LUẬN ĐẠI THỪA TẬP BỒ TÁT HỌC
(Luận Đại thừa tập hợp các Học xứ của Bồ-tát)
Bồ-tát Pháp Xứng tạo luận
Sa-môn Pháp Hộ v.v… dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt
QUYỂN 16
Phẩm 12: HỌC XỨ VỀ TRỊ TÂM 3
Lại nữa, đây nói về hành chân thật và hành tà vọng, nghĩa là vô trí vô minh. Do vô minh này khởi ba thứ hành vi là phúc hành, phi phúc hành và bất động hành. Đó là nói vô minh duyên hành.
Lại nữa, phúc hành, phi phúc hành và bất động hành này tùy theo sở đắc do thức chiêu tập. Đó là nói hành duyên thức. ( Nay nói rõ chỗ này phải có một đoạn kinh nói về thức duyên danh sắc. Thiếu nguyên bản tiếng Phạn ) Như vậy danh sắc và danh sắc tăng trưởng nơi sáu cửa ngõ khởi các tạo tác, gọi là danh sắc duyên sáu xứ.
Lại nữa, sáu xứ này chuyển theo sáu xúc nơi thân, gọi là sáu xứ duyên xúc. Nếu khi xúc sinh, khiến cảm thụ khởi lên, gọi là xúc duyên thụ. Nếu thụ vị ngon, đắm trước sâu vào hỷ lạc, gọi là thụ duyên ái. Say đắm vị nên thích nơi sắc, khi sắc lìa tan thì thường tìm cầu không bỏ, gọi là ái duyên thủ. Như vậy theo đuổi tìm cầu khiến sau đó khởi thân ngữ ý nghiệp, gọi là thủ duyên hữu. Nếu nghiệp biến đổi làm uẩn sinh khởi, gọi là hữu duyên sinh. Lại nữa, nếu sinh rồi biến đổi làm chín muồi và hoại diệt, gọi là sinh duyên lão tử. Cho đến trong đó do tự thể của thức làm hạt giống, tự thể của nghiệp làm ruộng tốt, tự thể của vô minh ái v.v… làm phiền não. Do nghiệp phiền não v.v… làm cho hạt giống của thức sinh. Nghĩa là nghiệp này làm ruộng cho hạt giống thức, ái làm cho hạt giống thức tốt tươi, vô minh làm cho hạt giống thức phát triển. Nhưng nghiệp không nghĩ rằng mình là ruộng của hạt giống thức. Ái cũng không nghĩ rằng mình làm cho hạt giống thức tốt tươi. Vô minh không nghĩ rằng mình làm cho hạt giống thức phát triển. Hạt giống thức cũng không nghĩ mình được các duyên sinh, nhưng hạt giống thức ở trên đất nghiệp, nhờ ái mà tốt tươi, do vô minh làm nảy nở sinh ra mầm danh sắc. Mầm danh sắc này chẳng phải tự làm, chẳng phải cái khác làm, chẳng phải cả hai cùng làm, chẳng phải trời Tự Tại hóa ra, chẳng do thời gian biến đổi, chẳng phải một nhân sinh, chẳng phải không có nhân mà sinh, chẳng phải chẳng liên hệ nhân duyên cha mẹ hòa hợp liên tục đam nhiễm. Hạt giống thức này sinh mầm danh sắc trong bụng mẹ, nhưng pháp này là như vậy, không có chủ tể, không ngã, không thủ, như hư không, thể tướng huyễn hóa, nhân duyên không thiếu. Do năm thứ duyên phát sinh nhãn thức. Những gì là năm ? Nghĩa là khi nhãn thức sinh, nhờ con mắt và sắc duyên hư không, duyên ánh sáng, duyên với tác ý. Trong đó, nhãn thức thì con mắt là chỗ dựa, sắc là đối tượng sở duyên, ánh sáng thì chiếu soi, hư không thì tạo sự không chướng ngại, đồng thời tác ý là phát giác cảnh báo. Thiếu duyên này thì nhãn thức không sinh. Nghĩa là nếu không thiếu nhãn căn bên trong, cũng vậy không thiếu sắc và hư không, ánh sáng, tác ý các duyên, cho nên tất cả chúng hòa hợp thì sinh nhãn thức. Vậy mà con mắt không nghĩ rằng mình với con mắt là chỗ dựa cho sắc, sắc cũng không nghĩ rằng mình làm đối tượng sở duyên cho nhãn thức. Hư không cũng không nghĩ rằng mình tạo sự không chướng ngại cho nhãn thức. Ánh sáng cũng không nghĩ rằng mình chiếu soi cho nhãn thức. Tác ý không nghĩ rằng mình làm cảnh báo phát giác cho nhãn thức. Cũng như vậy nhãn thức không nghĩ rằng mình từ duyên sinh. Nhưng khi nhãn thức sinh, thật sự nhờ các duyên hòa hợp mới sinh. Lần lượt các căn sinh thức, cũng theo đó mà nói như vậy. Nhưng không có pháp từ đời này đến được đời khác, mà chỉ do nghiệp quả nhân duyên không thiếu lập nên. Ví như không có củi thì không sinh lửa. Nghiệp phiền não sinh hạt giống, thức cũng như vậy. Các chỗ sinh kia liên tục hòa hợp sinh ra mầm danh sắc. Pháp là như vậy đó, không có chủ tể, không ngã, không thủ, như hư không v.v… thể tướng huyễn hóa nhân duyên không thiếu.
Phải biết pháp nội duyên sinh có năm thứ. Những gì là năm ? Đó là không thường, không đoạn, không chỗ hướng đến, nhân ít quả nhiều, tương tự liên tục.
Thế nào là không thường ? Nghĩa là nếu bên này uẩn chết, bên kia uẩn sinh, tức chẳng phải uẩn bên chết là uẩn bên sinh kia. Đó gọi là không thường.
Lại nữa, không diệt uẩn bên chết mà khởi uẩn bên sinh, cũng chẳng phải không diệt uẩn bên chết nhưng khởi uẩn bên sinh. Ví như hai đầu cân thấp cao, gọi là không đoạn.
Lại nữa, đối với sinh thân của chúng sinh dị loại, chẳng phải chúng đồng phần khởi uẩn bên sinh. Đó gọi là không chỗ hướng đến.
Lại nữa, nay tạo một ít nghiệp nhân thiện ác, đời vị lai được nhiều quả báo. Đó gọi là nhân ít quả nhiều.
Lại nữa, nếu đời này tạo nghiệp thì vị lai thụ báo. Đó là tương tự liên tục.
Phật nói Xá-lợi tử ! Pháp duyên sinh này dùng chính tuệ như thật, thường tu vô ngã, vô nhân, chúng sinh, thọ giả, nếu như không điên đảo thì không sinh không diệt, không tạo không tác, không đối không ngại, không sợ không đoạt, không siêng năng không lười biếng.
Quán sát tự tính đó là không chắc thật, như bệnh, như ung nhọt, như đau đớn, như tổn hại, là khổ, không, vô thường, vô ngã.
Lại nữa, quán đời trước không lưu chuyển, như cái ngã từng có trong đời quá khứ chăng ? Ai bảo cái ngã từng có trong đời quá khứ ?
Lại nữa, đời sau không lưu chuyển, như cái ngã sẽ có trong đời vị lai chăng ? Ai bảo cái ngã sẽ có trong đời vị lai ?
Lại nữa, trong đời hiện tại không lưu chuyển, như nay cái ngã có hiện hữu chăng ? Ai bảo cái ngã có hiện hữu ? Cái ngã hiện hữu như thế nào ?
Kinh Thập Địa nói:
Trong đó vô minh, ái, thủ là phiền não. Cái hành hữu lưu chuyển không dứt là nghiệp. Các chi phiền não lưu chuyển không dứt là khổ lưu chuyển không dứt. Lại nữa, nói vô minh duyên hành là quán đãi của đời trước. Thức và thụ v.v… là quán đãi hiện tại. Ái và hữu v.v… là quán đãi của đời sau.
Tất cả những điều nói trên đều gọi là lưu chuyển. Cho đến như do hệ thuộc nên gọi là lưu chuyển, nếu lìa hệ thuộc thì không lưu chuyển. Do hòa hợp nên lưu chuyển, nếu lìa hòa hợp thì không lưu chuyển. Do đó biết trong các hữu vi có nhiều lầm lỗi. Cho nên nay ta phải cắt đứt sự hệ thuộc và hòa hợp kia. Nhưng vì hóa độ tất cả chúng sinh, không hoàn toàn dứt trừ các hạnh hữu vi.
Phẩm 13: HỌC XỨ VỀ NIỆM XỨ 1
Luận nói:
Nghiệp trị tâm kia lược nói về duyên sinh đối trị si. Tiếp đến sẽ giải thích về bất tịnh của thân niệm xứ.
Kinh Pháp Tập nói:
Lại nữa thiện nam tử ! Bồ-tát trụ nơi thân niệm xứ, nghĩa là suy nghĩ về thân của ta đây từ chân, ngón chân, gót chân, mắt cá, ống chân, đầu gối, bắp đùi, xương chậu, lưng, xương sống, bụng, sườn, ngực, cạnh sườn, tay, ngón, khuỷu tay, cổ tay, vai, cánh tay, cổ, gáy, đầu, gò má, đầu lâu v.v… các phần tích tụ tức là nghiệp hữu. Do nghiệp hữu này tạo tác các thứ phiền não và tùy phiền não trăm ngàn chủng loại. Còn phân tích thân này chỉ thấy có tóc, lông, móng, răng, máu, thịt, da, gan, mật, lá lách, thận, tim, phổi, bao tử, ruột non, ruột già, mỡ, não, màng, ghèn, nước mắt, đờm dãi, đại tiểu tiện rất nhiều thứ bất tịnh hợp lại. Lấy cái gì gọi là thân ? Do quan sát đó, thân như hư không thì thấy tất cả các pháp đều không, tức là không niệm xứ.
Hiểu biết thân này là do hai thứ niệm: đó là lưu tán và không lưu tán. Là thân này đến không phải từ đời trước, đi không phải đi đến đời sau, cũng không dừng trụ ở giữa hai đời. Chỉ là từ điên đảo hòa hợp tạo ra, do đó mà lãnh thụ thân, trong đó căn bản là sự tồn tại. Nhưng thật ra không có chủ tể, cũng không nhiếp thuộc vào một cái gì nhất định, chỉ từ khách trần làm tác sự trước. Thân thể hình dạng làm chỗ nương tựa cho sự thụ dụng. Thân này chỉ có trắng đỏ của cha mẹ hòa hợp, hôi hám bất tịnh kết vào nhau làm tự thể. Ba độc, lo âu sầu não thường là giặc làm hại thân, là pháp chia tan phá hoại. Thân là hang ổ của trăm ngàn các thứ bệnh tật sầu não.
Như Kinh Bảo Kế nói:
Thân này vô thường không giữ được lâu, chết là đời sau. Biết rõ đây rồi, đối với thân không nên sinh tà mạng. Phải đem thân tu ba thứ tịnh thí. Những gì là ba ? Đó là thân tịnh thí, thọ mạng tịnh thí và thụ dụng tịnh thí. Thân này là vô thường, phải đến với tất cả chúng sinh gần gũi phụng sự. Làm những việc gì ? Là hoặc như người sai bảo, hoặc như đệ tử, lìa các lỗi lầm của thân như dối gạt nịnh bợ. Thân này là vô thường, nguyên nhân của mạng sống chỉ ở trong hơi thở ra vào, sao lại tạo tội ác ? Thân này là vô thường, đối với sự yêu thích thụ dụng không nên mê đắm, nên xả tất cả.
Lại nữa, thiện nam tử ! Bồ-tát lấy thân này quán thân niệm xứ, nên quán tự thân mình và thân tất cả chúng sinh đều đồng với thân Phật. Do oai thần gia trì được lìa khỏi trói buộc. Quán tự thân và thân tất cả chúng sinh với thân Như Lai pháp tính vô lậu không khác nhau. Phải biết như vậy.
Lại nữa, Kinh Vô Úy Thụ Sở Vấn nói:
Thân ta đây chẳng phải được tụ họp trước, dần dần tan hoại ví như vi trần, chín lỗ tuôn chảy như miệng ghẻ lở. Lại như các lỗ chân lông có Phược-la-nhĩ-ca giống như rắn độc ở trong đó.
Thân như bọt nước tụ lại thể tính mong manh, như bong bóng trên mặt nước mới nổi liền vỡ tan, như sóng nắng vốn không tự thể.
Thân như cây chuối, bên trong không có thật.
Thân như ảo hóa do người khác điều khiển.
Thân như bạn ác gây nhiều tranh tụng.
Thân này tính lẹ làng như khỉ không yên.
Thân này như kẻ thù lúc nào cũng dòm rình chỗ nhược điểm.
Thân này như giặc, cơ mưu xảo trá, tham lam vơ vét.
Thân này như người tù thường bị trói nhốt hành hạ.
Thân này như oan gia không thể yêu thích, cũng như kẻ sát nhân có thể giết mạng người.
Lại nữa, thân này không có ngã, như làng xóm trống không hoang vắng, như cái bàn xoay của thợ làm gốm không lúc nào ngừng, như cái bô đựng đồ bất tịnh.
Thân như ung thư chỉ biết đau đớn khổ sở.
Thân như căn nhà nát sẽ sụp đổ không lâu.
Thân như chiếc thuyền lủng không thể chuyên chở cứu vớt.
Thân như cái phôi của thợ đúc sẽ bị đập phá.
Lại nữa, thân này như cây trên bờ sông chắc chắn sẽ bị nước xói mòn cuốn trôi.
Thân này như lữ khách qua đêm gặp nhiều gian khổ.
Thân như quán nhỏ phải đón tiếp chúa tể, như kẻ trộm dòm rình thường sinh bạo ác. Cho đến thân này như đứa trẻ nhỏ ngu si cần phải trông coi.
Kinh ấy lại nói:
Như vậy cái thân đủ thứ bất tịnh, do ngã mạn ngu si mà vọng cho là sáng sủa sạch sẽ. Ngưới trí trông thấy nó như cái bô đựng đồ bất tịnh. Mắt mũi miệng ghèn mũi dãi chảy ra, làm sao những thứ này mà tham lam, mà kiêu ngạo được !
Lại nữa, kinh ấy có bài kệ rằng:
Như đứa trẻ ngu si,
Muốn rửa than cho trắng.
Dẫu đến hết đời này,
Cầu trắng cũng không được.
Như người không có trí,
Muốn tắm thân cho sạch,
Cứ tắm mãi tắm hoài,
Đến chết cũng không sạch.
Bồ-tát quán thân này,
Chín lỗ miệng ghẻ lở.
Tám vạn thứ vi trùng
Nương thân làm chỗ ở.
Bồ-tát quán thân này,
Giống như tượng khắc gỗ.
Giả gân xương liên kết,
Mà thật không có chủ.
Bồ-tát quán thân này,
Thụ ẩm thực của người.
Cũng giống như chó sói,
Đến ăn thịt ta vậy.
Luận nói:
Do ăn uống giúp cho sự nuôi dưỡng mà thành hạnh rộng lớn. Như vậy nơi nơi cần phải biết rõ thụ niệm xứ.
Như Kinh Bảo Kế nói:
Thiện nam tử ! Bồ-tát lấy sự thụ dụng quán thụ niệm xứ, biết rõ chúng sinh y chỉ vào đại bi được niềm vui như vậy. Nếu tất cả chúng sinh chẳng có giải thoát, cần phải tu tập lấy sự thụ dụng quán thụ niệm xứ.
Ta sẽ mặc áo giáp đại bi nhiếp thụ điều phục tất cả chúng sinh, làm cho chúng vui diệt trừ các khổ.
Ta sẽ dùng đại bi làm cho các chúng sinh tham lam hiểu biết thế nào là lạc thụ để xa lìa tham nhiễm.
Ta sẽ dùng đại bi làm cho chúng sinh giận dữ hiểu biết thế nào là khổ thụ để xa lìa lỗi lầm.
Ta sẽ dùng đại bi làm cho chúng sinh si mê hiểu biết thế nào là bất khổ bất lạc thụ, xả bỏ si câu sinh.
Lại nữa lạc thụ kia không hoại, khổ thụ không giảm, bất khổ bất lạc thụ lìa nơi đối trị thì không có vô minh.
Nếu không vô minh sao gọi kia là thụ ? Làm sao biết tất cả là vô thường và vô ngã v.v… ?
Lạc thụ này là tính vô thường. Khổ thụ tức tính bức bách. Bất khổ bất lạc thụ tức tính tịch tĩnh. Do đó biết là lạc, là khổ, là vô thường, là vô ngã v.v…
Lại nữa, Kinh Vô Tận Ý nói:
Nếu khi thụ khổ, nên nghĩ đến chúng sinh trong tất cá ác đạo mà sinh khởi tâm đại bi, dứt trừ sân, lìa bỏ sự phân biệt điên đảo về thụ.
Lại nữa, Kinh Pháp Tập có kệ rằng:
Nói thụ là lãnh nạp,
Lại lãnh nạp là gì?
Người thụ lìa nơi thụ,
Thì không có sai biệt.
Người trí quán sát thụ,
Trụ niệm xứ như vậy,
Tướng ấy như Bồ-đề,
Sáng suốt khắp vắng lặng.
HẾT QUYỂN 16