LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 2

Phẩm thứ 2: BIỆN VỀ BẢN SỰ, phần 2

Như trên đã nói, năm uẩn như sắc v.v… gọi là pháp hữu vi. Vậy sắc uẩn là gì? Tụng nêu:

Sắc ấy chỉ năm căn

Năm cảnh cùng vô biểu.

Luận nói: Trong đây nói sắc là hiển bày về nghĩa của sắc uẩn. Năm căn nghĩa là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân. Năm cảnh là sắc, thanh, hương, vị, xúc.

Đối tượng hành thuộc về mắt v.v… gọi là cảnh. Cùng vô biểu: Nghĩa là sắc của pháp xứ. Chỉ, nghĩa là chỉ năm căn này đã làm rõ về mười xứ, phần ít của một xứ, gọi là sắc uẩn.

Các sắc như thế, tướng của chúng là thế nào? Tụng nêu:

Thức kia dựa sắc tịnh

Gọi năm căn như mắt…

Luận nói: Kia, nghĩa là năm căn như mắt v.v… đã nói ở trước. Thức tức là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân thức. Dựa, nghĩa là đối tượng nương dựa của năm thức như nhãn v.v…

Đối tượng nương dựa như thế sắc tịnh là thể. Tức làm rõ năm thức như nhãn v.v… đã dựa vào sắc tịnh, gọi là căn như nhãn v.v…

Nên Đức Bạc-già-phạm ở trong Khế kinh đã nêu rõ: Các căn như nhãn v.v… thì sắc tịnh là tướng. Bản luận cũng nói: Thế nào là nhãn căn? Là đối tượng nương dựa của nhãn thức, sắc tịnh làm tánh.

Như thế trong các Thánh giáo đã nói rộng, là do căn khác với thức không do cảnh giới. Nên biết lời nói kia là làm rõ về căn không phải là cảnh.

Có thuyết nói: Kia là cảnh không phải là căn, nhưng không có ý thức, vì duyên nơi sắc v v, nên gọi là sắc cùng thức v.v… Đối tượng nương dựa của thức kia gọi là nhãn v.v… đã vượt qua. Do nói sắc tịnh là đã phân biệt.

Đã biện về tướng của căn. Sẽ biện về tướng của cảnh.

Tụng nêu:

Sắc hai, hoặc hai mươi

Thanh chỉ có hai thứ

Vị sáu, hương bốn loại

Xúc mười một làm tánh.

Luận nói: Nói sắc hai, là nghĩa của hai thứ: Hiển với hình. Trong đây hiển sắc có mười hai thứ, hình sắc có tám, nên là hai mươi. Hiển sắc có mười hai: Nghĩa là xanh, vàng, đỏ, trắng, khói, mây, bụi, sương mù, bóng, ánh sáng, sáng, tối. Bốn thứ như xanh v.v… ở trong mười hai thứ là chánh hiển sắc. Tám thứ như mây v.v… là sự sai biệt của bốn thứ này. Nghĩa ấy ẩn giấu nay sẽ lược giải thích. Hơi nước từ đất bốc lên nói là sương mù ngăn che ánh sáng, phần sáng khởi lên, trong ấy các thứ sắc khác có thể trông thấy gọi là bóng. Trái với đây gọi là tối.

Ánh sáng của mặt trời gọi là ánh sáng. Các thứ ánh sáng như trăng, sao, lửa thuốc, ngọc báu, ánh chớp v.v… gọi là sáng. Hình sắc có tám là dài, ngắn, vuông, tròn, cao, thấp, ngay, không ngay. Ở đây, ngay là hình bằng thẳng như nhau. Hình không bằng thẳng là không ngay. Các sắc còn lại vì dễ hiểu rõ nên không giải thích.

Đã nói về sắc xứ. Sẽ nói về thanh xứ. Có thể có kêu gọi, nên gọi là thanh. Hoặc chỉ là tiếng vang, gọi đó là thanh. Thánh giáo của Đức Thiện Thệ đều nói thế này: Thanh là cảnh giới của nhĩ căn đã nhận lấy, là tánh của sắc do bốn đại chủng đã tạo. Thanh này có hai thứ là có chấp thọ và không có chấp thọ. Đại chủng làm nhân chấp thọ đại chủng. Nghĩa là địa v.v… dị thục, đẳng lưu đã nuôi lớn hữu tình hiện tại. Cùng với đây trái nhau gọi là không có chấp thọ.

Do đấy đã phát sinh thành hai thứ thanh. Sắc v.v… cũng nên nêu bày như thế. Tuy nhiên, do tự tánh của thanh xứ là khó nhận biết, nên chỉ căn cứ theo nhân để nói có hai thứ.

Không có tánh của một thanh, do đại chủng có chấp thọ và đại chủng không có chấp thọ làm nhân.

Vì hai nơi bốn đại chủng đều có quả riêng, không phải hai nơi bốn đại chủng đồng đạt được một quả, vì nhân câu hữu là thành lỗi lầm. Tuy hai đại chủng có va chạm nhau, nhưng đều cùng làm nhân, thì đều phát ra thanh riêng khác. Vì căn cứ nơi chỗ dựa của chính nó, nên không thành ba thể. Tuy có tay vỗ đập đánh nhau làm nhân, phát sinh hai tiếng nhưng cùng lấn át, chiếm đoạt, tùy theo đấy nhận lấy một thứ tướng riêng khó nhận biết. Thế nên thanh xứ chỉ có hai thứ.

Đã nói về thanh xứ, sẽ nói về vị xứ. Nêu bày vượt thứ lớp là hiển bày về thức nơi cảnh kia sinh không nhất định. Vị nghĩa là đối tượng ăn uống, thưởng thức, là nghĩa có thể nếm. Vị này có sáu thứ là ngọt, chua, mặn, cay, đắng, lạt riêng khác.

Đã nói về vị xứ, sẽ nói về hương xứ.

Hương, nghĩa là đối tượng ngửi hít. Hương này có bốn thứ: Hương tốt, hương xấu, hương bình đẳng và hương không bình đẳng, có sai biệt. Bình đẳng, không bình đẳng: Là nghĩa tăng ích, tổn giảm, dựa vào thân riêng khác.

Có thuyết cho: Vì nhỏ yếu, tăng thịnh có khác. Nên trong Bản luận đã nêu rõ: Hương có ba thứ là hương tốt, hương xấu và hương bình đẳng. Nếu có thể nuôi lớn đại chủng của các căn, gọi là hương tốt. Cùng với đây trái nhau gọi là hương xấu. Không có hai công dụng trước, gọi là hương bình đẳng. Hoặc nghiệp phước thù thắng đã tăng thượng sinh khởi, gọi là hương tốt. Nếu nghiệp tội vượt hơn đã tăng thượng sinh ra thì gọi là hương xấu. Nếu bốn đại chủng đã tăng thượng sinh khởi gọi là hương bình đẳng.

Đã nói về hương xứ, sẽ nói về xúc xứ.

Xúc, nghĩa là đối tượng xúc chạm có mười một thứ làm tánh. Tức mười một thứ nghĩa thật dùng làm thể. Là bốn đại chủng và bảy xúc được tạo. Tính chất trơn, nhám, nặng, nhẹ và lạnh, đói, khát có sai biệt?

Trong đây, chủ thể xúc chạm, đối tượng được xúc chạm là gì? Nên biết đều không có chủ thể xúc chạm, đối tượng được xúc chạm. Cùng xúc chạm thì mất, vì tánh là sát-na. Chỉ khi ở nơi đối tượng nương dựa, đối tượng duyên của thân thức vô gián sinh, lập danh tưởng xúc. Dựa vào căn thức này, khi đạt được cảnh kia, giả nói là căn ấy có thể xúc chạm cảnh kia, vì xúc không phải là đối tượng nương dựa của thân thức, nên không nói xúc kia có thể xúc chạm nơi thân căn. Vì xúc cùng với thân căn là rất gần nhau, nên nói là đối tượng xúc, chủ thể xúc, không phải là pháp khác. Sắc v.v… tuy không phải là tánh của pháp nơi đối tượng xúc chạm, vì đối tượng nương dựa đã hoại nên cũng có hao tổn.

Đã nói về tướng của cảnh, chỉ còn vô biểu, điều này nay sẽ biện minh. Tụng nêu:

Tạo tác cùng tâm khác

Và vô tâm, hữu ký

Không đối, tánh đã tạo

Đấy gọi vô biểu sắc.

Luận nói: Nói tạo tác v.v…: Thì v.v… là chỉ cho lìa tạo tác. Sắc được tạo không đối lược có hai thứ: (1) Dựa vào biểu. (2) Dựa vào tâm.

Dựa vào biểu khởi lại có hai thứ. Nghĩa là cùng với tạo tác đều cùng chuyển và cùng với tạo tác ngừng dứt tùy chuyển, vì gồm thâu thể tướng có sai biệt của vô biểu như thế là không sót, nên gọi là tạo tác v.v…

Nói tâm khác v.v…: Thì v.v… là chỉ cho tâm đồng loại, tức là tâm thiện tạo ra đẳng khởi của nhân gần, hoặc nhân câu hữu. Tâm kia đã phát khởi sắc được tạo không đối thiện. Còn bất thiện, vô ký gọi là tâm khác. Tâm thiện gọi đồng loại. Tâm bất thiện tạo ra đẳng khởi của nhân gần, đã phát khởi sắc được tạo không đối bất thiện, thiện và vô ký, gọi là tâm khác. Bất thiện gọi là đồng loại.

Và vô tâm: Nghĩa là phần vị của tâm diệt, tức định không phải là sinh, vì phần vị của sinh không có. Cùng nói nhân nơi trên và ở đây không phải thứ khác. Ở trong ba vị đây là cùng tùy chuyển. Nghĩa là định chỉ cùng với bất thiện và thiện phân tán khác, chung nơi ba vị chuyển.

Nói hữu ký: Nghĩa là thiện, bất thiện, có thể ghi nhận là phẩm ái, phi ái.

Nói không đối: Nghĩa là không phải cực vi. Tánh đã tạo: Là không phân biệt đại chủng, do tánh của đại chủng không phải là không đối, nên chỉ phân biệt với phi sắc. Vì hiển là tánh của sắc, tức thuộc về sắc uẩn trong năm uẩn. Là các tướng đã nói ở trước. Gồm đủ các tướng ở trước, gọi là vô biểu sắc.

Như thế là đã biện về tướng của vô biểu sắc, trong đó đã nói về đối tượng tạo tác của đại chủng.

Thế nào là đại chủng? Tụng nêu:

Đại chủng tức bốn giới

Là đất, nước, lửa, gió

Nghiệp tạo thành duy trì

Tánh cứng, ướt, ấm, động.

Luận nói: Các đại chủng này do đâu gọi là giới? Vì là gốc xuất sinh tất cả sắc pháp, cũng từ đại chủng xuất sinh đại chủng. Gốc xuất sinh các thế gian, gọi là giới. Như quặng vàng v.v… gọi là giới vàng v.v… Hoặc là gốc xuất sinh vô số thứ khổ gọi là giới. Dụ như trước đã nói.

Có thuyết cho: Khả năng giữ gìn tự tướng của đại chủng và sắc được tạo, nên gọi là giới.

Như thế các giới cũng gọi là đại chủng.

Vì sao nói là chủng? Vì sao gọi là đại?

Vô số thứ sắc được tạo có sai biệt khi sinh. Sự sai biệt của phẩm loại kia có khả năng phát khởi, nên nói là chủng. Do bốn đại chủng có sai biệt nên sắc được tạo có sai biệt.

Có thuyết nêu: Vì nghiệp của hữu tình tăng thượng, nên từ thời vô thủy đến nay, chưa từng không có, nên nói là chủng. Do tướng chung của bốn đại chủng nơi chủng loại không gián đoạn dứt tuyệt. Hoặc pháp xuất hiện tức gọi là có. Tánh có sinh trưởng, nên nói là chủng. Tức là tánh có của các pháp sinh trưởng. Hoặc là nghĩa thân hữu tình sinh trưởng. Hoặc khả năng hiển bày rõ về mười thứ sắc được tạo, nên nói là chủng. Do uy lực này, nên sắc được tạo kia hiện bày rõ.

Nói đại vì có dụng lớn. Nói dụng lớn nghĩa là ở trong sự căn bản của các hữu tình.

Bốn thứ như thế có tác dụng hơn hẳn. Dựa nơi tác dụng ấy để kiến lập thức cùng với không mới được nói là căn bản của hữu tình.

Lại, ở trong sự việc lừa dối làm mê hoặc người ngu tối, thì bốn thứ này là hơn hết, nên gọi là đại. Như sự việc trá hàng trong đám giặc, kẻ hơn hẳn là riêng khác, nên gọi là đại giả trá, đại tặc.

Lại, bốn thứ này vì là đối tượng nương dựa khắp cho tất cả sắc còn lại, vì rộng nên gọi là đại.

Có thuyết nói: Vì trong tất cả tụ như sắc v.v… chất cứng chắc v.v… có đủ nên gọi là đại. Trong tụ gió tăng thì thiếu về sắc v.v… Trong tụ lửa tăng thì thiếu về tối tăm. Nơi các tụ của cõi sắc thì hương vị đều không có. Trong tụ màu xanh v.v… thì thiếu màu vàng v.v… Trong tụ trơn nhẵn v.v… thì thiếu chất nhám. Thanh v.v… thì không nhất định, thế nên chỉ bốn thứ này được gọi là đại.

Bốn đại chủng ấy tuy thường hòa hợp, luôn không lìa nhau, nhưng không phải là xứ đồng.

Vì sao nhận biết được chúng luôn không lìa nhau? Do nơi Kinh Nhập Thai Đại Tạo đã nói. Lại về lý tức nên như vậy.

Những gì là lý?

Nghĩa là trong đá v.v… hiện có thể gồm thâu sinh lửa tăng, rơi vào ba nghiệp có thể đạt được. Nên biết ở đây có nước, lửa, gió luôn không lìa nhau. Ở trong tụ nước hiện có duy trì tính chất ấm của thuyền lưu động nơi ba nghiệp có thể đạt được. Nên biết ở đây có đất, lửa, gió luôn không lìa nhau.

Ở trong ngọn lửa cháy, hiện có sự nhận giữ gồm thâu đã kích động ba nghiệp có thể đạt được. Nên biết nơi lửa này có đất, nước, gió luôn không lìa nhau.

Trong tụ gió hiện có khả năng giữ gìn dấy khởi lạnh, ấm xúc chạm nơi ba nghiệp có thể đạt được. Nên biết ở đây có đất, nước, gió luôn không lìa nhau.

Lại làm sao nhận biết được bốn giới như thế?

Vì nhân duyên của bốn giới này luôn cùng theo đuổi, do đấy có thể thành tựu các nghiệp như giữ gìn v.v… Nghĩa là các giới như đất v.v…, như thứ lớp có thể tạo thành, giữ gìn, gồm thâu, thành thục, nuôi lớn sự nghiệp của bốn thứ. Do nhân duyên ấy, nên ở nơi các tụ sắc, nếu có bốn nghiệp như giữ gìn v.v… có thể đạt được, tức nhận biết trong đây có giới như đất v.v… đã cùng không lìa nhau.

Ở đây nên biết nói có thể làm tăng trưởng, nghĩa là khả năng sắp đặt bày biện.

Thế nào là sắp đặt bày biện?

Nghĩa là khiến cho tăng thịnh, hoặc lại lưu chuyển, tràn đầy, vì bốn nghiệp có thể giữ gìn v.v…, tức là tự tướng của giới chăng? Không như vậy. Vì sao? Bốn giới như thế, tùy theo thứ lớp của chúng là cứng chắc, ẩm ướt, ấm nóng, lay động dùng làm tự tướng. Nên biết trong đây, nói tánh là hiển bày về thể, là làm rõ thể tánh không lìa nhau. Lay động nghĩa là khả năng dẫn phát sắc được tạo của đại chủng, khiến chúng cùng nối tiếp sinh đến phương khác.

Vì sao hư không không gọi đại chủng?

Vì tướng của đại chủng nơi hư không kia không thành lập. Do có khả năng tổn ích, nên lập danh xưng đại chủng. Hư không thì không như vậy, nên không phải là đại chủng. Hoặc ở trong phần vị sinh diệt của các pháp tánh không có sai biệt , nên không phải là đại chủng. Các đại chủng hiện thấy, như trong phần vị của hạt giống v.v…, tướng của chúng chuyển biến thành duyên như mầm v.v…, mới khiến các phần vị như mầm v.v… được khởi. Hư không là vô vi tức không như thế, vì tánh tướng là thường hằng, tác dụng đều không có. Đã không thể sinh, nên không phải là đại chủng. Lại, các đại chủng không phải là một, không phải là thường, tự tướng có rất nhiều, quả riêng là vô lượng. Tự tánh của hư không là một, là thường, tướng không có sai biệt, hoàn toàn không có quả. Không phải là không nhân riêng sinh có quả riêng. Thế nên hư không không gọi là đại chủng.

Nếu cho nhân khác có sai biệt, nên có thể hỗ trợ hư không sinh quả riêng, tức nhân riêng này có thể sinh quả riêng, thì đâu cần nắm giữ hư không ấy làm nhân?

Là các giới như đất v.v… tức là đất v.v… chăng?

Không như vậy. Vì sao? Tụng nêu:

Đất gọi sắc hiển hình

Theo tưởng đời lập tên

Nước, lửa cũng như thế

Gió tức giới cũng vậy.

Luận nói: Nói đất chỉ biểu thị về xứ của sắc hiển, hình. Há không phải là đã gồm chung bốn xứ của đất hợp thành, sao chỉ nói hiển hình là đất? Trong đây, tuy có ba thứ hương, vị, xúc nhưng vì tùy theo tưởng của thế gian, nên nêu bày như vậy. Do các thế gian cùng chỉ rõ về đất, nghĩa là dùng các sắc hiển, hình để cùng chỉ rõ cho biết. Tuy các thế gian cũng đối với hương v.v… khởi ngôn thuyết về đất. Nghĩa là nói thế này: Ta nay ngửi đất, nếm đất, xúc chạm vào đất. Nhưng sắc hiển hình ở nơi đất, nước, lửa có khả năng biểu thị chung, vì vậy nên nói riêng. Thế gian phần nhiều không nói, ta ngửi nơi nước, cũng không nói là ngửi, nếm nơi lửa. Tuy nói xúc chạm với đất v.v…, nhưng tức là nói về các giới như đất v.v…, thế nên trong đất tuy có hương v.v…, nhưng vì hình với hiển là hơn hẳn, thế nên nói riêng. Lại, sắc hiển hình biểu thị hai giới như đất v.v… không khác, thế nên nói riêng.

Nếu như vậy thì hiển hình biểu thị về áo v.v…, là hơn hẳn hương

v.v…, tức cũng nên nói riêng chăng?

Vì thế gian khởi danh, tưởng không có quyết định, nên đã tùy theo thế gian có sai biệt mà nói. Ở đây là tùy theo phần nhiều tưởng của thế gian để đặt tên. Sinh v.v… không phải là hiển bày, thanh không phải là cùng nối tiếp, nên không nói là đất v.v… là áo v.v… Như đất chỉ dùng hiển sắc, hình sắc làm thể. Nước, lửa cũng như vậy. Vì tùy theo tưởng của thế gian, nên do thế gian hiện thấy nước xanh, dài v.v…, nên nói hiển sắc, hình sắc là tự tánh của nước. Thế gian cũng hiện thấy lửa đỏ, dài v.v… nên nói hiển sắc, hình sắc là tự tánh của lửa. Tuy nhiên, khi sắc xúc chạm chuyển biến sinh khởi, gọi là ngọn lửa than, là giả không phải là thật. Không có một vật thật do thân, mắt đạt được. Nên đất v.v… như thế là cùng giới có sai biệt.

Gió tức là giới: Nghĩa là thế gian đối với sự lay động lập danh xưng gió, nên giới gió không có riêng khác. Há không phải là thế gian đối với sắc hiển, hình cũng sinh khởi tưởng gió? Thế gian hiện dùng gió đen, gió xoay vòng để cùng chỉ rõ.

Vì có chung vấn nạn này, nên nói cũng là nghĩa như đất v.v… cùng với giới là riêng khác.

Các Sư thời xưa đều nói thế này: Vì đất ở trong ấy là xen tạp, nên thấy như thế. Vì làm rõ gió kia tức là giới gió, nên lại nói như vậy. Như vậy là nghĩa quyết định.

Trong hai thuyết này, thì thuyết trước là hơn.

Biến xứ bất tịnh, vì không có sai biệt, nên bất tịnh chỉ duyên nơi cảnh của sắc xứ. Tụng nêu:

Trong ấy căn cùng cảnh

Tức nói mười xứ giới.

Luận nói: Đã nói về căn, cảnh của vật thật, vô biểu là tánh của sắc uẩn. Trong đây, căn, cảnh cũng tức là nói về mười xứ, mười giới. Nơi môn xứ lập làm mười xứ, nghĩa là nhãn xứ v.v… Ở trong môn giới lập làm mười giới, nghĩa là nhãn giới v.v…

Đã nói về sắc uẩn và lập xứ giới. Sẽ nói về ba uẩn xứ, giới như thọ v.v… Tụng nêu:

Thọ lãnh nhận theo xúc

Tưởng lấy tượng làm thể

Ngoài bốn, gọi hành uẩn

Như thế, thọ có ba

Và vô vi, vô biểu

Gọi pháp xứ, pháp giới.

Luận nói: Theo xúc mà sinh, lãnh nhận sự việc đáng yêu thích và không đáng yêu thích đều cùng trái nhau với xúc, gọi là thọ uẩn. Lãnh nhận tức là nghĩa của chủ thể thọ dụng.

Vì sao thọ này đã lãnh nhận tùy theo xúc?

Nghĩa là thọ là quả gần gũi của xúc. Thọ ấy tùy theo tiếng xúc để làm rõ về nghĩa của nhân. Vì có thể thuận với thọ, nên như tùy theo tướng để nói. Tướng nghĩa là biểu thị làm sáng rõ, tức có thể hiển bày chỉ rõ. Nhân có thể làm sáng tỏ quả, nên lập tên tướng. Ở đây nói tùy theo tướng là thuận với nghĩa của nhân.

Thọ có thể lãnh nhận, có thể thuận với nhân của xúc. Thế nên nói thọ lãnh nhận theo xúc. Như Đức Thế Tôn nói: Xúc thuận với lạc thọ, xúc thuận với khổ thọ và xúc thuận với bất khổ bất lạc thọ, tức là nghĩa thuận với sinh lạc thọ v.v… Lãnh nhận tùy theo xúc gọi là thọ tự tánh. Lãnh nhận nơi đối tượng duyên cũng là tướng của thọ. Cùng với tướng riêng của pháp nơi một cảnh là khó nhận biết, vì tất cả đều đồng lãnh nhận cảnh, vì khi tâm tâm sở đã nắm giữ nhận lấy cảnh, thì tất cả đều gọi là lãnh nhận cảnh của mình. Thế nên chỉ nói lãnh nhận tùy theo xúc, gọi là thọ tự tánh, vì tướng riêng là nhất định. Lãnh nhận nơi đối tượng duyên, gọi là thọ chấp thủ, không phải ở đây đã biện về tướng không nhất định.

Hai thọ có sai biệt, như nơi Luận Thuận Chánh Lý và Luận Ngũ Sự đã biện rộng nên biết. Thọ này nói chung là ba, nói riêng là sáu, vì thế gian và đối tượng nương dựa có sai biệt.

Tưởng uẩn thứ ba, thể của nó là gì?

Tướng uẩn này ở nơi đối tượng duyên lấy hình tượng làm thể. Nghĩa là đối với tất cả tùy theo gốc, nhằm an lập các sắc như màu xanh, dài v.v…, an lập các thanh như đàn cầm, vỏ ốc v.v…, an lập các hương như hoa sen tươi v.v…, an lập các vị như đắng, cay v.v…, an lập các xúc như trơn, nhám v.v…, an lập các pháp như sinh, diệt v.v…, vì ở trong cảnh của đối tượng duyên, như tướng mà nhận lấy, nên gọi là tưởng. Tưởng này căn cứ theo thế gian, nói chung là ba. Nếu căn cứ theo đối tượng nương dựa thì nói riêng là sáu.

Hành uẩn thứ tư, thể của nó là gì?

Uẩn này dùng các hành còn lại ngoài bốn thứ như uẩn làm thể. Nghĩa là trừ ba uẩn sắc, thọ, tướng đã nói ở trước, và trừ thức sẽ nói là thứ tư, pháp hữu vi còn lại gọi là hành uẩn.

Hành uẩn có tương ưng và không tương ưng với tư v.v…, với đắc v.v… Như thứ lớp của chúng, Khế kinh chỉ thuyết giảng về sáu tư thân, do là hơn hết. Vì sao? Vì tư là tánh của nghiệp, là nhân chiêu cảm quả, sức của nó rất mạnh. Nên Đức Thế Tôn nói: Nếu có thể tạo tác hữu lậu hữu vi, gọi là hành thủ uẩn. Không thể chỉ nói tư là hành uẩn, vì lập tên chung, nên như pháp xứ, pháp giới. Nếu khác với đây, tức nên chỉ gọi là tư, là thành một pháp, như thọ uẩn, tưởng uẩn.

Ý trong đây nêu rõ, như tiếng pháp giới, pháp xứ thứ sáu bên ngoài, vì lập tên gọi chung, nên gồm thâu chung mười một xứ, mười bảy giới, không gồm thâu nhiều pháp. Tiếng hành như thế, vì lập tên gọi chung, nên gồm thâu chung bốn uẩn, không gồm thâu nhiều hành. Nên biết thể của hành uẩn không chỉ là tư.

Hành uẩn như thế không phải đều có nương dựa, nên chỉ căn cứ theo thế gian, nói chung về ba thứ. Như trước đã phân biệt về thể của sắc uẩn xong, liền căn cứ nơi hai môn xứ, giới để kiến lập như thế.

Trong đây đã biện về thể của ba uẩn thọ tưởng hành rồi, cũng nên kiến lập làm xứ và giới. Nghĩa là ba uẩn này cùng với vô biểu sắc và ba vô vi, bảy pháp như thế, ở trong môn xứ lập làm pháp xứ, ở trong môn giới lập làm pháp giới.

Thức uẩn thứ năm về tự tánh, xứ giới, tướng của chúng như thế nào? Tụng nêu:

Thức, nghĩa đều liễu biệt

Đây tức gọi ý xứ

Và bảy giới nên biết

Sáu thức chuyển là ý.

Luận nói: Thức, nghĩa là phân biệt nhận biết rõ, là nghĩa chỉ lấy chung về tướng của cảnh giới, mỗi mỗi đều nhận lấy chung về tướng của mỗi mỗi cảnh kia, gọi là đều phân biệt nhận biết rõ. Nghĩa là thức chỉ có khả năng nhận lấy chung về tướng của cảnh, không phải có thể nhận lấy tướng của cảnh kia có sai biệt. Như Đức Thế Tôn nói: Phân biệt nhận biết rõ gọi là thức.

Có Sư khác nói: Chỉ ở nơi pháp tánh, giả nói là tác giả. Vì nhằm ngăn chận lìa ngoài thức, chấp có phân biệt nhận biết rõ.

Tại xứ nào lại thấy chỉ ở nơi pháp tánh giả nói là tác giả? Hiện thấy nói là ảnh, vì có thể hành động.

Nơi xứ khác này là thời gian vô gián sinh, tuy không tác động, nhưng vẫn nói là tác giả. Thức cũng như vậy, ở nơi cảnh giới khác khi nối tiếp nhau sinh, tuy không có tác động nhưng vẫn nói là phân biệt nhận biết rõ. Nghĩa là vì có thể phân biệt nhận biết rõ cảnh, cũng không có lỗi.

Làm sao nhận biết như vậy?

Vì hiện thấy ở nơi xứ khác đã ngăn chận tác giả. Như Đức Thế Tôn nói với Phả-lặc-cụ-na: Ta trọn không thuyết giảng nơi người có thể phân biệt nhận biết rõ.

Lại có thuyết cho: Sát-na gọi là pháp tánh, cùng nối tiếp gọi là tác giả. Tự ý đã lập tư trong duyên khởi nên lại hiển bày chỉ rõ: Thức này căn cứ ở thế gian, nói chung là ba. Căn cứ nơi đối tượng nương dựa là căn, phân biệt thành sáu. Nên biết tức thức uẩn đã nói ở đây, trong môn xứ lập làm ý xứ, ở trong môn giới lập làm bảy giới. Và thanh là hiển bày về một, phân tích thành hai môn, làm rõ mỗi mỗi thể của thức phân ra xứ, giới.

Bảy giới là gì?

Là sáu thức và ý. Nghĩa là nhãn thức giới đến ý thức giới. Tức sáu thức này chuyển làm ý giới. Ý giới ấy kiến lập riêng môn uẩn, xứ, giới. Nên biết là đã gồm thâu khắp các pháp đều hết. Trong đây nên tư duy: Nếu là thức uẩn thì gọi là bảy tâm giới. Trước đã nói về thức uẩn, căn cứ theo đối tượng nương dựa là căn thì phân riêng làm sáu.

Nay lìa sáu thức thì thuyết giảng những pháp nào lại gọi là ý giới?

Lại không có pháp khác. Tức ở trong ấy: Tụng nêu:

Do tức sáu thức thân

Vô gián diệt là ý.

Luận nói: Tức sáu thức thân, vô gián diệt xong, có thể sinh thức sau, nên gọi là ý giới. Vì thời phần khác, nên lập riêng không có lỗi. Cũng như quả của con lập làm hạt giống của cha.

Nếu như vậy thì thể của giới tức nên chỉ mười bảy hoặc chỉ mười hai, lại cùng gồm thâu. Vì sao kiến lập mười tám giới? Tụng nêu:

Thành chỗ dựa thứ sáu

Mười tám giới nên biết.

Luận nói: Như năm thức giới có riêng năm giới như nhãn v.v… làm chỗ dựa, ý thức thứ sáu không có đối tượng nương dựa riêng, như lìa đối tượng duyên, thì thức không có nghĩa dấy khởi. Lìa chỗ dựa cũng như vậy, tức thức không được sinh, vì thành tựu chỗ dựa này nên nói là ý giới.

Như thế, đối tượng nương dựa, chủ thể nương dựa, cảnh giới, nên biết mỗi thứ đều có sáu giới, thành mười tám.

Vì sao đã diệt mà gọi là chỗ dựa của hiện thức? Vì hiện thức này sinh nơi duyên gần gũi. Như tuy có sắc, nhưng chủ yếu là dựa vào mắt nhãn thức mới được sinh.

Như vậy, tuy có cảnh giới của đối tượng duyên, nhưng thức sau sinh, chủ yếu là dựa vào ý vô gián diệt của niệm trước, thế nên trước đã nói vô gián diệt, là nhằm ngăn chận tâm hữu gián diệt của niệm trước. Tuy trước đã mở ra, nhưng vì chưa sinh, do vô gián này đã diệt, sáu thức làm chỗ dựa cho hiện thức, nói là ý giới. Hoặc thức hiện tại đang thành tác dụng của chỗ dựa. Quá khứ đã thành đẳng vô gián duyên, cũng ở nơi hiện tại có thể nhận lấy quả, tuy dựa vào đẳng vô gián duyên kia sinh, nhưng không phải tùy thuộc vào duyên đó, nên tâm dựa vào tâm, không gọi là tâm sở, vì phẩm loại tâm sở tất tùy thuộc nơi tâm.

Đã giải thích các uẩn, thủ uẩn, xứ, giới. Sẽ ở trong ấy xét chọn về nghĩa gồm thâu.

Các uẩn gồm thâu chung tất cả hữu vi. Thủ uẩn chỉ gồm thâu tất cả hữu lậu. Xứ, giới gồm thâu chung hết tất cả pháp. Năm uẩn, vô vi gọi là tất cả pháp. Gồm thâu riêng là như thế. Nên biện về gồm thâu chung. Tụng nêu:

Thâu chung tất cả pháp

Do một uẩn, xứ, giới

Gồm tự tánh không ngoài

Do đã lìa tánh khác.

Luận nói: Một uẩn nghĩa là sắc. Một xứ nghĩa là ý. Một giới nghĩa là pháp. Ba thứ này gồm thâu chung năm uẩn, vô vi. Chung là nghĩa tập hợp. Đặt lời nói chung là khiến nhận biết về ba chung, chớ cho mỗi thứ đều có một.

Có Bộ khác chấp: Gồm thâu nghĩa là gồm thâu thứ khác, nhiều nơi nói là gồm thâu khác, vì khác.

Chấp này là phi lý, vì không có nhân nhất định. Nếu có nhân nhất định thì không phải gồm thâu khác. Các Sư của Bộ tôi nói là gồm thâu tự tánh. Như thế câu nói đã lập gồm thâu tự tánh, là nêu bày cứu cánh, vì không chờ đợi thứ khác. Gồm thâu không chờ đợi nhân là gồm thâu chân thật, vì các pháp luôn gồm thâu tự tánh.

Lại vì sao nhận biết không gồm thâu tánh khác?

Vì tất cả pháp đều lìa tánh khác. Nghĩa là tánh của nhãn căn lìa tánh của nhĩ căn v.v… Tánh kia lìa ở đây mà nói đây gồm thâu, lý tất không hợp. Nên biết các pháp chỉ gồm thâu tự tánh. Như thế, nhăn căn chỉ gồm thâu sắc uẩn. Nhãn xứ, nhãn giới, khổ, tập đế v.v… vì là tánh khác kia, tức không gồm thâu uẩn khác, xứ khác, giới khác v.v…, vì lìa tánh kia.

Như vậy, pháp khác tùy theo chỗ thích hợp nên tư duy. Nhãn, nhĩ, tỷ căn đều dựa vào hai xứ.

Do đâu Thể của giới thường không thành nhiều. Vì hợp hai làm một, nên chỉ mười tám. Duyên gì hợp hai làm một giới? Tụng nêu:

Loại thức cảnh là đồng

Tuy hai giới, Thể một.

Luận nói: Nhãn, nhĩ, tỷ căn tuy mỗi thứ đều có hai xứ, nhưng vì loại v.v… đồng nên hợp làm một giới. Nói loại đồng, là đồng với loại nhãn. Nói cảnh đồng, là cảnh sắc đồng. Nói thức đồng, là chỗ dựa của nhãn thức. Nhĩ, tỷ cũng như vậy, nên lập một giới.

Thể của giới đã là một, xứ do đâu thành hai? Tụng nêu:

Nhưng vì khiến đoan nghiêm

Như nhãn đều sinh hai.

Luận nói: Vì đã dựa vào thân tướng đoan nghiêm, nên thể của giới tuy là một nhưng có hai xứ sinh. Nếu xứ của nhãn căn, nhĩ căn chỉ sinh một, tỷ căn không có hai lỗ, thì thân không đoan nghiêm.

Giải thích này là không đúng. Vì các loài lạc đà, mèo, chim cú, tai mèo v.v… xấu xí như thế, đâu có đoan nghiêm. Thế nên các căn đều có chủng loại riêng.

Bày biện sai biệt như thế mà sinh. Nhân duyên đối đãi này có sai biệt như thế. Nhân duyên có chương ngại, hoặc không phải hai sinh. Nói vì đoan nghiêm nên đều sinh hai, ở đây có nghĩa riêng, không phải là thân đoan nghiêm. Tiếng đoan nghiêm này là hiển bày về nghĩa tăng thượng, vì tác dụng tăng thượng nên nói là đoan nghiêm. Nếu ba căn như nhãn v.v… đều thiếu một xứ, thì tác dụng thấy, nghe, ngửi đều không sáng rõ. Nếu đều đủ hai, thì tác dụng sáng rõ sinh, thế nên ba căn đều sinh hai xứ, là tác dụng đoan nghiêm vượt hơn, không phải là thân đoan nghiêm.

Vì sao Đức Thế Tôn đối với cảnh của đối tượng nhận thức dùng ba môn uẩn, xứ, giới để giảng nói? Vì nghĩa của ba môn này đều riêng khác.

Nghĩa riêng khác của uẩn, xứ, giới này là thế nào? Tụng nêu:

Tụ, môn sinh, chủng tộc

Là nghĩa uẩn xứ giới.

Luận nói: Nghĩa tích tụ là nghĩa của uẩn. Nghĩa môn sinh là nghĩa của xứ. Nghĩa chủng tộc là nghĩa của giới.

Do đâu nên nhận biết nghĩa tích tụ là uẩn?

Do Khế kinh nói: Các sắc hiện có hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong, hoặc ngoài, hoặc thô, hoặc tế, hoặc kém, hoặc hơn, hoặc xa, hoặc gần. Tất cả như thế lược làm một tụ, gọi là sắc uẩn. Cho đến thức uẩn nói rộng cũng như vậy. Do đấy, nên biết nghĩa tích tụ là uẩn.

Nếu dùng nghĩa tích tụ để giải thích nghĩa của uẩn, thì uẩn tức nên không phải thật, vì tích tụ là giả lập.

Vấn nạn này là không đúng. Vì ở nơi đối tượng nương dựa của tích tụ để lập nghĩa để nói. Không phải tụ tức là nghĩa. Nghĩa là vật thật, gọi đấy là sai biệt, vì tụ không phải là thật.

Nghĩa của tụ là gì? Tức là nghĩa của tụ.

Nghĩa của tụ là đối tượng nương dựa của tụ.

Giải thích này làm rõ kinh có nghĩa lý sâu xa lớn. Nghĩa là như nói về tụ, lìa đối tượng nương dựa của tụ, thì không có Thể của tụ thật có riêng có thể đạt được. Như thế nói ngã, ngoài các uẩn như sắc v.v… không nên cầu tìm riêng về thể của ngã thật có. Vì trong uẩn nối tiếp nhau đã giả nói về ngã, như ngã của tụ thế gian không phải là thật có, nếu uẩn là thật có thì kinh hiển bày về nghĩa gì?

Chớ cho đối tượng hóa sinh nhận biết về các pháp như sắc v.v…, phẩm loại của ba thời có vô lượng sai biệt, đều là uẩn. Vì uẩn thì vô biên, liền sinh khiếp sợ, thoái chuyển, cho là ta sao có thể nhận biết khắp, đoạn trừ vĩnh viễn vô biên uẩn này, vì nhằm khích lệ thúc đẩy những người kia, nên nói uẩn tuy vô biên, nhưng vì tương đồng nên nói chung là một. Lại, các người ngu đối với nhiều uẩn này sinh một tưởng hợp, hiện khởi ngã chấp. Vì khiến những kẻ kia trừ bỏ một tưởng hợp, nên giảng nói trong một uẩn có rất nhiều phần, không vì chỉ rõ năm uẩn như sắc v.v…, do nhiều pháp hợp thành là giả, không phải là thật. Lại, một cực vi gồm thâu ba đời v.v…, dùng tuệ phân tích tóm lược làm một tụ. Uẩn tuy tức là tụ, nhưng nghĩa thật thành. Pháp khác cũng như vậy, nên uẩn không phải là giả. Lại, ở trong mỗi mỗi pháp khởi riêng lẻ cũng nói là uẩn, nên uẩn nhất định không phải là giả. Như nói về đều cùng sinh, thọ gọi là thọ uẩn, tưởng gọi là tưởng uẩn. Phần còn lại nói như kinh. Ở trong tất cả thời, vì hòa hợp sinh, nên uẩn tuy đều riêng, nhưng nghĩa của tụ thành.

Do đâu nên nhận biết nghĩa môn là xứ?

Do lời giáo huấn của Phật. Xứ nghĩa là môn sinh. Tâm tâm sở pháp ở trong ấy đã được sinh trưởng, nên gọi là xứ. Là nghĩa có thể sinh trưởng tác dụng của môn kia. Như Khế kinh nói: Phạm chí nên biết! Dùng mắt làm môn, chỉ vì trông thấy sắc.

Kinh này chỉ chứng minh nghĩa môn có sáu. Nhưng vì tâm tâm sở có mười hai môn, nên Khế kinh nói: Mắt và sắc làm duyên sinh ra nhãn thức. Ba thứ (mắt sắc thức) hòa hợp sinh xúc đều cùng khởi thọ, tưởng, tư, cho đến nói rộng.

Do đâu nên nhận biết nghĩa chủng tộc là giới?

Vì cùng với nghĩa tộc họ của thế gian là tương tợ. Như trong một ngọn núi có rất nhiều các thứ chủng tộc: Như các thứ hùng hoàng, thư hoàng, xích thổ, an thiện na v.v…, gọi là nhiều giới.

Như thế, nơi một thân, hoặc một sự nối tiếp nhau, có mười tám loại là chủng tộc của các pháp, gọi là mười tám giới. Như hùng hoàng v.v… về thể loại lần lượt cùng đối chiếu là không đồng, nên gọi là chủng tộc. Như thế, mắt v.v… về thể loại lần lượt cùng đối chiếu là không đồng, nên gọi là chủng tộc. Do nghĩa tương tợ được làm đồng dụ.

Nếu như vậy thì ý giới đối chiếu với sáu thức thân, không có Thể loại riêng, tức không nên lập riêng đối tượng nương dựa, chủ thể nương dựa. Do thể loại riêng, nên không có lỗi này.

Vì sao Đức Thế Tôn nói ba môn uẩn, xứ, giới có sai biệt?

Vì tuy ý nghĩa sâu xa của Đức Phật, Thế Tôn là khó lãnh hội, nhưng nên suy xét kỹ.

Tụng nêu:

Vì căn ngu có ba

Nói ba uẩn, xứ, giới.

Luận nói: Hữu tình được Phật hóa độ, hàng ngu căn có ba, nên Đức Phật tùy thuận căn cơ thích hợp vì họ giảng nói ba uẩn, xứ, giới. Nói vân vân là làm rõ về lạc, vị, lỗi lầm, bệnh v.v… Nói ba là hiển bày về mỗi mỗi thứ đều có ba. Hữu tình được Phật hóa độ, về hạng ngu có ba thứ: (1) Có loại ngu về tâm sở, chấp chung là ngã. (2) Có loại chỉ ngu về sắc. (3) Có loại ngu về sắc, tâm.

Căn cũng có ba: Lợi căn, trung bình, độn căn. Lạc nghĩa là thắng giải. Lạc này cũng có ba thứ là ưa thích văn rộng, văn vừa, văn gọn. Vị nghĩa là đệ tử. Đã vượt qua tác ý, đã thành thục tập hành, hành nghiệp mới tu tập, vì ba vị riêng khác. Lỗi lầm nghĩa là hữu tình ôm giữ hành ngã mạn, chấp ngã sở, tùy thuộc mê lầm nơi thức dựa duyên, là ba lỗi lầm riêng khác. Bệnh, nghĩa là được hóa độ, dựa cậy nơi thân mạng, của cải, dòng họ mà sinh kiêu mạn, là ba bệnh khác biệt.

Do các duyên này, như thứ tự kia, Đức Thế Tôn đã vì họ giảng nói ba thứuẩn, xứ, giới.

Vì sao Đức Thế Tôn nơi các tâm sở bên trong lập riêng thọ, tưởng làm hai uẩn? Tụng nêu:

Nhân sinh tử căn tránh

Và thứ lớp nơi nhân

Ở các tâm sở pháp

Thọ, tưởng riêng làm uẩn.

Luận nói: Căn tránh của thế gian lược có hai thứ: Nghĩa là tham đắm nơi dục và tham chấp nơi kiến: Loại trước nhân nơi thọ khởi. Loại sau do tưởng sinh. Vì sức của thọ đã nhận lấy vị, nên tham đắm các dục. Vì sức của tưởng đã điên đảo, nên tham chấp các kiến. Lại, pháp sinh tử dùng thọ và tưởng làm nhân hơn hết để đắm nhiễm nơi lạc thọ chấp tưởng điên đảo. Người hành ái kiến là sinh tử luân hồi.

Do hai nhân này và về sau sẽ nói về nhân thứ lớp, nên biết đã lập riêng thọ, tưởng làm uẩn. (Nhân thứ lớp kia phần tiếp sau sẽ biện). Và thanh là gồm hiển bày trong các tâm sở, chỉ thọ, tưởng này là có thể làm ái kiến, vì là căn bản sinh pháp tạp nhiễm, nên cả hai đều nêu rõ riêng về tên của một thức trụ. Dựa vào việc diệt trừ hai thứ thọ, tưởng này nên lập ra định diệt tận.

Các pháp như thế đa số là nhân của phẩm loại, vì sao nói vô vi ở nơi xứ, giới, không phải ở nơi uẩn? Tụng nêu:

Uẩn không nói vô vi

Vì nghĩa không tưởng ưng.

Luận nói: Các pháp vô vi, nếu nói là uẩn thì lập ở trong năm hoặc làm uẩn thứ sáu, đều không hợp lý, vì nghĩa là trái nhau. Vì sao? Vì vô vi kia không phải là sắc, cho đến không phải là thức, nên không phải ở nơi năm uẩn. Nghĩa tụ là uẩn, không phải là pháp vô vi. Như sắc v.v… kia có quá khứ v.v…, phẩm loại có sai biệt có thể tóm lược làm một tụ, gọi là không có uẩn, nên không phải là uẩn thứ sáu. Lại pháp vô vi cùng với điên đảo nương dựa và phương tiện đoạn, nghĩa của chúng là trái nhau, nên nói uẩn hữu lậu là làm rõ về chỗ dựa của điên đảo. Còn nói uẩn vô lậu là làm rõ về phương tiện đoạn. Vô vi đối với hai nghĩa này đều không có, vì nghĩa không tương ưng, nên không lập uẩn.

Đã biện về nhân duyên lập bỏ các uẩn. Sẽ biện về thứ lớp của các uẩn. Tụng nêu:

Tùy theo khí thô, nhiễm

Giới, thứ lớp lập riêng.

Luận nói: Năm uẩn tùy theo khí thô, nhiễm cùng giới riêng khác, nên đã theo thứ lớp để lập. Tùy theo thô để lập: Tức rất thô trong năm thứ đó là sắc uẩn, vì có đối ngại, vì là chỗ dựa của năm thức, là cảnh của sáu thức, nên trong năm uẩn được giảng nói đầu tiên. Thô nhất trong bốn uẩn còn lại đó là thọ uẩn, tuy không có hình chất, nhưng vì tác dụng của hành tướng dễ nhận biết rõ, nên giảng nói đầu trong bốn uẩn. Rất thô trong ba uẩn còn lại đó là tưởng uẩn, tác dụng của các hành tướng như nhận lấy tướng nam, nữ v.v…, vì dễ nhận biết rõ nên nêu giảng trước trong ba. Thô nhất trong hai uẩn còn lại đó là hành uẩn, hành tướng hiện khởi như tham v.v… là phân minh, dễ nhận biết rõ, nên trong hai thứ thì giảng nói trước. Thức uẩn vì rất vi tế, nên giảng nói sau cùng.

Tùy theo nhiễm để kiến lập: Nghĩa là sinh tử từ vô thủy đến nay, nam nữ đối với thân lại cùng ái nhiễm. Do hiển, hình v.v… nên đầu tiên nói sắc. Ái sắc như thế là do tham đắm thọ nhận vị, nên tiếp theo là nói về thọ. Tham đắm thọ nhận vị này là do tưởng điên đảo, nên tiếp theo là nói về tưởng. Tưởng này điên đảo là do sức của phiền não, nên tiếp theo là nói về hành. Sức của phiền não này nương dựa vào thức có khả năng dẫn phát hữu sau sinh, nên sau cùng là nói về thức.

Tùy theo khí v.v…: Nghĩa là sắc như vật chứa đựng, vì là đối tượng nương dựa của thọ. Thọ giống như sự việc ăn uống, vì tăng ích, tổn giảm thân hữu tình. Tưởng thì đồng với hương vị hỗ trợ. Do nhận lấy sự tương trợ bình đẳng trong oán thân đã sinh ra thọ.

Hành giống như người đầu bếp. Do sức của phiền não nơi nghiệp như tư, tham v.v…, các thứ dị thục ái, phi ái v.v… sinh khởi.

Thức dụ cho người ăn, vì trong gốc của hữu tình là chủ hơn hết, nên thức là đứng đầu. Vì thọ cùng sinh. Tức do lý này, nên đối với thọ, tưởng v.v… thì tùy theo trong hành phước, chỉ nói thức là tùy thuận hành phước.

Lại do lý này nên nói hành duyên thức. Do đấy, Đức Phật lại nói với Tôn giả A-nan-đà: Thức nếu không có thì không vào thai mẹ. Vì tâm tạp nhiễm nên hữu tình tạp nhiễm. Tâm thanh tịnh nên hữu tình thanh tịnh. Tức ở trong pháp đều cùng khởi thọ, tưởng.

Các kinh như thế v.v… chỉ nêu lên thức là chủ. Tùy ở giới riêng khác: Nghĩa là trong cõi dục thì sắc là tối thắng, vì sắc của các căn, cảnh đều có đủ. Nơi cõi sắc thì thọ là hơn hẳn, vì ở trong sinh tử các thứ thọ thắng diệu có thể đạt được đủ. Trong ba định vô sắc, thì tưởng là tối thắng, vì địa vô sắc kia nhận lấy tướng rất phân minh. Trong hữu thứ nhất thì hành là hơn hết, vì tư duy của định kia có khả năng chiêu cảm quả rất lớn. Đây tức là thức trụ. Thức trụ trong đó rõ là giống với thứ lớp gieo trồng nơi ruộng của thế gian. Vì vậy thứ lớp của các uẩn là như thế. Do năm uẩn này không có lỗi tăng giảm. Tức do các nhân thứ lớp như thế nên ở trong tâm sở đã lập riêng thọ tưởng. Nghĩa là thọ cùng với tưởng ở trong tâm sở là tướng thô sinh nhiễm, giống với thức ăn đồng hỗ trợ. Vì trong hai cõi là mạnh mẽ, nên lập riêng uẩn.

Đã tùy theo Bản tụng lại căn cứ ở môn chuyển để nói về nhân thứ lớp.

Bốn thứ như thế nên căn cứ nơi môn hoàn diệt để lại nói về một thứ.

Nghĩa là nhập nơi pháp Phật có hai môn chủ yếu: (1) Quán bất tịnh. (2) Trì tức niệm (Quán sổ tức).

Môn quán bất tịnh thì quán về sắc được tạo. Môn trì tức niệm thì niệm đối với đại chủng. Vì là đối tượng duyên của môn chính yếu, nên trước tiên là nói về sắc. Do sức của quán này để phân tích tướng của sắc. Sát-na cực vi lần lượt có sai biệt.

Khi quán như thế, vì thân khinh an, nên tâm liền nhận biết lạc. Tức tiếp theo là nói về thọ. Thọ cùng với thân hợp nhất định là có tổn ích. Do tổn ích nên đối với ngã thì lý tất không thành. Do quán giải này thì tưởng ngã tức diệt, tưởng pháp liền sinh. Nên tiếp theo là nói về tưởng. Vì tưởng này nên thấu đạt, chỉ có pháp, phiền não không hiện hành. Nên tiếp theo là nói về hành. Phiền não đã dứt, tâm trụ nơi điều hòa, thuận hợp, mà có khả năng suy xét. Nên tiếp theo là nói về thức.

Đã nói về thứ lớp thuận, tức thứ lớp nghịch cũng nên nêu bày.

Nhưng sợ văn nhiều sinh chán, nên lại dừng.

HẾT – QUYỂN 2