LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 81
Chương 2: KIẾT UẨN
Phẩm 4: BÀN VỀ MƯỜI MÔN, phần 11
Lại nữa, lìa hỷ, trụ nơi xả, chánh niệm, chánh tuệ, thân thọ nhận lạc, bậc Thánh nên nói về xả, trụ đầy đủ vào tĩnh lự thứ ba. Đó gọi là Thiên đạo thứ ba.
Lìa hỷ: Hỏi: Khi chứng đắc tĩnh lự thứ ba, là lìa chung các pháp hữu lậu của tĩnh lự thứ hai, vì sao chỉ nói là lìa hỷ?
Đáp: Vì hỷ là pháp đứng đầu, nên khi lìa chung các pháp hữu lậu của tĩnh lự thứ hai, nên nói riêng về hỷ.
Lại nữa, vì hỷ khó đoạn trừ, khó phá bỏ, khó có thể vượt qua, nên nói riêng.
Lại nữa, do hỷ gây nhiều lỗi lầm, tai hại rất lớn, lại bền chắc, nên nói riêng.
Lại nữa, khi lìa các nhiễm của tĩnh lự thứ hai thì hỷ gây nhiều chướng ngại, ngăn cản, trói buộc, như một tên chúa ngục xấu ác, nên nói riêng.
Lại nữa, các Sư Du-già vì chuyên đối trị hỷ để tu tĩnh lự thứ ba, nên nói riêng.
Lại nữa, các Sư Du-già rất ghét chán hỷ nên xả bỏ chung tĩnh lự thứ hai, do đó phải nói riêng hỷ.
Lại nữa, ở địa trên không có pháp nào dung nạp hỷ, nên nói riêng.
Do các thứ nhân duyên như thế nên chỉ nói Lìa hỷ.
Trụ nơi xả, chánh niệm, chánh tuệ: Xả: Tức là hành xả. Chánh niệm: Tức là niệm thiện thù thắng. Chánh tuệ: Tức là tuệ thiện hơn hết.
Thân thọ nhận lạc: Thân tức là ý thân. Có thuyết nói: Khi ý có lạc cũng khiến sắc thân do các đại chủng tạo nên có nhiều lạc vừa ý. Đây tức là ý thức tương ưng với lạc thọ, nên gọi là thân thọ nhận lạc.
Bậc Thánh nên nói về xả: Thánh tức là chư Phật và các Thánh đệ tử. Nên là vì người khác giảng nói và nên tự trụ vào xả.
Hỏi: Bậc Thánh đối với các địa đều nên nói xả, vì sao chỉ nói ở tĩnh lự thứ ba?
Đáp: Vì tĩnh lự thứ ba có đủ hai thứ trở ngại nơi địa của mình và của người khác, nên nói riêng.
Trở ngại nơi địa của người khác: Tức là hỷ của tĩnh lự thứ hai nổi chìm, tán động như La-sát-tư, có thể khiến cho các Sư Du-già suy thoái việc lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai, do đó nói nên xả, chớ vì hỷ này mà bị trở ngại.
Trở ngại nơi địa của mình: Nghĩa là lạc của tĩnh lự thứ ba, trong các thứ vui của sinh tử thì lạc này là tối thắng. Các Sư Du-già nhiễm đắm lạc ấy, không mong cầu các công đức thắng diệu ở địa trên, nên nói người tu đạo là các Sư Du-già mới hành tập đạo nghiệp, nói rõ lạc ấy là xứ gây trở ngại, không nên nhiễm đắm.
Lại nữa, Đức Phật và các đệ tử nên vì người khác nói về những lỗi lầm, trở ngại nơi tự địa tha địa của tĩnh lự thứ ba và khuyên người khác khiến xả, thế nên gọi là Thánh nên nói về xả. Tức là vì người khác nói tĩnh lự thứ ba có lạc thọ thù thắng có thể khiến chúng sinh nhiễm đắm mê muội không mong cầu các công đức thắng diệu ở địa trên. Các Bí-sô nên trụ vào chánh niệm chánh tri, chớ để bị lạc đó làm trở ngại. Cũng vì người khác nói tĩnh lự thứ hai có hỷ thọ thù thắng có thể khiến chúng sinh phải nổi chìm, tán động mà thoái mất việc lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai. Các Bí-sô nên trụ vào chánh niệm và xả, chớ nên vì hỷ này mà bị trở ngại. Như chủ buôn cũ chỉ dẫn người mới vào nghề buôn về các nước, các làng ấp có nhiều nguy hiểm, tai họa. Nghĩa là như trong nước đó, làng ấp như thế có nhiều dâm nữ, cờ gian bạc lận, những trò lừa đảo, quán rượu, giặc cướp v.v… cần phải đề phòng, tránh xa, các ông chớ lâm vào đấy mà mất tiền của cùng thân mạng.
Trụ đầy đủ vào tĩnh lự thứ ba: Tức là thành tựu được năm uẩn thiện của tĩnh lự thứ ba. Đạt được thành tựu gọi là trụ đầy đủ.
Lại nữa, đoạn trừ lạc, đoạn trừ khổ, hỷ, ưu (lo) trước đều mất, không khổ không vui, xả niệm thanh tịnh, trụ đầy đủ vào tĩnh lự thứ tư. Đó gọi là Thiên đạo thứ tư.
Đoạn trừ lạc: Hỏi: Khi chứng đắc tĩnh lự thứ tư thì lìa chung các pháp hữu lậu của tĩnh lự thứ ba, vì sao chỉ nói đoạn trừ lạc?
Đáp: Vì lạc là pháp đứng đầu, tức khi lìa chung các pháp hữu lậu của tĩnh lự thứ ba, nên nói riêng về lạc.
Lại nữa, vì lạc khó đoạn trừ, khó phá bỏ, khó có thể vượt qua, nên nói riêng.
Lại nữa, vì lạc gây nhiều lỗi lầm, tai hại luôn hiện bày mạnh mẽ bền chắc, nên nói riêng.
Lại nữa, khi lìa các nhiễm của tĩnh lự thứ ba thì lạc tạo nhiều chướng ngại ngăn cản, trói buộc, như tên chúa ngục xấu ác, nên nói riêng.
Lại nữa, các Sư Du-già vì chuyên đối trị lạc để tu tĩnh lự thứ tư, do đó nên nói riêng.
Lại nữa, các Sư Du-già chán ghét về lạc, tức nên lìa chung tĩnh lự thứ ba, nên nói riêng.
Lại nữa, ở các địa trên không có pháp khác nào dung nạp hay có lạc, nên nói riêng.
Do các thứ nhân duyên như thế nên chỉ nói Đoạn trừ lạc.
Đoạn trừ khổ: Hỏi: Khi lìa nhiễm cõi dục, Hành giả tu quán đã đoạn dứt khổ căn, vì sao nay khi lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba mới nói đoạn trừ khổ?
Đáp: Đây là đối với việc đã đoạn gọi là đoạn. Nghĩa là đối với sự việc xa mà nói tiếng gần.
Như người đã đến cũng nói là đang đến. Như nói: Đại vương từ đâu đến?
Như đã giải thoát nói tiếng giải thoát. Như nói: Do đấy nên thấy biết rõ tâm giải thoát các dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Lúc lìa dục nhiễm, tâm đã giải thoát dục lậu. Khi lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, tâm giải thoát hữu lậu, vô minh lậu.
Như đối với việc đã nhập mà nói tiếng nhập. Như nói: Bồ-tát nhập chánh tánh ly sinh, được thế tục trí hiện quán biên.
Như đối với sự việc đã thọ nhận mà nói tiếng thọ nhận. Như nói: Khi thọ nhận lạc thọ nhận biết như thật là thọ nhận lạc thọ. Không có tự nhận biết hiện tại thọ nhận nên nhận biết đã thọ nhận mà nói tiếng thọ nhận. Ở đây cũng như thế, đã đoạn nói là đoạn, nghĩa là đối với sự việc xa mà nói tiếng gần.
Lại nữa, dựa vào pháp có đôi đã hết, cùng nói tiếng đoạn trừ. Nói pháp có đôi: Tức là khổ và lạc. Khi lìa dục nhiễm, tuy khổ đã hết nhưng lạc chưa hết, nay lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba rồi thì khổ lạc đều hết và cùng nói tiếng đoạn.
Lại nữa, đoạn trừ lạc tức là đoạn trừ lạc căn của tĩnh lự thứ ba. Đoạn trừ khổ tức là đoạn trừ tâm và tâm sở pháp tương ưng với khổ.
Lại nữa, đoạn trừ lạc là đoạn trừ lạc căn của tĩnh lự thứ ba. Đoạn trừ khổ tức là đoạn trừ hơi thở ra vào ở tĩnh lự thứ ba. Các bậc Hiền Thánh đối với sự việc hít thở ra vào thì sinh tưởng khổ, còn hơn là các phàm phu đối với ngục vô gián dấy khởi tưởng khổ.
Lại nữa, đoạn trừ lạc tức là đoạn trừ lạc căn của tĩnh lự thứ ba. Đoạn trừ khổ tức là đoạn trừ các lạc căn đó, như nói: Vì vô thường nên khổ.
Hỷ, ưu trước mất: Nghĩa là khi lìa nhiễm cõi dục thì ưu căn đã mất. Khi lìa nhiễm ở tĩnh lự thứ hai thì hỷ căn đã hết. Thế nên nói nay thì hỷ ưu trước mất.
Không khổ không vui: Tức là thọ không khổ không vui.
Xả niệm thanh tịnh: Xả nghĩa là hành xả, niệm thanh tịnh tức là niệm thiện.
Hỏi: Ở địa dưới cũng có xả niệm vô lậu, vì sao chỉ nói nơi tĩnh lự thứ tư là xả niệm thanh tịnh?
Đáp: Xả niệm của tĩnh lự thứ tư đều đã lìa tám sự việc nhiễu loạn, nên gọi là thanh tịnh. Tám việc nhiễu loạn là: Khổ, lạc, hỷ, ưu, hít vào, thở ra, tầm, tứ. Ở đây đều không bị vẩn đục nên riêng gọi là thanh tịnh.
Lại nữa, tĩnh lự thứ tư không có các tai nạn trong ngoài nên gọi là thanh tịnh. Ba tĩnh lự dưới còn có tai nạn trong ngoài, nên không gọi là thanh tịnh. Tức tĩnh lự thứ nhất bên trong có lửa của tầm tứ, nên bên ngoài bị hỏa tai thiêu đốt. Tĩnh lự thứ hai bên trong có nước của cực hỷ, nên bên ngoài bị thủy tai cuốn trôi. Tĩnh lự thứ ba bên trong có gió của hơi thở ra vào, nên bên ngoài còn bị nạn phong tai thổi giạt. Tĩnh lự thứ tư không có ba thứ tai nạn đó, nên gọi là thanh tịnh.
Lại nữa, thân khí là chỗ dựa của tĩnh lự thứ tư, ba tai họa kia không tới được, niệm không quên mất, xả không xen tạp, không phải như các địa dưới, nên gọi là thanh tịnh.
Lại nữa, tĩnh lự thứ tư đã lìa các phiền não và tùy phiền não, nên nói là xả niệm thanh tịnh, không phải các thứ khác. Nghĩa là có xả niệm lìa các phiền não, không phải là tùy phiền não, đó là xả niệm vô lậu của ba tĩnh lự dưới. Hoặc có xả niệm lìa tùy phiền não, không phải là các phiền não, tức là xả niệm hữu lậu của tĩnh lự thứ tư. Hoặc có xả niệm lìa các phiền não và tùy phiền não, tức là xả niệm vô lậu của tĩnh lự thứ tư. Hoặc có xả niệm không phải là lìa các phiền não và tùy phiền não, tức là xả niệm hữu lậu của ba tĩnh lự dưới cùng tất cả xả niệm của cõi dục. Nên biết ở đây tùy phiền não là tám sự việc nhiễu loạn đã nói ở trên.
Lại nữa, sắc thân là chỗ dựa của tĩnh lự thứ tư luôn trong lặng sáng sạch, ví như ánh đèn sáng, vì xả niệm dựa vào đó nên cũng thanh tịnh.
Lại nữa, tĩnh lự thứ tư là sự nương dựa viên mãn tối thắng trong các sự nương dựa, là địa cứu cánh đáng tôn quý nhất trong các địa, nên xả niệm ở đấy cũng gọi là thanh tịnh.
Lại nữa, định của tĩnh lự thứ tư gọi là định bất động, uy lực của định ấy hiện hữu khắp các thân nương dựa, nên xả niệm ở đấy cũng gọi là thanh tịnh.
Lại nữa, tĩnh lự thứ tư là định của bảy chỗ dựa, cả trên dưới đều có ba định vô lậu, do đấy xả niệm cũng gọi là thanh tịnh.
Lại nữa, tĩnh lự thứ tư có hai sự việc rộng lớn: Nơi chốn rộng lớn và căn thiện rộng lớn, nên xả niệm ở đấy cũng gọi là thanh tịnh.
Lại nữa, tĩnh lự thứ tư đã có hơn hằng sa số Bồ-tát nương vào đấy nhập chánh tánh ly sinh, chứng đắc quả Chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, nên xả niệm ở đấy cũng gọi là thanh tịnh.
Lại nữa, tĩnh lự thứ tư có ba Sư Du-già đã nương vào đấy được nhập chánh tánh ly sinh đắc quả dứt hết lậu (A-la-hán). Đó là Phật, Độc giác, và các Thanh văn, nên xả niệm ở đấy cũng gọi là thanh tịnh.
Lại nữa, nơi tĩnh lự thứ tư các sắc do các đại chủng tạo nên cả hiển sắc hình sắc đều hết sức thắng diệu, nên xả niệm ở đấy cũng gọi là thanh tịnh.
Lại nữa, do nương vào tĩnh lự thứ tư, túc trụ tùy niệm trí có thể duyên nơi các sự việc từ xưa của cõi dục và bốn tĩnh lự, nên xả niệm ở đấy cũng gọi là thanh tịnh.
Do các thứ nhân duyên như thế nên hết thảy xả niệm hiện có của tĩnh lự thứ tư riêng gọi là thanh tịnh.
Trụ đầy đủ vào tĩnh lự thứ tư: Nghĩa là thân đạt được thành tựu năm uẩn thiện của tĩnh lự thứ tư. Được thành tựu gọi là trụ đầy đủ.
Như Khế kinh nói: “Có bốn thứ tâm sở tăng thượng nơi hiện pháp lạc trụ”.
Hỏi: Thế nào gọi là tâm sở tăng thượng?
Đáp: Tâm sở ở đây tức là Tam-ma-địa. Nếu không có đủ uy lực lớn của Tam-ma-địa thì không có công dụng lớn để có thể thành tựu sự việc lớn, có thể như bốn tĩnh lự căn bản, nên ở đây riêng gọi là tâm sở tăng thượng.
Lại nữa, trong bốn tĩnh lự có vô lượng các thứ tâm sở tăng thượng với các công đức thù thắng như vô lượng giải thoát, thắng xứ, biến xứ, vô ngại giải, nguyện trí không tranh, định biên tế v.v…, thế nên riêng gọi là tâm sở tăng thượng.
Lại nữa, nương vào bốn tĩnh lự, các Sư Du-già dùng vô lượng môn thọ nhận tâm sở lạc, tức là các môn công đức trước đã nói và ba thứ Tam-ma-địa như không không v.v…, thế nên riêng gọi là tâm sở tăng thượng.
Lại nữa, bốn tĩnh lự này thuộc về lạc thông hành, thế nên riêng gọi là tâm sở tăng thượng.
Hỏi: Trong bốn tĩnh lự này cũng có các công đức có thể dẫn đến hậu lạc, vì sao chỉ nói hiện pháp lạc trụ?
Đáp: Cũng nên nói là hậu pháp lạc trụ (Trụ vào pháp vui đời sau) nhưng không nói, nên biết Kinh này nêu bày chưa trọn vẹn.
Lại nữa, nếu nói đây là hiện pháp lạc trụ, nên biết là đã nói hậu pháp lạc trụ, vì hậu pháp lạc dùng hiện pháp lạc làm nhân để đạt được. Như Khế kinh nói: Trước đối với thời gian này tu đẳng chí kia sau mới sinh ra nó.
Lại nữa, hậu pháp lạc trụ nương dựa hệ thuộc vào hiện pháp lạc trụ, còn hiện pháp lạc trụ thì không nương dựa hệ thuộc vào hậu pháp lạc trụ, thế nên chỉ nói hiện pháp lạc trụ, tức đã nói hậu pháp lạc trụ.
Lại nữa, hiện pháp lạc trụ cùng với hậu pháp lạc trụ là môn gia hạnh, nếu đã nói cái này tức đã nói cái kia.
Lại nữa, hiện pháp lạc trụ là nhân, hậu pháp lạc trụ là quả, nếu đã nói nhân tức là đã nói quả. Như nhân và quả, thì các thứ chủ thể tạo tác và đối tượng được tạo tác, chủ thể sinh ra và đối tượng được sinh ra, chủ thể tạo thành và đối tượng được tạo thành, chủ thể nối tiếp và đối tượng được nối tiếp, chủ thể dẫn dắt và đối tượng được dẫn dắt, chủ thể chuyển và đối tượng được chuyển, chủ thể hiện tướng và đối tượng được hiện tướng, nên biết cũng như thế.
Lại nữa, hiện pháp lạc trụ là gần, hậu pháp lạc trụ là xa, nếu đã nói cái gần tức là đã nói cái xa. Như gần – xa, các thứ bức bách gần – không phải bức bách gần, hòa hợp – không phải hòa hợp, chúng đồng phần của thân này – chúng đồng phần của thân khác, nên biết cũng thế.
Lại nữa, hiện pháp lạc trụ thì hoặc ngu, hoặc trí, nội đạo, ngoại đạo, chánh quán, tà quán đều cùng tin là có, nên nói riêng. Còn hậu pháp lạc trụ thì có kẻ không tin như các ngoại đạo, thế nên không nói.
Lại nữa, các loại phàm ngu phần nhiều đều ham thích hiện lạc, không cầu đạt hậu lạc. Ở trong hiện lạc chỉ tham dục lạc nhỏ, không cầu diệu lạc lìa dục rộng lớn. Đức Thế Tôn muốn khiến các kẻ ngu kia bỏ dục lạc nhỏ để được diệu lạc rộng lớn của bốn tĩnh lự nên nói: Các người muốn cầu lạc rộng lớn nên bỏ dục lạc, tu bốn tĩnh lự. Thế nên chỉ nói hiện pháp lạc trụ.
Lại nữa, do bốn tĩnh lự khi hiện tiền tất thọ nhận hiện lạc, nên nói riêng. Hậu lạc thì không nhất định, hoặc thoái chuyển sinh vào bậc dưới, hoặc thắng tấn sinh vào bậc trên, hoặc là nhập Niết-bàn, nên không nói.
Do các thứ nhân duyên như thế, nên Đức Thế Tôn chỉ nói bốn tĩnh lự gọi là hiện pháp lac trụ. Còn cận phần với vô sắc, tuy cũng có nghĩa lạc nhưng thuộc về khổ thông hành, nên không nói.
Như Khế kinh nói: “Bốn thứ tâm sở tăng thượng nơi hiện pháp lạc trụ như thế, những người tu định thường xuyên nhập xuất, nên nhận biết rõ đúng về giải thoát tịch tĩnh vượt quá các sắc. Còn bốn định vô sắc, những người tu định cũng thường xuyên nhập xuất tức nên nêu bày đúng”.
Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn đối với bốn tĩnh lự thì khuyên nên nhận biết rõ, còn đối với bốn định vô sắc thì khuyên nên nêu bày?
Đáp: Vì các tĩnh lự thô, hiện bày rõ dễ thấy, các người tu định khi từ đó xuất rồi đều thích muốn nhập lại, nên Đức Phật nói: Nếu thích nhập lại nên nhận biết rõ đúng các tướng của định khi nhập xuất không nên nhầm lẫn. Trong các định vô sắc, tướng của chúng vi tế, ẩn kín khó thấy, những người tu định khi từ đó xuất rồi không thích nhập lại, nên Đức Phật dạy: Nếu không thích nhập lại nên nêu bày đúng cho người khác biết về các tướng của định khi nhập xuất chớ khiến quên mất.
Lại nữa, trong bốn tĩnh lự phần nhiều có các thứ công đức tướng khác, các người tu định khi từ đó xuất rồi đều thích muốn nhập lại, nên Đức Phật nói: Nếu thích nhập lại nên nhận biết rõ đúng các tướng của định khi nhập xuất chớ có nhầm lẫn. Trong các định vô sắc không có nhiều các thứ công đức tướng khác, những người tu định khi từ đó xuất rồi không thích nhập lại, do đó Đức Phật dạy: Nếu không thích nhập lại nên nêu bày đúng cho người khác biết về các tướng nhập xuất của định chớ khiến quên mất.
Lại nữa, trong bốn tĩnh lự các thứ tâm sở căn thọ có nhiều tướng khác, các người tu định khi từ đó xuất rồi đều thích muốn nhập lại, nên Đức Phật nói: Nếu thích nhập lại nên nhận biết rõ đúng các tướng của định khi nhập xuất chớ có nhầm lẫn. Trong các định vô sắc, các tâm sở căn thọ không có nhiều tướng khác, những người tu định khi từ đó xuất rồi không thích nhập lại, do đó Đức Phật dạy: Nếu không thích nhập lại nên nêu bày đúng cho người khác biết về các tướng nhập xuất của định chớ khiến quên mất.
Lại nữa, trong bốn tĩnh lự có vô số các thứ công đức thắng lợi, các người tu định khi từ đó xuất rồi đều thích muốn nhập lại, nên Đức Phật nói: Nếu thích nhập lại nên nhận biết rõ đúng các tướng của định khi nhập xuất chớ có nhầm lẫn. Trong các định vô sắc không có vô số các thứ công đức thắng lợi, những người tu định khi từ đó xuất rồi không thích nhập lại, do đó Đức Phật dạy: Nếu không thích nhập lại nên nêu bày đúng cho người khác biết về các tướng của định khi nhập xuất chớ khiến quên mất.
Lại nữa, trong bốn tĩnh lự có trí biến chiếu duyên nơi bậc trên dưới của mình, các người tu định khi từ đó xuất rồi đều thích muốn nhập lại, nên Đức Phật nói: Nếu thích nhập lại nên nhận biết rõ đúng các tướng của định khi nhập xuất chớ có nhầm lẫn. Trong các định vô sắc, trí biến chiếu chỉ có thể duyên với bậc trên của mình, không duyên với địa dưới, những người tu định khi từ đó xuất rồi không thích nhập lại, do đó Đức Phật dạy: Nếu không thích nhập lại nên nêu bày đúng cho người khác biết về các tướng của định khi nhập xuất chớ khiến quên mất.
Do các thứ nhân duyên như thế, nên đối với các tĩnh lự Đức Phật khuyên nên nhận biết rõ đúng, còn đối với bốn định vô sắc khuyên nên nêu bày chỉ rõ.
Như Khế kinh nói: “Bốn tĩnh lự có bốn thắng lợi, còn bốn định vô sắc có một thắng lợi”.
Hỏi: Vì sao các tĩnh lự có bốn thắng lợi còn các định vô sắc chỉ có một?
Đáp: Tức là do các thứ nhân duyên như trước đã nói, nên các thắng lợi của tĩnh lự và định vô sắc có khác. Ở đây lại có hai thứ không chung để đáp. Tức là trong tĩnh lự có ba thứ định: 1. Có tầm có tứ. 2. Không tầm chỉ có tứ. 3. Không tầm không tứ. Trong định vô sắc chỉ có một thứ là không tầm không tứ.
Lại nữa, trong bốn tĩnh lự có ba loại thọ là hỷ, lạc, xả, trong định vô sắc chỉ có xả thọ, nên bốn tĩnh lự có bốn thắng lợi, định vô sắc chỉ có một.
Hỏi: Tĩnh lự và thắng lợi có gì khác biệt?
Đáp: Có khác biệt về tên gọi, tức tên tĩnh lự và tên Thắng lợi.
Lại nữa, tĩnh lự có ba thứ là thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký.
Thắng lợi chỉ có một thứ là thiện.
Lại nữa, tĩnh lự có hai thứ là hữu lậu và vô lậu. Thắng lợi chỉ có một thứ là vô lậu.
Lại nữa, tĩnh lự hoặc thuộc cõi sắc, hoặc không hệ thuộc. Thắng lợi chỉ là không hệ thuộc.
Lại nữa, tĩnh lự hoặc là học, vô học, phi học phi vô học. Thắng lợi chỉ là học, vô học.
Lại nữa, tĩnh lự hoặc do kiến đạo đoạn trừ, hoặc do tu đạo đoạn trừ, hoặc không đoạn trừ. Thắng lợi chỉ là không đoạn trừ.
Lại nữa, tĩnh lự là chung cho nhiễm – không nhiễm. Thắng lợi chỉ là không nhiễm.
Lại nữa, tĩnh lự là chung cho có dị thục – không dị thục. Thắng lợi chỉ là không dị thục.
Lại nữa, tĩnh lự thuộc về ba đế trừ diệt đế. Thắng lợi chỉ thuộc về đạo đế.
Đó là sự sai khác của tĩnh lự và thắng lợi.
Như Khế kinh nói: “Tĩnh lự thứ nhất thì ưu căn diệt, tĩnh lự thứ hai thì khổ căn diệt”.
Hỏi: Khi lìa dục nhiễm thì ưu và khổ cùng đoạn trừ, vì sao kinh nói như thế?
Đáp: Vì căn cứ vào sự đối trị lỗi lầm nên nói như thế. Tức là ở phần vị lìa dục nhiễm, tuy đã đoạn trừ khổ căn, nhưng chưa gọi là đối trị lỗi lầm của khổ. Ở tĩnh lự thứ nhất khi được lìa nhiễm thì đối trị lỗi lầm nơi khổ nên nói là khổ diệt. Người đối trị khổ tức là tĩnh lự thứ nhất.
Lại nữa, căn cứ vào sự vượt quá giòng họ và chỗ nương dựa của khổ nên nói như thế. Tức là ở phần vị lìa dục nhiễm, tuy đã đoạn dứt khổ căn, nhưng chưa vượt quá giòng họ và chỗ nương dựa của khổ. Đối với tĩnh lự thứ nhất, khi đã được lìa nhiễm thì vượt quá chỗ nương dựa và giòng họ của khổ, nên nói khổ đã diệt. Chỗ nương dựa và giòng họ tức là các thức thân.
Hỏi: Ở phần vị lìa dục nhiễm tuy đã đoạn trừ ưu căn, nhưng chưa đối trị sự vượt quá chỗ nương dựa và giòng họ của nó, nên không nói ưu căn của tĩnh lự thứ nhất đã diệt chăng?
Đáp: Đối trị chỗ nương dựa và giòng họ của ưu căn đều ở tại ý thức. Đã cùng với ưu căn đồng ở tại ý thức, cho nên ngay khi đoạn trừ liền nói nó diệt. Còn chỗ nương dựa của khổ căn và giòng họ của khổ không cùng với đối trị đồng tại một thức, cho nên đối trị sự vượt quá chỗ nương dựa và giòng họ của nó mới nói là khổ diệt.
Có thuyết nói: Ở tĩnh lự thứ hai nói khổ căn diệt, nghĩa là tầm tứ diệt. Vì các bậc Hiền Thánh đối với tầm tứ phát sinh tưởng khổ còn hơn các phàm phu chán sợ cảnh khổ ở địa ngục, có thể sinh ra tưởng khổ, nên gọi là khổ căn.
Có trong Khế kinh nói: “Bốn tĩnh lự cũng như giường nằm”.
Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn nói bốn tĩnh lự như giường nằm?
Đáp: Đó là tánh cao thắng, tánh thâu nhận.
Tánh cao thắng: Là đối với cõi dục mà nói, do bốn tĩnh lự đã ra khỏi cõi dục.
Tánh thâu nhận: Là đối với pháp thiện mà nói, vì các tĩnh lự thâu nhận nhiều pháp thiện.
Lại nữa, các bậc Hiền Thánh đối với con đường dài sinh tử từ vô thỉ đến nay sinh khởi vô cùng chán mệt, giờ đây ở trong các tĩnh lự tạm thời ngơi nghỉ, cũng như quá mỏi mệt vì đường xa mà được tạm thời nghỉ ngơi trên giường ghế, cho nên dùng tiếng giường nằm để nói về tĩnh lự.
Có Khế kinh nói: “Bốn tĩnh lự ví như gió mát”.
Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn nói bốn tĩnh lự như gió mát?
Đáp: Vì chúng có thể ngăn chận, loại bỏ sự nóng bức của các nghiệp phiền não. Tức tĩnh lự thứ nhất có thể trừ bỏ sức phiền não nóng bức của các nghiệp bất thiện ở cõi dục. Tĩnh lự thứ hai có thể trừ bỏ các tầm tứ của tĩnh lự thứ nhất khi chúng tương ưng với các nghiệp phiền não nóng bức. Tĩnh lự thứ ba có thể ngăn chận, loại bỏ hỷ quá phấn khích của tĩnh lự thứ hai khi nó tương ưng với các nghiệp phiền não nóng bức. Tĩnh lự thứ tư có thể ngăn chận, loại bỏ lạc quá mức của tĩnh lự thứ ba khi nó tương ưng với các nghiệp phiền não nóng bức. Thế nên nói các tĩnh lự ví như gió mát.
Có Khế kinh nói: “Bốn tĩnh lự như thức ăn uống thượng diệu”.
Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn nói bốn tĩnh lự như thức ăn uống thượng diệu?
Đáp: Vì chúng có nghĩa là có thể đảm đương, giữ gìn pháp thân. Như ở chốn thôn ấp có những thức ăn uống nào ngon lạ đều đem dâng lên vua ở chốn kinh thành để nuôi lớn các bậc tôn quý. Như thế vô số thứ pháp thiện thắng diệu đều tập hợp trong các tĩnh lự để nuôi lớn pháp thân. Thế nên nói tĩnh lự ví như thức ăn thượng diệu.
Có Khế kinh nói: “Đức Phật vì Phạm chí nói tĩnh lự thứ tư là dấu vết rốt ráo”.
Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn vì Bà-la-môn bỏ qua ba tĩnh lự trước chỉ nói tĩnh lự thứ tư gọi là dấu vết rốt ráo?
Đáp: Vì có vị Bà-la-môn nghe nói Đức Phật có đủ nhất thiết trí kiến. Lại nghe: Chư Phật không vị nào là không nương vào tĩnh lự thứ tư này để chứng đắc Chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, tất cả được nêu bày nơi tĩnh lự thứ tư là dấu vết rốt ráo. Vị kia nghĩ: “Nếu Đức Phật đã thiết lập tĩnh lự thứ tư là dấu vết rốt ráo thì nhất định là có đủ nhất thiết trí kiến”. Nghĩ như thế xong, liền đến thưa hỏi Đức Thế Tôn. Đức Phật biết ý nghĩ của người ấy nên chỉ nói tĩnh lự thứ tư là dấu vết rốt ráo. Vị Phạm chí này nghe xong liền quyết định tin tưởng là Phật có đủ nhất thiết trí kiến. Đức Phật lại nói với Bà-la-môn kia: Tĩnh lự thứ tư là dấu vết của Như Lai, là nẻo hành tác của Phật, là sự hành tập gần gũi của Phật. Như trong ngày hè oi ả, loài voi chúa quý hoang dã đã từ chốn rừng rậm hiện ra, nơi ấy đất đai mầu mỡ, cỏ lá tươi thắm, quả ngon trĩu nặng, nước khắp ao suối đều trong mát, muôn hoa chen nở. Voi chúa xem qua rất đỗi vui mừng, bèn dùng ngà đào đất làm nơi trú chân. Đức Thế Tôn cũng như thế, hành xả của tĩnh lự thứ tư hiện tiền là cặp ngà quý đào bới vùng đất của trí cảnh đế an nghỉ đôi chân trí tuệ.
Nên biết ở đây: Dấu vết của Như Lai: Là nói Xa-ma-tha rốt ráo của tĩnh lự thứ tư.
Nẻo hành tác của Phật: Là nói Tỳ-bát-xá-na rốt ráo của tĩnh lự thứ tư.
Sự hành tập gần gũi của Phật: Là nói chung về Chỉ – Quán rốt ráo của tĩnh lự thứ tư.
Có Khế kinh nói: “Bốn tĩnh lự đều là lạc trụ”.
Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn nói bốn tĩnh lự đều là lạc trụ?
Đáp: Tĩnh lự căn bản thì dễ hiện tiền, nên gọi là lạc trụ, không phải như cận phần và định vô sắc rất khó hiện tiền. Vì sao? Vì các loài hữu tình bị các nghiệp phiền não ở cõi dục trói buộc, nên dẫn đến định vị chí, khiến hiện tiền là rất khó khăn, khác nào kẻ bị trói buộc lần nữa thật khó có thể tự cởi bỏ. Loài hữu tình cũng như thế, đã bị các nghiệp phiền não ở cõi dục trói buộc mà muốn tự giải thoát để đạt đến định vị chí thì quả thật là gian nan. Phải tu pháp quán bất tịnh hoặc quán sổ tức trải qua mười hoặc mười hai năm mới có thể dẫn khởi định vị chí, nhưng vẫn có người cũng không dẫn khởi được, cho nên rất là khó khăn. Nếu lìa nhiễm cõi dục, khởi tĩnh lự thứ nhất, không do dụng công nên dễ hiện tiền. Nhưng từ tĩnh lự thứ nhất lại muốn dẫn khởi tĩnh lự trung gian, phải dùng nhiều công sức. Tâm sở khác này diệt thì tâm sở khác sinh, tâm sở thô diệt thì tâm sở tế sinh. Tầm kết hợp vừa dứt thì tứ kết hợp sinh, cho nên định trung gian cũng khó hiện khởi. Ví như có người dùng cây để phá cây, phải dùng nhiều công sức, sau đó mới phá được. Tâm sở nơi tự địa của tĩnh lự thứ nhất có diệt có sinh cũng như thế. Ba tĩnh lự sau hay cận phần khó khởi hiện, căn bản dễ khởi hiện như tĩnh lự thứ nhất nên biết.
Hỏi: Đã lìa các nhiễm ở bậc dưới, khởi định vô sắc cũng không khó khăn, há không phải là lạc trụ chăng?
Đáp: Tuy đã lìa các nhiễm ở địa dưới, do định vô sắc quá vi tế nên khi khởi cũng rất khó khăn, nhưng lúc khởi tĩnh lự thì lại dễ. Lại, không phải ai cũng tin ở cõi vô sắc đều không có các sắc, nên kẻ tu hành muốn khởi định ấy cũng rất là khó. Như Trưởng giả Trảo đến thưa với Cụ thọ A-nan-đà: Những kẻ tại gia chúng tôi suốt đêm dài sinh tử đã tham đắm nơi năm cảnh như sắc v.v…, khi nghe nói cõi vô sắc thì hết sức kinh sợ, như sắp rơi xuống hầm sâu, làm sao các hữu tình lại tin được thật có vô sắc? Vì khó tin như thế nên khi khởi hiện thì rất khó khăn.
Lại nữa, nếu nương vào bốn tĩnh lự thì dễ có thể lìa nhiễm, không phải như cận phần v.v… nên gọi là lạc trụ. Ví như hai người cùng đi đến một nơi, một người đi bộ, một kẻ ngồi thuyền và tuy cùng đến nơi nhưng người ngồi thuyền thì không quá khó nhọc như người đi bộ. Như vậy, các hữu tình có kẻ nương vào tĩnh lự lìa các nhiễm, có kẻ nương vào cận phần hoặc nương vào vô sắc lìa các nhiễm. Tuy là cùng lìa các nhiễm, nhưng nương vào tĩnh lự thì không gian khó như nương vào cận phần v.v…, nên chỉ có tĩnh lự được gọi là lạc trụ.
Lại nữa, chỉ trong tĩnh lự mới có đủ hai thứ lạc, nên gọi là lạc trụ: một là lạc của lạc thọ, hai là lạc của khinh an. Ba tĩnh lự trước đều đủ hai lạc. Tĩnh lự thứ tư tuy không có lạc của thọ, nhưng lạc của khinh an có thế dụng rộng lớn hơn hẳn hai lạc trước. Còn cận phần và vô sắc tuy có khinh an, nhưng không rộng lớn, nên không gọi là lạc.
Lại nữa, lạc có hai thứ: một là lạc của chủ, hai là lạc của khách. Lạc của chủ, tức là nương vào tĩnh lự khởi tĩnh lự. Lạc của khách, tức là nương vào tĩnh lự khởi trụ vô sắc. Trụ vào địa tĩnh lự thì khởi đủ hai thứ lạc, nên gọi là lạc trụ. Trụ vào địa vô sắc thì không có đủ hai thứ lạc, nên không phải là lạc trụ. Cận phần thì không phải là hơn nên không được mang tên.
Lại nữa, trong tĩnh lự thứ tư không có não hại, vì lực dụng của lạc rộng lớn, không phải như cận phần v.v…, nên gọi là lạc trụ. Như Khế kinh nói: “Nếu ở xứ ấy không có các thứ não hại thì gọi là lạc”.
Lại nữa, khi tĩnh lự căn bản hiện tiền, nuôi lớn các đại chủng hiện hữu khắp toàn thân, khiến thân vui thích sung mãn nên gọi là lạc trụ. Định cận phần khi hiện tiền thì nuôi lớn các đại chủng chỉ có tâm biên sinh không vui thích sung mãn nên không phải là lạc trụ. Có thuyết nói: Định cận phần v.v… khi hiện tiền nuôi lớn các đại chủng, tuy hiện hữu khắp toàn thân, nhưng chỉ nuôi lớn phần dụng không bằng tĩnh lự khi hiện tiền nuôi lớn các đại chủng, nên không phải là lạc trụ. Ví như có hai người cùng tắm chung nơi một ao nước, một người thì nhảy xuống nước, một người thì dùng tay vẫy nước để tắm. Tuy đều tắm rửa, nhưng người nhảy xuống nước thấm đẫm nhiều nước hơn người dùng tay vẫy nước.
Lại nữa, trong bốn tĩnh lự sức của chỉ quán là như nhau, nên gọi là lạc trụ. Trong định cận phần thì quán mạnh chỉ yếu, trong định vô sắc thì chỉ mạnh quán yếu, nên đều không phải là lạc trụ.
Lại nữa, trong bốn tĩnh lự thì tinh tấn và chỉ đều bình đẳng mà chuyển, nên gọi là lạc trụ. Tuy nơi tất cả địa, sức của tinh tấn đều mạnh, nhưng ở trong tĩnh lự do bị chỉ chế ngự cho nên chúng cùng chuyển như nhau, các địa khác thì không như thế nên không phải là lạc trụ.
Lại nữa, trong bốn tĩnh lự thì xả đoạn tăng thượng công việc lìa nhiễm có thể đạt được, nên gọi là lạc trụ. Nghĩa là khi lìa nhiễm có hai thứ đoạn: một là xả đoạn tăng thượng, hai là đoạn trừ có công dụng. Nếu khi nương vào định cận phần và định vô sắc lìa các nhiễm gọi là đoạn trừ có công dụng, rất cực nhọc khó khăn. Còn khi nương vào tĩnh lự căn bản lìa các nhiễm gọi là xả đoạn tăng thượng thì tự nhiên chuyển vận. Ví như có hai người cùng đi đến một nơi, một người cỡi ngựa hiền, một kẻ điều khiển một chú ngựa xấu tính. Người cỡi ngựa hiền đến nơi không khó nhọc, khổ sở như kẻ điều khiển chú ngựa xấu tính kia.
Lại nữa, trong bốn tĩnh lự không có đạo dụng công, lìa nhiễm đều có thể được, nên gọi là lạc trụ. Định cận phần và định vô sắc có đạo dụng công mới được lìa nhiễm, nên không phải là lạc trụ. Như có nhiều người cùng vượt qua sông lớn, có kẻ nương vào bó cỏ, có kẻ nương vào quả bầu khô, người thì dùng bè, người lại ngồi thuyền buồm v.v…, tức người dong thuyền buồm qua sông tự nhiên an vui nhanh chóng đến bờ. Còn những kẻ nương vào các vật khác để đến được bờ thì đầy lo sợ, khó khăn. Các hữu tình cũng như thế, khi vượt qua sông lớn phiền não, có kẻ nương vào tĩnh lự, có người nương vào các địa khác, tuy đều từ bờ sinh tử này đến bờ Niết-bàn kia, nhưng người nương vào tĩnh lự an vui dễ đến hơn, nên gọi là lạc trụ, không phải như những kẻ nương vào định cận phần và định vô sắc.
Do các thứ nhân duyên như thế, nên chỉ có bốn tĩnh lự được gọi là lạc trụ.
Như gọi là lạc trụ, như vậy cũng gọi là xúc trụ cùng trụ.
***
* Bốn vô lượng: 1. Từ. 2. Bi. 3. Hỷ. 4. Xả.
Hỏi: Vì sao tĩnh lự không gián đoạn gọi là vô lượng?
Đáp: Vì các tĩnh lự dẫn khởi bốn vô lượng.
Lại nữa, tĩnh lự và vô lượng lại cùng dẫn khởi.
Lại nữa, do bốn vô lượng là công đức thù thắng trong tĩnh lự.
Hỏi: Tự tánh của bốn vô lượng này là gì?
Đáp: Từ, Bi đều lấy căn thiện không sân làm tự tánh, vì đối trị sân. Còn nếu gồm lấy các thứ tương ưng tùy chuyển thì ở cõi dục lấy bốn uẩn làm tự tánh, ở cõi sắc lấy năm uẩn làm tự tánh.
Hỏi: Nếu Từ và Bi đều lấy căn thiện không sân làm tự tánh vì đối trị sân, thì Từ đối trị những loại sân nào và Bi đối trị những loại sân nào?
Đáp: Từ đối trị sân giết hại, Bi đối trị sân đánh đập. Lại nữa, Từ đối trị việc giận đáng giận, Bi đối trị với việc giận không đáng giận.
Có thuyết cho: Từ vô lượng lấy căn thiện không sân làm tự tánh đối trị giận dữ. Bi vô lượng lấy không hại làm tự tánh đối trị hại.
Hỷ lấy hỷ căn làm tự tánh. Còn nếu gồm lấy các thứ tương ưng tùy chuyển thì ở cõi dục lấy bốn uẩn làm tự tánh, ở cõi sắc lấy năm uẩn làm tự tánh.
Hỏi: Nếu Hỷ vô lượng lấy hỷ căn làm tự tánh, thì nơi Luận Phẩm Loại Túc nói làm sao thông? Như nói: Thế nào là Hỷ vô lượng? Nghĩa là Hỷ và Hỷ tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức. Nếu nó dấy khởi hai nghiệp thân ngữ thì chỗ đã khởi tâm bất tương ưng hành đều gọi là Hỷ. Há có Hỷ thọ cùng với thọ tương ưng?
Đáp: Văn của Luận kia nên nói thế này: Nghĩa là Hỷ và Hỷ tương ưng với tưởng, hành, thức, không nên nói thọ, nếu nói có thọ thì người tụng Luận kia đã nhầm lẫn.
Lại nữa, Luận kia là nói chung về năm uẩn là tự tánh của hỷ vô lượng. Tuy hỷ thọ cùng với thọ không tương ưng, nhưng các tâm và tâm sở pháp khác cùng với thọ tương ưng, nên nói như thế cũng không trái lý.
Có Sư khác nói: Hỷ vô lượng này dùng hân (vui) làm tự tánh, vì Thể của hân không phải là thọ, nên riêng có tâm sở cùng với tâm tương ưng.
Có thuyết cho: Hân ở trong nhóm tương ưng với hỷ là có thể được.
Lại có thuyết nêu: Hỷ căn sau đó sinh ra hân, là do sức của hỷ dẫn khởi.
Nên nói như thế này: Hỷ vô lượng ấy cùng với thọ tương ưng cũng không trái lý.
Xả thì lấy căn thiện không tham làm tự tánh, vì đối trị tham. Còn nếu gồm lấy các thứ tương ưng tùy chuyển thì ở cõi dục lấy bốn uẩn làm tự tánh, ở cõi sắc lấy năm uẩn làm tự tánh.
Như thế gọi là tự tánh của các vô lượng.
Hỏi: Tướng của bốn vô lượng này như thế nào?
Đáp: Tự tánh tức là tướng, tướng tức là tự tánh. Tự tánh cùng với tướng không lìa nhau.
Tôn giả Thế Hữu nói: Trao cho và làm lợi ích là tướng của Từ. Trừ bỏ mọi suy tổn là tướng của Bi. Vui mừng được xả là tướng của Hỷ. Bình đẳng quên hết là tướng của Xả.
Đã nói về tự tánh và tướng của các vô lượng, về lý do nay sẽ nói.
Hỏi: Vì sao gọi là vô lượng? Vô lượng là nghĩa gì?
Đáp: Duyên khắp nơi các thứ đối trị vô lượng phiền não, hý luận của hữu tình, nên gọi là vô lượng.
Hỏi: Hý luận có hai thứ, là hý luận của ái và hý luận của kiến. Vậy vô lượng nào đối trị với hý luận nào?
Đáp: Các vô lượng không thể đoạn trừ các phiền não, chỉ có thể chế ngự điều phục, hoặc khiến chúng chuyển xa. Có lúc bốn thứ đều đối trị ái. Có lúc bốn thứ đều đối trị kiến. Nếu căn cứ vào bốn thứ đối trị gần mà nói, thì nên nói Từ, Bi đối trị gần hý luận của kiến, do Hành giả kiến có nhiều giận dữ. Hỷ, Xả đối trị gần hý luận của ái, do Hành giả ái có nhiều dựa cậy.
Có thuyết nói: Từ, Bi đối trị gần hý luận của ái. Hỷ, Xả đối trị gần hý luận của kiến.
Lại nữa, duyên khắp nơi các thứ đối trị vô lượng phiền não phóng dật của hữu tình, nên gọi là vô lượng. Nghĩa là bốn vô lượng này có thể đối trị gần các phiền não phóng dật ở cõi dục.
Lại nữa, bốn thứ như thế là xứ hiện bày diệu dụng rộng khắp của các Hiền Thánh, nên gọi là vô lượng. Như những người giàu sang có vô số thứ nơi chốn dạo chơi rộng khắp, tức là các nơi chốn như vườn hoa, công viên, cung điện, lầu đài, vùng săn bắn.
Lại nữa, bốn thứ như thế có duyên nơi vô lượng hữu tình làm cảnh, sinh ra vô lượng phước, dẫn đến vô lượng quả, nên gọi là vô lượng.
Bốn vô lượng này: Về cõi: Là ở tại cõi dục và cõi sắc.
Về địa: Từ, Bi và Xả, ba thứ có mặt nơi bảy địa, tức là cõi dục, bốn tĩnh lự, định vị chí cùng tĩnh lự trung gian.
Có thuyết nói: Ở nơi mười địa, tức bốn tĩnh lự, bốn cận phần, tĩnh lự trung gian và cõi dục.
Hỷ vô lượng thì ở ba địa, tức cõi dục và hai tĩnh lự đầu.
Có Sư khác cho: Trong hai tĩnh lự đầu không có Bi vô lượng. Vì sao? Vì trong hai tĩnh lự đầu có hành tướng vui mừng của hỷ thọ thù thắng chuyển, còn Bi vô lượng thì có hành tướng lo lắng hiện bày. Vậy trong hai tĩnh lự đầu nếu có Bi thì trong một tâm lại có vui, có buồn là trái với chánh lý.
Hỏi: Nếu như vậy thì hai tĩnh lự đầu làm sao có được sự nhàm chán vô lậu?
Đáp: Vì nhàm chán vô lậu cùng với tác ý chân thật tương ưng không trái với hỷ, như như nơi cảnh nhận biết rõ về tướng chân thật, như thế như thế càng phát sinh vui mừng sâu xa. Như như nơi cảnh sinh khởi vui mừng sâu xa. Như thế như thế lại hân hoan vì sự hiểu biết đó. Như người tìm của báu mà đào đất, cứ đào đất như thế như thế được các vật báu, và được các vật báu như thế như thế lại vui vẻ đào đất. Bi vô lượng cùng với tác ý thắng giải tương ưng nên trái với hỷ.
Lời bình: Nên nói như vầy: Hai tĩnh lự đầu có Bi vô lượng. Vì sao nhận biết như thế? Do có Thánh giáo lượng. Như nơi Chương Định Uẩn nói: Hai tĩnh lự đầu thâu giữ cả bốn vô lượng của chúng, nên biết là có Bi.
Bốn vô lượng này: Về chỗ dựa: Chỉ dựa vào thân nơi cõi dục được hiện khởi.
Về hành tướng: Từ có hành tướng là ban cho vui. Bi có hành tướng là cứu khổ. Hỷ có hành tướng là vui mừng. Xả có hành tướng buông bỏ.
Về đối tượng duyên: Chỉ duyên nơi cõi dục, chỉ duyên nơi tụ tập, chỉ duyên nơi hòa hợp, chỉ duyên nơi các hữu tình v.v… Nghĩa là duyên với năm uẩn, hai uẩn nơi hữu tình ở cõi dục làm cảnh. Nếu các hữu tình tâm trụ vào địa của mình thì duyên với năm uẩn kia, nếu các hữu tình tâm trụ vào địa của người khác, hoặc người không tâm thì duyên với hai uẩn kia.
Có thuyết cho: Vô lượng của tĩnh lự thứ nhất duyên với các hữu tình cõi dục. Vô lượng của tĩnh lự thứ hai duyên với các hữu tình cõi dục, tĩnh lự thứ nhất. Vô lượng của tĩnh lự thứ ba duyên với các hữu tình cõi dục và hai tĩnh lự đầu. Vô lượng của tĩnh lự thứ tư duyên với các hữu tình cõi dục cùng ba tĩnh lự dưới.
Lại có thuyết nêu: Vô lượng của tĩnh lự thứ nhất duyên với các hữu tình cõi dục, tĩnh lự thứ nhất. Vô lượng của tĩnh lự thứ hai duyên với các hữu tình cõi dục và hai tĩnh lự đầu. Vô lượng của tĩnh lự thứ ba duyên với các hữu tình cõi dục cùng ba tĩnh lự dưới. Vô lượng của tĩnh lự thứ tư duyên với các hữu tình cõi dục và bốn tĩnh lự.
Có Sư khác nói: Từ vô lượng duyên nơi cõi dục và ba tĩnh lự dưới. Vì sao? Vì hành tướng ban vui của Từ vô lượng hoạt động chỉ ở trong bốn địa có lạc thọ. Bi vô lượng chỉ duyên nơi cõi dục. Vì sao? Vì hành tướng cứu khổ của Bi vô lượng hoạt động chỉ ở trong cõi dục có khổ thọ. Hỷ vô lượng duyên nơi cõi dục và hai tĩnh lự đầu. Vì sao? Vì hành tướng vui mừng của hỷ vô lượng hoạt động chỉ ở trong ba địa có hỷ thọ. Xả vô lượng chỉ duyên nơi cõi dục cùng bốn tĩnh lự. Vì sao? Vì hành tướng buông bỏ của xả vô lượng hoạt động trong tất cả địa có xả thọ.
Lời bình: Trong các thuyết trên, chỉ có thuyết đầu là đúng. Tức là bốn thứ chỉ duyên với cõi dục làm cảnh.
Về niệm trụ: Bốn vô lượng này chỉ cùng với pháp niệm trụ cùng hiện hành.
Về trí: Bốn vô lượng này chỉ cùng với thế tục trí cùng hiện hành.
Về Tam-ma-địa: Bốn vô lượng này không cùng với Tam-mađịa cùng hiện hành, vì chỉ là hữu lậu.
Về căn tương ưng: Ba vô lượng Từ, Bi, Xả cùng tương ưng với ba căn hỷ, lạc, xả. Hỷ thì hoàn toàn không tương ưng với thọ căn, nếu gồm nói về tương ưng tùy chuyển, tức hỷ cũng cùng với hỷ căn tương ưng.
Về quá khứ, vị lai, hiện tại: Bốn vô lượng này đều chung cho cả ba đời. Quá khứ duyên với quá khứ, hiện tại duyên với hiện tại, vị lai: pháp có thể sinh thì duyên với vị lai, pháp không thể sinh thì duyên với ba đời.
Về thiện, bất thiện, vô ký: Bốn vô lượng này chỉ là thiện và duyên với ba thứ.
Về thuộc ba cõi dục, Sắc, Vô sắc: Bốn vô lượng này thuộc cõi dục và Sắc, chỉ duyên với phần hệ thuộc cõi dục.
Về học, vô học, phi học phi vô học: Bốn vô lượng này chỉ là phi học phi vô học, chỉ duyên với phi học phi vô học.
Về do kiến đạo đoạn trừ, do tu đạo đoạn trừ, không đoạn trừ: Bốn vô lượng này chỉ do tu đạo đoạn trừ. Bốn vô lượng này duyên với do kiến đạo, tu đạo đoạn trừ.
Về duyên với danh, với nghĩa: Bốn vô lượng này duyên chung cho cả hai thứ.
Về duyên với sự nối tiếp của mình và sự nối tiếp của người khác: Bốn vô lượng này chỉ duyên với sự nối tiếp của người khác.
Về gia hạnh đắc, lìa nhiễm đắc: Bốn vô lượng này đều chung cho cả hai thứ. Nên biết ở đây nói do lìa nhiễm đắc: Nghĩa là vô lượng của tĩnh lự thứ nhất lìa các nhiễm ở cõi dục nên đắc. Vô lượng của tĩnh lự thứ hai lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất nên đắc. Vô lượng của tĩnh lự thứ ba lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai nên đắc. Vô lượng của tĩnh lự thứ tư lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba nên đắc. Hoặc khi lìa nhiễm ở địa mình và các địa trên tu đắc các vô lượng. Do gia hạnh đắc: Bốn vô lượng này phần nhiều do gia hạnh mà hiện tiền. Phật thì không do gia hạnh mà hiện tiền. Độc giác thì do gia hạnh bậc thấp mà hiện tiền. Thanh văn thì do gia hạnh bậc giữa, trên mà hiện tiền. Còn phàm phu thì không nhất định, vì có nhiều chủng tánh.
Về từng được, chưa từng được: Bốn vô lượng này đều chung cho cả hai thứ. Tất cả các bậc Thánh và những phàm phu trụ nơi thân sau đều chung cho cả hai thứ, còn các phàm phu khác chỉ là từng được.
Có thuyết nói: Tất cả bậc Thánh và những phàm phu trụ nơi nội pháp thì chung cho cả hai thứ, còn phàm phu thuộc ngoại pháp chỉ là từng được.
HẾT – QUYỂN 81