LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 1

Phẩm thứ 1: PHẦN MỞ ĐẦU

Các hữu khắp nơi tất cả pháp

Hết sức khó biết tự cộng tướng

Riêng hay tỏ hiểu, không tà loạn

Là Nhất thiết trí nay kính lễ.

Con dùng lời nói rộng thuận lý

Đối phá Tông khác hiểu nghĩa gốc

Như lời Kinh chủ, thuận lý giáo

Tức tùy ấn thuật không cầu khác.

Thiếu trái diệu chỉ Đối pháp, Kinh

Quyết định xét tìm, thề trừ bỏ

Đã nêu Luận danh Thuận Chánh

Lý Người ưa xét chọn nên tu học.

Câu văn diễn đạt cách khó tìm

Không ít khó nhọc có thể hiểu

Vì tóm văn rộng khiến dễ rõ

Nên tạo luận lược, gọi Hiển tông.

Vẻ còn tụng kia làm quy hướng

San thuận chánh lý quyết trạch rộng

Đối ngôn lầm ấy nêu giải đúng

Hiển bày nghĩa chân diệu Tông này.

Luận nói: Đã không phải là Biến trí, vì sao có thể nhận biết? Đức Phật, Thế Tôn ở đây là bậc Nhất thiết trí có thể ở nơi các pháp rất khó nhận biết, về tự tướng, cộng tướng đã hiểu biết rõ không tà loạn. Tuy không phải là nhận biết khắp, nhưng cũng có thể nhận biết, như hành giáo của Phật, nhất định đạt được quả. Như người có trí, khéo thấy rõ thuốc hay. Như thế gian có y sư, trước xem xét kỹ về nguồn gốc đã khởi các bệnh như phong, nhiệt, đàm v.v… của người bệnh.

Lại như hai thể của tánh tập nơi quán thật có vô số thứ không đồng như tuổi tác, thời gian, nơi chốn v.v… Vì muốn loại trừ, nên nói trao cho phương thuốc. Các người bệnh hoạn có thể thuận theo việc uống thuốc, bệnh lâu khó chữa trị sẽ được dứt trừ dần, thân ngày càng thêm an ổn. Người trí tìm cầu, thể nghiệm, nhận biết về vị lương y thật đối với các phương thuốc có đủ biến trí thanh tịnh. Như vậy, Đức Thế Tôn đã nhận biết về nguyên do của các bệnh thuộc phiền não như tham, sân, si v.v… nơi các chúng sinh được giáo hóa.

Lại như quán thật về bản tánh tu tập hai chủng tử thiện, thắng giải về tùy miên, cùng người trí kia có khả năng tự hành viên mãn v.v… Vì muốn tùy miên ấy liền được vĩnh viễn diệt trừ, nên nói trao cho phương thuốc của hai đạo điều phục đoạn trừ. Các người được hóa độ có thể thuận hành sự việc uống thuốc, hoặc riêng, hoặc chung, về đạo đối trị các chứng bệnh phiền não đã hành tập lâu bền tăng trưởng từ vô thủy, được trừ bỏ dần dần. Các thứ như tham v.v… được diệt dứt, ở trong tự thân, thuận theo đạo cạn sâu, càng tăng hơn gấp bội.

Do đấy, ngưỡng mong bậc Đại sư của con, đã diệt hết tất cả tối tăm, gồm đủ nhất thiết trí lường xét nhận biết. Nên người tán tụng đã tạo tụng khen ngợi Phật:

Ai như Thế Tôn khéo phân biệt

Tự, cộng tướng, cảnh giới tùy miên

Vô lượng vô biên các phẩm loại

Giảng nói thích hợp lợi hữu tình.

Ai có thể dần dần thuận tu

Nơi vui thắng lợi không được thành

Không trí chẳng thể thuận Thánh giáo

Há không xét lỗi tại Như Lai.

Có người tăng thượng mạn đối với sự việc xét chọn đã cho: Đức Phật không phải là bậc Nhất thiết trí, vì đối với một số vấn đề được thưa hỏi, Đức Phật đã trả lời theo hướng dị biệt. Như nói: “Điều này không nên ghi nhận”. Cách trả lời dị biệt như thế là do Đức Phật không nhận biết. Lại đối với các sự việc thuộc về biên vực đầu tiên, Đức Phật nói là không thể nhận biết. Điều này tức đã tự hiển bày Đức Phật không nhận biết. Lại không nhận biết trước sự việc của Tôn-đàlợi cùng để cho bè nhóm của kẻ ấy mặc tình tạo các việc ác. Lại đối với nữ Bà-la-môn Chiến-già đã khởi hủy báng, Đức Phật cũng không thể ngăn trừ được.

Lại như trước đã chấp thuận cho Đề-bà-đạt-đa ở trong pháp Phật được xuất gia.

Lại, đối với ngoại đạo Ốt-đạt-lạc-ca, trước đã tự mình không nhận biết về thọ mạng còn mất. Lại, Đức Phật đã không dự tính là ở nơi thành Ba-trá-ly, sẽ có sự nạn như thế dấy khởi. Lại, Đức Phật đã không huyền ký là từ trong pháp Phật sẽ có mười tám bộ chấp dị biệt. Lại, Đức Phật vì thuyết giảng về các nghiệp có bất định, nên ngoại đạo đã có lời phỉ báng. Lược thuật là như thế.

Các ngoại đạo kia luôn mang giữ tâm cố chấp. Bậc Nhất thiết trí tôn tuy đã thiết lập vô số các phương tiện thiện xảo để hóa độ dẫn dắt, nhưng vẫn chưa thể khiến những kẻ kia đối với bậc Chánh đẳng giác sinh tín giải thanh tịnh. Vì phải là người có đủ phước tuệ thù thắng cầu đạt chân lý mới có khả năng lường xét biển Nhất thiết trí.

Nay tôi phát tâm chánh cần dũng mãnh, tinh tấn, thuận hợp như lý đối với những trường hợp ít khai ngộ.

Nói đối với một số vấn đề được thưa hỏi, Đức Phật đã đáp theo hướng dị biệt. Như nói: “Điều này không nên ghi nhận”. Những kẻ kia cho các lời đáp theo hướng dị biệt là vì Đức Phật không nhận biết nên nói thế. Vấn nạn này là không hợp lý, vì nhân đã lập kia không phải là quyết định. Lại nên suy xét kỹ. Đức Phật, Thế Tôn đối với các sự việc được thưa hỏi, không phải do không nhận biết nên nói: Không nên ghi nhận. Nhưng là vì Đức Phật xét thấy người thưa hỏi kia mang tâm kiêu mạn, ngầm cho là thông tuệ, không phải có thể tức thì khiến tin hiểu như lý, nên tuy Đức Phật đã thông tỏ mà không vì họ ghi nhận. Như có kẻ giả vờ hỏi: Các đứa con của thạch nữ là đen hay trắng? Hoàn toàn là không vì kẻ hỏi kia để ghi nhận. Đâu có riêng cách nào khác mới có thể đuổi người hỏi ấy đi nhanh được.

Như thế ngoại đạo đã chấp ngã là thật, giả vờ hỏi: Như Lai sau khi diệt độ là có hay là không có?

Đức Thế Tôn bảo: Điều này không nên ghi nhận.

Ý của Đức Phật nói: Ngã thật sự là không có, vì thế không nên ghi nhận riêng. Điều này chỉ rõ, nếu các pháp đều không phải là thật có, thì không nên ở trong ấy nêu đặt câu hỏi sai biệt. Hoặc Đức Phật, Thế Tôn đã khéo tạo phương tiện quyền xảo, vì khiến điều phục nên không vì họ ghi nhận. Ở đây, không vì họ ghi nhận là nhân của sự điều phục, không phải do không nhận biết mà nêu ra lời đáp theo hướng dị biệt. Lại càng không nên cho Đức Phật không có biện tài.

Vì câu hỏi của ngoại đạo kia đã không thuộc về luận đạo. Nếu những điều được thưa hỏi thuộc về luận đạo mà Đức Phật đã không ghi nhận thì có thể là không có biện tài. Vì ở đây không phải là vấn nạn như lý, chỉ là phần ít có thể đạt được, vì sao lại cho là Đức Phật không có biện tài? Lại, người nghe pháp, vì tâm không ân cần, vì chấp ngã kiến, vì căn chưa thành thục, nên Đức Thế Tôn không có cách nào khiến họ tin hiểu, nên ở nơi câu hỏi của họ đã để qua một bên không ghi nhận.

Vì thế không nên lấy việc không ghi nhận những gì ngoại đạo đã hỏi mà cho Đức Đại Tiên Tôn không phải là bậc Nhất thiết trí.

Nói: Đối với vấn đề biên vực đầu tiên, nói không thể nhận biết, điều ấy tức tự hiển bày Đức Phật là không nhận biết, điều này cũng phi lý. Vì pháp không thì không nên làm cảnh của trí. Đối với cảnh của pháp có, trí nếu không sinh thì có thể cho là Như Lai không phải bậc Nhất thiết trí. Nhưng vốn không có biên vực đầu tiên, thì đối tượng nhận biết của trí là gì? Vì không có nên không nhận biết, há thành không có trí? Nếu như vậy thì vì sao không chỉ nói là không có? Ở đây nói không chấp nhận lại lập nhân, nếu cho tức nên lập nhân nhưng không thể nhận biết về nhân, thì điều này cũng không đúng, vì không phải là quyết định. Hoặc pháp tuy có nhưng duyên thiếu không biết, nên không thể nhận biết, không phải là không có tánh của nhân. Hoặc lập không có tánh vì không nhận biết về nhân, tức cuối cùng không thể làm đồng dụ, vì chấp nhận có nhân, nên nói là không thể nhận biết. Nếu cho không nhân mà có lỗi không thành, thì điều này không hợp, vì không phải là không thành. Vì biên vực đầu tiên của sinh tử, nếu quyết định không phải là không có, thì thân của biên vực đầu tiên là không, không có nhân để khởi. Đầu tiên không có nhân, thì về sau cũng tức nên là không có, vì thân trước sau là không có nhân khác. Nếu thừa nhận như vậy, tức các nghiệp tịnh, bất tịnh đã hiện hành, đều nên không có quả.

Đã không cho như thế, thì biên vực đầu tiên đã lập trước kia là không có, không phải là không thành nhân. Nếu cho sinh tử không có biên vực đầu tiên, nên phải như hư không, không có biên vực sau thì cũng không hợp lý, vì ngoại chủng là đồng. Như lúa mì bên ngoài, sau nhân nơi trước sinh. Tuy không có biên vực đầu tiên, nhưng gặp các duyên thiêu đốt làm rữa nát như lửa nước thì hoại diệt vĩnh viễn.

Như thế, nhân của nghiệp phiền não nơi sinh tử là lần lượt cùng sinh. Tuy không có biên vực đầu tiên, nhưng do thường hành tập nơi sức đối trị tham, sân, si v.v…, nên các uẩn sinh tử rốt cùng là không sinh, tức là biên vực sau, vì hoàn toàn không sinh, nên biên vực sau có thể không có hữu sinh tử sinh. Há không có pháp sinh hiện thấy của biên vực sau, khi quyết định có chung cuộc về sinh tử đã sinh, lý tất quy về diệt, nên đối với biên vực đầu tiên Đức Phật nói là: “Không thể nhận biết”, vì không có nên làm nhân nghĩa ấy tức khéo lập.

Vì vậy không nên lấy việc không nhận biết về biên vực đầu tiên để cho Đức Phật, Thế Tôn không phải là bậc Nhất thiết trí.

Nói Đức Phật không biết trước sự việc của Tôn-đà-lợi cùng để cho bè nhóm của kẻ ấy mặc tình tạo các việc ác, điều này cũng phi lý, vì tuy nhận biết trước, nhưng vì để tránh nhiều lỗi, nên không tự hiển bày. Nếu Đức Phật nói trước: Ta không có sự việc này, vì sự việc ấy tự là người khác, tức khiến bè nhóm của kẻ kia, tâm xấu ác càng tăng thêm nhiều. Các kẻ đứng giữa đều cùng hoài nghi: Tội lỗi như thế là do Đức Phật hay là do người kia? Lại, pháp của bậc đại nhân là không nêu rõ điều sai quấy của người khác. Đức Phật là bậc đại nhân, há lại nêu lên điều xấu ác của kẻ khác? Lại làm rõ việc xấu ác của kẻ kia, khiến cho vô lượng người oán ghét, là trái với pháp của Đức Thế Tôn, làm chướng ngại họ đến với chánh pháp. Lại, Đức Phật quán thấy thân mình, thân người khác có định nghiệp chiêu cảm sự hủy báng về thọ mạng ngắn ngủi. Lại, vì để khai thị, an ủi Bí-sô đời sau cùng. Như Đức Phật quán chánh pháp nơi đương lai sắp ẩn mất, chúng đa văn giữ giới đều kỳ vọng ở Bí-sô, ít có ai không gặp phải những hủy báng mà qua đời. Vì muốn khiến họ tự mở bày an ủi, như nói: “Bậc Đại Tiên Tôn của chúng ta, tất cả lỗi lầm của phiền não, tập khí đều đã vĩnh viễn nhổ tận gốc rễ, danh xưng vang khắp đến tận cõi trời Sắc cứu cánh, hãy còn bị phỉ báng, huống chi là chúng ta người nào nhân nơi tâm này mà an ổn tu các nghiệp thiện”.

Do quán quyết định về được, mất như thế, nên Đức Thế Tôn đã không tự bày tỏ trước. Lại, qua bảy ngày thì sự việc kia tự hiện rõ, chứng tỏ Đức Phật là tôn quý cao cả, hơn hẳn nơi chốn ngoại đạo quy hướng. Thế nên không vì Đức Phật không tự hiển bày về nhân mà cho Đức Phật, Thế Tôn không phải là bậc Nhất thiết trí. Tức do đấy nên biết là đã giải thích về sự việc.

Đức Phật không tự vạch ra trừ bỏ nhân đã khiến nữ Bà-la-môn Chiến-già hủy báng mình.

Sở dĩ Đức Phật đã chấp thuận cho Đề-bà-đạt-đa ở trong pháp Phật được xuất gia, vì sự việc này có ý sâu xa: Đức Phật quán xét Đề-bà-đạt-đa kia, nếu không xuất gia thì nhất định sẽ được làm Lực Chuyển Luân Vương, sẽ giết hại vô số người, diệt hoại pháp Phật, rơi vào nẻo ác, khó có kỳ hạn ra khỏi.

Do độ cho Đề-bà-đạt-đa xuất gia là để gieo trồng sâu gốc thiện, vì nếu không phải là người xuất gia, thì không có khả năng gieo trồng. Vì nhằm bảo hộ cho nhiều người khiến không bị tổn hại, cùng để ngăn chận các điều ác, nên Đức Phật đã chấp thuận cho xuất gia.

Nói Đức Phật đối với ngoại đạo Ốt-đạt-lạc-ca, trước đã tự mình không nhận biết về thọ mạng còn mất, điều này cũng phi lý. Vì nhớ nghĩ tức là nhận biết, không phải ở vào thời gian của cảnh khác thì nhận biết khác sinh khởi, tức có thể nhận biết rõ về cảnh được nhận biết còn lại. Tâm của Đức Phật trước hết là ở trong sự việc thuyết pháp, chưa quán xét về sự còn mất nơi thân mạng của người kia. Về sau khi muốn nhận biết, vừa khởi tâm tức thì nhận biết như thật, thì thọ mạng của người kia đã không còn. Nếu muốn nhận biết về người kia nhưng không thể nhận biết được, tức có thể cho Như Lai không phải là bậc Nhất thiết trí. Do tâm thuộc về cảnh khác, cảnh này tâm chưa duyên, lại cho là không nhận biết, thì điều ấy là không hợp lý.

Nói Đức Phật đã không dự tính là ở nơi thành Ba-trá-ly sẽ có sự nạn như thế dấy khởi, thì điều ấy cũng không hợp lý, vì dự định mật tức trước là mật ý nói. Nếu thoát khỏi cảnh khác, thì cảnh khác lại bị tổn hại do cảnh khác. Nghĩa là Đức Phật trước đã nhận biết, nếu bảo vệ cảnh khác, thì cảnh đó tất cũng bị tổn hại do cảnh khác. Ở nơi ba sự nạn, mỗi nạn đều khiến tự phòng hộ để các trường hợp còn lại không thể bị tổn hại, nên là mật ý nói.

Ở đây tức là dự định về sự nạn tất như thế, vì sao cho Đức Thế Tôn không phải là bậc Nhất thiết trí?

Nói Đức Phật đã không huyền ký là từ trong pháp Phật sẽ có mười tám bộ chấp dị biệt, điều này cũng phi lý, vì Đức Thế Tôn đã huyền ký. Như nói: “Đương lai có chúng Bí-sô đối với những giáo nghĩa Ta đã giảng nói không khéo nhận biết rõ, chấp giữ theo cục bộ, cạnh tranh dấy lên, đều cùng nhau phỉ bác hủy báng”.

Đức Thế Tôn ở đây đã lược nêu bày về hai thứ trong ngoài nên phòng hộ. Trong nghĩa là nên như thuyết khác, thuyết lớn, là Khế kinh đã hiển bày nên quán xét để phòng hộ. Ngoài, nghĩa là nên như sáu pháp đáng yêu thích, như Khế kinh đã nói rõ, nên thâu giữ, phòng hộ.

Lại thấy nơi Khế kinh Tập pháp nói: Ở trong pháp của ta, sẽ có dị thuyết. Đó là có thuyết chỉ cho định kim cang dụ mới có khả năng đoạn trừ tức khắc phiền não. Hoặc nói về trạch diệt Niếtbàn, hai pháp làm thể. Hoặc nói: Hành bất tương ưng không có vật thật riêng. Hoặc cho: Nghiệp biểu hãy còn không có huống chi là nghiệp vô biểu. Hoặc nói: Tất các sắc pháp thì đại chủng làm thể. Hoặc cho: Trước sau giống nhau là nhân đồng loại. Hoặc nêu: Sắc xứ chỉ dùng hiển sắc làm thể. Hoặc nói: Xúc xứ chỉ dùng đại chủng làm thể. Hoặc cho: Chỉ có xúc xứ là có đối ngại. Hoặc nêu: Chỉ có xúc xứ, thân xứ là có đối ngại. Hoặc nói: Chỉ có năm xứ ngoài là có đối ngại. Hoặc nói: Nhãn thức có khả năng thấy. Hoặc cho: Hòa hợp có thể nhận thấy. Hoặc nêu: Ý giới, pháp giới đều cùng có thường, vô thường.

Hoặc cho: Tất cả sắc pháp không phải là sát-na diệt. Hoặc nói: Hành bất tương ưng có nhiều thời gian trụ. Hoặc cho: Định vô tưởng diệt đều hiện có tâm. Hoặc nêu rõ: Đẳng vô gián duyên cũng chung nơi sắc pháp. Hoặc nói: Tất cả sắc pháp không có nhân đồng loại. Hoặc cho: Sắc của dị thục sinh đoạn trừ xong lại nối tiếp. Hoặc nêu: Bàng sinh, ngạ quỷ, nẻo trời cũng được giới biệt giải thoát. Hoặc nói: Tâm không nhiễm ô cũng được nối tiếp sinh. Hoặc cho: Tất cả sự sinh nối tiếp đều do ái, giận. Hoặc nêu: Luật nghi, không luật nghi, phần thọ cũng toàn thọ. Hoặc nói: Bàng sinh, ngạ quỷ có nghiệp vô gián. Hoặc nêu: Hai đạo vô gián, giải thoát đều cùng có khả năng đoạn trừ các phiền não. Hoặc cho: Ý thức tương ưng với tuệ hữu lậu thiện, không phải đều là kiến. Hoặc nói: Hai kiến thân, biên đều là bất thiện, cũng duyên nơi giới khác. Hoặc cho: Tất cả phiền não đều là bất thiện. Hoặc nói: Không có lạc thọ, xả thọ. Hoặc nêu: Chỉ không có xả thọ. Hoặc nói: Trong cõi vô sắc cũng có các sắc. Hoặc cho: Nơi trời Vô tưởng chết đi đều bị đọa vào nẻo ác. Hoặc nói: Tất cả hữu tình không có chết phi thời. Hoặc cho: Các tuệ vô lậu đều là tánh của trí kiến. Hoặc nêu: Không có khứ lai, tất cả hiện tại đều riêng, riêng mà nói. Hoặc cho: Sắc, tâm không phải hỗ tương làm nhân câu hữu. Hoặc nêu: Nơi phần vị Yết-lạt-lam thì tất cả sắc căn đều đã được đủ. Hoặc nói: Các người được pháp đảnh đều không đọa vào nẻo ác. Hoặc cho: Các nghiệp thiện, ác đều có thể chuyển diệt. Hoặc nêu: Thể của các pháp vô vi không phải là thật có. Hoặc nói: Các đạo thế gian không đoạn trừ phiền não. Hoặc cho: Chỉ nơi châu Thiệm Bộ là có khả năng khởi nguyện trí, vô tránh, vô ngại và Tam-ma-địa trùng lặp. Hoặc nêu: Tâm tâm sở pháp cũng duyên nơi cảnh không có.

Các thứ tranh luận sai biệt như thế đều thuật lại chỗ chấp ấy, số lượng vượt hơn nhiều ngàn, thầy trò kế thừa nhau khoảng hàng trăm ngàn chúng, vì các đạo tục giải nói tán dương.

Trong pháp Phật của chúng ta nơi đời vị lai sẽ có các cuộc tranh luận không đồng như thế. Vì quyền lợi, vì danh xưng, nên đã thuyết giảng xấu ác, thọ nhận xấu ác, không chứng pháp thật, mà chỉ làm rõ về điên đảo. Tức ở nơi Bộ này, trong quá khứ, hiện tại, đương lai, cũng có những thứ tranh luận sai biệt như thế.

Đức Thế Tôn đã huyền ký phân minh như vậy, nhưng các đệ tử đã không quan tâm đến lời Thánh nói, đều chấp theo tông mình, cùng nhau phỉ bác, hủy báng, lỗi ấy là thuộc về đệ tử, há ở nơi Đức Thế Tôn? Không thể do đấy để phỉ báng bậc Nhất thiết trí.

Đức Phật vì giảng nói về các nghiệp có bất định v.v…, về lý cũng không đúng. Vì có nghiệp này thì nhất định nên thừa nhận có tánh của nghiệp bất định có thể chiêu cảm dị thục. Nghiệp này nếu không có thì do tu đạo đoạn trừ kiết tức là vô ích, vì tất cả nghiệp đều nhất định được quả. Không nên do các nhân đã nói ở đây, hoặc lại do nhân khác để hủy báng bậc Nhất thiết trí. Đức Thế Tôn đã thành tựu công đức hy hữu không thể nghĩ bàn nên danh xưng cao rộng.

Những hủy báng phi lý tức chuốc lấy vô biên tội. Các người có trí đều nên tin Phật. Vì gồm đủ Nhất thiết trí, nên trước hết là lễ kính.

 

Phẩm thứ 2: BIỆN VỀ BẢN SỰ, phần 1

Các Nhất thiết chủng, các tối diệt

Cứu chúng sinh khỏi bùn sinh tử

Kính lễ Sư như lý như thế

Luận Đối Pháp Tạng con sẽ nói.

Luận nói: Các lời nói tuy chung nhưng riêng có đối tượng quán. Đối tượng quán nào là riêng có? Nghĩa là đều cùng có đức lợi viên mãn. Vì trí đoạn đủ nên đức tự lợi viên mãn. Vì ân đức đủ, nên đức lợi tha viên mãn. Đây tức là bậc Nhất thiết trí có thể cứu vớt hữu tình. Tất cả các thứ tối tăm đều được diệt trừ vĩnh viễn, nên trí đức viên mãn. Các cảnh giới tối tăm cũng được diệt bỏ vĩnh viễn, nên đoạn đức viên mãn. Truyền trao chánh pháp, tự tay cứu vớt chúng sinh ra khỏi vũng bùn sinh tử, nên ân đức viên mãn. Hàng Thanh văn, Độc giác tuy diệt bỏ các thứ tối tăm, do nhiễm về vô tri đã đoạn trừ rốt ráo, nhưng vì không phải là nhất thiết chủng, vì thiếu khả năng diệt trừ vĩnh viễn, lại vì trí thù thắng không nhiễm về vô tri không phải gồm đủ nhất thiết trí, nên không có khả năng cứu vớt hữu tình.

Tối tăm: Nghĩa là mắt bị màng che, có thể che lấp mắt tịnh.

Như thế vì vô tri là chướng ngại nơi sự việc thấy rõ thấy đúng. Hoặc (phiền não) tối tăm là thứ hôn ám có thể che phủ các sắc tượng. Như thế, vô tri che lấp nghĩa thật, các hữu thù thắng khi đạo đối trị sinh, khiến sự che lấp kia vĩnh viễn không sinh, nên gọi là diệt, nghĩa là diệt trừ tất cả phẩm nơi các cảnh tối tăm, nên nói nhất thiết chủng, các tối tăm diệt.

Cứu chúng sinh khỏi bùn sinh tử: Do sinh tử kia là nơi chốn luôn bị chìm đắm của các hữu tình từ vô thủy đến nay. Vì khó có thể ra khỏi, nên ví như bùn, chúng sinh ở trong đó lặn hụp, chìm nổi không ai cứu vớt. Các hữu thành tựu trí thiện xảo, cùng đại bi, truyền trao, như chỗ ứng hợp nên nói là cứu vớt khiến ra khỏi.

Kính lễ Sư như lý như thế: Là cúi lạy trước bậc Đại sư gồm đủ đức tự lợi, lợi tha, có thể giảng nói Thánh giáo như lý. Vì trí của ý lạc, tùy miên còn thiếu, nên hàng Thanh văn, Độc giác không phải là Sư như lý. Chỉ Đức Phật, Thế Tôn gồm đủ đức như thế. Vì vậy trước là nêu chung các lời nói về đối tượng quán là đang lưu thông. Bậc Đại sư kia đã lập giáo, nên trước là tán thán, đảnh lễ Sư như lý giáo. Dùng ngôn từ tán thán, kính lễ, nhằm dứt trừ các chướng ác, nêu rõ điềm tốt đẹp xong, là thừa nhận phát khởi nguyện do tạo luận, nên nói: “Con sẽ nói về Đối pháp tạng”.

Thế nào gọi là Đối pháp? Tụng nêu:

Tuệ tịnh tùy hành gọi Đối pháp

Cùng có thể được tuệ luận này.

Luận nói: Tịnh, nghĩa là vô lậu. Tuệ, nghĩa là trạch pháp. Tuệ tịnh này tức gồm thâu chung các tuệ căn vô lậu. Do đâu được biết chỉ tuệ vô lậu gọi là Đối pháp? Vì Đức Phật, Thế Tôn đã cho phép Thiên Đế v.v… tự ý thỉnh hỏi. Như Khế kinh nói: “Ta có A-tỳ-đạt-ma và Tỳ-nại-da rất thâm diệu, ông mặc sức thỉnh vấn”. Là chấp thuận cho Thiên Đế thưa hỏi về Thánh đạo và nghĩa của quả do Thánh đạo này đã chứng. Khế kinh Tứ Phạt Tha Tần cũng như vậy.

Lại nữa, do duyên gì chỉ tuệ vô lậu gọi là Đối pháp? Do hiện quán về tướng của các pháp ấy rồi thì không còn mê lầm nữa. Há chẳng phải hiện quán nào không phải chỉ là công năng của tuệ. Tức là Đối pháp nên không phải chỉ là tuệ?

Vì chánh giác về lý của đế gọi là hiện quán, nên dụng của hiện quán chỉ là tuệ, không phải là pháp khác. Lại trong hiện quán, tuệ là hơn hết, vì gồm đủ ba công năng, nên riêng gọi là Đối pháp. Nhưng Đối pháp này không phải là không đối đãi với pháp khác, nên tuệ tùy hành cũng gọi là Đối pháp, tức quyến thuộc của tuệ gọi là tùy hành.

Quyến thuộc là thế nào?

Nghĩa là tuệ tùy chuyển nơi các tâm sở pháp đã sinh như sắc, thọ, tưởng v.v… cùng tâm.

Như thế, năm uẩn vô lậu nói chung gọi là Đối pháp. Đây tức là A-tỳ-đạt-ma thắng nghĩa.

Nếu nói A-tỳ-đạt-ma thế tục, tức có thể đạt được các tuệ nơi các Luận này. Đây gọi là các tuệ của tuệ căn vô lậu đã được ở trước. Nghĩa là có thể đạt được ba tuệ thế gian, tức là văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ thù thắng của thế gian. Và tùy hành của tuệ kia dựa vào chỗ đạt được gần xa, nói là thứ lớp của ba tuệ. Không phải lìa tuệ và tùy hành như thế, thì tuệ căn vô lậu có khả năng chứng đắc, là có thể được phương tiện hơn hẳn này, nên đồng với tuệ vô lậu, thọ nhận tên Đối pháp. Như phương tiện của Từ cũng gọi là Từ v.v…

Luận nghĩa là khả năng chứng đắc. Các luận như Phát Trí v.v… này là tư lương hơn hẳn của tuệ vô lậu, nên cũng gọi là Đối pháp. Như các thứ tư lương như lậu v.v… nơi dị thục của nghiệp, cũng gọi là nghiệp. Các tuệ trước đã nói cũng gồm thâu sinh đắc. Chỉ tuệ sinh đắc mới có khả năng đọc tụng hành trì đúng đắn về luận Đối pháp, nên cũng gọi là Đối pháp. Há không phải Luận này là tư lương thù thắng của tuệ vô lậu nên cũng gọi là Đối pháp. Vì sao chỉ gọi riêng là Đối pháp? Tụng Câu Xá nói:

Gồm thâu thắng nghĩa dựa vào đấy

Đây lập Đối pháp, tên Câu Xá.

Luận nói: Tạng, nghĩa là chắc thật cùng như tạng cây. Thật nghĩa của Đối pháp đều gồm thâu vào Luận này. Luận này là kho chứa (Tạng) của Đối pháp kia, tức là kho tàng của nghĩa chắc thật thuộc về Đối pháp. Hoặc là đối tượng nương dựa cũng như Tạng đao, tức Đối pháp kia là đối tượng nương dựa của Luận này, dẫn đến nghĩa của Đối pháp, nói là tạo luận, nên Luận này dùng Đối pháp kia làm Tạng, tức là nghĩa dùng Đối pháp làm đối tượng nương dựa.

Tạng Đối pháp kia nhân nơi gì để nói? Ai lại nói trước? Tuy không nên hỏi về người giảng nói Đối pháp, vì Phật dạy dựa vào pháp, không dựa vào người. Nhưng vì nhằm khai thị nêu bày về nhân của Đối pháp, tức người có khả năng giảng nói Đối pháp, cũng nên hiển bày. Tụng nêu:

Nếu lìa trạch pháp, định rốt ráo

Hay diệt các Hoặc phương tiện thắng

Do Hoặc, thế gian trôi biển hữu

Vì Đại sư tịch nói Đối pháp.

Luận nói: Do lìa trạch pháp thì không có phương tiện nào vượt hơn, có khả năng diệt trừ các Hoặc dẫn sinh khổ của thế gian, nên Đức Thế Tôn nói: “Nếu đối với một pháp chưa thấu đạt, chưa nhận biết, thì Ta trọn không nói là có thể diệt hết khổ thực sự. Vì thế gian chưa diệt trừ các phiền não, nên luôn mãi sinh tử luân hồi ở trong biển ba hữu”.

Vì khiến cho thế gian tu tập trạch pháp để vĩnh viễn chấm dứt phiền não là nhân sinh của ba hữu, thế nên bậc Đại sư trước hết đã tự diễn nói về A-tỳ-đạt-ma. Đức Phật nếu không giảng nói, thì các Đại Thanh văn như Tôn giả Xá-lợi-tử v.v… cũng không có khả năng ở nơi tướng của các pháp xét chọn như lý. Tuy nhiên, Đức Phật, bậc Đại sư đã tùy theo đối tượng được hóa độ, vì tánh có sai biệt nên xứ xứ đã thuyết giảng khắp.

Các bậc Đại Thanh văn như Tôn giả Ca Đa Diễn Ni Tử đã dùng nguyện trí vi diệu quán xét giáo pháp do Phật quá khứ đã giảng nói. Như đối tượng ứng hợp kia đã được kết tập đặt yên. Như Đại Tôn giả Ca Diếp Ba v.v… đã cùng kết tập Luật và Khế kinh. Hai tạng Kinh, Luật là theo văn kết tập, chỉ tạng Đối pháp là theo nghĩa để kết tập. Như nói về các hữu để kết tập nơi nghĩa lời. Đối với Luật và Kinh, thì Đối pháp kia là thù thắng, vì tùy thuận Thánh giáo của Phật, kết tập Đối pháp là luận đã được Đức Phật thừa nhận và được Đức Phật nêu bày về danh xưng.

Những gì gọi là pháp của đối tượng tư duy lựa chọn? Đức Thế Tôn đã dựa vào đấy để thuyết giảng Đối pháp chăng? Tụng nêu:

Pháp hữu lậu, vô lậu

Trừ đạo, hữu vi khác

Nơi lậu kia tùy tăng

Nên gọi là hữu lậu.

Vô lậu là đạo đế

Cùng ba thứ vô vi

Tức hư không, hai diệt

Trong đấy, không vô ngại.

Trạch diệt là lìa buộc

Theo buộc, sự đều riêng

Cuối cùng ngăn sẽ sinh

Riêng được phi trạch diệt.

Luận nói: Nói tất cả pháp lược có hai thứ: (1) Hữu lậu. (2) Vô lậu.

Đây là nói chung, tiếp theo sẽ giải thích riêng. Trừ đạo Thánh đế, các pháp hữu vi còn lại, đó gọi là hữu lậu.

Đây lại là thế nào? Nghĩa là sắc của năm thủ uẩn cho đến thức. Như nói: Thế nào gọi là sắc thủ uẩn? Nghĩa là sắc hữu lậu tùy thuận các thủ, nói rộng cho đến thức cũng như thế.

Do đâu thủ uẩn gọi là hữu lậu? Vì ở trong đó lậu đã tùy tăng. Trong các phiền não như hữu thân kiến v.v… đã lập danh tưởng lậu, vì khiến tâm nhiễm ô thường tiết lậu (rỉ chảy). Cùng với lậu tương ưng và vì lậu tăng theo cảnh giới của lậu, nên gọi là lậu tùy tăng. Về nghĩa của tùy miên tùy tăng phần sau sẽ biện rộng.

Do đấy nên biết vô lậu đã ngăn chận tất cả, vì cõi, địa không đồng tùy miên hữu lậu duyên nơi cảnh giới phiền não. Vì hữu lậu kia, vô lậu này lần lượt không tùy tăng, nên không phải là cùng đối lập.

Hai thứ như thế gọi là hữu lậu, vô lậu.

Lại có tướng gì? Như Đức Thế Tôn nói: Pháp hữu lậu, nghĩa là sắc hiện có tùy thuận các thủ, là nghĩa của các hữu thủ có thể tăng trưởng, nói rộng cho đến thức cũng như vậy. Cùng với hữu lậu này trái nhau là pháp vô lậu. Tướng tóm lược của hữu lậu, vô lậu là như thế. Hoặc hữu lậu nghĩa là gắn liền với thế gian. Nếu xuất thế gian thì gọi là vô lậu. Thuộc về thế gian, gọi là gắn liền với thế gian, tức là nghĩa ở nơi thế gian, không ra ngoài thế gian. Vì dựa vào thể của khổ đế để lập danh xưng thế gian, nên Khế kinh nói: Ta sẽ vì ông tuyên nói về thế gian và thế gian tập.

Lại năm thủ uẩn gọi là hữu lậu khổ, nên biết hữu lậu nghĩa là gắn liền với thế gian, đâu thể nhận biết gắn liền với thế gian đều là pháp hữu lậu. Như Đức Thế Tôn nói: Ta sẽ vì ông tuyên nói về pháp hữu lậu và vô lậu. Pháp hữu lậu nghĩa là các nhãn hiện có, các sắc hiện có, các nhãn thức hiện có, các nhãn xúc hiện có. Các nhãn xúc hiện có vì duyên nơi bên trong đã sinh, hoặc lạc thọ, hoặc khổ thọ, hoặc bất khổ bất lạc thọ.

Như thế cho đến ý gắn liền với thế gian, pháp gắn liền với thế gian, ý thức gắn liền với thế gian, ý xúc gắn liền với thế gian, nói rộng cho đến gọi là pháp hữu lậu.

Pháp vô lậu, nghĩa là ý xuất thế gian, pháp xuất thế gian, ý thức xuất thế gian, ý xúc xuất thế gian, nói rộng cho đến gọi là pháp vô lậu.

Dựa vào Thánh giáo này và do chánh lý, nên nhận biết gắn liền với thế gian đều là hữu lậu.

Đã biện về hữu lậu và nhân của hữu lậu.

Thế nào là vô lậu?

Nghĩa là đạo Thánh đế và ba vô vi, gọi là vô lậu. Đạo Thánh đế nghĩa là không phải là năm uẩn hữu lậu như sắc v.v… Ba vô vi: Tức là hư không, trạch diệt, phi trạch diệt. Hư không v.v… này và đạo Thánh đế, gọi là nhân của vô lậu.

Trước đã nói về đạo Thánh đế kia, phần tiếp sau sẽ biện rộng.

Ở trong ba vô vi đã lược nêu thì hư không chỉ lấy vô ngại làm tánh, nơi ấy các pháp đều được hiển hiện cùng tột. Vì không có chướng ngại làm tướng, nên gọi là hư không. Nghĩa là các đại chủng và tụ sắc được tạo, tất cả đều không thể ngăn ngại, che lấp khắp. Hoặc không phải là đối tượng bị chướng ngại, cũng không phải là chủ thể tạo chướng ngại, nên nói là hư không, vì không có chướng ngại làm tướng. Trạch diệt, tức dùng lìa trói buộc làm tánh. Trạch, nghĩa là siêng năng như lý tạo thành tuệ. Ở nơi bốn Thánh đế đều có hành tướng riêng khác, vì xét chọn như lý, nên gọi là trạch.

Do trạch nên các pháp hữu lậu đã có được cùng với tánh là vĩnh viễn lìa trói buộc. Tánh này nhất định có khả năng ngăn chận các thứ trói buộc được sinh, nên gọi là trạch diệt. Hoặc có khi là diệt nhưng không phải là lìa trói buộc. Vì phân biệt với pháp kia, nên nói là lìa trói buộc.

Có thuyết nói: Các pháp được đoạn đều đồng một trạch diệt. Vì không đồng loại, nên các Đại Luận sư của A-tỳ-đạt-ma đều nói thế này: Tùy theo sự trói buộc riêng khác. Vì sao? Vì sự trói buộc này, nếu là một, thì tu đạo đối trị khác tức có lỗi vô dụng. Nếu các đối tượng đoạn đều đồng một trạch diệt, thì khi chứng đắc khổ pháp trí nhẫn đã đoạn trừ phiền não diệt, phiền não diệt còn lại là được chứng đắc không?

Nếu chứng đắc thì sự việc tu đạo đối trị còn lại tức là vô dụng. Nếu không chứng đắc, tức là một vật chứng đắc một ít, không phải pháp khác, so với lý là trái nhau, vì lỗi có phần. Do đấy nhất định nên thừa nhận sự việc lìa trói buộc là tùy thuộc vào lượng của sự trói buộc, tức không trái với chánh lý.

Không đồng loại, nghĩa là vì trạch diệt này tự nó không có nhân đồng loại, cũng không phải là nhân khác, nên vĩnh viễn ngăn chận phiền não sẽ sinh, đạt được phi trạch diệt. Trạch, tức như trước đã nêu là như lý thành tuệ, không do tuệ này nhưng có pháp đã ngăn chận vĩnh viễn pháp vị lai sinh khởi, gọi là phi trạch diệt. Như mắt cùng với ý, khi chuyên chú vào một sắc, thì các thứ thanh, hương, vị, xúc v.v… của sắc khác, niệm niệm dứt diệt đi qua, đối với phần ít sự sinh kia nơi ý xứ, pháp xứ được phi trạch diệt. Do năm thức thân cùng với một phần ý thức thân v.v… đối với cảnh đã diệt trọn không thể sinh, vì duyên nơi cảnh đều cùng có. Do sự sinh kia đã dùng hệ thuộc đồng thời với đối tượng nương dựa đã duyên. Nếu pháp có thể làm trở ngại pháp kia, pháp kia sinh tác dụng, pháp này lìa tuệ, nhất định làm trở ngại pháp kia khiến trụ nơi vị lai, vĩnh viễn không sinh, nên gọi là phi trạch diệt. Phi chính là do duyên thiếu, nên vĩnh viễn không sinh. Về sau gặp duyên đồng loại thì pháp kia lại nên sinh. Nghĩa là nếu duyên trước thiếu, nên pháp kia không thể sinh. Sau gặp duyên đồng loại thì đâu có chướng ngại nào khiến không khởi? Trước đã nói trừ đạo Thánh đế, các pháp hữu vi còn lại, đó gọi là hữu lậu.

Thế nào gọi là hữu vi? Tụng nêu:

Lại các pháp hữu vi

Tức năm uẩn như sắc…

Cũng thế lộ, ngôn y

Cũng hữu ly hữu sự.

Luận nói: Các thứ tai biến đột ngột như lão, bệnh, tử v.v… có sai biệt, vì ẩn giấu tích chứa, tổn hại, khuất phục, nên gọi là uẩn. Vì giới v.v… riêng, nên nói sắc v.v… Năm uẩn như giới không thể gồm thâu đủ tất cả hữu vi. Năm uẩn như sắc v.v… thì gồm thâu đủ hữu vi, nên ở đây nêu bày riêng. Nói hữu vi, nghĩa là nhiều duyên tụ tập, cùng đã tạo tác. Vị lai chưa khởi, sao gọi là hữu vi? Như củi đã đốt cháy là loại của củi kia. Các pháp không sinh, không vượt qua loại kia, tuy vĩnh viễn không khởi, nhưng vẫn nói là hữu vi.

Trong nhiều kinh khác, Đức Thế Tôn đã tùy theo nghĩa, gọi là thế lộ v.v… Những tên gọi ấy thế nào? Nghĩa là các hữu vi cũng gọi là thế lộ. Vì năm uẩn như sắc v.v… là pháp sinh diệt đều đã lưu chuyển trong con đường quá khứ, hiện tại, vị lai. Hoặc vì bị vô thường thôn tính, nên gọi là thế lộ. Các pháp không sinh, vì các duyên thiếu, nên tuy lại không sinh nhưng vì là loại kia nên lập danh không có lỗi. Các pháp hữu vi cũng gọi là ngôn y. Ngôn, nghĩa là ngôn âm, hoặc gọi là khả năng thuyết nêu. Ngôn này vì xa gần đã nhờ dựa gọi là y. Tức nghĩa cùng với danh, nói chung là y. Vì danh dựa vào nghĩa, ngôn lại dựa vào danh, thế nên ngôn y gồm thâu chung danh nghĩa. Danh nghĩa như vậy đã gồm thâu đủ năm uẩn. Nên khế kinh nói: Ngôn y có ba, không có bốn, không có năm.

Do đối chiếu nên đã khéo giải thích Luận Phẩm Loại Túc. Luận ấy nêu rõ ngôn y thuộc về năm uẩn. Y là nghĩa của nhân. Vì vô vi không có quả, nên không phải là ngôn y. Lại nếu ba sự trong tụ có thể đạt được, như ngữ, y nghĩa thì gọi là ngôn y. Vì trong tụ vô vi chỉ có nghĩa kia, không có ngữ, y, nên không gọi là ngôn y.

Có thuyết nói: Vô vi có y, có nghĩa, chỉ vì thiếu ngữ, nên không gọi là ngôn y. Lại, các hữu vi cùng với thể của khả năng ngôn thuyết có nghĩa đều cùng khởi, còn vô vi thì không như vậy.

Các pháp hữu vi cũng gọi là hữu ly. Ly nghĩa là vĩnh viễn lìa tức là Niết-bàn. Đạt được rồi thì không còn trở lại rơi vào sinh tử. Vì hữu nơi ly kia nên gọi là hữu ly. Như người có tài sản, gọi là hữu tài. Pháp này tuy là hữu vi, nhưng không phải là tất cả, do đạo vô lậu không có trạch diệt. Lại, vì khi đắc Niết-bàn cũng xả bỏ Thánh đạo, nên gọi là hữu ly. Do nói Thánh đạo cũng như thuyền bè, cũng nên đoạn dứt. Nên Khế kinh nói: Pháp hãy còn nên đoạn huống chi là phi pháp.

Các pháp hữu vi cũng gọi là hữu sự. Sự, nghĩa là đối tượng nương dựa, hoặc là đối tượng trụ, tức là nghĩa nhân. Quả nương dựa ở nhân, vì từ nhân sinh, như con dựa vào mẹ. Hoặc quả ở nhân, vì khả năng che lấp nhân. Như người ở trên giường, là nghĩa nhân bị quả che lấp, vì nhân quả trước sau, và vì tính chất thô tế, vì ở đây có sự, nên gọi là hữu sự, dụ như trước đã nói.

Các loại như thế, nói là pháp hữu vi. Các danh xưng sai biệt ở trong pháp hữu vi này đã nêu bày. Tụng nêu:

Hữu lậu gọi thủ uẩn

Cũng nói là hữu tránh

Cùng khổ, tập thế gian

Kiến xứ nơi ba hữu.

Luận nói: Trước đã nói trừ đạo Thánh đế, pháp hữu vi còn lại gọi là hữu lậu.

Đã biện về thể của hữu lậu. Nay vì làm rõ về danh, tưởng của hữu lậu kia là không đồng và nghĩa có sai biệt, nên lại nói lần nữa.

Đã nói tất cả hữu vi gọi là uẩn, nay nói hữu lậu gọi là thủ uẩn. Về nghĩa nếu căn cứ ở vô lậu, tức chỉ được tên uẩn. Chỉ trong các lậu mới lập danh tưởng thủ, do có thể chấp thủ sinh của ba hữu. Hoặc vì có thể chấp giữ, dẫn sinh nghiệp của hữu sau, nên các lậu kia được gọi là thủ. Năm uẩn như sắc v.v…, vì từ thủ sinh, hoặc vì sinh ra thủ, nên gọi là thủ uẩn. Như lửa của cỏ, trấu. Như cây có hoa quả. Các pháp hữu lậu cũng gọi là hữu tránh. Nghĩa là trong phiền não đã lập danh tưởng tránh. Vì làm loạn động phẩm thiện. Vì gây tổn hại cho mình và người khác. Uẩn cùng với tránh đều cùng có. Hoặc vì tránh, uẩn đều cùng có mà được sinh khởi, nên gọi là hữu tránh.

Ý này hiển bày chỉ rõ tránh cùng với uẩn, không phải theo đấy thiếu một mà pháp còn lại có thể được sinh. Hoặc giả làm rõ về danh, tưởng hữu lậu khác. Nghĩa là hoặc gọi là khổ. Tức năm thủ uẩn, là nơi chốn nương dựa của các thứ bức bách, vì tự tánh thô nặng, không an ổn.

Hoặc gọi là tập. Tức chủng loại kia có khả năng làm nhân, có thể tập hợp thành. Nghĩa là từ thủ uẩn, do thủ uẩn tập thành. Hoặc gọi là thế gian, do có thể hủy hoại. Như Đức Thế Tôn nói: Tánh có thể hủy hoại, nên gọi là thế gian. Không phải tánh của các Thánh đạo có thể hủy hoại, cũng gọi là thế gian. Do ở trong đây không có đối trị hủy hoại. Hoặc gọi là kiến xứ, vì trong trụ của năm kiến như Tát-cada-kiến v.v… tùy miên đã tùy tăng

Do các kiến kia khi đối với tất cả chủng của các pháp hữu lậu thì cùng không có sai biệt. Vì tùy miên tùy tăng đã chấp giữ bền chắc không động, vì thể, dụng tăng thịnh, nên lại nói riêng. Tham cùng si, nghi thì không như thế, vì tham kia v.v… thì có tất cả chủng, không có tất cả thời. Còn sinh thì nơi tất cả thời không phải là không có sai biệt. Nghi thì không có sai biệt nhưng không chấp giữ bền chắc. Thế nên hữu lậu không nói về xứ kia. Hoặc gọi là ba hữu, vì có nhân, có chỗ dựa thuộc về ba hữu. Nói vân vân là gồm thâu danh có nhiễm v.v… Các loại như thế là pháp hữu lậu, tùy theo nghĩa gọi riêng.

HẾT – QUYỂN 1