LUẬN
ĐẠI TRÍ ĐỘ
Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ kheo ni THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG
TẬP IV
QUYỂN 77
Phẩm thứ sáu mươi mốt
(Tiếp theo)
Mộng Trung Bất Chứng
(Tiếp theo)
KINH:
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Những gì là tướng của Bát Nhã Ba La Mật ?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Hư không tướng là tướng của Bát Nhã Ba La Mật. Bát Nhã Ba La Mật là vô sở hữu tướng.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Các pháp đều tùy duyên sanh. Như vậy, tướng của các pháp cũng đồng như tướng của Bát Nhã Ba La Mật chăng ?
Phật dạy: Đúng như vậy, đúng như vậy ! Này Tu Bồ Đề ! Tướng của các pháp cũng đồng như tướng của Bát Nhã Ba La Mật. Vì sao ? Vì các pháp đều là ly tướng, đều là vô tướng. Bởi vậy nên nói tướng của các pháp cũng đồng như tướng của Bát Nhã Ba La Mật.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Nếu hết thảy pháp đều là ly tướng, đều chẳng có tướng, thì làm sao có thể biết được tâm chúng sanh là cấu hay là tịnh?
Bạch Thế Tôn ! Nếu các pháp là ly tướng, là chẳng có tướng, thì cũng là chẳng cấu, chẳng tịnh. Như vậy, thì cũng chẳng có Vô Thượng Bồ Đề. Vì ly tướng và chẳng có tướng, thì chẳng có pháp nào có thể đắc được vậy.
Bạch Thế Tôn ! Trong ly tướng, trong vô tướng, thì chẳng có Bồ Tát đắc Vô Thượng Bồ Đề. Như vậy, làm sao con có thể hiểu được pháp nghĩa mà Phật vừa dạy?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Ý ông nghĩ sao ? Chúng sanh có hiện hành ngã tâm và ngã sở tâm chăng?
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Đúng như vậy, đúng như vậy ! Bạch Thế Tôn ! Chúng sanh vẫn thường hiện hành ngã tâm và ngã sở tâm.
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Ý ông nghĩ sao ? Ngã tâm và ngã sở tâm có phải là ly tướng, có phải là vô tướng chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Ngã tâm và ngã sở tâm là ly tướng, là vô tướng.
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Ý ông nghĩ sao ? Ngã tâm và ngã sở tâm có qua lại trong các nẻo đường sanh tử chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn !
Ngã tâm và ngã sở tâm của chúng sanh có qua lại trong các nẻo đường sanh tử.
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Vì chúng sanh hiện hành ngã tâm và ngã sở tâm, khiến phải qua lại trong các nẻo đường sanh tử, nên là có cấu, có não.
Nếu chúng sanh chẳng có hiện hành ngã tâm và ngã sở tâm, chẳng chấp trước các tâm ấy, thì chẳng còn qua lại trong các nẻo đường sanh tử. Nếu chẳng qua lại trong các nẻo đường sanh tử, thì cũng chẳng có cấu, chẳng có não. Như vậy là được tâm thanh tịnh.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Nếu Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật như vậy, là chẳng hành sắc … dẫn đến chẳng hành thức, chẳng hành nội không… dẫn đến chẳng hành vô pháp hữu pháp không, chẳng hành 4 niệm xứ … dẫn đến chẳng hành 8 thánh đạo, chẳng hành 10 Phật lực … dẫn đến chẳng hành nhất thiết chủng trí. Vì sao ? Vì hết thảy pháp đều là bất khả đắc. Như vậy là chẳng có người hành pháp, chẳng có chỗ hành pháp, chẳng có pháp để hành.
Bạch Thế Tôn ! Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật như vậy, nên hết thảy thế gian, Trời, Người, A Tu La chẳng thể hàng phục được; hết thảy hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật chẳng thể bằng được. Vì sao ? Vì Bồ Tát này trú ở nơi “vô sở trú” nên chẳng có ai sánh kịp. Đó là Bồ Tát vị.
Bạch Thế Tôn ! Bồ Tát này hành đúng với Tát Bà Nhã tâm, nên chẳng có ai sánh kịp.
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát này hành như vậy, nên mau được nhất thiết chủng trí.
Này Tu Bồ Đề ! Ý ông nghĩ sao ! Nếu hết thảy chúng sanh ở cõi Diêm Phù Đề đều được thân người, đều hành nhân đạo, … dẫn đến đều được Vô Thượng Bồ Đề; lại có Thiện Nam, Thiện Nữ suốt đời cung kính, tôn trọng, cúng dường, tán thán chư Phật, rồi tùy hỷ hồi hướng các thiện căn về Vô Thượng Bồ Đề.
Phước đức của những người ấy có nhiều chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Phước đức của những người ấy nhiều vô lượng.
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Phước đức của những người ấy chẳng bằng được phước đức của Thiện Nam, Thiện Nữ, ở giữa đại chúng, thuyết giảng kinh Bát Nhã Ba La Mật, khai thị, phân biệt để cho đại chúng hiểu rõ nghĩa kinh; và tự mình đúng theo nghĩa kinh mà thọ trì … dẫn đến chánh ức niệm, tu tập.
Phước đức của Thiện Nam, Thiện Nữ này rất thù thắng. Phước đức của hết thảy chúng sanh trong cõi đại thiên thế giới, hành pháp như những người nói trên, cộng hợp lại, cũng chẳng sao bằng được.
Này Tu Bồ Đề ! Ý ông nghĩ sao ? Nếu hết thảy chúng sanh ở cõi Diêm Phù Đề đều được thân người; lại nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ dạy cho họ hành 10 thiện đạo, 4 thiền, 4 vô lượng tâm, 4 vô sắc định, khiến họ được qua Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán, quả Bích Chi Phật … dẫn đến được Vô Thượng Bồ Đề, rồi tùy hỷ hết thảy thiện căn công đức ấy, để hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề.
Phước đức của Thiện Nam, Thiện Nữ ấy có nhiều chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Phước đức của người ấy rất nhiều.
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Phước đức của người ấy chẳng bằng được phước đức của Thiện Nam, Thiện Nữ hành thâm Bát Nhã Ba La Mật, trọn chẳng ly Tát Bà Nhã tâm, vì chúng sanh thuyết giảng, khai thị, phân biệt để chúng sanh được rõ nghĩa kinh.
Phước đức của Thiện Nam, Thiện Nữ này rất thù thắng. Phước đức của hết thảy chúng sanh cõi Diêm Phù Đề cùng với phước đức của Thiện Nam, Thiện Nữ kia, cộng hợp lại, cũng chẳng sao bằng được.
Vì sao ? Vì Thiện Nam, Thiện Nữ này, trọn chẳng ly Tát Bà Nhã tâm, mà hành Bát Nhã Ba La Mật, là bờ mé tột cùng của các phước điền. Ngoại trừ Phật ra, chẳng có ai có được thế lực bằng vị đại Bồ tát này.
Khi hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát này trọn chẳng ly tâm đại từ đối với chúng sanh; vì thấy chúng sanh chìm đắm trong sanh tử, nên khởi tâm đại bi; vì khởi tâm đại bi đối với hết thảy chúng sanh, nên khi hành Bồ Tát đạo vẫn thường giữ tâm hoan hỷ; vì chẳng chấp niệm tưởng, nên thường được tâm đại xả.
Này Tu Bồ Đề ! Như vậy là Bồ Tát được đại trí quang minh, tức là được đầy đủ 6 pháp Ba La Mật.
Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát này, dù chưa thành Phật, mà đã là ruộng phước lớn nhất cho hết thảy chúng sanh, chẳng hề thối chuyển nơi Vô Thượng Bồ Đề. Khi thọ sự cúng dường, Bồ Tát này cũng hành đúng như thâm pháp Bát Nhã Ba La Mật, quyết định đền báo ơn của hàng tín thí. Bồ Tát này hành pháp như vậy, nên mau đến được nhất thiết chủng trí.
Bồ Tát này chẳng muốn thọ suông sự cúng dường, nên nguyện báo ơn hàng tín thí, nguyện khai thị 3 thừa đạo cho chúng sanh, nguyện làm ngọn đuốc sáng để dẫn đạo chúng sanh, nguyện cứu vớt chúng sanh ra khỏi ngục tù 3 cõi, nguyện khiến chúng sanh có được mắt trí huệ. Bồ Tát muốn nguyện như vậy, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật, phải thường hành Bát Nhã Ba La Mật, phải thường chánh ức niệm Bát Nhã Ba La Mật. Khi thuyết pháp, Bồ Tát cũng phải y theo Bát Nhã Ba La Mật mà thuyết, chẳng để cho các tạp niệm khởi sanh, tâm luôn luôn hướng về Bát Nhã Ba La Mật, chẳng bao giờ ngưng nghỉ.
Này Tu Bồ Đề ! Ví như người cầu được ngọc ma ni mà được nắm giữ bảo vật ấy trong tay, thì rất vui mừng, hớn hở. Nếu chẳng may bị đánh mất, ắt sẽ rất đau buồn, tâm thường nhớ nghĩ đến bảo vật đó, và tự niệm rằng, “Nếu ta tìm lại được viên ngọc quí này, ta quyết chẳng bao giờ xa rời nữa”. Cũng như vậy, Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật chẳng bao giờ xa rời Tát Bà Nhã tâm.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Hết thảy niệm đều là tự tánh ly, tự tánh không. Như vậy làm sao Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật mà chẳng ly Tát Bà Nhã tâm được ? Vì nếu các pháp là tánh ly, là tánh không, thì cũng chẳng có Bồ Tát, chẳng có niệm, chẳng có nhất thiết chủng trí vậy.
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Chính vì Bồ Tát biết rõ hết thảy các pháp là như vậy, là tự tánh ly, là tự tánh không, chẳng phải do Thanh Văn làm ra, chẳng phải do Bích Chi Phật làm ra, chẳng phải do Bồ Tát làm ra … dẫn đến chẳng phải do Phật làm ra, lại biết rõ hết thảy các pháp tướng là thường trú, là pháp như, là pháp tánh, là thật tế, nên mới hành Bát Nhã Ba La Mật, mà trọn chẳng ly Tát Bà Nhã tâm. Vì sao ? Vì Bát Nhã Ba La Mật là tánh ly, là tánh không, là chẳng tăng, chẳng giảm.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Nếu Bát Nhã Ba La Mật là tự tánh ty, tự tánh không, thì làm sao Bồ Tát hợp cùng với Bát Nhã Ba La Mật mà được Vô Thượng Bồ Đề ?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát cùng với Bát Nhã Ba La Mật là bình đẳng, là bất tăng, bất giảm. Vì sao ? Vì Bát Nhã Ba La Mật là pháp như, pháp tánh, thật tế, là chẳng tăng, chẳng giảm là chẳng phải hai, chẳng phải khác.
Bồ Tát nào nghe nói tướng của Bát Nhã Ba La Mật là như vậy, mà chẳng kinh, chẳng hãi, chẳng sợ, thì phải biết đó là Bồ Tát đã hành thâm Bát Nhã Ba La Mật, đã an trú nơi bậc bất thối chuyển.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Hành không, hành vô sở hữu là hành Bát Nhã Ba La Mật chăng ?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Chẳng phải vậy.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Ly không có phải là hành Bát Nhã Ba La Mật chăng ?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Chẳng phải vậy.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Trú nơi Bát Nhã Ba La Mật có phải là hành Bát Nhã Ba La Mật chăng ?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Chẳng phải vậy.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Ly Bát Nhã Ba La Mật có phải là hành Bát Nhã Ba La Mật chăng ?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Chẳng phải vậy.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Trú nơi 5 ấm có phải là hành Bát Nhã Ba La Mật chăng ?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Chẳng phải vậy.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Ly 5 ấm có phải là hành Bát Nhã Ba La Mật chăng ?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Chẳng phải vậy.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Trú nơi 6 pháp Ba La Mật có phải là hành Bát Nhã Ba La Mật chăng?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Chẳng phải vậy.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Trú nơi 4 niệm xứ … dẫn đến trú nơi 18 bất cộng pháp có phải là hành Bát Nhã Ba La Mật chăng ?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Chẳng phải vậy.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Hành 5 ấm không … dẫn đến hành 18 bất cộng pháp không, hành pháp vô sở hữu, hành pháp như, hành pháp tướng, hành pháp tánh, hành pháp trụ, hành pháp vị, hành thật tế có phải là hành Bát Nhã Ba La Mật chăng ?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Chẳng phải vậy.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Nếu hành tất cả các pháp đó mà chẳng phải là hành Bát Nhã Ba La Mật, thì Bồ Tát phải hành Bát Nhã Ba La Mật như thế nào ?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Ông thấy có pháp hành Bát Nhã Ba La Mật, và có người hành Bát Nhã Ba La Mật chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Con chẳng thấy vậy.
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Pháp mà ông chẳng thấy có phải là pháp khả đắc chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Chẳng phải là pháp khả đắc vậy.
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Nếu pháp ấy là bất khả đắc, thì pháp ấy có sanh chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Chẳng sanh vậy.
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát thành tựu được vô sanh pháp nhẫn như vậy, nên được thọ ký Vô Thượng Bồ Đề.
Này Tu Bồ Đề ! Chư Phật hành pháp như vậy, nên được vô sở úy, vô ngại trí. Bởi vậy nên, nếu Bồ Tát tinh tấn, nhất tâm hành pháp như vậy, thì sẽ được nhất thiết chủng trí, được Vô Thượng Bồ Đề. Vì sao? Vì Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn … dẫn đến được Vô Thượng Bồ Đề là bất tăng, bất giảm.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Nếu các pháp đều chẳng sanh, thì có được thọ ký Vô Thượng Bồ Đề chăng ?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Chẳng được vậy.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Nếu các pháp đều chẳng sanh, cũng chẳng phải chẳng sanh, thì có được thọ ký Vô Thượng Bồ Đề chăng?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Chẳng được vậy.
Ngài Tu Bổ ôể bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Như vậy, làm sao Bồ Tát biết có pháp được thọ ký Vô Thượng Bồ Đề ?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Ông thấy có pháp Vô Thượng Bồ Đề để thọ ký chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Con chẳng thấy có pháp Vô Thượng Bồ Đề để được thọ ký, chẳng thấy có chỗ được Vô Thượng Bồ Đề, chẳng thấy có người được Vô Thượng Bồ Đề.
Phật dạy: Đúng như vậy, đúng như vậy ! Này Tu Bồ Đề ! Nếu ở nơi hết thảy pháp, Bồ Tát đều vô sở đắc, đều chẳng khởi niệm mình được Vô Thượng Bồ Đề, chẳng khởi niệm dùng các pháp đó để được Vô Thượng Bồ Đề, chẳng khởi niệm có chỗ được Vô Thượng Bồ Đề, thì như vậy mới gọi là Bồ Tát được Vô Thượng Bồ Đề. Vì sao ? Vì Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, mà chẳng khởi ức tưởng phân biệt, do biết rõ Bát Nhã Ba La Mật chẳng có chỗ ức tưởng phân biệt vậy.
LUẬN:
Hỏi: Trước đây đã nói nhiều về tướng của Bát Nhã Ba La Mật rồi. Sao nay còn nói nữa ?
Đáp: Bát Nhã Ba La Mật là pháp vi diệu đệ nhất, nên người nghe chẳng có khi nào nhàm chán. Vì sao ? Vì pháp thâm diệu này là vô tướng pháp.
Nên biết các bậc Bồ Tát bất thối chuyển, ở nơi Bát Nhã Ba La Mật, còn chưa biết đầy đủ thâm nghĩa, huống nữa là ngài Tu Bồ Đề.
Vì ngài Tu Bồ Đề nghe Phật nói Bát Nhã Ba La Mật là mẹ của chư Phật, nên mới thưa hỏi thêm, để xin Phật rộng giải thêm về các tướng của thâm pháp Bát Nhã Ba La Mật.
-o0o-
Phật dạy: Như hư không tướng tà tướng của Bát Nhã Ba La Mật. Vì hư không tướng là vô sắc tướng, là phi vô sắc tướng, là vô sở hữu tướng; Bát Nhã Ba La Mật cũng là như vậy.
Ngài Tu Bồ Đề lại hỏi: Vì sao nói hết thảy pháp tướng đều là Bát Nhã Ba La Mật tướng ?
Phật dạy: Vì hết thảy pháp tướng đều rốt ráo là không, rốt ráo là ly, cho nên nói hết thảy pháp tướng đều là Bát Nhã Ba La Mật tướng. Ngài Tu Bồ Đề lại hỏi : Nếu hết thảy pháp đều là ly tướng, đều là chẳng có tướng, thì làm sao biết được tâm chúng sanh là cấu hay là tịnh ? Lại nữa, trong ly tướng, trong vô tướng, thì làm sao Bồ Tát tu tập có thể đến được Vô Thượng Bồ Đề ?
Phật dạy: Vì chúng sanh chấp ngã và ngã sở, nên bị vô minh che tâm, khiến thấy tâm có cấu, có tịnh.
Trên đây, Phật muốn dạy rằng, “Ngã và ngã sở đều rốt ráo là không, rốt ráo là ly, nhưng chúng sanh, do cuồng vọng điên đảo, mà chấp có ngã và có ngã sở, rồi khởi sanh các tướng phiền não. Vì có các phiền não như vậy, nên mới khởi sanh các nghiệp, cùng các nghiệp chủng nhân duyên, khiến chúng sanh cứ phải luân chuyển mãi trong các nẻo đường sanh tử, mà chẳng biết rằng phiền não cũng là rốt ráo không. Vì sao ? Vì do tâm hư vọng chấp, mà thấy có ngã và ngã sở; do ngã và ngã sở tác duyên, mà khởi sanh các pháp hư vọng.
Dùng lực phương tiện cũa Bát Nhã Ba La Mật, mà quán 5 ấm là vô thường, là khổ, là vô ngã, là tự tướng không, là tự tướng ly, thì sẽ biết rõ rằng ngã và ngã sở, từ vô thỉ đến nay, vẫn là rốt ráo bất sanh; khi tâm và tâm sở đều diệt, thì các phiền não cũng diệt, khiến các duyên nghiệp tác khởi qua lại trong các đường sanh tử cũng đoạn; lúc bấy giờ, sẽ được tâm thanh tịnh. Lại cũng nên biết, vì các pháp tướng rốt ráo không, nên là chẳng có cấu, chẳng có tịnh.
Đến đây, ngài Tu Bồ Đề tư duy về lời Phật dạy, rồi bạch Phật: Bồ Tát hành như vậy là chẳng hành sắc … dẫn đến chẳng hành thức, chẳng hành 4 niệm xứ … dẫn đến chẳng hành 8 thánh đạo v.v…
Vì sao ? Vì Bồ Tát chẳng thấy có pháp để hành, chẳng thấy có pháp để chứng, chẳng thấy có người chứng.
Bồ Tát hành như vậy, thì các hàng Trời, Người, A Tu La đều chẳng có thể hàng phục được. Vì sao ? Vì hàng Trời, Người còn chấp có danh pháp, khiến khởi sanh các quả báo hư vọng; còn Bồ Tát trú nơi rốt ráo không, mà chẳng chấp không, huống nữa là chấp các pháp, nên chẳng ai có thể hàng phục được vậy.
Bồ Tát hành pháp như vậy, nên hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật chẳng sao sánh kịp. Bởi vậy nên Bồ Tát vào pháp vị bất thối chuyển rồi, thì ma chẳng còn có thể phá hoại được.
Bồ Tát thường hành Bát Nhã Ba La Mật, chẳng ly Tát Bà Nhã tâm, nên mau đến được Vô Thượng Bồ Đề. Vì sao? Vì Bồ Tát, tuy chẳng chấp hết thảy pháp, mà vẫn tinh tấn tu tập hết thảy các trợ đạo pháp.
Phật ấn chứng lời của ngài Tu Bồ Đề, và tán thán các công đức tự lợi và lợi tha của Bồ Tát.
-o0o-
Sau đó, Phật muốn phân biệt các phước đức quả báo của Bồ Tát, nên hỏi ngài Tu Bồ Đề: Ý ông nghĩ sao ? Nếu hết thảy chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề đều được làm thân người, và đều được Vô Thượng Bồ Đề; lại nếu có người trọn đời cung kính, cúng dường, tán thán chư Phật, và đem hết thảy thiện căn hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề. Phước đức của những người ấy có nhiều chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề đáp: Rất nhiều.
Phật dạy: Phước đức của những người ấy chẳng sánh bằng được phước đức của Bồ Tát, ở giữa đại chúng, thuyết giảng Bát Nhã Ba La Mật; khai thị, phân biệt rõ ràng để mọi người được rõ; và tự mình theo đúng như pháp mà thọ trì… dẫn đến chánh ức niệm, tu tập.
Đây mới là phước đức thù thắng nhất, mới là bờ mé tột cùng của các phước điền. Vì sao ? Vì y theo Bát Nhã Ba La Mật mà hành, thì sẽ được phước đức vô lượng vô biên, … dẫn đến sẽ được thành Phật đạo. Tất cả các phước đức khác, do ly Bát Nhã Ba La Mật, nên phải có ngày đoạn tận; còn phước đức xuất sanh từ Bát Nhã Ba La Mật là phước đức vô tận.
Bồ Tát hành bình đẳng nhẫn, nên dù hành pháp không, mà vẫn dùng 4 vô lượng tâm, để làm lợi ích cho chúng sanh.
Trong 4 vô lượng tâm, thì tâm đại bi là căn bản. Bố Tát thấy chúng sanh chìm đắm trong sanh tử, chịu bao nhiêu sự khổ đau như kẻ tử tội sắp bị hành hình, nên phát đại bi, muốn làm phước điền cho chúng sanh, Bồ Tát chẳng muốn thọ ơn suông của quốc gia, của tín thí, nên nguyện dùng lực phương tiện Bát Nhã Ba La Mật độ chúng sanh thoát khổ, khiến họ được phước đức vô tận. Đó là cách đền ơn cao cả nhất. Như vậy, từ sơ phát tâm … dẫn đến khi vào Niết Bàn, Bồ Tát thường vì chúng sanh, khai thị 3 thừa đạo, và vì chúng sanh khai thị nhất thiết chủng trí.
Lại nữa, Bồ Tát muốn cứu thoát chúng sanh ra khỏi ngục tù 3 cõi, muốn cứu thoát chúng sanh ra khỏi các triền phược, muốn khiến chúng sanh được 5 nhãn, nên phải thường hành Bát Nhã Ba La Mật, phải thường giữ tâm tương ứng với Bát Nhã Ba La Mật; khi diễn nói cũng phải diễn nói đúng theo như Bát Nhã Ba La Mật.
–oOo–
Phật dạy các pháp tử, “Khi sống chung với nhau, phải giữ hòa hợp; khi sống chung với quần chúng, phải giữ im lặng như bậc Thánh Hiền, hoặc phải nói pháp Thánh Hiền. Khi giữ im lặng, phải tùy Bát Nhã tâm; khi nói pháp, phải tùy Bát Nhã hạnh. Thuyết Bát Nhã Ba La Mật rồi, lại quay trở về Bát Nhã Ba La Mật tâm, chẳng bao giờ để tâm duyên theo pháp trần. Bồ Tát ngày đêm vẫn thường hành như vậy, chẳng bao giờ ngưng nghỉ.
Phật nêu thí dụ về người nghèo, khi nắm ngọc ma ni trong tay, tự nghĩ chẳng bao giờ rời bảo vật ấy. Cũng như vậy, Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật chẳng bao giờ ngưng nghỉ, trọn chẳng bao giờ ly Tát Bà Nhã tâm. Ngài Tu Bồ Đề nghe Phật dạy như vậy liền bạch Phật: Nếu hết thảy niệm đều là không, thì vì sao nói Bồ Tát chẳng bao giờ ly Tát Bà Nhã tâm được ? Trong “không”, thì Bồ Tát là bất khả đắc, Bát Nhã Ba La Mật cũng là bất khả đắc vậy.
Phật dạy: Bồ Tát biết rõ hết thảy pháp đều là tự tánh không, là tự tánh ly, là chẳng do Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát làm ra … dẫn đến chẳng do Phật làm ra, biết rõ hết thảy pháp đều là pháp như, pháp tánh, pháp trụ, pháp vị, thật tế. Phải biết đó là Bồ Tát chẳng ly Tát Bà Nhã tâm, chẳng ly Bát Nhã Ba La Mật hạnh, vì Bát Nhã Ba La Mật là không, là ly, là bất tăng, bất giảm.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Nếu Bát Nhã Ba La Mật là tánh không, thì làm sao Bồ Tát hợp cùng với Bát Nhã Ba La Mật, mà được Vô Thượng Bồ Đề ?
Phật dạy: Bồ Tát cùng với Bát Nhã Ba La Mật là chẳng tăng, chẳng giảm, là chẳng phải hai, chẳng phải khác. Vì sao ? Vì Bát Nhã Ba La Mật là pháp như, pháp tánh, thật tế; và pháp như, pháp tánh, thật tế là Bát Nhã Ba La Mật. Hết thảy pháp đều là như, chẳng phải hai, chẳng phải khác; Bát Nhã Ba La Mật cũng là như vậy.
Bởi vậy nên nói Bát Nhã Ba La Mật là vô lượng, vô biên, vô tướng, vô tác là bất tăng, bất giảm.
Nếu Bồ Tát thấu triệt được như vậy, thể nhập được như vậy là đã gần đến được Vô Thượng Bồ Đề.
Nếu Bồ Tát nghe được như vậy, mà thông đạt vô ngại, thì dù chưa được thành Phật, cũng đã vào được thật trí huệ. Do đã có được thật trí huệ như vậy, đã có tín lực như vậy, nên ở nơi Phật pháp Bồ Tát chẳng còn nghi, chẳng còn sợ hãi. Vì sao ? Vì phàm phu còn chấp ngã và ngã sở, nên mới sợ hãi. Trái lại, Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật như vậy nên an trú nơi bậc bất thối chuyển, và thành tựu đầy đủ Bát Nhã Ba La Mật hạnh.
–oOo–
Ngài Tu Bồ Đề nghe Phật khai thị về chánh hạnh Bát Nhã Ba La Mật, nên hỏi Phật: Khi hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát quán hết thảy pháp đều là không, là vô sở hữu, là chẳng kiên cố. Như vậy, thì hành không, hành vô sở hữu là hành Bát Nhã Ba La Mật chăng ?
Phật dạy: Chẳng phải vậy.
Vì sao ? Vì nếu là không, là vô sở hữu, thì chẳng thể hành Bát Nhã Ba La Mật được vậy.
Ngài Tu Bồ Đề lại hỏi: Ly không là hành Bát Nhã Ba La Mật chăng ?
Phật dạy: Chẳng phải vậy.
Vì sao ? Vì nếu hết thảy pháp là không, là vô tướng, là vô tác, thì ly không cũng chẳng thể hành Bát Nhã Ba La Mật được vậy.
Ngài Tu Bồ Đề tự nghĩ, “Bát Nhã Ba La Mật nhiếp hết thảy pháp”, nên lại hỏi: Trú nơi Bát Nhã Ba La Mật là hành Bát Nhã Ba La Mật chăng ?
Phật dạy: Chẳng phải vậy.
Vì sao ? Vì pháp chẳng tự hành, mà phải nương nơi các pháp khác mới hành được vậy.
Ngài Tù Bồ Đề lại hỏi: Ly Bát Nhã Ba La Mật, thì có pháp để hành Bát Nhã Ba La Mật chăng ?
Phật dạy: Chẳng có vậy.
Vì sao ? Vì hết thảy pháp đều nhiếp trong Bát Nhã Ba La Mật cả.
–oOo–
Ngài Tu Bồ Đề lại nghĩ về danh tự, và về nhân duyên, nên hỏi Phật: Trú nơi 5 ấm là hành Bát Nhã Ba La Mật chăng ?
Phật dạy: Chẳng phải vậy.
Vì sao ? Vì 5 ấm là hư vọng. Do duyên hòa hợp sanh, nền 5 ấm là chẳng có tự tại. Chẳng thể trú nơi 5 ấm mà hành Bát Nhã Ba La Mật được.
Ngài Tu Bồ Đề lại hỏi: Trú nơi 6 pháp Ba La Mật là hành Bát Nhã Ba La Mật chăng ?
Phật dạy: Chẳng phải vậy.
Vì sao ? Vì cũng như 5 ấm, các pháp Ba La Mật cũng đều do duyên hòa hợp sanh, nên cũng chẳng có tự tại. Chẳng thể trú nơi 6 pháp Ba La Mật mà hành Bát Nhã Ba La Mật được.
Ngài Tu Bồ Đề lại hỏi: Trú nơi 4 niệm xứ… dẫn đến trú nơi 18 bất cộng pháp là hành Bát Nhã Ba La Mật chăng?
Phật dạy: Chẳng phải vậy.
Vì sao ? Vì cũng như 5 ấm, 4 niệm xứ … dẫn đến 18 bất cộng pháp cũng đều do duyên hòa hợp sanh, nên cũng chẳng có tự tại. Chẳng thể trú nơi các pháp ấy mà hành Bát Nhã Ba La Mật được.
Ngài Tu Bồ Đề lại hỏi: Hành 5 ấm không … dẫn đến hành 18 bất cộng pháp không, hành pháp vô sở hữu, hành pháp không, hành pháp như, hành pháp tướng, hành pháp tánh, hành pháp trụ, hành pháp vị, hành thật tế có phải là hành Bát Nhã Ba La Mật chăng ?
Phật dạy: Chẳng phải vậy.
Vì sao ? Vì hết thảy pháp ấy đều là bất sanh, bất diệt, đều là tự tánh không, nên chẳng thể hành Bát Nhã Ba La Mật được.
Ngài Tu Bồ Đề tại hỏi: Nếu nói Bồ Tát chỉ là giả danh, chẳng hành được Bát Nhã Ba La Mật, nếu nói các pháp đều do duyên hòa hợp sanh, chẳng hành Bát Nhã Ba La Mật được, thì như vậy ai là người hành Bát Nhã Ba La Mật ?
Nếu nói chẳng có người hành Bát Nhã Ba La Mật thì vì sao nói Bồ Tát do hành Bát Nhã Ba La Mật mà được Vô Thượng Bồ Đề ?
Phật dạy: Ông dùng huệ nhãn có thấy pháp nào quyết định hành Bát Nhã Ba La Mật chăng ?
Vì ngài Tu Bồ Đề đã vào được 3 giải thoát môn “không, vô tướng và vô tác”, nên biết rõ thật tướng pháp, biết rõ hết thảy pháp đều là bất khả đắc, huống nữa là có pháp để tác chứng, và có người tác chứng. Nghĩ như vậy, nên ngài bạch Phật: Con chẳng thấy có pháp hành Bát Nhã Ba La Mật, và cũng chẳng thấy có người hành Bát Nhã Ba La Mật.
Phật dạy: Ông có thấy chỗ hành xứ của Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề đáp: Con chẳng thấy.
Vì sao ? Vì vào trong Bát Nhã Ba La Mật thì hết thảy quán hạnh đều diệt khiến chẳng thấy có một định, pháp nào gọi là Bát Nhã Ba La Mật cả. Bởi vậy nên chẳng thể chỉ bày được.
Phật dạy: Nếu dùng huệ nhãn mà chẳng thấy Bát Nhã Ba La Mật, thì pháp ấy là có hay là chẳng có ?
Ngài Tu Bồ Đề đáp: Chẳng có vậy.
Vì sao ? Vì Phật đã dạy huệ nhãn là thật trí huệ, còn nhục nhãn và thiên nhãn đều là hư dối, mà ngài Tu Bồ Đề dùng huệ nhãn chẳng thấy có định pháp nào gọi là Bát Nhã Ba La Mật, nên ngài đáp, “Chẳng có vậy”. Phật lại hỏi:
Nếu pháp ấy là không, là bất khả đắc, thì pháp ấy có sanh chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề đáp: Chẳng sanh vậy.
Vì sao ? Vì ngài nghĩ rằng. “Từ vô thỉ đến nay, các pháp vẫn là không, là vô sở hữu. Dù nói các pháp là không, hay nói các pháp là có, thì cũng đều là hý luận cả. Lại nữa, pháp diệt rồi, thì làm sao có sanh lại dược nữa ?”.
Phật dạy: Nếu ở nơi hết thảy pháp, Bồ Tát đều thông đạt như vậy, mà chẳng nghi, chẳng sợ, thì Bồ Tát sẽ đủ trí lực và huệ lực, để vẫn an trú trong pháp ấy, mà vào được vô sanh pháp nhẫn.
Tuy ở nơi 5 ấm giả danh, mà Bồ Tát vẫn an trú nơi pháp ấy để hành Bát Nhã Ba La Mật.
Tuy rằng pháp thế gian chẳng có nói đến đệ nhất nghĩa đế, chẳng có nói đến vô sanh pháp, nhưng vì đệ nhất nghĩa đế dung nhiếp hết thảy pháp, nên Bồ Tát thường an trú nơi đệ nhất nghĩa đế, thường an trú nơi vô sanh pháp, mà vào được vô sanh pháp nhẫn … dẫn đến được thọ ký Vô Thượng Bồ Đề.
-o0o-
Phật lại dạy: Nếu Bồ Tát nhất tâm, tinh tấn hành Bát Nhã Ba La Mật, chẳng sợ, chẳng nghi, chẳng hề thối chuyển, lại tùy vô sanh pháp mà hành trì, thì sẽ được đại trí huệ.
Vì sao ? Vì trong kinh nói, “Nếu chẳng có nhân, chẳng có duyên, thì chẳng có quả báo”. Nếu nhân duyên chưa đầy đủ, thì quả báo chưa có thể thành tựu được. Nay Bồ Tát đã được vô sanh pháp nhẫn là đã hội đủ các nhân duyên để được quả báo “Bồ Tát vị” vậy. Bồ Tát gieo nhân “xả thân sanh tử”, và được quả là “pháp tánh thân”.
Bồ Tát đầy đủ các nhân duyên Phật pháp như vậy, thì ở nơi thân rốt sau sẽ tọa đạo tràng … dẫn đến được đầy đủ quả Vô Thượng Bồ Đề.
Vì sao ? Vì Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn rồi, thì chỉ nhất tâm thẳng tiến, chẳng bao giờ thối chuyển. Trái lại, người chưa vào được vô sanh pháp nhẵn, thì còn ái chấp các pháp thế gian, nên còn bị các phiền não ngăn che tâm trí. Người chưa được vô sanh pháp nhẫn, thì dụng lực rất gian nan; còn Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn rồi, nên dụng lực rất tự tại.
Bởi vậy nên Bồ Tát rất quý vô sanh pháp nhẫn.
Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Được vô sanh pháp nhẫn là được thọ ký chăng ?
Phật dạy: Chẳng phải vậy.
Vì sao ? Vì vô sanh pháp nhẫn là bất sanh, bất diệt, là bất khả đắc. Tướng của vô sanh pháp nhẫn đã là bất khả đắc, thì làm sao có tướng thọ ký Vô Thượng Bồ Đề ?
Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Nếu pháp chẳng sanh, thì có được thọ ký chăng ?
Phật dạy: Chẳng được như vậy.
Vì sao ? Vì pháp chẳng sanh cũng là hư vọng, nên chẳng thể được thọ ký Vô Thượng Bồ Đề.
Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Nếu pháp chẳng sanh cũng chẳng phải chẳng sanh, thì có được thọ ký Vô Thượng Bồ Đề chăng ?
Phật dạy: Chẳng được vậy
Vì sao ? Vì cả 2 bên đều là lầm lỗi cả.
-o0o-
Ngài Tu Bồ Đề lại hỏi: Nếu như vậy, thì ai được thọ ký Vô Thượng Bồ Đề ?
Phật dạy: Ông dùng huệ nhãn có thấy pháp thọ ký, và người được thọ ký chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Con chẳng thấy vậy,
Vì sao ? Vì pháp, từ vô thỉ đến nay, vẫn là tịch diệt. Ở nơi tịch diệt, thì chẳng thể nói là thấy hay chẳng thấy, được thọ ký hay chẳng được thọ ký vậy. Bởi vậy nên nói chẳng thấy có pháp Vô Thượng Bồ Đề, cũng chẳng thấy có người đắc Vô Thượng Bồ Đề.
–oOo–
Ở đoạn kinh trên đây, Phật muốn phá trừ mọi ức tưởng phân biệt.
Bởi vậy nên khi ngài Tu Bồ Đề hỏi, “Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn rồi, có được thọ ký Vô Thượng Bồ Đề chăng ?”, Phật đã đáp lại rằng, “chẳng được vậy”.
Vì sao ? Vì khi Bồ Tát đã hiểu được lý vô sanh rồi, thì hành Bát Nhã Ba La Mật chẳng còn khởi ức tưởng phân biệt nữa.
Đây là Phật mật ý nói, “Bồ Tát phải được vô sanh pháp nhẫn rồi, thì mới được thọ ký Vô Thượng Bồ Đề”.
Vì trong chúng hội nhiều người chưa rõ lý vô sanh, còn thấy có chỗ đắc “vô sanh pháp nhẫn”, nên Phật đã đáp như trên.
Trường hợp này cũng giống như trường hợp ông Phạm Chí Bà Sa hỏi Phật về ngã và vô ngã.
Ông Phạm Chí hỏi Phật, “Có ngã chăng ?”. Phật giữ im lặng. Ông Phạm Chí lại hỏi Phật, “Có vô ngã chăng ?”. Phật cũng vẫn giữ im lặng. Sở dĩ Phật giữ im lặng, chẳng đáp lời ông Phạm Chí, vì Phật biết ông Phạm Chí đã dụng tâm chấp khi nêu lên 2 câu hỏi này, và muốn hý luận về “ngã và vô ngã”. Phật giữ im lặng để ông Phạm Chí biết rằng, “Ngã và vô ngã đều chẳng nên chấp”.
–oOo–
Ngài Tu Bồ Đề biết có việc thọ ký Vô Thượng Bồ Đề, nhưng còn nghi chưa rõ là “Có định pháp Vô Thượng Bồ Đề chăng ?”. Do vậy mà ngài mới hỏi Phật: Làm sao Bồ Tát biết có pháp được thọ ký Vô Thượng Bồ Đề ?
Phật dạy: Ông thấy có pháp Vô Thượng Bồ Đề để được thọ ký chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề, trú trong 3 giải thoát môn, dùng huệ nhãn quán thấy các pháp đều là không, là vô tướng, là pháp như, là pháp tánh … nên chẳng có định pháp Vô Thượng Bồ Đề để được thọ ký, chẳng có chỗ được Vô Thượng Bồ Đề … dẫn đến chẳng có người được thọ ký Vô Thượng Bồ Đề. Tự niệm như vậy, tâm ngài liền tự giải, chẳng còn nghi nữa, nên ngài bạch Phật: Con chẳng thấy có pháp Vô Thượng Bồ Đề, chẳng thấy có chỗ được Vô Thượng Bồ Đề, chẳng thấy có người được thọ ký Vô Thượng Bồ Đề.
Phật ấn chứng lời ngài Tu Bồ Đề, và dạy rằng: Như chỗ ông nói ra, “Chẳng có pháp để đắc, chẳng có người đắc pháp” mới là thật pháp. Vì sao ? Vì Bát Nhã Ba La Mật chẳng có chỗ ức tưởng phân biệt vậy.
***
Phẩm thứ sáu mươi hai
Đồng Học
KINH:
Lúc bấy giờ ngài Thích Đề Hoàn Nhơn bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Bát Nhã Ba La Mật rất thậm thâm, chẳng có thể ức tưởng, phân biệt, vì là rốt ráo không vậy.
Bạch Thế Tôn ! Nếu có chúng sanh nào nghe Bát Nhã Ba La Mật, mà thọ trì, đọc tụng, thuyết giảng, chánh ức niệm … dẫn đến đúng như pháp tu tập Bát Nhã Ba La Mật, mãi cho đến khi được quả Vô Thượng Bồ Đề, trọn chẳng xen các tạp tâm và tạp tâm sở, thì phải biết vị ấy chẳng phải từ nơi công đức nhỏ mà đến vậy.
Phật dạy: Đúng như vậy, đúng như vậy ! Này Kiều Thi Ca ! Người nghe thâm Bát Nhã Ba La Mật mà chẳng để xen tạp tâm và tạp tâm sở, thì phải biết người ấy chẳng phải từ nơi công đức nhỏ mà đến được.
Này Kiều Thi Ca ! Ý ông nghĩ sao ! nếu trong cõi Diêm Phù Đề có chúng sanh thành tựu 10 thiện đạo, 4 vô lượng tâm, 4 vô sắc định, lại có Thiện Nam, Thiện Nữ thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm … dẫn đến đúng như pháp tu tập Bát Nhã Ba La Mật, thì phải biết công đức của Thiện Nam, Thiện Nữ này so với công đức của người trước bằng trăm, ngàn, muôn, ức lần … dẫn đến chẳng có toán số thí dụ nào có thể dùng để so sánh được.
Lúc bấy giờ, có một vi Tỷ Kheo nói với vị Đế Thích rằng: Công đức của Thiện Nam, Thiện Nữ ấy còn thù thắng hơn công đức của ngài rất nhiều.
Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn nói: Bạch Đại Đức ! Ngay từ khi phát Vô Thượng Bồ Đề tâm, thì Thiện Nam, Thiện Nữ ấy cũng đã có công đức thù thắng hơn tôi rất nhiều, huống nữa là đã nghe Bát Nhã Ba La Mật, đã thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm … dẫn đến đúng như pháp tu tập Bát Nhã Ba La Mật. Thiện Nam, Thiện Nữ ấy chẳng phải chỉ hơn tôi, mà còn hơn tất cả các hàng Trời, Người, A Tu La, hơn cả các hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật, hơn cả các Bồ Tát hành 5 Ba La Mật kia nhưng xa lìa Bát Nhã Ba La Mật, hơn cả các Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật nhưng chẳng có lực phương tiện Bát Nhã Ba La Mật.
Vì sao ? Vì Thiện Nam, Thiện Nữ ấy theo đúng như thuyết mà tu tập Bát Nhã Ba La Mật, nên chẳng đoạn giống Phật, thường thấy chư Phật, thường tọa đạo tràng, gần đến được Vô Thượng Bồ Đề vậy.
Thưa Đại Đức ! Bồ Tát ấy học Bát Nhã Ba La Mật, nhằm cứu độ hết thảy chúng sanh ra khỏi biển khổ sanh tử. Bồ Tát ấy học Bát Nhã Ba La Mật như vậy là chẳng học Thanh Văn đạo và Bích Chi Phật đạo. Bồ Tát ấy học như vậy, nên 4 vị Thiên vương đều đến chỗ Bồ Tát, và thưa rằng, “Ngài nên tinh tấn tọa đạo tràng, tinh tấn tu hành sẽ được quả Vô Thượng Bồ Đề. Chúng tôi sẽ dâng bát cúng dường ngài, như chúng tôi đã dâng bát cúng dường chư Phật trong quá khứ. Chư vị Thiên Tử khác … dẫn đến Đại Tự Tại Thiên cũng sẽ đến cúng dường, và hộ niệm ngài. Ngài sẽ chẳng còn bị 404 thứ bệnh do các loại trùng gây ra nơi thân thể”. Vì sao? Vì do tu tập Bát Nhã Ba La Mật, mà Bồ Tát ấy, ở hiện đời, được công đức như vậy.
Ngài A Nan tự niệm: Vị Đế Thích đã tự mình nói ra như vậy, hay là phải nhờ Phật lực mới nói được như vậy ?
Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn biết rõ tâm niệm của ngài A Nan, nên nói: Thưa Đại Đức A Nan ! Những lời tôi vừa nói đều nhờ oai thần của Phật.
Phật bảo ngài A Nan: Đúng như vậy, đúng như vậy ! Này A Nan ! Các lời mà vị Đế Thích vừa nói ra đó đều do nơi thần lực của Phật.
Này A Nan ! Khi biết có vị Bồ Tát học thâm Bát Nhã Ba La Mật, thì trong khắp cõi đại thiên thế giới, các ác ma đều sanh lòng nghi rằng “Bồ Tát ấy sẽ được Vô Thượng Bồ Đề, hay giữa đường sẽ tác chứng quả Thanh Văn hay quả Bích Chi Phật đây !”
Này A Nan ! Nếu biết Bồ Tát ấy chẳng ly Bát Nhã Ba La Mật, thì ác ma sẽ rất sầu khổ, đau nhói như bị tên bắn thủng tim. Thế rồi, ác ma sẽ khiến gió, lửa nổi lên ở khắp cả 4 phương, nhằm làm cho Bồ Tát ấy phải khiếp sợ, mà giải đãi việc tu tập, xa rời Tát Bà Nhã tâm … dẫn đến khởi các niệm loạn động.
Ngài A Nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Như thế nào gọi là Bồ Tát bị ma nhiễu loạn ?
Phật dạy: Này A Nan ! ở đời trước, có Bồ Tát đã được nghe Bát Nhã Ba La Mật, mà chẳng tín giải, nên nay bị ma nhiễu loạn.
Có Bồ Tát khi nghe Bát Nhã Ba La Mật, mà khởi tâm nghi, chẳng rõ Bát Nhã Ba La Mật là thật pháp, hay chẳng phải là thật pháp.
Do khởi tâm nghi như vậy, nên bị ác ma nhiễu loạn.
Có Bồ Tát xa lìa thiện tri thức, gần gũi ác tri thức, nên chẳng nghe Bát Nhã Ba La Mật. Vì chẳng nghe Bát Nhã Ba La Mật, nên chẳng biết, chẳng thấy Bát Nhã Ba La Mật, … dẫn đến chẳng hỏi về Bát Nhã Ba La Mật. Vì chẳng hỏi, nên chẳng biết phải tu hành như thế nào. Do vậy mà bị ác ma nhiễu loạn.
Có Bồ Tát xa lìa Bát Nhã Ba La Mật, để thọ trì các pháp khác, nên bị ác ma nhiễu loạn. Ác ma nghĩ rằng, “Bồ Tát này là bè đảng của ta, làm cho ta mãn nguyện”. Vì sao ? Vì Bồ Tát này tự mình lạc về Nhị Thừa địa, và cũng khiến người khác lạc về Nhị Thừa địa, nên bị ác ma nhiễu loạn.
Có Bồ Tát nghe thâm Bát Nhã Bà La Mật, rồi nói với người khác rằng, “Ta còn chẳng thấu hiểu được thâm pháp này; các ngươi học làm gì ?” Do vậy mà bị ác ma nhiễu loạn.
Có Bồ Tát khinh khi các Bồ Tát khác mà nói rằng “Ta hành Bát Nhã Ba La Mật là hành pháp viễn ly, các ngươi chẳng có được công đức như ta”. Do vậy mà bị ác ma nhiễu loạn. Ác ma nghe Bồ Tát này nói như vậy rất vui mừng, hớn hở, vì biết rằng, “Bồ Tát này ỷ danh tánh mình được nhiều người biết đến, nên khinh khi các Bồ Tát khác. Bồ Tát này thật chẳng có công đức của bậc bất thối chuyển. Do chẳng thật có công đức, nên dễ khởi sanh phiền não, chỉ chấp lấy hư danh, mà khinh khi các Bồ Tát khác, cho là họ chẳng có chỗ chứng đắc như mình”. Ác ma biết như vậy, nên liền nghĩ, ‘‘Cung điện của ta sẽ chẳng còn trống rỗng nữa; 3 đường ác rồi đây sẽ đông đúc thêm”. Nghĩ như vậy, ác ma giúp thêm oai lực cho Bồ Tát này, khiến số người do tin theo Bồ Tát này mà bị lầm lạc càng lâu càng thêm đông đảo.
Có Bồ Tát cùng những người hành Thanh Văn đạo khởi cạnh tranh, nên bị ác ma nhiễu loạn. Ác ma tự nghĩ rằng, “Như vậy là Bồ Tát này đã xa lìa Tát Bà Nhã tâm”.
Có Bồ Tát cùng Bồ Tát khởi cạnh tranh, mắng nhiếc lẫn nhau, sân hận nhau, nên bị ác ma nhiễu loạn. Ác ma tự nghĩ rằng “Cả hai Bồ Tát này đều đã xa lìa Tát Bà Nhã tâm”.
Này A Nan ! Nếu Bồ Tát chưa được thọ ký mà khởi cạnh tranh, mắng nhiếc Bồ Tát đã được thọ ký, thì tùy theo chỗ khởi niệm nhiều hay ít, mà sẽ phải trải qua số kiếp thọ lãnh tội báo lâu hay mau, mới được tiêu tội. Nếu chẳng xả Tát Bà Nhã tâm, thì đến kiếp Đại Trang Nghiêm mới được bổ xứ.
Ngài A Nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Khởi ác tâm như vậy trải qua rất nhiều kiếp mới được tiêu tội. Như vậy ở chặng giữa có trường hợp nào tội được xuất trừ chăng ?
Phật dạy: Này A Nan ! Chẳng phải ta chỉ nói người cầu Bồ Tát đạo đấu tranh với người cầu Thanh Văn đạo là có tội, mà ta còn nói người cầu Bồ Tát đạo đấu tranh với người cầu Bồ Tát đạo cũng là có tội. Bồ Tát cùng Bồ Tát đấu tranh, sân hận, mắng nhiếc nhau, mà chẳng ăn năn, sám hối, thì phải trải qua nhiều số kiếp thọ tội mới được tiêu tội. Nếu Bồ Tát này muốn ăn năn, sám hối, thì phải tự niệm rằng, “Tôi đã phạm tội rất lớn; tôi phải thành tâm sám hối với hết thảy chúng sanh, và phải nguyện từ nay cho đến mãi mãi về sau tôi giữ được hòa hợp đối với hết thảy chúng sanh; tôi sẽ nhận mọi sự dẫm đạp của tất cả chúng sanh, y như là họ dẫm đạp trên chiếc cầu bắc ngang qua sông; tôi sẽ xem mình như kẻ điếc, người câm. Vì trước đây tôi đã mắng nhiếc người tức là tôi đã phá hoại Bát Nhã Ba La Mật, đã tự phá hoại tâm cầu Vô Thượng Đồ Đề của tôi rồi vậy. Bởi vậy nên tôi phải nguyện khi được Vô Thượng Bồ Đề, thì tôi phải độ hết thảy chúng sanh ra khỏi các khổ não, chẳng bao giờ khởi sân nhuế, mắng nhiếc chúng sanh”.
Ngài A Nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Bồ Tát cùng sống chung với Bồ Tát khác, phải xử sự như thế nào ?
Phật dạy: Bồ Tát cùng sống chung với nhau phải xem nhau như là Phật. Vì sao ? Vì Bồ Tát phải tự niệm rằng, “Đây là pháp lữ của tôi, cùng nhau ngồi chung trên một chiếc thuyền, cùng nhau tu tập 6 pháp Ba La Mật… dẫn đến sẽ cùng nhau đến nhất thiết chủng trí. Nếu Bồ Tát pháp lữ của tôi có tạp hạnh, ly Tát Bà Nhã tâm, thì tôi chẳng nên học theo như vậy. Nếu pháp lữ của tôi chẳng có tạp hạnh, chẳng ly Tát Bà Nhã tâm, thì tôi phải học theo như vậy.
Này A Nan ! Bồ Tát cùng học với nhau như vậy gọi là bạn đồng học.
LUẬN:
Vị Đế Thích nói rằng: Nếu Thiện Nam, Thiện Nữ nào Biên chép, thọ trì, đọc tụng, thuyết giảng, chánh ức niệm … dẫn đến đúng như pháp mà tu tập Bát Nhã Ba La Mật, mãi cho đến khi được quả Vô Thượng Bồ Đề, mà chẳng xen tạp tâm, thì sẽ được vô lượng công đức. Nếu trong khi hành Bát Nhã Ba La Mật mà có xen tạp tâm, thì chẳng có được công đức như vậy.
Có thuyết nói: Chẳng để xen tạp tâm là chẳng khởi tâm xan tham, sân hận.
Có thuyết nói: Chẳng để xen tạp tâm là chẳng để cho các ác tâm tăng trưởng. Khi mống khởi ác tâm, thì phải quyết dứt trừ ngay.
Có thuyết nói: Chẳng để xen tạp tâm là chẳng khởi tâm Thanh Văn, tâm Bích Chi Phật.
Có thuyết nói: Chẳng để xen tạp tâm là chẳng để tâm tán loạn hoặc vô ký. Tâm vô ký, dù chẳng khởi ác niệm, nhưng vẫn làm chướng ngại cho sự tu học Bát Nhã Ba La Mật.
Vị Đế Thích nói thêm rằng: Nếu Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật mà chẳng xen tạp tâm, thì phải biết vị Bồ Tát ấy chẳng phải từ nơi công đức nhỏ mà đến.
Phật ấn chứng lời của vị Đế Thích, nhưng vì muốn phân biệt thế lực của các hạnh thanh tịnh, nên dạy rằng: Nếu hết thảy người trong cõi Diêm Phù Đề đều thành tựu 10 thiện đạo, 4 vô lượng tâm, 4 vô sắc định, thì công đức đó đem so sánh với công đức của người Thiện Nam, Thiện Nữ thọ trì… dẫn đến chánh ức niệm, tu tập Bát Nhã Ba La Mật, thì trong trăm, ngàn, muôn, ức phần chẳng sao bằng được một … dẫn đến chẳng cỏ toán số thí dụ nào có thể dùng để sánh kịp.
Vì sao ? Vì những người trong cõi Diêm Phù Đề tuy thành tựu được nhiều công đức như vậy, nhưng vì xa lìa thật tướng pháp, nên các công đức kia cũng vẫn chỉ là công đức hữu vi, vẫn là hư vọng, chẳng kiên cố, vẫn chịu sự chỉ phối của luật vô thường. Ví như cỏ rác, tuy nhiều vô lượng, mà chẳng có giá trị bằng hạt kim cương nhỏ bé.
Hỏi: Vì sao có vị Tỷ Kheo nói, “Công đức của Thiện Nam, Thiện Nữ thọ trì, đọc tụng … dẫn đến chánh ức niệm, tu tập Bát Nhã Ba La Mật thù thắng hơn công đức của vị Đế Thích rất nhiều” ?
Đáp: Thiên Đế Thích là vị Thiên Chủ có quả báo phước đức rất lớn, có uy đức thù thắng trong các hàng Trời Người. Thế nhưng công đức của vị Thiên Chủ đó cũng chỉ là hữu lậu, chẳng sao bằng được công đức của Bát Nhã Ba La Mật.
Vị Tỷ Kheo đã biết rõ công đức tối diệu của Bát Nhã Ba La Mật, lại vì đã có nghe nói vị Thiên Chủ này chỉ mới được đạo Thanh Văn, nên mới nói như vậy.
Thiên Đế Thích, do đã được đạo, đã thâm nhập vào Phật pháp, nên khi nghe vị Tỷ Kheo nói “Phước đức của các vị Đế Thích chẳng bằng được phước đức của người thọ trì, đọc tụng … dẫn đến chánh ức niệm và đúng như pháp tu tập Bát Nhã Ba La Mật”, ngài đã chẳng sanh tâm đố kỵ, mà còn tán thán rằng, “Bồ Tát chỉ phát tâm Vô Thượng Bồ Đề đã có công đức thù thắng hơn tôi rất nhiều, huống nữa là thọ trì, đọc tụng … dẫn đến chánh ức niệm và đúng như pháp tu hành Bát Nhã Ba La Mật”.
Vì sao ? Vì Thiên Đế Thích tự biết phước báo của mình còn cạn mỏng, còn là hữu lậu, là vô thường; lại biết rõ phước đức của vị Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật như vậy rất là thâm hậu.
Nên biết rằng, vị Thiên Đế Thích hưởng phước đức trong cảnh lạc thú cõi trời, nên chỉ là phước đức hữu lậu, vô thường; Bồ Tát, vì hết thảy chúng sanh, đem công đức hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề, nên phước đức của Bồ Tát là vô lậu, thậm thâm.
-o0o-
Trong chúng hội có rất nhiều người nghe vị Tỷ Kheo nói về Thiên Đế Thích như vậy, mà ngài vẫn hoan hỷ nhẫn thọ, nên khởi tâm nghi.
Bởi vậy nên Thiên Đế Thích lại nói thêm rằng, “Chẳng những thù thắng hơn tôi, mà còn thù thắng hơn các Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật mà chưa có được lực phương tiện Bát Nhã Ba La Mật; miệng nói mình đúng như pháp tu hành, mà tâm vẫn chẳng ly các tâm và tâm sở pháp”.
Trên đây, vị Đế Thích nêu lên các nhân duyên Bồ Tát đúng như thuyết tu hành Bát Nhã Ba La Mật, nên chẳng đoạn dứt giống Phật; do vậy mà thành tựu được công đức ngay ở hiện đời.
Hỏi: Vì sao ngài A Nan lại nghi rằng, “Chẳng biết lời của vị Đế Thích nói ra là do tự lực, hay là phải nương theo Phật lực”?
Đáp: Thiên Đế Thích chỉ chứng quả Thanh Văn, mà chỗ nói ra lại quá thâm sâu, vượt quá trí huệ của hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật. Bởi vậy nên ngài A Nan sanh nghi mà hỏi như vậy.
Hỏi: Thiên Đế Thích có thể tự dùng trí để đáp được; sao lại phải nhờ đến Phật lực ?
Đáp: Bát Nhã Ba La Mật thậm thâm vô lượng, vô biên, rất khó nói ra. Ở nơi khác mà diễn nói còn khó thay, huống nữa là tại giữa chúng hội, và trước đức Thế Tôn. Bởi vậy nên Thiên Đế Thích mới nói là “nhờ Phật lực gia trì”.
Có thuyết nói, “Do Phật dùng quang minh vi diệu gia bị cho vị Đế Thích, nên ngài mới nói được như vậy”.
Phật dạy: Này A Nan ! Vị Đế Thích nói ra được, như vậy là nhờ ông ấy đã hành thâm Bát Nhã Ba La Mật.
Khi thấy có Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật, thì ác ma thường khởi tâm nghi “Chẳng biết Bồ Tát này sẽ được Vô Thượng Bồ Đề, hay sẽ tác chứng thật tế, khiến sẽ bị lạc về Thanh Văn và Bích Chi Phật địa”.
Vì sao ? Vì ác ma là oán tặc của Bồ Tát, chờ có dịp thuận tiện, để nhiễu loạn Bồ Tát.
Khi thấy có Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật, thì ác ma sầu khổ, sợ hãi. Bởi vậy, nên ác ma liền hóa hiện ra gió mạnh, lửa lớn, để làm nao núng tâm Bồ Tát, khiến Bồ Tát khiếp sợ … dẫn đến thối tâm, giải đãi.
Trái lại, nếu thấy Bồ Tát giải đãi, thi ác ma vô cùng hoan hỷ, vì biết rằng Bồ Tát ấy rồi đây sẽ bị đọa lạc.
-o0o-
Có thuyết nói, “Tất cả Bồ Tát theo đúng như pháp tu hành đều bị ác ma nhiễu loạn”. Cũng vì lý do đó mà ngài A Nan hỏi Phật: Bồ Tát phải làm như thế nào để khỏi bị ác ma nhiễu loạn ?
Phật dạy: Nếu Bồ Tát thâm tâm thanh tịnh hành Bồ Tát đạo, thì chẳng bị ác ma nhiễu loạn. Nếu trái lại, thì sẽ bị ác ma nhiễu loạn.
Hỏi: Phật thường dạy, “Hết thảy các pháp hữu vi đều có thể chuyển, có thể xả. Vì sao ngài A Nan còn khởi tâm nghi, mà hỏi Phật rằng, “Bồ Tát khởi ác tâm mắng nhiếc, khinh khi Bồ Tát khác phải trải qua nhiều kiếp mới được tiêu tội. Như vậy, ở chặng giữa có trường hợp nào tội được xuất trừ chăng ?”.
Đáp: Ngài A Nan biết rõ công đức của Bát Nhã Ba La Mật vô lượng, vô biên. Bồ Tát nào tôn trọng, cung kính, cúng dường Bát Nhã Ba La Mật đúng như pháp tu hành Bát Nhã Ba La Mật sẽ được vô lượng công đức. Công đức cứ như vậy tăng trưởng mãi cho đến khi được Vô Thượng Bồ Đề, nên tội sân hận, mắng nhiếc người hành Bồ Tát đạo cũng vô lượng, vô biên. Đây là lý do vì sao ngài A Nan nêu lên câu hỏi nầy.
Phật dạy: Trong pháp của ta có nói đến nhiều trường hợp xuất tội. Thế nhưng, nếu Bồ Tát cùng nhau khởi sân hận, đấu tranh, mà chẳng liền xả ác tâm đó, thì chẳng có thể xuất tội được. Vì sao ? Vì như vậy là trong thâm tâm vẫn còn si mạn. Do vậy nên dù có tạo tác rất nhiều công đức, mà tâm vẫn chẳng được thanh tịnh. Vỉ chẳng thanh tịnh, nên chẳng có được các công đức lực. Vì chẳng có các công đức lực, nên chẳng sao tiêu tội được. Nếu Bồ Tát đã phạm tội, mà nay muốn cầu Vô Thượng Bồ Đề, chẳng ly Tát Bà Nhã tâm, thì cũng phải thành tâm sám hối trải qua nhiều số kiếp, mãi cho đến kiếp Đại Trang Nghiêm mới được bổ xứ.
Hỏi: Nếu trong thâm tâm còn sân hận, thì phải làm sao để diệt được ?
Đáp: Phải tu tập các nhân duyên phá sân hận, như trong kinh đã dạy.
Ngài A Nan biết rõ chúng sanh bị nghiệp duyên trói buộc, chẳng có được tự tại, nên thường ôm ấp trong tâm niềm lo âu, sợ hãi, khó có thể thoát ly ra khỏi các khổ được. Do vậy mà ngài hỏi Phật: Bồ Tát cùng chung sống với nhau phải xử sự với nhau như thế nào ?
Phật dạy: Bồ Tát phải xem nhau như Phật; phải cung kính, cúng dường nhau như cung kính, cúng dường Phật. Bồ Tát phải xem Bồ Tát cùng sống chung với mình như là pháp lữ của mình, cùng nhau đi trên thuyền Bát Nhã, nương theo dòng nước vô lậu, để đến bờ giải thoát.
Bồ Tát phải xem người hành Bát Nhã Ba La Mật như pháp lữ của mình, như anh em ruột thịt của mình, chẳng nên cùng nhau khởi đấu tranh. Nếu Bồ Tát pháp lữ chẳng có tạp hạnh, chẳng ly Tát Bà Nhã tâm, thì phải học theo họ; trái lại, nếu Bồ Tát pháp lữ có tạp hạnh, thường ly Tát Bà Nhã tâm, thì chẳng nên học theo họ.
Nếu Bồ Tát học được như vậy, thì tâm khinh mạn, tâm sân hận liền tự diệt. Như vậy gọi là đồng học.
*******
Phẩm thứ sáu mươi ba
Đẳng Học
KINH:
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Những pháp gì là đẳng pháp mà Bồ Tát phải học ?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Nội không … dẫn đến vô pháp hữu pháp không là đẳng pháp của Bồ Tát. Sắc và sắc tướng không … dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề và Vô Thượng Bồ Đề tướng không là đẳng pháp của Bồ Tát.
Bồ Tát học các pháp bình đẳng mà đến được Vô Thượng Bồ Đề.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Bồ Tát vì sắc tận, sắc ly, sắc diệt, sắc bất sanh nên học. Học như vậy là học nhất thiết chủng trí chăng?
Bồ Tát vì 4 niệm xứ tận, 4 niệm xứ ly, 4 niệm xứ diệt, 4 niệm xứ bất sanh … dẫn đến vì 18 bất cộng pháp tận, 18 bất cộng pháp ly, 18 bất cộng pháp diệt, 18 bât cộng pháp bất sanh nên học. Học như vậy là học nhất thiết chủng trí chăng ?
Phật đạy: Này Tu Bồ Đề ! Vì sắc … dẫn đến 18 bất cộng pháp là tận, là ly, là diệt, là bất sanh nên Bồ Tát học. Học như vậy là học nhất thiết chủng trí.
Này Tu Bồ Đề ! Ý ông nghĩ sao ? Sắc như … dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề như, Phật như. Các pháp như là có tận, có diệt chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Chẳng phải vậy.
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát học các pháp như ấy có phải là học nhất thiết chủng trí chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Chẳng phải vậy.
Phật dạy: Bồ Tát học các pháp như ấy là học nhất thiết chủng trí. Vì sao ? Vì học các pháp như, nên chẳng có tác chứng, chẳng diệt, chằng đoạn vậy. học như vậy là học nhất thiết chủng trí.
Này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát học như vậy là học 6 pháp Ba La Mật, học 4 niệm xứ … dẫn đến học 18 bất cộng pháp. Học như vậy là học nhất thiết chủng trí. Học như vậy là học đến tận bờ mé của các môn học. Học như vậy thì ma cùng thiên ma chẳng phá hoại được. Học như vậy là thẳng đến Bất Thối Chuyển địa. Học như vậy là học đạo sở hành của chư Phật. Học như vậy là học đại từ bi, học thành tựu chúng sanh, học thanh tịnh Phật độ.
Này Tu Bồ Đề ! Học như vậy là học 3 phen chuyển 12 hạnh pháp luân. Học như vậy là học độ chúng sanh. Học như vậy là chẳng đoạn dứt hạt giống Phật. Học như vậy là mở cửa Cam Lồ. Học như vậy là khai thị vô vi tánh.
Này Tu Bồ Đề ! Hạng người hạ liệt chẳng thể học như vậy được.
Người học như vậy là người muốn cứu vớt chúng sanh đang chìm đắm trong sanh tử.
Người học như vậy thì trọn chẳng đọa vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh; trọn chẳng sanh ở biên địa; trọn chẳng sanh vào nhà hạ tiện; trọn chẳng bị các tật bẩm sanh như đui, điếc, câm, ngọng, què, thọt…, mà được sanh với các căn đầy đủ, quyến thuộc thành tựu; trọn chẳng bị cô độc, bần cùng.
Người học như vậy thì trọn chẳng sát sanh, chẳng có tà kiến, chẳng có tà mạng … dẫn đến chẳng gần người xấu ác, chẳng gần người phá giới.
Người học như vậy là có đầy đủ các lực phương tiện, nên chẳng sanh lên cõi trời Trường Thọ Thiên.
* Thế nào là có lực phương tiện ?
Này Tu Bồ Đề ! Như trước đây đã rộng giải, “Bồ Tát do có được lực phương tiện Bát Nhã Ba La Mật, nên tự tại nhập vào 4 thiền, 4 vô lượng tâm, 4 vô sắc định, mà chẳng tùy theo thiền vị dẫn sanh.
Này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát, do học như vậy, mà ở nơi hết thảy pháp đều được thanh tịnh như thanh tịnh tâm Thanh Văn, thanh tịnh tâm Bích Chi Phật.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Hết thảy pháp vốn đã thanh tịnh rồi. Như vậy vì sao còn nói ỏ nơi hết thảy pháp, Bồ Tát đều được thanh tịnh?
Phật dạy: Đúng như vậy, đúng như vậy ! Này Tu Bồ Đề ! Hết thảy pháp vốn thanh tịnh. Nếu Bồ Tát, ở nơi hết thảy pháp, mà tâm được thông đạt, chẳng vướng mắc, chẳng mê muội, thì vào được Bát Nhã Ba La Mật. Phàm phu chẳng có biết, chẳng có thấy hết thảy các pháp đều thanh tịnh như vậy, nên Bồ Tát vì họ mà tu Đàn Ba La Mật… dẫn đến tu Bát Nhã Ba La Mật, tu 4 niệm xứ … dẫn đến tu nhất thiết chủng trí.
Này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát học như vậy, nên được 10 trí lực, 4 vô sở úy, 4 ngại trí. Bồ Tát học như vậy, nên biết rõ tâm của hết thảy chúng sanh, nhằm dẫn dắt học vào Phật đạo.
Ví như ở trong quả đất có rất ít khu vực có vàng, có bạc, có các châu báu khác. Cũng như vậy, trong chúng sanh chỉ có số ít người học được Bát Nhã Ba La Mật, còn phần đông lạc về Thanh Văn và Bích Chi Phật địa.
Ví như trong loài người chỉ có số ít tạo duyên nghiệp Chuyển Luân Thánh Vương, còn số người tạo duyên nghiệp Tiểu vương thì lại nhiều hơn. Cũng như vậy, chỉ có số ít người hành Bát Nhã Ba La Mật, cầu nhất thiết chủng trí, còn phần đông chỉ muốn hành đạo Thanh Văn và Bích Chi Phật.
Này Tu Bồ Đề ! Trong hàng Bồ Tát cầu Vô Thương Bồ Đề, thì cũng rất ít Bồ Tát theo đúng như pháp mà tu hành. Trong khi đó, thì có rất nhiều Bồ Tát lạc về Thanh Văn và Bích Chi Phật địa, có rất nhiều Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, mà chẳng có lực phương tiện, nên rất ít Bồ Tát trú được nơi Bất Thối Chuyển địa.
Này Tu Bồ Đề ! Bởi nhân duyên vậy, nên Bồ Tát muốn trú Bất Thối Chuyển địa thì phải học Bát Nhã Ba La Mật.
Này Tu Bồ Đề ! Khi học Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát chẳng nên khởi niệm tham lam, sân hận, giải đãi, tán loạn, phá giới; chẳng nên sanh tâm thủ chấp 5 tướng, thủ chấp 4 niệm xứ … dẫn đến thủ chấp Vô Thượng Bồ Đề.
Vì sao ? Vì hành Bát Nhã Ba La Mật là chẳng có pháp khả đắc.
Vì chẳng có pháp khả đắc, nên ở nơi hết thảy pháp, Bồ Tát chẳng sanh tâm chấp thủ tướng.
Này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát học thâm Bát Nhã Ba La Mật như vậy là tổng nhiếp hết thảy Các pháp Ba La Mật, khiến hết thảy các pháp Ba La Mật đều được tăng trưởng. Vì sao ? Vì hết thảy các pháp Ba La Mật đều tùy thuộc Bát Nhã Ba La Mật; vì Bát Nhã Ba La Mật thâu nhiếp hết thảy các pháp Ba La Mật khác vào bên trong.
Ví như “ngã kiến” thâu nhiếp hết thảy 62 tà kiến chấp. Cũng như vậy, Bát Nhã Ba La Mật thâu nhiếp hết thảy các pháp Ba La Mật.
Ví như người khi chết, thì mạng căn hoại diệt, cho nên các căn khác cũng tùy đó mà diệt theo. Cũng như vậy, Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, thì các pháp Ba La Mật khác đều tùy tùng theo.
Này Tu Bồ Đề ! Bởi nhân duyên vậy, nên muốn các Ba La Mật khác được thành tựu rốt ráo, thì Bồ Tát phải học Bát Nhã Ba La Mật.
Này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát học thâm Bát Nhã Ba La Mật như vậy, sẽ vượt lên trên hết thảy chúng sanh.
Này Tu Bồ Đề ! Ý ông nghĩ sao ? Trong cõi đại thiên thế giới, chúng sanh có nhiều chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề còn rất nhiều, huống nữa là trong cõi đại thiên thế giới.
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Nếu hết thảy chúng sanh trong cõi đại thiên thế giới đều được thân người, và đều được Vô Thượng Bồ Đề; lại có vị Bồ Tát suốt đời cúng dường “tứ sự” cho từng ấy vị Phật. Ý ông nghĩ sao ? Phước đức của Bồ Tát ấy có nhiều chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Rất nhiều.
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Phước đức ấy chẳng bằng được phước đức của Thiện Nam, Thiện Nữ học Bát Nhã Ba La Mật, chánh ức niệm và đúng như thuyết tu hành.
Vì sao ? Vì Bát Nhã Ba La Mật có thế lực làm cho Bồ Tát được Vô Thượng Bồ Đề.
Bởi vậy nên, Bồ Tát muốn vượt lên trên hết thảy chúng sanh, thì phải học Bát Nhã Ba La Mật; muốn cứu độ chúng sanh, muốn làm chỗ quy y cho chúng sanh, muốn làm con đường cứu cánh cho chúng sanh, muốn làm đôi mắt sáng cho những chúng sanh mù, thì phải học Bát Nhã Ba La Mật.
Lại nữa, Bồ Tát muốn được hết thảy công đức như Phật, muốn làm Phật, muốn được tự tại du hý, muốn có tiếng nói uy hùng như sư tử hống, muốn đánh trống pháp, muốn thổi loa pháp, muốn tọa đạo tràng thuyết pháp, muốn đoạn nghi cho hết thảy chúng sanh, thì phải học Bát Nhã Ba La Mật.
Này Tu Bồ Đề ! nếu Bồ Tát học thâm Bát Nhã Ba La Mật, thì chẳng có công đức lành nào mà chẳng thành tựu được.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Bồ Tát ấy cũng thành tựu được công đức của Thanh Văn và Bích Chi Phật chăng ?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát ấy được hết thảy công đức của Thanh Văn và Bích Chi Phật, nhưng chẳng an trú trong đó, mà chỉ dùng trí quán, rồi liền nhập thẳng vào Bồ Tát vị.
Bồ Tát học như vậy là gần được nhất thiết chủng trí, mau được Vô Thượng Bồ Đề. Bồ Tát học như vậy là làm phước điền cho hết thảy thế gian, Trời, Người và A Tu La. Bồ Tát học như vậy là vượt lên trên hết thảy hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật, gần được nhất thiết chủng trí. Bồ Tát học như vậy là chẳng xả, chẳng ly Bát Nhã Ba La Mật.
Này Tu Bồ Đề ! Nếu Bồ Tát nào học và hành thâm Bát Nhã Ba La Mật như vậy, thì phải biết đó là bậc Bồ Tát bất thối chuyển, gần được nhất thiết chủng trí; là bậc Bồ Tát đã xa rời Thanh Văn và Bích Chi Phật địa, gần được Vô Thượng Bồ Đề.
Này Tu Bồ Đề ! Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, nếu BồTát khởi niệm nghĩ rằng, “Đây là Bát Nhã Ba La Mật; do hành Bát Nhã Ba La Mật này mà sẽ được nhất thiết chủng trí”, thì phải biết đó chẳng phải là hành Bát Nhã Ba La Mật.
Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, nếu Bồ Tát Khởi niệm nghĩ rằng, “Đây là Bát Nhã Ba La Mật, đây là người hành Bát Nhã Ba La Mật, đầy là pháp hành Bát Nhã Ba La Mật, đây là người hành Bát Nhã Ba La Mật gần được Vô Thượng Bồ Đề”, thì phải biết dó chẳng phải là hành Bát Nhã Ba La Mật.
Này Tu Bồ Đề ! Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, nếu Bồ Tát tự niệm rằng, “Chẳng có Bát Nhã Ba La Mật, chẳng có người hành Bát Nhã Ba La Mật, chẳng có pháp hành Bát Nhã Ba La Mật, chẳng có người hành Bát Nhã Ba La Mật mà được Vô Thượng Bồ Đề”, thì phải biết đó mới thật là hành Bát Nhã Ba La Mật. Vì sao ? Vì hết thảy pháp đều là pháp như, pháp tánh, thật tế, đều là thường trú. Bồ Tát hành như vậy mới gọi là hành Bát Nhã Ba La Mật.
LUẬN:
Trước đây ngài Tu Bồ Đề hỏi Phật về sự tác nghiệp của những người cầu Phật đạo đấu tranh lẫn nhau. Ngài đã dược Phật dạy rằng, “Nếu đã là đồng học với nhau, thì phải giữ tâm thanh tịnh, hòa hợp với nhau, chẳng khởi đấu tranh với nhau, khinh khi lẫn nhau”.
Nay ngài hỏi Phật về chỗ Bồ Tát dụng tâm bình đẳng học các pháp; tức là hỏi về thâm nghĩa của chỗ Bồ Tát sở hành.
Phật dạy: Nội không … dẫn đến vô pháp hữu pháp không là đẳng pháp của Bồ Tát. Sắc và sắc tướng không … dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề và Vô Thượng Bồ Đề tướng không là đẳng pháp của Bồ Tát. Bồ Tát học các pháp bình đẳng, mà đến được Vô Thượng Bồ Đề.
-o0o-
“Đẳng nhẫn” ở đây có 2 nghĩa. Đó là :
- Thượng phẩm đẳng pháp nhẫn.
- Chúng sanh đẳng pháp nhẫn.
Ở phẩm này rộng nói về “đẳng pháp nhẫn”.
Ví như 2 đầu cân phải bằng nhau. Cũng như vậy, Bồ Tát phải dụng tâm bình đẳng mà học các pháp.
Vì nội không … dẫn đến vô pháp hữu pháp không, cùng hết thảy các pháp đều là không, nên Bồ Tát phải dụng tâm bình đẳng để học các pháp vậy.
Phàm phu thấy các pháp, mỗi mỗi đều sai khác, còn người tu khi đã vào được pháp không, thì sẽ thấy hết thảy các pháp đều bình đẳng, chẳng có gì sai khác, biết rõ hết thảy các pháp đều là tự tướng không.
Bồ Tát dụng tâm bình đẳng, trú trong bình đẳng pháp như vậy, mới đến được Vô Thượng Bồ Đề.
-o0o-
Ngàt Tu Bồ Đề bạch Phật: Bồ Tát vì sắc tận, vì sắc ly, vì sắc diệt, vì sắc bất sanh, nên học. Học như vậy là học Bát Nhã Ba La Mật chăng ?
Phật dạy: Vì sắc là vô thường, vì niệm sanh diệt, chẳng trú, nên khi đã quán tâm bình đẳng, thì ly được sắc; khi đã ly sắc rồi, thì các phiền não liền diệt, khi tận diệt các phiền não rồi, thì được vô sanh pháp.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Học như vậy là học nhất thiết chủng trí chăng ?
Phật dạy: Ý ông nghĩ sao ? Sắc như … dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề như, Phật như. Các pháp như đó có tận, có diệt, có đoạn chăng ?
Ngài Tu Bồ Đề đáp: Chẳng phải vậy.
Vì sao ? Vì các pháp đều là tánh như. Pháp như, từ vô thỉ đến nay, chẳng có tập tán, nên là chẳng tận; vốn là chẳng sanh (vô sanh), nên là chẳng diệt (vô diệt); vốn chẳng có định tướng, nên là chẳng đoạn.
Phật dạy: Bồ Tát học các pháp như đó là học nhất thiết chủng trí.
Vì sao ? Vì như là chân thường, là chẳng thể chứng, chẳng thể diệt, chẳng thể đoạn. Nói tận, nói ly, nói đoạn v.v… là chỉ nhằm tận trừ các phiền não, chẳng phải là rốt ráo. Nay nói về nghĩa rốt ráo, chẳng hư vọng, chẳng điên đảo, nên nói chẳng chứng, chẳng diệt, chẳng đoạn.
-o0o-
Lúc bấy giờ, Phật tán thán: Bồ Tát học như vậy là học 6 pháp Ba La Mật, học 4 niệm xứ … dẫn đến học 18 bất cộng pháp. Học như vậy là học nhất thiết chủng trí, học đến chỗ bờ mé của sự học.
Người học được như vậy được vô lượng công đức, được đầy đủ trí huệ, nên ma vương, ma dân chẳng có thể phá hoại được.
Học như vậy là chánh học, nên người học như vậy thẳng tiến vào Bất Thối Chuyển địa, mau thành Phật đạo.
Người học như vậy được chư Phật và chư đại Bồ Tát trong khắp 10 phương thường hộ niệm.
Người học như vậy là người chẳng có tà kiến, chẳng có tà mạng. Là người thường khởi đại bi niệm đối với hết thảy chúng sanh, thường giáo hóa chúng sanh, nhằm dẫn dắt họ vào Phật đạo.
Người học như vậy được tâm thanh tịnh, nên được Phật giới thanh tịnh. Được Phật giới thanh tịnh là thành tựu được 3 phen chuyển 12 hạnh pháp luân; dùng 3 thừa pháp để giáo hóa vô lượng chúng sanh; dùng Đại Thừa pháp giáo hóa hàng Bồ Tát, khiến giống Phật chẳng dứt đoạn. Vì chẳng đoạn giống Phật, nên ở nơi hết thảy chúng sanh thường khai thị pháp Cam Lồ, chỉ cho chúng sanh thấy được tự tạnh vô vi của các pháp. Đó là pháp như, pháp tánh, thật tế, là Niết Bàn tịch tịnh vậy.
-o0o-
Vào được trong “vô vi tánh” rồi là vào được 3 giải thoát môn. Người căn tánh hạ liệt, giải đãi, phóng dật, chẳng ưa nghe Phật pháp, chẳng nhất tâm cầu Phật đạo. Hạng người này chẳng có thể học được pháp môn này, vì họ nghĩ rằng, “Ta lo cho thân ta, lo giúp đỡ các thân bằng, quyến thuộc của ta là đủ rồi. Bao nhiêu chúng sanh khác chẳng có liên hệ gì với ta đâu, mà ta phải xả thân bố thí để cho họ được an vui ? Hết thảy người ở trên thế gian này đều tìm đủ mọi phương tiện để cầu vui; vì sao ta lại phải bỏ vui, mà cầu khổ”. Hoặc họ sanh tà kiến mà nghĩ rằng, “Chúng sanh vô lượng, vô biên, thì làm sao có thể độ hết được ?”.
Hoặc họ sanh tà kiến mà nghĩ rằng, “Phật thuyết hết thảy pháp đều là không, là chẳng sanh, chẳng diệt, thì ta còn cầu Phật đạo để làm gì nữa ? Phật đạo là như mộng, như huyễn, thì cầu Phật đạo cũng chẳng có lợi ích gì”.
Người căn tánh hạ liệt dùng các tà kiến như vậy, để tự biện minh cho sự si mê, nhiễm chấp của mình. Hạng người như vậy chẳng có thể học được đại pháp.
Trái lại, các bậc đại trí, do vào được nơi thật tướng pháp, nên biết rõ các pháp đều chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải có biên (phi hữu biên), chẳng phải chẳng có biên (phi vô biên), chẳng phải có (phi hữu), chẳng phải không (phi vô). Do tư duy như vậy, nên phá được các pháp tướng điên đảo, thẳng vào pháp tánh thường trú, được tâm thường thanh tịnh.
Vì chúng sanh chẳng biết rõ như vậy, nên Bồ Tát khởi đại bi tâm, thương xót chúng sanh, mà tinh tấn tu tập 6 pháp Ba La Mật, thành tựu các lực công đức Ba La Mật, mãi cho đến khi được thần thông tự tại, được trí huệ vô ngại giải thoát, … dẫn đển được Vô Thượng Bồ Đề. Bồ Tát phương tiện dùng mọi pháp môn để rộng độ chúng sanh. Hạng người như vậy, ở thế gian này, rất ít có vậy.
Hỏi: Trước đây đã nói chúng sanh vô lượng, vô biên; nay lại nói chúng sanh là không! Như vậy thì còn có chúng sanh đâu để mà độ nữa ?
Đáp: Hạng người căn trí hạ liệt mới nói như vậy.
Hạng người căn trí hạ liệt, là hạng người nhiều tà kiến, hoặc chấp các pháp là thường, là thật có, hoặc chấp các pháp có biên bờ hay chẳng có biên bờ, hoặc chấp các pháp là không, là vô sở hữu v.v… Tất cả các tà kiến chấp đó đều ở trong 62 tà kiến chấp, nhằm bênh vực cho tâm tham dục cá nhân.
Hạng người tham dục lúc nào cũng mong cầu lợi lạc riêng cho mình. Còn bậc đại nhân chẳng có các tà kiến điên đảo, nên thường an trú trong pháp tánh thật tế, khởi tâm đại bi, thường làm các việc lợi ích cho chúng sanh. Ví như thường hành tài thí và pháp thí.
Người hành Bồ Tát đạo, khi hành bố thí, chẳng trú tâm chấp, nên được đại công đức. Vậy nên, muốn cứu độ chúng sanh ra khỏi vũng lầy sanh tử, Bồ Tát phải học như vậy.
-o0o-
Bồ Tát học như vậy, nên thường thương xót chúng sanh, thường quán thật tướng pháp, chẳng sanh xan tham, sân hận, nên chẳng bị đọa vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh.
Bồ Tát học như vậy, nên khi nghe Phật thuyết 12 bộ kinh, 8 vạn 4 ngàn pháp môn, thường hiểu rõ, chẳng có lầm lẫn.
Bồ Tát học như vậy, nên chẳng sanh vào nơi biên địa. Lại nữa, vì thường cúng dường, tôn trọng các bậc thiện nhân, nên phá được tâm kiêu mạn; do vậy mà chẳng sanh vào nhà bần cùng, hạ tiện.
Bồ Tát học như vậy, nên thâm tâm thường thương xót chúng sanh, nhớ nghĩ đến chúng sanh, làm đầy đủ các hạnh lợi tha; do vậy mà được thân đầy đủ, chẳng có tật nguyền.
Bồ Tát học như vậy, thường dùng thật pháp giáo hóa chúng sanh, nên được quyến thuộc thành tựu; thường thâm ái giới pháp, nên chẳng tác thành ác đạo; chẳng riêng tự lợi, chẳng gần người xấu ác, chẳng gần người phá giới, thường giữ giới, thường giữ thân, khẩu, ý thuần thiện.
Hỏi: Ví như thuốc hay được dùng để trị các bệnh nan y, khó chữa; Bồ Tát ra đời để cửu độ chúng sanh. Như vậy, vì sao nói Bồ Tát chẳng nhiếp độ kẻ xấu ác, kẻ phá giới ?
Đáp: Có kẻ xấu ác, phá giới chẳng thể độ được. Nếu nhiếp thủ họ, cùng ở chung với họ, là tự hoại mình và hoại đạo pháp. Đối với hạng người đó, thì muốn nhiếp độ họ cũng chẳng có ích gì.
Ví như đang ở ngoài biển khơi chẳng may thuyền gặp nạn, nếu người chỉ biết bơi chút ít mà ra sức cứu người khác, thì cả hai đều bị chết chìm cả. Cũng như vậy, người mới tu hành, chưa có đầy đủ lực công đức, mà thường gần gũi hạng người xấu ác, thì rất dễ bị lôi cuốn theo. Bởi vậy nên Phật dạy các Bồ Tát sơ phát tâm, “Phải xa lìa kẻ xấu ác mới tu hành được”.
–oOo–
Người hành thiền định, khi đã được tâm nhu nhuyến rồi, thì mới chẳng còn đắm chấp thiền vị, dẫn đến khi mạng chung cũng chẳng tùy theo thiền cảnh dẫn sanh.
Phật dạy ngài Tu Bồ Đề: Bồ Tát học như vậy, thì ở nơi hết thảy các pháp vẫn giữ được tâm thanh tịnh, nhiếp phục được tâm Nhị Thừa, nên chẳng bị lạc về Nhị Thừa địa. Vì sao ? Vì Nhị Thừa chưa được rốt ráo thanh tịnh, xa rời rốt ráo không, xa rời vô sở hữu vậy.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Nếu nói các pháp, từ vô thỉ đến nay, vốn thanh tịnh, vốn rốt ráo không, thì vì sao còn nói ở nơi hết thảy pháp, Bồ Tát đều được thanh tịnh ?
Phật dạy: Đúng như vậy ! Các pháp, từ xưa đến nay, vốn là rốt ráo không, là rốt ráo thanh tịnh. Nếu Bồ Tát, ở nơi hết thảy các pháp mà tâm được thông đạt, chẳng vướng mắc, chẳng nghi, chẳng sanh tà kiến, thì mới vào được Bát Nhã Ba La Mật. Phàm phu do chẳng biết, chẳng thấy các pháp bản lai thanh tịnh, nên mới phải chìm đắm trong khổ đau. Bồ Tát biết rõ như vậy, nên mới vì chúng sanh hành 6 pháp Ba La Mật, hành các trợ đạo pháp, để phương tiện giáo hóa chúng sanh.
Bồ Tát phải được thanh tịnh ở nơi hết thảy pháp, thì mới xa lìa được 3 cõi hư vọng, mới vượt lên trên hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật được. Do được thanh tịnh ở nơi hết thảy các pháp, nên Bồ Tát được vô lượng các lực công đức, thấu rõ tâm nguyện của chúng sanh ở khắp 10 phương, để tùy thuận theo căn trí của từng đối tượng, mà thuyết pháp, nhằm khai hóa họ, dẫn dắt họ vào Phật đạo, khiến họ được nhiều lợi ích”.
Bồ Tát được các công đức như vậy là nhờ học Bát Nhã Ba La Mật. Bởi vậy nên nói Bát Nhã Ba La Mật là chỗ tận cùng của sự tu học.
Vì có rất ít người học được như vậy, nên Phật nêu các thí dụ để chúng hội hiểu rõ nghĩa: Ví như trong quả đất rất ít chỗ có vàng, có bạc, có các châu báu khác; ví như trong loài người có rất ít người gieo nghiệp duyên Chuyển Luân Thánh Vương. Cũng như vậy trong số các người tu hành, chỉ có số ít người học Bát Nhã Ba La Mật, cầu nhất thiết chủng trí, còn phần đông chỉ muốn hành đạo Thanh Văn và đạo Bích Chi Phật vậy.
–oOo–
Khi học Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát chẳng khởi tâm xan tham, tật đố. Vì sao ? Vì học Bát Nhã Ba La Mật là tiêu trừ được xan tham, tật đố, cùng các phiền não khác.
Dù phiền não chưa được tận đoạn, nhưng chẳng còn sanh khởi nữa. Vì sao ? Vì Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, nên biết rõ các pháp tướng đểu là hư vọng, chẳng nên chấp. Bồ Tát chẳng chấp sắc … dẫn đến chẳng chấp Vô Thượng Bồ Đề. Bồ Tát chẳng trú chấp “có – không”, mà theo “trung đạo” để tu tập Bồ Tát hạnh.
Phật dạy, “Khi hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát chẳng thấy có pháp đắc, chẳng thấy có người đắc pháp. Vì dụng tâm vô sở đắc như vậy, nên Bồ Tát tu tập hết thảy các pháp, mà chẳng chấp các pháp tướng, dù đó là thiện pháp”. ,
Bồ Tát học như vậy là học Bát Nhã Ba La Mật, là tổng nhiếp hết các Ba La Mật khác, là ly hết thảy tà kiến.
Hỏi: Ngã kiến và mạng căn có khác nhau chăng ?
Ngã kiến cũng như các tà kiến khác đểu có tướng riêng khác. Vì sao nói “Hết thảy các kiến chấp đều nhiếp ở trong ngã kiến cả” ?
Đáp: Tuy rằng biệt tướng có sai khác, nhưng tất cả các kiến chấp đều y nơi ngã kiến làm gốc. Lại nữa, do vô minh duyên khởi mà có chấp ngã.
Bồ Tát biết rõ ngã kiến cùng các kiến chấp khác đều là hư vọng, chẳng thật có. Phàm phu, do chấp 5 ấm thân, mà dẫn sanh ngã kiến; từ đó khởi sanh các chấp khác, như: Chấp thường, chấp đoạn, chấp 5 dục lạc thế gian, chấp chẳng có nhân quả v.v… Tất cả các chấp như vậy đều là điên đảo, là tội lỗi.
Bồ Tát học Bát Nhã Ba La Mật, nên là thù thắng bậc nhất trong thế gian, vượt trên các hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật.
Bởi vậy nên dạy ngài Tu Bồ Đề rằng: Chúng sanh trong cõi đại thiên thế giới nhiều vô lượng. Nếu hết thảy chúng sanh đó đều được thân người và đều được Vô Thượng Bồ Đề, và nếu có người suốt đời cúng dường “tứ sự” cho từng ấy đức Phật, thì phước đức của ngưới ấy cũng chẳng sao bằng được phước đức cửa vị Bồ Tát học Bát Nhã Ba La Mật, chánh ức niệm và như thuyết tu hành Bát Nhã Ba La Mật. Do học như vậy nên Bồ Tát ấy xa lìa tâm Nhị Thừa, gần được Vô Thượng Bồ Đề vậy.
Phật lại dạy: Nếu Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật mà còn dấy niệm, “Ta có tu Bát Nha Ba La Mật; do tu Bát Nhã Ba La Mật, mà ta sẽ được nhất thiết chủng trí”, thì như vậy là xa lìa Bát Nhã Ba La Mật. Nếu Bồ Tát chẳng biết rõ do 5 ấm thân hòa hợp mà giả danh có ngã, có Bồ Tát, lại trú chấp vào cái TA đó, thì như vậy cũng là xa lìa Bát Nhã Ba La Mật.
Vì sao ? Vì trú chấp vào pháp tu, vào quả tu chứng, vào người tu được chứng quả, là đã xa lìa Bát Nhã Ba La Mật rồi. Pháp Bát Nhã Ba La Mật là pháp vô đắc, vô trước, là đệ nhất nghĩa đế vậy.
Nếu Bồ Tát tùy nơi pháp ấy mà sanh ngã tâm, muốn Bát Nhã Ba La Mật có sở tác tướng, chấp mình học Bát Nhã Ba La Mật sẽ được Vô Thượng Bồ Đề, thì phải biết Bồ Tát tác niệm như vậy là xa lìa Bát Nhã Ba La Mật, là chẳng phải hành Bát Nhã Ba La Mật vậy.
Nếu Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật mà chẳng tác niệm như vậy, mới thật là hành Bát Nhã Ba La Mật.
Hỏi: Trước đây đã 2 lần nói về “tác niệm và chẳng tác niệm” rồi. Sao nay còn nói thêm nữa ?
Đáp: Vấn đề này tuy được nói đến 3 lần, nhưng mỗi lần đều có mục đích riêng khác .
Có thể nói là:
– Lần thứ nhất: Nói về tà hạnh tướng.
– Lần thứ hai: Nói về sự ngăn tà hạnh tướng, nhưng chưa nói về chánh hạnh tướng.
– Lần thứ ba: Nói về chánh hạnh tướng.
Cũng có thể nói là:
– Lần thứ nhất: Nói về chấp thủ tướng.
– Lần thứ hai: Nói về phá chấp tướng, nhưng chưa nói về thật tướng pháp.
– Lần thứ ba: Nói về phá tà chấp, và hiển bày thật tướng pháp.
Bồ Tát phải biết rõ, ở nơi hết thảy Bát Nhã Ba La Mật đều chẳng có sở tác tướng.
Bồ Tát cũng chẳng nên sanh tâm chấp ngã, chẳng nên tác niệm mình có hành Bát Nhã Ba La Mật, mình hành Bát Nhã Ba La Mật sẽ được nhất thiết chủng trí.
Bồ Tát phải biết rõ hết thảy pháp đều là thường trú, là như pháp tánh thật tế, mà ở nơi đó thì chẳng có sự tương đãi.
Bởi nhân duyên vậy, nên phải nói thêm lần thứ ba.
(Hết quyển 77)