LUẬN
ĐẠI TRÍ ĐỘ

Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ kheo ni THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG

 

TẬP II
QUYỂN 34

Phẩm thứ nhất
(Tiếp theo)
 
Tín Trì
(Tin & giữ)

KINH:

Này Xá Lợi Phất! Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lại trong hằng sa thế giới khắp 10 phương, đã thuyết, đang thuyết và sẽ thuyết chánh pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát muốn nghe, muốn tín trì, rồi nói lại cho người khác nghe, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

LUẬN:

Hỏi: Trước đã nói “Muốn nghe chư Phật 10 phương thuyết pháp và nhớ nghĩ không quên, thì phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật. Vì sao nay lại nói “Muốn tín trì pháp Phật trong 3 đời, thì cũng phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật?”

Đáp: Trước đã nói “Người nghe chư Phật trong 10 phương thuyết pháp mà muốn nhớ nghĩ không quên, thì phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật”, nhưng chưa nói rõ đó là pháp gì. Nay nói “12 bộ kinh là pháp của chư Phật trong cả 3 đời”, là chỗ mà hàng Thanh Văn chưa hề biết đến. Vì sao? Vì hàng Thanh Văn chỉ biết 12 bộ kinh do đức Phật hiện tại thuyết ra, mà chẳng biết rằng đó là pháp của hằng sa đức Phật trong cả 3 đời thuyết giảng.

Lại nữa, trước nói thọ trì mà chẳng quên lãng. Nay nói thọ trì để được lợi ích cho mình, và nói cho người nghe, làm lợi ích cho họ.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói “muốn nghe chư Phật trong 3 đời và khắp 10 phương thuyết pháp, tín trì, rồi nói lại cho người khác nghe, thì phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật”.

Hỏi: Nghe chư Phật trong 10 phương thuyết pháp, rồi thọ trì, nhớ nghĩ thì còn có thể chấp nhận được. Còn như các đức Phật quá khứ đã diệt độ rồi, các đức Phật vị lai chưa xuất thế, thì làm sao có thể nghe được các đức Phật này thuyết pháp?

Đáp: Chư Đại Bồ Tát có đầy đủ các Tam Muội, quán thấy được chư Phật trong cả 3 đời. Vào trong các tam muội này, Bồ Tát có thể thấy, có thể nghe được chư Phật ở cả 3 đời.

Các vị tiên nhân Ngoại Đạo, dùng trí huệ lực còn thấy biết được các việc xảy ra trong quá khứ và các việc sẽ xảy ra trong tương lai, lại còn có thể hay biết được những ý nghĩ thầm kín của người khác, huống nữa là chư vị Đại Bồ Tát có trí huệ chẳng thể nghĩ bàn (bất khả tư nghi). Vì sao? Vì do đã nghe rõ tiếng tâm của chúng sanh, nên Bồ Tát có thể thông đạt được hiện tại cũng như quá khứ và vị lai một cách vô ngại.

Lại nữa, Bồ Tát dùng các lực Đà La Ni quán các sự việc ở đời nay, mà tư duy, trù lượng để biết rõ các sự việc đã xảy ra trong quá khứ, cũng như sẽ xảy ra trong đời vị lai.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói “muốn nghe chư Phật trong 3 đời và khắp 10 phương thuyết pháp, thì phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật”.

KINH:

Ở hằng sa thế giới trong khắp 10 phương đều có những nơi tối tăm chẳng hề có ánh sáng cảu mặt trăng và mặt trời chiếu đến. Bồ Tát Ma Ha Tát muốn phóng quang minh chiếu rọi đến tận các nơi ấy, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

LUẬN:

Bồ Tát, từ cõi trời Đâu Suất thị hiện vào thai mẹ xuống cõi trần. Lúc bấy giờ thân Bồ Tát phóng quang minh Chiếu sáng đến 10 phương thế giới, đến tận những chỗ tối tăm chưa hề có ánh sáng mặt trời mặt trăng chiếu đến.

Lại nữa, khi thành Đạo, khi sắp chuyển pháp luân, khi sắp thuyết kinh Bát Nhã Ba La Mật cũng như khi sắp nhập Niết Bàn, Phật đều có hiện đại thần lực, phóng đại quang minh chiếu khắp cả 10 phương thế giới.

Hỏi: Những sự việc nêu trên đây đều do Phật lực mà có. Vì sao nói Bồ Tát cũng làm được việc như vậy?

Đáp: Bồ Tát muốn được như Phật, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật. Ví như các Đại Bồ Tát Phổ Hiền, Quán Thế Âm, Thế Chí v.v…đều có vô lượng quang minh chiếu khắp 10 phương thế giới.

Lại nữa, ở cảnh giới Phật A Di Đà, thân của các Bồ Tát đều có quang minh chiếu đi rất xa.

Hỏi: Bồ Tát tu các hạnh nghiệp gì mà thân có được quang minh như vậy?

Đáp: Do giữ thân  nghiệp thanh tịnh, trải qua vô lượng kiếp mà Bồ Tát được thân quang minh như vậy.

Trong kinh có ghi chép mẫu chuyện sau đây:

Có một con quỷ mang đầu và miệng heo mà thân lại có quang minh sắc vàng. Đây là do dời trước con quỷ này là một vị Tỷ Kheo giữ được thân giới thanh tịnh, nhưng lại phạm lỗi ác khẩu, thường hay mắng nhiếc các vị Tỷ Kheo khác. Bởi vậy nên được có thân quang minh sắc vàng, mà đầu và miệng tợ như heo, đặc biệt là ở nơi miệng luôn có mùi hôi thối tỏa ra.

–o0o–

Trong kinh có nói:

 -Người tu hành tinh tấn, giữ tâm thanh tịnh sẽ được quang minh, hoặc nhiều hoặc ít hiện ra.

-Chư Thiên ở các cõi trời Lục Dục, cõi trời Quang Âm cũng có được thân quang minh.

-Người tu hạnh bố thí, người tu hạnh trì giới, người có tâm từ thương xót chúng sanh cũng có được thân quang minh.

-Người cúng dường đèn đuốc cho chúng sanh, người cúng dường tượng Phật, tượng Bồ tát cũng có được thân quang minh.

-Người niệm Phật tam muội, người tu từ tâm tam muội, niệm hết thảy chúng sanh, người nhập vào Hỏa Quang tam muội có được trí huệ quang minh chiếu khắp.

-Người có công đức giáo hóa chúng sanh, đưa chúng sanh ra khỏi chốn tà kiến, tối tăm, cũng có được trí huệ quang minh chiếu khắp.

–o0o–

Như vậy là do giữ tâm thanh tịnh, tinh tấn hành các thiện pháp mà thành tựu được quang minh.

KINH:

Ở hằng sa thế giới trong khắp 10 phương đều có những nơi chưa từng có Phật, Pháp và tăng. Bồ Tát Ma Ha Tát muốn khiến chúng sanh ở những nơi ấy đều được nghe pháp chánh, được nghe danh hiệu Tam Bảo, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

LUẬN:

Bồ Tát thị hiện sanh ở những nơi mà chúng sanh chưa được nghe chánh pháp, chưa được nghe đến danh hiệu Phật, Pháp, Tăng, nhằm giáo hóa họ nên được vô lượng công đức.

Bởi nhân duyên vậy, nên mau được các thiền định, mau được các thàn thông, có đầy đủ các lực phương tiện để giáo hóa chúng sanh trong khắp 10 phương, khiến họ sanh được tín tâm thanh tịnh nơi 3 ngôi Tam Bảo, tin các ngiệp báo nhân duyên, tin thế gian là triền ngược (trói buộc), tin Niết Bàn là giải thoát, tán thán 10 phương Tam Bảo.

KINH:

Ở hằng sa thế giới trong khắp 10 phương đều có những chúng sanh mù lòa, điếc lác, cuồng điên, đói khát. Bồ Tát Ma Ha Tát muốn do sức tu hành của mình làm cho những kẻ mù lòa được sáng mắt, làm cho những kẻ điếc lác được nghe, làm cho những kẻ cuồng điên được tỉnh, làm cho những kẻ đói khát được ăn uống đầy đủ, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

LUẬN:

Bồ Tát tu tập Bát Nhã Ba La Mật được Vô Ngại Giải Thoát, được Pháp Tánh Sanh Thân. Ví như người được Bảo Châu tam muội nguyện gì cũng đều được như ý. Nững chúng sanh nào có được phước duyên, thấy được thân của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, thì nguyện cầu gì cũng được như ý. Bồ Tát từ sơ phát tâm đã trị được 96 thứ bệnh về mắt của chúng sanh. Nếu chúng sanh nào lành được các bệnh ấy thì được trí huệ quang minh, phá được các bệnh tà kiến. Bồ Tát lại khởi tâm đại từ đại bi thương xót chúng sanh, nguyện làm thỏa mãn các điều mong cầu chính đáng của chúng sanh. Bởi vậy nên những chúng sanh nào được phước duyên thấy Bồ Tát thì cầu gì cũng đều được như nguyện.

KINH:

Này Xá Lợi Phất! Bồ Tát Ma Ha Tát muốn do năng lực tu hành của mình, khiến chúng sanh ở trong 3 đường ác, của hằng  sa thế giới trong khắp 10 phương được thân người, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

LUẬN:

Hỏi: Do nghiệp nhân duyên mà được thân người. Vì sao lại nói do năng lực tu hành của Bồ Tát mà các chúng sanh ở trong 3 đường ác được thân người?

Đáp: Bồ Tát dùng thần lực biến hóa, thị hiện vào tận trong 3 đường ác, thuyết pháp hóa độ chúng sanh ở các nơi đó. Như vậy nhờ ân lực nhân duyên của Bồ Tát mà chúng sanh ở trong 3 đường ác chuyển tâm tu hành, được phước báo làm người.

–o0o–

Trong kinh nói có 2 nhân duyên phát khởi chánh kiến. Đó là:

-Ngoại nhân duyên, như là được nghe pháp

-Nội nhân duyên, như là có chánh niệm

Ví như cây cỏ do hạt giống làm nội chủng từ, nội nhân duyên. Thế nhưng nếu chẳng có đất, nước, phân bón, ánh sáng mặt trời v.v…làm ngoại nhân duyên, thì hạt giống chẳng có thể nảy mầm để trở thành cây, thành cỏ được. Chúng sanh cũng như vậy, dù có sẵn chánh niệm, nhưng nếu chẳng được các Bồ Tát dạy dỗ thì cũng rất khó phát khởi đạo tâm.

Hỏi: Bồ Tát làm thế nào để khiến chúng sanh ở trong 3 đường ác được giải thoát?

Đáp: Bồ Tát thường niệm chúng sanh thọ khổ trong 3 đường ác, nên thường phóng đại quang minh, hóa thân vào tận các nơi này để thuyết pháp hóa độ chúng sanh. Nhờ năng lực tu hành của Bồ Tát mà lửa ở địa ngục Hỏa Khanh bỉ dập tắt, và ở nơi đây chúng sanh được tâm thanh tịnh, được sanh làm trời, làm người. Lại cũng nhờ lực tu hành của Bồ Tát mà các ngạ quỷ đói khát được ăn uống đầy đủ, các súc sanh được tùy ý ăn uống, xa lìa các nỗi sợ hãi.

Như vậy là nhờ Bồ Tát giáo hóa, dạy dỗ, khai mở thiện tâm mà các chúng sanh ở trong 3 đường ác được giải thoát.

Hỏi: Trong các kinh đều nói “gieo nhân phước đức được sanh lên cõi trời”. Nay vì sao Bồ Tát muốn khiến chúng sanh ở trong 3 đường ác được thân người, mà không muốn họ thọ các phước lạc cõi trời?

Đáp: Ở các cõi trời có quá nhiều lạc thú, nên rất khó tu giải thoát. Sanh làm thân người, tuy khổ nhiều vui ít, nhưng dễ tu hơn.

Bởi nhân duyên vậy, nên Bồ Tát không muốn chúng sanh hưởng phước lạc cõi trời mà muốn họ sanh vào loài người.

KINH:

Muốn do năng lực tu hành của mình, khiến cho chúng sanh thành tựu được giới, định, huệ, giải thoát và giải thoát tri kiến, được các quả Tu Đà Hoàn, Tu Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, dẫn đến được Vô Thượng Bồ Đề, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

LUẬN:

Hỏi: Trước đây đã nói về các đạo quả rồi. Vì sao nay còn nói nữa?

Đáp: Trước đây nói về pháp Thanh Văn nên chỉ nói đến tứ quả Thanh Văn là Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán dẫn đến Niết Bàn.

Nay rộng nói cả 3 thừa, gồm Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa và Bồ Tát thừa cũng đều dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề.

KINH:

Bồ Tát Ma ha Tát muốn có được các oai nghi như Phật, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

LUẬN:

Hỏi: Thế nào gọi là được các oai nghi như Phật?

Đáp: Phật có 4 oai nghi. Đó là:

1)- Khi đứng, thân tợ như thân voi chúa. Khi đi, chân cách mặt đất 4 phân, dù chân không đạp đất, mà dấu chân vẫn hiện rõ trên mặt đất. Bước đi khoan thai, không mau cũng không chậm. Khi đi, thân chẳng có dao động. Mỗi lần dở chân hay dở tay đều đem lại sự an ổn cho chúng sanh.

2)-Khi ngồi kiết già, thân thẳng tắp. Khi nằm, thân nghiêng về bên phải, với hai đầu gối chồng lên nhau. Khi trải tọa cụ (tấm trải để ngồi) và ngọa cụ (tấm trải để nằm) đều thận trọng trải ngay ngắn, chẳng có chênh lệch.

3)-Khi ăn, không đắm vị ngon, chẳng có phân biệt các thức ăn ngon dở, vì xem ngon và dở đều bình đẳng. Suốt thời gian thọ trai giữ im lặng, không nói năng.

4)- Khi nói ra lời, thì tiếng nói trong sáng, nhu hòa, khúc chiết. Nói đúng thời, đúng lúc.

KINH:

Muốn nhìn ngó tợ như voi chúa, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

LUẬN:

Trong khi nhìn ngó, hoặc khi xoay chuyển thân hình, Phật lúc nào cũng oai nghiêm như voi chúa, hiển bày tướng của bậc đại nhân; thân tâm đều chuyên nhất.

 Phật chỉ chuyển thân khi có đại sự nhân duyên. Thân Phật thường không dao động. Vì sao? Vì từ vô thỉ kiếp, Phật đã thường nhất tâm. Lại nữa, từ vô thỉ kiếp, Phật đã dứt trừ tâm kiêu mạn. Bởi vậy, nên đối với hết thảy chúng sanh, Phật đều bình đẳng hóa độ.

Như trong kinh nói:

Tại thành Xá Bà Đề ( thành Xá Vệ), Phật gặp một người gánh phân mà vẫn dùng tay xoa đầu người ấy, đem lời dạy dỗ, khiến người ấy sanh tín tâm, xin xuất gia theo Phật, và về sau tu hành được Đạo.

Bởi nhân duyên vậy nên nói “Bồ Tát muốn nhìn ngó tợ như voi chúa, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật”.

KINH:

Bồ Tát Ma Ha Tát nguyện rằng: khi ta đi, chân ta cách mặt đất 4 ngón tay, chẳng đạp lên đất, ta sẽ được vô lượng chư Thiên cõi Dục và cõi Sắc, từ cõi trời Tứ Thiên Vương đến cõi trời Cứu Cánh Thiên, cung kính đi quanh ta để cùng ta đến dưới gốc cây Bồ Đề.

Bồ Tát Ma Ha Tát lại nguyện rằng: khi ta ngồi dưới gốc Bồ Đề, chư Thiên sẽ trải tòa cho ta.

Muốn được như vậy, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

LUẬN:

Hỏi: Phật thường phóng đại quang minh. Như vậy vì sao vẫn còn có chúng sanh không cung kính Phật.

Đáp: Những chúng sanh ấy, do bị vô minh che tâm, nên phạm rất nhiều tội lỗi, lại cho là Phật làm những điều tà hoặc, huyễn hóa mà chẳng biết Phật là bậc Sa Môn có đại oai đức, bậc tối tôn, tối trọng. Ví như người mắc bệnh nan y thì dù có dùng đủ loại thuốc tốt, đủ mọi thức ăn uống bổ dưỡng, vẫn chẳng có lợi ích gì.

Trái lại, hàng chư Thiên có thiên nhãn thấy Phật ngồi dưới gốc cây Bồ Đề, có đại lực phá sạch các kiết sử ma và các tự tại thiên ma, nên thường ủng hộ, thường cung kính cúng dường Phật, Ví như khi Phật quyết tâm xuất gia tìm Đạo, thì chư Thiên đã dùng thần thông lực, khiến cho các thế nữ trong cung ngủ say. Lại nữa, khi Phật lên yên ngựa, thì chư Thiên nâng 4 chân ngựa đưa Phật vượt ra khỏi thành. Lại cũng chính chư Thiên đến bên hầu hạ Phật khi Phật tọa thiền dưới gốc cây Bồ Đề.

Hỏi: Vì sao loài người chẳng biết đến hầu hạ Phật, mà chư thiên lại biết?

Đáp: Phật tọa thiền trong rừng sâu, xa vắng, nên rất ít người lui tới được. Hơn nữa, người chẳng có được thiên nhãn nên chẳng thấy được Phật, chẳng biết được tâm Phật.

Hàng chư Thiên có thiên nhãn, có Thánh trí nên biết rõ Phật sắp thành Đạo, dù lúc bấy giờ còn là một vị Bồ Tát. Bồ Tát tu nơi chốn vắng lặng mà chư Thiên lại thường tui tới các chốn ấy, nên có rất nhiều sự thuận lợi trong việc hầu hạ Phật.

Trong kinh có nêu trường hợp của 5 vị đạo sĩ nhóm ngài Kiều Trần Như, do thấy Phật rời bỏ lối tu khổ hạnh, mà sanh tâm không tin kính Phật.

Sau khi Phật thành Đạo, chư Thiên hoan hỷ cung kính, cúng dường, thỉnh Phật chuyển Pháp Luân, mà 5 vị này thấy Phật từ xa đi đến vẫn chưa biết đó là bậc Toàn Giác, nên giả vờ làm lơ, chẳng muốn tiếp Phật. Mãi đến khi thấy rõ thân tướng oai nghiêm của Phật, và nghe Phật thuyết pháp mới chuyển tâm, xin theo Phật làm đệ tử.

Hỏi: Trong các kinh đều nói: “Phật trải cỏ để ngồi dưới gốc cây Bồ Đề, mãi cho đến không thành đạo”. Nay vì sao lại nói chư Thiên trải bảo tòa cho Phật ngồi?

Đáp: Trong kinh Thanh Văn nói trải cỏ, mà trong kinh Đại Thừa Ma ha Diễn thì nói chư Thiên dâng tiện y làm bảo tòa. Vì sao? Đây là do huệ đức nhiều hay ít mà chỗ thấy có sai khác nhau. Phàm phu dùng nhục nhãn thấy sắc thân của Phật, nên thấy Phật trải cỏ để ngồi tọa thiền dưới gốc cây Bồ Đề. Còn các bậc Thánh thấy được Pháp thân của Phật, nên thấy chư Thiên lấy thiên y trải làm bảo tòa để Phật ngồi.

Hỏi: Vì sao nói chư Thiên trải thiên y làm bảo tòa mà không nói Bồ Tát trong khắp 10 phương, trải pháp tòa hầu Phật?

Đáp: Khi chưa thành Phật, thì Phật cũng chỉ là Bồ Tát, cùng với chư Bồ Tát bình đẳng. Khi thành Đạo rồi mới gọi là Phật.

Lại nữa, nếu nói có Bồ Tát trải pháp tòa hầu Phật, thì hàng chư Thiên cũng chẳng thấy được. Vì sao? Vì hàng chư Thiên chẳng có thể biết được phước đức vô lậu của Bồ Tát. Cũng như khi Phật hàng phục các thiên ma, được đạo trang nghiêm, thì chỉ có chư Bồ Tát mới thấy được mà thôi.

Hỏi: Trong kinh có nói đến diệu tòa của Phật. Vì sao cũng chẳng nói đến?

Đáp: Có 2 cách thuyết Bát Nhã Ba La Mật. Đó là:

-Vì hàng Thanh Văn và hàng chư Thiên mà nói.

-Vì hàng Bồ Tát thập trú mà nói.

Trong trường hợp thứ ai mới nói đến Bồ Tát trải tòa hầu Phật ngồi. Hàng chư Thiên chẳng thể thấy biết được việc làm của chư đại Bồ Tát, nên không nói ra nơi đây.

KINH:

Bồ Tát Ma Ha Tát lại nguyện rằng: Khi ta được Vô Thượng Bồ Đề, các chỗ ta đi, đứng, nằm, ngồi đều trở thành kim cang.

Muốn được như vậy, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

LUẬN:

Hỏi: Vì sao các chỗ đi, đứng, nằm, ngồi của đức Phật đều trở thành kim cang[note] Kim cang là một loại đá quý, thường được gọi là hạt xoàn, rất cứng, rất kiên cố. Kim cang có thể phá hoại được các chất khác, mà ngược lại chẳng chất nào phá hoại được kim cang. [/note]?

Dùng Kim Cang làm dụ bao hàm 4 nghĩa sau đây:

-Kiên cố, chẳng có sức nào phá nổi
-Quý báu, rất khó kiếm
-Có sức phá được mọi vật
-Tinh khiết, trong sáng

Đáp: Khi Bồ Tát đến dưới gốc Bồ Đề, trải pháp tòa, vào được đạo Vô Thượng là đã vào được nơi Thật Tướng pháp. Đã vào được thật tướng pháp rồi thì chẳng còn ở nơi đất nghiệp của chúng sanh nữa. Lúc bấy giờ Bồ Tát đã  được thật trí huệ, nên chỗ ngồi của Bồ Tát liền biến thành đất kim cang ( kim cang địa). Vì sao? Vì đất kim cang thông với vừng kim cang (kim cang luân). Vừng kim cang lại thông với thật tế kim cang (kim cang tế). Ở nơi đây hiện ra một đóa hoa sen, có đài sen ở nơi đất kim cang, dùng làm pháp tòa cho Phật, là nơi Phật tọa đạo tràng (đạo tràng tọa xứ).

Bởi vậy nên khi đã thành đạo rồi thì các chỗ đi, đứng, nằm, ngồi của Phật đều là kim cang cả.

Hỏi: Đất kim cang từ nơi đất nghiệp của chứng sanh mà hư ngụy tạo thành. Như vậy làm sao đất ấy có thể trở thành tòa kim cang của Phật được?

Đáp: Kim cang ở nơi quả đất do duyên nghiệp của chúng sanh mà hư ngụy tạo ra, nhưng loại đã quý này rất cứng, rất kiên cố, khó có thể phá được.

Còn đất kim cang (Kim Cang địa) của Phật được bao bọc bởi vừng nước (thủy luân), thường có các Long Vương giữ gìn làm bảo vật để cúng dường Phật.

Do vậy, mặc dù lấy kim cang làm dụ, chẳng thể đem kim cang của thế gian so sánh với đất kim cang của Phật được.

Tâm Phật trải qua vô lượng kiếp, đã kiên cố, chẳng gì lay chuyển được. Bởi vậy dù Phật thị hiện sanh ở cõi Ta Bà ô trược, mà đối với Phật, cõi này cũng trở thành đất kim cang.

Lại nữa, đối với trí huệ Phật, thì 4 Đại cũng như hư không, đều là thanh tịnh bình đẳng. Bởi vậy nên bất cứ nơi nào trên cõi Ta Bà này cũng đều là đất kim cang cả.

KINH:

Này Xá Lợi Phất! Bồ Tát Ma Ha Tát nguyện: ngay trong ngày xuất gia liền được đạo Vô Thượng Bồ Đề, ngay trong ngày thành đạo Vô Thượng Bồ Đề liền chuyển pháp luân, ngay khi chuyển pháp luân liền làm cho vô lượng chúng sanh được xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh, vô lượng chúng sanh được vô lậu giải thoát, vào được bất thối chuyển địa, được Vô Thượng Bồ Đề. Muốn được như vậy, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

LUẬN:

Bồ Tát thị hiện làm thân người, vào trong đời ác 5 trược, chung sống với phàm phu để giáo hóa họ, khiến họ xa lìa được các tà kiến mê lầm. Đây là việc rất khó làm. Ví như Phật Thích Ca Mưu Ni khi còn là Bồ Tát, đã tu khổ hạnh trong 6 năm dài. Bồ Tát thấy lối tu khổ hạnh chẳng có thể đưa đến giải thoát, nên đã nguyện đến dưới gốc cây Bồ Đề để tọa thiền, và chứng thành đạo quả. Đây là việc rất khó làm.

Có Bồ Tát xuất gia trong đời thuần thiện, như Bồ Tát Đại Thông Huệ, ngồi kiết già trải qua 10 kiếp cầu Phật Đạo mới được thành Phật.

 Lại có Bồ Tát như Bồ Tát Nhiên Đăng, sau khi thành Phật đã trải qua 12 năm phóng quang minh mà chẳng có ai cầu đạo nên chẳng nói pháp.

Lại có Bồ Tát như Bồ Tát Phiến Đà, thành Phật rồi mà chẳng có chúng sanh thọ hóa, phải lưu lại hóa thân trong một kiếp nữa để độ sanh rồi mới diệt độ.

Lại có Bồ Tát như Bồ Tát Thích Ca Mưu Ni, khi thành Phật liền có chư Thiên thỉnh chuyển pháp luân. Trong lần chuyển pháp luân đầu tiên có 5 Đạo sĩ nhóm ngài Kiều Trần Như được Sơ Quả và 8 vạn chư Thiên được pháp nhãn thanh tịnh.

–o0o–

Có Bồ Tát nguyện khi thành Phật, sẽ độ vô lượng chúng sanh. Lại có Bồ Tát nguyện khi thành Phật, sẽ độ số chúng sanh có hạn lượng.

Lại có Bồ Tát nguyện khi thành Phật, sẽ khiến vô lượng chúng sanh chẳng còn thọ các tâm hữu lậu, dược giải thoát, được đạo Vô Thượng Bồ Đề.

Hỏi: Hết thảy các đức Phật đều có đại thần lực, có vô lượng công đức, độ vô lượng chúng sanh. Hết thảy các đức Phật đều bình đẳng. Như vậy vì sao nói “các Bồ Tát phát thế nguyện khác nhau?”

Đáp: Mỗi đức Phật có thể biến vô số thân thể để độ chúng sanh. Thế nhưng căn cơ của chúng sanh ở các thế giới có khác nhau, nên thệ nguyện của các Bồ Tát trước khi thành Phật cũng khác nhau.

Ví như đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn là Bồ Tát, đã tu 6 năm khổ hạnh mới tự tìm ra con đường giải thoát, mới thành Đạo Vô Thượng. Lại khi chuyển pháp lần đầu chưa có người được quả vị A La Hán, chưa có người vào được Bồ Tát đạo.

Dù các đức Phật đều có đại thần lực, có vô lượng công đức, đều là bìn đẳng như nhau, nhưng khi còn là Bồ Tát, mỗi vị đều có những nguyện lực riêng khác.

KINH:

Bồ Tát Ma Ha Tát lại nguyện rằng: Khi ta thành Phật, trong Tăng số của ta sẽ có vô lượng Thanh Văn Tăng, và tất cả các vị Tăng này sau khi nghe xong một thời pháp liền được quả A La Hán. Muốn được như vậy, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

LUẬN:

Các Bồ Tát khi được Vô Thượng Bồ Đề đều có hàng Thanh Văn trong Tăng số của mình. Thế nhưng Tăng số của mỗi vị Phật mỗi khác. Ví như:

-Đức Phật Thích Ca có 1250 vị Tỷ Kheo

-Đức Phật Di Lặc có 3 hội Long Hoa. Ở hội thứ nhất có 99 ức vị Tăng, ở hội thứ hai có 96 ức vị Tăng, ở hội thứ ba có 93 ức vị Tăng.

Lại ví như đức Phật Thích Ca Mưu Ni, khi chuyển pháp luân lần đầu, có 5 vị đệ tử đầu tiên nghe pháp, chứng được sơ quả Tu Đa Hoàn. Về sau các vị này mới chứng được quả A La Hán. Các đệ tử khác của Phật lần đầu tiên nghe pháp cũng chỉ chứng được sơ quả, ví như ngài Xá Lợi Phất, lần đầu tiên nghe pháp liền chứng được sơ quả Tu Đà Hoàn. Rồi 15 ngày sau mới chứng được A La Hán. Lại ví như ngài Ma Ha Ca Diếp, lần đầu tiên nghe pháp, liền chứng được sơ quả Tu Đà Hoàn, rồi 8 ngày sau mới chứng được A La Hán. Còn như ngài A Nan. Lần đầu tiên nghe pháp, liền chứng sơ quả Tu Đà Hoàn. Thế nhưng trải qua 15 năm thân cận hầu hạ bên Phật mà vẫn chẳng chứng được quả A La Hán. Mãi đến sau khi Phật nhập Niết Bàn rồi, ngài A Nan mới chứng được quả A La Hán.

Các trường hợp nêu trên đây cho thấy rằng lời nguyện của mỗi vị Bồ Tát tùy tâm của chúng sanh mà có sai khác vậy.

Bởi nhân duyên vậy, nên có nhiều vị Bồ Tát phát nguyện: khi được thành Phật sẽ có vô lượng Thanh Văn trong Tăng số của mình, và một lần thuyết pháp tất cả vị Tăng này liền được quả A La Hán.

KINH:

Bồ Tát Ma Ha Tát lại nguyện rằng: khi ta thành Phật, trong Tăng số của ta sẽ có vô lượng Bồ Tát Tăng, và tất cả các vị tăng này, sau khi nghe một thời pháp liền được bất thối chuyển, được thọ mạng vô lượng, được quang minh vô lượng.

Muốn được như vậy, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

LUẬN:

Thọ mạng của các đức Phật có ngắn, có dài, không đồng đều nhau. Ví như:

-Đức Phật Tỳ Bà Thi thọ mạng 8 vạn  4 ngàn tuổi
-Đức Phật Câu Na Hàm Mưu Ni tọ mạng 3 vạn tuổi
-Đức Phật Ca Diếp thọ mạng 2 vạn tuổi
-Đức Phật Di Lặc thọ mạng 8 vạn 4 ngàn tuổi.
v.v….

Thân quang minh của các đức Phật cũng có khác nhau. Ví như:

-Đức Phật Thích Ca Mưu Ni có thân quang minh 1 trượng.
-Đức Phật Di Lặc có thân quang minh 10 dặm
v.v…

–o0o–

Thọ mạng và quang minh của các đức Phật sai khác nhau. Thế nhưng phải hiểu theo 2 nghĩa:

-Nghĩa ẩn mật
-Nghĩa hiển bày

Nghĩa ẩn mật là chân thật nghĩa, còn nghĩa hiển bày là tùy thuận chúng sanh mà được thiết lập ra vậy.

Theo nghĩa ẩn mật thì thọ mạng và quang minh của chư Phật đều là vô lượng. Thế nhưng chúng sanh do trí huệ có hạn lượng, nên chỉ hiểu theo nghĩa hiển bày, thấy thọ mạng và quang minh của chư Phật đều có hạn lượng.

Ví như trường hợp Đức Phật Thích Ca Mưu Ni, chẳng phải chỉ có thọ mạng gần 100 năm  mà thôi đâu. Do công đức tu hành của Phật trong vô lượng kiếp, nên thọ mạng của Phật cũng là vô lượng vô biên. Lại ví như Phật Bạc Già Phạm do đời trước cứu sống dân một làng mà liền được vô lượng A tăng kỳ thọ mạng.

Lại nữa, thọ mạng của Phạm Thiên Vương còn kéo dài trong nhiều kiếp, khiến vị Trời này khởi sanh tà kiến, tự cho mình là thường trụ. Như vậy, làm sao Đức Phật Thích Ca Mưu Ni đã có vô lượng kiếp tu hành, đã độ thoát vô lượng chúng sanh mà thọ mạng lại bị hạn chế trong khoảng thời gian 100 năm thôi?

Nên biết chư Phật trong vô lượng kiếp, chẳng hề sát sanh, thường trú trong Thật Tướng Pháp, có đầy đủ trí huệ Bát Nhã Ba La Mật, có vô lượng công đức độ sanh, nên đều là vô thượng thọ, vô lượng quang. Trong hết thảy thân, thân Phật là bậc nhất, trong hết thảy tâm, tâm Phật là bậc nhất. Bởi vậy, nên trong hết thảy thọ mạng, thọ mạng của chư Phật cũng là bậc nhất, và trong hết thảy quang minh, quang minh của chưa Phật cũng là bậc nhất.

Hỏi: Phật có nhân duyên trường thọ. Như vậy vì sao Phật lại sanh vào đời ác 5 trược, và thọ mạng ngắn ngủi như vậy?

Đáp: Ở cõi Diêm Phù Đề nầy, thọ mạng của chúng sanh ngắn ngủi. Phật đã thị hiện sanh thân ở cõi này thì cũng tùy thuận thọ mạng như người ở cõi này vậy. Ở các cõi mà thọ mạng của chúng sanh lâu dài hơn, thì thọ mạng của Phật cũng lâu dài như vậy.

Hỏi: Nếu Bồ Tát ở cõi Diêm Phù Đề xuất gia thành Phật là thật, thì ở cõi khác, chúng sanh thấy Phật thuyết pháp độ sanh có phải là thật không?

Đáp: Chúng sanh ở cõi Diêm Phù Đề thấy Bồ Tát xuất gia thành Phật là thật, thì ở các cõi khác, Phật và Bồ Tát thị hiện thuyết pháp độ sanh cũng là tật. Vì sao? Vì nếu chúng sanh ở các cõi ấy chẳng có thấy Phật là thật, thì sẽ san tâm kiêu mạn mà chẳng chịu sự giáo hóa của Phật.

Bởi vậy nên các đức Phật ở các cõi khác đều là thật cả.

–o0o–

Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm Phật dạy: “Các Hóa Phật kia cũng đều là thân ta. Cho nên, phải biết Phật thọ mạng để độ chúng sanh có ngắn có dài, sai khác nhau là tùy theo Phật sự vậy”.

Ví như khi Phật thấy chỉ cần thọ mạng 100 năm là đủ, thì Phật chỉ thọ mạng trong thời gian 100 năm mà thôi. Dẫn đến thọ mạng trong 1 ngày cũng có thể đủ, miễn sao viên thành được Phật sự vậy.

–o0o–

 Trong kinh cũng có chép mẫu chuyện về ngài A Nan khởi tâm nghi, nghĩ rằng: “Phật Nhiên Đăng, Phật Tỳ Bà Thi ra đời vào thời tâm chúng sanh thuần thục, lại thọ mạng lâu dài mới có thể làm đầy đủ các Phật sự, còn Phật Thích Ca Mưu Ni ra đời vào thời ác, lại thọ mạng ngắn ngủi thì làm sao viên thành được Phật sự?”

Phật thấy chỗ nghi của ngài A Nan, liền nhập tam muội, từ thân biến hóa ra vô lượng Phật và vô lượng quang minh. Để ngài A Nan thấy rõ các nhân duyên làm Phật sự. Sau khi xuất định, Phật hỏi ngài A Nan rằng: “Này A Nan! Ngươi có thấy, có nghe gì chăng?”

Ngài A Nan thưa: “Bạch Thế Tôn! Nương theo oai thần của Phật con có thấy, có nghe tất cả”

Phật dạy: “Nếu Phật có thần lực như vậy thì có thể làm rốt ráo các Phật sự không?”

Ngài A Nan thưa : “Bạch Thế Tôn! Phật chỉ dùng thần lực trong một buổi mà các Phật sự đều đã được rốt ráo cả”

(Xem thêm ở quyển 21 – phẩm thứ nhất – Mục : 8 niệm)

KINH:

Bồ Tát Ma Ha Tát lại nguyện rằng : Khi ta thành Phật, trong thế giới của ta chẳng có ba đường ác, chẳng có danh từ ba độc tham, sân, si và hết thảy chúng sanh đều thành tựu chánh trí huệ, đều được đầy đủ 6 pháp Ba La Mật.

Muốn được như vậy, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

LUẬN:

Hỏi: Nếu Bồ Tát nguyện chẳng có 3 đường ác trong thế giới của mình, thì vì sao Phật lại sanh vào đời ác thứ 5 trược?

Đáp: Các cảnh giới đều khác nhau. Có cảnh giới thanh tịnh, có cảnh giới uế trược.

Ví như, có cảnh giới nơi đó chúng sanh đã hoàn toàn ly dục, đã hoàn toàn thanh tịnh, chẳng có 3 độc tham, sân, si. Trái lại có những cảnh giới như cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô Sắc, mà chúng sanh còn ái nhiễm vô minh, còn có ba độc tham, sân, si.

Bởi vậy nên Bồ Tát nguyện khi ta thành Phật, chúng sanh ở thế giới của ta sẽ được đầy đủ các thiện, căn, tận trừ 3 độc.

Hỏi: Ở các cảnh giới chẳng còn 3 độc, thì Phật ra đời để làm gì?

Đáp: Có thế giới tuy chẳng còn 3 độc nữa, nhưng chúng sanh ở nơi đó vẫn còn tâm phân biệt, còn thấy có thiện pháp, có bất thiện pháp, còn thấy có giải thoát, có triền phược. Lại có những thế giới, nơi đó chúng sanh xem các pháp bình đẳng, chẳng còn khởi các hý luận, thường trú trong tịch diệt tướng.

Bởi vậy, nên Bồ Tát nguyện: Khi ta thành Phật, chúng sanh ở thế giới của ta chẳng còn 3 độc, vì biết rõ thật tướng của 3 độc tức là Niết Bàn, là vô tướng.

Hỏi: Chúng sanh ở các cõi này đều đã có trí huệ. Như vậy, còn cầu trí huệ làm gì nữa?

Đáp: Tuy đã có trí huệ, nhưng cũng chỉ là trí huệ hữu lậu, trí huệ thế gian, vì còn chấp có tội, có phước, có ác, có thiện v.v…

Nay nói về trí huệ vô lậu, tức là trí huệ căn bản ( căn bản trí), nên Bồ Tát mới phát nguyện: Khi ta thành Phật, chúng sanh trong thế giới của ta chẳng còn 3 độc tham, sân, si.

Lại nữa, tham dục có sâu dày, có cạn mỏng. Sân nhuế, ngu si cũng đều như vậy cả. Nếu 3 độc quá sâu dày, thì đó là tà tham, tà sân, tà si.

Nếu chung sanh nào có 3 độc quá sâu dày, thì rất khó hóa độ. Trái lại những chúng sanh có 3 độc cạn mỏng, rất dễ hóa độ.

KINH:

Bồ Tát Ma Ha Tát lại nguyện rằng: Khi ta thành Phật và sau khi ta nhập Niết Bàn, chánh pháp chẳng có diệt, dẫn đến chẳng có danh từ diệt tận. Muốn được như vậy, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

LUẬN:

Hỏi: Phật là vị Pháp Vương mà còn diệt độ. Như vậy làm sao có thể nói “ chánh pháp chẳng có thời tận diệt” được?

Đáp: Bồ Tát có nguyện lực rất thâm hậu, nguyện pháp Phật vẫn thường trú chẳng bao giờ tận diệt, tiếp nối lưu truyền mãi mãi, chẳng ngừng dứt. Ví như mặt trời lặn rồi lại mọc, tương tục mãi chẳng có dừng nghỉ vậy.

 Bồ Tát nguyện lưu truyền mãi thật tướng pháp, như ngọn lửa được tiếp tế củi tương tục, sẽ cháy sáng mãi, chẳng tắt vậy.

Lại nữa, Bồ Tát nguyện dạy chúng sanh thấy rõ thật tướng pháp là bất sanh bất diệt, bất đoạn, bất thường…, là vô sở hữu, cũng tức là tướng Niết Bàn vậy.

Hỏi: Tướng pháp đã là như vậy thì tướng của hết thảy Phật pháp cũng đều là như vậy cả hay sao?

Đáp: Hết thảy các pháp đều là như vậy cả. Thật tướng của hết thảy pháp là bất sanh, bất diệt, bất đoạn, bất thường…nếu vì ức tưởng phân biệt mà chấp có các pháp thì chẳng sao có thể vào được nơi tật tướng các pháp. Vì sao? Vì như vậy là có đối đãi, là có sanh diệt, có đoạn thường…

Bồ Tát tu Bát Nhã Ba La Mật, được vô ngại trí, được đầy đủ các công đức nên bản nguyện của Bồ Tát chẳng bao giờ cùng tận vậy.

KINH:

Bồ Tát Ma Ha Tát lại nguyện rằng : Khi ta thành Phật, chúng sanh trong hằng sa thế giới khắp cả 10 phương, nếu nghe được danh hiệu của ta, liền được Vô Thượng Bồ Đề.

Muốn được như vậy, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

Như Xá Lợi Phất! Bồ Tát Ma Ha Tát muốn được đầy đủ các công đức trên đây, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

LUẬN:

Hỏi: Khi Phật còn tại thế, còn thuyết pháp mà vẫn có người như Đề Bà Đạt Đa…bị đọa. Như vậy vì sao nói chúng sanh ở cách xa Bồ Tát chỉ nghe danh Bồ Tát mà liền được Vô Thượng Bồ Đề?

Đáp: Như trên đây đã nói, Phật có 2 thân. Đó là:

-Pháp tánh thân
-Hóa thân

Pháp tánh thân là thường còn. Người lợi căn thượng trí, chỉ nghe danh Phật tức thời được đạo.

Phật vì muốn hóa độ chúng sanh, mà hóa thân người sống ở cõi Ta Bà này. Tuy sống vào thời có Phật, được thấy Phật, được nghe đến danh Phật, được nghe Phật thuyết pháp, mà có người vì duyên nghiệp quá nặng nề vẫn chẳng được độ, dẫn đến phải đọa vào địa ngục. Trong lúc đó lại có người chỉ được nghe đến danh Phật, chỉ một lần thấy Phật, mà liền được độ.

Pháp tánh thân của Phật trong vô lượng A tăng kỳ kiếp đã chứa nhóm vô lượng thiện công đức trí tuệ. Phật là đấng Pháp Vương, nên chư Bồ Tát chư Thánh Hiền cũng như chư Thiên đều muốn được thấy Phật. Ví như người đời muốn được thấy ngọc Như Ý Bào Châu hòng được thỏa mãn các điều mong cầu. Lại ví như người đang bị bệnh nặng mà thấy được cây thuốc Kỷ Hiến, thì liền được lành bệnh.

Cũng như vậy, những chúng sanh nào đã đủ thiện duyên thì thấy được thân Phật, nghe được danh hiệu Phật, là liền thành tựu được các nguyện.

Lại nữa, người niệm danh hiệu Phạm Thiên Vương còn được vơi niềm sợ hãi, người niệm dan hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm còn thoát khỏi các ách nạn. Bởi vậy nên người niệm pháp tánh thân Phật, chắc chắn sẽ được Phật độ.

Hỏi: Vì sao Đức Phật Thích Ca Mưu Ni đã xuất thế, mà vẫn còn có người phạm 5 tội phản nghịch, vẫn còn có nạn đói khát, trộm cướp?

Đáp: Đức Phật Thích Ca Mưu Ni vốn có thệ nguyện thị hiện sanh thân vào đời ác 5 trược, dùng đạo pháp để độ chúng sanh. Tuy nhiên có nhiều chúng sanh do phước đức mỏng, do tội lỗi quá sâu dày nên chẳng nghe được pháp thanh tịnh, chẳng thấy được pháp Niết Bàn. Thậm chí có chúng sanh còn sanh tâm phỉ báng Phật như trường hợp ông Đề Bà Đạt Đa.

Dù có chúng sanh có tin hay không tin, Niết Bàn vẫn thường trú, vẫn thanh tịnh.

–o0o–

Trong kinh có kể mẫu chuyện sau đây về ông Đề Bà Đạt Đa:

Ông Đề Bà Đạt Đa thấy Phật có tướng Thiên Đức Luân[note] Tướng Thiên Đức Luân là một trong 32 tướng tốt của Phật. Dưới hai lòng bàn chân của Phật có hiện ra 2 hình bánh xe (xa luân). Nơi mỗi hình bánh xe lại có hiện ra cả ngàn xoáy tròn tợ như cả ngàn cây căm xe vậy. [/note] dưới hai lòng bàn chân, nên đã lấy 2 tấm thiếc cắt theo hình dạng luân tướng áp sát vào chân, rồi lấy lửa đốt, khiến chân ông bị phỏng nặng. Ông đau nhức vô cùng, rên la thảm thiết. Ngài A Nan thấy vậy cũng khóc theo, rồi đến bạch với Phật rằng : “Bạch Thế Tôn! Anh con bị phỏng nặng, sắp chết rồi. Nguyện xin Phật cứu vớt cho”.

Phật lấy tay sờ lên chân ông Đề Bà Đạt Đa và nói rằng:

“Ta xem La hầu La cùng Đề Bà Đạt Đa bình đẳng, chẳng có phân biệt”.

Ngay lúc ấy vết phỏng trên chân ông Đề Bà Đạt Đa liền lành dứt. Ông Đề Bà Đạt Đa nắm tay Phật xem, biết rõ là chính tay Phật đã chữa lành vết phỏng cho ông. Thế rồi chẳng một lời cảm ơn Phật, ông lặng lẽ đi lấy thuốc bôi lên chân, xem như chẳng phải Phật đã chữa lành chân ông vậy.

Phật bảo ngài A Nan: “Này A Nan! Đề Bà Đạt Đa như vậy làm sao ta có thể độ được?”

–o0o–

Mẫu chuyện nêu trên đây cho thấy những người như ông Đề Bà Đạt Đa chẳng có thể độ được.

Trái lại, những người có thiện duyên, chỉ nghe đến danh hiệu của Phật đã có thể được độ. Như lời Phật dạy: “Có người chỉ nghe danh hiệu của ta mà được độ”.

Lời Phật dạy mang ý nghĩa “sự nghe danh hiệu Phật duyên khởi cho sự tu học, dẫn đễn thành tựu đạo quả” vậy. Ví như có vị Phạm Chí kết tóc, vì nghe danh Phật mà sanh tâm vui mừng, tìm đến chỗ Phật để xin được nghe pháp. Do vậy mà về sau ông chứng được quả vị A La Hán.

Trước đây cũng đã có nói về nhiều trường hợp được độ như:

-Có người nghe danh hiệu Phật mà được độ

-Có người nghe Phật thuyết pháp mà được độ

-Có người ngửi được diệu hương của Phật mà được độ

 -Có người ăn thức ăn dư của Phật mà được độ

-Có người niệm Phật mà được độ v.v…

Hỏi: Trong kinh chỉ nói: “Nghe danh hiệu Phật mà được độ”. Như vậy vì sao lại nói “Nghe danh hiệu Phật rồi tu hành mà được độ?”

Đáp: Trong kinh nói: “Tu từ tâm là đã tu đầy đủ 7 giác chi, tu từ tâm tam muội là đã có độ chúng sanh rồi”.

Như vậy do nghe danh hiệu Phật mà khởi tu từ tâm và từ tâm tam muội là đã tự độ và độ tha rồi vậy.

Lại nữa, “tức thời” nêu trong kinh phải được hiểu theo 2 nghĩa:

-Ngay khi vừa nghe danh hiệu Phật liền được độ.

-Ngay khi vừa nghe danh hiệu Phật là liền phát khởi tín tâm thanh tịnh. Từ đó lần lần tu tập mà được độ.

Chỉ những chúng sanh phước đức sâu dày, phiền não cạn mỏng, mới có thể liền nghe là liền nương theo oai lực của Phật mà được độ. Ví như quả đã chín muối, thì chỉ cần rung nhẹ cây cũng đủ làm cho quả rụng và rơi xuống đất vậy.

Hỏi: Ở các nơi không có Phật, thì làm sao chúng sanh có thể nghe được danh Phật, nghe được pháp Phật?

Đáp: Phật thuyết diệu pháp để độ chúng sanh. Chư vị Bồ Tát phát đại nguyện đến tận những nơi không có Phật, xưng tán danh Phật, hoằng dương pháp Phật. Ví như Bồ Tát Tát Đà Bà Luân, nghe lời chỉ dẫn của chư Phật Thiên phát ra trong hư không, mà chẳng ngại ngần gian khổ đi tìm Bồ Tát Đàm Vô Yết để được học Bát Nhã Ba La Mật.

Lại có Bồ Tát hiện ra trong mộng để dẫn dắt chúng sanh đến các cỗ có Phật pháp.

Phải nên biết chư Phật có vô lượng oai đức chẳng thể nghĩ bàn, tự nói pháp hoặc truyền pháp qua trung gian của chư vị Bồ Tát để độ thoát hết thảy chúng sanh.

Hỏi: Bồ Tát phải tu hết thảy các công đức, phải hòa hợp cả 6 pháp Ba La Mật mới được Vô Thượng Bồ Đề. Như vậy vì sao chỉ nói đến Bát Nhã Ba La Mật mà thôi?

Đáp: Kinh Bát Nhã Ba La Mật thậm thâm vi diệu, nên ở phẩm nào Phật cũng nói đến Bát Nhã Ba La Mật cả. Vì sao? Vì Bát Nhã Ba La Mật là mẹ của chư Phật, từ nơi Bát Nhã Ba La Mật xuất sanh ra các đức Phật.

Lại nữa, tu Ban Châu Tam Muội tuy nhiếp được loạn tâm, dẫn sanh trí huệ nhưng chẳng thể nào quán được thật tướng các pháp. Còn Bát Nhã Ba La Mật khắp quán thật tướng của các pháp, chẳng có sự việc gì mà chẳng rõ, chẳng có sự việc gì mà chẳng thành tựu được. Bởi vậy nên nói “ Bát Nhã Ba La Mật là mẹ của chư Phật”.

Phải tu tập đầy đủ cả 6 Ba La Mật, phải hòa hợp công đức của 6 Ba La Mật mới được đầy đủ các nguyện. Nhưng nay Phật dạy phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật. Vì sao? Vì có Bát Nhã Ba La Mật thì 5 độ kia mới thành Ba La Mật được, thì các nguyện mới viên mãn được vậy.

Phật dạy phải tu tập bát Nhã Ba La Mật. Mới thành tựu được đầy đủ Phật Đạo, khiến hạt giống Phật được nối luôn, tương tục chẳng tương tận.

Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật khắp quán các pháp đều KHÔNG mà chẳng trụ chấp nơi KHÔNG, nên được vô ngại dùng đại bi làm lực phương tiện để viên thành các công đức.

Do nhân duyên tu tịnh nghiệp nên chẳng có sự việc gì mà Bồ Tát chẳng được như nguyện.

Lại nữa, do tu tập Bát Nhã Ba La Mật mà Bồ Tát được Vô Ngại Trí, nên thành tựu viên mãn hết thảy các nguyện vậy.

–o0o–

Như trước đây nói : Nếu chẳng có Bát Nhã Ba La Mật soi sáng thì 5 độ kia chẳng thể có được gọi là Ba la Mật. Ví như người có đôi mắt sáng mới biết được đường đi, chim có đôi cán mới có thể bay xa được. Tất cả 5 Ba La Mật kia phải được Bát Nhã Ba La Mật dẫn đạo mới có thể thành tựu được đại công đức.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói “Bồ Tát muốn được đầy đủ các công đức, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật”.

(Hết quyển 34)