LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 22
Chương 1: TẠP UẨN
Phẩm 2: BÀN VỀ TRÍ, phần 14
* Các tâm do tùy miên, nên gọi là tâm có tùy miên. Tùy miên đó đối với tâm này là tùy tăng chăng? Cho đến nói rộng.
Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?
Đáp: Vì nhằm ngăn chận Tông chỉ của người khác và làm sáng tỏ chánh lý. Nghĩa là, hoặc có lối chấp: Chỉ có một tâm, như thuyết theo Luận giả Nhất tâm tương tục. Họ nói như vầy: Tâm có tùy miên, tâm không có tùy miên. Tánh của chúng không khác. Thánh đạo hiện ở trước, đối với phiền não là trái nhau, nhưng không trái với tánh của tâm. Vì đối trị phiền não, không phải là đối trị tâm. Như các sự việc giặt áo, lau gương, luyện vàng v.v… là cùng trái với vết bẩn v.v…, không trái với áo v.v… Thánh đạo cũng như thế. Lại, trong thân này, nếu Thánh đạo chưa hiện tiền là vì phiền não chưa đoạn, nên tâm có tùy miên. Thánh đạo hiện tiền thì phiền não đoạn, nên tâm không có tùy miên. Tâm này tuy lúc có tùy miên hay không có tùy miên là khác, nhưng tánh là một. Như chiếc áo, tấm gương, vàng v.v… lúc chưa giặt, chưa lau, chưa luyện v.v… gọi là áo cấu uế v.v… Nếu giặt, lau, luyện v.v… rồi gọi là áo không còn cấu uế v.v… Lúc có cấu uế, không cấu uế, tuy là khác, nhưng về tánh không khác. Tâm cũng như thế. Vì nhằm ngăn chận lối chấp của thuyết kia, làm sáng tỏ tâm có tùy miên với tâm không có tùy miên, tánh của chúng đều khác.
Hoặc lại có lối chấp: Tùy miên không do nơi đối tượng duyên tùy tăng, cũng không đối với pháp tương ưng có nghĩa tùy tăng. Như phái Thí dụ, họ bảo: Nếu tùy miên đối với đối tượng duyên tùy tăng thì đối với địa cõi khác và pháp vô lậu cũng nên tùy tăng, vì đối tượng duyên này như là địa cõi của mình. Nếu đối với pháp tương ưng có nghĩa tùy tăng, tức nên lúc chưa đoạn đã đoạn tất cả, vì pháp tương ưng với tùy tăng hoàn toàn không lìa nhau, cũng như tự tánh. Nhằm ngăn chận lối chấp của phái kia, đồng thời chỉ rõ các tùy miên đối với pháp tương ưng, đối tượng duyên, đều có nghĩa tùy tăng. Nghĩa là đối với pháp hữu lậu của địa cõi mình và pháp tương ưng cho đến chưa đoạn là luôn tùy tăng.
Hoặc lại có lối chấp: Tùy miên chỉ ở Bổ-đặc-già-la mới có nghĩa tùy tăng. Như Độc Tử Bộ, họ bảo: Bổ-đặc-già-la gọi là có tùy miên và không có tùy miên, không phải pháp như tâm v.v… vì Bổđặc-già-la có trói buộc, có giải thoát. Nhằm ngăn chận lối chấp của bộ đó, đồng thời chỉ rõ chỉ có tâm v.v… có trói buộc, có giải thoát, gọi là có tùy miên và không có tùy miên, không phải số thủ thú (chúng sinh luân hồi) hoàn toàn không có.
Vì ngăn chận Tông chỉ của người khác và làm sáng tỏ lý không điên đảo, nên tạo ra phần Luận này.
Hỏi: Các tâm do tùy miên nên gọi là tâm có tùy miên. Tùy miên đó đối với tâm này là tùy tăng chăng?
Đáp: Hoặc là tùy tăng, hoặc là không tùy tăng.
Thế nào là tùy tăng? Nghĩa là tùy miên kia cùng với tâm này tương ưng, chưa đoạn và duyên nơi tâm này.
Thế nào là không tùy tăng? Nghĩa là tùy miên kia cùng với tâm này tương ưng, đã đoạn. Trong đây các tâm là có năm bộ tâm, nghĩa là tâm do kiến khổ đoạn, cho đến tâm do tu đạo đoạn.
Tùy miên: Có năm bộ tùy miên, nghĩa là tùy miên do kiến khổ đoạn cho đến tùy miên do tu đạo đoạn. Do hai sự việc nên gọi là tâm có tùy miên: 1. Do tùy miên đối với tâm này có tánh tùy tăng. 2. Do tùy miên đối với tâm này có tánh đồng bạn. Nghĩa là:
Tâm do kiến khổ đoạn đối với tùy miên do kiến khổ đoạn, do hai sự việc nên gọi là tâm có tùy miên. Đối với tùy miên do kiến tập đoạn trừ, do một sự việc nên gọi là tâm có tùy miên, nghĩa là tánh tùy tăng. Đối với tùy miên khác, do không có hai sự việc, nên không phải là tâm có tùy miên.
Tâm do kiến tập đoạn đối với tùy miên do kiến tập đoạn, do hai sự việc nên gọi là tâm có tùy miên. Đối với tùy miên do kiến khổ đoạn trừ, do một sự việc nên gọi là tâm có tùy miên, nghĩa là tánh tùy tăng. Đối với tùy miên khác, do không có hai sự việc, nên không phải là tâm có tùy miên.
Tâm do kiến diệt đoạn đối với tùy miên do kiến diệt đoạn, do hai sự việc nên gọi là tâm có tùy miên. Đối với tùy miên do kiến khổ, tập đoạn, do một sự việc nên gọi là tâm có tùy miên, nghĩa là tánh tùy tăng. Đối với tùy miên khác, do không có hai sự việc, nên không phải là tâm có tùy miên.
Tâm do kiến đạo đoạn đối với tùy miên do kiến đạo đoạn, do hai sự việc nên gọi là tâm có tùy miên. Đối với tùy miên do kiến khổ, tập đoạn, do một sự việc nên gọi là tâm có tùy miên, nghĩa là tánh tùy tăng. Đối với tùy miên khác, do không có hai sự việc, nên không phải là tâm có tùy miên.
Tâm do tu đạo đoạn đối với tùy miên do tu đạo đoạn, do hai sự việc nên gọi là tâm có tùy miên. Đối với tùy miên do kiến khổ, tập đoạn, do một sự việc nên gọi là tâm có tùy miên, nghĩa là tánh tùy tăng. Đối với tùy miên khác, do không có hai sự việc, nên không phải là tâm có tùy miên.
Lại nữa, tâm do kiến khổ đoạn có hai thứ: 1. Tâm tương ưng với tùy miên biến hành. 2. Tâm tương ưng với tùy miên không phải biến hành. Tâm do kiến tập đoạn cũng như thế. Tâm do kiến diệt đoạn có hai thứ: 1. Tâm tương ưng với tùy miên duyên nơi hữu lậu. 2. Tâm tương ưng với tùy miên duyên nơi vô lậu. Tâm do kiến đạo đoạn cũng như thế. Tâm do tu đạo đoạn có hai thứ: 1. Tâm nhiễm ô. 2. Tâm không nhiễm ô.
Tâm tương ưng với tùy miên biến hành do kiến khổ đoạn, đối với tùy miên biến hành do kiến khổ đoạn, do hai sự việc nên gọi là tâm có tùy miên. Đối với tùy miên không phải là biến hành do kiến khổ đoạn và tùy miên biến hành do kiến tập đoạn, do một sự việc nên gọi là tâm có tùy miên, nghĩa là tánh tùy tăng. Đối với tùy miên khác, do không có hai sự việc, nên không phải là tâm có tùy miên.
Tâm tương ưng với tùy miên không phải là biến hành do kiến khổ đoạn, đối với tùy miên không phải là biến hành do kiến khổ đoạn, do hai sự việc nên gọi là tâm có tùy miên. Đối với tùy miên biến hành do kiến khổ, tập đoạn, do một sự việc nên gọi là tâm có tùy miên, nghĩa là tánh tùy tăng. Đối với tùy miên khác, do không có hai sự việc, nên không phải là tâm có tùy miên.
Tâm tương ưng với tùy miên biến hành do kiến tập đoạn, đối với tùy miên biến hành do kiến tập đoạn, do hai sự việc nên gọi là tâm có tùy miên. Đối với tùy miên không phải là biến hành do kiến tập đoạn và tùy miên biến hành do kiến khổ đoạn, do một sự việc nên gọi là tâm có tùy miên, nghĩa là tánh tùy tăng. Đối với tùy miên khác, do không có hai sự việc, nên không phải là tâm có tùy miên.
Tâm tương ưng với tùy miên không phải là biến hành do kiến tập đoạn, đối với tùy miên không phải là biến hành do kiến tập đoạn, do hai sự việc nên gọi là tâm có tùy miên. Đối với tùy miên biến hành do kiến khổ, tập đoạn, do một sự việc nên gọi là tâm có tùy miên, nghĩa là tánh tùy tăng. Đối với tùy miên khác, do không có hai sự việc, nên không phải là tâm có tùy miên.
Tâm tương ưng với tùy miên duyên nơi hữu lậu do kiến diệt đoạn, đối với tùy miên duyên nơi hữu lậu do kiến diệt đoạn, do hai sự việc nên gọi là tâm có tùy miên. Đối với tùy miên biến hành do kiến khổ, tập đoạn, do một sự việc nên gọi là tâm có tùy miên, nghĩa là tánh tùy tăng. Đối với tùy miên khác, do không có hai sự việc, nên không phải là tâm có tùy miên.
Tâm tương ưng với tùy miên duyên nơi vô lậu do kiến diệt đoạn, đối với tùy miên duyên nơi vô lậu do kiến diệt đoạn, do hai sự việc nên gọi là tâm có tùy miên. Đối với tùy miên duyên nơi vô lậu do kiến diệt đoạn và tùy miên biến hành do kiến khổ, tập đoạn, do một sự việc nên gọi là tâm có tùy miên, nghĩa là tánh tùy tăng. Đối với tùy miên khác, do không có hai sự việc, nên không phải là tâm có tùy miên.
Tâm tương ưng với tùy miên duyên nơi hữu lậu do kiến đạo đoạn, đối với tùy miên duyên nơi hữu lậu do kiến đạo đoạn, do hai sự việc nên gọi là tâm có tùy miên. Đối với tùy miên biến hành do khổ, tập đoạn, do một sự việc nên gọi là tâm có tùy miên, nghĩa là tánh tùy tăng. Đối với tùy miên khác, do không có hai sự việc, nên không phải là tâm có tùy miên.
Tâm tương ưng với tùy miên duyên nơi vô lậu do kiến đạo đoạn, đối với tùy miên duyên nơi vô lậu do kiến đạo đoạn, do hai sự việc nên gọi là tâm có tùy miên. Đối với tùy miên duyên nơi hữu lậu do kiến đạo đoạn và tùy miên biến hành do kiến khổ, tập đoạn, do một sự việc nên gọi là tâm có tùy miên, nghĩa là tánh tùy tăng. Đối với tùy miên khác, do không có hai sự việc, nên không phải là tâm có tùy miên.
Tâm nhiễm ô do tu đạo đoạn, đối với tùy miên do tu đạo đoạn, do hai sự việc nên gọi là tâm có tùy miên. Đối với tùy miên biến hành do kiến khổ, tập đoạn, do một sự việc nên gọi là tâm có tùy miên, nghĩa là tánh tùy tăng. Đối với tùy miên khác, do không có hai sự việc, nên không phải là tâm có tùy miên.
Tâm không nhiễm ô do tu đạo đoạn, đối với tùy miên do tu đạo đoạn và tùy miên biến hành do kiến khổ, tập đoạn, do một sự việc nên gọi là tâm có tùy miên, nghĩa là tánh tùy tăng. Đối với tùy miên khác, do không có hai sự việc, nên không phải là tâm có tùy miên.
Lại nữa, tâm nơi cõi dục do kiến khổ đoạn có mười thứ: Nghĩa là tâm tương ưng với năm kiến, nghi, ái, giận, mạn, vô minh không chung. Tâm do kiến tập đoạn có bảy thứ: Nghĩa là tâm tương ưng với hai kiến, nghi, ái, giận, mạn, vô minh không chung. Như tâm do kiến tập đoạn, tâm do kiến diệt đoạn cũng như thế. Tâm do kiến đạo đoạn có tám thứ: Nghĩa là tâm tương ưng với ba kiến, nghi, ái, giận, mạn, vô minh không chung. Tâm do tu đạo đoạn có năm thứ: Nghĩa là tâm tương ưng với ái, giận, mạn, vô minh không chung và tâm không nhiễm ô, nghĩa là thiện hữu lậu, vô phú, vô ký.
Tâm tương ưng với hữu thân kiến, đối với hữu thân kiến và nó tương ưng với vô minh, do hai sự việc nên gọi là tâm có tùy miên. Đối với tùy miên khác do kiến khổ đoạn và tùy miên biến hành do kiến tập đoạn, do một sự việc nên gọi là tâm có tùy miên, nghĩa là tánh tùy tăng. Đối với tùy miên khác, do không có hai sự việc, nên không phải là tâm có tùy miên.
Như thế, cho đến tâm tương ưng với mạn do kiến khổ đoạn nên biết cũng như vậy.
Tâm tương ưng với vô minh không chung do kiến khổ đoạn, đối với vô minh không chung do kiến khổ đoạn, do hai sự việc nên gọi là tâm có tùy miên. Đối với tùy miên khác do kiến khổ đoạn và tùy miên biến hành do kiến tập đoạn, do một sự việc nên gọi là tâm có tùy miên, nghĩa là tánh tùy tăng. Đối với tùy miên khác, do không có hai sự việc, nên không phải là tâm có tùy miên.
Tâm do kiến tập đoạn nên biết cũng như thế.
Tâm tương ưng với tà kiến do kiến diệt đoạn, đối với tà kiến do kiến diệt đoạn và tà kiến tương ưng với vô minh, do hai sự việc nên gọi là tâm có tùy miên. Đối với tùy miên duyên nơi hữu lậu do kiến diệt đoạn và tùy miên biến hành do kiến khổ, tập đoạn, do một sự việc, nên gọi là tâm có tùy miên, nghĩa là tánh tùy tăng. Đối với tùy miên khác, do không có hai sự việc này, nên không phải là tâm có tùy miên.
Tâm tương ưng với nghi do kiến diệt đoạn nên biết cũng như thế.
Tâm tương ưng với kiến thủ do kiến diệt đoạn đối với kiến thủ do kiến diệt đoạn và kiến thủ tương ưng với vô minh, do hai sự việc, nên gọi là tâm có tùy miên. Đối với tùy miên khác duyên nơi hữu lậu do kiến diệt đoạn và tùy miên biến hành do kiến khổ, tập đoạn, do một sự việc, nên gọi là tâm có tùy miên, nghĩa là tánh tùy tăng. Đối với tùy miên khác, do không có hai sự việc, nên không phải là tâm có tùy miên.
Tâm tương ưng với ái, giận, mạn do kiến diệt đoạn nên biết cũng như thế.
Tâm tương ưng với vô minh không chung do kiến diệt đoạn, đối với vô minh không chung do kiến diệt đoạn, do hai sự việc, nên gọi là tâm có tùy miên. Đối với tùy miên duyên nơi hữu lậu do kiến diệt đoạn và tùy miên biến hành do kiến khổ, tập đoạn, do một sự việc, nên gọi là tâm có tùy miên, nghĩa là tánh tùy tăng. Đối với tùy miên khác, do không có hai sự việc, nên không phải là tâm có tùy miên.
Tâm do kiến đạo đoạn trừ nên biết cũng như thế.
Tâm tương ưng với ái do tu đạo đoạn, đối với ái do tu đạo đoạn và ái tương ưng với vô minh, do hai sự việc, nên gọi là tâm có tùy miên. Đối với tùy miên khác do tu đạo đoạn và tùy miên biến hành do kiến khổ, tập đoạn, do một sự việc, nên gọi là tâm có tùy miên, nghĩa là tánh tùy tăng. Đối với tùy miên khác, do không có hai sự việc, nên không phải là tâm có tùy miên.
Tâm tương ưng với giận, mạn do tu đạo đoạn nên biết cũng như thế.
Tâm tương ưng với vô minh không chung do tu đạo đoạn, đối với vô minh không chung do tu đạo đoạn, do hai sự việc này, nên gọi là tâm có tùy miên. Đối với tùy miên khác do tu đạo đoạn và tùy miên biến hành do kiến khổ, tập đoạn, do có một sự việc, nên gọi là tâm có tùy miên, nghĩa là tánh tùy tăng. Đối với tùy miên khác, do không có hai sự việc, nên không phải là tâm có tùy miên.
Tâm không nhiễm ô do tu đạo đoạn, đối với tùy miên do tu đạo đoạn và tùy miên biến hành do kiến khổ, tập đoạn, do một sự việc, nên gọi là tâm có tùy miên, nghĩa là tánh tùy tăng. Đối với tùy miên khác, do không có hai sự việc, nên không phải là tâm có tùy miên.
Như nói về cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc nên biết cũng như thế.
Đó gọi là ở đây đã tóm lược về Tỳ-bà-sa.
Như thế là đã nói năm bộ tùy miên thuộc ba cõi. Đối với tâm có tùy miên thuộc năm bộ trong ba cõi này, nếu chưa đoạn thì tùy tăng, hỗ tương tùy thuận mà tăng trưởng, nên tùy miên ở nơi tâm gia tăng sự trói buộc. Nếu đã đoạn thì không tùy tăng, không cùng tùy thuận, không phải tăng trưởng, nên tùy miên đối với tâm không có sự trói buộc. Nhưng phần vị chưa đoạn, tâm đối với tùy miên tương ưng nơi đối tượng duyên đều được kiến lập tên có tùy miên. Đã tương ưng: Là có đủ hai sự việc. Duyên nơi tâm trói buộc: Nghĩa là chỉ tùy tăng. Nếu đã đoạn phần vị, tâm này chỉ đối với tùy miên tương ưng là có thể được kiến lập tên gọi có tùy miên, không phải tùy miên kia từ trước đến nay duyên nơi tâm trói buộc, vì không tùy tăng. Vì tùy miên tương ưng đối với tâm còn có tánh đồng bạn.
Hỏi: Vì sao tâm đối với tùy miên tương ưng đã đoạn hay chưa đoạn, đều được kiến lập tên có tùy miên? Đối với tùy miên của đối tượng duyên chỉ ở phần vị chưa đoạn mới có thể được kiến lập tên có tùy miên, không phải ở phần vị đã đoạn?
Đáp: Trước nay đã nói tâm đối với tùy miên, do hai sự việc nên gọi là có tùy miên: 1. Tánh tùy tăng. 2. Tánh đồng bạn.
Tùy miên tương ưng nếu ở phần vị chưa đoạn, do hai sự việc, nên tâm đối với tánh tùy tăng kia kiến lập tên có tùy miên. Nếu ở phần vị đã đoạn thì tùy miên kia đối với tâm này, tuy không có tánh tùy tăng, nhưng có tánh đồng bạn, nên còn có thể kiến lập tên có tùy miên. Tùy miên của đối tượng duyên nếu ở phần vị chưa đoạn, đối với tâm chỉ có tánh tùy tăng, nên tâm đối với tánh tùy tăng kia được kiến lập tên có tùy miên. Nếu ở phần vị đã đoạn, vì hai sự việc đều không có, nên tâm đối với tánh tùy tăng kia không còn có thể kiến lập tên có tùy miên.
Hỏi: Nếu tùy miên tương ưng đối với tâm tương ưng, hoặc ở phần vị chưa đoạn là có tánh tùy tăng và tánh đồng bạn. Nếu ở phần vị đã đoạn, tuy không có tánh tùy tăng, nhưng có tánh đồng bạn, nên tâm luôn đối với tánh đồng bạn kia gọi là có tùy miên. Tùy miên của đối tượng duyên đối với tâm của đối tượng duyên, nếu ở phần vị chưa đoạn thì có tánh tùy tăng và tánh của đối tượng duyên, nếu ở phần vị đã đoạn, tuy không có tánh tùy tăng, nhưng có tánh của đối tượng duyên. Vì sao tâm đối với tánh của đối tượng duyên không luôn kiến lập tên gọi có tùy miên?
Đáp: Tùy miên tương ưng đối với tâm tương ưng là rất gần gũi các sự việc đều ngang đồng, không thể lìa nhau, như con dê với da của nó, do vậy tuy đã đoạn, chưa đoạn, đều luôn gọi là cùng có. Tùy miên của đối tượng duyên đối với tâm của đối tượng duyên không phải là rất gần gũi, các sự việc không ngang đồng chưa từng hòa hợp. Nếu lúc chưa đoạn, do tánh tùy tăng, nên có thể gọi là cùng có. Nếu ở phần vị đã đoạn, vì rất xa xôi, nên không nói là cùng có. Ở đây có tên gọi là căn cứ vào tính chất gần gũi mà miễn cưỡng thiết lập, không phải như kiến lập tên gọi có đối tượng duyên v.v…
Tôn giả Thế Hữu nói như vầy: Tùy miên tương ưng ở nơi tâm nhiễm ô, còn tùy miên của đối tượng duyên thì không như thế. Lại nữa, tùy miên tương ưng không lìa tâm, còn tùy miên của đối tượng duyên thì không như thế. Lại nữa, tùy miên tương ưng che lấp tâm, còn tùy miên của đối tượng duyên thì không như thế. Lại nữa, tùy miên tương ưng là tùy tâm chuyển, còn tùy miên của đối tượng duyên không như thế. Lại nữa, tùy miên tương ưng thì nhiễu loạn tâm, còn tùy miên của đối tượng duyên thì không như thế. Lại nữa, tùy miên tương ưng cùng với tâm tương ưng đồng một chỗ dựa, đồng một đối tượng duyên, đồng một hành tướng, đồng một quả, đồng một đẳng lưu, đồng một dị thục, cùng sinh, cùng trụ, cùng dị, cùng diệt, rất gần gũi. Còn tùy miên của đối tượng duyên thì không như thế.
Đại đức nói: Tùy miên tương ưng khiến tâm tương ưng thêm cứng, bướng, càng dữ tợn, người trí luôn quở trách nhàm chán, khó có thể xuất ly. Tùy miên của đối tượng duyên đối với tâm của đối tượng duyên không có sự việc ấy.
Tôn giả Diệu Âm nói: Tùy miên tương ưng khiến tâm tương ưng phát khởi nhiễm ô, như ánh lửa khói, có thể gây trở ngại cho quả Thánh. Tùy miên của đối tượng duyên đối với tâm của đối tượng duyên không có sự việc ấy.
Tôn giả Giác Thiên nói: Tùy miên tương ưng khiến tâm tương ưng đối với cảnh của đối tượng duyên mê lầm, không hiểu rõ. Tùy miên của đối tượng duyên đối với tâm của đối tượng duyên không có sự việc ấy.
Do các thứ nhân duyên như thế, nên tùy miên tương ưng khi ở phần vị đã đoạn hay chưa đoạn, luôn khiến tâm mang tên là có tùy miên. Còn tùy miên của đối tượng duyên chỉ ở phần vị chưa đoạn mới có thể khiến tâm mang tên là có tùy miên, nếu ở phần vị đã đoạn thì không gọi là có.
Hỏi: Nếu như tùy miên đối với tâm tùy tăng, thì tâm này chỉ do tùy miên kia nên gọi là tâm có tùy miên chăng?
Đáp: Hoặc do tùy miên kia không phải là tâm khác, hoặc do tùy miên kia và tâm khác.
Thế nào là do tùy miên kia không phải là tâm khác? Nghĩa là tâm tùy miên này chưa đoạn.
Thế nào là do tùy miên kia và tâm khác? Nghĩa là khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, nếu tâm do kiến khổ đoạn, kiến tập đoạn là đối tượng duyên của tùy miên.
Trong đây, nói do tùy miên kia không phải là tâm khác: Nghĩa là tâm có tùy miên, chỉ do tùy miên kia ở nơi tâm tùy miên tùy tăng, nên gọi là tâm có tùy miên. Không phải do ở nơi tâm khác không có tùy miên tùy tăng mà gọi là tâm có tùy miên, tức tâm này chưa đoạn. Nếu tâm chưa đoạn, tất chỉ do tùy miên kia ở nơi tâm tùy miên tùy tăng, nên gọi là tâm có tùy miên, không phải do ở nơi tâm khác, không phải tùy miên tùy tăng mà gọi là tâm có tùy miên.
Có thuyết cho: Đoạn văn này nên nói như vầy: Bị trói buộc đủ, nghĩa là các tâm nhiễm ô. Người kia không nên nói như vậy, vì bị trói buộc đủ hay không bị trói buộc đủ, có tâm nhiễm ô, không tâm nhiễm ô, đều có thể như thế, chỉ nên nói như vầy: Nghĩa là tâm này chưa đoạn, các tâm chưa đoạn gọi là có tùy miên, chỉ do ở nơi tâm tùy miên tùy tăng, không phải do tâm khác
Do tùy miên kia và tâm khác: Nghĩa là tâm có tùy miên, do tùy miên kia ở nơi tâm tùy miên tùy tăng, nên gọi là tâm có tùy miên, và do tâm khác ở nơi tâm không tùy miên tùy tăng, nên gọi là tâm có tùy miên, nghĩa là khổ trí đã sinh, cho đến nói rộng. Tâm có tùy miên do kiến khổ đoạn, bấy giờ do kiến tập đoạn tùy miên kia, đối với tâm có tùy miên biến hành tùy tăng nên gọi là tâm có tùy miên. Và do kiến khổ khác đoạn trừ, đối với tâm có tùy miên tương ưng không tùy tăng, nên gọi là tâm có tùy miên. Như thế, tức là nói tâm do kiến khổ đoạn, ở trong phần vị này do tùy miên kia là bộ khác, đối với tâm có tùy miên tùy tăng. Và do tự bộ khác đối với tâm có tùy miên không tùy tăng, nên gọi là tâm có tùy miên.
Hỏi: Vì sao ở đây tùy miên thuộc bộ khác gọi là kia, còn tùy miên của tự bộ gọi là khác?
Đáp: Vì trước kia hỏi: Nếu như tùy miên ở nơi tâm tùy tăng, thì tâm này chỉ do tùy miên kia, nên gọi là tâm có tùy miên chăng? Nên nay đáp: Tâm do kiến khổ đoạn, ở trong phần vị này, không phải chỉ do kiến tập đoạn tùy miên kia, đối với tâm có tùy miên biến hành tùy tăng này, nên gọi là tâm có tùy miên. Cũng do kiến khổ khác đoạn trừ, đối với tâm có tùy miên tương ưng không tùy tăng này, nên gọi là tâm có tùy miên.
Như thế, tức là nói thẳng với người đang hỏi, gọi là kia, không phải nói trực tiếp với người đang hỏi, gọi là khác. Tùy miên của bộ khác bấy giờ chưa đoạn, vì do tăng nên là đang hỏi. Tùy miên ở bộ mình, bấy giờ đã đoạn, không tùy tăng, nên không phải là đang hỏi.
Có thuyết nêu: Tùy miên của bộ mình lúc ấy đã chuyển đến chỗ khác với phần vị trước, nên nói là khác, nghĩa là trước chưa đoạn, nay đã đoạn.
Có thuyết nói: Tùy miên của bộ mình trước kia đã được tự tại, hành tác theo ý muốn. Nay vì đã đoạn nên không được tự tại, vì không có khả năng tạo tác, nên nói là khác.
Có thuyết cho: Vì tùy miên của bộ mình xưa nay thành tựu, nay không thành tựu, nên nói là khác.
Có thuyết nêu: Vì tùy miên của bộ mình nay được Thánh đạo hoàn toàn đoạn dứt, khác hẳn với trước, nay nên nói là khác.
Có thuyết biện: Tùy miên của bộ mình đã được Thánh đạo phân biệt đoạn trừ tức khắc, không đồng với xưa nay cùng với bốn bộ khác, đồng thời đoạn trừ dần, nên nói là khác.
Hỏi: Tâm do tu đạo đoạn cũng có nghĩa này. Nghĩa là đoạn một phẩm, cho đến tám phẩm là đã đoạn tâm nhiễm, do tùy miên kia chưa đoạn và tâm khác đã đoạn, nên gọi là có tùy miên, vì sao không nói?
Đáp: Là do ý của người tạo luận muốn thế, cho đến nói rộng.
Lại nữa, nên nói mà không nói, phải biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.
Lại nữa, nếu bộ khác gọi là kia, bộ khác gọi là khác, thì ở đây đã nói: Tâm do tu đạo đoạn, tuy có nghĩa này, nhưng bộ mình gọi là kia, bộ mình gọi là khác, do vậy ở đây không nói.
Lại nữa, trong Luận này chỉ nói: Đoạn rồi, hoàn toàn không còn thoái chuyển. Tâm do tu đạo đoạn tuy có nghĩa này, nhưng tùy miên kia đoạn rồi, hoặc có thoái chuyển nữa, nên không nói đến.
Hỏi: Các tùy miên làm thế nào ở nơi đối tượng duyên tùy tăng? Làm thế nào ở nơi tương ưng tùy tăng?
Đáp: Các Sư ở phương Tây nói như vầy: Vì tánh trói buộc, nên ở nơi đối tượng duyên tùy tăng. Vì tánh đồng bạn, nên ở nơi tương ưng tùy tăng.
Các Luận sư ở nước Ca-thấp-di-la cho: Nơi cảnh của đối tượng duyên đều có hành tự tướng, vì theo lối chấp càng gia tăng, nên gọi là ở nơi đối tượng duyên tùy tăng. Đối với pháp tương ưng, khiến cùng tự vượt qua tùy thuận gia tăng, nên gọi là ở nơi tương ưng tùy tăng.
Có Sư khác nêu: Các tùy miên ở nơi đối tượng duyên tùy tăng cũng như đối với tương ưng, ở nơi tương ưng tùy tăng cũng như đối với đối tượng duyên.
Hỏi: Nếu thế thì như nơi Luận Phẩm Loại Túc nói làm sao thông suốt? Như nói: Thế nào là tùy miên dục tham tùy tăng? Nghĩa là đáng yêu, đáng vui thích, đáng mừng, vừa ý. Tùy miên kia ở nơi tương ưng không có nghĩa chủ thể duyên vì sao cũng nói là có đáng yêu v.v…?
Đáp: Tùy miên kia hiển bày tướng tham. Nghĩa là tùy miên dục tham có tướng như đáng yêu v.v… nên nói như vậy. Vì không làm rõ tướng khác tương ưng của đối tượng duyên.
Tôn giả Thế Hữu nói như vầy: Do bốn sự việc, nên nói các tùy miên có nghĩa tùy tăng:
1. Rơi vào ý nghĩ ác. Như trong đại chúng một người gây ra việc ác, khiến nhiều người kia đều rơi vào ý nghĩ ác. Như thế, ở trong một phẩm tương ưng khởi một tùy miên, tức khiến phẩm tâm tâm sở pháp ấy đều rơi vào ý nghĩ ác.
2. Như lửa nóng. Như đặt thỏi sắt nóng vào trong chậu nước, thì cả chậu và nước đều nóng. Như vậy, trong một pháp phẩm tâm khởi lên một phiền não, tức khiến cho hết thảy tâm tâm sở pháp đều trở thành nhiệt não.
3. Như khói v.v… Như chất khói, bụi nhơ đã bám vào y phục, làm cho y phục trở nên nhớp nhúa. Như vậy, trong phẩm tâm có một tùy miên tức đều trở thành nhiễm ô.
4. Đáng chê trách, nhàm chán. Như trong Tăng chúng có một người phạm tội thì cả chúng đều bị quở trách. Như thế, trong phẩm tâm có một tùy miên tức cả phẩm đều đáng chê trách, nhàm chán.
Như đối với tương ưng, vì có bốn sự việc này, nên gọi là tùy tăng, thì ở nơi cảnh của đối tượng duyên cũng tăng bốn sự việc ấy, nên gọi là tùy tăng. Nghĩa là nếu đối tượng duyên tăng trưởng bốn sự việc ấy, tức nói phiền não nơi tùy miên kia tùy tăng.
Hỏi: Tùy miên quá khứ, vị lai cũng tùy tăng chăng?
Đáp: Tùy miên đó cũng tùy tăng. Nếu tùy miên đó không tùy tăng, thì tâm không nhiễm ô ở nơi phần vị hiện tiền thành ra không có tùy miên, là mâu thuẫn với kinh đã nói, như nói: Phật bảo Kiết Man Mẫu: Trẻ sơ sinh nằm ngửa hãy còn không thể hiểu rõ về cảnh dục hơn kém, huống chi lại có thể khởi tâm của triền dục tham, nhưng nó vẫn bị tùy miên dục tham trói buộc.
Hỏi: Quá khứ, vị lai đã không có tác dụng vì sao có thể nói là tùy miên tùy tăng?
Đáp: Vì tùy miên tùy tăng có khả năng khởi hiện ở trước được, như lửa cháy không hiện nhưng có thể bốc khói.
Tôn giả Diệu Âm nói: Tùy miên kia tuy không có tác dụng nhận lấy cảnh, nhưng ở nơi đối tượng duyên và pháp tương ưng cũng có công năng trói buộc như hiện tại, do vậy tùy miên kia có nghĩa tùy tăng.
Tôn giả Thiết-ma-đạt-đa nói: Do năm sự việc, nên có thể nói tùy miên quá khứ, vị lai có nghĩa tùy tăng:
- Vì nhân của tùy miên kia chưa hết.
- Vì tùy miên kia chưa bị đoạn.
- Vì chưa chuyển chỗ dựa của tùy miên kia.
- Vì chưa hiểu rõ đối tượng duyên của tùy miên kia.
- Vì tùy miên kia chưa được đối trị.
Hỏi: Các tâm do tùy miên nên gọi là tâm có tùy miên. Tùy miên kia ở nơi tâm này phải đoạn chăng?
Đáp: Hoặc phải đoạn, hoặc không phải đoạn.
Thế nào là phải đoạn? Nghĩa là tùy miên kia duyên nơi tâm này.
Thế nào là không phải đoạn? Nghĩa là tùy miên kia tương ưng với tâm này.
Ở đây đã chỉ rõ tùy miên ở nơi cảnh của đối tượng duyên, có thể nói là phải đoạn, không phải đối với pháp tương ưng. Nghĩa là ở nơi đối tượng duyên có thể chế ngự được phiền não, khiến chúng không khởi hiện, gây các lỗi lầm, không phải đối với pháp tương ưng có thể chế ngự phiền não, khiến chúng không còn cùng với tâm v.v… tương ưng. Vì vậy ở nơi đối tượng duyên có thể nói là phải đoạn không phải đối với pháp tương ưng.
Có thuyết cho: Đoạn văn này nên nói: Thế nào là phải đoạn? Nghĩa là tùy miên kia duyên nơi tâm này chưa đoạn. Thế nào là không phải đoạn? Nghĩa là tùy miên kia duyên nơi tâm này đã đoạn và cùng với tâm này tương ưng.
Thuyết đó phi lý. Vì sao? Vì theo câu hỏi trước, các tâm do tùy miên nên gọi là tâm có tùy miên. Tùy miên kia ở nơi tâm này phải đoạn chăng? Nay chỉ nên nói: Thế nào là phải đoạn? Nghĩa là tùy miên kia duyên nơi tâm này, về nghĩa đã hội đủ, cần gì lại nói chưa đoạn. Nếu tùy miên kia đã đoạn, tâm không do tùy miên kia để gọi là có tùy miên, tức không phải là điều đã hỏi. Thế nên không cần nói thêm là chưa đoạn.
Lại, duyên nơi tâm này đã đoạn và nói lý, không nên nói là duyên nơi tâm tùy miên. Vì nếu đã đoạn, tức không phải những gì đã hỏi, chỉ nên nói: Thế nào là không phải đoạn? Nghĩa là tùy miên kia cùng với tâm này tương ưng, về nghĩa đã đủ. Nhưng trong đây nói: Các tùy miên ở nơi đối tượng duyên có thể đoạn, không phải ở nơi pháp tương ưng, nghĩa là căn cứ nơi tâm gọi là có nghĩa tùy miên mà nói, không dựa vào nghĩa tùy tăng mà nói, vì nghĩa tùy tăng đều có thể đoạn.
Hỏi: Các tùy miên nhân nơi gì nên đoạn?
Đáp: Nhân nơi đối tượng duyên trước đã hiển bày về nghĩa, nay thể hiện nơi văn. Nghĩa là các tùy miên do lực đối trị, khiến chúng ở nơi cảnh không còn khởi hiện lỗi lầm có thể nói là nên đoạn. Như người cấm ngăn con mình không cho đi vào nơi quán rượu, chốn cờ bạc v.v…. Nếu khiến tùy miên lìa pháp tương ưng thì không có việc ấy. Vì thế nên nói tùy miên kia ở nơi pháp tương ưng không có nghĩa đoạn.
Hỏi: Ông nói tùy miên nhân nơi đối tượng duyên nên đoạn chăng?
Đáp: Đúng vậy.
Hỏi: Nếu thế các tùy miên duyên nơi hữu lậu do kiến diệt, đạo đoạn trừ thì tùy miên kia nhân nơi gì nên đoạn? Nếu nói do ở đây đoạn, nên kia đoạn, đều không hợp lý?
Đáp: Tùy miên duyên nơi vô lậu do kiến diệt, đạo đoạn nhân nơi đối tượng duyên nên đoạn. Do đây đoạn nên kia cũng đoạn.
Trong đây ý nói: Cần phải nhân nơi tuệ mới thấy phiền não nơi đối tượng duyên thì tùy miên mới đoạn, để thành lập lý này.
Hỏi: Câu trả lời rất khó thông suốt. Ông nói tùy miên nhân nơi đối tượng duyên nên đoạn chăng, là câu hỏi trước, tuy nói giản lược, nhưng chưa được thẩm định. Nếu không thẩm định Tông người khác đã thừa nhận lại nói lỗi lầm của người khác, thì không có việc ấy? Đáp: Đúng như vậy, là trả lời: Cần phải nhân nơi tuệ mới thấy phiền não nơi đối tượng duyên, thì tùy miên mới đoạn, về lý là quyết định, vì không có đường nào khác, nên nói là như vậy. Nếu thế, các tùy miên duyên nơi hữu lậu do kiến diệt, đạo đoạn, thì tùy miên kia nhân nơi gì nên đoạn? Nếu nói vì đây đoạn, nên kia đoạn, đều không hợp lý, là vấn nạn. Ý của vấn nạn kia là nói: Tùy miên duyên nơi hữu lậu do kiến diệt, đạo đoạn nhân nơi gì nên đoạn? Nếu nói nhân nơi tuệ mới nhận thấy khổ, tập này nên được đoạn, lý đó không đúng, vì lúc thấy khổ, tập thì tùy miên này chưa đoạn. Nếu nói nhân nơi tuệ để thấy rõ diệt, đạo kia nên được đoạn, về lý cũng không đúng, vì diệt, đạo không phải là cảnh của đối tượng duyên này?
Đáp: Tùy miên duyên nơi vô lậu do kiến diệt, đạo đoạn nhân nơi đối tượng duyên nên đoạn. Do đây đoạn, nên kia cũng đoạn là thông suốt. Ý thông suốt này nói tùy miên duyên nơi hữu lậu do kiến diệt, đạo đoạn là căn cứ nơi tùy miên duyên nơi vô lậu mà được sinh trưởng. Lúc kiến diệt, đạo, thì tùy miên duyên nơi vô lậu này bị đoạn, nên tùy miên duyên nơi hữu lậu do kiến diệt, đạo đoạn cũng được đoạn theo, như người bệnh gầy yếu, nương nơi gậy mới đứng được, bỏ gậy là ngã, đây cũng như thế.
Hỏi: Lập Tông trước đã định, cần phải nhân nơi tuệ mới nhận thấy phiền não nơi đối tượng duyên thì tùy miên mới đoạn. Nay lại nói hợp chung là đối tượng duyên đoạn, nên chủ thể duyên đoạn theo, há chẳng là mâu thuẫn?
Đáp: Không có lỗi mâu thuẫn, vì tuệ nhận thấy được tùy miên nơi đối tượng duyên hãy còn đoạn trừ, huống chi là đối tượng duyên đã đoạn mà không đoạn sao? Như quả dựa vào cây khi cây lay động mạnh, quả hãy còn rơi rớt huống chi cây đã nghiêng ngã mà quả không rụng sao? Đây cũng như thế. Lại, trước đã nói cần phải nhân nơi tuệ thấy rõ phiền não nơi đối tượng duyên thì tùy miên mới đoạn, không nói cần phải nhân nơi tuệ nhận thấy phiền não đã đoạn nơi đối tượng duyên thì tùy miên mới đoạn, chỉ nói cần phải nhân nơi tuệ thấy rõ phiền não hiện có nơi đối tượng duyên thì tùy miên mới đoạn, nên không mâu thuẫn. Nghĩa là nhân nơi tuệ thấy rõ nẻo phiền não duyên nơi vô lậu nơi đối tượng duyên đã diệt nên tùy miên duyên nơi hữu lậu do kiến diệt đạo đoạn cũng đoạn. Do lý sâu xa này, nên khổ, tập pháp nhẫn có khả năng đoạn tùy miên biến hành duyên nơi trên. Hai trí diệt, đạo trong quả vị tu đạo có khả năng đoạn trừ Hoặc của chín địa do tu đạo đoạn.
Có Sư khác nói: Nhân nơi đối tượng duyên nên tùy miên đoạn: Nghĩa là có ý làm sáng tỏ phiền não nơi đối tượng duyên đoạn, nên tùy miên mới đoạn. Vì thành lập lý này, nên hỏi – đáp khó thông hợp. Hỏi: Ông nói tùy miên nhân nơi đối tượng duyên nên đoạn chăng?
Đáp: Đúng vậy.
Hỏi: Nếu thế, các tùy miên duyên nơi vô lậu do kiến diệt, đạo đoạn, các tùy miên kia nhân nơi gì nên đoạn? Nếu nói do sự tương ưng này đoạn nên đoạn, lý đó không đúng, vì trước đã nói tùy miên không phải ở nơi pháp tương ưng có thể nói đoạn. Nếu nói do đối tượng duyên kia đoạn nên đoạn, lý đó cũng không đúng, vì đối tượng duyên nơi diệt, đạo không có các lỗi lầm nên không thể đoạn?
Đáp: Vì tùy miên duyên nơi hữu lậu do kiến diệt, đạo đoạn trừ đã đoạn, nên tùy miên này cũng đoạn theo.
Hỏi: Tông chỉ đã định rõ trước nói: Vì đối tượng duyên đã đoạn nên tùy miên mới đoạn. Nay lại nói vì chủ thể duyên nơi phiền não đoạn, nên tùy miên mới đoạn, há không là mâu thuẫn chăng?
Đáp: Không có lỗi mâu thuẫn. Nghĩa là tùy miên duyên nơi vô lậu dựa vào tùy miên duyên nơi hữu lậu mà được sinh trưởng. Do sự nhận giữ kia nên ở đây được nối tiếp. Sự nhận giữ kia đoạn thì đây cũng đoạn theo. Như thân cây v.v… dựa vào rễ mà được đứng vững. Nếu chặt đứt gốc rễ thì thân, cành v.v… đều ngã theo.
Đây cũng như thế.
Thuyết kia phi lý, vì trái với Tông chỉ nêu trước, nên văn của bản Luận này nói là khó thông suốt. Có khi đối tượng duyên đoạn mà chủ thể duyên chưa đoạn. Có khi chủ thể duyên đoạn, nhưng đối tượng duyên chưa đoạn.
Hoặc lại có thuyết nói: Nhân nơi đối tượng duyên đoạn nên tùy miên đoạn: Là ý nói cần phải nhân nơi đạo có đối tượng duyên thì tùy miên mới đoạn. Thuyết đó phi lý, vì như Đức Thế Tôn nói: Tám chi Thánh đạo như thế có khả năng đoạn trừ các khổ trong quá khứ, vị lai và hiện tại. Dứt bỏ, loại trừ hẳn, lìa hết nhiễm, diệt trọn, đạt Niếtbàn tịch tĩnh. Do vậy, nên nói: Đạo có đối tượng duyên, đạo không đối tượng duyên đều có thể đoạn dứt Hoặc. Lại, đối với thuyết sau vì hoặc vấn nạn hoặc thông suốt, đều không tương ưng, nên thuyết kia phi lý.
Tôn giả Thiết-ma-đạt-đa nói: Do bốn sự việc nên các tùy miên đoạn: 1. Do đối tượng duyên đoạn. Như tùy miên duyên nơi hữu lậu do kiến diệt, đạo đoạn. 2. Do chủ thể duyên đoạn. Như tùy miên duyên nơi cõi khác. 3. Do cả hai duyên cùng đoạn. Như tùy miên không phải biến hành do kiến khổ, tập đoạn. 4. Do được đối trị. Như tùy miên khác, theo chỗ được đối trị thì tùy miên kia đoạn theo.
Tôn giả Thế Hữu nói: Do năm sự việc nên các tùy miên đoạn: 1. Do nhận thấy đối tượng duyên nên đoạn. Như tùy miên duyên vô lậu và tùy miên biến hành duyên nơi tự cõi. 2. Do đối tượng duyên đoạn nên đoạn. Như tùy miên duyên nơi hữu lậu do kiến diệt, đạo đoạn. 3. Do chủ thể duyên đoạn nên đoạn. Như tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác. 4. Do cả hai thứ duyên đoạn nên đoạn. Như tùy miên không biến hành do kiến khổ tập đoạn. 5. Do được đối trị nên đoạn. Như tùy miên do tu đạo đoạn.
Hỏi: Nếu tùy miên ở nơi tâm nên đoạn, tâm này chỉ do tùy miên kia nên gọi là tâm có tùy miên chăng?
Đáp: Hoặc do tùy miên kia không phải tâm khác. Hoặc do tùy miên kia và tâm khác.
Thế nào là do tùy miên kia không phải tâm khác? Nghĩa là tâm không nhiễm ô do tu đạo đoạn.
Thế nào là do tùy miên kia và tâm khác? Nghĩa là tâm nhiễm ô.
Ở đây, không nhiễm ô: Là phân biệt chỗ khác với nhiễm ô.
Do tu đạo đoạn: Nghĩa là phân biệt chỗ khác với vô lậu. Là tâm thiện hữu lậu và tâm vô phú vô ký.
Tâm này do tùy miên kia: Nghĩa là do tùy miên duyên nơi tâm này tùy tăng, nên gọi là tâm có tùy miên.
Không phải tâm khác: Nghĩa là không phải do tùy miên tương ưng nên gọi là tâm có tùy miên, vì tùy miên không tương ưng với tâm này.
Tâm nhiễm ô do tùy miên kia: Nghĩa là do tùy miên duyên nơi tâm này tùy tăng, nên gọi là tâm có tùy miên.
Hỏi: Vì sao trong đây tùy miên của đối tượng duyên nói là kia, còn tùy miên tương ưng nói là khác?
Đáp: Vì trước hỏi: Nếu tùy miên ở nơi tâm nên đoạn, tâm này chỉ do tùy miên kia nên gọi là tâm có tùy miên chăng? Trước nói tùy miên chỉ ở nơi đối tượng duyên có nghĩa nên đoạn, không phải ở nơi pháp tương ưng. Thế nên Tôn giả kia nói: Chỉ nói tùy miên của đối tượng duyên là nên đoạn, tức tùy miên này là chính điều đã hỏi nên nói là kia, còn tùy miên tương ưng không phải là chính điều đã hỏi nên nói là khác.
Hỏi: Vì sao lại tạo ra Hỏi – Đáp như thế?
Đáp: Vì nhằm khiến cho người nghi có được quyết định. Nghĩa là hoặc có kẻ nghi: Chỉ nên đoạn là tâm do tùy miên kia, nên gọi là có tùy miên. Tùy miên tương ưng không nên đoạn, tâm không do tùy miên kia nên gọi là có tùy miên. Vì muốn khiến cho nghi này được quyết định cùng hiển bày tâm nhiễm ô cũng do tùy miên kia nên gọi là có tùy miên.
Hoặc lại có kẻ nghi: Tùy miên tương ưng cũng nên có thể đoạn. Nay lại làm rõ tùy miên tương ưng không có nghĩa nên đoạn.
Hoặc còn có người nghi: Tâm đối với tùy miên gọi là có, là chỉ dựa vào tánh tùy tăng. Nay lại làm rõ là dựa vào tánh đồng bạn. Nghĩa là tâm không nhiễm ô chỉ dựa vào tánh tùy tăng, gọi là có tùy miên. Nếu tâm nhiễm ô thì đều dựa vào cả hai tánh.
Hỏi: Từng có trường hợp tùy miên đã đoạn, nhưng tuệ không nhận thấy đối tượng duyên của tùy miên kia chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:
1. Có khi tùy miên đoạn nhưng tuệ không nhận thấy đối tượng duyên của tùy miên kia: Nghĩa là các phàm phu khi lìa nhiễm nơi cõi dục cho đến Vô sở hữu xứ, đã đoạn tùy miên duyên nơi địa trên và duyên nơi vô lậu. Nếu các Thánh giả lúc hiện quán khổ tập đế của cõi dục, đã đoạn tùy miên duyên nơi cõi khác. Khi hiện quán diệt, đạo đế là đoạn tùy miên duyên nơi hữu lậu do kiến diệt, đạo đoạn, do trí diệt đạo đã lìa bỏ tất cả tùy miên do tu đạo đoạn.
2. Có khi tuệ nhận thấy đối tượng duyên của tùy miên kia nhưng tùy miên không đoạn: Nghĩa là các phàm phu khi lìa nhiễm nơi cõi dục cho đến Vô sở hữu xứ, trước sau đã đoạn các phẩm tùy miên. Các phàm phu khi lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ nhất cho đến Vô sở hữu xứ, đã đoạn tùy miên duyên nơi địa khác hiện có từ cõi dục cho đến Thức vô biên xứ. Nếu các Thánh giả lúc hiện quán khổ, tập đế của cõi sắc, cõi vô sắc, đoạn trừ tùy miên duyên nơi giới khác hiện có của cõi dục. Khi hiện quán khổ đế thì đoạn trừ tùy miên duyên nơi tự cõi do kiến tập đoạn, đoạn trừ tùy miên duyên nơi hữu lậu do kiến diệt đạo đoạn cùng tất cả tùy miên do tu đạo đoạn. Lúc hiện quán tập đế, đoạn trừ tùy miên duyên nơi tự cõi do kiến khổ đoạn, đoạn trừ tùy miên duyên nơi hữu lậu do kiến diệt đạo đoạn cùng tất cả tùy miên do tu đạo đoạn. Do trí khổ tập cùng trí thế tục khi lìa các nhiễm do tu đạo đoạn, đoạn trừ tùy miên duyên nơi hữu lậu do kiến đạo đoạn và tùy miên thuộc phẩm trước sau do tu đạo đoạn, do diệt, đạo trí lúc lìa nhiễm do tu đạo đoạn, tùy miên duyên nơi vô lậu và tất cả phàm phu, Thánh giả khác khi không đoạn phiền não nhưng thấy rõ phiền não và tất cả tùy miên nơi cảnh của đối tượng duyên.
3. Có khi tùy miên đoạn tuệ cũng thấy rõ đối tượng duyên của tùy miên kia: Nghĩa là các phàm phu khi lìa nhiễm nơi cõi dục cho đến Vô sở hữu xứ, thì đoạn trừ tùy miên của tự phẩm duyên nơi tự địa. Nếu các Thánh giả lúc hiện quán khổ, tập đế thì đoạn trừ tùy miên duyên nơi tự cõi do kiến khổ, tập đoạn. Lúc hiện quán diệt, đạo đế thì đoạn trừ tùy miên duyên nơi vô lậu do kiến diệt, đạo đoạn, vì khổ trí, tập trí và thế tục trí khi lìa nhiễm do tu đạo đoạn, cũng đoạn trừ tùy miên thuộc tự phẩm, tự địa do tu đạo đoạn.
4. Có khi tùy miên không đoạn, tuệ cũng không nhận thấy đối tượng của tùy miên kia: Nghĩa là trừ các tướng nêu trước.
Hỏi: Từng có trường hợp trong khoảng một sát-na, tùy miên đoạn nhưng tuệ không nhận thấy đối tượng duyên của tùy miên kia chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp, nhưng có nhiều phần vị, nghĩa là phần vị khổ tập pháp trí nhẫn và diệt đạo pháp loại trí nhẫn đều có bốn trường hợp.
Phần vị của khổ pháp trí nhẫn có bốn trường hợp: 1. Đoạn trừ tùy miên duyên nơi cõi khác do kiến khổ nơi cõi dục đoạn. 2. Đoạn trừ tùy miên duyên nơi tự cõi do kiến tập nơi cõi dục đoạn và tùy miên duyên nơi hữu lậu do kiến diệt đạo đoạn cùng tùy miên do tu đạo đoạn. 3. Đoạn trừ tùy miên duyên nơi tự cõi do kiến khổ nơi cõi dục đoạn. 4. Là trừ các tướng nêu trước.
Phần vị của tập pháp trí nhẫn tùy theo chỗ ứng hợp cũng có bốn trường hợp như thế.
Phần vị của diệt đạo pháp loại trí nhẫn: Nếu trong phần vị phàm phu ở trước, phần lìa nhiễm nơi cõi dục cùng đối với bảy địa trên, hoặc từng phần hoặc toàn phần lìa nhiễm thì được tạo ra bốn trường hợp.
Phần vị của diệt pháp trí nhẫn có bốn trường hợp: 1. Đoạn trừ tùy miên duyên nơi hữu lậu, trước chưa lìa, do kiến diệt nơi cõi dục đoạn. 2. Đoạn trừ tùy miên duyên nơi vô lậu, trước đã lìa, do kiến diệt nơi cõi dục đoạn. 3. Đoạn trừ tùy miên duyên nơi vô lậu, trước chưa lìa, do kiến diệt nơi cõi dục đoạn. 4. Đoạn trừ tùy miên duyên nơi hữu lậu, trước đã lìa, do kiến diệt nơi cõi dục đoạn. Hoặc trừ các tướng nêu trên.
Phần vị của diệt loại trí nhẫn và đạo pháp loại trí nhẫn, tùy theo chỗ ứng hợp cũng có bốn trường hợp như thế.
Nếu các phàm phu khi lìa nhiễm nơi cõi dục cho đến Vô sở hữu xứ, trong mỗi mỗi đạo vô gián đều được nêu ra bốn trường hợp: 1. Tùy miên duyên nơi địa khác thuộc tự phẩm. 2. Tùy miên duyên nơi tự địa thuộc phẩm trước sau. 3. Tùy miên duyên nơi tự địa thuộc tự phẩm. 4. Tùy miên duyên nơi địa khác thuộc phẩm trước sau. Hoặc trừ các tướng nêu trước.
Hỏi: Từng có trường hợp đối với phiền não đoạn trừ được mà không xả, xả mà không được, cũng được cũng xả, không được không xả chăng?
Đáp: Có.
Được mà không xả: Nghĩa là các phàm phu khi lìa nhiễm nơi cõi dục cho đến Vô sở hữu xứ. Nếu khi các Thánh giả đã đoạn phiền não, trừ chứng đắc quả vị.
Xả mà không được: Nghĩa là các phàm phu từ lúc lìa nhiễm thoái chuyển xuống địa dưới, mạng chung sinh nơi hai định trở lên, từ lúc ở hai cõi trên mất sinh nơi cõi dục. Nếu các Thánh giả khi ở trong hướng thoái chuyển đoạn.
Cũng được cũng xả: Nghĩa là các phàm phu sinh nơi địa trên, rồi mất, sinh từ định thứ nhất trở lên. Nếu các Thánh giả luyện căn, đắc quả và lúc thoái chuyển quả.
Không được không xả: Nghĩa là trừ các tướng nêu trước.
HẾT – QUYỂN 22