LUẬN ĐẠI THỪA TẬP BỒ TÁT HỌC
(Luận Đại thừa tập hợp các Học xứ của Bồ-tát)
Bồ-tát Pháp Xứng tạo luận
Sa-môn Pháp Hộ v.v… dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 15

Phẩm 12: HỌC XỨ VỀ TRỊ TÂM 2

( Còn tên là Phẩm thiền định Ba-la-mật-đa )

Nói về từ còn có Phật duyên từ, Bồ-tát duyên từ, Thanh Văn duyên từ, Độc Giác duyên từ và chúng sinh duyên từ.

Chúng sinh duyên từ, nghĩa là trước tiên thích ban cho sự lợi ích an vui, dùng thiền định mà ban cho tâm từ. Cho nên nếu có khách tri thức đến ở gần thì xem cư dân nơi địa phương mình cũng như cư dân của địa phương kia vậy, thậm chí coi như cùng một nơi giải thoát. Như vậy là ngươi duyên đến mười phương Phật cũng không chán.

Như Kinh Kim Cương Tràng Hồi Hướng nói:

Người tu tập đầy đủ hạnh Bồ-tát nếu thấy sắc thì đối trị với ái. Cũng như vậy cho đến thanh hương vị xúc pháp cũng đối trị với ái, như thế là không phạm tội, là thanh tịnh, là thiện hạnh, là sự sáng sạch cao tột, siêu vượt các thứ diệu lạc, sinh tâm ý vui thích, khởi niềm tin vui thanh tịnh, phát sinh sự phấn khởi, an trụ trạng thái cực kỳ hoan hỷ. Đối với tâm phân biệt, không sinh phiền não thoái lui, tâm ý điều hòa nhu thuận, các căn mạnh mẽ, nhạy bén thường thụ diệu lạc. Như vậy hồi hướng tất cả chư Phật, chuyển đến hồi hướng Bát-nhã chư Phật, được đầy đủ không thể nghĩ bàn, hạnh diệu lạc của Phật. Nhưng chưa khéo nhiếp thụ cái an lạc Tam-mađịa như Phật. Do năng lực này dần dần được vô lượng diệu lạc của Phật, đầy đủ vô lượng niềm vui giải thoát của Phật, nhiếp thụ vô lượng cái vui thần thông của Phật, được khéo nhiếp thụ hạnh vui không đắm trước của vô số chư Phật, được sự tự tại của Phật, như cái vui tuyệt vời của con bò chúa đi đây đi đó rất nhanh chóng. Cuối cùng được vô lượng Phật lực, được niềm vui biết tất cả là vắng lặng, không sinh không diệt. Đối với hạnh không đắm trước, thường được tại định đẳng dẫn, được cái diệu lạc không giận, hạnh không hai của chư Như Lai. Đó là Bồ-tát thường dùng các thiện căn như vậy mà hồi hướng Như Lai.

Hồi hướng Bồ-tát, nghĩa là đối với người chưa viên mãn ý lạc, thì hồi hướng viên mãn nơi nhất thiết trí, người chưa thanh tịnh, thì thâm tâm thanh tịnh tất cả Ba-la-mật-đa, người chưa làm xong, thì khiến làm xong việc phát tâm Bồ-đề. Như kim cương khiến cho người mặc áo giáp nhất thiết trí, không thoái lui khuất phục. Khiến ngườì mặc áo giáp nhất thiết trí không thoái lui khuất phục thì được khinh an với Bồ-đề diệu lạc, không thoái lui các nẻo đường thiện, an trụ bình đẳng tất cả thế gian, viên mãn đại nguyện, tu tập tất cả hạnh Bồ-tát, biết rõ lợi căn thần thông của Bồ-tát, do thiện căn đây chứng nhất thiết trí, vì ý nghĩa thiện căn này hồi hướng Bồ-tát.

Lại nữa nếu là người học Phật thì tất cả Thanh Văn, Bích-chiphật v.v… cũng đem thiện căn này hồi hướng như vậy. Nếu có chúng sinh trong khoảnh khắc nghe Phật pháp và tôn trọng chúng hiền thánh, đem thiện căn này hồi hướng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, như hồi hướng niệm Phật viên mãn, hồi hướng niệm pháp phương tiện, hồi hướng tôn trọng thánh chúng, hồi hướng không rời thấy Phật, hồi hướng tâm thanh tịnh, hồi hướng thông suốt Phật pháp, hồi hướng đã tu vô lượng công đức, hồi hướng thanh tịnh tất cả thần thông thiện căn, hồi hướng đoạn trừ các pháp nghi. Đó là hồi hướng của Thanh Văn, Bích-chi-phật là những người học Phật.

Lại nữa, Bồ-tát cũng dùng thiện căn hồi hướng tất cả chúng sinh, như hồi hướng xa lìa đường địa ngục, hồi hướng đoạn trừ đường súc sinh, hồi hướng diệu lạc cõi Diêm-ma-la, hồi hướng đoạn trừ việc đọa các đường ác, hồi hướng khiến chúng sinh ưa muốn tăng trưởng vô thượng Bồ-đề, hồi hướng khiến thâm tâm được tâm nhất thiết trí, hồi hướng việc không hủy báng tất cả Phật pháp, hồi hướng thành tựu rốt ráo bậc nhất thiết trí, hồi hướng rốt ráo thanh tịnh tất cả chúng sinh. Bồ-tát dùng vô lượng trí hồi hướng tất cả chúng sinh, cho đến việc ăn uống, y phục, đồ nằm, thuốc thang bệnh tật. Đối với thân thì việc phụng sự như đi đến, ngồi đứng, mọi tác nghiệp đều giữ đúng luật nghi, trong luật nghi không sinh giận dữ, thân ngữ ý nghiệp tu tạo việc thiện, nghiêm mật các căn mà nghỉ ngơi hay làm các việc xoa bóp, ăn uống các thứ hoặc mở miệng ngậm miệng, hoặc quán hay chẳng quán, hoặc nằm ngủ hoặc thức, tự thân phải đến phục vụ. Bồ-tát đối với duyên nhất thiết trí, bình đẳng tương ưng thì không gì không hồi hướng. Tâm nhất thiết trí ấy ưa thích làm việc lợi lạc chúng sinh, cho đến ý thường cứu hộ tất cả thế gian, phát khởi thiện căn, xa lìa kiêu căng phóng dật.

Nói tóm lại là làm cho các phiền não không hiện khởi nữa, được các Bồ-tát gìn giữ, nhất định cần cầu con đường nhất thiết trí, ưa thích gần gũi người trí, cho đến có thể tu tập tất cả thiện căn, mau được viên mãn liên tục các hạnh.

Nói tóm lại, các loài súc sinh, hoặc thiếu ăn có thể thí cho chúng, khiến chúng tất cả được sinh về nẻo thiện. Như vậy là hồi hướng lợi ích giải thoát. Các súc sinh kia là biển khổ, là nhận lấy cái khổ, là khổ uẩn. Đó gọi là khổ thụ. Tức là nơi tụ hội các khổ, là khổ di chuyển đổi dời, là giới hạn của khổ, là gốc rễ của khổ, là nơi căn cứ của khổ. Với chúng sinh kia, hồi hướng không thoái lui.

Lại nữa duyên với tất cả chúng sinh, nghĩa là đối với chúng sinh hiện tiền tác ý, vì do trước các thiện căn đã làm, phát tâm Bồ-đề hồi hướng nhất thiết trí, nên không đọa luân hồi, lìa các hiểm nạn, được diệu lạc của Phật hiện tiền không ngại, vượt biển luân hồi, vĩnh đoạn liên tục chiếu sáng Phật pháp khởi đại từ. Như Từ Bi Tạng Già-đà trong Kinh Tối Thắng Kim Quang Minh nói:

Là ánh sáng vàng,

Trống vàng tối thắng,

Phát tiếng nhiệm mầu,

Khắp ba ngàn cõi,

Dứt được địa ngục,

Và Diêm-ma-la,

Cho đến cõi người

Các bần cùng khổ.

Lại trống vàng này

Diệt trừ thế gian

Tất cả chướng não,

Cũng nguyện chúng sinh

Trừ được sợ hãi.

Như Đức Mâu-ni,

Tịch tĩnh vô úy.

Như các thánh nhân,

Trong biển sinh tử,

Tu nhất thiết trí.

Như kia đạt được

Thắng tuệ, đẳng trì,

Và Bồ-đề phần,

Công đức biển lớn.

Lại tiếng trống đây

Nguyện các chúng sinh

Nghe tiếng Phạm này

Như Phật chứng rồi,

Thắng diệu Bồ-đề

Chuyển tịnh pháp luân

Trụ vô số kiếp

Thuyết pháp lợi sinh

Diệt tham sân si

Các khổ phiền não.

Nếu có chúng sinh

Ở trong ác đạo

Bị lửa thiêu đốt

Thân thường thông thoáng

Nghe tiếng trống này

Như lời răn dạy

Khiến quy Phật bảo.

Lại khiến chúng sinh

Được nhớ đời trước

Trong trăm ngàn ức

Kiếp số câu-chi

Nhớ Đức Mâu-ni

Nghe thậm thâm pháp.

Lại tiếng trống này,

Thường được gần Phật

Tịnh tu hạnh lành

Xa lìa tội ác.

Cho đến kệ nói:

Lại các cõi nước

Tất cả chúng sinh

Dứt trừ thế gian

Tất cả các khổ.

Lại nếu chúng sinh

Thân phận thấp kém,

Hoặc thiếu các căn,

Được có các căn

Thảy đều đầy đủ.

Nếu người bệnh tật,

Thân hình yếu đuối

Tùy theo nơi ở

Không chỗ nương nhờ,

Giải thoát các bệnh

Đều được nhẹ yên

Căn lực sung mãn.

Lại nếu chúng sinh,

Bị vua phép nước

Sinh các sợ hãi

Và nhiều sầu khổ

Các chúng sinh kia

Nếu nạn khổ đến

Những chuyện ác nhất

Trăm thứ sợ hãi

Đều khiến giải thoát.

Hoặc bị đánh đập

Gông cùm xiềng xích

Đủ thứ khổ hình

Bức bách thân thể.

Lại có vô lượng

Trăm ngàn chủng loại

Lo sợ sầu than

Não nuột trong lòng.

Lao ngục trói nhốt

Đánh khảo độc hại

Tất cả giải thoát.

Sắp bị gia hình

Mạng sống nguy kịch.

Các khổ tuy đến

Được không hãi sợ.

Lại nếu chúng sinh

Đói khát bức não,

Khiến được vị ngon

Ăn uống no đủ.

Người mù được thấy

Sắc tướng đẹp đẽ.

Kẻ điếc được nghe

Âm thanh thích ý.

Những kẻ lõa lồ

Được y phục tốt.

Chúng sinh nghèo khổ

Được của chôn giấu

Kho lẫm dồi dào

Trang sức các báu

Tất cả chúng sinh

Được diệu lạc này

Không một chúng sinh

Chịu các khổ báo.

Các tướng đoan trang

Ai cũng ưa nhìn.

Ăn uống sung túc

Phúc đức đầy đủ

Thường được thụ dụng

Vô lượng diệu lạc.

Không hầu, tiêu, địch

Các âm thanh hay

Tùy theo ý nghĩ

Có ngay tức thì,

Nghĩ nước có nước,

Ao hồ trong sạch.

Hoa sen sắc vàng,

Và Ưu-bát-la

Che rợp bên trên

Tùy theo ý nghĩ

Tức thì hiện tiền.

Cho đến kệ nói:

Hương xoa, tràng hoa

Hòa cùng hương bột

Mỗi ngày ba lần

Trên cây mưa xuống.

Chúng sinh thu lấy

Đều sinh hoan hỷ.

Cúng dường mười phương

Không thể nghĩ bàn

Tất cả Như Lai

Bồ-đề diệu pháp.

Các Đại Bồ-tát

Xa lìa trần cấu.

Các chúng Thanh Văn

Được lìa tất cả

Chủng tộc thấp hèn

Và nơi tám nạn

Thường không gặp nạn.

Vua trong tối thắng

Thường được gần gũi

Chư Phật Như Lai.

Cho đến kệ nói:

Nguyện các người nữ

Được làm thân nam

Kiên cường mạnh mẽ

Trí tuệ thông minh

Và thường tu tập

Con đường Bồ-tát

Sáu Ba-la-mật.

Thấy mười phương Phật

Ở dưới cây báu

Ngồi tòa lưu ly

An ổn khoái lạc

Cung kính vây quanh

Mà nghe diệu pháp.

Luận nói:

Đây là nói sơ lược về hạnh từ đối trị với sân, lấy quán duyên sinh đối trị với si. Nay sẽ nói nghĩa duyên sinh ở trong đó.

Kinh Đạo Can nói:

Thế nào là pháp nội duyên sinh hệ thuộc vào nhân ? Nghĩa là vô minh duyên hành, cho đến sinh duyên lão tử. Nếu không có vô minh thì biết không có hành. Cho đến không có sinh thì biết không có lão tử.

Lại nữa, nếu thật vô minh diệt thì hành diệt. Cũng như vậy cho đến sinh diệt thì lão tử diệt.

Lại nữa, vô minh không nghĩ rằng mình từ hành khởi, hành cũng không nghĩ rằng mình được khởi từ vô minh. Cũng như vậy cho đến sinh cũng không nghĩ rằng mình được khởi từ lão tử, lão tử cũng không nghĩ rằng mình được khởi từ sinh. Nếu thật vô minh khởi thì hành khởi không thể được. Cũng như vậy cho đến sinh khởi thì lão tử khởi cũng không thể được. Phải biết đó là pháp nội duyên sinh, hệ thuộc nơi nhân.

Còn pháp nội duyên sinh nào hệ thuộc nơi duyên ?

Nghĩa là địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới hòa hợp bên trong, hệ thuộc nơi duyên.

Thế nào là địa giới ? Nghĩa là làm cho thân này tụ tập mà chuyển, cứng chắc làm tính, gọi là địa giới. Lại nữa, làm cho thân gìn giữ tạo tác, gọi là thủy giới. Lại nữa, làm cho thân có tính ấm nóng, làm cho thức ăn uống tiêu hóa, gọi là hỏa giới. Lại nếu nơi thân tạo ra hơi thở ra vào, gọi là phong giới. Lại nữa, nếu trong thân có những lỗ hở, gọi là không giới. Nghĩa là danh sắc này giống như những cây lau giao nhau, làm cho năm thức thân tương ưng hệ thuộc. Ý thức hữu lậu gọi là thức giới. Nếu không có duyên này thì thân không chuyển. Nếu bên trong không khuyết địa giới, cũng vậy thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới cũng không khuyết giảm, chúng hòa hợp lẫn nhau thì nhất định thân chuyển. Nhưng địa giới này không nghĩ rằng mình có thể làm cho thân thành tụ lại bền chắc. Thủy giới không nghĩ rằng mình có thể làm cho thân gìn giữ tạo tác. Hỏa giới không nghĩ rằng mình có thể làm cho thân nóng ấm, ăn uống được tiêu hóa. Phong giới không nghĩ rằng mình rằng mình có thể làm cho thân tạo nên hơi thở ra vào. Không giới không nghĩ rằng mình có thể làm thành các lỗ hở cho thân. Thức giới không nghĩ rằng mình là duyên sinh, do duyên này nên nhất định làm cho thân được chuyển.

Lại nữa, địa giới này không ngã, không nhân, không chúng sinh, không thọ giả, không ý sinh, không nho đồng, chẳng phải nam, chẳng phải nữ, cũng chẳng phải phi nam, cũng chẳng phải phi nữ, không tự tại, không chủ tể, không đây, không kia, và không có sở hữu.

Lại nữa, vô minh là nghĩa như thế nào ?

Nghĩa là trong sáu giới này khởi lên một tưởng như tưởng hợp, tưởng bền chắc, tưởng thường lạc ngã tịnh, tưởng chúng sinh thọ giả ý sinh nho đồng tự tại chủ tể v.v… các thứ tưởng như vậy là vô trí, gọi là vô minh. Do vô minh này cho là có cảnh thật hữu, rồi khởi tham sân si, tức cảnh tham sân si kia gọi là hành. Đối với sự, biểu lộ sự hiểu biết, gọi là thức. Khi cùng sinh với thức, bốn thủ uẩn kia gọi là danh sắc.

Lại nữa, các căn mà danh sắc này nương vào gọi là sáu chỗ. Ba pháp hòa hợp gọi là xúc. Do xúc có lãnh nạp gọi là thụ. Thụ rồi đắm trước, gọi là ái. Ái sâu rộng, gọi là thủ. Từ thủ sinh ra hữu. Hữu lại sinh ra nhân. Do uẩn này khởi, gọi là sinh. Uẩn chín muồi là già. Uẩn diệt gọi là chết. Si, giận, nhiễm trước, sợ chết gọi là âu lo. Truy cảm thương than gọi là buồn. Năm thức tương ưng lãnh nạp bất thường gọi là khổ. Tác ý hòa hợp cực khổ gọi là não. Như vậy dẫn sinh các tùy phiền não v.v… Đại lược như vậy.

HẾT QUYỂN 15