rõ mà cảnh giác, nhằm xa lìa họ. Phật dạy cho Bồ Tát thấy rõ các hành tướng mà ác tri thức thường dùng để làm cho Bồ Tát thối tâm Đại Thừa, như dạy Bồ Tát xa lìa sáu pháp Ba La Mật, xa lìa Bồ Tát đạo… hoặc tán thán pháp Tiểu Thừa v.v… Nếu người tu mà chẳng có các lực phương tiện, thì chẳng có thể biết những sự việc như vậy, đều là ma sự cả.
Ma làm chủ cõi Dục, có thể lực lớn, lại thường ghét người hành đạo chân chánh. Phật và chư đại Bồ Tát có oai đức tự tại, nên các ác ma chẳng thể hại được. Còn các tiểu Bồ Tát, vì chưa có các lực phương tiện, nên thường bị các ác ma đến làm hại. Ví như :
– Có ác ma giả hiện thân Phật đến nói với Bồ Tát rằng “Ngươi chẳng thể làm Phật được, ngươi nên biết các pháp đều rỗng không, tam thừa đạo cũng rỗng không, nên người cầu Phật đạo chỉ là danh suông”.
– Có ác ma, giả hiện thân Hòa Thượng, hoặc thân cha mẹ, khuyên Bồ Tát xa lìa Bồ Tát đạo, và khuyên tu chứng Tứ quả Thanh Văn.
– Có ác ma, giả hiện thân Tỳ Kheo, đến dạy Bồ Tát rằng “Tất cả các pháp đều là hữu sở đắc v.v…”
Như vậy các ác tri thức có vô lượng mưu mô thâm độc để hại Bồ Tát.
–oOo–
Ác tri thức còn nguy hại hơn cả giặc cướp.
Giặc cướp chỉ chiếm đoạt của cải, chỉ giết hại một thân, chỉ phá hoại một đời. Còn ác tri thức gây tác hại trong nhiều đời, nhiều kiếp.
Giặc cướp chỉ hại người cướp của, còn ác tri thức hại huệ căn và đoạt vô lượng Phật pháp bảo.
Người tu hành phải nên biết rõ như vậy, phải giữ gìn thân tâm và phải xa lìa các ác tri thức.
***
Phẩm thứ mười hai
Cú Nghĩa
KINH :
Lúc bấy giờ, ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Thế nào gọi là Bồ Tát cú nghĩa ?
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Vô cú nghĩa là Bồ Tát cú nghĩa. Vì sao ? Vì Vô Thượng Bồ Đề chẳng có nghĩa xứ nên cú nghĩa là vô ngã. Bởi vậy nên nói “vô cú nghĩa” là Bồ Tát cú nghĩa.
Này Tu Bồ Đề ! Ví như chim bay giữa hư không chẳng để lại dấu vết, thì Bồ Tá cú nghĩa cũng là như vậy. Ví như cảnh trong mộng, chẳng có chỗ y xứ (vô sở hữu xứ) thì Bồ Tát cú nghĩa cũng là như vậy. Ví như huyễn chẳng có thật nghĩa, chẳng có chỗ y xứ (vô sở hữu xứ), thì Bồ Tát cú nghĩa cũng là như vậy. Ví như Phật hóa chẳng có thật nghĩa, chẳng có chỗ y xứ (vô sở hữu xứ), thì Bồ Tát cú nghĩa cũng là như vậy. Ví như pháp như, pháp tánh, pháp tướng, pháp vị, thật tế chẳng có thật nghĩa, chẳng có chỗ y xứ (vô sở hữu xứ), thì Bồ Tát cú nghĩa cũng là như vậy.
Này Tu Bồ Đề ! Lại ví như ngũ ấm của người huyễn chẳng có thật nghĩa, chẳng có chỗ y xứ (vô sở hữu xứ), thì Bồ Tát cú nghĩa cùng là như vậy.
Lại ví như nhãn,…, dẫn đến ý, nhãn thức,…, dẫn đến ý thức, nhãn xúc,…, dẫn đến ý xúc, nhãn xúc nhân duyên sanh thọ,…, dẫn đến ý xúc nhân duyên sanh thọ v.v… của người huyễn chẳng có thật nghĩa, chẳng có chỗ y xứ (vô sở hữu xứ), thì Bồ Tát cú nghĩa cũng là như vậy.
Lại ví như người huyễn hành tứ niệm xứ… dẫn đến hành thập bát bất cộng pháp chẳng có thật nghĩa, chẳng có chỗ y xứ (vô sở hữu xứ), thì Bồ Tát cú nghĩa cũng là như vậy.
Lại ví như trong tánh hữu vi, chẳng có tành vô vi, trong tánh vô vi chẳng có tánh hữu vi, thì “Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật” cú nghĩa cũng chẳng có chỗ y xứ (vô sở hữu xứ) như vậy.
Lại ví như bất sanh, bất diệt… đều chẳng có chỗ y xứ (vô sở hữu xứ), thì Bồ Tát cú nghĩa cũng là như vậy.
Ngài Tu Bồ Đề hỏi : Bạch Thế Tôn ! Thế nào gọi là vô sở hữu xứ ?
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Vì sắc,…, dẫn đến thức, sắc,…, dẫn đến pháp, nhãn,… dẫn đến ý,… tứ niệm xứ,…, dẫn đến thập bát bất cộng pháp v.v… đều là bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh nên đều là vô sở hữu xứ. Bồ Tát cú nghĩa cũng là như vậy.
Này Tu Bồ Đề ! Ví như ở nơi tịnh tâm, ngã là bất khả đắc, đều là vô sở hữu xứ, dẫn đến tri giả, kiến giả đều là bất khả đắc, đều là vô sở hữu xứ. “Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật” cú nghĩa cũng là bất khả đắc, là vô sở hữu xứ như vậy.
Này Tu Bồ Đề ! Ví như mặt trời mọc lên, chẳng còn chỗ tối tăm, thì “Bồ Tát hành Bát Nhã Ba Mật” cú nghĩa cũng là vô sở hữu xứ như vậy.
Này Tu Bồ Đề ! Ví như trong Phật giới chẳng có chỗ phá giới, thì “Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật” cú nghĩa cũng là vô sở hữu xứ như vậy.
Này Tu Bồ Đề ! Ví như trong Phật định chẳng còn có chỗ loạn, trong trí huệ chẳng còn có chỗ ngu si, trong Phật giải thoát chẳng còn có chỗ không giải thoát, trong Phật giải thoát tri kiến chẳng còn có chỗ không giải thoát tri kiến thì “Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật” cú nghĩa cũng là vô sở hữu xứ như vậy.
Này Tu Bồ Đề ! Ví như khi Phật phóng quang minh thì ánh sáng của mặt trời, mặt trăng cũng như quang minh của chư Thiên chẳng có thể hiện ra được. “Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật” cú nghĩa cũng là vô sở hữu xứ như vậy.
Vì sao ? Vì ở nơi hết thảy pháp, Vô Thượng Bồ Đề Bồ Tát và Bồ Tát cú nghĩa đều chẳng tập, chẳng tán, chẳng có hình, chẳng có sắc, đều chỉ là một tướng (nhất tướng), cũng chính là chẳng có tướng (vô tướng) vậy.
Này Tu Bồ Đề ! Được như vậy thì ở nơi hết thảy pháp đều vô ngại. Vô ngại tướng chính là nhất tướng, là vô tướng. Bồ Tát phải nên học, nên biết như vậy.
LUẬN :
Hỏi : Trước đây Phật và ngài Tu Bồ Đề đã phá Bồ Tát danh tự. Nay vì sao lại nói về Bồ Tát cú nghĩa ?
Đáp : Ngài Tu Bồ Đề phá Bồ Tát danh tự. Phật chẳng trực tiếp phá, mà noi Bồ Tát danh tự là rốt ráo không, chỉ do ngũ ấm hòa hợp nên giả danh có Bồ Tát, có chúng sanh.
Chúng sanh lầm chấp cho rằng giả danh đó là thật có. Phật dạy rằng giả danh đó chẳng thật có, chỉ do các duyên hòa hợp nên có vậy thôi.
Ngài Tu Bồ Đề nương nơi Bồ Tát danh tự là tánh không mà nói về Bát Nhã Ba La Mật tướng. Nay ngài muốn rõ thêm về Bồ Tát cú nghĩa, nên mới thưa hỏi Phật.
–oOo–
Nên biết Phật có sáu mươi thứ âm thanh, khiến hàng Trời, Người đều thích nghe, và nếu đã được nghe, ắt được đại lợi ích. Ví như :
– Người chưa phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, nay khiến phát tâm Vô Thượng Bồ Đề.
– Người chưa hành sáu pháp Ba La Mật, nay khiến hành sáu pháp Ba La Mật.
– Người chưa thanh tịnh, nay khiến được thanh tịnh.
– Người đã được thanh tịnh rồi, nay khiến được an trú trong bất thối chuyển địa, thành tựu chúng sanh, được đầy đủ thiện pháp, dẫn đến được Nhất Sanh Bổ Xứ, đầy đủ các lợi ích nhân duyên.
Lại nữa, nhờ có ngài Tu Bồ Đề thưa hỏi mà Phật mới chứng duyên để nói pháp cho hết thảy thế giới trong khắp cả mười phương, khiến chúng sanh ở khắp các thế giới cùng các chúng sanh trong hội đều được nghe.
–oOo–
Phật mật ý chỉ rõ về pháp “không”, khi nói với ngài Tu Bồ Đề rằng “vô cú nghĩa” là Bồ Tát cú nghĩa, Vô Thượng Bồ Đề là vô sở hữu xứ, pháp không là vô ngã, cho nên cũng chẳng có người được đạo.
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Nếu ông biết Vô Thượng Bồ Đề là vô ngã, chỗ đắc Vô Thượng Bồ Đề cũng là vô ngã, thì A La Hán và Bồ Tát, ở nơi Vô Thượng Bồ Đề cũng vô ngã, vô ngã sở. Ví như chim bay giữa hư không cũng là như vậy. Hư không chẳng có chỗ y chỉ, thì Bồ Tát cú nghĩa cũng là như vậy. Bởi vậy nên nói vô cú nghĩa là Bồ Tát cú nghĩa.
Hỏi : Thế nào là Bồ Tát cú nghĩa ?
Đáp : Bên Thiên Trúc lấy các mẫu tự ghép lại thành từ đơn, từ kép. Các từ hòa hợp ghép lại thành câu cũng gọi là cú.
Ví dụ khi hai từ Bồ và Đề được ghép lại thành Bồ Đề, thì có nghĩa là trí huệ vô thượng, nếu hai từ ấy chẳng ghép lại thì chẳng có nghĩa này.
Bồ Tát cũng gọi là đại tâm, là trí huệ vô thượng. Do đại tâm mà phát nguyện muốn khiến hết thảy chúng sanh đều thành tựu đạo vô thượng, nên gọi là Bồ Đề Tát Đỏa.
Đây là do ghép hai từ kép Bồ Đề và Tát Đỏa lại với nhau mà thành nghĩa của Bồ Đề Tát Đỏa.
Hỏi : Dùng dụ “chim bay chẳng lưu dấu vết” cũng đủ để cho thấy “Bồ Tát cú nghĩa” là chẳng có thật nghĩa, là vô sở hữu xứ rồi. Như vậy, vì sao còn giải rộng thêm, còn nêu nhiều dụ nữa ?
Đáp : Vì chúng sanh nghe pháp, mỗi người hiểu theo một cách, chẳng có đồng đều nhau :
– Có người thích nghĩa.
– Có người thích nghe thí dụ mới rõ nghĩa. Vì sao ? Vì thí dụ có tác dụng tâm lý, khiến người nghe chăm chú hơn.
Lại nữa, khi thuyết giảng, có thể nêu lên nhiều thí dụ cùng nghĩa, để làm sáng tỏ vấn đề. Ví như nói như mộng, như hưởng, như hóa… để nhằm nên lên nghĩa hư vọng, chẳng thật có. Bồ Tát cú nghĩa cũng là như vậy, cũng là hư vọng, chẳng có thật nghĩa. Bồ Tát biết rõ như vậy nên chẳng tự cao tự mãn.
Lại nữa, khi nói pháp như, pháp tánh, pháp tướng, thật tế, đều là không, thì các cú nghĩa đó cho thấy rõ hết thảy các pháp hữu vi và vô vi đều là không. Chẳng có ngũ ấm, chẳng có chúng sanh,…, dẫn đến chẳng có Phật pháp, chẳng có Bồ Tát, chẳng có Phật.
Hết thảy pháp đều bình đẳng, đều bất sanh bất diệt. Vì chẳng có các tướng sanh diệt nên hết thảy các pháp chỉ là một tướng (nhất tướng), là chẳng có tướng (vô tướng). Ví như có chấp ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo, thì ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo chẳng còn thanh tịnh nữa. Vì sao ? Vì có chấp ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo, là có sanh kiết sử, mà tướng thanh tịnh là bất khả đắc.
Hỏi : Ngã, tri giả, kiến giả… có tướng thanh tịnh chăng ?
Đáp : Dùng mọi cách để tìm cầu ngã tướng thì ngã tướng cũng là bất khả đắc. Nơi đệ nhất nghĩa đế, thì ngã chẳng phải tịnh, cũng chẳng phải bất tịnh. Ví như, đem xác một con chó chết rửa sạch từ lông, da, thịt, xương, tủy v.v… Khi đã rửa sạch hết rồi, thì sẽ chẳng phải là chó, mà cũng sẽ chẳng phải là gì hết. Bởi vậy nên chẳng thể nói xác chết con chó là tịnh hay là bất tịnh được.
Dẫn đến tri giả, kiến giả cũng đều là như vậy cả.
Nếu dùng “vô ngã trí huệ” mà tìm cầu, thì ngã tướng là bất khả đắc, nên là chẳng phải ngã, cũng chẳng phải chẳng ngã. Ví như mặt trời xuất hiện, thì bóng tối liền tan biến, ví như đến thời kiếp tận, thì chẳng còn có vật gì tồn tại cả, lại ví như nói Phật có ngũ ấm, nói trong giới có phá giới… là chẳng thể được (bất khả đắc) vậy.
Lại nữa, ví như khi có ánh hào quáng của Phật hiện ra, thì ánh sáng của mặt trời, mặt trăng… cũng như ánh hào quang của chư Thiên đều chẳng thể hiện ra được.
Bồ Tát cú nghĩa cũng là như vậy. Khi đã vào trong Bát Nhã Ba La Mật rồi, thì chẳng còn hiện các tướng khác nữa.
Bởi vậy nên Bồ Tát phải học hết thảy các pháp, mà đừng chấp các pháp tướng, phải biết rõ các pháp tướng đều là bất khả đắc.
KINH:
Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Bạch Thế Tôn ! Vì sao nói ở nơi hết thảy pháp, Bồ Tát đều được vô ngại tương ưng ?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát biết hết thảy thiện pháp, bất thiện pháp, ký pháp, vô ký pháp, thế gian pháp, xuất thế gian pháp, hữu lậu pháp, vô lậu pháp, cộng pháp, bất cộng pháp… đều là bất khả đắc cả. Bởi vậy nên Bồ Tát ở nơi hết thảy pháp đều được vô ngại tương ưng.
Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Bạch Thế Tôn ! Thế nào gọi là thế gian thiện pháp ?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Thế gian thiện pháp là hiếu thuận với cha mẹ, cùng dường Sa Môn và Bà La Môn, kính trọng các bậc tôn trưởng, bố thí, trì giới, tu tịnh, khiến tu thập thiện nghiệp đạo,… cùng vô lượng các pháp phương tiện nhằm sanh phước đức. Dẫn đến tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, cửu tưởng quán, thập niệm… cũng đều là thế gian thiện pháp cả.
Bất thiện pháp là sát sanh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, ác khẩu, tà kiến v.v…
Nên biết thiện pháp và bất thiện pháp gọi là ký pháp. Còn thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, tứ đại, ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới… là vô ký pháp.
Này Tu Bồ Đề ! Những gì thế gian pháp ? Ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới, thập thiện nghiệp đạo, thập bất thiện nghiệp đạo, tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định… đều là thế gian pháp.
Này Tu Bồ Đề ! Những gì xuất thế gian pháp ? Tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chỉ, bát Thánh đạo, Không giải thoát môn, vô tướng giải thoát môn, vô tác giải thoát môn, vị tri dục tri căn, tri căn, dĩ tri căn, hữu giác hữu quán tam muội, vô giác hữu quán tam muội, vô giác vô quán tam muội, bát bối xả, nội không… dẫn đến vô pháp hữu pháp không, thập lực, tứ vô ngại trí, tứ vô sở úy, thập bát bất cộng pháp, nhất thiết chủng trí… đều là xuất thế gian pháp.
Này Tu Bồ Đề ! Những gì là hữu lậu pháp ? Ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới, sáu chủng, lục xúc, lục thọ, tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định… đều là hữu lậu pháp.
Này Tu Bồ Đề ! Những gì là vô lậu pháp ? Tứ niệm xứ, dẫn đến thập bát bất cộng pháp, nhất thiết chủng trí… đều là vô lậu pháp.
Này Tu Bồ Đề ! Những gì là hữu vi pháp ? Các pháp có sanh, có trú, có diệt ở cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô Sắc đều là hữu vi pháp. Ví như ngũ ấm dẫn đến ý xúc nhân duyên sanh thọ, tứ niệm xứ dẫn đến thập bát bất cộng pháp, nhất thiết chủng trí v.v…
Này Tu Bồ Đề ! Những gì là vô vi pháp ? Các pháp bất sanh, bất trú, bất diệt là vô vi pháp. Ví như tham, sân, si, pháp như pháp tánh, pháp tướng, pháp vị, thật tế v.v…
Này Tu Bồ Đề ! Những gì là cộng pháp ? Tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định,… đều là cộng pháp.
Này Tu Bồ Đề ! Những gì là bất cộng pháp ? Tứ niệm xứ dẫn đến thập bát bất cộng pháp,… đều là bất cộng pháp.
Này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát biết rõ các pháp là không, ở trong không mà chẳng chấp không. Vì sao ? Vì nếu có khởi niệm chấp trước, thì đó là loạn động.
Bồ Tát vào trong “bất nhị tướng môn”, nên được tâm bất động.
Đây là Bồ Tát cú nghĩa vậy.
LUẬN:
Hỏi: Vì sao trước hết ngài Tu Bồ Đề lại hỏi Phật về thế gian thiện pháp ?
Đáp: Trước hết phải biết rõ thế gian tướng rồi sau đó mới có thể biết rõ được xuất thế gian tướng.
Phải ở trong thế gian mới thấy được có nhân quả, có phước báo, có nghiệp tội, có đời này, có đời sau, có Hiền Thánh, có Phật…
Thế gian thiện pháp dạy người phải hiếu thuận với cha mẹ, phải tôn kính các bậc tôn trưởng, cũng dạy người cúng dường các bậc Sa Môn và Bà La Môn, là những người tu phạm hạnh mà người thế gian khó có thể làm được, nên đáng được cúng dường.
Lại nữa, thế gian thiện pháp còn khuyên tu các phương tiện sanh phước đức, như thập thiện nghiệp đạo, bố thí, trì giới, thiền định,… dẫn đến tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, cửu tưởng quán, thập niệm v.v… cũng đều là thế gian thiện pháp. Nhờ được các thiện nghiệp mà người tu hành chế ngự được các ác tâm, khiến sanh được phước đức.
Trái với các thiện pháp là các bất thiện pháp.
–oOo–
Các oai nghi, công xảo, các biến hóa khởi từ thân và khẩu nghiệp, nhiếp về vô ký pháp.
Còn ngũ ấm thân nghiệp, chẳng phải là vô ký pháp, vì khi duyên diệt, thì ngũ ấm cũng như hư không. Tuy nhiên, ở nơi thế gian pháp, thì ngũ ấm vẫn có thiện, có bất thiện, có vô ký.
Phàm phu tu các thiện pháp, nhưng chẳng có thể siêu xuất thế gian, nên thiện pháp của phàm phu chỉ được gọi là thế gian thiện pháp.
–oOo–
Xuất thế gian pháp gồm ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo, ba giải thoát môn (Không, Vô Tướng và Vô Tác), ba vô lậu căn (vi tri dục tri căn, tri căn và dĩ tri căn), hữu giác hữu quán tam muội, vô giác hữu quán tam muội, vô giác vô quán tam muội, bát bối xả, thập Phật lực, tứ vô sở úy, tứ vô ngại trí, thập bát bất cộng pháp.
–oOo–
Lại nữa, dùng chánh ức niệm mà quán thật tướng pháp, tùy thân pháp mà hành hết thảy thiện pháp thì gọi là đốn tu.
Như vậy là trước rộng nói về các pháp tu. Nay chỉ nói nhất tâm tu tứ niệm xứ là được đạo.
–oOo–
Phàm phu chẳng có thể tu bát bối xả, thập bát không, thập lực, tứ vô sở úy, tứ vô ngại trí, thập bát bất cộng pháp… vì đây là những pháp tu xuất thế gian. Phải có đầy đủ chánh niệm, chánh huệ và chánh tư duy mới tu được.
Tuy có phân biệt thế gian pháp và xuất thế gian pháp nhưng ở đây chỉ đặc biệt nói về các hữu lậu pháp mà thôi.
Nên biết: tứ thiền, tứ vô sắc định… là hữu lậu pháp, còn tứ niệm xứ… dẫn đến thập bát bất cộng pháp là vô lậu pháp.
Lại cũng nên biết : Pháp có sanh, có trú, có diệt là hữu vi pháp, pháp bất sanh, bất trú, bất diệt và vô vi pháp.
Tứ niệm xứ… dẫn đến thập bát bất cộng pháp, đều là vô lậu, vô vi pháp. Nhưng khi được dùng làm pháp tu, thì cũng là hữu vi pháp. Trái lại, khi chẳng còn tướng hữu vi nữa thì lại trở thành vô vi pháp.
Lại nữa, khi đã tổng phá được tam độc tham, sân, si, cùng các phiền não khác rồi, và đã tổng phá ngũ ấm rồi thì hết thảy các pháp tướng đều trở thành như thật pháp tướng, như thật pháp tánh, thật tế, và đều trở thành vô vi pháp cả.
Hỏi: Sắc là hữu vi pháp, như như là vô vi pháp. Như vậy làm sao có thể nói : sắc tức là như, như tức là sắc, sắc chẳng ly như, như chẳng ly sắc ?
Đáp: Phàm phu và chư Thánh nhìn sắc theo hai góc cạnh khác nhau :
– Phàm phu dùng nhục nhãn để nhìn sắc, nên khởi niệm tưởng phân biệt các sắc tướng.
– Chư Thánh biết rõ thật tướng pháp, nên thấy sắc là như tướng, là Niết Bàn tướng.
–oOo–
Lại nữa, khi vào trong thiền định, thiền giả thấy rõ cộng xứ nơi các pháp, nên gọi tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định v.v… là cộng pháp. Còn tứ niệm xứ… dẫn đến thập bát bất cộng pháp, thì gọi là bất cộng pháp.
Thế nhưng, bản thể của hết thảy các pháp đều là pháp như, pháp tánh, pháp tướng, pháp vị, thật tế cả.
Bồ Tát biết rõ hết thảy các pháp đều là duyên sanh, nên đều tự tánh không, là vô tánh vậy.
Bồ Tát an trú nơi thật tướng pháp, được vô ngại, được bất động. Vì sao ? Vì vào “bất nhị pháp môn” là vào được thật tướng pháp, là được vô vi bất động.
(Hết quyển 44)