LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 9
Phẩm thứ 3: BIỆN VỀ SAI BIỆT, phần 5
Đã biện về tướng của nhân năng tác. Tướng của nhân câu hữu thì thế nào? Tụng nêu:
Câu hữu: Một pháp quả
Như đại tướng sở tướng
Tâm tâm đều tùy chuyển.
Luận nói: Nếu pháp hữu vi đồng đạt được một quả, thì có thể nói đấy là nhân câu hữu. Do sức của pháp kia đã hỗ trợ đạt được một quả. Tướng của nhân ấy là thế nào?
Như bốn đại chủng, lại hỗ tương đối chiếu nhau làm nhân câu hữu. Tuy có Thể tăng, Thể không tăng, mà đều ba và một lại cùng làm nhân, vì tự thể không nên đối đãi với tự thể, cũng không nên đối đãi với thể của đồng loại. Nên mỗi mỗi đại chủng chỉ đối đãi với ba đại chủng còn lại. Chủ yếu là bốn đại chủng nơi dị loại đã hòa tập mới có công năng sinh sắc được tạo.
Các tướng như thế cùng với pháp của đối tượng hiện tướng, tâm cùng với tâm tùy chuyển cũng đều hỗ tương làm nhân. Nói v.v… (Nơi câu tụng thứ ba) là làm rõ các tâm tùy chuyển và các chủ thể hiện tướng cũng hỗ tương làm nhân. Đây tức là nhân câu hữu, do được một quả gồm thâu khắp pháp hữu vi, như đối tượng ứng hợp của chúng.
Tuy nhiên, trong Bản luận từng không thấy nói tâm tùy chuyển, sắc cùng với tâm làm nhân. Ở đây nên biện về ý của người tạo luận. Nay tôi đã thấy ý của luận kia: Nếu pháp cùng với tâm quyết định đều cùng khởi, hiện có khắp tất cả tâm, dựa vào tâm mà chuyển, tức nói pháp kia cùng với tâm của đối tượng nương dựa, lần lượt đối chiếu nhau làm nhân câu hữu. Các tâm sở pháp không phải nhất định đều cùng khởi, vì hoặc ít, hoặc nhiều, hiện có thể đạt được. Thân nghiệp, ngữ nghiệp, không phải hiện có khắp các tâm, vì tâm bất định đều cùng hoàn toàn không có. Các tướng như sinh v.v… đều dựa vào tâm chuyển, không phải hỗ tương nương dựa. Pháp là đứng đầu, sinh, trụ, dị, diệt đều cùng tương trợ. Do đấy, không nói pháp kia cùng làm nhân. Lại, ở đây vì muốn hiển bày chỉ rõ, nên chỉ nói dị loại làm nhân câu hữu, nghĩa đồng loại cùng làm nhân, không nói mà thành. Lại, vì chỉ rõ có thân, ngữ nghiệp chỉ dựa vào tâm, không dựa nơi biểu nên không nói nghiệp kia cùng với tâm làm nhân. Lại, ý nghĩa sâu xa của Đại đức kia là khó hiểu rõ. Các người có trí nên lại tìm xét. Nhưng ở trong đây có người tạo ra chấp này: Chỉ tâm cùng với sắc làm nhân câu hữu, không phải sắc cùng với tâm dựa vào tâm chuyển. Như vua quan, lý hơn không nhân nơi kém. Dụ này là không đúng, vì cũng hỗ trợ nhau, nên tâm tùy nơi pháp chuyển. Thể của nó là thế nào? Tụng nêu:
Tâm sở: Hai luật nghi
Kia cùng các tướng tâm
Là pháp tâm tùy chuyển.
Luận nói: Tĩnh lự vô lậu, hai thứ luật nghi của tất cả tâm sở, pháp kia cùng với các tướng như sinh v.v… của tâm. Như thế đều gọi là pháp của tâm tùy chuyển.
Do đâu tâm tùy theo tướng, không phải là pháp của tâm tùy chuyển?
Do tùy theo tướng nơi tâm, không phải là nhân câu hữu.
Do đâu tâm tùy theo tướng, không phải là nhân câu hữu của tâm?
Vì không do sức của nhân kia mà tâm được sinh, nên tâm kia đối với một pháp là có công năng. Lại vì cùng với tâm vương không phải là một quả, nên nhiều phần trong tụ không phải là quả của tâm vương kia.
Nếu như vậy thì vì sao tâm có thể cùng với tâm sở kia làm nhân câu hữu?
Do các phần vị tâm sở kia đã tùy theo tâm vương sinh khởi cùng được chuyển.
Há không nên như đại chủng sinh v.v…, tâm cũng dùng đại chủng kia làm nhân câu hữu? Nghĩa là như sắc được tạo không phải là quả như sinh v.v… Sinh v.v… không phải là không cùng với các đại chủng làm nhân câu hữu. Ở đây cũng nên như vậy.
Chỗ so sánh như thế, về lý là không cân xứng. Vì lần lượt là quả một, quả nhiều, vì không phải là quả kia, nên không phải các sắc tạo là các đại chủng. Lần lượt trong quả là thuộc về một quả. Đâu cùng có sắc được tạo, không phải là quả như sinh v.v… của các đại chủng. Nên so sánh này là sai lầm. Lại như ở trước đã nói.
Trước đã nói như thế nào?
Vì không do sức của nhân kia, tâm được sinh. Nhưng các đại chủng cùng với tướng như sinh v v.v…, vì lần lượt có sức sinh, nên không có lỗi ấy.
Do đâu pháp này gọi là tâm tùy chuyển? Tụng nêu:
Do thời gian, quả thiện v.v…
Luận nói: Lược nói do mười thứ duyên như thời gian, quả v.v…, thiện v.v…, nên gọi là tâm tùy chuyển. Lại do thời gian: Nghĩa là thời gian này cùng với tâm là một sinh, trụ, diệt và rơi vào trong một đời. Do quả v.v… Nghĩa là quả này cùng với tâm là một đẳng lưu cùng một dị thục của quả. Do thiện v.v… Nghĩa là thiện này cùng với tâm là đồng với tánh thiện, bất thiện, vô ký.
Há không phải chỉ nói một sinh, trụ, dị, diệt, tức nhận biết cũng là rơi vào trong một đời? Tuy cũng tức nhận biết rơi vào nơi một đời nhưng cũng chưa rõ.
Pháp này cùng với tâm quá khứ, vị lai cũng không lìa nhau. Hoặc vì chỉ rõ các pháp không sinh, nên lại nói câu: Và rơi vào trong một đời.
Nếu như vậy chỉ nên nói rơi vào một đời. Không như vậy tức nên không khiến nhận biết nhất định rơi vào một đời.
Há không phải là đẳng lưu dị thục cũng là thuộc về một quả? Vì sao ngoài một quả nói đẳng lưu, dị thục?
Thật như vậy. Trong đây nói một quả nghĩa là chỉ gồm thâu quả sĩ dụng và quả ly hệ.
Há không phải lời nói này là chung, nên cũng gồm thâu đẳng lưu, dị thục?
Tuy nói cũng gồm thâu nhưng không phải là đối tượng biện minh ở đây. Tuy nhiên quả sĩ dụng gồm có bốn thứ: (1) Câu sinh. (2) Vô gián. (3) Cách vượt. (4) Không sinh.
Ở đây là làm rõ cùng với nhân không phải đều cùng có quả. Vì để ngăn chận chỉ chấp quả cùng với nhân đều cùng sinh, trong tụ hòa hợp có quả sĩ dụng, vì tụ hòa hợp này đều cùng làm quả, vì tự không phải là quả sĩ dụng của tự thể. Tức hiện bày không phải nhân kia đều cùng khởi hòa hợp với quả sĩ dụng, trong ấy có nghĩa của một quả.
Thế nên chỉ nêu riêng đẳng lưu, dị thục, nên biết trong đây thời gian một, quả một được hiển bày là đều cùng làm rõ cùng với nghĩa kia có khác. Tâm vương trong đây ít nhất là cũng cùng với năm mươi tám pháp làm nhân câu hữu. Nghĩa là mười pháp đại địa, tâm của bốn mươi tướng gốc kia, tám tướng tùy thuộc của tướng gốc, gọi là năm mươi tám pháp.
Trong năm mươi tám pháp, trừ bốn tướng tùy thuộc của tâm, năm mươi bốn pháp còn lại làm nhân câu hữu của tâm.
Có Sư khác nói: Trong năm mươi tám pháp, thì có thể làm nhân của tâm, chỉ có mười bốn pháp. Nghĩa là mười pháp đại địa và bốn tướng gốc của tâm. Không phải sức của các tướng như sinh v.v… của các tâm sở có thể làm nhân của tâm, như tướng tùy thuộc của tâm.
Nếu như vậy là trái với Luận Phẩm Loại Túc. Như Luận kia nói: Hoặc có khổ đế dùng hữu thân kiến làm nhân, không phải cùng với hữu thân kiến làm nhân, trừ hữu thân kiến ở vị lai và pháp tương ưng của hữu thân kiến kia cùng sinh, lão, trụ, vô thường, còn lại là các khổ đế nhiễm ô. Hoặc có khổ đế dùng hữu thân kiến làm nhân cũng cùng với hữu thân kiến làm nhân. Tức các pháp còn lại. Thuyết kia nói thế này: Chúng ta không tụng đọc cùng pháp tương ưng kia chỉ nên tùy thuận nghĩa lý, phân biệt lựa chọn văn của luận mới có thể trì tụng. Khác với đây tức là hủy hoại tướng của nhân câu hữu. Hoặc nên thừa nhận tướng tùy thuộc cũng là nhân câu hữu của tâm.
Lại có thuyết cho: Tất cả tụ đồng đều hỗ tương đối chiếu làm nhân câu hữu. Ở trong tụ đồng, theo đấy thiếu một thứ, thì các pháp còn lại đều không sinh.
Trong các thuyết này, thì thuyết đầu là tốt. Vì tướng gốc so với pháp, thì sức của chúng là như nhau. Lại, trong tụ hòa hợp đều cùng khởi này, có khi là chủ thể chuyển mà không phải là tùy chuyển. Nghĩa là tức tâm vương. Có khi chỉ là tùy chuyển mà không phải là chủ thể chuyển. Nghĩa là sắc và tâm bất tương ưng hành. Có khi là chủ thể chuyển cũng là tùy chuyển. Nghĩa là tâm sở pháp tùy tâm chuyển, nên chủ thể chuyển là tâm bất tương ưng hành. Có khi cả hai đều cùng là không. Nghĩa là trừ tướng nêu trước.
Đã biện về tướng của nhân câu hữu. Tướng của nhân đồng loại là thế nào? Tụng nêu:
Nhân đồng loại tương tợ
Tự bộ địa sinh trước
Đạo lần lượt chín địa
Chỉ bằng hơn làm quả
Gia hạnh sinh cũng vậy
Do văn, tư tạo thành.
Luận nói: Có thể nuôi dưỡng, có thể sinh khởi, các quả đẳng lưu hoặc xa, hoặc gần, gọi là nhân đồng loại. Nên biết nhân này chỉ là pháp tương tợ. Đối với pháp tương tợ không phải ở nơi dị loại. Như năm uẩn thiện cùng với năm uẩn thiện lần lượt đối chiếu nhau làm nhân đồng loại. Nhiễm ô, vô ký nên biết cũng như vậy.
Có Sư khác nói: Uẩn vô ký tịnh, có năm là quả của sắc, có bốn không phải là nhân của sắc, vì tánh thấp kém.
Có Sư khác cho: Năm uẩn là quả của bốn uẩn, sắc không phải là nhân của bốn uẩn, vì lực yếu kém.
Có Sư khác nêu: Sắc cùng với bốn uẩn lần lượt đối chiếu nhau, đều không làm nhân, vì dị loại yếu kém. Nếu căn cứ theo phần vị để nói, như có Sư khác cho: Vị Yết-lạt-lam có thể cùng với một vị làm nhân đồng loại. Chín vị như Át-bộ-đàm v.v…, mỗi mỗi vị đều trừ vị trước, cùng với các vị còn lại làm nhân. Vị sau đối vị trước chỉ có nghĩa duyên.
Nếu như vậy thì sắc của Yết-lạt-lam đầu tiên tức nên không có nhân. Sắc của lão sau cùng tức nên không có quả. Nên về lý là không đúng.
Lại có Sư nói: Mười vị sinh trước, mỗi mỗi vị đều cùng với mười vị sinh sau, đều dùng sắc của tự loại làm nhân đồng loại.
Do nơi lãnh vực này, tức tất cả phần ngoài đều làm rõ về tự loại, như chỗ ứng hợp sẽ nói. Vì các thứ tương tợ ở nơi pháp tương tợ, đều có thể được nói là nhân đồng loại. Không phải như vậy. Thế nào là tự bộ, tự địa? Vì chỉ cùng với tự bộ, tự địa làm nhân, thế nên nói là tự bộ, tự địa.
Bộ, nghĩa là năm bộ, tức là do kiến khổ đoạn, cho đến do tu đạo đoạn. Địa tức là chín địa. Nghĩa là cõi dục là một cùng tám tĩnh lự, vô sắc. Trong đây, pháp của cõi dục do kiến khổ đoạn trở lại cùng với pháp của cõi dục do kiến khổ đoạn làm nhân đồng loại. Như thế, cho đến pháp của cõi dục do tu đạo đoạn trở lại cùng với pháp của cõi dục do tu đạo đoạn làm nhân đồng loại. Như nói: Năm bộ của cõi dục đã đoạn. Tĩnh lự vô sắc đều ở trong bốn địa, tùy theo đối tượng ứng hợp của chúng, đều nêu dẫn như thế. Đây là tất cả. Không như vậy, thì sinh trước nghĩa là chỉ sinh trước cùng với pháp sinh tương tợ sau chưa sinh làm nhân đồng loại. Đây gọi là tướng của nhân đồng loại viên mãn. Nếu chỉ nói sinh trước cùng với quả sinh sau làm nhân đồng loại, thì đối với nghĩa là thiếu, vì không nói cùng với pháp chưa sinh làm nhân đồng loại. Nên chỉ nói quá khứ cùng với vị lai, hiện tại làm nhân đồng loại, tức về nghĩa cũng thiếu, vì không nói quá khứ có nhân quả.
Vì sao vị lai không có nhân đồng loại?
Thuyết kia nói vì không có nghĩa thứ lớp trước sau. Há không phải là các pháp ở vào lúc đang sinh đã có thể trừ bỏ tất cả chướng ngại, đối với pháp chưa sinh được nói là trước? Lại, nhân dị thục ở nơi đời vị lai cũng nên không phải có, do quả dị thục đối chiếu với nhân dị thục không đều cùng có trước.
Chủ yếu phải dựa vào trước sau để lập nhân đồng loại, không phải khi đang sinh đã vượt qua phần vị sau, vì chưa có tác dụng, như vị lai còn lại. Quá khứ chỉ là trước, vị lai chỉ là sau, hiện tại thì chung cho trước sau. Vì căn cứ theo đời nhất định. Các pháp quá khứ tuy đều là ở trước, nhưng khi nhận lấy quả, đã định rõ trước sau. Không phải pháp vị lai ở vào lúc đang sinh, vì tác dụng riêng, nên pháp còn lại có thể lập trước sau. Chủ yếu đến hiện tại, trong phần vị đã sinh, mới phân biệt là vị lai, khiến thành phần vị sau, dùng tác dụng của mình để nhận lấy vị lai kia làm quả.
Nếu như vậy thì nhân dị thục cũng chớ cho là nơi vị lai có đây kia không phải là giống nhau. Vì sao? Vì nhân đồng loại này so với quả đẳng lưu thiện v.v… không có riêng khác.
Nếu không có trước sau thì nên đều cùng làm nhân. Đã đều cùng làm nhân, tức nên đều cùng làm quả. Đều cùng làm nhân quả thì so với lý là trái nhau. Đã không có lý có thể ngăn chận đều cùng làm quả, thì nên thừa nhận có quả ở trước nhân. Cũng có nghĩa hai tâm đều cùng làm nhân. Đây tức là trái hại với văn của Luận Phát Trí v.v… Vì nhân dị thục kia so với quả là cùng riêng khác. Tuy lìa bỏ trước sau, nhưng không có lỗi trên. Vì thế nhân đồng loại, căn cứ theo phần vị để kiến lập thì vị lai không có. Nếu nhân dị thục thì căn cứ theo tướng để kiến lập thì vị lai không phải là không có.
Nói nhân đồng loại chỉ ở nơi tự địa, thì định dựa vào gì để nêu bày?
Định dựa vào hữu lậu.
Nếu đạo vô lậu lần lượt cùng đối chiếu, mỗi mỗi đều cùng với chín đại làm nhân. Nghĩa là bốn tĩnh lự và ba vô sắc, cùng vị chí, trung gian. Đây gọi là chín địa. Số còn lại không có đẳng dẫn, cùng không phải mạnh mẽ, nhanh nhẹn. Nên đều không thể phát khởi Thánh đạo vô lậu.
Chín địa vô lậu đều cùng làm nhân, không phải là địa hệ thuộc, nên đều là địa riêng, yêu mến không chấp Thánh đạo, vì mình có, vì chủng loại là đồng. Địa tuy có riêng, cũng cùng làm nhân, nhưng không phải là tất cả.
Vì sao chỉ cùng với bằng nhau và hơn làm nhân?
Vì từ gia hạnh sinh, Thánh đạo của định đầu có khi dựa vào định đầu. Cho đến có khi dựa vào vô sở hữu xứ. Đạo của hai định v.v… nên biết cũng như vậy.
Đối với tự địa dựa vào địa trên là có, dựa vào địa dưới thì không có. Nghĩa là dựa vào định đầu, theo Thánh đạo của định đầu cùng với Thánh đạo của chín địa dựa vào chín định làm nhân đồng loại. Tức ở đây chỉ dùng dựa vào đạo của định đầu làm nhân đồng loại, không dùng dựa vào Thánh đạo của địa trên làm nhân, do tánh thua kém. Dựa vào Thánh đạo của định đầu nơi định thứ hai, trừ dựa vào định đầu, cùng với dựa vào Thánh đạo của chín địa nơi định khác làm nhân đồng loại. Tức ở đây chỉ dùng dựa vào Thánh đạo của chín địa nơi hai định đầu làm nhân đồng loại, không phải dựa vào địa trên. Dựa vào Thánh đạo của định đầu nơi định thứ ba, trừ dựa vào hai định đầu, cùng với dựa vào Thánh đạo của chín địa nơi định khác làm nhân đồng loại. Tức ở nơi chỉ dùng dựa vào Thánh đạo của chín địa nơi định một, hai, ba làm nhân đồng loại, không phải dựa vào địa trên. Cho đến nếu dựa vào Thánh đạo của định đầu nơi vô sở hữu xứ, chỉ cùng với Thánh đạo của chín địa nơi vô sở hữu xứ này làm nhân đồng loại. Tức ở nơi đã dùng chung dựa vào Thánh đạo của chín địa nơi định của chín địa làm nhân đồng loại. Như dựa vào Thánh đạo của định đầu nơi chín định, thì Thánh đạo của định còn lại dựa nơi chín địa, tùy theo đối tượng ứng hợp nên xét chọn rộng.
Lại, một địa gồm thâu các đạo vô lậu, cũng không phải tất cả làm tất cả nhân, vì nhân bằng nhau và hơn, không phải là nhân thua kém. Lại như đã sinh khổ pháp trí nhẫn, trở lại cùng với khổ pháp trí nhẫn ở vị lai làm nhân đồng loại. Đây gọi là bằng nhau. Lại, tức nhẫn này lại có thể cùng với phần sau, từ khổ pháp trí đến vô sinh trí làm nhân đồng loại, đây gọi là hơn.
Như thế nói rộng, cho đến đã sinh các vô sinh trí, chỉ cùng với loại bằng nhau làm nhân đồng loại, vì không có loại vượt hơn. Lại, các thứ kiến đạo, tu đạo và vô học đạo đã sinh, tùy theo thứ lớp của chúng, cùng với ba, hai, một đạo làm nhân đồng loại. Lần lượt làm nhân cùng không trái với lý. Nhưng không phải đạo hơn cùng với đạo kém làm nhân. Chủng tánh của độn căn đời trước, do tu đạo, cùng với chủng tánh của lợi căn nơi tự cùng nối tiếp ở vị lai quyết định không sinh, do kiến đạo, làm nhân đồng loại, thì lý nào làm trở ngại.
Tất cả hữu tình đều có phần cùng nối tiếp riêng khác.
Pháp như thế nên đã an lập sáu thứ chủng tánh. Vô học đối với trước, nên biết cũng như vậy. Nhưng có sai biệt: Nghĩa là có Thánh đạo vô lậu sinh trước, đối với phần tự cùng nối tiếp nơi tu đạo sinh sau làm nhân đồng loại.
Vô học thoái chuyển xong, ở trong tu đạo có thể có nghĩa chuyển sinh lợi căn, nhưng không trái hại với căn uẩn đã nói, vì dựa vào căn của phẩm đồng mật ý nói. Lại dựa vào căn hiện khởi có tác dụng để nói. Như nói hiện khởi pháp thế đệ nhất.
Nếu như vậy thì tất cả hữu tình là cùng nối tiếp, pháp như thế nên đã an lập Bồ-đề của ba thừa, cũng nên kém làm thừa hơn nhân nơi tánh?
Không có lỗi lầm ấy, vì tánh rất xa, nên thừa kém không thể chuyển thành hơn. Vì Thánh đạo của hai hành tùy tín, tùy pháp, tánh là cùng gần, vì đối tượng nương dựa là một. Nếu như trong kiến đạo, có người xuất quán, thì cũng có thể chuyển, còn Thánh đạo của ba thừa không có sự việc như thế.
Do đấy nên nói: Đạo của các thứ độn căn cùng với độn căn và lợi căn làm nhân đồng loại. Nếu đạo của loại lợi căn thì chỉ làm nhân của đạo lợi căn. Như đạo của tùy tín hành và tín thắng giải, thời giải thoát, tùy theo thứ lớp ấy cùng với sáu, bốn, hai làm nhân đồng loại.
Nếu là đạo của tùy pháp hành và kiến chí, phi thời giải thoát, tùy theo thứ lớp ấy cùng với ba, hai, một làm nhân đồng loại. Ở đây cũng căn cứ theo trước, nên biết là không nhất định. Các đạo của địa trên làm nhân cho địa dưới.
Vì sao gọi là hoặc bằng nhau, hoặc hơn?
Do nhân tăng trưởng và do căn, vì chỉ Thánh đạo chỉ cùng với bằng nhau và hơn làm nhân đồng loại.
Không như thế thì thế nào?
Pháp thế gian khác do gia hạnh sinh, cũng cùng với bằng nhau và hơn làm nhân, không phải là thua kém.
Pháp do gia hạnh sinh, thể ấy là thế nào?
Nghĩa là do văn tạo thành, do tư tạo thành v.v… Vân vân nghĩa là cùng nhận lấy do tu tạo thành. Nhân nơi văn, tư, tu đã sinh công đức, gọi là gia hạnh sinh đã thành do văn, tư, tu kia, chỉ cùng với bằng nhau và hơn làm nhân, không phải là thua kém.
Như pháp do văn tạo thành hệ thuộc cõi dục, có thể cùng với tự cõi do văn, tư, tu tạo thành làm nhân đồng loại. Không phải do tu tạo thành, vì nhân nơi cõi dục không có. Nên pháp do tư thành cùng với tư tạo thành làm nhân đồng loại. Không phải do văn tạo thành, vì nhân dùng văn kia kém.
Nếu pháp do văn tạo thành hệ thuộc cõi sắc, có thể cùng với tự cõi do văn, tu tạo thành làm nhân đồng loại. Không phải do tư tạo thành, vì nhân ở cõi sắc không có. Nên pháp do tu tạo thành chỉ cùng với tự cõi nơi pháp do tu tạo thành làm nhân đồng loại. Không phải do văn tạo thành, vì nhân dùng văn kia kém.
Pháp do tu tạo thành hệ thuộc cõi vô sắc, chỉ cùng với tự cõi nơi pháp do tu tạo thành làm nhân đồng loại. Không phải do văn, tư tạo thành, vì nhân dùng vô sắc nên yếu kém. Các pháp do văn tư tu tạo thành này đều có chín phẩm, nghĩa là phẩm hạ hạ v.v… Nếu phẩm hạ hạ là nhân của chín phẩm, thì phẩm hạ trung là nhân của tám phẩm, cho đến phẩm thượng thượng chỉ là nhân của phẩm thượng thượng, trừ phần kém trước. Pháp thiện sinh đắc cùng với gia hạnh thiện làm nhân đồng loại. Không phải gia hạnh thiện là nhân của sinh đắc, vì gia hạnh kia kém.
Lại, thiện sinh đắc cũng có chín phẩm, tất cả cùng đối chiếu lần lượt làm nhân, vì thâu nhận mỗi mỗi phẩm sau đều hiện tiền, nên nhất định trong một tâm là có được tất cả. Nhưng do chín phẩm dị thục hiện hành, có thể thiết lập chín phẩm có sai biệt. Chín phẩm nhiễm ô căn cứ theo đấy nên biết.
Lại do đối trị nên có chín phẩm. Vô phú vô ký gồm có bốn thứ. Đó là dị thục sinh, đường oai nghi, xứ công xảo và phẩm hóa tâm đều cùng có. Tùy theo thứ lớp ấy, có thể cùng với bốn, ba, hai, một làm nhân.
Có thuyết nói: Tất cả đều cùng làm nhân, vì đồng một trói buộc.
Thuyết này là phi lý, vì chớ cho là có noãn v.v… cùng làm nhân. Lại hóa tâm nơi cõi dục có quả của bốn tĩnh lự. Không phải quả tĩnh lự của địa trên là nhân của quả tĩnh lự nơi địa dưới. Không phải nhân của gia hạnh đạt được quả thấp kém.
Chớ nên thiết lập sự khó nhọc mà không có đối tượng đạt được. Vì loại nghĩa, tướng của nhân đồng loại, thật là nhiều, tùy sức quyết định lựa chọn, như nơi Luận Thuận Chánh Lý.
Đã biện về tướng của nhân đồng loại. Thế nào là tướng của nhân tương ưng?
Tụng nêu:
Nhân tương ưng quyết định
Tâm tâm sở đồng dựa.
Luận nói: Chỉ có tâm tâm sở là nhân tương ưng.
Há không phải là trong đây đã không phân biệt, nên thời, cảnh, hành tướng riêng khác cũng tương ưng?
Nói nếu như phân biệt thì ba pháp này đồng. Là thân khác cùng đồng nhìn xem nên nói là tương ưng. Tức nêu rõ là đồng nương dựa, là nhằm ngăn chận chung vấn nạn này. Nghĩa là chủ yếu đồng dựa nơi tâm tâm sở pháp mới có thể lại cùng làm nhân tương ưng. Trong đây, nói đồng là làm rõ về đối tượng nương dựa là một. Nghĩa là nếu nhãn thức dùng sát-na này, thì nhãn căn làm chỗ dựa. Tương ưng với thọ v.v…, cũng tức dùng nhãn căn này làm chỗ dựa. Cho đến ý thức và pháp tương ưng, đồng dựa nơi ý căn, nên biết cũng như vậy.
Nay nên xét chọn các căn như nhãn, nhĩ v.v…, tánh của đối tượng nương dựa là đồng.
Do đâu nói thức của chủ thể nương dựa kia và đối tượng nương dựa đều khác, thì đâu nhọc công phải nêu câu hỏi?
Đối tượng nương dựa của các thức là dựa nơi tánh tuy đồng, nhưng loại thì riêng khác.
Nếu như vậy thì vì sao nhận biết là đồng nương dựa để nói? Chỉ căn cứ theo nghĩa nương dựa của sát-na câu sinh để nói nhãn thức v.v… là đồng một đối tượng nương dựa. Không phải căn cứ theo nghĩa nương dựa của chủng loại theo thời gian dài để nói các nhãn thức đồng một đối tượng nương dựa. Lại, vì vô gián nương dựa nơi chủng loại là đồng, nên các thức như nhãn v.v… là nhân tương ưng.
Vì thế trong tụng nên phân biệt như vậy. Nghĩa là tâm tâm sở đồng thời, đồng nương dựa. Nên trong phần giải thích kia tự gồm thâu hai nghĩa: Tức là nếu nhãn thức dùng sát-na này thì nhãn căn làm chỗ dựa, cho đến nói rộng.
Trong tụng đã thiếu hai chữ đồng thời. Vì sao biết được nhãn thức này là đồng nương dựa? Nghĩa là không phải một chủng loại là một sát-na.
Nếu cho trong giải thích đã gồm thâu nên không có lỗi, tức nên tụng đã tạo không nói đồng nương dựa, chỉ nói nhân tương ưng quyết định là tâm tâm sở. Lại nói tương ưng là đủ để ngăn chận các vấn nạn: phi thời, dựa vào pháp khác có thể có tương ưng.
Hai nhân câu hữu, tương ưng có dị biệt gì? Lại, pháp của nhân tương ưng cũng là nhân câu hữu.
Có khi pháp của nhân câu hữu không phải là nhân tương ưng. Nghĩa là các hành như sinh v.v… tùy chuyển nơi sắc.
Nếu nhân tương ưng tức là nhân câu hữu, thì ở đây nghĩa hai nhân có sai biệt gì?
Không phải nhân tương ưng tức là nhân câu hữu, do nghĩa của hai nhân này đều dị biệt. Nhưng tức một pháp là nhân tương ưng, cũng là nhân câu hữu, về nghĩa có sai biệt: Nghĩa không lìa nhau là nhân tương ưng. Nghĩa đồng một quả là nhân câu hữu. Lại sức mạnh lần lượt đồng sinh, trụ v.v… là nhân câu hữu. Nếu sức mạnh lần lượt đồng duyên nơi một cảnh là nhân tương ưng. Do cùng làm quả nên lập nhân câu hữu. Do năm thứ bình đẳng nên lập nhân tương ưng, trong đó thiếu một, thì pháp còn lại không có được. Thế nên nghĩa cùng làm nhân là cực thành.
Đã biện về tướng của nhân tương ưng. Tướng của nhân biến hành là thế nào? Tụng nêu:
Biến hành nghĩa khắp trước
Là nhân đồng địa nhiễm.
Luận nói: Nhân biến hành: Nghĩa là trước đã sinh tùy miên biến hành và pháp của phẩm đều cùng có, cùng với các pháp nhiễm ô của tự bộ, tha bộ nơi địa đồng ở sau làm nhân biến hành.
Những gì gọi là pháp của phẩm biến hành?
Trong phẩm tùy miên sẽ phân biệt rộng. Uy lực của nhân này vượt quá uy lực của nhân đồng loại mà chuyển nên kiến lập riêng. Cũng là nhân của pháp nhiễm nơi bộ khác. Do uy lực này nên phiền não của bộ khác và quyến thuộc của chúng cũng sinh trưởng. Tức ở trong tự bộ đã gồm thâu các phiền não.
Hai nhân đồng loại, biến hành có riêng khác gì?
Do hữu thân kiến nên các ái được sinh. Các ái cũng có thể sinh hữu thân kiến. Hai tướng sai biệt vì sao có thể nhận biết? Hai nhân của tự bộ cũng có sai biệt. Nghĩa là vì chấp ngã nên có thể khiến các ái sinh khởi bền chắc, tăng rộng, thêm thịnh. Ngã kiến duyên khắp nơi các cảnh của ái, nên ái khiến cho ngã kiến sinh khởi bền chắc, nhưng không thể khiến tăng rộng, thêm thịnh, không thể duyên khắp nơi cảnh của ngã kiến.
Do các Hoặc hiện khắp lần lượt đối chiếu nhau, đều có thể duyên khắp nơi cảnh của đối tượng duyên. Mỗi mỗi Hoặc hiện khắp đều cùng có thể khiến sinh khởi bền chắc, tăng rộng, thêm thịnh. Nên hai nhân này không phải là không có sai biệt.
Một thời, một phẩm có thể làm đồng loại, biến hành. Vậy hai nhân này có gì sai biệt?
Tuy đồng thời nhận lấy hai quả đẳng lưu, nhưng quả của tự bộ tăng thịnh không phải là thứ khác. Do môn của hai nhân đã nuôi lớn, chỉ sinh tự bộ thì hai nhân có riêng khác gì? Không có nhân biến hành chỉ sinh tự bộ. Nghĩa là pháp biến hành lúc đang hiện tiền, đều cùng thời có sức nhận lấy quả của năm bộ. Đối với quả của tự bộ cũng có sai biệt. Sinh khởi bền chắc là do sức của đồng loại. Tăng rộng, thêm thịnh là do sức của biến hành. Nên biết tùy miên biến hành của quá khứ, hiện tại là nhân của năm bộ, có thể duyên nơi năm bộ, cũng là đối tượng tùy tăng của năm bộ. Pháp tương ưng của năm bộ kia, trừ đối tượng tùy tăng đã sinh khởi v.v…, lại trừ có thể duyên nơi năm bộ, các pháp kia đạt được, không phải là nhân biến hành. Hoặc vì trước sau, vì tánh thưa, xa, vì không phải là một quả. Nên có tùy miên biến hành, không phải là nhân biến hành v.v… Phần còn lại đã quyết định lựa chọn rộng như nơi Luận Thuận Chánh Lý.
Đã biện về tướng của nhân biến hành. Tướng của nhân dị thục thì thế nào? Tụng nêu:
Nhân dị thục bất thiện
Cùng thiện chỉ hữu lậu.
Luận nói: Chỉ các pháp bất thiện và thiện hữu lậu là nhân dị thục. Vì pháp dị thục đã tùy theo đối tượng ứng hợp của chúng. Nhân này có thể chiêu cảm quả dị thục, nên gọi là nhân dị thục.
Trong tụng tiếng cùng (Đầu câu tụng thứ hai) là làm rõ về nhân này cùng với tánh của quả, tướng tuy khác mà phẩm loại không có xen tạp. Nói chỉ là để ngăn chận nghĩa của các nhân thuộc về thể của nhân dị thục.
Có thuyết nói: Các quả đều gọi là dị thục. Nhân dị thục kia cũng nên gồm thâu khắp. Vì e sợ như thuyết kia chấp, nên nói chữ chỉ (Nơi câu tụng thứ hai).
Do đâu nhất định nhận biết chỉ pháp bất thiện và thiện hữu lậu là nhân dị thục? Vì khế kinh nói. Nghĩa là khế kinh nói: Có nghiệp của dị thục đen đen. Có nghiệp của dị thục trắng trắng. Có nghiệp của dị thục đen trắng, đen trắng. Có nghiệp của dị thục không phải đen, không phải trắng, có thể diệt hết các nghiệp. Lại khế kinh nói: Hiện thấy lãnh thọ dị thục của ý vui vẻ. Hoặc lại lãnh thọ dị thục buồn bã, khóc than, do thiện, bất thiện. Lại nói: Ta gặp phải thân nghiệp v.v…
Tổn hại, nghĩa là khổ thọ sinh dị thục thọ khổ. Lại nói: Ta gặp phải thân nghiệp v.v… tăng ích, nghĩa là lạc thọ sinh dị thục thọ lạc. Như đấy v.v… tức chứng biết loại dị thục kia là rất nhiều.
Do đâu vô lậu không chiêu cảm dị thục? Vì không có ái làm thấm nhuần. Như hạt giống giống chắc thật, không được nước thấm ướt. Lại, pháp vô lậu đã không phải hệ thuộc địa, vì sao có thể chiêu cảm dị thục của địa hệ thuộc? Do đâu vô ký không chiêu cảm dị thục?
Do sức yếu kém. Như hạt giống hư mục. Còn lại thiện, bất thiện, tức có thể chiêu cảm dị thục. Như có nước làm thấm ướt các hạt giống chắc thật. Nhân dị thục này nói chung có hai: (1) Khả năng dẫn dắt. (2) Khả năng viên mãn.
Lại chúng đồng phần cùng với mạng căn không phải là hành bất tương ưng, vì riêng đã có thể dẫn dắt, nên khế kinh nói: Nghiệp là nhân sinh. Sinh tức là mạng căn và chúng đồng phần. Sắc, tâm v.v… còn lại không phải nhất định hiện khắp.
Lại, Luận Phẩm Loại Túc nói: Các mạng căn là dị thục của nghiệp, không phải là nghiệp, nên không phải là tâm tùy chuyển nơi hai nghiệp thân ngữ. Cũng không thể dẫn sinh mạng căn, chúng đồng phần.
Kinh nói: Cõi thấp kém do tư nghiệp đã dẫn phát. Nên biết cõi thấp kém tức là dục hữu. Ở đây, nói mạng căn, chúng đồng phần của dục hữu, chỉ do ý nghiệp chiêu cảm, không phải do nghiệp thân ngữ. Biểu nghiệp của thân ngữ có nhiều cực vi. Một tâm đã khởi, chỉ một khả năng dẫn dắt mạng căn, chúng đồng phần. Pháp khác không có khả năng này, vì không hợp lý. Nếu thừa nhận đồng thời chiêu cảm chung một quả, tức nên lại cùng làm nhân câu hữu. Sắc được tạo có đối là nhân câu hữu, không được Tông thừa nhận, vì đây không phải do sức mạnh theo lần lượt sinh ra, cũng không phải là do thứ lớp. Mỗi mỗi cực vi dẫn khởi mạng căn, chúng đồng phần, vì một tâm khởi, không phải là một tâm khởi, vì không có công năng khác dẫn riêng sau sinh, nhưng không có lỗi. Không phải là mãn nghiệp, cũng có lỗi này. Ở trong một đời đều riêng có thể nhận lấy quả viên mãn. Dựa vào vô biểu này cũng đồng với giải thích ấy, phần nhiều xa lìa thể, nên một tâm khởi, không thừa nhận cùng làm nhân câu hữu.
Kinh nói: Sát sinh, hoặc tạo tác, hoặc hành tập, hoặc tạo tác hành tập nhiều tức sinh nơi Na-lạc-ca.
Luận nói: Nghiệp ác phá Tăng, nói dối, chiêu cảm thọ mạng một kiếp ở ngục vô gián. Đây là nêu lên đối tượng phát khởi để làm rõ về chủ thể phát khởi là tư. Tư nghiệp không phải là sắc, nên tướng khó nhận biết. Ở trong cõi dục, có khi một uẩn làm nhân dị thục, chiêu cảm chung một quả. Nghĩa là hữu ký đắc và sinh kia v.v… Có khi hai uẩn làm nhân dị thục, chiêu cảm chung một quả. Nghĩa là sắc thiện, bất thiện và sinh v.v… Có khi bốn uẩn làm nhân dị thục, chiêu cảm chung một quả. Nghĩa là tâm tâm sở pháp thiện, bất thiện và sinh kia v.v… Vì ở cõi dục, không có sắc tùy tâm chuyển, nên không có năm uẩn làm nhân dị thục, chiêu cảm chung một quả. Ở trong cõi sắc, có khi một uẩn làm nhân dị thục, chiêu cảm chung một quả. Nghĩa là hữu ký đắc, đẳng chí, vô tưởng và sinh kia v.v…. Có khi hai uẩn làm nhân dị thục, chiêu cảm chung một quả. Nghĩa là hữu biểu nghiệp thiện của tĩnh lự đầu và sinh kia v.v… Không phải ở nơi tĩnh lự thứ hai trở lên, có các biểu nghiệp, vì không có khả năng khởi. Có khi bốn uẩn làm nhân dị thục, chiêu cảm chung một quả. Nghĩa là các tâm tâm sở pháp thiện và sinh kia v.v… không có sắc tùy chuyển. Có khi năm uẩn làm nhân dị thục, chiêu cảm chung một quả. Nghĩa là các tâm tâm sở pháp và sinh kia v.v… có sắc tùy chuyển. Trong cõi vô sắc, có khi một uẩn làm nhân dị thục, chiêu cảm chung một quả. Nghĩa là hữu ký đắc, đẳng chí, diệt tận và sinh kia v.v… Có khi bốn uẩn làm nhân dị thục, chiêu cảm chung một quả. Nghĩa là tất cả tâm tâm sở pháp thiện.
Như thế gồm có chín nhân dị thục. Nghĩa là trong ba cõi, như số thứ lớp là ba, bốn, hai thứ phẩm loại có sai biệt. Có nghiệp chỉ chiêu cảm dị thục của một xứ. Nghĩa là chiêu cảm pháp xứ tức là mạng căn v.v… Nếu chiêu cảm ý xứ, nhất định chiêu cảm hai xứ, tức là ý cùng với pháp. Nếu chiêu cảm xúc xứ, nên biết cũng có hai, nghĩa là xúc cùng với pháp. Nếu chiêu cảm sắc xứ, nhất định chiêu cảm ba xứ là sắc, xúc, pháp. Nếu chiêu cảm hương, vị, nên biết cũng có ba là tự, xúc, pháp. Nếu chiêu cảm thân xứ, nhất định chiêu cảm bốn xứ là thân, sắc, xúc, pháp. Nếu chiêu cảm nhãn xứ, nhất định chiêu cảm năm xứ là nhãn, thân, sắc, xúc, pháp. Chiêu cảm nhĩ, tỷ, thiệt nên biết cũng chiêu cảm năm: Tự là một cùng thân, sắc, xúc, pháp. Có nghiệp có thể chiêu cảm sáu, bảy, tám, chín, mười, mười một xứ. Vì thanh không phải là dị thục, nên ở đây không luận. Nghiệp hoặc quả ít, hoặc quả nhiều, nên như quả của giống ngoài hoặc ít, hoặc nhiều. Có nghiệp của một niệm chiêu cảm dị thục của nhiều niệm. Không có nghiệp của nhiều niệm chiêu cảm dị thục của một niệm. Chớ nên khó nhọc thiết lập quả do nhân giảm. Có nghiệp của một đời chiêu cảm dị thục của ba đời. Không có nghiệp của hai đời chiêu cảm dị thục của một đời. Chiêu cảm dị thục do uy lực nơi pháp như thế. Thiện ác làm nhân, chiêu cảm vô ký, nhưng quả dị thục không cùng với nghiệp đều cùng có, vì không phải khi tạo nghiệp, tức liền thọ quả.
Lại, quả hiện tại của nghiệp không phải là pháp tức thành thục, vì môn thọ nghiệp, về lý tất quyết định, nên cũng không phải là vô gián. Do sức của đẳng vô gián duyên nơi sát-na tiếp theo. Nên sức đang khởi của sát-na khó chế ngự.
Lại, nhân dị thục chiêu cảm quả dị loại, tất phải chờ đợi phần cùng nối tiếp mới có thể hoàn thành. Phần còn lại quyết định lựa chọn như nơi Luận Thuận Chánh Lý.
Như thế là đã biện về tướng dị biệt của sáu nhân. Ở đây nói về nghĩa quyết định của ba đời là thế nào? Tụng nêu:
Biến hành cùng đồng loại
Hai đời, ba đời ba.
Luận nói: Biến hành, đồng loại chỉ ở nơi đời quá khứ, hiện tại, đời vị lai không có. Lý như trước đã nói.
Ba nhân: Tương ưng, câu hữu, dị thục, ở trong ba đời thảy đều có khắp.
Tụng đã không nói đến nghĩa đã ở của nhân năng tác. Căn cứ theo đấy nên biết là chung cho ba đời và không phải đời, vì không thể nói về thời phần nhất định của nhân kia.
Đã biện về tướng dị biệt của sáu nhân theo đời quyết định. Tất nên đối với quả để kiến lập tên nhân. Những gì gọi là quả đã đối của nhân? Tụng nêu:
Quả hữu vi, ly hệ
Vô vi không nhân quả.
Luận nói: Quả lược có năm, phần sau sẽ biện rộng. Nay chỉ nêu rõ chung về hữu vi ly hệ. Nên Bản luận nói.
Thế nào là pháp của quả?
Nghĩa là các hữu vi cùng với trạch diệt.
Há không phải là trạch diệt đã thừa nhận là quả. Tất nên có nhân, không phải không có nhân mà có thể nói là quả? Vì từng chưa thấy.
Tôi cũng thừa nhận đạo là nhân chứng đắc. Kinh nói: Đây là quả Sa-môn, nên trong sáu nhân này, thì từ nhân nào được? Tôi nói quả Sa-môn này không phải từ sáu nhân, vì trước đã nói về chỗ nhờ dựa của sáu nhân sinh.
Nếu như vậy thì nên thừa nhận nhân chứng đắc này, lìa sáu nhân trước, riêng làm thứ bảy?
Tông của tôi đã thừa nhận như ông đã nói.
Há không phải là ở nơi Tông đã có tụng thế này: Niết-bàn là quả nhưng không có nhân?
Tuy có tụng này, nhưng về nghĩa là không lỗi. Nghĩa là các thế gian đối với sự việc đã hoàn thành được ưa thích, tức thiết lập công dụng, cùng lập tên quả. Chết chóc đối với sĩ phu là điều hết sức suy não, nên đối với không chết thì vô cùng vui thích.
Như thế chỗ vui thích do công dụng của đạo đã chứng đắc, nên gọi là quả.
Nói không có nhân: Là đạo đối với trạch diệt vô vi đã đạt được, không phải là do sáu nhân. Nên trạch diệt đối với đạo, không phải là quả đã sinh mà là quả đã chứng. Đạo đối với trạch diệt, không phải là nhân có thể sinh mà là nhân có thể chứng. Nên đạo cùng với trạch diệt lại cùng đối nhau.
Nhân quả thị phi thì không thể chấp giữ nhất định. Nếu đạo đối với diệt là nhân chứng đắc, tức là chỉ nên cho đắc là quả của đạo. Ai nói quả của đạo nhất định không phải diệt đắc? Đạo đối với diệt đắc là nhân đồng loại, hoặc cũng nói là nhân câu hữu. Nhưng đạo này không phải quả mà Thánh đang mong cầu, vì Thánh không cầu hữu vi để tu Thánh đạo. Nên đạo đối với diệt đắc là nhân có thể sinh. Đạo đối với thể của diệt là nhân có thể chứng.
Đã thừa nhận vô vi là nhân năng tác, tức nên thừa nhận vô vi có quả tăng thượng. Do không chướng ngại nên lập nhân năng tác, vì không phải là có thể sinh, nên không có quả tăng thượng.
Do lý như thế, nên như pháp hữu vi kiến lập nhân quả. Vô vi thì không như vậy. Thế nên trạch diệt là nhân không có quả, là quả không có nhân. Hai vô vi còn lại là nhân không phải quả. Không nhân, không quả, lý ấy là cực thành. Ở đây nên biện về quả dị thục, đẳng lưu, ly hệ, sĩ dụng và tăng thượng.
Năm quả như thế, đối với sáu nhân trước, nên nói là quả nào, do nhân nào đạt được? Tụng nêu:
Nhân sau, quả dị thục
Nhân trước, quả tăng thượng
Đồng loại, biến, đẳng lưu
Câu, tương ưng, sĩ dụng.
Luận nói: Ở trong năm quả thì quả thứ ba là ly hệ, không phải do nhân sinh đạt được, nên ở đây không luận. Lại biện về sáu nhân đạt được bốn quả còn lại.
Nói nhân sau: Nghĩa là nhân dị thục. Ở trong tụng nói về nhân là nói sau cùng. Quả dị thục đầu tiên là do nhân này đạt được.
Có thuyết nói: Dị thục là từ dị thục sinh, nên ở đây không nên gọi là không có dị thục.
Thuyết kia là phi lý, vì nghĩa đã sinh của hai nhân đồng loại, dị thục đều riêng khác. Nghĩa là dị thục trước là nhân đồng loại, sinh dị thục sau là quả đẳng lưu. Tức dị thục sau do nghiệp trước thành. Chủ thể thành các nghiệp, gọi là nhân dị thục. Đối tượng thành dị thục, tức là quả dị thục. Thể của hai nhân khác nên nghĩa của hai quả được phân ra. Nhân quả giống nhau khác nhau không có lỗi cùng xen tạp. Nhưng thể của dị thục, như thức ăn uống đã chín, đối với dị thục sinh, không có công năng hơn hẳn, nên chỉ bất thiện và thiện hữu lậu là nhân dị thục, gọi là có dị thục.
Nói nhân trước: Nghĩa là nhân năng tác. Ở trong tụng nói về nhân là nói trước tiên. Quả tăng thượng sau là do nhân này đạt được. Quả của pháp tăng thượng gọi là quả tăng thượng. Chỉ trụ không có chướng ngại thì có tăng thượng gì? Tức trụ không có chướng ngại nói là tăng thượng.
Lại, ở trong phần vị sinh diệt của các pháp, cũng có uy lực lần lượt tăng thượng. Nhân đồng loại, biến hành, được quả đẳng lưu. Vì quả giống với nhân, nên gọi là đẳng lưu.
Tướng của quả nơi hai nhân như thế, vì tương tợ nên nhân tuy hai mà quả kia chỉ là một. Nhân câu hữu, tương ưng, được quả sĩ dụng. Không phải vượt qua thể của sĩ phu mà có riêng sĩ dụng, tức đối tượng đạt được này gọi là quả sĩ dụng. Tên sĩ dụng ấy là nói về pháp gì? Tức nói về công năng hiện có của các pháp.
Như thế là hoàn toàn phù hợp với văn của tụng sau đã nói. Nếu nhân nơi sức của sĩ kia sinh ra quả này, gọi là dụng sĩ. Trong đây, sĩ dụng, sĩ lực, sĩ năng, thế phần của sĩ, nghĩa đều không khác. Vì công năng của các pháp, như công dụng của sĩ, nên gọi là sĩ dụng. Như người dũng kiện, vì giống như sư tử, nên gọi là sư tử.
Quả sĩ dụng cùng có, quyết định là có, lại hơn hẳn, nên nói là hai nhân tương ưng, câu hữu đã đạt được. Vô gián, cách vượt, hoặc có, hoặc không. Nếu như có thì không phải là hơn, lại lẫn lộn với quả khác, thế nên không nói do nhân khác đạt được.
HẾT – QUYỂN 9