LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 53

Chương 2: KIẾT UẨN

Phẩm 1: BÀN VỀ BẤT THIỆN, phần 8

1. Có kiết ở nơi cõi dục, kiết đó không phải gắn liền với cõi dục: Nghĩa là chỗ trói buộc của triền nơi cõi dục mất, khởi hiện Trung hữu nơi cõi sắc. Ở cõi dục mất sinh lên cõi sắc, là chung cho phàm phu và Thánh giả. Trung hữu của cõi sắc kia ở nơi cõi dục khởi hiện pháp nên như thế. Xứ Tử hữu diệt, Trung hữu hiện tiền. Như nơi nào hạt giống tiêu mất thì nơi ấy mầm chồi hiện tiền. Người kia lúc từ Tử hữu đến Trung hữu, nếu là phàm phu thì tùy thuận một trong ba mươi mốt tùy miên nơi cõi sắc hiện tiền khiến sự sống nối tiếp. Nếu là Thánh giả thì nơi ba tùy miên của cõi sắc do tu đạo đoạn, tùy thuận nơi một thứ để hiện tiền khiến sự sống tương tục và trụ nơi cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc kiết hiện tiền: Nghĩa là trụ nơi cõi dục không chết, không sinh, nhưng kiết của cõi sắc, cõi vô sắc hiện tiền, vì kiết đó chung cho cả phàm phu và Thánh giả. Nếu là phàm phu sinh lên cõi sắc, cõi vô sắc, có sáu mươi hai tùy miên tùy thuận nơi một thứ để hiện tiền, đó là ái, kiến, nghi, mạn ở tĩnh lự trên. Nếu là Thánh giả thì nơi sáu tùy miên của cõi sắc, cõi vô sắc do tu đạo đoạn tùy thuận nơi một thứ để hiện tiền, đó là ái, mạn nơi tĩnh lự trên. Sau định kia phiền não hiện tiền, sau phiền não định hiện tiền. Đây gọi là kiết ở nơi cõi dục, kiết đó không phải gắn liền với cõi dục.

Ở nơi cõi dục: Là có ba thứ trừ ở nơi tự thể, vì không ở nơi cõi mình hiện tiền.

Không phải gắn liền với cõi dục: Là gắn liền nơi cõi sắc, cõi vô sắc, là cõi gắn liền, không phải là các thứ gắn liền khác.

2. Có kiết gắn liền với cõi dục, kiết đó cũng ở nơi cõi dục: Nghĩa là chỗ trói buộc của triền ở cõi dục mất, khởi Trung hữu, Sinh hữu thuộc cõi dục. Ở cõi dục mất sinh nơi cõi dục, là chung cho phàm phu và Thánh giả. Phàm phu sinh vào năm nẻo không trở ngại. Thánh giả sinh ở hai nẻo người, trời không trở ngại. Lúc từ Tử hữu đến Trung hữu, nếu là phàm phu thì tùy thuận một trong ba mươi sáu tùy miên nơi cõi dục hiện tiền khiến sự sinh được nối tiếp. Nếu là Thánh giả thì nơi bốn tùy miên ở cõi dục do tu đạo đoạn, tùy thuận nơi một thứ để hiện tiền khiến sự sinh luôn nối tiếp, từ Trung hữu đến Sinh hữu cũng vậy. Và ở cõi dục, kiết của cõi dục hiện tiền: Nghĩa là trụ nơi cõi dục không chết, không sinh, nhưng kiết của cõi dục hiện tiền, kiết đó chung cho cả phàm phu và Thánh giả. Nếu là phàm phu thì tùy thuận một trong ba mười sáu tùy miên của cõi dục hiện tiền. Nếu là Thánh giả thì tùy thuận một trong bốn tùy miên của cõi dục do tu đạo đoạn hiện tiền. Đây gọi là có kiết gắn liền với cõi dục, kiết đó cũng ở nơi cõi dục.

Gắn liền với cõi dục: Là cõi gắn liền, không phải là các thứ gắn liền khác.

Cũng ở nơi cõi dục: Là có đủ bốn thứ ở nơi do ở nơi cõi mình hiện tiền.

3. Có kiết không phải là gắn liền với cõi dục, kiết đó cũng không phải ở nơi cõi dục: Nghĩa là chỗ trói buộc của triền nơi cõi sắc mất, khởi hiện Trung hữu, Sinh hữu thuộc cõi sắc. Ở cõi sắc mất sinh nơi cõi sắc, là chung cho cả phàm phu và Thánh giả. Nếu là phàm phu thì sinh nơi cõi trên, cũng sinh nơi cõi dưới, mỗi mỗi xứ có nhiều sự sinh. Nếu là Thánh giả thì sinh lên nơi cõi trên, không sinh nơi cõi dưới, mỗi mỗi xứ chỉ có một lần sinh. Lúc từ Tử hữu đến Trung hữu, nếu là phàm phu thì tùy thuận một trong ba mươi mốt tùy miên của cõi sắc để hiện tiền khiến sự sống nối tiếp. Nếu là Thánh giả thì nơi ba tùy miên ở cõi sắc do tu đạo đoạn, tùy thuận nơi một thứ để hiện tiền khiến sự sống nối tiếp. Từ Trung hữu đến Sinh hữu cũng như thế. Từ cõi sắc mất sinh nơi cõi vô sắc, sự sinh đó cũng chung cho cả phàm phu và Thánh giả. Lúc từ Tử hữu đến Sinh hữu, nếu là phàm phu thì tùy thuận một trong ba mươi mốt tùy miên của cõi vô sắc để hiện tiền khiến sự sống nối tiếp. Nếu là Thánh giả thì nơi ba tùy miên ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn, tùy thuận nơi một thứ để hiện tiền khiến sự sống nối tiếp. Ở cõi vô sắc mất sinh nơi cõi vô sắc, sự sinh đó cũng chung cho cả phàm phu và Thánh giả. Nếu là phàm phu thì sinh lên cõi trên, cũng sinh xuống cõi dưới, ở mỗi mỗi xứ đều có nhiều sự sinh. Nếu là Thánh giả thì sinh ở cõi trên, không sinh ở cõi dưới, nơi mỗi mỗi xứ chỉ một lần sinh. Lúc từ Tử hữu đến Sinh hữu, nếu là phàm phu thì tùy thuận một trong ba mươi mốt tùy miên của cõi vô sắc để hiện tiền khiến sự sống nối tiếp. Nếu là Thánh giả thì nơi ba tùy miên ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn, tùy thuận nơi một thứ để hiện tiền khiến sự sống nối tiếp. Ở cõi vô sắc mất sinh nơi cõi sắc, sự sinh đó chỉ có phàm phu. Lúc từ Tử hữu đến Trung hữu, nơi ba mươi mốt tùy miên của cõi sắc, tùy thuận nơi một thứ để hiện tiền khiến sự sống nối tiếp. Cùng an trụ nơi cõi sắc, kiết của cõi sắc, cõi vô sắc hiện tiền. Nghĩa là an trụ nơi cõi sắc, không chết, không sinh, nhưng kiết của cõi sắc, cõi vô sắc hiện tiền, kiết đó chung cho cả phàm phu và Thánh giả. Nếu là phàm phu thì tùy thuận nơi một trong sáu mươi hai tùy miên của cõi sắc, cõi vô sắc hiện tiền, đó là ái, kiến, nghi, mạn nơi tĩnh lự trên. Nếu là Thánh giả thì nơi sáu tùy miên của cõi sắc, cõi vô sắc do tu đạo đoạn, tùy thuận nơi một thứ để hiện tiền, là ái, mạn nơi tĩnh lự trên. Sau định kia, phiền não hiện tiền. Sau phiền não, định sẽ hiện tiền. An trụ nơi cõi vô sắc, kiết của cõi vô sắc hiện tiền, nghĩa là an trụ nơi cõi vô sắc, không chết, không sinh, nhưng kiết của cõi vô sắc hiện tiền, kiết đó chung cho cả phàm phu và Thánh giả. Nếu là phàm phu thì tùy thuận một trong ba mươi mốt tùy miên của cõi vô sắc để hiện tiền. Nếu là Thánh giả thì nơi ba tùy miên của cõi vô sắc do tu đao đoạn, tùy thuận nơi một thứ để hiện tiền.

Đây gọi là có kiết không phải gắn liền với cõi dục, kiết đó cũng không phải ở nơi cõi dục.

Không phải gắn liền nơi cõi dục: Là gắn liền nơi cõi sắc, cõi vô sắc, là cõi gắn liền, không phải là các thứ gắn liền khác.

Không phải ở nơi cõi dục: Là ở nơi cõi sắc, cõi vô sắc hiện tiền. Đây là dung nạp đủ bốn thứ ở nơi, vì cũng ở nơi cõi mình hiện tiền.

Hỏi: Các kiết gắn liền nơi cõi sắc, kiết đó ở nơi cõi sắc chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp, như văn đã nói rộng. Nhưng so với bốn trường hợp của cõi dục thì ở đây là trái ngược với trước. Nghĩa là trường hợp một ở trước làm trường hợp hai ở đây. Trường hợp hai ở trước làm trường hợp một ở đây. Trường hợp ba ở trước làm trường hợp bốn ở đây. Trường hợp bốn ở trước làm trường hợp ba ở đây. Tuy thô thì trái với trước nhưng về tế vì có khác.

Lại nói rộng. Nghĩa là trường hợp một ở trước có hai thứ: 1. Từ cõi sắc mất khởi Trung hữu nơi cõi dục. 2. Ma trụ nơi trời Phạm thế, trách cứ chống lại Như Lai.

Trường hợp hai ở đây có ba thứ: Tức là hai thứ trước và an trụ nơi cõi sắc, kiết nơi cõi vô sắc hiện tiền.

Trường hợp hai ở trước có ba thứ: 1. Từ cõi dục mất khởi Trung hữu nơi cõi sắc. 2. Trụ nơi cõi dục, kiết của cõi sắc hiện tiền. 3. Trụ nơi cõi dục, kiết của cõi vô sắc hiện tiền.

Trường hợp một ở đây chỉ có hai thứ trước.

Trường hợp ba ở trước có hai thứ: 1. Từ cõi dục mất khởi Trung hữu, Sinh hữu nơi cõi dục. 2. Trụ nơi cõi dục, kiết của cõi sắc hiện tiền.

Trường hợp bốn ở đây có bảy thứ: Tức hai thứ trước và năm thứ khác: 1. Từ cõi dục mất sinh nơi cõi vô sắc. 2. Từ cõi vô sắc mất sinh nơi cõi vô sắc. 3 Từ cõi vô sắc mất sinh nơi cõi dục. 4. Trụ nơi cõi dục, kiết của cõi vô sắc hiện tiền. 5. Trụ nơi cõi vô sắc, kiết của cõi vô sắc hiện tiền.

Trường hợp bốn ở trước có bảy thứ: 1. Từ cõi sắc mất khởi Trung hữu, Sinh hữu nơi cõi sắc. 2. Từ cõi sắc mất, sinh nơi cõi vô sắc. 3. Từ cõi vô sắc mất, sinh nơi cõi vô sắc. 4. Từ cõi vô sắc mất, sinh nơi cõi sắc. 5. Trụ nơi cõi sắc, kiết của cõi sắc hiện tiền. 6. Trụ nơi cõi sắc, kiết của cõi vô sắc hiện tiền. 7. Trụ nơi cõi vô sắc, kiết của cõi vô sắc hiện tiền.

Trường hợp ba ở đây chỉ có hai thứ: Nghĩa là thứ nhất trước và thứ năm trước. Đã có khác biệt ấy nên lại nói rộng. Gắn liền ở nơi nhiều, ít dựa theo trước, nên biết.

Hỏi: Các kiết gắn liền nơi cõi vô sắc, kiết đó ở nơi cõi vô sắc chăng?

Đáp: Các kiết ở nơi cõi vô sắc, kiết đó gắn liền nơi cõi vô sắc, vì nơi cõi vô sắc hiện tiền, nên nhất định không phải là kiết của hai cõi dục, cõi sắc.

Có kiết gắn liền nơi cõi vô sắc, kiết đó không phải ở nơi cõi vô sắc: Nghĩa là trụ nơi cõi dục, cõi sắc, kiết của cõi vô sắc hiện tiền. Tức trụ nơi hai cõi dưới không chết, không sinh, kiết của cõi vô sắc hiện tiền, kiết đó chung cho cả phàm phu và Thánh giả. Nếu là phàm phu, tùy thuận một trong ba mươi mốt tùy miên của cõi vô sắc để hiện tiền, đó là ái, kiến, nghi, mạn nơi tĩnh lự trên. Nếu là Thánh giả, nơi ba tùy miên của cõi vô sắc do tu đạo đoạn, tùy thuận nơi một thứ để hiện tiền, đó là ái, mạn nơi tĩnh lự trên. Sau định là phiền não hiện tiền. Sau phiền não là định hiện tiền. Đây gọi là kiết gắn liền nơi cõi vô sắc, kiết đó không phải ở nơi cõi vô sắc.

Gắn liền nơi cõi vô sắc: Là cõi gắn liền, không phải là các thứ gắn liền khác.

Không phải ở nơi cõi vô sắc: Là ở nơi cõi dục, cõi sắc hiện tiền. Đây có ba thứ ở nơi, trừ ở nơi tự thể, vì không ở nơi cõi mình hiện tiền.

Hỏi: Các kiết không phải gắn liền nơi cõi dục, kiết đó không phải ở nơi cõi dục chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp, trái với trên, nên biết. Nghĩa là trường hợp một của cõi dục ở trước làm trường hợp hai ở đây. Trường hợp hai ở trước làm trường hợp một ở đây. Trường hợp ba ở trước làm trường hợp bốn ở đây. Trường hợp bốn ở trước làm trường hợp ba ở đây.

Hỏi: Các kiết không phải gắn liền nơi cõi sắc, kiết đó không phải ở nơi cõi sắc chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp, trái với trường hợp trên, nên biết. Nghĩa là trường hợp một của cõi sắc ở trước làm trường hợp hai ở đây. Trường hợp hai ở trước làm trường hợp một ở đây. Trường hợp ba ở trước làm trường hợp bốn ở đây. Trường hợp bốn ở trước làm trường hợp ba ở đây.

Hỏi: Các kiết không phải gắn liền nơi cõi vô sắc, kiết đó không phải ở nơi cõi vô sắc chăng?

Đáp: Như thế. Do kiết của cõi vô sắc hiện tiền, nhất định không phải gắn liền với cõi dục, cõi sắc.

Có kiết không phải ở nơi cõi vô sắc, kiết đó không phải là không gắn liền với cõi vô sắc: Nghĩa là trụ nơi cõi dục, cõi sắc, kiết của cõi vô sắc hiện tiền, tức trụ nơi hai cõi dưới không chết, không sinh, kiết của cõi vô sắc hiện tiền, kiết đó chung cho cả phàm phu và Thánh giả. Nếu là phàm phu, tùy thuận một trong ba mươi mốt tùy miên của cõi vô sắc hiện tiền, đó là ái, kiến, nghi, mạn nơi tĩnh lự trên. Nếu là Thánh giả, nơi ba tùy miên của cõi vô sắc do tu đạo đoạn, tùy thuận nơi một thứ để hiện tiền, đó là ái, mạn nơi tĩnh lự trên. Sau định là phiền não hiện tiền. Sau phiền não là định hiện tiền. Đây gọi là có kiết không phải ở nơi cõi vô sắc, kiết đó không phải là không gắn liền với cõi vô sắc.

Không phải ở nơi cõi vô sắc: Là ở nơi cõi dục, cõi sắc hiện tiền. Đây có ba thứ ở nơi, trừ ở tự thể, vì không ở nơi cõi mình hiện tiền.

Không phải là không gắn liền với cõi vô sắc: Là cõi gắn liền không phải là các thứ gắn liền khác, vì kiết này gắn liền nơi cõi vô sắc.

Hỏi: Vì sao ở đây lập trường hợp không phải là?

Đáp: Vì đây là ý của người tạo luận muốn thế. Nghĩa là Luận sư của Bản luận luôn tùy thuận nhằm tạo luận không trái với pháp tướng, vì vậy không nên vấn nạn.

Lại nữa, nhằm hiển bày ngôn từ luận bàn được tự tại. Nghĩa là đối với ngôn luận được tự tại nên có thể lập trường hợp không phải là. Vì nếu đối với ngôn từ luận bàn không được tự tại, hãy còn không thể căn cứ vào trường hợp là để tạo luận, huống chi lập trường hợp không phải là.

Lại nữa, vì muốn khiến cho đệ tử sinh khởi giác ý. Nghĩa là căn cứ vào trường hợp không phải là để tạo luận, thì các đệ tử mới có thể sinh khởi giác ý. Tức là tánh của các pháp ở đây cũng có thể như vậy, nơi khác cũng có thể như vậy, không trái ngược nhau.

Lại nữa, hoặc có trường hợp không phải là khác với trường hợp là, như trong Phẩm Bổ Đặc Già La ở sau sẽ nói. Trường hợp là có bốn, ba, hai, trường hợp không phải là có năm, sáu, bốn. Nay vì không như vậy nên lập trường hợp không phải là.

***

* Đệ tử của Đức Thế Tôn thấy biết đủ, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Là để ngăn chận tông chỉ của người khác và nhằm chỉ rõ nghĩa của mình. Nghĩa là như có lối chấp: Chín phẩm sắc đều lần lượt đoạn từng phần.

Như các Sư nước ngoài nói: Như chín phẩm của các tâm tâm sở pháp nhiễm ô đều đoạn lần lượt, sắc cũng nên nói vậy.

Nay để ngăn chận ý tưởng đó, nhằm chỉ rõ chín phẩm của các tâm tâm sở pháp nhiễm ô được đoạn dần, nhưng tâm tâm sở pháp, sắc hữu lậu thiện, vô phú vô ký chủ yếu là do sức của đạo vô gián thứ chín nên cùng một lúc đoạn tức khắc.

Hỏi: Vì sao chín phẩm của tâm tâm sở pháp nhiễm ô đoạn dần? Còn tâm tâm sở pháp, sắc hữu lậu thiện, vô phú vô ký cần phải do lực của đạo vô gián thứ chín đoạn cùng một lúc?

Đáp: Vì minh với vô minh là cùng trái nhau. Nghĩa là minh nơi phẩm hạ hạ khởi đoạn vô minh ở phẩm thượng thượng, cho đến minh ở phẩm thượng thượng khởi đoạn vô minh ở phẩm hạ hạ. Sắc hữu lậu thiện, vô phú vô ký cùng với minh, vô minh đều không trái nhau, nhưng cùng với minh vô minh làm nơi chốn nương dựa an ổn. Như đèn với bóng tối là cùng trái nhau. Đồ đựng và dầu, tim đèn không trái với hai thứ kia, nhưng có thể làm nơi chốn nương dựa an ổn. Lại nữa, tâm, tâm sở nhiễm là tự tánh đoạn, cùng trái với đạo, gắn liền với phẩm nào lúc đạo hiện tiền liền đoạn phẩm đó, khiến mất việc tạo thành, được không tạo thành.

Các sắc hữu lậu thiện, vô phú vô ký không phải là tự tánh đoạn, không hẳn là trái với đạo. Các sắc nhiễm ô, lúc có đạo gia hạnh đã mất tạo thành, các hữu lậu thiện, vô phú vô ký phần nhiều là đoạn rồi vẫn còn có thành tựu. Tùy thuận nơi địa lúc đạo vô gián thứ chín chính thức đoạn tâm tâm sở pháp nhiễm ô, khiến dứt hết trói buộc nơi đối tượng duyên trên của sắc v.v… nên cũng gọi là đoạn. Các pháp như sắc v.v… như ánh sáng của đèn tỏa ra, chính là có thể xua tan bóng tối, gồm luôn khả năng làm nóng bầu đựng dầu đốt, tim lụn, dầu cạn.

Lại nữa, ngoài việc ngăn chận tông chỉ của người khác, nhằm làm rõ nghĩa của tông chỉ mình, còn để hiển bày lý chánh của các pháp, khai ngộ cho người tu học, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Vì nhằm phân biệt về sự việc gì mà nêu từ thấy biết đủ? Nói đệ tử của Đức Thế Tôn là nhằm phân biệt về sự việc gì?

Đáp: Nêu từ thấy biết đủ là để phân biệt với hàng Tùy tín, Tùy pháp hành. Nói đệ tử của Đức Thế Tôn là để phân biệt với phàm phu.

Hỏi: Vì sao Tùy tín, Tùy pháp hành không gọi là thấy biết đủ?

Đáp: Vì nếu trong sự nối tiếp đã thấy đủ bốn đế, đã đoạn bốn tà kiến, thì được gọi là thấy biết đủ. Tùy tín, Tùy pháp hành chưa thấy đủ bốn đế, vì sẽ thấy đủ, chưa đoạn bốn tà kiến, vì sẽ đoạn, nên không gọi là thấy biết đủ.

Lại nữa, nếu trong sự nối tiếp đã đoạn bốn thứ ngu tối không nhận biết, đã khởi bốn thứ trí vô lậu, thì được gọi là thấy biết đủ. Người Tùy tín, Tùy pháp hành chưa đoạn bốn thứ ngu tối không nhận biết, vì sẽ đoạn, chưa khởi bốn thứ trí vô lậu, vì sẽ khởi, nên không gọi là thấy biết đủ.

Lại nữa, nếu trong sự nối tiếp đã phá bỏ bốn thứ lưới nghi do dự, đã sinh khởi bốn thứ Thánh trí quyết định, thì được gọi là thấy biết đủ. Tùy tín, Tùy pháp hành chưa phá bỏ bốn thứ lưới nghi do dự, vì sẽ phá bỏ, chưa khởi bốn thứ Thánh trí quyết định, vì sẽ khởi, nên không được gọi là thấy biết đủ.

Lại nữa, nếu trong sự nối tiếp không như sương mù mưa đá, cùng kiến điên đảo của hành ác nơi phiền não và các tai hại khác, thì được gọi là thấy biết đủ. Người Tùy tín, Tùy pháp hành cũng còn có sự việc này, nên không gọi là thấy biết đủ. Như các thứ lúa thóc, hoa màu gặp phải tai họa mất mùa không gọi là đủ. Đây cũng như vậy.

Lại nữa, nếu người đã hàng phục bến bờ của bốn đế thì gọi là thấy biết đủ. Tùy tín, Tùy pháp hành chưa hàng phục được bến bờ của bốn đế, nên không gọi là thấy biết đủ.

Hỏi: Vì sao phàm phu không được gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn?

Đáp: Nếu người nghe Đức Phật giảng nói về Tam bảo, bốn đế, quyết định tin tưởng, thọ nhận, được gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn. Phàm phu nghe giảng nói về Tam bảo, bốn đế, hoặc tin tưởng, hoặc không tin tưởng, nên không được gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn.

Lại nữa, nếu người chỉ thờ phụng Đức Phật, không thờ vị trời khác, được gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn. Phàm phu thờ phụng Đức Phật, hoặc thờ phụng các vị trời khác, nên không được gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn.

Lại nữa, nếu người đối với Tam bảo được chứng tịnh, được gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn. Phàm phu không như vậy, nên không được gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn.

Lại nữa, nếu đối với pháp Phật, tâm không dời đổi, lay động, như cổng thành, gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn. Phàm phu đối với pháp Phật, tâm dễ lay động như liễu tơ, như đống hoa, nên không được gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn.

Lại nữa, nếu nghe chánh pháp rồi, không vì nghe theo pháp tà hủy hoại, được gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn. Phàm phu nghe chánh pháp xong, hoặc vì nghe theo pháp tà hủy hoại, nên không được gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn.

Hỏi: Trong đây nói những ai được gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn thấy biết đủ?

Đáp: Trong đây nói những người đạt quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, đều gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn thấy biết đủ.

Các sắc chưa đoạn, sắc đó là trói buộc chăng? Cho đến nói rộng.

Trong đây, các sắc nếu lúc gọi là đoạn, tức là lúc lìa trói buộc. Nếu lúc lìa trói buộc, tức lúc gọi là đoạn. Trước đoạn, sau lìa trói buộc, trước lìa trói buộc, sau đoạn, thì không có sự việc này.

Tâm tâm sở pháp nhiễm ô, hoặc trước đoạn, sau lìa trói buộc, hoặc lúc đoạn tức là lìa trói buộc.

Chúng có chín phẩm, tức là từ phẩm thượng thượng cho đến phẩm hạ hạ. Tám phẩm trước là trước đoạn, sau lìa trói buộc. Phẩm hạ hạ lúc đoạn tức là lìa trói buộc. Nghĩa là phẩm thượng thượng đoạn xong, vẫn còn bị tám phẩm sau làm đối tượng duyên trói buộc, cho đến tám phẩm trước đoạn rồi cũng còn bị phẩm hạ hạ làm đối tượng duyên trói buộc. Chín phẩm đồng là địa, nên lần lượt duyên nhau, làm sự trói buộc. Nếu lúc đoạn phẩm thứ chín thì cả chín phẩm đều được lìa trói buộc, đối với đối tượng duyên trói buộc của tám phẩm trước đều đoạn hết.

Sự trói buộc tương ưng kia vì trước đã dứt hết, nên gọi là được lìa trói buộc. Vì hai trói buộc của phẩm chín đều dứt sạch, nên được lìa trói buộc.

Đó gọi là ở đây Tỳ Bà Sa đã tóm lược.

Hỏi: Đệ tử của Đức Thế Tôn thấy biết đủ, các sắc chưa đoạn, sắc đó là trói buộc chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu như sắc trói buộc, sắc đó là chưa đoạn chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Trước đã nói các sắc nếu lúc gọi là đoạn, tức lúc lìa trói buộc. Nếu lúc lìa trói buộc tức lúc gọi là đoạn. Trước đoạn, sau lìa trói buộc. Trước lìa trói buộc, sau đoạn thì không có việc này. Vì tất cả sắc đều do đạo vô gián sau cùng đoạn trừ. Bấy giờ, tức gọi là được lìa trói buộc. Các sắc của năm địa nơi Dự lưu, Nhất lai chưa đoạn mà trói buộc. Các sắc của bốn địa nơi Bất hoàn chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất chưa đoạn mà trói buộc. Đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai, là các sắc của ba địa chưa đoạn mà trói buộc. Đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, là các sắc của hai địa chưa đoạn mà trói buộc. Đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ tư, là các sắc của một địa chưa đoạn mà trói buộc.

Hỏi: Đệ tử của Đức Thế Tôn thấy biết đủ, các thọ tưởng hành thức chưa đoạn, các thọ tưởng hành thức đó là trói buộc chăng?

Đáp: Đúng vậy. Nghĩa là Dự lưu, Nhất lai do tu đạo đoạn trừ thọ tưởng hành thức của ba cõi chưa đoạn mà trói buộc. Bất hoàn chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, có tám địa do tu đạo đoạn trừ thọ tưởng hành thức chưa đoạn mà trói buộc. Đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai, có bảy địa do tu đạo đoạn trừ thọ tưởng hành thức chưa đoạn mà trói buộc. Cho đến đã lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, có một địa do tu đạo đoạn trừ thọ tưởng hành thức chưa đoạn mà trói buộc.

Có thọ tưởng hành thức trói buộc, các thọ tưởng hành thức đó không phải là chưa đoạn. Nghĩa là Gia gia hoặc Nhất lai, hoặc Nhất gián. Nơi cõi dục do tu đạo đoạn kiết của phẩm thượng, trung, đã đoạn đã nhận biết khắp. Thọ, tưởng, hành, thức tương ưng kia bị trói buộc do kiết của phẩm hạ. Trong đây, Gia gia đã đoạn ba phẩm trước của cõi dục, hoặc bốn phẩm kiết, cũng đã đoạn thọ tưởng hành thức tương ưng kia. Thọ tưởng hành thức đó cũng là sáu phẩm sau của cõi dục, hoặc năm phẩm kiết là đối tượng duyên bị trói buộc. Nhất lai đã đoạn sáu phẩm kiết trước của cõi dục, cũng đã đoạn thọ tưởng hành thức tương ưng kia. Thọ, tưởng, hành, thức tương ưng ấy cũng còn là ba phẩm kiết sau của cõi dục, là đối tượng duyên bị trói buộc. Nhất gián đã đoạn bảy phẩm, hoặc tám phẩm kiết trước của cõi dục, cũng đã đoạn thọ tưởng hành thức tương ưng kia. Thọ, tưởng, hành, thức tương ưng ấy cũng là hai phẩm, hoặc một phẩm kiết sau của cõi dục, là đối tượng duyên bị trói buộc. Đây gọi là trói buộc không phải là chưa đoạn.

Hỏi: Đệ tử của Đức Thế Tôn thấy biết đủ, các sắc đã đoạn, sắc đó là lìa trói buộc chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu như sắc đã lìa trói buộc, sắc đó là đã đoạn chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Trước đã nói các sắc nếu lúc gọi là đoạn, tức lúc lìa trói buộc. Nếu lúc lìa trói buộc tức lúc gọi là đoạn. Trước đoạn, sau lìa trói buộc. Trước lìa trói buộc, sau đoạn thì không có sự việc này. Vì tất cả sắc là do đạo vô gián sau cùng đoạn trừ. Bấy giờ, tức gọi là được lìa trói buộc. Nghĩa là người Bất hoàn đã lìa nhiễm sắc, là các sắc của năm địa đã đoạn, lìa trói buộc. Đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ tư, là các sắc của bốn địa đã đoạn, lìa trói buộc. Đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, là các sắc của ba địa đã đoạn, lìa trói buộc. Đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai, là các sắc của hai địa đã đoạn, lìa trói buộc. Chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, là các sắc của một địa đã đoạn, lìa trói buộc.

Hỏi: Đệ tử của Đức Thế Tôn thấy biết đủ, các thọ tưởng hành thức đã đoạn, các thọ tưởng hành thức đó là lìa trói buộc chăng?

Đáp: Các thọ, tưởng, hành, thức lìa trói buộc, thì các thọ, tưởng, hành, thức đó đều đã đoạn. Nghĩa là A-la-hán do kiến đạo, tu đạo đoạn thọ, tưởng, hành, thức của ba cõi đã đoạn, lìa trói buộc. Bất hoàn đã lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, do kiến đạo đoạn nhiễm của ba cõi và tu đạo đoạn, thọ, tưởng, hành, thức của tám địa, đã đoạn, lìa trói buộc. Đã lìa nhiễm của Thức vô biên xứ, chưa lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, do kiến đạo đoạn nhiễm của ba cõi và tu đạo đoạn thọ tưởng, hành thức của bảy địa, đã đoạn, lìa trói buộc. Cho đến chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, do kiến đạo đoạn nhiễm của ba cõi và tu đạo đoạn thọ, tưởng, hành, thức của một địa đã đoạn, lìa trói buộc. Dự lưu, Nhất lai do kiến đạo đoạn thọ, tưởng, hành, thức của ba cõi đã đoạn, lìa trói buộc.

Có thọ tưởng hành thức đã đoạn, các thọ tưởng hành thức đó không phải là lìa trói buộc. Nghĩa là Gia gia hoặc Nhất lai, hoặc Nhất gián. Do tu đạo đoạn, phẩm kiết thượng, trung của cõi dục đã đoạn, đã nhận biết khắp. Thọ, tưởng, hành, thức tương ưng kia bị trói buộc do kiết của phẩm hạ. Trong đây, Gia gia đã đoạn ba phẩm, hoặc bốn phẩm kiết trước của cõi dục cũng đã đoạn thọ, tưởng, hành, thức tương ưng kia. Thọ, tưởng, hành, thức tương ưng ấy cũng là sáu phẩm, hoặc năm phẩm kiết sau cùng của cõi dục, là đối tượng duyên bị trói buộc. Nhất lai đã đoạn sáu phẩm kiết trước của cõi dục, cũng đã đoạn thọ, tưởng, hành, thức tương ưng kia. Thọ, tưởng, hành, thức tương ưng ấy cũng là ba phẩm kiết sau của cõi dục, là đối tượng duyên bị trói buộc. Nhất gián đã đoạn bảy phẩm, hoặc tám phẩm kiết trước của cõi dục, cũng đã đoạn thọ, tưởng, hành, thức tương ưng kia. Thọ, tưởng, hành, thức tương ưng ấy cũng là hai phẩm hoặc một phẩm kiết sau của cõi dục, là đối tượng duyên bị trói buộc. Đây gọi là đã đoạn không phải là lìa trói buộc.

Hỏi: Các người Dự lưu, nếu đã đoạn kiết nơi phẩm thượng thượng của cõi dục, cũng tức là đoạn thọ v.v… tương ưng kia. Thọ v.v… tương ưng ấy cũng còn là tám phẩm kiết, là đối tượng duyên bị trói buộc. Nếu đã đoạn kiết của phẩm trung, thượng của cõi dục, cũng tức là đoạn thọ v.v… tương ưng kia. Thọ v.v… tương ưng ấy cũng là bảy phẩm kiết, là đối tượng duyên bị trói buộc. Trong đây vì sao không nói Dự lưu chỉ nói Gia gia, Nhất lai, Nhất gián, là trói buộc không phải là chưa đoạn và đã đoạn không phải là lìa trói buộc?

Đáp: Nên nói nhưng không nói, nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Lại nữa, vì các người Dự lưu, tướng hoại không nhất định, thế nên không nói đến. Nghĩa là người có đủ trói buộc, không có nghĩa như vậy. Người không có đủ trói buộc thì có nghĩa như thế. Ba vị như Gia gia v.v… đều có nghĩa này, vì tướng của họ không hoại quyết định, nên nói.

Lại nữa, các người Dự lưu nếu đoạn một, hai phẩm kiết của cõi dục, vì không có nghĩa sống chết nên không nói đến. Như đoạn năm phẩm, nghĩa là Sư Du-già được quả ban đầu vì đã đoạn kiết của cõi dục do tu đạo đoạn, khởi gia hạnh lớn, tất không có việc chưa đoạn một phẩm kiết lớn, có sống chết. Như đoạn năm phẩm, tất không có nghĩa chưa đoạn phẩm kiết thứ sáu có nghĩa sống chết. Ba vị như Gia gia v.v… vì có sống, chết, nên trong đây nói riêng.

Hỏi: Thọ v.v… của tám địa nơi cõi sắc, cõi vô sắc cũng có nghĩa đã đoạn không phải là lìa trói buộc và cũng có nghĩa trói buộc không phải là chưa đoạn. Như đoạn một phẩm, tám phẩm cũng còn bị trói buộc, cho đến đoạn tám phẩm thì phẩm thứ chín vẫn còn bị trói buộc. Vì sao trong Luận này chỉ nói cõi dục, không nói cõi sắc, cõi vô sắc?

Đáp: Nên nói nhưng không nói, nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn. Lại nữa, trong Luận này đã chỉ rõ đầu tiên nhập gia hạnh, đã nói về cõi dục, tức cũng nói cõi sắc, cõi vô sắc. Lại nữa, đoạn dần kiết của cõi dục do tu đạo đoạn, kiến lập nhiều thứ Bổđặc-già-la. Nghĩa là đoạn ba, bốn phẩm nên gọi là Gia gia. Nếu đoạn phẩm thứ sáu gọi là Nhất lai. Nếu đoạn bảy, tám phẩm gọi là Nhất gián. Vì sự đoạn dần kiết do tu đạo đoạn nơi cõi trên không có nghĩa như vậy, nên không nói đến.

Hỏi: Đoạn phần kiết của phẩm hạ của cõi dục do tu đạo đoạn, như người Nhất gián, cũng có nghĩa đã đoạn không phải là lìa trói buộc và cũng có nghĩa trói buộc không phải là chưa đoạn. Vì sao trong Luận này chỉ nói kiết của cõi dục do tu đạo đoạn, đoạn phẩm thượng trung. Lại, thọ tưởng hành thức tương ưng kia cũng có nghĩa trói buộc của kiết của phẩm thượng trung. Như đoạn tám phẩm thượng thượng, cũng còn trói buộc. Nếu đoạn bảy phẩm thượng trung cũng còn trói buộc. Nếu đoạn ba, bốn, năm, sáu cũng còn trói buộc. Vì sao chỉ nói kiết của phẩm hạ trói buộc?

Đáp: Cũng nên nói kiết của phẩm thượng trung nhưng không nói, nên biết đây là nói giản lược, chưa trọn vẹn, vì muốn cho người trí tăng thêm sức suy nghĩ.

Trong đây, nói Gia gia: Là sự sai biệt của Dự lưu. Nhất gián: Là sự sai biệt của Nhất lai.

Gia gia có hai thứ: Là sinh nhị gia, sinh tam gia có khác nhau. Sinh nhị gia: Nghĩa là đoạn bốn phẩm kiết trước của cõi dục, ngoài ra có hai chủng tử hữu của cõi dục. Sinh tam gia: Nghĩa là đoạn ba phẩm kiết trước nơi cõi dục, ngoài ra có ba chủng tử hữu của cõi dục.

Hỏi: Vì sao không có đoạn năm phẩm kiết gọi là Gia gia?

Đáp: Nếu đoạn phẩm thứ năm, tất đoạn phẩm thứ sáu, trở thành Nhất lai. Vì tánh của phẩm kiết thứ sáu yếu kém, không thể gây chướng ngại riêng cho việc chứng quả Nhất lai, như một sợi chỉ nhỏ không thể chế ngự con voi. Nhất gián là đoạn bảy phẩm, hoặc tám phẩm kiết trước của cõi dục. Ngoài ra, có một chủng tử hữu của cõi dục.

Hỏi: Bậc kia hoặc cũng còn hai phẩm kiết, vì sao nói là Nhất gián?

Đáp: Vì không phải do một phẩm phiền não còn lại gọi là Nhất gián, chỉ do bậc kia còn có một chủng tử hữu, nên gọi là Nhất gián.

Có Sư khác nói: Không đoạn tám phẩm, gọi là Nhất gián. Vì sao? Vì nếu đoạn phẩm thứ tám, tất đoạn phẩm thứ chín, thành Bất hoàn. Vì phẩm kiết thứ chín tánh yếu kém, nên không thể gây chướng ngại riêng cho việc chứng quả Bất hoàn, như một sợi chỉ nhỏ không thể chế ngự con voi. Như không đoạn năm phẩm, gọi là Gia gia.

Nghĩa như thật, tức có đoạn tám phẩm, gọi là Nhất gián, không đoạn năm phẩm, gọi là Gia gia. Vì sao? Vì đoạn năm phẩm rồi, nếu đoạn phẩm thứ sáu là chứng quả Nhất lai, vẫn còn sinh trong cõi dục, nơi địa mình hiện có dẫn sinh chúng đồng phần, nhất định ứng với nghiệp dị thục, có nghĩa cho quả, không gây chướng ngại tột bực. Vì tánh của phẩm kiết thứ sáu yếu kém, không thể gây chướng ngại riêng để chứng quả Nhất lai, nên không đoạn năm phẩm, gọi là Gia gia.

Đoạn tám phẩm rồi, nếu đoạn phẩm thứ chín là chứng quả Bất hoàn, quyết định không có nghĩa sinh nơi cõi dục, ở địa mình hiện có dẫn sinh chúng đồng phần, nhất định thích ứng với nghiệp dị thục, không có nghĩa cho quả và gây chướng ngại cùng cực. Phẩm kiết thứ chín với tánh yếu kém, nhưng có thể hỗ trợ cho chướng ngại kia đối với quả Bất hoàn, nên có đoạn tám phẩm gọi là Nhất gián. Do vậy nên nói hữu tình có ba phần vị, nhất định thích hợp với nghiệp dị thục, gây chướng ngại tột độ: 1. Từ đảnh sắp nhập vị nhẫn. 2. Sắp chứng quả vị Bất hoàn. 3. Sắp chứng đắc quả vị A-la-hán. Nghĩa là từ vị đảnh lúc sắp nhập vị nhẫn, ở nẻo ác, nơi hiện có dẫn sinh chúng đồng phần, nhất định ứng hợp với nghiệp dị thục và nghĩa gây chướng ngại cùng cực, nói: Nếu ông được nhập vị nhẫn, quyết định không còn thọ sinh trong ba nẻo ác, ở thân nào sẽ thọ nhận dị thục? Do vậy, nên gây chướng ngại cùng cực cho việc nhập. Thánh giả lúc sắp lìa nhiễm của cõi dục, ở cõi dục nơi hiện có dẫn sinh chúng đồng phần, nhất định ứng hợp với nghiệp dị thục và nghĩa gây chướng ngại cùng cực nói: Nếu ông chứng quả Bất hoàn, quyết định không còn thọ sinh nơi cõi dục nữa, ở nơi thân nào sẽ thọ nhận dị thục? Do vậy càng gây chướng ngại tột bực cho sự chứng đắc kia. Thánh giả lúc sắp lìa nhiễm của xứ Hữu đảnh, đã có hai cõi nơi dẫn sinh chúng đồng phần, nhất định ứng hợp với nghiệp dị thục và nghĩa gây chướng ngại cùng cực nói: Nếu ông trở thành A-la-hán, quyết định sẽ không còn thọ nhận sự sinh hữu sau, ở nơi thân nào sẽ thọ nhận dị thục? Do đó gây chướng ngại cùng cực cho sự chứng đắc kia.

Nên nói không đoạn năm phẩm, gọi là Gia gia. Có đoạn phẩm tám, gọi là Nhất gián.

Gia gia có hai: Là Thiên gia gia và Nhân gia gia. Thiên gia gia: Nghĩa là ở nơi cõi trời, hoặc thọ nhận hai đời, hoặc thọ nhận ba đời. Hoặc nơi một xứ trời, hoặc nơi hai xứ trời, ba xứ trời, thọ nhận hai, ba lần sinh. Hoặc một gia nơi cõi trời, hoặc hai, ba gia nơi cõi trời, thọ nhận hai, ba lần sinh. Nhân gia gia: Nghĩa là ở trong nẻo người, hoặc thọ nhận hai đời, ba đời, hoặc một xứ châu, hoặc hai, ba xứ châu, thọ nhận hai, ba lần sinh. Hoặc gia của một người, hoặc gia của hai người, hoặc gia của ba người, thọ nhận hai, ba lần sinh.

Nhất gián có hai: Là Nhất gián của trời và Nhất gián của người. Nhất gián của trời: Nghĩa là ở trên cõi trời, chỉ thọ nhận một đời, hoặc nơi cõi trời Tứ Đại vương chúng, hoặc nơi cõi trời Ba Mươi Ba, hoặc nơi cõi trời Dạ-ma, hoặc nơi cõi trời Đổ sử đa, hoặc nơi cõi trời Lạc biến hóa, hoặc nơi cõi trời Tha hóa tự tại, thọ nhận một lần sinh. Nhất gián của người: Nghĩa là ở trong loài người, chỉ thọ nhận một đời, hoặc ở châu Thiệm bộ, hoặc ở châu Đông thắng thân, hoặc ở châu Tây ngưu hóa, đều thọ nhận một lần sinh.

Do ba duyên nên kiến lập Gia gia: 1. Do nghiệp. 2. Do căn. 3. Do kiết. Do nghiệp: Nghĩa là trước tạo tác, làm tăng trưởng nghiệp quả hai hữu, hoặc ba hữu nơi cõi dục. Do căn: Nghĩa là người ấy đã được các căn vô lậu đối trị ba phẩm hoặc bốn phẩm kiết của cõi dục. Do kiết: Nghĩa là vị ấy đã đoạn ba phẩm, hoặc bốn phẩm kiết của cõi dục. Đối với ba duyên trên đây, tùy theo nơi một duyên không đủ, không gọi là Gia gia.

Do ba duyên nên kiến lập Nhất gián: 1. Do nghiệp. 2. Do căn. 3. Do kiết. Do nghiệp: Nghĩa là trước tạo tác, làm tăng trưởng nghiệp một hữu nơi cõi dục. Do căn: Nghĩa là người kia đã được các căn vô lậu, đối trị bảy phẩm, hoặc tám phẩm kiết của cõi dục. Do kiết: Nghĩa là người kia đã đoạn bảy phẩm, hoặc tám phẩm kiết của cõi dục. Đối với ba duyên trên đây, tùy theo nơi một duyên không đủ, không gọi là Nhất gián.

Hỏi: Thánh giả có tạo nghiệp dẫn đến chúng đồng phần của cõi dục không?

Đáp: Có thuyết nói: Không tạo nghiệp. Vì sao? Vì ở cõi dục có nhiều lỗi lầm tai hại, có nhiều hoạn nạn bất ngờ, nên Thánh giả không tạo nghiệp dẫn đến chúng đồng phần của cõi dục, chỉ gây tạo nghiệp mãn chúng đồng phần của cõi dục.

Hỏi: Nếu như vậy như Khế kinh nói làm sao thông suốt? Như Khế kinh nói: Lúc Đức Phật tán thán sự việc thành Phật của Bồ-tát Từ Thị, trong chúng hội có người hữu học chưa lìa dục, nghe xong liền phát nguyện: Sao cho tôi được trông thấy sự việc thắng diệu kia rồi mới nhập Niết-bàn?

Đáp: Vị hữu học kia vì duyên tiền của dồi dào, chưa tiếp xúc với các khổ não nặng nề, nên tạm thời phát nguyện này. Nếu tiếp xúc với các khổ não trầm trọng tức liền chán lìa tất cả hữu sinh, khởi suy nghĩ: Giả như có sự việc ấy, thì nên như chim sợ cành cây vội bay vào hư không. Bấy giờ, ta cũng tiến nhanh đến Niết-bàn. Vì vậy, nên Thánh giả không tạo nghiệp có thể dẫn đến chúng đồng phần của cõi dục. Thuyết kia nói thêm: Nghiệp của Gia gia có hai hoặc ba hữu, nơi phần vị phàm phu tạo ba, bốn phẩm kiết, không phải là quả vị Thánh, hoặc ở phần vị phàm phu, hoặc ở quả vị Thánh đoạn trừ. Nhất gián có một nghiệp hữu, chỉ ở phần vị phàm phu tạo bảy, tám phẩm kiết, hoặc ở phần vị phàm phu, hoặc nơi quả vị Thánh đoạn trừ.

Có thuyết nói: Thánh giả cũng tạo nghiệp dẫn đến chúng đồng phần của cõi dục. Nghiệp đó đã dẫn đến quả của chúng đồng phần, uy lực sáng rõ, thù thắng, vi diệu, thanh tịnh, tươi đẹp, không có các thứ lỗi lầm tai hại, không có tai nạn bất ngờ, tùy thuận phẩm thiện. Thuyết kia nêu rõ: Nghiệp hai hữu, hoặc ba hữu của Gia gia nơi phần vị phàm phu, hoặc ở quả vị Thánh tạo ba bốn phẩm kiết, hoặc nơi phần vị phàm phu, hoặc nơi quả vị Thánh đoạn trừ. Nhất gián có một nghiệp hữu, hoặc nơi phần vị phàm phu, hoặc nơi quả vị Thánh đoạn trừ, đã tạo bảy phẩm kiết, hoặc nơi phần vị phàm phu, hoặc nơi quả vị Thánh đoạn trừ.

Hỏi: Nếu ở cõi dục đã từng trải sinh làm Thánh giả, có được sinh lên hai cõi trên nữa hay không? Nếu nêu như vậy thì có lỗi gì? Cả hai cùng có lỗi.

Nếu được sinh: Thì như Kinh Tăng Nhất nói làm sao thông suốt? Như nói: Có năm thứ Bổ-đặc-già-la, khoảng này là chủng loại thấp, khoảng này là cứu cánh: 1. Tối đa là bảy lần trở lại Hữu. 2. Gia gia. 3. Nhất lai. 4. Nhất gián. 5. Hiện pháp nhập Niết-bàn. Khoảng này là chủng loại thấp: Nghĩa là ở cõi dục nhập chánh tánh ly sinh. Khoảng này là cứu cánh: Nghĩa là ở cõi dục được dứt hết các lậu.

Có năm Bổ-đặc-già-la, khoảng này là chủng loại thấp, khoảng kia là cứu cánh: 1. Trung bát Niết-bàn. 2. Sinh bát Niết-bàn. 3. Hữu hành bát Niết-bàn. 4. Vô hành bát Niết-bàn. 5. Thượng lưu bát Niếtbàn. Khoảng này là chủng loại thấp: Nghĩa là ở cõi dục nhập chánh tánh ly sinh. Khoảng kia là cứu cánh: Nghĩa là ở cõi sắc, cõi vô sắc được dứt hết các lậu.

Nếu không sinh: Thì như tụng nơi Kinh Đế Vấn làm sao thông suốt? Tụng kia nói:

Ba nơi pháp biết này

Hai nơi thắng tấn kia

Đã được thắng tấn rồi

Đều lên trời Phạm phụ.

Thuyết thứ hai kia, lại làm sao có thể thông suốt? Như nói: Đại đức! Tôi hành trì như lý, nếu có lời chỉ dạy, tôi sẽ vâng làm. Tức ở khoảng này tạo nên biên vực tận cùng của khổ. Nếu không có lời chỉ dạy, từng nghe trời Sắc cứu cánh thù diệu, sau khi chết tôi sẽ sinh về cõi đó?

Đáp: Nếu ở nơi cõi dục, đã từng trải sinh làm Thánh giả, sẽ không còn được sinh lên cõi sắc, cõi vô sắc.

Hỏi: Nếu như vậy thì tụng nơi Kinh Đế Vấn nói làm sao thông suốt?

Đáp: Hai người kia tuy được sinh lên trời Phạm thế, nhưng không phải là chết rồi sinh. Nghĩa là có người nữ họ Thích tên Cùbác-ca, có ba Bí-sô thường vào nhà cô ta, dùng âm thanh vi diệu giảng nói pháp cho cô ta. Cô ta nghe pháp, tâm sinh niềm tin thanh tịnh, nhàm chán thân nữ, nguyện làm nam nhi, mạng chung được sinh lên trời Ba mươi ba, làm con của Đế thích, đoan nghiêm, xinh đẹp khác thường, trời đặt tên là Cù-bác-ca. Bấy giờ, ba vị Bí-sô, vì tự yêu thích âm thanh, nên sau khi mạng chung sinh trong hàng Kiện-đạt-phược. Kiện-đạt-phược là thần nhạc trời, ngày đêm thường vì chư Thiên trổi nhạc. Lúc đó, Cù-bác-ca thấy rồi liền nhận biết và thưa: Xưa kia, tôi đã nhờ nghe tiếng pháp của các vị nên nhàm chán thân nữ, nguyện làm thân nam. Sau khi chết, được sinh lên cõi trời Ba mươi ba này, làm con Đế thích được thân tướng đoan nghiêm, đẹp đẽ như vậy. Các vị đã từng tu phạm hạnh vô thượng, đâu lại sinh trong hàng Kiện-đạt-phược ti tiện này? Sau khi nghe cô ta nói, hai nhạc thần trong ba vị kia cảm thấy vô cùng hổ thẹn, bèn được lìa nhiễm, dùng sức thần thông bay lên cõi trời Phạm phụ, một vị hãy còn trụ nơi cũ. Vì thế, hai thần nhạc kia tuy bay lên xứ Phạm thế, nhưng không phải là từ chết sinh.

Có thuyết nói: Hai thần nhạc kia, tuy có chết sinh, nhưng không trái với lý. Nghĩa là người xưa đã từng tu tập chứng đắc, thuận nơi phần quyết định lựa chọn, nên sau khi chết, sinh trong hàng Kiệnđạt-phược. Họ bị Cù-bác-ca chê cười, nên hai nhạc thần ấy rất xấu hổ, được nhập kiến đạo, lìa nhiễm nơi cõi dục, chứng quả Bất hoàn. Mạng chung sinh trong trời Phạm phụ, nên có chết sinh cũng không trái với lý.

Hỏi: Theo thuyết thứ hai kia nói, làm thế nào thông suốt? Như nói: Đại đức! Tôi hành trì đúng như lý, nói rộng như trước?

Đáp: Vì Đế Thích không hiểu về A-tỳ-đạt-ma, không biết người nơi cõi dục từng trải sinh làm Thánh giả thì không được sinh lên cõi trên, nên nói như thế.

Hỏi: Đế Thích kia đối trước Đức Phật, nói lời trái với lý, vì sao Đức Thế Tôn không quở trách?

Đáp: Đức Phật biết lời nói của Đế thích tuy trái với lý, nhưng không gây chướng ngại cho đạo, nên không quở trách, để về sau khi nhập pháp tánh tự sẽ hiểu rõ. Vả lại, vì e Đế Thích cảm thấy xấu hổ nên không trách cứ.

Có thuyết cho: Người ở cõi dục từng trải sinh làm Thánh giả, cũng có thể được sinh lên cõi sắc, cõi vô sắc.

Hỏi: Nếu như vậy theo Kinh Tăng Nhất nói làm sao thông suốt?

Như nói: Có năm Bổ-đặc-già-la, cho đến nói rộng.

Đáp: Thánh giả có hai hạng: 1. Có tạp loạn, có di chuyển. 2. Không tạp loạn, không di chuyển. Có tạp loạn, có di chuyển: Nên biết như Kinh Đế Vấn nói. Không tạp loạn, không di chuyển: Nên biết như Kinh Tăng Nhất nói. Do nghĩa lý sâu xa này, nên cả hai thuyết đều khéo thông hợp.

Lời bình: Nếu người ở cõi dục đã từng trải sinh làm Thánh giả, thì chắc chắn không còn sinh lên cõi sắc, cõi vô sắc? Vì sao? Vì nếu người ở cõi dục, từng trải sinh làm Thánh giả tất không có ba sự việc: 1. Không thoái chuyển. 2. Không thay đổi căn. 3. Không sinh nơi cõi sắc, cõi vô sắc. Vì an trụ lâu nơi Thánh đạo, người kia trong sự nối tiếp đã được bền chắc, nên e sợ hai cõi trên có khổ trong thời gian dài như cõi dục.

HẾT – QUYỂN 53