LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẬP DỊ MÔN TÚC
Tác giả: Tôn giả Xá Lợi Tử
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 2

Phẩm 3: HAI PHÁP, phần 2

* Lại có 2 pháp: 1. Khéo léo nhập định. 2. Khéo léo xuất định.

1. Thế nào là khéo léo nhập định?

Đáp: Định: Nghĩa là tám thứ định của tám uẩn, tức là bốn tĩnh lự và bốn định vô sắc.

Khéo léo nhập định: Nghĩa là Bổ-đặc-già-la (Hữu tình) như thế đã thấy biết đúng như thật, Bổ-đặc-già-la như thế đã nhập định nơi tĩnh lự thứ nhất, Bổ-đặc-già-la như thế, cho đến nhập định nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng.

Lại nữa, Bổ-đặc-già-la như thế đã thấy biết đúng như thật, đối với định nơi tĩnh lự thứ nhất có tác ý khéo léo, Bổ-đặc-già-la như thế, cho đến đối với định nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng có tác ý khéo léo.

Lại nữa, Bổ-đặc-già-la như thế đã thấy biết đúng như thật, nhập nơi đạo của tĩnh lự thứ nhất, Bổ-đặc-già-la như thế, cho đến nhập nơi đạo của xứ phi tưởng phi phi tưởng.

Lại nữa, Bổ-đặc-già-la như thế đã thấy biết đúng như thật, đối với đạo của tĩnh lự thứ nhất có tác ý khéo léo, Bổ-đặc-già-la như thế, cho đến đối với đạo của xứ phi tưởng phi phi tưởng có tác ý khéo léo.

Sự việc ấy là thế nào? Như có người nói: Tôi tác ý như thế là tác ý như vầy: Đối với việc nhập định nơi tĩnh lự thứ nhất, cho đến nhập định nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng, đã khéo cùng hiểu biết, khéo hiểu biết gần, khéo phân biệt, khéo suy nghĩ, khéo thông đạt. Tôi tưởng như thế, quán như thế, thắng giải như thế, nhận giữ như thế, phân biệt như thế. Đối với việc nhập định nơi tĩnh lự thứ nhất, cho đến nhập định nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng đều khéo cùng hiểu biết, cho đến khéo thông đạt. Tôi đã thâu tóm tâm, thúc đẩy tâm, điều phục tâm, giữ gìn tâm, phát khởi tâm, buông bỏ tâm, chế ngự tâm, thuận theo tâm như thế. Đối với việc nhập định nơi tĩnh lự thứ nhất, cho đến nhập định nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng đều khéo cùng hiểu biết, cho đến khéo thông đạt. Tôi theo pháp như thế để nhập định cùng khéo léo nhập định nhưng không tác dụng, không lợi ích, không làm được nhiều việc chỉ vì bị chướng ngại. Tôi nay đối với pháp này khéo cùng hiểu biết, cho đến khéo thông đạt. Tôi theo pháp như thế để nhập định cùng khéo léo nhập định nên có tác dụng, có lợi ích, làm được nhiều việc không bị chướng ngại. Tôi đối với pháp này đã khéo cùng hiểu biết, cho đến khéo thông đạt. Ở trong việc nhập các thứ định như thế đã hiểu rõ, cùng hiểu rõ, hiểu gần, hiểu khắp, trí sáng nơi cơ duyên thông đạt thẩm xét thấu suốt, tuệ nhận biết rõ hành Tỳ-bát-xá-na. Đó gọi là khéo léo nhập định.

2. Thế nào là khéo léo xuất định?

Đáp: Định: Nghĩa là tám thứ định của tám uẩn, tức là bốn tĩnh lự và bốn định vô sắc.

Khéo léo xuất định: Nghĩa là Bổ-đặc-già-la như thế đã thấy biết đúng như thật, Bổ-đặc-già-la như thế đã xuất định nơi tĩnh lự thứ nhất, Bổ-đặc-già-la như thế, cho đến xuất định nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng.

Lại nữa, Bổ-đặc-già-la như thế đã thấy biết đúng như thật, đối với việc xuất định nơi tĩnh lự thứ nhất có tác ý khéo léo, Bổ-đặc-giàla như thế, cho đến đối với việc xuất định nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng có tác ý khéo léo.

Lại nữa, Bổ-đặc-già-la như thế đã thấy biết đúng như thật, xuất đạo của tĩnh lự thứ nhất, Bổ-đặc-già-la như thế, cho đến xuất đạo của xứ phi tưởng phi phi tưởng.

Lại nữa, Bổ-đặc-già-la như thế đã thấy biết đúng như thật, đối với việc xuất đạo của tĩnh lự thứ nhất có tác ý khéo léo, Bổ-đặc-giàla như thế, cho đến đối với việc xuất đạo của xứ phi tưởng phi phi tưởng có tác ý khéo léo.

Sự việc ấy là thế nào? Như có người nói: Tôi tác ý như thế là tác ý như vầy: Đối với việc xuất định nơi tĩnh lự thứ nhất, cho đến xuất định nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng, đã khéo cùng hiểu biết, khéo hiểu biết gần, khéo phân biệt, khéo suy nghĩ, khéo thông đạt. Tôi tưởng như thế, quán như thế, thắng giải như thế, nhận giữ như thế, phân biệt như thế. Đối với việc xuất định nơi tĩnh lự thứ nhất, cho đến xuất định nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng đều khéo cùng hiểu biết, cho đến khéo thông đạt. Tôi đã thâu tóm tâm, thúc đẩy tâm, điều phục tâm, giữ gìn tâm, phát khởi tâm, buông bỏ tâm, chế ngự tâm, thuận theo tâm như thế. Đối với việc xuất định nơi tĩnh lự thứ nhất, cho đến xuất định nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng đều khéo cùng hiểu biết, cho đến khéo thông đạt. Tôi theo pháp như thế để xuất định cùng khéo léo xuất định nhưng không tác dụng, không lợi ích, không làm được nhiều việc chỉ vì bị chướng ngại. Tôi nay đối với pháp này, khéo cùng hiểu biết, cho đến khéo thông đạt. Tôi theo pháp như thế để xuất định cùng khéo léo xuất định nên có tác dụng, có lợi ích, làm được nhiều việc không bị chướng ngại. Tôi đối với pháp này đã khéo cùng hiểu biết, cho đến khéo thông đạt. Ở trong việc xuất các thứ định như thế đã hiểu rõ v.v…, cho đến hành Tỳ-bát-xá-na. Đó gọi là khéo léo xuất định.

*

* Lại có 2 pháp: 1. Biết giới khéo léo. 2. Tác ý khéo léo.

1. Thế nào là biết giới khéo léo?

Đáp: Như có Bí-sô thấy biết đúng như thật về mười tám giới: Đó là nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới. Nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới. Tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới. Thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới. Thân giới, xúc giới, thân thức giới. Ý giới, pháp giới, ý thức giới.

Lại nữa, thấy biết đúng như thật về sáu giới: Đó là giới địa, thủy, hỏa, phong, không, thức. Lại nữa, thấy biết đúng như thật về sáu giới: Đó là giới dục, giận, hại, xuất ly, không giận, không hại. Lại nữa, thấy biết đúng như thật về sáu giới: Đó là giới vui, khổ, mừng, sầu, buông xả, vô minh.

Lại nữa, thấy biết đúng như thật về bốn giới: Đó là giới thọ, tưởng, hành, thức.

Lại nữa, thấy biết đúng như thật về ba giới: Đó là giới dục, sắc, vô sắc. Lại nữa, thấy biết đúng như thật về ba giới: Đó là giới sắc, vô sắc, diệt. Lại nữa, thấy biết đúng như thật về ba giới: Đó là giới quá khứ, vị lai, hiện tại. Lại nữa, thấy biết đúng như thật về ba giới: Đó là giới kém, trung bình, vi diệu. Lại nữa, thấy biết đúng như thật về ba giới: Đó là giới thiện, bất thiện, vô ký. Lại nữa, thấy biết đúng như thật về ba giới: Đó là giới học, vô học, phi học phi vô học.

Lại nữa, thấy biết đúng như thật về hai giới: Đó là giới hữu lậu, vô lậu. Lại nữa, thấy biết đúng như thật về hai giới: Đó là giới hữu vi, vô vi.

Đối với các thứ giới như thế đã biết rõ, cùng biết rõ, biết gần, biết khắp, trí sáng nơi cơ duyên thông đạt thẩm xét thấu suốt, tuệ nhận biết rõ hành Tỳ-bát-xá-na. Đó gọi là biết giới khéo léo.

2. Thế nào là tác ý khéo léo?

Đáp: Như có Bí-sô hoặc thọ trì Tố-đát-lãm (Kinh), hoặc thọ trì

Tỳ-nại-da (Luật), hoặc thọ trì A-tỳ-đạt-ma (Luận). Hoặc nghe Thân giáo sư (Hòa thượng) giảng nói, hoặc nghe Quỹ phạm sư (A-xà-lê) dạy bảo. Hoặc nghe Tạng lần lượt truyền trao nói. Hoặc nghe theo vị đạt Lý nhất như nói. Nương nơi như lý như thế, dẫn đến tuệ do văn tạo thành.

Đối với nhãn giới cho đến ý thức giới đều có tác ý khéo léo, tư duy là vô thường, khổ, không, vô ngã.

Đối với giới địa cho đến giới thức đều có tác ý khéo léo, tư duy là vô thường, khổ, không, vô ngã. Đối với giới dục, giận, hại, tác ý khéo léo, tư duy là vô thường, khổ, không, vô ngã. Đối với giới xuất ly, không giận, không hại, tác ý khéo léo, tư duy là vô thường, khổ, không, vô ngã. Đối với giới vui, khổ, mừng, sầu, buông xả, vô minh, tác ý khéo léo, tư duy là vô thường, khổ, không, vô ngã.

Đối với giới thọ, tưởng, hành, thức, tác ý khéo léo, tư duy là vô thường, khổ, không, vô ngã.

Đối với giới dục, sắc, vô sắc, tác ý khéo léo, tư duy là vô thường, khổ, không, vô ngã. Đối với giới sắc, vô sắc, tác ý khéo léo, tư duy là vô thường, khổ, không, vô ngã. Đối với giới diệt, tác ý khéo léo, tư duy là vô thường, khổ, không, vô ngã. Đối với giới quá khứ, vị lai, hiện tại, tác ý khéo léo, tư duy là vô thường, khổ, không, vô ngã. Đối với giới kém, trung bình, tác ý khéo léo, tư duy là vô thường, khổ, không, vô ngã. Đối với giới vi diệu, tác ý khéo léo, tư duy là vô thường, khổ, không, vô ngã. Đối với giới thiện, bất thiện và vô ký, tác ý khéo léo, tư duy là vô thường, khổ, không, vô ngã. Đối với giới học, vô học, tác ý khéo léo, tư duy là vô thường, khổ, không, vô ngã. Đối với giới phi học phi vô học, tác ý khéo léo, tư duy là vô thường, khổ, không, vô ngã.

Đối với giới hữu lậu, tác ý khéo léo, tư duy là vô thường, khổ, không, vô ngã. Đối với giới vô lậu, tác ý khéo léo, tư duy là vô thường, khổ, không, vô ngã. Đối với giới hữu vi, tác ý khéo léo, tư duy là vô thường, khổ, không, vô ngã. Đối với giới vô vi, tác ý khéo léo, tư duy là vô thường, khổ, không, vô ngã.

Lại nữa, như có Bí-sô thấy biết như thật về quá khứ, vị lai, hiện tại mà tác ý. Thấy biết như thật về thiện, bất thiện, vô ký mà tác ý. Thấy biết như thật về sự hệ thuộc cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc mà tác ý. Thấy biết như thật về học, vô học, phi học phi vô học mà tác ý. Thấy biết như thật về do kiến đạo đoạn trừ, do tu đạo đoạn trừ, không đoạn trừ mà tác ý. Đối với các thứ tác ý như thế đều đã biết rõ v.v… cho đến hành Tỳ-bát-xá-na. Đó gọi là tác ý khéo léo.

*

* Lại có 2 pháp: 1. Ngay thẳng. 2. Nhu hòa.

1. Thế nào là ngay thẳng?

Đáp: Tánh của tâm không cứng rắn, tánh của tâm không mạnh mẽ, tánh của tâm không ương ngạnh, tánh của tâm thuần chất, tánh của tâm chánh trực, tánh của tâm linh hoạt, tánh của tâm dịu dàng, tánh của tâm điều thuận. Đó gọi là ngay thẳng.

2. Thế nào là nhu hòa?

Đáp: Tánh của thân không cứng rắn, tánh của thân không mạnh mẽ, tánh của thân không ương ngạnh, tánh của thân thuần chất, tánh của thân chánh trực, tánh của thân linh hoạt, tánh của thân dịu dàng, tánh của thân điều thuận. Đó gọi là nhu hòa.

*

* Lại có 2 pháp: 1. Gắng nhẫn. 2. Đáng vui.

1. Thế nào là gắng nhẫn?

Đáp: Nghĩa là có thể nhẫn chịu, chịu đựng các thứ tiếp xúc như lạnh nóng, đói khát, gió thổi, ánh nắng mặt trời, ruồi muỗi, rắn rít v.v… Lại có thể nhẫn chịu những lời thô ác của người khác. Từ trong thân có thể dấy khởi tâm tha thiết mãnh liệt thọ khổ như bị đoạt mạng. Đó gọi là gắng nhẫn.

2. Thế nào là đáng vui?

Đáp: Nếu như có sự việc xảy đến khiến không thể dung nạp, không thể tự kìm chế, không thể xoay chuyển, không thể nhẫn nại. Nhưng có thể đối với sự việc ấy, tự thân không hung không ác, không thô không dữ, gắng nhẫn để có thể vui thích, dễ có thể cùng trụ, dứt bỏ các ác. Hoặc có sự việc xảy đến khiến có thể dung nạp, có thể tự kìm chế, có thể xoay chuyển, có thể nhẫn nại. Cũng có thể đối với sự việc ấy, tự thân không hung không ác, không thô không dữ, gắng nhẫn để có thể vui thích, dễ có thể cùng trụ, dứt bỏ các ác. Đó gọi là đáng vui.

*

* Lại có 2 pháp: 1. Hòa thuận. 2. Cúng dường.

1. Thế nào là hòa thuận?

Đáp: Như có người vui tạo những lời nói đáng thích thú, những lời nói đáng yêu mến, dung mạo tươi tắn, xa lìa buồn bực. Trước nói lời an ủi, thăm hỏi: Nhân giả hôm nay đến đây công việc có dễ chịu chăng? Cuộc sống thế nào, luôn được an lạc chăng? Ăn uống, ngủ nghỉ vẫn như mọi ngày chăng? Các sự việc vui vẻ như thế được tạo ra gồm những lời nói dịu dàng thật đáng thích thú. Đó gọi là hòa thuận.

2. Thế nào là cúng dường?

Đáp: Cúng dường có hai loại: Một là cúng dường bằng tiền của vật dụng. Hai là cúng dường bằng pháp.

Thế nào là cúng dường bằng tiền của vật dụng? Nghĩa là đem các thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc vừa ý, các thứ vật dụng như y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc thang cùng những vật dụng cần thiết khác, đối với các hữu tình kia đều có thể thí cho, ban cho, có thể theo đấy mà thí cho, ban cho, có thể xả bỏ hết thảy. Đó gọi là cúng dường bằng tiền của vật dụng.

Thế nào là cúng dường bằng pháp? Nghĩa là dùng các pháp như Tố-đát-lãm (Kinh), hoặc Tỳ-nại-da (Luật), hoặc A-tỳ-đạt-ma (Luận), hoặc các lời thuyết giảng dạy bảo của các Thân giáo sư (Hòa thượng), các Quỹ phạm sư (A-xà-lê), hoặc trong các Tạng kinh điển được truyền trao, hay tùy theo một bậc khác đáng tin cậy v.v…, đối với các hữu tình kia đều có thể thí cho, ban cho, có thể theo đấy mà thí cho, ban cho, có thể xả bỏ hết thảy. Đó gọi là cúng dường pháp.

Hai thứ này gọi chung là cúng dường.

*

* Lại có 2 pháp: 1. Niệm đủ. 2. Biết đúng.

1. Thế nào là niệm đủ?

Đáp: Như dựa nơi xuất ly, xa lìa là pháp thiện, đối với các niệm, tùy niệm, chuyên niệm, nhớ niệm, đều không quên, không mất, không bỏ sót, không rơi rớt, không mất pháp tánh, tâm tánh luôn sáng suốt ghi nhớ. Đó gọi là niệm đủ.

2. Thế nào là biết đúng?

Đáp: Như dựa nơi xuất ly, xa lìa là pháp thiện, đối với các pháp cần xét chọn nên xét chọn tận cùng, xét chọn tột bậc, nhân đấy đã hiểu rõ, cùng hiểu rõ, hiểu gần, hiểu khắp, trí sáng nơi cơ duyên thông đạt thẩm xét thấu suốt, tuệ nhận biết rõ hành Tỳ-bát-xá-na. Đó gọi là biết đúng.

*

* Lại có 2 pháp: 1. Lực xét chọn. 2. Lực tu tập.

1. Thế nào là lực xét chọn?

Đáp: Như Đức Thế Tôn đã nói: Bí-sô nên biết! Những đệ tử đa văn của Phật nên tu học như thế này: Các hành ác do thân gây tạo sẽ chiêu cảm các quả báo xấu ác cho hiện pháp và đời sau. Nghĩa là nếu thân ta hành ác thì hiện đời tự mình chán ghét, cũng lại bị người khác, trời, thần, chư Phật chê trách, cũng như bị người trí và kẻ đồng phạm hạnh khinh giận, tiếng xấu lan truyền khắp thế gian, thân hoại mạng chung bị đọa vào các đường dữ sinh nơi địa ngục. Do nhận biết rõ các hành của thân sẽ chiêu cảm quả báo xấu ác nơi hiện đời và đời sau, nên có thể siêng năng đoạn trừ các hành ác của thân, lại cũng có thể siêng tu các hành diệu của thân. Đối với hành ác của ngữ và hành ác của ý, nói rộng cũng như thế, cho đến siêng tu các hành diệu của ngữ và hành diệu của ý. Nếu có thể nhân nơi xét chọn như thế, dựa nơi xét chọn, trụ nơi xét chọn, để đoạn trừ pháp bất thiện, tu tập các pháp thiện, đó gọi là xét chọn, cũng gọi là lực, nên gọi là lực xét chọn.

2. Thế nào là lực tu tập?

Đáp: Như Đức Thế Tôn đã nói: Bí-sô nên biết! Những đệ tử đa văn của Phật tu tập các giác chi như niệm v.v…, nương dựa nơi chán, nương dựa nơi lìa, nương dựa nơi diệt, hồi hướng về xả. Tu tập các giác chi như trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định và xả v.v…, nương dựa nơi chán, nương dựa nơi lìa, nương dựa nơi diệt, hồi hướng về xả. Nếu có thể nhân nơi tu tập như thế, dựa nơi tu tập, trụ nơi tu tập, để đoạn trừ pháp bất thiện, tu tập các pháp thiện, đó gọi là tu tập, cũng gọi là lực, nên gọi là lực tu tập.

Vì sao gọi là lực? Do nhân nơi lực ấy, dựa nơi lực ấy, trụ nơi lực ấy, nên có thể đoạn trừ, có thể loại bỏ, có thể phá trừ tất cả các thứ kiết phược, tùy miên, tùy phiền não, triền, nên gọi là lực.

*

* Lại có 2 pháp: 1. Chẳng giữ gìn căn môn. 2. Ăn không biết lượng định.

1. Thế nào là chẳng giữ gìn căn môn?

Đáp: Như Đức Thế Tôn đã nói: Bí-sô nên biết! Những phàm phu kém hiểu biết, khi mắt thấy sắc, do nhãn căn, nên giữ lấy tướng thuận theo sự ưa thích. Tức nơi xứ ấy chẳng giữ gìn nhãn căn, trụ vào chỗ không phòng hộ, nên tâm tham ái thế gian dấy khởi, các pháp ác bất thiện theo tâm sinh trưởng. Kẻ kia đối với nhãn căn chẳng biết phòng giữ, do đấy nên nói là chẳng giữ gìn nhãn căn, do chẳng giữ gìn nhãn căn nên tham sân si sinh trưởng. Các căn nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng như thế.

Lại nói về ý căn, khi ý nhận biết các pháp, do ý căn, nên giữ lấy tướng thuận theo sự ưa thích. Tức nơi xứ ấy chẳng giữ gìn ý căn, trụ vào chỗ không phòng hộ, nên tâm tham ái thế gian dấy khởi, các pháp ác bất thiện theo tâm sinh trưởng. Kẻ kia đối với ý căn chẳng biết phòng giữ, do đấy nên nói là chẳng giữ gìn ý căn, do chẳng giữ gìn ý căn nên tham sân si sinh trưởng.

Kẻ kia do phát khởi sự xét chọn không đúng lý, nên khi mắt thấy các sắc, tai nghe các tiếng, mũi ngửi các mùi, lưỡi nếm các vị, thân xúc chạm các vật, ý hiểu biết các pháp, nơi sáu căn môn như thế chẳng phòng hộ, chẳng cùng phòng hộ, chẳng phòng hộ khắp, chẳng giấu kỹ, chẳng che, chẳng ngăn, chẳng tĩnh lặng, chẳng điều phục, chẳng bảo vệ. Đó gọi là chẳng giữ gìn căn môn.

2. Thế nào là ăn không biết lượng định?

Đáp: Như Đức Thế Tôn đã nói: Bí-sô nên biết! Những phàm phu kém hiểu biết, không biết xét chọn nên ăn. Do để được mạnh mẽ, do tánh phóng túng kiêu mạn, do để có dung mạo đẹp đẽ, do vóc dáng oai nghiêm v.v… nên ăn các thức ăn.

Không biết xét chọn nên ăn: Nghĩa là do trụ nơi phi lý dẫn đến việc biết xét chọn nên ăn các thức ăn.

Do để được mạnh mẽ nên ăn: Nghĩa là như có một loại hữu tình khi ăn khởi tâm suy nghĩ: Ta ăn các thức ăn này tất sẽ no đủ, khiến thân ta mạnh mẽ, có thể làm được những việc nặng nhọc, có thể gánh vác các sự việc quan trọng, của cải thêm nhiều, sống lâu trên đời, có thể trừ diệt mọi oán địch, có thể vượt hơn xe cộ, có thể nhảy xa, ném mạnh, có thể hiện bày vô số động tác vui đùa nơi thế gian v.v…

Do tánh phóng túng kiêu mạn nên ăn: Nghĩa là như có một loại hữu tình khi ăn khởi tâm suy nghĩ: Ta ăn các thức ăn này tất sẽ no đủ, khiến tánh phóng túng kiêu mạn của ta thêm tự đắc. Tâm như thế sinh khởi, cùng sinh khởi, nối tiếp dẫn phát, nên xem thường tất cả, mặc tình theo ý thích hành tác phóng túng.

Do để có dung mạo đẹp đẽ nên ăn: Nghĩa là như có một loại hữu tình khi ăn khởi tâm suy nghĩ: Ta ăn các thức ăn này tất sẽ bổ dưỡng, khiến thân ta có dung mạo tươi đẹp hơn hẳn, da dẻ mịn màng.

Do vóc dáng oai nghiêm nên ăn: Nghĩa là như có một loại hữu tình khi ăn khởi tâm suy nghĩ: Ta ăn các thức ăn này tất sẽ no đủ, khiến thân ta thành tựu hình sắc oai nghiêm, đẹp đẽ bậc nhất, mọi người đều yêu mến kính trọng.

Có nhiều loại người coi trọng việc ăn uống như vậy, tức đối với các thức ăn uống, tánh không bình đẳng, tánh không biết lường xét, tánh không sáng suốt, nên không hiểu rõ sự tướng của chúng, không thể tự giảm số lượng: Ta nay chỉ nên như thế mà ăn. Đó gọi là ăn không biết lượng định.

*

* Lại có 2 pháp: 1. Có thể giữ gìn căn môn. 2. Ăn biết lượng định.

1. Thế nào là có thể giữ gìn căn môn?

Đáp: Như Đức Thế Tôn đã nói: Bí-sô nên biết! Những đệ tử đa văn của Phật, khi mắt thấy sắc, do nhãn căn, nhưng không giữ lấy tướng của chúng, cũng không thuận theo sự ưa thích. Tức nơi xứ ấy có thể giữ gìn nhãn căn, trụ vào chỗ có thể phòng hộ, nên tâm tham ái thế gian không khởi, các pháp ác bất thiện không theo tâm sinh trưởng. Kẻ kia đối với nhãn căn đã có thể phòng giữ, do đấy nên nói là có thể giữ gìn nhãn căn, vì hay giữ gìn nhãn căn nên tham sân si không khởi. Các căn nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng như thế.

Lại nói về ý căn, khi ý nhận biết các pháp, do ý căn, nhưng không giữ lấy tướng của chúng, cũng không thuận theo sự ưa thích. Tức nơi xứ ấy có thể giữ gìn ý căn, trụ vào chỗ có thể phòng hộ, nên tâm tham ái thế gian không khởi, các pháp ác bất thiện không theo tâm sinh trưởng. Kẻ kia đối với ý căn đã có thể phòng giữ, do đấy nên nói là có thể giữ gìn ý căn, vì hay giữ gìn ý căn nên tham sân si không khởi.

Kẻ kia do phát khởi sự xét chọn như lý, nên khi mắt thấy các sắc, tai nghe các tiếng, mũi ngửi các mùi, lưỡi nếm các vị, thân xúc chạm các vật, ý hiểu biết các pháp, nơi sáu căn môn như thế có thể phòng hộ, có thể cùng phòng hộ, có thể phòng hộ khắp, có thể giấu kỹ, che ngăn, có thể tĩnh lặng, có thể điều phục, có thể bảo vệ. Đó gọi là có thể giữ gìn căn môn.

2. Thế nào là ăn biết lượng định?

Đáp: Như Đức Thế Tôn đã nói: Bí-sô nên biết! Những đệ tử đa văn của Đức Phật có thể xét chọn nên ăn. Chẳng do để được mạnh mẽ, chẳng do tánh phóng túng kiêu mạn, chẳng do để có dung mạo đẹp đẽ, chẳng do vóc dáng oai nghiêm nên ăn. Chỉ vì thân này được tạm an trụ, tồn tại, chỉ vì dứt trừ đói khát, chỉ vì thâu nhận phạm hạnh nên ăn các thức ăn này. Vì đoạn trừ thọ nhận cũ, không dấy khởi thọ nhận mới, do để có được sự sống không tội, vì mong được sức lực an vui, vì muốn được an trụ nên ăn các thức ăn này.

Có thể xét chọn nên ăn: Nghĩa là do trụ nơi như lý dẫn đến việc biết xét chọn nên ăn các thức ăn.

Chẳng do để được mạnh mẽ nên ăn: Tức chẳng phải như có một loại hữu tình khi ăn khởi tâm suy nghĩ: Ta ăn các thức ăn này tất sẽ no đủ, khiến thân ta mạnh mẽ, có thể làm được những việc nặng nhọc, có thể gánh vác các sự việc quan trọng, của cải thêm nhiều, sống lâu trên đời, có thể trừ diệt mọi oán địch, có thể vượt hơn xe cộ, có thể nhảy xa, ném mạnh, có thể hiện bày vô số động tác vui đùa nơi thế gian.

Chẳng do tánh phóng túng kiêu mạn nên ăn: Tức chẳng phải như có một loại hữu tình khi ăn khởi tâm suy nghĩ: Ta ăn các thức ăn này tất sẽ no đủ, khiến tánh phóng túng kiêu mạn của ta thêm tự đắc. Tâm như thế sinh khởi, cùng sinh khởi, nối tiếp dẫn phát, nên xem thường tất cả, mặc tình theo ý thích hành tác phóng túng.

Chẳng do để có dung mạo đẹp đẽ nên ăn: Tức chẳng phải như có một loại hữu tình khi ăn khởi tâm suy nghĩ: Ta ăn các thức ăn này tất sẽ bổ dưỡng, khiến thân ta có dung mạo tươi đẹp hơn hẳn, da dẻ mịn màng.

Chẳng do vóc dáng oai nghiêm nên ăn: Tức chẳng phải như có một loại hữu tình khi ăn khởi tâm suy nghĩ: Ta ăn các thức ăn này tất sẽ no đủ, khiến thân ta thành tựu hình sắc oai nghiêm, đẹp đẽ bậc nhất, mọi người đều yêu mến kính trọng.

Chỉ vì thân này được tạm an trụ, tồn tại nên ăn: Nghĩa là thân thể cũng gọi là thân. Thân căn cũng gọi là thân. Phần sắc của năm căn cũng gọi là thân. Bốn đại chủng hợp tạo nên cũng gọi là thân. Trong nghĩa này, là nói bốn đại chủng hợp tạo thành thân. Các đệ tử của chư Phật khi ăn các thức ăn chỉ nghĩ: Ta ăn các thức ăn này để khiến cho thân do bốn đại chủng hợp tạo tạm trụ, cùng trụ, trụ gần, an, nên gọi là tạm trụ. Các đệ tử của Đức Phật khi ăn chỉ nghĩ: Ta ăn các thức ăn này là nhằm khiến cho thân do bốn đại chủng hợp tạo được tồn tại, theo đấy mà tồn tại, được cứu giúp, theo đấy mà cứu giúp, được chuyển biến, theo đấy mà chuyển biến. Nên gọi là sự sống còn.

Chỉ vì dứt trừ đói khát nên ăn: Nghĩa là ở đây đói khát đã dấy khởi khổ thọ, nên nói là đói khát. Các đệ tử của Đức Phật khi ăn chỉ nghĩ: Ta ăn các thứ thức ăn này là nhằm khiến cho đói khát gây khổ thọ tạm thời dừng dứt, không còn não hại.

Chỉ vì thâu nhận phạm hạnh nên ăn: Nghĩa là lìa bỏ dâm dục cũng gọi là phạm hạnh, tám chi Thánh đạo cũng gọi là phạm hạnh. Nghĩa được nêu ở đây thì tám chi Thánh đạo gọi là phạm hạnh. Các đệ tử của Đức Phật khi ăn chỉ suy niệm: Vì muốn thâu nhận tùy thuận làm tăng trưởng tám chi Thánh đạo.

Vì đoạn trừ thọ nhận cũ, không dấy khởi thọ nhận mới nên ăn: Không ăn làm duyên dấy khởi khổ thọ, nên gọi là thọ nhận cũ. Còn ăn no thì làm duyên dấy khởi khổ thọ, nên gọi là thọ nhận mới. Các đệ tử của Đức Phật khi ăn chỉ suy niệm: Ta ăn các thức ăn này vì để đoạn trừ thọ nhận cũ, không dấy khởi thọ nhận mới, không phải vì muốn được vui thích sung mãn.

Do để có được sự sống không tội nên ăn: Sự sống có hai thứ: Một là sự sống có tội. Hai là sự sống không tội.

Thế nào là sự sống có tội? Như có một loại người xảo trá, lừa dối hiện bày vẻ thiết tha cảm động, do lợi cầu lợi để tìm kiếm sự ăn uống. Theo phương tiện như thế để được ăn uống, vui vẻ thọ dụng, tham ái mê muội, đắm chấp chẳng bỏ, không thấy được lỗi lớn mình đã làm, không biết nẻo xuất ly. Như thế gọi là sự sống có tội.

Thế nào là sự sống không tội? Tức không phải như loại người lừa dối, xảo trá kia làm ra vẻ thành thật tha thiết, do lợi cầu lợi để được ăn uống. Ở đây đã dùng phương tiện như thật, được các thức ăn uống rồi thì như pháp thọ dụng, không tham ái, mê muội, không vướng mắc, đắm chấp, có thể thấy được lỗi lầm tai họa, khéo nhận biết nẻo xuất ly. Đó gọi là sự sống không tội. Các đệ tử của Đức Phật chỉ vì sự sống không tội như thế nên thọ dụng các thức ăn.

Vì mong được sức lực an vui nên ăn: Tức các đệ tử của Đức Phật khi ăn chỉ suy niệm: Vì muốn cho sức khỏe của thân không bị suy giảm, tâm ý thọ nhận hỷ lạc, có thể hành tác mọi việc thiện.

Vì muốn được an trụ nên ăn: Tức các đệ tử của Đức Phật khi ăn chỉ suy niệm: Ta thọ dụng các thức ăn này là để cho các việc đi đứng ngồi nằm, đọc tụng, các thời gian tu định thân tâm được yên ổn an lạc. Các người như thế không hề coi trọng việc ăn uống, đối với các sự việc ấy luôn có tánh bình đẳng, có tánh biết lượng định, có tánh trí sáng, nên có thể hiểu rõ về tướng, nhân đấy tự biết giảm: Ta nay chỉ nên ăn như thế.

Đó gọi là ăn biết lượng định.

*

* Lại có 2 pháp: 1. Thiếu giới. 2. Thiếu kiến.

1. Thế nào là thiếu giới?

Đáp: Nghĩa là đoạn dứt sinh mạng, không cho mà lấy, dâm dục tà hạnh, nói dối, nói lời ly gián, nói lời thô ác, nói lời uế tạp. Lại nữa, hoặc đoạn dứt sinh mạng, hoặc không cho mà lấy, hoặc phi phạm hạnh. Lại nữa, là các thứ giới bất thiện hiện có, các thứ giới phi lý hiện có đã nêu dẫn, các thứ giới hiện có gây chướng ngại nơi định. Đó gọi là thiếu giới.

Do đâu gọi là thiếu giới? Do tự tánh của pháp ấy là không đáng yêu mến, không đáng ưa thích, không đáng hoan hỷ, không đáng vừa ý, không an ổn, không ngay thẳng, không đáng vui mừng, không thuận hợp tâm ý, trái với chánh lý. Lại nữa, pháp ấy có thể đạt được quả không đáng yêu mến, quả không đáng ưa thích, quả không đáng hoan hỷ, quả không đáng vừa ý, quả không an ổn, quả không ngay thẳng, quả không đáng vui mừng, quả không thuận hợp tâm ý, quả trái với chánh lý. Lại nữa, pháp ấy có thể chiêu cảm được các thứ dị thục (quả báo) không đáng yêu mến, dị thục không đáng ưa thích, dị thục không đáng hoan hỷ, dị thục không đáng vừa ý, dị thục không an ổn, dị thục không ngay thẳng, dị thục không đáng vui mừng, dị thục không thuận hợp tâm ý, dị thục trái với chánh lý. Đó gọi là thiếu giới.

2. Thế nào là thiếu kiến?

Đáp: Nghĩa là các thứ kiến hiện có: Không có tuệ thí, không có thân ái, không có cúng tế, không có hành diệu, không có hành ác, không có dị thục nơi nghiệp quả của hành diệu và hành ác, không có đời này, không có đời khác, không cha, không mẹ, không có hữu tình hóa sinh, không có bậc A-la-hán chánh chí chánh hạnh ở thế gian, nghĩa là nơi đời này và đời khác, chư vị A-la-hán kia đã tự thông đạt, tác chứng an trụ đầy đủ, chứng biết đúng như thật: Nẻo sinh tử của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn thọ thân sau. Lại nữa, các thứ kiến bất thiện hiện có, các thứ kiến phi lý hiện có đã nêu dẫn, các thứ kiến hiện có gây chướng ngại nơi định. Đó gọi là thiếu kiến.

Do đâu gọi là thiếu kiến? Do tự tánh của pháp ấy là không đáng yêu mến v.v… cho đến trái với chánh lý. Lại nữa, pháp ấy có thể đạt được quả không đáng yêu mến v.v… cho đến quả trái với chánh lý. Lại nữa, pháp ấy có thể chiêu cảm được các thứ dị thục không đáng yêu mến v.v… cho đến dị thục trái với chánh lý. Đó gọi là thiếu kiến.

*

– Như thiếu giới và thiếu kiến, thì phá giới và phá kiến nên biết cũng như vậy.

*

– Lại có 2 pháp: 1. Đủ giới. 2. Đủ kiến.

1. Thế nào là đủ giới?

Đáp: Nghĩa là lìa bỏ việc đoạn dứt sinh mạng, lìa bỏ không cho mà lấy, lìa bỏ dâm dục tà hạnh, lìa bỏ nói dối, lìa bỏ nói lời ly gián, lìa bỏ nói lời thô ác, lìa bỏ nói lời uế tạp. Lại nữa, lìa bỏ việc đoạn dứt sinh mạng, lìa bỏ không cho mà lấy, lìa bỏ phi phạm hạnh. Lại nữa, là các thứ giới của bậc hữu học hiện có, các thứ giới của bậc vô học hiện có, các thứ giới của phi học phi vô học thiện hiện có. Đó gọi là đủ giới.

Do đâu gọi là đủ giới? Do tự tánh của pháp ấy là đáng yêu mến, đáng ưa thích, đáng hoan hỷ, đáng vừa ý, là an ổn, ngay thẳng, đáng vui mừng, là thật hợp tâm ý, thuận với chánh lý. Lại nữa, pháp ấy có thể đạt được quả đáng yêu mến, quả đáng ưa thích, quả đáng hoan hỷ, quả đáng vừa ý, quả an ổn, quả ngay thẳng, quả đáng vui mừng, quả thật hợp tâm ý, quả thuận với chánh lý. Lại nữa, pháp ấy có thể chiêu cảm được các thứ dị thục đáng yêu mến, dị thục đáng ưa thích, dị thục đáng hoan hỷ, dị thục đáng vừa ý, dị thục an ổn, dị thục ngay thẳng, dị thục đáng vui mừng, dị thục thật hợp tâm ý, dị thục thuận với chánh lý. Đó gọi là đủ giới.

2.Thế nào là đủ kiến?

Đáp: Nghĩa là các thứ kiến hiện có: Có tuệ thí, có thân ái, có cúng tế, có hành diệu, có hành ác, có dị thục nơi nghiệp quả của hành diệu và hành ác, có đời này, có đời khác, có mẹ, có cha, có hữu tình hóa sinh, có bậc A-la-hán chánh chí chánh hạnh ở thế gian, nghĩa là nơi đời này đời khác, chư vị A-la-hán kia đã tự thông đạt, tác chứng an trụ đầy đủ, chứng biết đúng như thật: Nẻo sinh tử của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn thọ thân sau. Lại nữa, là các thứ kiến của bậc hữu học, các thứ kiến của bậc vô học, các thứ kiến của phi học phi vô học thiện. Đó gọi là đủ kiến.

Do đâu gọi là đủ kiến? Do tự tánh của pháp ấy là đáng yêu mến v.v… cho đến thuận với chánh lý. Lại nữa, pháp ấy có thể đạt được quả đáng yêu mến v.v… cho đến quả thuận với chánh lý. Lại nữa, pháp ấy có thể chiêu cảm được các thứ dị thục đáng yêu mến v.v… cho đến dị thục thuận với chánh lý. Đó gọi là đủ kiến.

*

– Như đủ giới và đủ kiến, thì tịnh giới và tịnh kiến nên biết cũng như vậy.

*

– Lại có 2 pháp: 1. Thấy (Nhận thức) đúng. 2. Như lý thù thắng.

1. Thế nào là thấy đúng?

Đáp: Là dựa nơi xuất ly, xa lìa là pháp thiện, đối với các pháp cần lựa chọn nên lựa chọn tận cùng, lựa chọn tột bậc, nhân đấy đã hiểu rõ, cùng hiểu rõ, hiểu gần, hiểu khắp, trí sáng nơi cơ duyên thông đạt thẩm xét thấu suốt, tuệ nhận biết rõ hành Tỳ-bát-xá-na. Đó gọi là thấy đúng.

2.Thế nào là như lý thù thắng?

Đáp: Nghĩa là như có Bí-sô theo như chỗ thấy biết của mình, hoặc do hình tướng của các hành như thế, nên chánh kiến của thế gian chưa sinh liền sinh. Vị ấy liền suy xét như lý về hình tướng của các hành như thế, nhân đấy nên khiến Thánh đạo dấy khởi cùng dấy khởi, phát sinh cùng phát sinh, chuyển đổi hiện chuyển đổi, tu tập xuất hiện. Đó gọi là đạo như lý thù thắng.

Lại nữa, hoặc có Bí-sô theo như chỗ thấy biết của mình, hoặc do hình tướng của các hành như thế, tùy theo một pháp thiện xuất ly, xa lìa chưa sinh liền sinh. Vị ấy liền suy xét như lý về hình tướng của các hành như thế, nhân đấy nên khiến Thánh đạo dấy khởi cùng dấy khởi, phát sinh cùng phát sinh, chuyển đổi hiện chuyển đổi, tu tập xuất hiện. Đó gọi là đạo như lý thù thắng.

Hai thứ như thế gọi chung là như lý thù thắng.

*

* Lại có 2 pháp: 1. Chán lìa đúng. 2. Như lý thù thắng.

1. Thế nào là chán lìa đúng?

Đáp: Nghĩa là dựa vào bốn thứ pháp của xứ thuận theo chán, sinh khởi chán lìa. Đó gọi là chán lìa đúng.

2. Thế nào là như lý thù thắng?

Đáp: Nghĩa là do chánh tư duy dẫn đến việc sinh ra Thánh đạo.

Bốn pháp của xứ thuận theo chán lìa là gì? Đó là: a. Pháp của xứ do tự suy tổn thuận theo chán lìa. b. Pháp của xứ do người khác suy tổn thuận theo chán lìa. c. Pháp của xứ do tự hưng thịnh thuận theo chán lìa. d. Pháp của xứ do người khác hưng thịnh thuận theo chán lìa.

Dựa vào pháp của xứ do tự suy tổn thuận theo chán lìa, sinh khởi chán lìa như lý thù thắng: Là như có một loại hữu tình theo chỗ quán thấy: Tự thân làm ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ điều ác, cuối cùng đã tạo quá nhiều việc ác, nên suy nghĩ: Ta nhân nơi phóng dật, nương vào phóng dật, trụ nơi phóng dật, do phóng dật nên gây tạo nhiều thứ ác như thế. Ta nay nên khiến cho các pháp ác bất thiện chưa sinh thì không sinh, đã sinh ra thì đoạn dứt hẳn. Người ấy do dũng mãnh xuất ly như thế, dẫn đến sinh chán lìa. Đó gọi là chán lìa. Đã sinh chán lìa rồi thì tư duy đúng như lý, lại khiến cho Thánh đạo dấy khởi cùng dấy khởi, phát sinh cùng phát sinh, chuyển biến cùng hiện chuyển, tu tập xuất hiện. Đó gọi là đạo như lý thù thắng. Như thế gọi là dựa vào pháp của xứ do tự suy tổn sinh khởi chán lìa như lý thù thắng.

Dựa vào pháp của xứ do người khác suy tổn thuận theo chán lìa, sinh khởi chán lìa như lý thù thắng: Là như có một loại hữu tình theo chỗ quán thấy người khác thân làm ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ điều ác, cuối cùng đã tạo quá nhiều việc ác, nên suy nghĩ: Người kia nhân nơi phóng dật, nương vào phóng dật, trụ nơi phóng dật, do phóng dật nên tạo các thứ xấu ác đó. Ta nay nên khiến các pháp ác bất thiện kia nếu chưa sinh thì không sinh, đã sinh ra thì đoạn dứt hẳn. Người kia do dũng mãnh xuất ly như thế, nên dẫn đến sinh ra chán lìa. Đó gọi là chán lìa. Đã sinh chán lìa rồi thì tư duy đúng như lý, lại khiến cho Thánh đạo dấy khởi cùng dấy khởi, phát sinh cùng phát sinh, chuyển biến cùng hiện chuyển, tu tập xuất hiện. Đó gọi là đạo như lý thù thắng. Như thế gọi là dựa vào pháp của xứ do người khác suy tổn sinh khởi chán lìa như lý thù thắng.

Dựa vào pháp của xứ do tự hưng thịnh thuận theo chán lìa, sinh khởi chán lìa như lý thù thắng: Là như có một loại hữu tình theo chỗ quán thấy tự thân làm điều tốt, miệng nói lời tốt, ý nghĩ điều tốt, cuối cùng đã được đầy đủ thuần thục tăng trưởng, nên suy nghĩ: Ta nhân nơi không phóng dật, nương nơi không phóng dật, trụ nơi không phóng dật, do không phóng dật nên đã tạo được các điều thiện ấy. Nay ta nên khiến các pháp thắng thiện nếu chưa sinh thì sinh, đã sinh rồi thì càng thêm gấp bội. Người ấy do dũng mãnh xuất ly như thế nên sinh ra chán lìa. Đó gọi là chán lìa. Đã sinh chán lìa rồi thì tư duy đúng như lý, lại khiến Thánh đạo dấy khởi cùng dấy khởi, phát sinh cùng phát sinh, chuyển biến cùng hiện chuyển, tu tập xuất hiện. Đó gọi là đạo như lý thù thắng. Như thế gọi là dựa vào pháp của xứ do tự hưng thịnh sinh khởi chán lìa như lý thù thắng.

Dựa vào pháp của xứ do người khác hưng thịnh thuận theo chán lìa, sinh khởi chán lìa như lý thù thắng: Là như có một loại hữu tình theo chỗ quán thấy người khác thân làm điều tốt, miệng nói lời tốt, ý nghĩ điều tốt, cuối cùng đã được đầy đủ thuần thục tăng trưởng, nên suy nghĩ: Người kia nhân nơi không phóng dật, nương nơi không phóng dật, trụ nơi không phóng dật, do không phóng dật nên đã tạo được các điều thiện ấy. Ta nay nên khiến các pháp thắng thiện, nếu chưa sinh thì sinh, đã sinh thì càng thêm gấp bội. Người kia do dũng mãnh xuất ly như thế nên dẫn đến sinh ra chán lìa. Đó gọi là chán lìa. Đã sinh chán lìa rồi thì tư duy đúng như lý, lại khiến Thánh đạo dấy khởi cùng dấy khởi, phát sinh cùng phát sinh, chuyển biến cùng hiện chuyển, tu tập xuất hiện. Đó gọi là đạo như lý thù thắng. Như thế gọi là dựa vào pháp của xứ do người khác hưng thịnh sinh khởi chán lìa như lý thù thắng.

*

* Lại có 2 pháp: 1. Đối với pháp thiện không sinh biết đủ. 2. Đối với pháp đoạn trừ không ngăn cản.

1. Thế nào là đối với pháp thiện không sinh biết đủ?

Đáp: Đối với pháp thiện sinh biết đủ: Là như có một loại hữu tình chỉ mới được một ít giới liền sinh biết đủ, chỉ giữ được ít điều cấm liền sinh biết đủ, chỉ mới lìa dục liền sinh biết đủ, chỉ mới được pháp quán bất tịnh liền sinh biết đủ, chỉ mới được pháp trì tức niệm (Quán sổ tức) liền sinh biết đủ. Hoặc chỉ mới được tĩnh lự thứ nhất cho đến tĩnh lự thứ tư liền sinh biết đủ. Hoặc chỉ mới được Từ vô lượng cho đến Xả vô lượng liền sinh biết đủ. Hoặc chỉ mới được định xứ Không vô biên cho đến định xứ Phi tưởng phi phi tưởng liền sinh biết đủ. Hoặc chỉ mới chứng được quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất hoàn, liền sinh biết đủ. Hoặc chỉ mới được Thần cảnh thông chứng trí, Thiên nhĩ thông chứng trí, Tha tâm thông chứng trí, Túc trụ tùy niệm thông chứng trí, Tử sinh thông chứng trí, liền sinh biết đủ. Đó gọi là đối với pháp thiện sinh biết đủ.

Đối với pháp thiện không sinh biết đủ: Là như có một loại hữu tình không phải chỉ được một ít giới liền sinh biết đủ, nói rộng cho đến không phải chỉ được Tử sinh thông chứng trí liền sinh biết đủ. Người ấy suy nghĩ: Ta tu các pháp thiện, cho đến khi chưa chứng được quả A-la-hán, trong suốt thời gian ấy trọn không nên sinh biết đủ. Đó gọi là đối với pháp thiện không sinh biết đủ.

2. Thế nào là đối với pháp đoạn trừ không ngăn cản?

Đáp: Đối với pháp đoạn trừ đã ngăn cản: Là như có một loại hữu tình, vì nhằm đoạn trừ pháp bất thiện, vì nhằm làm viên mãn pháp thiện, nên tinh tấn dũng mãnh, hết lòng yêu thích, siêng năng tu tập không dừng, khởi suy nghĩ: Làm thế nào để khiến ta mau chóng chứng được các pháp thiện như lý? Người ấy như thế lại càng tinh tấn dũng mãnh, hết lòng yêu thích siêng năng tu tập, khi ấy vẫn chưa thể chứng được các pháp thiện như lý, liền khởi suy nghĩ: Ta đã tu pháp đoạn trừ thật là uổng phí công sức, không quả, không lợi, vô nghĩa, vô vị, vô ích. Do đó người ấy đối với pháp đoạn trừ cho là không có thắng lợi, liền sinh chán nản, chê bai hủy báng. Như thế gọi là đối với pháp đoạn trừ đã ngăn cản.

Lại có một loại hữu tình vì nhằm đoạn trừ pháp bất thiện, vì nhằm làm viên mãn pháp thiện, nên tinh tấn dũng mãnh, hết lòng yêu thích, siêng năng tu tập không dừng, khởi suy nghĩ: Làm thế nào để khiến ta mau chóng chứng được các pháp thiện như lý? Người ấy như thế lại càng tinh tấn dũng mãnh, hết lòng yêu thích siêng năng tu tập, khi ấy vẫn chưa thể chứng được các pháp thiện như lý, hoặc đã chứng được nhưng không nhận biết, liền khởi suy nghĩ: Ta đã tu pháp đoạn trừ thật là uổng phí công sức, không quả, không lợi, vô nghĩa, vô vị, vô ích. Do đó người ấy đối với pháp đoạn trừ cho là không có thắng lợi, liền sinh chán nản, chê bai hủy báng. Như thế cũng gọi là đối với pháp đoạn trừ đã ngăn cản.

Đối với pháp đoạn trừ không ngăn cản: Là như có một loại hữu tình, vì nhằm đoạn trừ pháp bất thiện, vì nhằm làm viên mãn pháp thiện, nên tinh tấn dũng mãnh, hết lòng yêu thích, siêng năng tu tập không dừng, khởi suy nghĩ: Làm thế nào để khiến ta mau chóng chứng được các pháp thiện như lý? Người ấy như thế lại càng tinh tấn dũng mãnh, hết lòng yêu thích, siêng năng tu tập, khi ấy vẫn chưa thể chứng được các pháp thiện như lý, liền khởi suy nghĩ: Như Đức Thế Tôn đã nói: Không điều gì là không nên nghe theo. Các hàng thiện nam siêng năng tu tập chánh hạnh, nhưng không chứng được các pháp thiện như lý, là do việc tu tập chánh hạnh của mình chưa được đầy đủ, thế nên chưa chứng được các pháp thiện như lý. Vì vậy việc tu tập pháp đoạn trừ của mình không hề uổng phí công sức, nhất định có quả, có lợi, có nghĩa, có vị, có ích. Do đó người ấy đối với pháp đoạn trừ nhận biết có thắng lợi, nên không sinh chán nản, chê bai hủy báng. Đó gọi là đối với pháp đoạn trừ không ngăn cản.

Lại có một loại hữu tình, vì nhằm đoạn trừ pháp bất thiện, vì nhằm làm viên mãn pháp thiện, nên tinh tấn dũng mãnh, hết lòng yêu thích, siêng năng tu tập không dừng, khởi suy nghĩ: Làm thế nào để khiến ta mau chóng chứng được các pháp thiện như lý? Người ấy như thế lại càng tinh tấn dũng mãnh, hết lòng yêu thích, siêng năng tu tập, khi ấy vẫn chưa thể chứng được các pháp thiện như lý, hoặc tuy đã chứng được nhưng không nhận biết, liền khởi suy nghĩ: Như Đức Thế Tôn đã nói: Không điều gì là không nên nghe theo. Các hàng thiện nam siêng năng tu tập chánh hạnh, nhưng không chứng được các pháp thiện như lý, là do việc tu tập chánh hạnh của mình chưa được đầy đủ, thế nên chưa chứng được các pháp thiện như lý. Vì vậy việc tu tập pháp đoạn trừ của mình không hề uổng phí công sức, nhất định có quả, có lợi, có nghĩa, có vị, có ích. Do đó người ấy đối với pháp đoạn trừ nhận biết có thắng lợi, nên không sinh chán nản, chê bai hủy báng. Đó gọi là đối với pháp đoạn trừ không ngăn cản.

Lại có một loại hữu tình, vì nhằm đoạn trừ pháp bất thiện, vì nhằm làm viên mãn pháp thiện, nên tinh tấn dũng mãnh, hết lòng yêu thích, siêng năng tu tập không dừng, khởi suy nghĩ: Làm thế nào để khiến ta mau chóng chứng được các pháp thiện như lý. Người ấy như thế lại càng tinh tấn dũng mãnh, hết lòng yêu thích, siêng năng tu tập, bấy giờ bèn có thể chứng được các pháp thiện như lý, liền khởi suy nghĩ: Nhất định việc tu tập pháp đoạn trừ của ta không hề uổng phí công sức, vì có quả, có lợi, có nghĩa, có vị, có ích. Do đó người ấy đối với pháp đoạn trừ nhận biết có thắng lợi, nên không sinh chán nản, chê bai hủy báng. Đó gọi là đối với pháp đoạn trừ không ngăn cản.

HẾT – QUYỂN 2