LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 82
Chương 2: KIẾT UẨN
Phẩm 4: BÀN VỀ MƯỜI MÔN, phần 12
Hỏi: Thế nào là gia hạnh của bốn vô lượng này?
Đáp: Là duyên với bảy phẩm hữu tình để khởi gia hạnh.
Bảy phẩm hữu tình: Là phân tất cả các hữu tình ở cõi dục làm ba phẩm thân oán trung có sai khác. Nơi hai phẩm thân, oán, mỗi thứ lại chia làm ba phẩm thượng, trung, hạ. Hữu tình phẩm trung (không oán không thân) gồm chung làm một thứ không có sai biệt. Trong cảnh giới của bảy phẩm hữu tình này, nếu muốn tu về Từ, trước duyên nơi phẩm thân, ở trong phẩm thân trước duyên nơi phẩm thượng. Thân của phẩm thượng: Tức là cha mẹ mình, các bậc quỹ phạm sư (A-xà-lê), Thân giáo sư (Hòa thượng), hoặc các bậc khác đáng tôn quý, người có trí tuệ, học rộng và đồng tu phạm hạnh. Đối với cảnh giới của hữu tình nơi phần thân thuộc phẩm thượng này, nên suy nghĩ: Làm thế nào để khiến các hữu tình ấy đạt được an lạc như vậy. Nhưng tâm tánh nhiều khi quá cứng rắn, ngang bướng, khó có thể điều phục, vì từ vô thỉ đến nay đã tập thành thói quen. Đối với các hữu tình có ân nghĩa tột bậc, do ý lạc ác tự nhiên sinh tưởng, ý lạc thiện tuy có tác ý dấy khởi nhưng không thể trụ. Phải nên mạnh mẽ dựa theo ân nghĩa sâu nặng khuyên gắng khiến họ chế ngự tâm, an trụ nơi nẻo thiện. Việc này như ném hạt cải trên đầu dùi nhọn, tuy có khi cũng dính được, nhưng quả là khó vô cùng. Tuy vậy, nếu rèn tập không dứt thì gia hạnh mới thành, tức do sức thiện xảo ném mãi mới trụ. Như thế, hành giả đối với phần thân nơi phẩm thượng cần phải siêng năng tu tập ý lạc ban vui trải qua thời gian lâu dài mới trụ được vững. Nơi phẩm thượng thuộc phần thân, tu tập ý lạc ban vui được an trụ vững rồi, tiếp đến là đối với phần thân nơi phẩm trung, lại tu tập ý lạc ban vui như thế, khi đã thành tựu phần này, tiếp theo là đối với phần thân nơi phẩm hạ, lại tu tập ý lạc ban vui như vậy. Ở đây đã thành tựu rồi, tiếp theo đối với phần trung (Không thân không oán), thứ đến là phần oán của phẩm hạ, tiếp theo là phần oán của phẩm trung, sau là đối với phần oán của phẩm thượng, đều tu ý lạc ban vui như thế, cứ dần dần từng bậc tu mãi cho tới khi thành tựu đầy đủ đối khắp tất cả hữu tình ở cõi dục ý lạc ban vui đều bình đẳng liên tục. Như ở phần trên nơi phẩm thân, phần trên nơi phẩm oán cũng như vậy, đạt đến mức đó gọi là tu Từ rốt ráo.
Tu Bi, Hỷ thứ tự cũng như thế.
Ý lạc cứu khổ tạo an vui có khác. Làm thế nào để khiến loại hữu tình này lìa khổ, như thế là ý lạc của Bi. Loại hữu tình này được vui lìa khổ, há chẳng vui thích lắm sao, là ý lạc của Hỷ.
Khi muốn tu Xả, trước duyên với phẩm trung, tức là đối với phần kia khởi lên ý lạc buông bỏ. Vì đối với loại hữu tình ở phẩm trung là dễ bỏ nhất. Duyên với kẻ thân thiết dễ sinh yêu mến, duyên với kẻ oán dễ sinh giận, cho nên cần duyên với kẻ ở giữa không thân không oán. Người mới tu hạnh xả nên tu xả phẩm trung rồi mới tu xả phần oán phẩm hạ, sau đó mới tu xả phần oán phẩm trung, xong mới tu xả phần oán phẩm thượng, kế đó mới tu xả phần thân phẩm hạ, rồi tu xả phần thân phẩm trung, cuối cùng là xả phần thân phẩm thượng. Trước phải tu xả với kẻ oán, sau mới tu xả với người thân, tâm sân giận mới dễ buông bỏ, không phải như tâm yêu thương. Phải tu tập dần dần như thế cho đến lúc thành tựu hoàn toàn, đối khắp với tất cả hữu tình ở cõi dục, ý lạc buông bỏ luôn bình đẳng liên tục, không hề có chút phân biệt này khác, như giữ vững đòn cân không lệch. Khi ấy duyên với loài hữu tình như nhìn chung các cây trong rừng. Đạt đến mức độ đó gọi là tu Xả rốt ráo.
Hỏi: Những loại hữu tình nào có thể tu các vô lượng?
Đáp: Chủng tánh của hữu tình tóm lược có hai thứ: Một là đối với hữu tình ưa tìm kiếm lỗi lầm. Hai là đối với hữu tình ưa tìm cầu công đức.
Kẻ đối với hữu tình ưa tìm kiếm lỗi lầm, nơi bốn vô lượng này, phần nhiều là không thể tu. Vì sao? Vì đối với bậc A-la-hán muốn tìm kiếm lỗi lầm cũng còn có thể được. Người ấy trước đây cũng có ít nhiều tỳ vết, nên khiến chúng ta nay khinh chê, vậy ai có thể vì những kẻ kia tạo các sự việc lợi ích?
Người đối với hữu tình ưa tìm cầu công đức, tức ở nơi bốn vô lượng này phần nhiều có thể tu tập. Vì sao? Vì kẻ tuy đã đoạn dứt căn thiện, nếu muốn tìm cầu công đức cũng còn có thể được. Người kia trước đây đã tu nhiều nghiệp thiện, nên nay chiêu cảm được sinh trong nhà tôn quý, dung mạo đẹp đẽ ai cũng thích nhìn, ngôn từ nghiêm tu1c, người nghe đều ki1nh trọng vâng lời, cho đến kẻ trí thức học rộng cũng đều ngưỡng mộ, ta nên đối với người đó tạo nhiều sự việc lợi ích.
Hỏi: Thế nào là thứ lớp của bốn vô lượng này? Là như giảng nói mà sinh hay riêng có thứ lớp?
Đáp: Có thuyết cho: Là như giảng nói mà sinh. Tức là các Sư Du-già trước hết đối với các loại hữu tình ở cõi dục đều muốn ban cho họ lợi ích. Ban cho lợi ích tức là tướng của Từ, nên Đức Phật giảng nói Từ là thứ nhất. Kế đến đối với các loài hữu tình ở cõi dục, muốn trừ bỏ các suy tổn, trừ bỏ suy tổn là tướng của Bi, nên Đức Phật giảng nói Bi là thứ hai. Các loài hữu tình đó đã được lợi ích, lại lìa suy tổn, kế đó đối với họ sinh khởi vui mừng, sinh khởi vui mừng đối với người khác là tướng của Hỷ, nên Đức Phật giảng nói Hỷ là thứ ba. Đã đối với các hữu tình phát khởi vui mừng rồi, sau đó đối với họ lại bình đẳng buông xả, bình đẳng buông xả là tướng của Xả, nên Đức Phật giảng nói Xả là thứ tư. Vì thế nên cho bốn vô lượng ấy có thứ lớp như giảng nói mà sinh.
Lại có thuyết nêu: Bốn vô lượng này trước là Bi, rồi đến Từ, kế đó là Hỷ và sau là Xả. Nghĩa là các Sư Du-già trước đối với các loài hữu tình nơi cõi dục, muốn trừ bỏ suy tổn, kế đến là đối với họ muốn ban cho lợi ích, sau đó mới đối với họ sinh vui mừng và cuối cùng đối với họ bình đẳng buông xả.
Tôn giả Tăng-già-phiệt-tô nói: Hai thứ Bi và Hỷ cùng chế ngự nhau. Nếu trước đã khởi Bi tiếp theo tất sinh Hỷ. Bi khiến tâm chùn lại cần có Hỷ khích lệ tâm lên. Còn nếu sinh Hỷ trước thì kế đó tất khởi Bi, vì Hỷ khiến tâm dâng cao cần Bi chế ngự tâm lại.
Lời bình: Nên nói như vầy: Bốn vô lượng này không phải như giảng nói mà sinh. Vì sao? Vì hành giả tu quán tùy theo chỗ vui thích sinh. Có hành giả tu quán trước khởi Từ, kế đó khởi Bi, sau là Hỷ và cuối cùng là Xả. Nói rộng cho đến có hành giả tu quán trước khởi Xả, kế đó là Hỷ, rồi đến Bi và sau cùng là Từ. Hoặc lại không nhất định. Có người tu quán được hạnh Từ không phải là thứ khác, nói rộng cho đến có hành giả tu quán được hạnh Xả không phải là thứ khác. Hoặc lại không nhất định. Bốn vô lượng này không phải chỉ có thuận thứ lớp nhập, mà còn hoặc nghịch thứ lớp nhập, hoặc thuận vượt nhập, hoặc nghịch vượt nhập, hoặc thông hợp nơi giải thoát, thắng xứ, biến xứ.
Hỏi: Nếu chưa khởi vô lượng của tĩnh lự thứ nhất thì có thể khởi vô lượng của tĩnh lự thứ hai chăng? Cho đến nếu chưa khởi vô lượng của tĩnh lự thứ ba thì có thể khởi vô lượng của tĩnh lự thứ tư chăng?
Đáp: Có thuyết nói: Không thể. Vì vô lượng của tĩnh lự thứ nhất cùng với vô lượng của tĩnh lự thứ hai đều là môn gia hạnh cần dựa theo từng bậc thang. Cho đến vô lượng của tĩnh lự thứ ba cùng với vô lượng của tĩnh lự thứ tư cũng là môn gia hạnh cần dựa theo từng bậc thang.
Có thuyết cho: Cũng có thể. Nghĩa là người tu hành quán nếu dựa nơi địa này đạt được sức tự tại, tức dựa vào địa này trước khởi vô lượng. Chưa khởi Thánh đạo vô lậu nơi địa dưới, hãy còn có thể khởi Thánh đạo vô lậu nơi địa trên, huống chi là bốn vô lượng mà không thể khởi được sao?
Hỏi: Hậu khởi nơi vô lượng của địa dưới đối với vô lượng của địa trên là nhanh hơn hay là hậu khởi nơi vô lượng của địa trên so với vô lượng của địa dưới là nhanh hơn?
Đáp: Hậu khởi nơi vô lượng của địa trên so với vô lượng của địa dưới là nhanh hơn, không phải hậu khởi nơi vô lượng của địa dưới so với vô lượng của địa trên là nhanh hơn. Như học sách tiếng Phạn, sau học sách tiếng Khư-lô-sắt-trá là nhanh hơn, không phải học sách Khư-lô-sắt-trá, sau học sách tiếng Phạn là nhanh hơn.
Hỏi: Nếu khởi vô lượng của tĩnh lự thứ nhất không gián đoạn tức có thể khởi vô lượng của tĩnh lự thứ hai chăng? Cho đến nếu khởi vô lượng của tĩnh lự thứ ba không gián đoạn tức có thể khởi vô lượng của tĩnh lự thứ tư chăng? Dựa vào thứ lớp ngược nêu câu hỏi cũng như thế.
Đáp: Có thuyết nói: Không thể được. Vì người tu địa của mình phải nhờ gia hạnh dẫn phát mới hiện tiền.
Có thuyết cho: Cũng có thể được. Vì người tu đã thuần thục, khởi một gia hạnh hoặc không gia hạnh đều có thể trải qua các địa, hoặc trên hoặc dưới khởi các vô lượng.
Hỏi: Từ vô lượng đẳng vô gián tức có thể khởi Bi vô lượng v.v… được chăng?
Đáp: Như nơi chương Định Uẩn nói: Tư duy những gì khi nhập đẳng chí Từ? Tức là ban vui cho hữu tình. Cho đến tư duy những gì khi nhập đẳng chí Xả? Đó là buông xả các hữu tình.
Có thuyết cho: Đó là nói về các hành tướng đều cùng sinh của vô lượng.
Lại có thuyết nói: Đó là nói về đẳng vô gián duyên của vô lượng.
Nếu nói như thế: Đó là nói về các hành tướng đều cùng sinh của vô lượng, thì Từ vô lượng đẳng vô gián có thể sinh Bi vô lượng v.v… Nếu nói như thế: Đó là nói về đẳng vô gián duyên của vô lượng, thì Từ vô lượng đẳng vô gián không thể sinh Bi vô lượng. Vì bốn gia hạnh đều có sai khác, nên từ sau gia hạnh mới hiện tiền.
Nên biết, tác ý lược có ba thứ: Một là tác ý tự tướng. Hai là tác ý cộng tướng. Ba là tác ý thắng giải.
Tác ý tự tướng: Như có suy nghĩ: Đất là tướng cứng chắc. Nước là tướng ẩm ướt. Lửa là tướng ấm nóng. Gió là tướng chuyển động, tất cả là như thế.
Tác ý cộng tướng: Như tác ý cùng sinh mười sáu hành tướng của bậc Thánh.
Tác ý thắng giải: Như tác ý cùng sinh đối với quán bất tịnh, trì tức niệm (Quán sổ tức), giải thoát, thắng xứ, biến xứ.
Hỏi: Bốn vô lượng này đối với ba thứ tác ý trên thì cùng với những tác ý nào cùng sinh?
Đáp: Chỉ cùng với tác ý thắng giải cùng sinh nhờ tưởng khởi lên.
Hỏi: Lại như Từ vô lượng muốn ban vui cho người khác thì duyên nơi những lạc (vui) nào để ban cho các hữu tình?
Đáp: Có thuyết nói: Người ấy duyên với lạc ở tĩnh lự thứ ba nhằm ban vui cho các hữu tình. Vì trong các thứ vui của sinh tử thì lạc ấy là tối thắng. Nếu nói như thế thì những người chưa chứng đắc tĩnh lự thứ ba không thể khởi Từ vô lượng?
Hoặc có thuyết nêu: Những người ở trong đời khác, đã từng thọ nhận lạc của tĩnh lự thứ ba, nay lại nương vào tĩnh lự thứ ba khởi Túc trụ tùy niệm trí, duyên với các lạc đã từng thọ nhận để ban cho các hữu tình. Nếu nói như thế thì những người chưa được trí túc trụ của tĩnh lự thứ ba không thể khởi Từ vô lượng?
Lại có thuyết cho: Người ấy duyên không gián đoạn với các lạc đã nhận được để ban cho các hữu tình. Đó là lạc của ăn uống, lạc khi ngồi xe, lạc khi mặc y phục, lạc khi ngồi nằm nghỉ ngơi trên giường, hoặc các lạc khác đã nhận được gần, duyên với các thứ lạc đó nhằm ban cho các hữu tình.
Tôn giả Thế Hữu nói: Người ấy duyên với các tướng lạc của các hữu tình đã nhận được nhằm khiến họ luôn nhận được các thứ lạc đó. Nếu nói như thế thì Từ tức không thể duyên khắp các hữu tình. Vì sao? Vì không phải các hữu tình cũng đều có lạc.
Lại có thuyết nêu: Người ấy duyên với các hữu tình khởi tướng của lạc căn, khiến họ luôn có các thứ lạc đó. Nếu nói như thế thì Từ không thể duyên khắp với hữu tình. Vì sao? Vì không phải các hữu tình nơi tất cả phần vị luôn khởi lạc căn hiện tiền.
Lại có thuyết cho: Người ấy duyên với vô số thứ tướng lạc như khi có ăn uống, ngồi xe, mặc y phục và nằm nghỉ trên giường v.v… của các hữu tình đã thọ nhận muốn khiến họ luôn thọ nhận các thứ lạc ấy. Nếu nói như thế thì Từ không thể duyên khắp các hữu tình. Vì sao? Vì không phải các hữu tình nào cũng có đủ các thứ lạc như vậy.
Đại đức nói: Trước khi gia hạnh duyên với các thứ lạc của hữu tình đã từng thấy, vì tâm thương xót khởi tưởng thắng giải khiến tất cả các hữu tình ở cõi dục đều bình đẳng, có đủ các thứ lạc như thế. Do nhân duyên này nên đều nhận được các an lạc thù thắng. Trong đây ý nói: Các Sư Du-già ở nơi thôn ấp, thành thị, hoặc chốn A-luyện-nhã, mỗi sáng đều đắp y mang bát vào các thôn ấp, thành thị gần đó đúng pháp khất thực. Trên đường đi qua, các Sư thấy những hữu tình thuần thọ nhận lạc thù thắng. Như cỡi voi ngựa, ngồi xe kiệu mà đi, trên người mang đủ các thứ trang sức đẹp, kẻ hầu người hạ, âm nhạc tán tụng, ca hát ngâm vịnh, hương hoa bày khắp v.v… hết sứt vui thú, như các thiên tử. Lại thấy các hữu tình chỉ có thọ nhận thống khổ, như không đủ quần áo, đầu bù tóc rối, thân thể dơ dáy, hôi hám, tay chân nứt nẻ đầy thương tích, mang cầm chén bát sứt bể đi ăn xin, khổ sở cùng cực như các loài quỷ đói. Khi nhận thấy các sự việc xong, các Sư Du-già liền trở về trụ xứ, thọ thực rồi cất y bát, rửa chân ngồi kiết già, điều chỉnh thân tâm được thích hợp nhất, lìa bỏ hết các chướng ngại che chắn để được dễ chịu, nhớ lại hết các cảnh vui khổ vừa thấy, khởi tâm thương xót các hữu tình khổ kia muốn khiến họ đều thọ nhận được các vui thù thắng như đã gặp.
Hỏi: Hữu tình của đối tượng duyên không phải đều được lạc, vì sao quán Từ không phải là điên đảo?
Đáp: Vì ý lạc tạo lợi ích mà khởi, vì ý lạc đem lại an vui mà khởi, vì ý lạc điều hợp điều thiện mà khởi, vì ý lạc thương xót mà khởi, vì tác ý như lý mà khởi, vì tương ưng với các căn thiện, vì tương ưng với hổ thẹn, vì tự tánh của sự việc đó là thiện, vì hàng phục các phiền não, vì xa lìa các phiền não v.v… nên không gọi là điên đảo.
Lại có thuyết nói: Nếu như gọi là điên đảo thì cũng không có lỗi.
Hỏi: Nếu gọi là điên đảo tức nên thành bất thiện chăng?
Đáp: Điên đảo có hai thứ: 1. Tự tánh 2. Đối tượng duyên. Nếu có đủ hai thứ điên đảo này thì mới gọi là bất thiện, còn quán của Từ vô lượng tuy có đối tượng duyên điên đảo, nhưng không phải là tự tánh điên đảo, nên không phải là bất thiện.
Tôn giả Thế Hữu nói: Quán của Từ vô lượng tuy không thể khiến các loài hữu tình nơi đối tượng duyên đều có được các thứ lạc thù thắng, nhưng cũng duyên với đủ các thứ lạc của các hữu tình kia làm cảnh, nên không phải là điên đảo.
Lại có thuyết nêu: Vì duyên với lạc căn của các hữu tình ấy làm cảnh nên không phải là điên đảo.
Lại có thuyết cho: Tu gia hạnh này (Từ quán) có thể điều phục được triền sân giận nên không phải là điên đảo.
Đại đức nói: Từ quán như thế là có thể trái với tâm giận dữ nên không phải là điên đảo.
Hỏi: Từ vô lượng này là duyên với một hữu tình mà ban vui hay duyên với nhiều hữu tình mà ban vui?
Đáp: Từ vô lượng này khi mới tu tập thì duyên nơi nhiều hữu tình nhằm cho họ an vui. Vì duyên chung các hữu tình tu tâm từ, sau đã thành đầy đủ thì duyên với một hoặc duyên nhiều để cho họ an vui là tùy ý tự tại.
Như Từ vô lượng, thì hỏi – đáp phân biệt về Bi vô lượng cũng như thế.
Như Khế kinh nói: Từ cùng hành với tâm không oán không đối, không não không hại, rộng lớn vô lượng, là khéo tu tập, cùng với lạc thắng giải duyên khắp một phương, hai, ba, bốn phương và trên dưới, hoặc dọc hoặc ngang duyên nơi thế gian này hiện bày khắp tất cả phần, tất cả xứ, tất cả hữu tình, từ cùng hành với tâm ban cho lạc thắng giải trụ đầy đủ khắp, cho đến nói rộng.
Hỏi: Từ vô lượng này duyên với các hữu tình, vì sao kinh nói duyên nơi một phương v.v… ?
Đáp: Kinh này nên nói là duyên với các loài hữu tình ở phương Đông v.v…, nhưng nói duyên khắp nơi một phương v.v… là đối với các loài hữu tình dùng tiếng phương để nói, như đưa đồ dùng lên là để chỉ rõ vật ở trong ấy. Kinh này lại nói duyên nơi thế gian này khắp tất cả phần, nơi khắp tất cả hữu tình, khắp tất cả xứ, Từ cùng hành với tâm ban lạc thắng giải trụ đầy đủ khắp.
Hỏi: Từ vô lượng này duyên với các hữu tình là lấy biên vực của phương xứ mà quán hay lấy biên vực của hữu tình mà quán? Nếu nêu như thế thì có lỗi gì? Cả hai đều có lỗi. Vì sao? Vì nếu dùng biên vực của phương xứ mà quán thì vì sao kinh nói duyên nơi thế gian này khắp tất cả phần, khắp tất cả hữu tình nơi khắp tất cả xứ. Nếu dùng biên vực của hữu tình mà quán thì vì sao không được riêng biên vực của hữu tình nơi biển cả?
Đáp: Có thuyết nói: Đây là dùng biên vực của phương xứ mà quán.
Hỏi: Nếu nói như thế thì chỉ thông suốt vấn nạn nêu sau, còn vấn nạn trước làm sao thông?
Đáp: Nên biết ở đây nói về tất cả của phần ít. Vì nói tất cả, lược có hai thứ: Một là tất cả của phần ít. Hai là tất cả của tất cả. Kinh này chỉ nói về tất cả của phần ít, nên không trái lý.
Lại có thuyết cho: Đây là dùng biên vực của hữu tình mà quán.
Hỏi: Nếu như thế thì chỉ thông phần vấn nạn nêu trước, còn phần vấn nạn nêu sau làm sao thông?
Đáp: Tuy không có được phần riêng về biên vực của hữu tình, nhưng có được phần chung về biên vực của hữu tình. Như nói bốn loài là bao gồm tất cả hữu tình, không một hữu tình nào không thuộc về bốn loài.
Hoặc có thuyết nêu: Đức Phật dùng biên vực của hữu tình mà quán, còn những người khác dùng biên vực của phương xứ mà quán.
Có Sư khác nói: Đức Phật và Độc giác dùng biên vực của hữu tình mà quán, còn Thanh văn và phàm phu dùng biên vực của phương xứ để quán.
Lời bình: Nên nói như vầy: Sự việc này không quyết định, vì bốn vô lượng đều là tưởng giả hợp, đều cùng với tác ý thắng giải tương ưng. Như thế, hoặc có tất cả đều dùng biên vực của hữu hình để quán. Hoặc có tất cả đều dùng biên vực của phương xứ để quán.
Như Đức Thế Tôn nói: “Các Bí-sô nên biết! Trong bảy năm Ta tu tâm Từ. Bảy kiếp thành hoại Ta không còn sinh lại nơi đó nữa. Lúc thế giới hoại, Ta sinh vào trời Cực quang tịnh. Thế giới thành rồi, Ta sinh lên cung Không Phạm, làm Đại Phạm vương, oai đức tự tại, nơi ngàn thế giới Ta là tôn quý nhất. Lại vào thời sau, Ta sinh nơi cõi dục, ba mươi sáu lần làm trời Đế Thích và nơi vô lượng đời làm Chuyển luân vương đủ bốn thứ binh chủng, thành tựu bảy báu, dùng pháp trị đời, cũng hiệu là Pháp vương”. Kinh này đã nói trong bảy năm, ý Đức Phật chính là muốn nói trải qua bảy mùa mưa. Nghĩa là thuở xưa, vào thời tiết tốt đẹp, có một Bồ-tát tên Đại Oai Dũng sinh ở Trung Ấn Độ, làm đại quốc vương, dùng oai đức ân huệ lớn và gồm thâu tất cả. Lúc ấy, trong nước gặp phải thời tiết quá nóng, cách thành không xa có một khu rừng lớn, nơi ấy đất đai cao ráo mát mẻ, hoa trái xinh tươi, cỏ cây xanh thẳm, ao suối đều trong mát. Khi đó là mùa hạ – bốn tháng mưa, phần lớn dân chúng trong nước đều rời nhà cửa đến đây tránh nắng và sinh hoạt theo ý thích. Bấy giờ, vị vua Bồ-tát cũng giao hết việc nước cho các đại thần tạm thời đảm trách, đến khu vực này lánh nắng, ở một vùng đất cao yên tĩnh tọa thiền, lìa bỏ nhiễm cõi dục, tu bốn tâm vô lượng, trong suốt bốn tháng mùa mưa không lúc nào lười trễ. Khi mùa mưa đã qua, thời tiết mát dần, mọi người tránh nắng trong rừng đều trở về nhà tiếp tục cuộc sống thường nhật. Lúc này, Bồ-tát cũng trở về kinh thành lập đàn đại pháp rộng tu thí phước đem mọi thứ thức ăn uống, y phục, hương hoa, voi, ngựa, xe kiệu, nhà cửa, kẻ hầu, đèn đuốc, tọa cụ, giường nằm, thuốc men v.v… dâng cúng cho các Sa-môn, các Bàla-môn, cùng cho những kẻ nghèo khốn, bệnh hoạn, cô độc, kẻ xa xứ, khách qua đường, các người ăn xin. Nhà vua đã tu pháp bố thí rồi thọ trì tịnh giới. Như thế thứ lớp trải qua sáu lượt mùa mưa đến mùa thứ bảy.
Có thuyết nói: Khi mạng chung sinh lên trời Cực quang tịnh.
Có thuyết nêu: Khi đến kiếp hoại, Bồ-tát mạng chung sinh lên trời Cực quang tịnh, nên biết bảy năm tức là bảy mùa mưa.
Hỏi: Bồ-tát đã tu bốn định vô lượng là thuộc cõi sắc, có thể do đó nên sinh về trời Cực quang tịnh, cùng sinh vào xứ Phạm thiên, vì sao lại làm Đế Thích và Chuyển luân vương, há tạo nghiệp nơi cõi sắc mà chiêu cảm quả của cõi dục sao?
Đáp: Bồ-tát lúc đó khởi ba thứ vô lượng: Một là thuộc cõi dục, do đấy nên được làm Đế Thích và Chuyển luân vương. Hai là thuộc tĩnh lự thứ nhất, vì thế nên được làm Đại Phạm Thiên vương. Ba là thuộc tĩnh lự thứ hai, do đấy được sinh lên trời Cực quang tịnh.
Lại nữa, ở cõi dục tuy không có các vô lượng căn bản, nhưng có tâm xuất nhập định vô lượng, vì vậy nên chiêu cảm dị thục là làm Đế Thích, Chuyển luân vương. Còn vô lượng căn bản thì chiêu cảm quả sinh lên trời Cực quang tịnh hoặc làm Đại Phạm Thiên vương.
Lại nữa, cõi dục tuy không có vô lượng cứu cánh, nhưng có gia hạnh, do đấy nên được làm Đế Thích, Luân vương. Vô lượng cứu cánh thì chiêu cảm quả làm vua xứ Đại phạm và sinh lên trời Cực quang tịnh.
Lại nữa, cõi dục có đủ chủng tử của tất cả căn thiện tương tợ, cho đến cũng có diệt định tương tợ. Do có vô lượng căn thiện tương tợ, nên được làm Luân vương hoặc trời Đế thích. Do có vô lượng căn thiện chân thật, nên được sinh lên xứ Phạm thiên hoặc trời Cực quang tịnh .
Lại nữa, vì Bồ-tát ở trong rừng đã tu vô lượng, nên sinh lên trời Cực quang tịnh hoặc làm Phạm vương. Do trở về vương cung lập hội bố thí nên được làm Chuyển luân vương. Do giữ gìn giới hạnh nên được làm trời Đế thích.
Lại nữa, trong Kinh này nói về ba sự việc của phước nghiệp đó là bố thí, trì giới, tu tập. Như Kinh kia nói: Bí-sô nên biết! Ta nhớ nơi thời quá khứ đã tạo ba thứ nghiệp nên được ba thứ quả, do đó ngày nay Ta có đủ oai đức lớn, đó là: Bố thí, điều phục, tịch tĩnh. Bố thí tức là sự việc của phước nghiệp bố thí. Điều phục tức là sự việc của phước nghiệp trì giới. Tịch tĩnh tức là sự việc của phước nghiệp tu tập. Sự việc của phước nghiệp bố thí thì có thể chiêu cảm quả làm Luân vương. Sự việc của phước nghiệp trì giới thì có thể chiêu cảm quả làm trời Đế Thích. Sự việc của phước nghiệp tu tập thì có thể chiêu cảm quả làm vua trời Đại Phạm, hoặc sinh nơi trời Cực quang tịnh.
Như Khế kinh nói: Có ba thứ sự việc phước nghiệp: 1. Là sự việc phước nghiệp có tánh bố thí: Tức là dùng các thức ăn uống, y phục, hương hoa v.v… nói rộng cho đến thuốc men để dâng cúng cho các Sa-môn, Bà-la-môn. 2. Là sự việc phước nghiệp có tánh trì giới: Tức là lìa bỏ các thứ đoạn sinh mạng, không cho mà lấy, hành tà dục, nói dối, uống rượu. 3. Là sự việc phước nghiệp có tánh tu tập: Tức là Từ cùng hành với tâm, không oán không đối, không não không hại, nói rộng như trước. Bi, Hỷ, Xả cùng hành với tâm nói rộng cũng như vậy.
Hỏi: Ở cõi sắc, cõi vô sắc có nhiều căn thiện, vì sao chỉ nói có bốn vô lượng này là sự việc phước nghiệp có tánh tu tập?
Đáp: Ở thế gian chỉ có đối với sự việc làm lợi ích cho người khác khởi tưởng phước nghiệp. Trong các căn thiện ở cõi sắc, vô sắc, không có thứ nào muốn làm lợi ích cho người khác như bốn vô lượng này, thế nên riêng nói đây là sự việc phước nghiệp tu tập.
Lại nữa, ở đời đối với quả phước thì khởi tưởng về phước. Trong các căn thiện không có thứ nào có thể chiêu cảm quả làm lợi ích rộng lớn như các vô lượng, thế nên nói riêng.
Lại nữa, bốn vô lượng này và quả của chúng đạt được đều rất bền chắc, khó hoại, nên riêng gọi là phước. Như có Tụng nói:
Phước không bị lửa thiêu
Không bị gió đập nát
Phước nước không làm tan
Hay giữ sạch thế gian.
Phước có thể đối địch
Dũng mãnh chống vua, giặc
Không bị người, phi nhân
Cùng có thể xâm đoạt.
Phước trọn không hao mất
Như kho báu ngầm vững
Quyết định chiêu cảm được
Vui đời này, đời khác.
Hỏi: Không phải phước cũng không bị lửa đốt cháy v.v…, trong đây vì sao chỉ nói là phước?
Đáp: Không phải phước tuy không bị lửa đốt cháy v.v…, nhưng quả của không phải phước thì bị lửa đốt cháy, hủy hoại. Nên phước của bốn vô lượng và quả của chúng có được thì cả quá khứ, vị lai, hiện tại không bị lửa hủy hoại.
Như Khế kinh nói: Đức Phật bảo các Bí-sô: Các đệ tử của Diệu Nhãn, đối với các Học xứ, nếu có tất cả và tất cả chủng loại thiện trọn đủ, thì khi mạng chung được sinh vào xứ Phạm thế. Còn đối với các Học xứ, nếu có tất cả và tất cả chủng loại bất thiện gồm đủ, thì khi mạng chung hoặc sinh lên trời Tha hóa tự tại, hoặc sinh lên trời Lạc biến hóa, hoặc sinh nơi trời Đổ sử đa, hoặc sinh nơi trời Dạ ma, hoặc sinh nơi trời Ba mươi ba, hoặc sinh nơi trời Tứ Đại vương chúng v.v… hoặc sinh vào nhà đại Sát-đế-lợi, hoặc sinh nơi nhà đại Bà-la-môn, hoặc sinh nơi nhà đại trưởng giả, hoặc sinh vào nhà một kẻ giàu có sang trọng v.v… Sinh trong các nhà quyền quý như thế, tiền của, ngọc báu dồi dào, kho lẫm đầy ắp, thuộc giòng họ danh tiếng, quyến thuộc đông đảo, có nhiều kẻ hầu hạ, giúp việc, ngựa voi xe kiệu v.v… luôn hưởng an lạc.
Hỏi: Nếu như thế thì Bồ-tát Diệu Nhãn hơn hẳn Đức Thế Tôn. Vì sao? Vì các đệ tử của Diệu Nhãn, đối với các Học xứ, nếu trọn thiện thì được sinh vào xứ Phạm thế, còn nếu trọn bất thiện thì lại sinh vào sáu trời ở cõi dục, nếu làm người thì giàu sang sung sướng. Còn đệ tử của Đức Thế Tôn, đối với các Học xứ, nếu trọn thiện thì được sinh lên các trời, giải thoát, nếu trọn bất thiện thì bị đọa vào các nẻo ác chịu nhiều khổ não, lý đâu lại như thế?
Đáp: Không nên lấy Phật để so sánh với Diệu Nhãn. Vì sao? Vì một quả vị thấp nhất trong hàng đệ tử của Phật như quả Dự lưu hãy còn hơn Diệu Nhãn, huống chi là các Tôn giả khác. Lại nữa, Đức Thế Tôn xưa còn ở vị Bồ-tát, làm sư Phạm chí tên là Diệu Nhãn, tức cũng không nên đem người này so sánh với Đức Thế Tôn.
Hỏi: Há khi còn là Bồ-tát lại hơn khi đã thành Phật?
Đáp: Không phải là Diệu Nhãn hơn Phật, nhưng có ý khác. Tức là Phạm chí Diệu Nhãn kia ưa thích tu Phạm trụ, các đệ tử của ông ấy cũng chỉ cầu sinh lên xứ Phạm Thế, cho nên vì họ mà chỉ bày pháp tu Phạm trụ. Trong số các đệ tử ưa thích tu Phạm trụ ấy, nếu đã khởi tu Phạm trụ được trọn đủ thì sau khi mạng chung được sinh lên trời Phạm thế, còn những đệ tử khởi tu Phạm trụ chưa trọn đủ thì khi mạng chung, tùy theo phước nhiều ít mà sinh lên sáu trời thuộc cõi dục và sinh làm người trong những nhà quyền quý, hưởng nhiều an lạc.
Lại, vào thời tốt đẹp đó mọi người đều thuần thiện, tuy không tu căn thiện của các gia hạnh vô lượng cũng được sinh trong các nẻo trời, người, hưởng nhiều an vui, huống chi là tu căn thiện của các gia hạnh vô lượng mà không được sinh trong hàng trời, người, thọ hưởng các an vui? Đức Phật vì các đệ tử chứng đắc Niết-bàn nên chế ra các Học xứ luật nghi biệt giải thoát. Nếu có đệ tử không phạm luật nghi, không phá Học xứ, không vượt quỹ tắc, không vượt bỏ phần giới hạn, người ấy sẽ được sinh lên nẻo trời cùng chứng đắc giải thoát. Nếu có đệ tử phạm luật nghi, phá Học xứ, vượt phép tắc, vượt bỏ phần giới hạn, thì kẻ ấy sau khi mạng chung sẽ bị đọa vào các nẻo ác. Các đệ tử của Diệu Nhãn ở trong các Học xứ của bốn Phạm trụ, có kẻ tu trọn hoặc chưa trọn, còn đệ tử của Đức Thế Tôn đối với các Học xứ luật nghi biệt giải thoát, tất cả có trì có phạm v.v… cho nên đừng đem người ấy so sánh với Đức Phật.
Lại như Kinh kia nói: Bấy giờ, Bồ-tát Diệu Nhãn suy nghĩ: Ta nay không nên cùng các đệ tử sinh chung một xứ, nên phải tu pháp Từ vô lượng để sinh lên trời Cực quang tịnh. Suy nghĩ rồi, liền mau chóng khởi tu Từ vô lượng thù thắng của tĩnh lự thứ hai, ở đấy mạng chung sinh lên trời Cực quang tịnh.
Hỏi: Bồ-tát Diệu Nhãn đã gần với Phật địa, nhất định phải lìa bỏ hai thứ xan tham là của cải và pháp, sao lại tự tu pháp Từ vô lượng thù thắng ở tĩnh lự thứ hai để được sinh lên trời kia, còn chỉ truyền dạy cho đệ tử pháp bốn Phạm trụ của tĩnh lự thứ nhất, khiến họ chỉ được sinh lên trời Phạm thế?
Đáp: Vì vị ấy xét thấy căn khí thích hợp với đệ tử mình, nên chỉ nói với họ về tĩnh lự thứ nhất.
Lại nữa, các đệ tử của vị ấy đều là Bà-la-môn, suốt cả đời chỉ mong được sinh lên trời Phạm thế, cho nên chỉ nói với họ về nhân sinh lên trời Phạm thế.
Lại nữa, khi ấy đời chưa có Phật, chưa ai có thể khởi tu các vô lượng của ba thứ tĩnh lự sau, chỉ trừ có Bồ-tát là gần đến Phật địa mà thôi.
Hỏi: Vô lượng ở địa trên thì sáng sạch, thắng diệu hơn ở địa dưới, vì sao vị ấy chỉ nói tĩnh lự thứ hai mà gọi là Từ hơn hết?
Đáp: Vì quán tĩnh lự thứ nhất, nên bảo ở kia là hơn hết.
Lại nữa, các đệ tử của vị ấy đã tu các vô lượng nên gọi là Từ hơn hết.
Lại nữa, Bồ-tát Diệu Nhãn đã tu pháp chưa từng được, hơn hẳn đã từng được, nên gọi là Từ hơn hết.
Lại nữa, khi đời không có Phật, không có ai có thể khởi tu các vô lượng thuộc ba tĩnh lự sau, chỉ có Bồ-tát Diệu Nhãn là có thể khởi tu vô lượng ở bậc tĩnh lự thứ hai, nên gọi là Từ hơn hết.
Thế nên Tôn giả Diệu Âm nói: Các phàm phu không thể khởi tu các vô lượng thuộc ba địa trên, do đó Đức Phật nói: Nhờ diệu lực của Đức Thế Tôn nên các đệ tử cũng khởi tu được.
Hỏi: Vì sao các vô lượng gọi là Phạm trụ?
Đáp: Vì xứ Phạm thế ở tại đầu tiên có đủ các thứ có thể đạt được. Nghĩa là định vị chí tuy là trước nhất, nhưng không phải có đủ, vì ở đấy không có hỷ. Tĩnh lự thứ hai tuy lại có đủ, nhưng không phải là trước nhất. Các địa trên đều thiếu, chỉ có tĩnh lự thứ nhất, chỗ trụ của Phạm thiên, là chốn đầu tiên có đủ, nên gọi là Phạm trụ
Lại nữa, để đối trị với không phải phạm, nên gọi là Phạm trụ. Không phải phạm tức là các phiền não ở cõi dục. Các thứ từ, Bi, Hỷ, Xả trong tĩnh lự thứ nhất đều nhằm đối trị gần với chúng, nên gọi là Phạm trụ.
Lại nữa, nhằm đối trị với phi phạm hạnh, nên gọi là Phạm trụ. Phi phạm hạnh tức là các sự việc dâm dục. Từ Bi Hỷ Xả trong tĩnh lự thứ nhất là đối trị gần của phi phạm hạnh, nên gọi là Phạm trụ.
Lại nữa, hành giả tu phạm hạnh thì ở nơi thân người ấy có thể đạt được, nên gọi là Phạm trụ.
Lại nữa, Phạm tức là Từ, Bi, Hỷ, Xả của Đức Thế Tôn, Đức Phật đã thiết lập, nên gọi là Phạm trụ.
Lại nữa, Phạm tức là Phạm âm. Từ, Bi, Hỷ, Xả nơi Phạm âm đã nêu bày, nên gọi là Phạm trụ.
Lại nữa, Hành giả tu bốn thứ ấy được sinh lên xứ Phạm thiên, làm Đại Phạm vương, nên gọi là Phạm trụ.
Lại nữa, do bốn vô lượng này đối với các phước của Phạm thiên là tối thắng, tối tôn, nên gọi là Phạm trụ.
Hỏi: Phạm trụ và vô lượng có sai khác gì?
Đáp: Có thuyết nói: Không khác nhau. Nghĩa là bốn Phạm trụ tức là bốn vô lượng.
Lại có thuyết cho: Cũng có khác nhau. Nghĩa là khác nhau về tên gọi: Đây gọi là Phạm trụ, kia gọi là vô lượng.
Lại nữa, đối trị với không phải phạm gọi là Phạm trụ, đối trị với hý luận gọi là vô lượng.
Lại nữa, đối trị với phi phạm hạnh gọi là Phạm trụ, đối với hành hý luận gọi là vô lượng.
Lại nữa, kẻ tu phạm hạnh, trong thân có thể đạt được, gọi là Phạm trụ, kẻ lìa bỏ hý luận, nơi thân đạt được, gọi là vô lượng.
Lại nữa, đối trị với không tin gọi là Phạm trụ, đối trị với phóng dật gọi là vô lượng.
Lại nữa, ở tại trời Phạm thế gọi là Phạm trụ, ở địa trên gọi là vô lượng.
Lại nữa, ở định vị chí và ở trời Phạm thế gọi là Phạm trụ, ở địa trên gọi là vô lượng.
Lại nữa, ở định vị chí và ở trời Phạm thế gọi là Phạm trụ, cũng gọi là vô lượng, ở địa trên chỉ gọi là vô lương.
Lại nữa, đã từng được gọi là Phạm trụ, chưa từng được gọi là vô lượng.
Lại nữa, nội đạo đạt được gọi là Phạm trụ, cũng gọi là vô lượng, ngoại đạo đạt được chỉ gọi là Phạm trụ.
Lại nữa, đạt được chung gọi là Phạm trụ, đạt được không chung gọi là vô lượng.
Thế nên Tôn giả Diệu Âm nói: Phạm trụ là chung, tức phàm phu và bậc Thánh cùng tranh pháp này, còn vô lượng là không chung, tức bậc Thánh và phàm phu không cùng tranh pháp ấy. Đó là sự khác nhau của Phạm trụ và vô lượng.
Đức Phật nói: Có bốn hạng Bổ-đặc-già-la có thể sinh phạm phước. Thế nào là bốn thứ? Đó là:
1. Có một loại Bổ-đặc-già-la, ở những nơi nào chưa xây dựng Tốt-đổ-ba (Tháp), nay vì xá-lợi của Đức Phật mà xây dựng Tốt-đổba. Đó gọi là Bổ-đặc-già-la thứ nhất có thể sinh phạm phước.
2. Có một loại Bổ-đặc-già-la, ở những nơi chưa có Tăng-giàlam (Tự viện), nay vì các đệ tử của Đức Phật mà xây dựng các Tănggià-lam. Đó gọi là Bổ-đặc-già-la thứ hai có thể sinh phạm phước.
3. Có một loại Bổ-đặc-già-la, vì chúng đệ tử của Phật đã bị phá hoại khiến hòa hợp trở lại. Đó gọi là Bổ-đặc-già-la thứ ba có thể sinh phạm phước.
4. Có một loại Bổ-đặc-già-la, tu tập bốn Phạm trụ. Đó gọi là Bổ-đặc-già-la thứ tư có thể sinh phạm phước.
Phái Thí Dụ nói: Khế kinh như thế không phải đều do Đức Phật nói ra. Ở đây ba loại Bổ-đặc-già-la trước, không phải tất cả đều sinh phạm phước, vì quả chúng đạt được không giống nhau. Nghĩa là như có người ở nơi xứ Đức Phật sinh ra, ở nơi xứ Đức Phật chứng quả Bồ-đề, ở nơi xứ Đức Phật chuyển pháp luân, ở nơi xứ Đức Phật nhập Niết-bàn v.v… xây dựng các ngôi tháp thờ xá-lợi Phật đồ sộ, trang hoàng bằng các thứ vật báu. Lại có những người khác, cũng ở các nơi chốn nói trên, dùng các thứ gạch đá bình thường xây dựng các ngôi tháp nhỏ, trang hoàng ít, thì hai người này sinh phước đâu có giống nhau? Lại như có người vì các đệ tử của Đức Phật, xây dựng các Tăng-già-lam cao rộng, trang nghiêm như các tự viện ở rừng Thệ đa, Trúc lâm, Đại lâm, Ám lâm v.v… Lại có người khác, cũng vì các đệ tử của Đức Phật, nhưng tùy nghi tạo lập các Tăng-già-lam nhỏ, thì hai người đó sinh phước há có giống nhau? Lại như có người khiến cho chúng Tăng sau khi bị Đề-bà-đạt-đa phá hoại được hòa hợp trở lại. Hoặc có người khác có thể khéo hòa giải khiến chấm dứt các cuộc tranh chấp của các vị Tăng nơi Kiều-hướng-di, thì phước của hai người ấy đâu có giống nhau? Nên biết Kinh kia không phải đều do Đức Phật giảng nói, cũng không phải tất cả đều sinh phạm phước. Còn Kinh Tứ Phạm Trụ thì do Phật nói ra, bốn Phạm trụ này đều là phạm phước.
Các Luận sư A-tỳ-đạt-ma nói: Các Khế kinh như thế đều do Phật giảng nói, trong đấy bốn thứ đều sinh phạm phước.
Hỏi: Các thứ đó đạt được quả đâu có giống nhau?
Đáp: Việc làm giống nhau nên đều sinh phạm phước. Nghĩa là ở những nơi chốn chưa từng lập Tốt-đổ-ba, vì Đức Phật – Thế Tôn là bậc Đại Phạm chân thật xây dựng Tốt-đổ-ba hoặc lớn, hoặc nhỏ, đều sinh phạm phước. Ở những nơi chưa xây dựng Tăng-già-lam, vì các đệ tử của Phật tu phạm hạnh, xây dựng các Tăng-già-lam hoặc lớn, hoặc nhỏ, đều sinh phạm phước. Chúng đệ tử của Phật tuy đông hay ít, khi đã bị phá hoại không thể đồng tu phạm hạnh thanh tịnh, nếu khiến họ hòa hợp trở lại, cùng tu phạm hạnh thanh tịnh, nên người tạo được sự hòa hợp trở lại ấy đều sinh phạm phước. Đối tượng đã được thực hiện là giống nhau, nên ba sự trước, tuy việc làm có khác nhau nhưng phước thì không sai khác.
Lại nữa, việc gây tạo lợi ích như nhau nên đều sinh phạm phước. Như tu các vô lượng là vì muốn tạo lợi ích cho vô lượng hữu tình. Như thế, chỗ chưa xây dựng Tốt-đổ-ba, vì xá-lợi của Đức Phật mà xây dựng Tốt-đổ-ba, cũng là làm lợi ích cho vô lượng hữu tình. Nghĩa là ở nơi chốn đó, có vô lượng trăm ngàn các loài hữu tình, dùng các thứ hương hoa, cờ phướn, lọng báu đẹp đẽ, các thứ âm nhạc, đủ các vật cúng dường đem cúng dường nơi tháp, do đó khởi các nghiệp thiện về thân ngữ ý. Hoặc gieo trồng các hạt giống thiện, thù thắng đạt những phước báo như giàu sang, nhiều tiền của, hình dung đoan nghiêm, mọi người đều yêu mến kính trọng, đầy đủ oai đức lớn. Hoặc gieo trồng các chủng tử thiện về Chuyển luân vương, trời Đế Thích cùng Ma vương. Hoặc gieo trồng các chủng tử Bồ-đề của các bậc Thanh văn, Độc giác, Phật. Như thế là làm lợi ích cho vô lượng hữu tình, cũng như việc tu các vô lượng làm lợi ích cho vô lượng hữu tình.
Như vậy, ở chỗ chưa tạo lập Tăng-già-lam, mình vì các đệ tử của Đức Phật xây dựng các Tăng-già-lam cũng là làm lợi ích cho vô lượng hữu tình. Nghĩa là ở nơi chốn đó có vô lượng trăm ngàn các hữu tình đem những thức ăn uống, ngọa cụ, thuốc men và các thứ cần dùng khác đến bố thí, cúng dường, trải qua một ngày, trải qua bảy ngày, hoặc nửa tháng, một tháng, hoặc trải qua năm năm hay cúng dường liên tục v.v…, do đó dấy khởi các nghiệp thiện về thân ngữ ý. Các chúng đệ tử của Phật, do các nhân duyên thuận lợi đó nên thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ và diễn giải văn nghĩa của ba Tạng kinh điển. Hoặc là khởi quán bất tịnh, khởi trì tức niệm, khởi các niệm trụ riêng, chung. Hoặc đạt được các pháp như noãn, đảnh, nhẫn, pháp thế đệ nhất, nhập chánh quyết định được chứng quả dứt hết lậu. Do nhân duyên đó nên khiến các thí chủ hoặc gieo trồng các hạt giống giàu sang v.v… nói rộng cho đến gieo trồng các chủng tử Bồ-đề của Thanh văn, Độc giác, Phật. Như thế là làm lợi ích cho vô lượng hữu tình, như tu các vô lượng là nhằm tạo lợi ích cho vô lượng hữu tình.
Như vậy, giúp cho các chúng đệ tử của Đức Phật được hòa hợp cũng là làm lợi ích cho vô lượng hữu tình. Nghĩa là khi chúng Tăng đã bị phá hoại, tuy làm các việc như nhập kiến đạo chứng quả lậu dứt hết, hoặc thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ, giảng giải văn nghĩa của ba Tạng giáo điển, trụ nơi A-luyện-nhã tu quán bất tịnh, trì tức niệm (Quán sổ tức) v.v… hết thảy các phẩm thiện hiện có đều không thành tựu nên muốn gieo trồng các hạt giống Bồ-đề của ba Thừa cũng không thể được, do đó pháp luân không còn chuyển khắp ba ngàn đại thiên thế giới, cho đến chư Thiên trời Tịnh cư cũng hiện khởi tâm khác. Nhưng khi các chúng đệ tử của Phật hòa hợp trở lại, việc nhập kiến đạo, chứng quả lậu dứt hết, cho đến gieo trồng hạt giống Bồ-đề của ba Thừa thảy đều hoàn thành, do đấy khắp ba ngàn đại thiên thế giới pháp luân lại chuyển, cho đến chư Thiên trời Tịnh cư đều không còn hiện khởi tâm khác. Như thế là làm lợi ích cho vô lượng hữu tình, vì làm lợi ích như vậy nên đều sinh phạm phước.
Tôn giả Thế Hữu nói: 1. Như ở xứ chưa xây dựng Tốt-đổ-ba, nay vì xá-lợi của Đức Phật xây dựng nên Tốt-đổ-ba do bốn nhân duyên nên có thể sinh phạm phước: a. Do tự nguyện rộng lớn nên bỏ ra nhiều tiền của. b. Khiến cho vô lượng hữu tình gieo trồng các căn thiện. c. Tạo các việc thiện cứu cánh. d. Cất giữ tạng thân giới của Như Lai. 2. Còn ở chỗ chưa có Tăng-già-lam, nay vì các đệ tử của Đức Phật xây dựng các Tăng-già-lam do bốn nhân duyên nên có thể sinh phạm phước: a. Do tự nguyện rộng lớn nên bỏ ra nhiều tiền của. b. Khiến cho vô lượng hữu tình gieo trồng các căn thiện. c. Tạo các việc thiện cứu cánh. d. Khiến cho các chúng đệ tử của Đức Phật không nơi nương dựa có chỗ nương dựa để tu nghiệp thiện. 3. Nếu khi chúng Tăng bị phá hoại, có thể khiến hòa hợp trở lại, do bốn nhân duyên nên có thể sinh phạm phước: a. Lìa bỏ bốn thứ hành xấu ác của ngữ. b. Thâu nhận bốn thứ hành tốt đẹp của ngữ. c. Phá bỏ các thứ phi pháp. d. Kiến lập chánh pháp. 4. Như có người tu tập bốn vô lượng do bốn nhân duyên nên có thể sinh phạm phước: a. Lìa bỏ mọi thuận trái. b. Đoạn dứt các thứ ngăn che. c. Chứng được quả thanh tịnh. d. Gắn bó với hạnh thanh tịnh. Do đó, bốn thứ đều sinh phạm phước.
Hỏi: Bốn phạm phước này về lượng như thế nào?
Đáp: Có thuyết nói: Nếu nghiệp có thể chiêu cảm được quả vị Chuyển luân vương, ngang với mức đó gọi là một lượng phạm phước.
Có Sư khác cho: Nếu nghiệp có thể chiêu cảm được quả vị Thiên Đế Thích, ngang với mức đó gọi là một lượng phạm phước.
Lại có thuyết nêu: Nếu nghiệp có thể chiêu cảm quả vị Thiên vương trời Tha hóa tự tại, ngang với mức đó gọi là một lượng phạm phước.
Hoặc có thuyết biện: Nếu nghiệp có thể chiêu cảm quả vị vua Phạm thiên, ngang với mức đó gọi là một lượng phạm phước.
Lại có thuyết cho: Khi thế giới thành, tất cả hữu tình có thể chiêu cảm được nghiệp quả tăng thượng của thế giới, ngang với mức đó gọi là một lượng phạm phước.
Lại có thuyết nêu: Trừ nghiệp thiện của Bồ-tát gần với Phật địa, các hữu tình khác đều có thể chiêu cảm nghiệp quả tăng thượng về của cải giàu có, ngang với mức đó gọi là một lượng phạm phước.
Lại có thuyết nói: Đại phạm Thiên vương đầu tiên thỉnh Phật chuyển chánh pháp luân đạt được phạm phước, ngang với mức đó gọi là một lượng phạm phước.
Hỏi: Phạm vương được phạm phước này vào lúc nào?
Đáp: Có thuyết cho: Khi vị vua ấy mới phát tâm muốn đến thỉnh Phật, ngay lúc đó tức được phạm phước.
Sư kia không nên nói như thế, vì khi chưa tạo nghiệp mà lại được phước chăng?
Lại có thuyết nói: “Ngay lúc thỉnh Phật là được phạm phước”. Vị này cũng không nên nói như vậy, vì ngay lúc thỉnh Phật, tâm là vô phú vô ký ở cõi dục, mà vô phú vô ký không có quả dị thục, đâu thể gọi là phạm phước?
Nên nói như thế này: Đại Phạm Thiên vương khi đã thỉnh Phật xong, trở lại Phạm cung, sau đó Đức Thế Tôn chuyển chánh pháp luân cho chúng năm Bí-sô và tám vạn chư Thiên đều được thấy đế, các truyền xướng, tiếng vang lên đến Phạm cung. Phạm vương nghe rồi, vui mừng phấn khích nghĩ: “Do ta đã thỉnh Phật chuyển chánh pháp luân, làm lợi ích cho vô biên các loài hữu tình, việc ta nên làm nay đã hoàn thành”. Bấy giờ, Phạm vương mới được phạm phước.
Lời bình: Các lời nói như thế về lượng một phạm phước đều là những lời tán dương tốt đẹp về phạm phước ấy chứ chưa thật sự xứng hợp. Nhưng phạm phước thật sự là vô lượng vô biên, do những ý tưởng rộng lớn đã dẫn phát.
HẾT – QUYỂN 82