LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 80
Chương 2: KIẾT UẨN
Phẩm 4: BÀN VỀ MƯỜI MÔN, phần 10
* Có bốn tĩnh lự: 1. Tĩnh lự thứ nhất. 2. Tĩnh lự thứ hai. 3. Tĩnh lự thứ ba. 4. Tĩnh lự thứ tư.
Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?
Đáp: Vì nhằm khiến cho kẻ nghi có sự quyết định. Nghĩa là như nơi Luận Phẩm Loại Túc nói: Thế nào là tĩnh lự thứ nhất? Nghĩa là tĩnh lự thứ nhất gồm thâu năm uẩn thiện. Cho đến: Thế nào là tĩnh lự thứ tư? Nghĩa là tĩnh lự thứ tư gồm thâu năm uẩn thiện. Luận kia chỉ nói về tĩnh lự thiện, hoặc có kẻ sinh nghi cho: Tĩnh lự chỉ là thiện, không phải là nhiễm, cũng không phải là vô phú vô ký. Vì nhằm làm rõ chỗ nghi kia, hiển bày bốn tĩnh lự là chung cho thiện, nhiễm, vô phú vô ký, nên tạo ra phần Luận này.
Hỏi: Tự tánh của bốn tĩnh lự này là gì?
Đáp: Mỗi thứ đều lấy năm uẩn nơi địa của mình làm tự tánh. Đó gọi là tự tánh, là bản tánh, tướng phần, tự thể ngã vật của tĩnh lự.
Đã nói về tự tánh, về lý do nay sẽ nói.
Hỏi: Vì sao gọi là tĩnh lự? Vì có thể dứt trừ các kiết nên gọi là tĩnh lự hay vì có thể chánh quán nên gọi là tĩnh lự? Nếu vì có thể dứt trừ các kiết nên gọi là tĩnh lự, thì các định vô sắc cũng có thể dứt trừ các kiết tức nên cũng gọi là tĩnh lư. Nếu vì có thể chánh quán nên gọi là tĩnh lự, thì Tam-ma-địa ở cõi dục cũng có thể chánh quán tức nên gọi là tĩnh lự.
Đáp: Có thuyết nói: Do có thể đoạn dứt các kiết nên gọi là tĩnh lự.
Hỏi: Các định vô sắc cũng có thể đoạn dứt các kiết tức nên gọi là tĩnh lự chăng?
Đáp: Nếu định có thể đoạn dứt hai thứ kiết bất thiện và vô ký, nên gọi là tĩnh lự. Các định vô sắc chỉ đoạn dứt được kiết vô ký, không phải là đoạn dứt kiết bất thiện, nên không được gọi là tĩnh lự.
Hỏi: Nếu nói như thế thì chỉ định vị chí mới gọi là tĩnh lự, vì ở địa trên không đoạn dứt các kiết bất thiện?
Đáp: Địa trên tuy không đoạn đối trị kiết ấy, nhưng có pháp đối trị chán hoại đối với bất thiện. Do có thể chán hoại nên cũng gọi là có thể đoạn trừ.
Hỏi: Nếu nói như thế thì phẩm diệt đạo pháp trí của địa trên và tất cả các phẩm loại trí đó tức nên không phải là tĩnh lự và đều không phải là hai pháp đối trị đoạn trừ và chán hoại ở cõi dục chăng?
Đáp: Chúng đối với cõi dục tuy không có đối trị hoàn toàn cõi và địa, nhưng cõi và địa ấy lại có dung nạp pháp đối trị chán hoại nơi bất thiện. Do uy lực đó mà các thứ khác cũng được mang tên. Lại nữa, trong bốn tĩnh lự có khả năng đối trị các kiết bất thiện, ở cõi vô sắc thì hoàn toàn không, nên tên gọi tĩnh lự không chung cho cõi vô sắc.
Tôn giả Diệu Âm nói: Sáu địa ở cõi sắc đối với các kiết ở cõi dục đều có đối trị đoạn trừ và đối trị chán hoại, nhưng định vị chí đã đoạn trừ các kiết ấy, còn đối trị nơi các địa khác không thể đoạn trừ chúng. Tuy không thể đoạn trừ chúng, nhưng lại có dụng của sự đối trị. Như ba phần mặt trời đều có thể phá trừ bóng tối. Ngay ở phần đầu đã phá được thì những phần khác không phá nữa. Lại như có sáu người cùng có chung một kẻ oán, nay một người đã giết kẻ ấy, năm người kia không còn giết nữa. Lại như có sáu ngọn đèn đều có thể xua tan bóng tối, nếu cầm một ngọn đèn đi vào nhà, bóng tối đã bị xua tan, năm đèn còn lại lúc đem vào nhà thì không còn bóng tối để phá trừ. Như vậy, sáu địa đối với kiết cõi dục đều có thể đoạn trừ, không phải chỉ là định vị chí. Nếu không như thế thì dựa vào năm địa trên khi nhập kiến đạo, tức nên không chứng được các kiết lìa trói buộc ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ. Đã có thể chứng đắc, nên biết sáu địa đối với các kiết ở cõi dục có đối trị đoạn trừ.
Lại nữa, nếu định có thể đoạn dứt hết hai thứ kiết do kiến đạo và tu đạo đoạn trừ, nên gọi là tĩnh lự. Các định vô sắc chỉ có thể đoạn dứt được các kiết do tu đạo đoạn trừ, nên không phải là tĩnh lự.
Lại nữa, nếu định có thể đoạn dứt các kiết là năm uẩn câu sinh, có thể làm chỗ nương để khởi tạo nhiều công đức, có thể nhận giữ đầy đủ bốn chi và năm chi, có thể phát sinh sáu thông, đầy đủ bốn thông hành, ba thứ biến hiện, ba minh, ba căn, ba đạo, ba địa, bốn quả Sa-môn, chín đạo nhận biết khắp, hai đạo kiến – tu, hai trí pháp – loại cùng nhẫn trí, nên gọi là tĩnh lự. Các định vô sắc tuy có thể đoạn dứt các kiết, nhưng không gồm đủ các công đức như đã nói trên, nên không phải là tĩnh lự.
Lại có thuyết nói: Do có thể chánh quán nên gọi là tĩnh lự.
Hỏi: Nếu như thế thì Tam-ma-địa ở cõi dục cũng có thể chánh quán, tức nên cũng được gọi là tĩnh lự chăng?
Đáp: Nếu có thể chánh quán, cũng có thể đoạn trừ các kiết, tức nên gọi là tĩnh lự. Tam-ma-địa ở cõi dục tuy có thể chánh quán, nhưng không thể đoạn trừ các kiết, nên không gọi là tĩnh lự.
Lại nữa, nếu có thể chánh quán bền bĩ, khó hoại, nối tiếp trụ lâu dài và đối với cảnh của đối tượng duyên chú ý được trong một thời gian lâu, không bỏ, nên gọi là tĩnh lự. Tam-ma-địa ở cõi dục không có công năng như vậy, nên không phải là tĩnh lự.
Lại nữa, nếu Tam-ma-địa có đủ các tên định và dụng của định và cùng có thể chánh quán, nên gọi là tĩnh lự. Tam-ma-địa ở cõi dục chỉ có tên định, không có dụng của định, như rui mè bằng đất bùn chỉ có tên, không có dụng, nên không phải là tĩnh lự.
Lại nữa, nếu Tam-ma-địa không bị gió tán loạn làm lay động, như ngọn đèn để trong ngôi nhà kín, lại có thể chánh quán, nên gọi là tĩnh lự. Tam-ma-địa ở cõi dục bị rất nhiều gió tán loạn làm lay động, như ngọn đèn đặt ở ngả tư đường, nên không phải là tĩnh lự.
Nên nói như vầy: Cần phải đủ cả hai nghĩa mới được gọi là tĩnh lự. Đó là có thể đoạn dứt các kiết và có thể chánh quán. Tam-ma-địa ở cõi dục tuy có thể chánh quán nhưng lại không thể đoạn dứt các kiết, các định vô sắc tuy có thể đoạn dứt các kiết nhưng không thể chánh quán, nên đều không phải là tĩnh lự.
Lại nữa, nếu có thể quán khắp, đoạn dứt khắp các kiết thì gọi là tĩnh lự. Tam-ma-địa ở cõi dục tuy có thể quán khắp, nhưng không thể đoạn dứt khắp các kiết, các định vô sắc nơi cả hai nghĩa ấy đều không có, nên không phải là tĩnh lự.
Lại nữa, nếu có thể dứt yên tất cả phiền não và có thể suy xét về các đối tượng duyên thì gọi là tĩnh lự. Tam-ma-địa ở cõi dục tuy có thể suy xét về tất cả đối tượng duyên, nhưng lại không thể dứt yên tất cả phiền não, các định vô sắc nơi cả hai nghĩa đều không có, nên không phải là tĩnh lự.
Lại nữa, các định vô sắc chỉ có tĩnh mà không có lự. Tam ma địa ở cõi dục có lự mà không có tĩnh, còn định ở cõi sắc đều có cả hai, nên gọi là tĩnh lự. Tĩnh nghĩa là đẳng dẫn. Lự nghĩa là quán khắp, nên gọi là Tĩnh lự.
Bốn tĩnh lự gồm chung có mười tám chi: Nghĩa là tĩnh lự thứ nhất có năm chi: 1. Tầm. 2. Tứ. 3. Hỷ. 4. Lạc. 5. Tâm tánh một cảnh. Tĩnh lự thứ hai có bốn chi: 1. Bên trong cùng tịnh. 2. Hỷ. 3. Lạc. 4. Tâm tánh một cảnh. Tĩnh lự thứ ba có năm chi: 1. Hành xả. 2. Chánh niệm. 3. Chánh tuệ. 4. Thọ lạc. 5. Tâm tánh một cảnh. Tĩnh lự thứ tư có bốn chi: 1. Thọ không khổ không vui. 2. Hành xả thanh tịnh. 3. Niệm thanh tịnh. 4. Tâm tánh một cảnh.
Hỏi: Bốn tĩnh lự về tên chi có mười tám, còn về thật Thể có bao nhiêu?
Đáp: Chỉ có mười một. Tức tĩnh lự thứ nhất về tên chi với thật Thể đều cùng có năm. Tĩnh lự thứ hai về tên chi tuy có bốn, ba chi như trước và thêm một chi bên trong cùng tịnh. Tĩnh lự thứ ba về tên chi tuy có năm, nhưng chi thứ năm thì như trước, chỉ thêm bốn chi trước. Tĩnh lự thứ tư về tên chi tuy có bốn, nhưng ba chi sau thì như trước, chỉ thêm chi thứ nhất. Cho nên tĩnh lự có mười tám tên chi và mười một thật Thể.
Lại có thuyết nói: Thật thể chỉ có mười, nghĩa là lạc của ba tĩnh lự hợp làm một.
Lời bình: Người kia không nên nói như thế. Vì hai tĩnh lự trước là lạc của khinh an, còn tĩnh lự thứ ba riêng là lạc của thọ. Lạc của hai tĩnh lự đầu do hành uẩn thâu giữ, còn lạc của tĩnh lự thứ ba do thọ uẩn thâu giữ. Cho nên theo thuyết trước (tức mười một thật thể) về lý là đúng.
Như tên và thật thể, thì tên nêu đặt và thể nêu đặt, tên dị tướng và thể dị ướng, tên dị tánh và thể dị tánh, tên sai khác và thể sai khác, tên kiến lập và thể kiến lập, tên giác và thể giác, nên biết cũng như thế. Hỏi: Ở đây thế nào là tĩnh lự? Thế nào là chi tĩnh lự?
Đáp: Tánh của tâm chuyên vào một cảnh là tĩnh lự, dùng Tamma-địa làm tự tánh. Còn các thứ ở đây và chỗ khác là chi tĩnh lự.
Hỏi: Nếu Tam-ma-địa là tĩnh lự, thì tĩnh lự thứ nhất và tĩnh lự thứ ba mỗi thứ chỉ nên có bốn chi, còn tĩnh lự thứ hai và tĩnh lự thứ tư mỗi thứ chỉ nên có ba chi, chi tĩnh lự còn là mười bốn, vì sao nói mười tám chi?
Đáp: Tam-ma-địa là tĩnh lự cũng là chi tĩnh lự, còn các thứ khác là chi tĩnh lự không phải là tĩnh lự nên có mười tám. Như trạch pháp là giác cũng là chi giác, còn các thứ khác là chi giác không phải là giác. Chánh kiến là đạo cũng là chi đạo, còn các thứ khác là chi đạo không phải là đạo. Lìa ăn phi thời là trai cũng là chi trai, còn các thứ khác là chi trai không phải là trai. Đây cũng như thế. Đó gọi là tự tánh, là bản tánh, tướng phần, tự thể, ngã vật của chi tĩnh lự.
Đã nói về tự tánh, về lý do nay sẽ nói.
Hỏi: Vì sao gọi là chi tĩnh lự? Chi tĩnh lự là nghĩa gì?
Đáp: Tĩnh lặng suy xét gọi là tĩnh lự. Tùy thuận nơi tĩnh lự ấy gọi là chi tĩnh lự. Chi tĩnh lự có nghĩa là tùy thuận, có nghĩa là đội mang gánh nặng, có nghĩa là hoàn thành sự việc lớn, có nghĩa là bền chắc hơn cả, có nghĩa là phân biệt. Đó là nghĩa của chi tĩnh lự.
Nghĩa tùy thuận: Là nếu pháp tùy thuận nơi tĩnh lự của địa này gọi là chi tĩnh lự của địa ấy.
Nghĩa đội mang gánh nặng: Là nếu pháp có thể dẫn dắt đến tĩnh lự của địa này gọi là chi tĩnh lự của địa ấy.
Nghĩa hoàn thành sự việc lớn: Là nếu pháp có thể làm thành tĩnh lự của địa này gọi là chi tĩnh lự của địa ấy.
Nghĩa bền chắc hơn cả: Là nếu pháp có thể giúp đỡ hoàn thành tĩnh lự của địa này khiến nó bền chắc hơn lên gọi là chi tĩnh lự của địa ấy.
Nghĩa phân biệt: Như quân lính, xe cộ v.v… đều được phân biệt khác nhau, cho nên gọi là chi quân xa. Phân biệt sự khác nhau của các tĩnh lự như thế nên gọi là chi tĩnh lự.
Như thế là đã giải thích tên của chi tĩnh lự. Sau đây là phân biệt các tướng xen lẫn không xen lẫn.
Hỏi: Nếu là chi của tĩnh lự thứ nhất cũng là chi của tĩnh lự thứ hai chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:
1. Có trường hợp là chi của tĩnh lự thứ nhất không phải là chi của tĩnh lự thứ hai: Nghĩa là như tầm và tứ.
2. Có trường hợp là chi của tĩnh lự thứ hai không phải là chi của tĩnh lự thứ nhất: Nghĩa là như bên trong cùng tịnh.
3. Có trường hợp là chi của tĩnh lự thứ nhất cũng là chi của tĩnh lự thứ hai: Nghĩa là hỷ lạc và tâm có tánh chuyên vào một cảnh.
4. Có trường hợp không phải là chi của tĩnh lự thứ nhất cũng không phải là chi của tĩnh lự thứ hai: Nghĩa là trừ các trường hợp nêu trên.
Hỏi: Nếu là chi của tĩnh lự thứ nhất cũng là chi của tĩnh lự thứ ba chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:
1. Có trường hợp là chi của tĩnh lự thứ nhất không phải là chi của tĩnh lự thứ ba: Nghĩa là như tầm, tứ, hỷ, lạc.
2. Có trường hợp là chi của tĩnh lự thứ ba không phải là chi của tĩnh lự thứ nhất: Nghĩa là như xả, niệm, tuệ, lạc.
3. Có trường hợp là chi của tĩnh lự thứ nhất cũng là chi của tĩnh lự thứ ba: Nghĩa là như tâm có tánh chuyên vào một cảnh.
4. Có trường hợp không phải là chi của tĩnh lự thứ nhất cũng không phải là chi của tĩnh lự thứ ba: Nghĩa là trừ các trường hợp nêu trên.
Hỏi: Nếu là chi của tĩnh lự thứ nhất cũng là chi của tĩnh lự thứ tư chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:
1. Có trường hợp là chi của tĩnh lự thứ nhất không phải là chi của tĩnh lự thứ tư: Nghĩa là như tầm, tứ, hỷ, lạc.
2. Có trường hợp là chi của tĩnh lự thứ tư không phải là chi của tĩnh lự thứ nhất: Nghĩa là như thọ không khổ không vui, xả, niệm.
3. Có trường hợp là chi của tĩnh lự thứ nhất cũng là chi của tĩnh lự thứ tư: Nghĩa là tâm có tánh chuyên vào một cảnh.
4. Có trường hợp không phải là chi của tĩnh lự thứ nhất cũng không phải là chi của tĩnh lự thứ tư: Nghĩa là trừ các trường hợp nêu trên.
Hỏi: Nếu là chi của tĩnh lự thứ hai cũng là chi của tĩnh lự thứ ba chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:
1. Có trường hợp là chi của tĩnh lự thứ hai không phải là chi của tĩnh lự thứ ba: Nghĩa là như bên trong cùng tịnh, hỷ, lạc.
2. Có trường hợp là chi của tĩnh lự thứ ba không phải là chi của tĩnh lự thứ hai: Nghĩa là như xả, niệm, tuệ, lạc.
3. Có trường hợp là chi của tĩnh lự thứ hai cũng là chi của tĩnh lự thứ ba: Nghĩa là tâm có tánh chuyên vào một cảnh.
4. Có trường hợp không phải là chi của tĩnh lự thứ hai cũng không phải là chi của thứ ba: Nghĩa là trừ các trường hợp nêu trên.
Hỏi: Nếu là chi của tĩnh lự thứ hai cũng là chi của tĩnh lự thứ tư chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:
1. Có trường hợp là chi của tĩnh lự thứ hai không phải là chi của tĩnh lự thứ tư: Nghĩa là như nội cùng tịnh, hỷ, lạc.
2. Có trường hợp là chi của tĩnh lự thứ tư không phải là chi của tĩnh lự thứ hai: Nghĩa là như thọ không khổ không vui, xả, niệm.
3. Có trường hợp là chi của tĩnh lự thứ hai cũng là chi của tĩnh lự thứ tư: Nghĩa là như tâm có tánh chuyên vào một cảnh.
4. Có trường hợp không phải là chi của tĩnh lự thứ hai cũng không phải là chi của tĩnh lự thứ tư: Nghĩa là trừ các trường hợp nêu trên.
Hỏi: Nếu là chi của tĩnh lự thứ ba cũng là chi của tĩnh lự thứ tư chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:
1. Có trường hợp là chi của tĩnh lự thứ ba không phải là chi của tĩnh lự thứ tư: Nghĩa là như tuệ, lạc.
2. Có trường hợp là chi của tĩnh lự thứ tư không phải là chi của tĩnh lự thứ ba: Nghĩa là như thọ không khổ không vui.
3. Có trường hợp là chi của tĩnh lự thứ ba cũng là chi của tĩnh lự thứ tư: Nghĩa là như xả, niệm, tâm có tánh chuyên vào một cảnh.
4. Có trường hợp không phải là chi của tĩnh lự thứ ba cũng không phải là chi của tĩnh lự thứ tư: Nghĩa là trừ các trường hợp nêu trên.
Hỏi: Khinh an và hành xả thì tất cả các địa đều có. Vì sao ở hai tĩnh lự đầu chỉ lập khinh an làm chi không lập hành xả, còn tĩnh lự thứ ba và tĩnh lự thứ tư thì lập hành xả làm chi không lập khinh an?
Đáp: Trước đã nói tùy thuận là nghĩa của chi, tức là khinh an chỉ tùy thuận vào hai tĩnh lự đầu nên lập làm chi. Hành xả chỉ tùy thuận vào hai tĩnh lự thứ ba và thứ tư nên lập làm chi.
Lại nữa, chúng cùng che phủ nhau. Nghĩa là ở hai tĩnh lự đầu, dụng của khinh an mạnh hơn, nên có thể che phủ hành xả, nên lập nó làm chi. Còn ở hai tĩnh lự thứ ba và thứ tư, dụng của hành xả mạnh hơn, nên có thể che phủ khinh an, nên lập nó làm chi.
Hỏi: Và sao hai thứ ấy cùng có thể che phủ nhau?
Đáp: Vì hai hành tướng này lại cùng trái nhau. Tức là tướng khinh an thì nhẹ, động, còn tướng hành xả thì chìm tĩnh, lại có cùng lúc nên lại càng trái nhau. Như người cùng một lúc cũng đi cũng đứng, cũng ngủ cũng thức, hoàn toàn trái nhau, nhưng trong tâm thiện đối trị đều khác, nên đều cùng khởi. Nghĩa là khinh an có thể đối trị hôn trầm, hành xả có thể đối trị trạo cử.
Lại nữa, vì để đối trị năm thức thân ở cõi dục cùng chỗ dẫn đến khiến thân thô nặng, nên tĩnh lự thứ nhất lập khinh an làm chi. Vì để đối trị ba thức thân ở tĩnh lự thứ nhất và các thứ dẫn đến khiến thân thô nặng, nên tĩnh lự thứ hai lập khinh an làm chi. Các tĩnh lự thứ hai và thứ ba không có thức thân thô và chỗ dẫn đến khiến thân thô nặng có thể đối trị, nên hai tĩnh lự thứ ba và thứ tư không lập khinh an làm chi. Vì chúng không lập khinh an làm chi, nên lập hành xả làm chi.
Lại nữa, hai tĩnh lự đầu có các hỷ nhiễm ô khuấy động thân tâm, nên Đức Thế Tôn nói: Nên hành tập khinh an, không nên trụ ở xả, vì thế hai tĩnh lự đầu chỉ lập khinh an làm chi. Hai tĩnh lự thứ ba và thứ tư không có các hỷ nhiễm ô khuấy động thân tâm, nên Đức Thế Tôn nói: Chỉ nên trụ vào xả không nên hành tập khinh an, do đó tĩnh lự thứ ba và thứ tư chỉ lập hành xả làm chi.
Lại nữa, ở trong hai tĩnh lự đầu khinh an có các nhân, đó là các hỷ thiện. Như Khế kinh nói: Khi tâm có hỷ nên thân được khinh an, thế nên hai tĩnh lự đầu chỉ lập khinh an làm chi. Còn ở tĩnh lự thứ ba, thứ tư thì khinh an không có nhân, nghĩa là không có hỷ thiện, chỉ nên trụ vào xả, do đó chúng chỉ lập hành xả làm chi.
Lại nữa, tĩnh lự thứ ba thì xả bỏ hỷ quá mức, còn tĩnh lự thứ tư thì xả bỏ lạc quá mức, nên ở đây chỉ lập hành xả làm chi. Còn hai tĩnh lự đầu đã không lập hành xả làm chi, nên lập khinh an làm chi, tức không trái nhau.
Hỏi: Bên trong cùng tịnh tức là tín (tin tưởng) các địa đều có, vì sao chỉ nơi tĩnh lự thứ hai lập làm chi?
Đáp: Trước đã nói tùy thuận là nghĩa của chi, tức là tín chỉ tùy thuận vào tĩnh lự thứ hai, nên chỉ ở đây lập tín làm chi.
Lại nữa, ở tĩnh lự thứ nhất thì tầm tứ như lửa nóng, còn thân thức thì như bùn đất, nên khiến tâm luôn nối tiếp nóng nảy, buồn bã, loạn đục, do đó tín không được sáng sạch. Giống như trong nước nóng ngầu đục, bóng dáng mặt mày không hiện ra. Tĩnh lự thứ hai thì không có lửa tầm, tứ và thân thức bùn đất, nên trong tâm nối tiếp tướng tín luôn sáng sạch. Cũng như nơi nước trong mát, bóng dáng mặt mày hiện rõ, cho nên ở đây lập chi Bên trong cùng tịnh này. Tĩnh lự thứ ba thì có thọ cực vui, tĩnh lự thứ tư thì có xả thọ rất mạnh, che phủ tâm nối tiếp khiến tướng của tín không sáng rõ, do đó chúng và tĩnh lự thứ nhất không lập chi Bên trong cùng tịnh.
Lại nữa, ở tĩnh lự thứ hai, các Sư Du-già ở trong việc lìa nhiễm mới sinh ra tín rất mạnh, nên chỉ nơi tĩnh lự này lập chi Bên trong cùng tịnh. Nghĩa là các Sư Du-già khi lìa nhiễm cõi dục, khởi nhập tĩnh lự thứ nhất trong hiện tại thì nghĩ: Ta tuy đã lìa nhiễm ở cõi bất định, cũng có thể lìa được các nhiễm của các địa định kia chăng? Các vị ấy sau lại lìa nhiễm ở tĩnh lự thứ nhất và khi hiện tiền nhập vào tĩnh lự thứ hai, đối với các cõi địa nhiễm đều có thể lìa bỏ cả, nên đầu tiên sinh tín lớn mạnh: Như các nhiễm nơi cõi dục ta đã có thể lìa được, các nhiễm ở cõi sắc, vô sắc tất cũng có thể lìa. Như nhiễm ở tĩnh lự thứ nhất đã có thể lìa được cho đến nhiễm ở Phi tưởng phi phi tưởng xứ nhất định có thể lìa bỏ được. Các vị kia khi tĩnh lự thứ nhất hiện tiền thì chưa sinh định tín, sau đó khi hai tĩnh lự sau hiện tiền thì tuy có định tín nhưng không phải là trước, nên tướng của tín không sáng tỏ. Do đó đều không lập chi Bên trong cùng tịnh.
Lại nữa, khi khởi tín tăng thượng tất phải dựa vào nhân của hỷ lớn. Hỷ mà tín thì tín đó tất bền vững. Vì tĩnh lự thứ hai có hỷ rất mạnh mẽ, nên chỉ ở đây là lập chi Bên trong cùng tịnh.
Hỏi: Tuệ hiện hữu khắp các địa, vì sao chỉ có tĩnh lự thứ ba là lập làm chi?
Đáp: Trước đã nói tùy thuận là nghĩa của chi, tức là tuệ chỉ tùy thuận vào tĩnh lự thứ ba, nên chỉ ở đây lập chánh tuệ làm chi.
Lại nữa, tĩnh lự thứ ba có thọ vừa ý, trong các thứ vui thích vừa ý thì thọ ấy là hơn hết. Do đó các Sư Du-già vì tham đắm vào đấy, không muốn vui cầu các pháp thù thắng ở địa trên. Thọ này là trở ngại nơi địa của mình, để đối trị trở ngại ấy nên lập chi chánh tuệ. Do đó Đức Thế Tôn nói: Nên dùng chánh tuệ để biết rõ vui này, chớ nên tham vướng mà chẳng mong cầu địa trên. Còn phần trên dưới của địa này không có trở ngại, do rất vui nơi địa mình như ở địa này, nên không lập chánh tuệ làm chi.
Lại nữa, ở tĩnh lự thứ nhất có tầm tứ thô ngăn che chánh tuệ. Ở tĩnh lự thứ hai có hỷ rất mạnh ngăn che chánh tuệ. Ở tĩnh lự thứ tư có xả thọ hơn hết, cũng ngăn che chánh tuệ. Do xả thọ mạnh mẽ này là phần không sáng, còn chánh tuệ là sáng, do sáng và không sáng trái nhau, nên đều không lập chánh tuệ làm chi. Còn tĩnh lự thứ ba không có ngăn che chánh tuệ, cho nên lập làm chi.
Hỏi: Niệm hiện bày khắp các địa, vì sao chỉ nơi hai tĩnh lự sau là lập làm chi?
Đáp: Trước đã nói tùy thuận là nghĩa của chi, tức là niệm chỉ tùy thuận vào hai tĩnh lự sau, nên chúng lập niệm làm chi.
Lại nữa, hai tĩnh lự sau đều có trở ngại của địa tăng thượng. Để đối trị trở ngại đó nên lập niệm làm chi. Còn các địa khác thì không như thế. Nghĩa là tĩnh lự thứ hai có hỷ rất mạnh, vội vã chìm nổi cũng như La-sát-tư. Các Sư Du-già do đấy mà suy thoái, không thể kiên trì bền bĩ trong việc lìa bỏ các nhiễm ở địa của mình. Để đối trị lỗi đó, tĩnh lự thứ ba lập niệm làm chi. Vì thế Đức Thế Tôn nói: Nên trụ vào chánh niệm, chớ để bị hỷ ở địa dưới làm chìm đắm thoái mất địa của mình. Tĩnh lự thứ ba có lạc hơn hết, các thứ lạc trong sinh tử, lạc này là tối thắng, ngăn trở người hành đạo, như kẻ oán dối lừa làm thân. Các Sư Du-già do đấy nên suy thoái không thể kiên trì trong việc lìa nhiễm ở địa mình. Để đối trị trở ngại này, tĩnh lự thứ tư lập niệm làm chi. Thế nên Đức Thế Tôn nói: Nên trụ vào chánh niệm chớ để bị lạc của địa dưới làm trở ngại, thoái mất địa của mình.
Lại nữa, ở trong tĩnh lự thứ nhất có các tầm tứ thô, cũng như gió bão che phủ chánh niệm. Còn tĩnh lự thứ hai thì có hỷ rất mạnh như sóng dữ làm trở ngại chánh niệm, nên cả hai đều không lập chánh niệm làm chi. Hai tĩnh lự sau thì không có lỗi này, do đó cả hai cùng lập chánh niệm làm chi.
Hỏi: Nếu là chi tĩnh lự cũng là Bồ-đề phần chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:
1. Có trường hợp là chi tĩnh lự không phải là Bồ-đề phần: Nghĩa là tứ, lạc thọ và xả thọ.
2. Có trường hợp là Bồ-đề phần không phải là chi tĩnh lự: Nghĩa là tinh tấn, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng v.v…
3. Có trường hợp là chi tĩnh lự cũng là Bồ-đề phần: Nghĩa là các pháp Bồ-đề phần còn lại.
4. Có trường hợp không phải là chi tĩnh lự cũng không phải là Bồ-đề phần: Nghĩa là trừ các trường hợp nêu trên.
Hỏi: Vì sao tứ, lạc thọ, xả thọ không lập làm Bồ-đề phần?
Đáp: Vì chúng bị ngăn che làm tổn hại. Nghĩa là tứ bị chánh tư duy ngăn che làm tổn hại, lạc thọ bị lạc của khinh an ngăn che làm tổn hại, xả thọ bị hành xả ngăn che làm tổn hại, cho nên không lập làm Bồ-đề phần.
Hỏi: Nếu như thế vì sao lại lập làm chi tĩnh lự?
Đáp: Trong Bồ-đề phần vì để thúc đẩy chánh kiến nên lập chánh tư duy làm Bồ-đề phần. Còn hành tướng của tứ vi tế, sự thúc đẩy trong chánh kiến bị tầm ngăn che tổn hại, nên lập chi tĩnh lự để ngăn chận loại bỏ các pháp ác bất thiện ở địa dưới, không ngăn che tổn hại nhau. Trong Bồ-đề phần, khinh an và lạc thọ đồng một sát-na là đã ngăn che tổn hại nhau. Trong chi tĩnh lự, các địa kiến lập riêng không có nghĩa bị ngăn che tổn hại. Trong Bồ-đề phần, hành xả và xả thọ đồng một sát-na đã có ngăn che tổn hại nhau. Trong chi tĩnh lự thì có lợi ích đối trị, vì dụng của chi, mỗi thứ đều riêng nên không ngăn che tổn hại nhau.
Hỏi: Vì sao tinh tấn không phải là chi tĩnh lự?
Đáp: Các chi tĩnh lự thuận hợp với chỗ hơn nơi địa của mình. Còn tinh tấn thuận hợp với chỗ hơn nơi địa của người khác. Nghĩa là tinh tấn của tĩnh lự thứ nhất thuận hợp với tĩnh lự thứ hai là hơn, cho đến tinh tấn của Vô sở hữu xứ thuận hợp với Phi tưởng phi phi tưởng xứ là hơn, nên tinh tấn không lập làm chi tĩnh lự.
Lại nữa, tinh tấn làm tổn hại nhân của Tam-ma-địa. Nhân của Tam-ma-địa tức là thắng lạc. Như Khế kinh nói: Lạc nên tâm định. Vì siêng năng tinh tấn khiến cho thân tâm nhiều khổ, còn tu Tamma-địa thì thân tâm có nhiều vui, thế nên tinh tấn không phải là chi tĩnh lự.
Hỏi: Vì sao chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng không phải là chi tĩnh lự?
Đáp: Chi tĩnh lự nghĩa là cùng với tĩnh lự tương ưng nơi cảnh đang trụ, tất có hành tướng về chỗ nương dựa cùng đối tượng duyên và có xét biết mới gọi là tương ưng. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng thì không có các nghĩa như thế, do đó không lập chúng làm chi tĩnh lự. Do bốn tướng này và các pháp không tương ưng như các đắc v.v… đều không nên lập làm chi tĩnh lự, vì chúng không giúp đỡ cho đẳng trì cùng trụ vào một cảnh.
Hỏi: Vì sao các thứ hổ, thẹn, không tham, không sân, không phóng dật, không hại v.v… không phải là chi tĩnh lự?
Đáp: Vì chúng rất không tùy thuận với các tĩnh lự. Các pháp thiện này có nhiều ở cõi dục, chúng là những pháp đối trị gần với các pháp xấu ác nơi địa tán, uy lực của chúng tăng mạnh, nên không dùng cho các địa thiền định, nên chúng không được lập làm chi tĩnh lự.
Hỏi: Các thứ tâm, tưởng, tư, vì sao không lập làm chi tĩnh lự?
Đáp: Vì chúng rất không tùy thuận với các tĩnh lự. Vì tâm thì thuận với lưu chuyển, còn định thì thuận với hoàn diệt, nên tâm không được lập làm chi tĩnh lự.
Lại nữa, tâm thì thù thắng như vua, còn các tâm sở pháp đều như quan phò tá. Định vì là tâm sở, nên tâm không lập làm chi tĩnh lự, cũng như vua nước không thờ kính các quan phò tá. Các thứ tưởng, tư, xúc dục đều thuận với lưu chuyển, có tác dụng riêng hơn hẳn, còn định thuận với hoàn diệt, nên chúng không được lập chi tĩnh lự. Tác ý thì chỉ ở tại tán địa nơi cõi dục, đối với cảnh có tác dụng mạnh hơn hẳn và không thuộc các địa của định, nên không lập làm chi tĩnh lự. Thắng giải cũng chỉ vượt hơn ở vị vô học, còn tĩnh lự lại vượt hơn nơi khắp tất cả các phần vị, nên không lập làm chi tĩnh lự.
Lại nữa, trong đây nên dùng các chi tĩnh lự đối hợp với bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám chi Thánh đạo lần lượt thâu giữ nhau. Lại nên dùng chi của tĩnh lự thứ nhất cho đến chi của tĩnh lự thứ tư đối hợp với các pháp Bồ-đề phần, lần lượt cùng thâu giữ nhau. Lại nên dùng chi của tĩnh lự thứ nhất cho đến chi của tĩnh lự thứ tư đối hợp với bốn niệm trụ v.v… cho đến tám chi Thánh đạo, lần lượt cùng thâu giữ nhau. Tùy theo tướng của chúng, mỗi mỗi nói rộng.
Hỏi: Tĩnh lự cận phần và định vô sắc có lập chi không? Nếu lập chi thì ở đây vì sao không nói? Nếu không lập thì như Luận Thi Thiết nói làm sao thông? Như nói: Từng có định Không vô biên xứ đối với định Không vô biên xứ, thì căn hơn, đạo hơn, định hơn đều là chi.
Đáp: Có lập chi. Nghĩa là từ định Không vô biên xứ khởi không gián đoạn, lại nhập vào định Không vô biên xứ.
Có thuyết nói: Tĩnh lự cận phần và định vô sắc cũng kiến lập chi.
Hỏi: Nếu như thế thì khéo thông về các điều Luận Thi Thiết đã nói, nhưng nay vì sao ở đây lại không nói?
Đáp: Theo lý cũng nên nói nhưng lại không nói, nên biết ở đây là nêu bày chưa trọn vẹn. Nghĩa là cận phần của tĩnh lự thứ nhất, như căn bản cũng có năm chi, nhưng trừ hỷ thọ và thêm xả thọ. Cận phần của tĩnh lự thứ hai như căn bản cũng có bốn chi, cũng trừ hỷ thọ và thêm xả thọ. Cận phần của tĩnh lự thứ ba như căn bản cũng có năm chi, nhưng trừ lạc thọ và tăng xả thọ. Cận phần của tĩnh lự thứ tư và định vô sắc thì như căn bản, tĩnh lự thứ tư đều cũng có bốn chi.
Lời bình: Nên nói như vầy: Tĩnh lự cận phần và định vô sắc đều không lập chi và công đức thiếu kém nên do khổ đạo thâu giữ.
Hỏi: Nếu như thế thì khéo thông theo trong đây đã nói. Còn theo Luận Thi Thiết nói làm sao thông?
Đáp: Nương vào nhân nuôi lớn nên gọi là thắng, là vượt trội. Còn nói chi v.v… tức là chi giác đạo.
Hỏi: Vì sao tĩnh lự thứ nhất và tĩnh lự thứ ba đều lập năm chi, còn tĩnh lự thứ hai và tĩnh lự thứ tư đều lập bốn chi?
Đáp: Trước đã nói tùy thuận là nghĩa của chi. Nghĩa là bốn tĩnh lự này mỗi loại đều có từng ấy thứ, còn pháp có thể tùy thuận thì không tăng không giảm.
Lại nữa, các pháp ác ở cõi dục rất khó đoạn dứt, khó phá trừ, khó có thể vượt qua, nên tĩnh lự thứ nhất lập năm chi là sự đối trị chắc mạnh với chúng. Tĩnh lự thứ hai thì trọng tâm của địa là cực hỷ, cũng khó đoạn dứt, khó phá trừ, khó có thể vượt qua, nên tĩnh lự thứ ba phải lập năm chi cũng là đối trị chắc mạnh. Tĩnh lự thứ nhất và tĩnh lự thứ ba đều không có các pháp khó đoạn dứt, khó phá trừ, khó vượt qua, thế nên các tĩnh lự thứ hai và thứ tư chỉ lập có bốn chi, do chúng không phải đối trị chắc mạnh.
Lại nữa, để đối trị các tham nơi cảnh của năm dục tăng thượng ở cõi dục, nên tĩnh lự thứ nhất lập năm chi. Để đối trị các hỷ ái của năm bộ trọng địa thuộc tĩnh lự thứ hai, nên tĩnh lự thứ ba cũng lập năm chi. Còn tĩnh lự thứ nhất và tĩnh lự thứ hai đều không có việc phải đối trị như thế, nên các tĩnh lự thứ hai và thứ tư đều chỉ lập bốn chi.
Lại nữa, vì muốn tùy thuận vào pháp định siêu vượt. Nghĩa là từ năm chi định này vượt nhập vào năm chi định kia, lại từ bốn chi định này vượt nhập bốn chi định kia. Vì dùng chi v.v… thì dễ có thể vượt nhập.
Hỏi: Nếu từ tĩnh lự thứ ba vượt nhập vào Không vô biên xứ, lại từ tĩnh lự thứ tư vượt nhập vào Thức vô biên xứ v.v… thì chúng đều không có chi làm sao tùy thuận?
Đáp: Các sự việc trong ngoài khi ban đầu tạo ra thì khó. Sau thành tựu xong thì không nhờ vào tùy thuận.
Lại, việc ngoài như Già-nặc-ca cùng với Thần hoài nguyệt trong mười hai năm học pháp tạo ra vàng. Lúc đầu mới tạo được một hạt nhỏ bằng hạt thóc liền huênh hoang nói: “Từ nay chúng ta có thể tạo ra cả núi vàng”. Còn nói việc bên trong, như các Sư Du-già tu thần cảnh thông. Lúc đầu thì học phép bay khỏi mặt đất bằng nửa cự đằng, sau đó thì bay khỏi mặt đất bằng một cự đằng, dần dần tiến đến bằng nửa hạt nếp, rồi một hạt, rồi bằng nửa ngón tay, rồi cả ngón, rồi bằng nửa kiệt, rồi cả một kiệt, rồi to bằng nửa khuỷu tay, cả khuỷu tay, rồi bằng nửa tầm, rồi cả một tầm v.v… Sau này khi đã thành tựu thì tùy ý muốn bay đến cõi trời Sắc cứu cánh đều tự tại. Pháp định siêu vượt cũng như thế. Lúc đầu thì khó nên phải nhờ các chi giúp đỡ. Sau này đã dễ thì nếu như không lập chi cũng có thể siêu nhập được. Cho nên ở tĩnh lự thứ nhất và thứ ba mỗi thứ đều lập năm chi, còn tĩnh lự thứ hai và thứ tư mỗi thứ chỉ lập bốn chi
* Như Khế kinh nói: “Các Bí-sô nên biết! Có bốn Thiên đạo có thể khiến các hữu tình chưa tịnh được tịnh, đã tịnh rồi trở nên sáng”.
Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn nói như thế?
Đáp: Là vì muốn khiến các hữu tình đối với việc sinh thiên đạo càng sinh chán sợ sâu xa cõi dục để vui cầu được an trụ nơi thiên đạo thắng nghĩa. Sinh lên trời: Nghĩa là nơi trời Ba Mươi Ba có bốn khu vườn rất trang nghiêm đẹp đẽ, kỳ diệu. Khu thứ nhất gọi là Chúng xa, khu thứ hai gọi là Thô ác, khu thứ ba gọi là Hoan hỷ, khu thứ tư gọi là Tạp lâm. Bốn khu vườn như thế có bốn lối đi rộng lớn, nơi đó luôn có các thiên nữ hội họp vui chơi. Những nơi thiên nữ dạo gót thì tiếng nhạc tấu vang hòa mãi không ngớt, thức ăn ngon lạ bày biện khắp chốn, những hàng cây báu cành lá um tùm, hoa quả xinh tươi, hương thơm ngào ngạt, vườn trái sum suê bóng sạch, đây đó vang tiếng chim hót v.v… Chư Thiên ở đấy mặc tình vui thú thọ hưởng hoan lạc rồi cùng kéo nhau vào thượng uyển. Tại đây, trong chánh pháp Tỳ-nại-da giảng nói chứng nhập Niếtbàn trạch diệt giống vườn trời này, còn bốn lối đi rộng lớn dạo chơi là bốn tĩnh lự vi diệu, các thiên nữ thông minh xinh đẹp là các giải thoát vô ngại, còn ba tạng âm nhạc sáu thời hòa tấu, cây báu Bồ-đề phần pháp có hàng lối trên khắp các vùng đất vô lượng giải thoát, thắng xứ, biến xứ, đầy cành lá phủ che của bảy giác chi và tám chánh đạo, cùng vô số hoa lá tỏa hương tịnh giới và trĩu nặng trái của bốn quả Sa-môn và vẻ bóng sạch của bậc học và vô học. Mọi người thích thú dạo chơi giữa tiếng hòa nhạc của các loài chim quý là tượng trưng cho các Thánh thọ nhận niềm an lạc của các định thù thắng, dạo chơi xong thì cùng nhập Niết-bàn.
Hỏi: Thế nào gọi là bốn thứ Thiên đạo?
Là lìa bỏ dục và pháp ác bất thiện, có tầm có tứ, ly sinh hỷ lạc, trụ đầy đủ vào tĩnh lự thứ nhất, đó gọi là Thiên đạo thứ nhất.
Lìa bỏ dục và pháp ác bất thiện:
Hỏi: Khi chứng đắc tĩnh lự thứ nhất thì lìa chung tất cả pháp ở cõi dục, vì sao chỉ nói là lìa dục và pháp ác bất thiện?
Đáp: Pháp ác bất thiện là những thứ đứng đầu, nay lìa bỏ chung các pháp ở cõi dục nên nói như thế.
Lại nữa, pháp ác bất thiện thì trái hại tự tánh của Thánh đạo nên đoạn. Nếu đã đoạn rồi thì chúng không còn tạo thành nữa, thế nên nói riêng. Các pháp thiện hữu lậu và vô phú vô ký không trái với Thánh đạo, không phải là tự tánh đoạn. Nếu đã đoạn rồi thì chúng cũng có thể thành tựu, thế nên không nói.
Nhưng các pháp thiện hữu lậu và vô phú vô ký ấy, khi đoạn trừ các pháp ác bất thiện thì cũng theo đấy nói là đoạn, do đồng một đối trị, cùng một lúc được đoạn. Như đèn trái với bóng tối không phải là tim đèn, dầu, bầu đèn, nhưng khi phá dẹp bóng tối thì cũng phải đốt tim đèn, dầu cạn và đèn nóng.
Lại nữa, pháp ác bất thiện khó đoạn trừ, khó phá bỏ, khó có thể vượt qua, thế nên nói riêng.
Lại nữa, pháp ác bất thiện có nhiều lỗi lầm tai họa rất lớn, rất bền chắc, thế nên nói riêng.
Lại nữa, khi lìa các dục nhiễm, các pháp bất thiện lại luôn gây chướng ngại ngăn trở, buộc trói v.v… như tên chủ ngục bạo ác, thế nên nói riêng.
Lại nữa, các Sư Du-già vì chuyên đoạn trừ các pháp ác bất thiện ấy nên tu tĩnh lự thứ nhất, do đó nên nói riêng chúng.
Lại nữa, các Sư Du-già rất ghét các pháp ác bất thiện đó nên khi bỏ chung cõi dục, tức phải nói riêng là lìa các pháp ác bất thiện.
Lại nữa, các pháp ác bất thiện không có mặt ở các địa trên, nên nói riêng lìa bỏ chúng.
Do các thứ nhân duyên như thế, nên chỉ nói lìa bỏ dục và pháp ác bất thiện.
Hỏi: Ở đây, thế nào là dục? Thế nào là các pháp ác bất thiện?
Đáp: Sự việc có đủ dục là dục, dục phiền não là pháp ác bất thiện.
Lại nữa, dục tức là năm dục, pháp ác bất thiện là năm thứ ngăn che (năm cái).
Lại nữa, dục là ái dục, pháp ác bất thiện là các phiền não khác ở cõi dục.
Lại nữa, dục là tầm dục, pháp ác bất thiện tức là tầm giận, hại.
Lại nữa, dục là giới dục, pháp ác bất thiện là giới giận, hại.
Lại nữa, dục là tưởng dục, pháp ác bất thiện là tưởng giận, hại.
Lại nữa, dục là ái dục, pháp ác bất thiện nghĩa là tức ái dục.
Đây tức nói lìa các thứ dục ái.
Có tầm có tứ: Pháp cùng với tầm kết hợp gọi là có tầm. Pháp cùng với tứ kết hợp gọi là có tứ.
Ly sinh: Hỏi: Trong địa trên thì lìa (Ly) là thanh tịnh thắng diệu vượt quá tĩnh lự thứ nhất, vì sao ở đây chỉ nói là Ly sinh?
Đáp: Ở đây là nêu phần đầu để làm sáng tỏ phần sau nên nói như thế. Có trường hợp Đức Thế Tôn nêu phần sau để làm sáng tỏ phần đầu, như nói: Thế nào là không phải hại mình và người? Nghĩa là ở cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Như nêu phần đầu và sau, các thứ mới nhập – đã vượt qua, gia hạnh – rốt ráo, nên biết cũng như thế.
Lại nữa, lúc đầu được ly sinh phát sinh tưởng kỳ lạ ít có, sau đó lại không như vậy, nên nói như thế.
Lại nữa, do tĩnh lự thứ nhất chỉ từ ly sinh, các tĩnh lự sau cũng từ định sinh. Từ ly sinh nên gọi là ly sinh. Cũng như sinh ở nước gọi là thủy sinh, sinh ở đất liền gọi là lục sinh.
Lại nữa, tĩnh lự thứ nhất lìa hai định vô lậu là quyến thuộc, nên riêng gọi là ly sinh, nghĩa là định vị chí và tĩnh lự trung gian.
Lại nữa, tĩnh lự thứ nhất lìa là môn lìa sau, là chỗ nương dựa, gia hạnh, đường đi của gốc nhân và xứ an ổn đầy đủ, nên riêng được gọi là lìa.
Lại nữa, tĩnh lự thứ nhất lìa là dẫn dắt, giữ trụ, nuôi lớn lìa sau, nên riêng được gọi là lìa.
Lại nữa, tĩnh lự thứ nhất lìa là có sau các ly sinh duyên tập khởi, nên riêng được gọi là lìa.
Lại nữa, nơi địa trên các lìa quyết định nương dựa vào lìa của tĩnh lự thứ nhất mà được và khởi trước, nên tĩnh lự thứ nhất riêng được gọi là lìa.
Lại nữa, các Sư Du-già khi lìa bỏ các nhiễm nơi cõi dục khởi tĩnh lự thứ nhất hiện tiền thì vui mừng phấn khích hơn hẳn sau này, nên riêng được gọi là lìa. Như người đang đói khát được ăn uống, tuy thức ăn kém nhưng sinh hoan hỷ hơn là tiếp đó được ăn uống vật ngon lạ.
Lại có ba loại Hành giả nương vào tĩnh lự thứ nhất được nhập ly sinh, được quả luyện căn và dứt hết các lậu, cho nên riêng được gọi là lìa. Ba loại Hành giả đó là: 1. Cụ phược (Bị trói buộc đủ). 2. Lìa dục một phần. 3. Lìa dục toàn phần.
Lại nữa, vì khiến cho kẻ nghi có được quyết định, nên riêng lập tên lìa. Như trong cõi dục có tầm có tứ, có các thức thân quyến thuộc trên dưới. Trong tĩnh lự thứ nhất cũng có các sự việc đó. Hoặc có kẻ sinh nghi như ở cõi dục không có lìa, thì tĩnh lự thứ nhất cũng như vậy. Vì để giải quyết nghi này nên nói tĩnh lự thứ nhất là có lìa không phải là cõi dục.
Lại nữa, ở cõi dục không có pháp đối trị gần của lìa, nên tĩnh lự thứ nhất riêng gọi là lìa.
Lại nữa, chỉ có tĩnh lự thứ nhất là có thể lìa bỏ tất cả phiền não trong ba cõi, nên riêng gọi là lìa.
Lại nữa, chỉ có tĩnh lự thứ nhất là có bốn đạo quả Sa-môn, chín đạo quả nhận biết khắp, đủ ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần, nên riêng gọi là lìa.
Lại nữa, chỉ có tĩnh lự thứ nhất là có thể lìa bỏ được các thứ hiện có như: khổ căn, ưu căn, nam căn, nữ căn, không hổ không thẹn, tham ái, dâm ái, năm thứ ngăn che, năm dục, keo kiệt, tham lam, ganh tỵ, giận dữ, năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới v.v… cho nên riêng gọi là lìa.
Do các thứ nhân duyên như thế, nên chỉ tĩnh lự thứ nhất riêng gọi là ly sinh.
Hỷ lạc: Hỷ tức là hỷ căn, lạc tức là lạc của khinh an. Lại nữa, hỷ là do thọ uẩn thâu giữ, lạc là do hành uẩn thâu giữ.
Trụ đầy đủ vào tĩnh lự thứ nhất: Nghĩa là đạt được chỗ thành tựu năm uẩn thiện trong tĩnh lự thứ nhất gọi là trụ đầy đủ.
Lại nữa, tầm tứ diệt, bên trong cùng định, chỉ tâm một nẻo. Khi không tầm không tứ, định sinh hỷ lạc, trụ đầy đủ vào tĩnh lự thứ hai, đó gọi là Thiên đạo thứ hai.
Tầm tứ diệt: Hỏi: Khi được tĩnh lự thứ hai thì diệt chung tất cả pháp nơi tĩnh lự thứ nhất, vì sao chỉ nói tầm tứ diệt?
Đáp: Vì tầm tứ là phần vị đứng đầu, diệt chung cho cả tĩnh lự thứ nhất, nên nói như thế.
Lại nữa, tầm tứ khó đoạn dứt, khó phá trừ, khó có thể vượt qua, thế nên nói riêng.
Lại nữa, tầm tứ có nhiều thứ lỗi lầm tai họa rất lớn, bền chắc, thế nên nói riêng.
Lại nữa, khi lìa bỏ các nhiễm của tĩnh lự thứ nhất thì tầm tứ tạo nhiều chướng ngại, gây rắc rối, trói buộc v.v… như tên chủ ngục xấu ác, thế nên nói riêng.
Lại nữa, các Sư Du-già vì chuyên đoạn dứt tầm tứ để tu tĩnh lự thứ hai, thế nên nói riêng.
Lại nữa, các Sư Du-già rất ghét tầm tứ, tức xả bỏ chung tĩnh lự thứ nhất, thế nên nói riêng.
Lại nữa, ở địa trên không có tầm tứ, thế nên nói riêng.
Do các thứ nhân duyên như thế, nên chỉ nói tầm tứ diệt.
Bên trong cùng tịnh: Bên trong tức là tâm, tịnh nghĩa là tín. Do tin bình đẳng nên khiến nội tâm thanh tịnh, nên gọi là bên trong cùng tịnh.
Tôn giả Thế Hữu nói: Tầm tứ xao động nhiễu loạn tâm định. Tín có thể phá trừ khiến tâm cùng tịnh. Như sóng dứt thì nước lặng trong, thế nên gọi tín là bên trong cùng tịnh.
Lại có thuyết nói: Hỷ nhiễm ô quá phấn khích làm vẩn đục tâm định. Tín có thể trừ diệt khiến tâm cùng tịnh. Như lìa bỏ bùn đục thì nước liền lặng trong, thế nên gọi tín là bên trong cùng tịnh.
Đại đức Pháp Cứu nói: Hành giả sắp nhập vào tĩnh lự thứ hai, tâm đối với cảnh định tin hướng trụ vào lạc không xao động phân tán, trụ lâu vào một cảnh và đạt được tĩnh lự thứ hai. Sở dĩ được như vậy là do tín lực, thế nên nói tín là bên trong cùng tịnh.
Chỉ tâm một nẻo: Nghĩa là tâm chỉ chuyển theo một cửa, không phải như ở cõi dục tâm chuyển theo sáu cửa. Trong tĩnh lự thứ nhất tâm chuyển theo bốn cửa, ở tĩnh lự thứ hai tâm chỉ chuyển theo một cửa, nên gọi là một nẻo, là nghĩa tâm hành nơi một cảnh giới.
Không tầm không tứ: Nghĩa là tầm tứ đều diệt.
Định sinh: Hỏi: Tĩnh lự thứ nhất cũng có định, vì sao chỉ nói tĩnh lự thứ hai gọi là định sinh?
Đáp: Vì tĩnh lự thứ hai thì đẳng trì tăng thạnh, đạt thanh tịnh thắng diệu vượt quá tĩnh lự thứ nhất, thế nên nói riêng.
Lại nữa, tĩnh lự thứ hai được định dẫn phát, được định nuôi lớn và hiện khởi sau tĩnh lự thứ nhất, nên gọi là định sinh. Không phải như tĩnh lự thứ nhất không do định dẫn phát, không do định nuôi lớn, chỉ là tâm ở cõi dục sau đó hiện tiền, nên không gọi là định sinh.
Lại nữa, ở tĩnh lự thứ nhất, tâm có định không định, có theo nội môn chuyển, có theo ngoại môn chuyển, có duyên nơi sự việc bên trong, có duyên nơi sự việc bên ngoài. Còn nơi tĩnh lự thứ hai, tâm phần nhiều ở trong định, phần nhiều chỉ chuyển theo nội môn, chỉ duyên nơi sự việc bên trong, nên gọi là định sinh.
Lại nữa, tĩnh lự thứ hai diệt hết gốc của ngôn ngữ. Gốc của ngôn ngữ tức là tầm và tứ. Như Khế kinh nói: Chính là tầm tứ đã có thể phát sinh ngôn ngữ, không phải là không do tầm tứ. Ở tĩnh lự thứ hai, tầm tứ đã diệt, không còn gốc của ngôn ngữ, do đó nói là định sinh. (coi lại kỹ)
Lại nữa, tĩnh lự thứ hai còn gọi là Thánh im lặng, nên gọi là định sinh. Như Khế kinh nói: Phật bảo Tôn giả Mục Liên: Các vị chớ nên xem thường tĩnh lự thứ hai. Đó là pháp im lặng của bậc Thánh.
Do các thứ nhân duyên như thế định sinh chỉ có ở tĩnh lự thứ hai.
Hỷ lạc: Hỷ tức là hỷ căn, lạc tức là lạc nơi khinh an. Lại nữa, hỷ là do thọ uẩn thâu giữ, lạc là do hành uẩn thâu giữ.
Trụ đầy đủ vào tĩnh lự thứ hai: Nghĩa là thành tựu được năm uẩn thiện của tĩnh lự thứ hai, nên gọi là trụ đầy đủ.
HẾT – QUYỂN 80