LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 21
Chương 1: TẠP UẨN
Phẩm 2: BÀN VỀ TRÍ, phần 13
Thể của nhân năng tác tức tăng thượng duyên đều cùng dùng tất cả pháp làm tự tánh. Tuy nhiên, về nghĩa thì có khác. Nghĩa là nhiều thắng nghĩa là nghĩa của tăng thượng duyên, nghĩa không chướng ngại là nghĩa của nhân năng tác.
Hỏi: Nếu nhiều thắng nghĩa là nghĩa của tăng thượng duyên thì sở duyên duyên cũng nên gọi là tăng thượng. Vì Thể của nó cũng gồm thâu tất cả pháp. Như Luận Phẩm Loại Túc đã biện minh: Hai duyên này đều dùng tất cả pháp làm tự tánh?
Đáp: Nếu căn cứ vào sự nối tiếp thì hai duyên này đều giống nhau ở chỗ rộng, hẹp. Nếu căn cứ vào sát-na thì nghĩa nơi Thể của tăng thượng duyên có nhiều hơn. Nghĩa là khi duyên nơi tất cả pháp, hành tướng vô ngã hiện tiền. Trong tất cả pháp không phải là sở duyên: Là tự tánh này tương ưng cùng có. Không phải là tăng thượng: Là chỉ có tự tánh này. Do vậy, các pháp tương ưng, cùng có ấy là tăng thượng, không phải là sở duyên.
Hỏi: Nếu nghĩa không gây chướng ngại là nghĩa của nhân năng tác thì Thể của nhân năng tác tức nên không gồm thâu tất cả pháp. Nghĩa là một hữu tình nếu có một nẻo uẩn, giới, xứ khởi hiện, tức là hữu tình này lại không có uẩn, giới, xứ thứ hai sinh ra. Nếu dựa vào một nhãn (mắt), một nhãn thức sinh, trong đó lại không có thức thứ hai khởi hiện. Như nơi một chỗ nọ, nếu có một cây thì không có cây thứ hai, hoặc có một ngôi nhà thì không có ngôi nhà thứ hai. Các pháp như thế cùng tạo chướng ngại lẫn nhau, làm sao nhân này gồm thâu hết thảy pháp?
Đáp: Tuy có sự việc ấy nhưng không mâu thuẫn với lý. Nghĩa là một hữu tình nếu có nghĩa một nẻo, uẩn, giới, xứ khởi hiện, nói với các uẩn, giới, xứ khác: Tôi đối với các ông không làm chướng ngại, tùy ở các ông sinh. Giả như tôi cùng với các ông tạo chướng ngại: Nghĩa là các ông đối với pháp kia tức không được sinh. Nếu dựa vào một nhãn, nhãn thức hiện tiền, thức này sẽ nói với nhãn thức khác: Tôi đối với các ông không làm chướng ngại, tùy ở các ông sinh. Giả sử tôi cùng với các ông làm chướng ngại, các ông đối với pháp kia không được hiện tiền. Ví dụ về cây và ngôi nhà, dựa theo đây nên nói.
Lại, tức đối với pháp kia làm chướng ngại, nghĩa là pháp kia nếu lúc sinh cũng không bị trở ngại, thế nên một pháp lúc sắp sinh, hết thảy pháp khác đều không bị trở ngại. Nếu như có một pháp làm chướng ngại chúng, pháp kia lúc ấy phải không được sinh khởi. Nghĩa không chướng ngại là nghĩa của nhân năng tác, nên nhân năng tác gồm thâu tất cả pháp.
Hỏi: Nhân duyên hòa hợp nên các pháp sinh, nhân duyên hòa hợp nên các pháp diệt. Nhân duyên không có lúc nào là không hòa hợp, vì sao các pháp không hằng sinh diệt?
Đáp: Tôn giả Thế Hữu nói: Vì một hòa hợp sinh nên các pháp sinh, vì một hòa hợp diệt nên các pháp diệt. Sinh, diệt hòa hợp không hai, không nhiều, các pháp làm sao hằng sinh, hằng diệt? Lại nói thế này: Nhân duyên hòa hợp các pháp sinh rồi, sau đó nối tiếp nhau trong vô lượng sát-na, tuôn chảy liên tục, che lấp, đè bẹp, không thể khởi hiện lại được. Như người rơi xuống vực sâu, muốn trèo lên bờ đất liền, nhưng vì bị đất rơi liên tục đè lấp tới tấp, bấy giờ người kia hãy còn không thể cử động huống chi là đứng dậy được?
Đại đức nói: Nhân duyên hòa hợp đã chỉ là tạm có, làm sao các pháp hằng sinh diệt?
Tôn giả Giác Thiên nói: Các pháp sinh diệt đều chỉ có một lúc, nên có tác dụng sinh rồi lại sinh, diệt rồi lại diệt, tức là vô dụng. Thế nên các pháp sinh diệt không phải thường hằng.
Hỏi: Lúc nhân duyên hòa hợp sinh các pháp, công năng của nhân duyên là nhiều hay là một? Nếu nói chỉ có một thì làm sao dựa vào nhiều? Nếu nói có nhiều thì làm sao hòa hợp?
Đáp: Có thể nói là một, có thể nói là nhiều. Vì phân tích một sự việc nên dựa vào nhiều Thể. Lại nữa, công năng của nhân duyên là cùng tùy thuận, có thể nói là một sinh nhiều pháp, nên có thể nói là nhiều.
Lại nữa, vì công năng của nhân duyên đồng khiến các pháp khởi hiện tác dụng, nên có thể nói là một. Vì khởi hiện tác dụng như sắc, thọ v.v… riêng khác, nên có thể nói là nhiều. Nếu công năng của nhân duyên kia không có nhiều thứ, thì tác dụng đã khởi hiện như sắc, phi sắc v.v… tức nên không khác nhau. Do vậy, công năng của nhân duyên nơi các pháp không thể nói nhất định là nhiều hay là một.
Hỏi: Như có nhân duyên nên các pháp được sinh, cũng có nhân duyên nên các pháp diệt chăng?
Đáp: Tôn giả của phái Thí dụ nói như vầy: Sự sinh chờ đợi nhân duyên, diệt thì không như thế. Như người khi bắn cung, mũi tên được phát đi cần phải có sức, tên rơi thì không như vậy. Như nhà chế tạo đồ gốm, lúc bánh xe quay cần có sức, bánh xe ngừng thì không như thế.
Các Luận sư A-tỳ-đạt-ma nói: Các pháp sinh diệt đều chờ đợi nhân duyên, vì diệt và sinh đều là dụng.
Hỏi: Theo dụ đã nói ở trước phải thông suốt như thế nào?
Đáp: Bất tất phải thông suốt, vì dụ đó không phải là ba Tạng. Tuy nhiên, vì pháp của phàm, Thánh đều khác nhau, nên không thể so sánh là đồng. Vả lại, mũi tên cùng với bánh xe cũng do nhân nên rơi và ngừng.
Nhân của mũi tên rơi: Nghĩa là gạt bỏ cái đích đỡ lấy. Nếu như không có nhân khác thì cung nỏ v.v… cũng là nhân của sự rơi. Nếu như không bắn mũi tên trước thì nay do đâu mà rơi?
Nhân của bánh xe ngừng quay: Nghĩa là tay và cây gậy v.v… Nếu như không có nhân khác thì người có thể chuyển cũng là nhân của sự dừng lại. Nếu trước đó không quay thì nay do đâu có dừng lại?
Hỏi: Nếu gạt bỏ tay v.v… gây trở ngại cho mũi tên và bánh xe khiến chúng phải rơi, dừng, vì sao làm nhân năng tác cho mũi tên, bánh xe?
Đáp: Các vật như gạt bỏ tay v.v… làm trở ngại cho hoạt động quay bánh xe của thợ gốm kia, không phải gây trở ngại cho sự rơi dừng lại là nhân năng tác, về lý đâu có lỗi gì?
Hỏi: Nếu pháp sinh diệt cùng chờ đợi nhân duyên thì nhân duyên sinh diệt nơi tất cả thời đều có, đâu có lúc không sinh cũng diệt, lúc diệt cũng sinh?
Đáp: Tôn giả Thế Hữu nói: Hai thời sinh diệt hòa hợp đều có khác. Do vậy, lúc sinh không diệt, lúc diệt không sinh, vì không thể một nhân có hai quả. Lại nói thế này: Lúc sinh nhân duyên tùy thuận pháp kia. Khi diệt nhân duyên mâu thuẫn gây hại cho pháp kia, tuy nhân duyên kia Thể trước sau là một, mà thời gian dùng để tăng giảm không đồng. Cũng như Bí-sô giải an cư xong, mang theo y bát đi đến các chùa. Có kẻ trộm vừa trông thấy, trước hết vái chào, lễ kính, cung thuận đi theo sau. Khi đến vùng đồng hoang vắng, bèn cướp lấy y bát, mắng nhiếc rồi bỏ đi. Nhân duyên sinh diệt cũng lại như thế.
Đại đức nói: Hai sự việc sinh diệt đã mâu thuẫn với nhau, làm sao cùng có được?
Tôn giả Diệu Âm nói: Các pháp lúc sinh chưa có tác dụng sẽ diệt ở nơi nào? Các pháp khi diệt đã có tác dụng lại sinh ở đâu?
Hỏi: Một pháp đã cùng với nhiều pháp làm nhân năng tác. Nhiều pháp cũng cùng với một pháp làm nhân năng tác. Khi một pháp cùng với nhiều pháp làm nhân năng tác, là như một pháp cùng với nhiều pháp làm nhân hay là như nhiều pháp cùng với nhiều pháp làm nhân? Khi nhiều pháp cùng với một pháp làm nhân năng tác, là như nhiều pháp cùng với một pháp làm nhân hay là như một pháp cùng với một pháp làm nhân? Nếu như thế thì có lỗi gì?
Khi một pháp này cùng với nhiều pháp làm nhân năng tác, nếu như một pháp cùng với nhiều pháp làm nhân, vì sao không phải nhân một nên quả cũng thành một? Nếu như nhiều pháp cùng với nhiều pháp làm nhân, vì sao không quả nhiều nên nhân cũng thành nhiều? Khi nhiều pháp này cùng với một pháp làm nhân năng tác, nếu như nhiều pháp cùng với một pháp làm nhân, vì sao không phải nhân nhiều nên quả cũng thành nhiều? Nếu như một pháp cùng với một pháp làm nhân, vì sao không phải quả một nên nhân cũng thành một?
Đáp: Nên nói như vầy: Khi một pháp cùng với nhiều pháp làm nhân năng tác, cũng như nhiều pháp cùng với một pháp làm nhân. Khi nhiều pháp cùng với một pháp làm nhân năng tác, cũng như một pháp cùng với nhiều pháp làm nhân.
Hỏi: Nếu thế một nên thành nhiều, nhiều nên thành một chăng?
Đáp: Tôi nói một cũng thành nhiều, nhiều cũng thành một, đó là căn cứ vào tác dụng, không căn cứ vào thật Thể. Tôi nói các nhân lấy tác dụng làm quả, không phải lấy thật Thể làm quả. Lại nói các quả lấy tác dụng làm nhân, không phải lấy thật Thể làm nhân. Vì thật Thể của các pháp là thường hằng, không chuyển biến, không phải là nhân quả. Tuy nhiên, pháp vô vi gọi là nhân năng tác, chỉ vì không làm chướng ngại, không phải có thể tạo ra quả.
Lại nữa, pháp hữu vi cùng với pháp hữu vi làm nhân năng tác, cũng dùng hữu vi làm quả tăng thượng. Pháp hữu vi không cùng với pháp vô vi làm nhân năng tác, cũng không dùng hữu vi làm quả tăng thượng. Pháp vô vi không cùng với pháp vô vi làm nhân năng tác, cũng không dùng vô vi làm quả tăng thượng. Pháp vô vi cùng với pháp hữu vi tuy làm nhân năng tác, nhưng không dùng vô vi kia làm quả tăng thượng, vì không có công dụng nhận quả cho quả.
Hỏi: Vì sao pháp hữu vi có nhân có quả, còn pháp vô vi không có nhân, không có quả?
Đáp: Vì pháp hữu vi lưu chuyển ở thế gian nên có nhân có quả, còn pháp vô vi không như thế, nên không có nhân quả. Như người đi xa cần chuẩn bị đủ lương thực mới có thể đi tới nơi mình định đến, không phải là người không đi.
Lại nữa, pháp hữu vi có tác dụng nên có nhân có quả, còn pháp vô vi không như thế, nên không có nhân quả. Như người làm công việc phải chuẩn bị đầy đủ dụng cụ hành tác mới có thể thành tựu, không phải người không làm công việc.
Lại nữa, pháp hữu vi có sinh diệt nên có nhân có quả, còn pháp vô vi không như thế, nên không có nhân quả.
Lại nữa, pháp hữu vi có hòa hợp nên có nhân có quả, còn pháp vô vi không như thế, nên không có nhân quả.
Lại nữa, pháp hữu vi có ba tướng nên có nhân có quả, còn pháp vô vi không như thế, nên không có nhân quả.
Lại nữa, vì tánh của pháp hữu vi yếu kém nên có nhân, có tác dụng nên có quả. Như kẻ ốm yếu phải nương dựa vào người khác mới đứng vững được, không phải như người khỏe mạnh. Pháp vô vi không như thế, nên không có nhân quả.
Lại nữa, pháp hữu vi như vua, như quyến thuộc của vua, như kẻ giàu sang, như quyến thuộc của kẻ giàu sang, như Nhân-đà-la, như quyến thuộc của Nhân-đà-la, nên có nhân có quả. Pháp vô vi không như thế, nên không có nhân quả.
Hỏi: Pháp hữu vi không sinh là do pháp hữu vi gây trở ngại hay là do pháp vô vi gây trở ngại nên không sinh?
Đáp: Do pháp hữu vi gây trở ngại nên khiến pháp hữu vi không khởi hiện được, không phải do pháp vô vi. Pháp vô vi cùng với pháp hữu vi làm nhân năng tác, đối với tất cả thời đều không gây chướng ngại. Như nước nơi rãnh, nơi ngòi nếu không tuôn chảy được là tự vì nhân nào khác, không phải vì ngòi rãnh bị lấp.
Hỏi: Khi pháp vô vi cùng với pháp hữu vi làm nhân năng tác và tăng thượng duyên thì pháp nào là hơn, là duyên nơi pháp kia hay pháp nào khác?
Đáp: Là cùng không sai biệt, như hai đống hạt đậu. Nếu pháp vô vi cùng với pháp hữu vi làm sở duyên duyên thì có đúng, có không đúng.
Lại nữa, pháp quá khứ cùng với pháp quá khứ làm nhân năng tác, cũng lấy pháp hữu vi làm quả tăng thượng. Pháp quá khứ cùng với pháp vị lai, hiện tại làm nhân năng tác, cũng lấy hữu vi làm quả tăng thượng. Nghĩa là nói: Nếu tôi không cùng với ông làm nhân năng tác gần thì ông sẽ không có nhân, nhưng pháp hữu vi không có không nhân. Pháp vị lai cùng với pháp vị lai làm nhân năng tác cũng lấy hữu vi làm quả tăng thượng.
Pháp vị lai cùng với pháp quá khứ, hiện tại làm nhân năng tác, nhưng không lấy hữu vi làm quả tăng thượng. Vì sao? Vì quả cùng với nhân là cùng có, hoặc về sau có. Nghĩa là nói: Nếu tôi không cùng với ông làm nhân năng tác gần thì ông tức không có quả, nhưng pháp hữu vi không có không quả. Pháp hiện tại cùng với pháp hiện tại làm nhân năng tác cũng lấy hữu vi làm quả tăng thượng.
Pháp hiện tại cùng với pháp vị lai làm nhân năng tác, cũng lấy hữu vi làm quả tăng thượng. Nghĩa là nói: Nếu tôi không cùng với ông làm nhân năng tác gần thì ông không có nhân, nhưng pháp hữu vi không có không nhân. Pháp hiện tại cùng với pháp quá khứ làm nhân năng tác, nhưng không dùng hữu vi làm quả tăng thượng, vì quả cùng với nhân là cùng có, hoặc về sau có. Nghĩa là nói: Nếu tôi không cùng với ông làm nhân năng tác gần thì ông tức không có quả, nhưng pháp hữu vi không có không quả.
Hỏi: Vì sao pháp sau cùng với pháp trước làm nhân năng tác, nhưng pháp trước không phải là quả tăng thượng của pháp sau?
Đáp: Vì nghĩa không chướng ngại là nghĩa của nhân năng tác. Vì pháp sau đối với pháp trước không làm chướng ngại nên được làm nhân năng tác. Quả tất là sức của nhân đã nhận lấy và cho. Vì pháp sau đối với pháp trước không có lực dụng nhận lấy và cho, do vậy pháp trước không phải là quả của pháp sau. Như pháp hữu vi lấy pháp vô vi làm nhân năng tác, nhưng không phải là quả kia vì vô vi không có lực dụng nhận quả và cho quả.
Lại nữa, pháp thiện cùng với pháp thiện làm nhân năng tác, cũng lấy pháp thiện kia làm quả tăng thượng. Pháp thiện cùng với pháp bất thiện, vô ký làm nhân năng tác, cũng lấy pháp thiện kia làm quả tăng thượng. Pháp bất thiện cùng với pháp bất thiện làm nhân năng tác, cũng lấy pháp bất thiện kia làm quả tăng thượng. Pháp bất thiện cùng với pháp thiện, vô ký làm nhân năng tác, cũng lấy pháp bất thiện kia làm quả tăng thượng. Pháp vô ký cùng với pháp vô ký làm nhân năng tác, cũng dùng pháp vô ký kia làm quả tăng thượng. Pháp vô ký cùng với pháp thiện, bất thiện làm nhân năng tác, cũng lấy pháp vô ký làm quả tăng thượng.
Như pháp thiện, bất thiện, vô ký lần lượt làm nhân năng tác và quả tăng thượng, pháp hệ thuộc, không hệ thuộc ba cõi cũng như thế. Pháp học, vô học, phi học phi vô học; pháp do kiến đạo đoạn, do tu đạo đoạn, không đoạn; pháp có sắc, không sắc; pháp có thấy, không thấy; pháp có đối, không đối; pháp hữu lậu, vô lậu; pháp tương ưng, không tương ưng v.v… nên biết cũng như thế.
Lại nữa, có pháp thiện cùng với pháp thiện làm nhân năng tác gần, như do nghiệp thiện sinh vào nhà ưa làm điều thiện, sinh rồi lại có khả năng tu tập nhiều hành diệu. Có pháp thiện cùng với pháp bất thiện làm nhân năng tác gần, như do nghiệp thiện sinh vào gia đình giàu sang, sinh rồi thì phóng dật, tạo nhiều hành ác.
Có pháp bất thiện cùng với pháp bất thiện làm nhân năng tác gần, như do nghiệp bất thiện sinh vào nhà không luật nghi, sinh rồi lại tạo rất nhiều hành ác. Có pháp bất thiện cùng với pháp bất thiện làm nhân năng tác gần, như do nghiệp bất thiện, thân gặp phải bệnh khổ não, hoặc mất của cải địa vị sinh tâm chán nản, ăn năn, tu các hành diệu.
Có pháp bên trong cùng với pháp bên trong làm nhân năng tác gần, như một hữu tình cung cấp cho đa số người. Có pháp bên trong cùng với pháp bên ngoài làm nhân năng tác gần, như các nhà nông gieo giống, cấy lúa, gặt hái.
Có pháp bên ngoài cùng với pháp bên ngoài làm nhân năng tác gần, như nước, phân bón v.v… giúp cho lúa mạ được sinh trưởng. Có pháp bên ngoài cùng với pháp bên trong làm nhân năng tác gần, như việc ăn uống v.v… giúp nuôi lớn hũu tình.
Có pháp một nẻo cùng với pháp năm nẻo làm nhân năng tác gần, như có nhiều người cùng ăn thịt một con dê, thân họ cường tráng rồi, có người tạo nghiệp thiện, có kẻ gây nghiệp ác. Người tạo nghiệp thiện được sinh trong nẻo người, trời, còn kẻ gây nghiệp ác bị đọa vào ba nẻo ác.
Hỏi: Nếu một hữu tình khi giết hại mạng sống, tất cả hữu tình không ngăn chận thì kẻ sát sinh ấy tất cùng với mình làm nhân năng tác, vì sao không phải tất cả cùng phạm tội giết hại?
Đáp: Kẻ có khả năng giết hại kia khởi gia hạnh sát sinh, cũng làm cho quả tràn đầy nên mắc tội giết hại. Những hữu tình khác không như thế, nên không phạm tội giết hại
Lại nữa, kẻ sát sinh kia khởi tâm ác, cũng đoạn mạng người khác, nên phạm tội giết hại. Những người khác thì không như thế, nên không phạm tội sát hại. Các đạo nghiệp khác căn cứ theo đây nên nhận biết.
Hỏi: Các thứ tài sản, vật dụng bên ngoài, đều là cộng nghiệp của tất cả hữu tình đã tạo dựng, vì sao kẻ trộm chỉ phạm tội đối với chủ có của cải, không phải là người khác?
Đáp: Vì chủ có của cải đã thâu nhận, gìn giữ chúng, người khác thì không như thế, vì vậy kẻ trộm chỉ đắc tội với chủ tài sản, không phải với người khác.
Lại nữa, chủ tài sản đối với của cải khởi tưởng mình có của cải ấy. Kẻ trộm đối với tài sản kia có ý tưởng mình là chủ, nên chỉ mắc tội với chủ kia, không phải là người khác.
Lại nữa, nếu tài sản, vật dụng đối với chủ có của cải kia là quả sĩ dụng và quả tăng thượng, thì kẻ trộm mắc tội đối với chủ đó. Khi của cải, vật dụng đối với tất cả hữu tình khác là quả tăng thượng, không phải là quả sĩ dụng, thì kẻ trộm đối với chủ kia không mắc tội.
Hỏi: Quả sĩ dụng và quả tăng thượng có sai biệt gì?
Đáp: Tạo công sức để được là quả sĩ dụng. Không bị trở ngại mà được là quả tăng thượng.
Lại nữa, của cải vật dụng đối với người tạo ra là quả sĩ dụng, đối với người sử dụng là quả tăng thượng. Như các quả thật đối với người gieo trồng là quả sĩ dụng, cũng là quả tăng thượng, đối với người ăn dùng chỉ là quả tăng thượng. Như các thứ của cải vật dụng đối với người mưu cầu là quả sĩ dụng, cũng là quả tăng thượng, đối với người thọ dụng chỉ là quả tăng thượng.
Hỏi: Các vật như núi Tô-mê-lô (Tu-di) các châu, bãi v.v… nơi khí thế giới này là cộng nghiệp của hết thảy hữu tình đã khởi hiện, trong đó, nếu có người nhập Niết-bàn thì vì sao các vật này không giảm thiểu?
Đáp: Tôn giả Thế Hữu nói: Nếu vật là quả sĩ dụng và quả tăng thượng gần của các hữu tình kia thì cũng có giảm thiểu. Vì núi Tômê-lô v.v… chỉ là quả tăng thượng xa đối với các hữu tình kia, nên không giảm thiểu.
Tôn giả nói tiếp: Tô-mê-lô v.v… là do cộng nghiệp của tất cả hữu tình đã khởi hiện. Giả sử trong đó chỉ có một hữu tình tồn tại, thì do nghiệp lực của người đó đã nhận giữ, nên cũng không giảm thiểu. Huống chi là có vô lượng, vô biên hữu tình đều chưa diệt độ. Như người giàu sang, tuy đã mạng chung, nhưng tất cả cung điện, vườn rừng, voi, ngựa của kẻ ấy đều không ẩn mất theo, là do nghiệp lực của các hữu tình khác đã giữ lấy. Đây cũng như thế.
Tôn giả lại nói: Ở đây, tuy có vô lượng hữu tình được nhập Niết-bàn và sinh vào nơi khác, lại có vô lượng vô biên hữu tình khác sinh đến cõi này, do nghiệp lực của chúng nên không giảm thiểu.
Tôn giả Giác Thiên nói: Đây là lực của nghiệp quá khứ đã duy trì nên không giảm thiểu.
Như Chuyển luân vương đối với bốn châu, bãi đều được tự tại đó là quả gì?
Đáp: Oai lực của tự thân là quả dị thục, vật dụng được thống lãnh là quả tăng thượng. Vị vua kia ở nơi quá khứ đã tu tập đầy đủ các nghiệp thiện của tự thân tăng thượng, nên ngày nay có được hai quả thù thắng như thế.
Lại nữa, có ba thứ tăng thượng: 1. Tự tăng thượng. 2. Đời tăng thượng. 3. Pháp tăng thượng.
Tự tăng thượng: Nghĩa là như có một loại hữu tình phiền não chưa đoạn, cảnh ác hiện tiền, nhưng vì tự giữ gìn nên không khởi nghiệp ác. Đừng khiến ta do đấy mà bị đọa vào các nẻo ác.
Đời tăng thượng: Nghĩa là như có một loại hữu tình phiền não chưa đoạn, cảnh ác hiện tiền, vì giữ gìn thế gian nên không khởi nghiệp ác. Đừng khiến ta do đấy mà bị người đời chê cười.
Có thuyết nói: Đừng cho do ta mà hữu tình thế gian gây tạo các nghiệp ác.
Pháp tăng thượng: Nghĩa là như có một loại hữu tình phiền não chưa đoạn, cảnh ác hiện tiền, vì giữ gìn pháp nên không khởi nghiệp ác. Đừng cho do ta nên khiến các thế gian khinh chê chánh pháp.
Ba thứ tăng thượng này tức là nhân năng tác gần.
Hỏi: Vì sao ba thứ này gọi là tăng thượng?
Đáp: Do đối với pháp thiện không gây chướng ngại, là tăng thượng duyên gần gũi của pháp thiện.
Hỏi: Lực của nhân năng tác có tăng, giảm chăng?
Đáp: Có. Như khi nhiều người cùng kéo một khúc gỗ lớn, trong đó có người tận lực, có kẻ không tận lực. Người tận lực là nhân năng tác tăng. Kẻ không tận lực là nhân năng tác giảm. Như về sau, lúc kéo gỗ để cất chùa, kéo thuyền, chuyển đá v.v… nên biết cũng như thế.
Như trong đối với ngoài, hoặc ngoài đối với trong, ngoài trong tự đối chiếu với nhau, cũng lại như thế.
Hỏi: Nhân năng tác với quả tăng thượng thứ nào nhiều?
Đáp: Nhân năng tác nhiều, quả tăng thượng ít. Do nhân năng tác gồm thâu hết thảy pháp hữu vi, vô vi, còn quả tăng thượng chỉ gồm có pháp hữu vi. Do đấy nên nói như thế.
Hỏi: Từng có pháp đối với pháp không phải là nhân năng tác chăng?
Đáp: Có. Nghĩa là tự tánh đối với tự tánh.
Hỏi: Từng có pháp đối với tha tánh không phải là nhân năng tác chăng?
Đáp: Có. Nghĩa là hữu vi đối với vô vi và vô vi đối với vô vi.
Hỏi: Nhân năng tác lấy gì làm tự tánh?
Đáp: Lấy tất cả pháp.
Đã nói về tự tánh, về lý do nay sẽ nói.
Hỏi: Vì sao gọi là nhân năng tác? Năng tác là nghĩa gì?
Đáp: Nghĩa không chướng ngại là nghĩa của năng tác. Nghĩa có tạo tác là nghĩa của năng tác. Nhân năng tác này quyết định thông hợp cả ba đời và pháp lìa thế gian có quả tăng thượng.
Như thế là đã hiển bày về tự tánh của sáu nhân. Nay sẽ lại hiển bày về nghĩa xen tạp, không xen tạp của sáu nhân:
Hỏi: Nếu pháp là nhân tương ưng, pháp đó cũng là nhân câu hữu chăng?
Đáp: Nếu pháp là nhân tương ưng, pháp đó cũng là nhân câu hữu. Có pháp là nhân câu hữu, pháp đó không phải là nhân tương ưng: Nghĩa là pháp hữu vi không tương ưng.
Nếu pháp là nhân tương ưng, pháp đó cũng là nhân đồng loại chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:
1. Có pháp là nhân tương ưng không phải là nhân đồng loại: Nghĩa là pháp tương ưng với vị lai.
2. Có pháp là nhân đồng loại không phải là nhân tương ưng: Nghĩa là pháp không tương ưng với quá khứ, hiện tại.
3. Có pháp là nhân tương ưng cũng là nhân đồng loại: Nghĩa là pháp tương ưng với quá khứ, hiện tại.
4. Có pháp không phải là nhân tương ưng cũng không phải là nhân đồng loại: Nghĩa là pháp không tương ưng với vị lai và pháp vô vi.
Hỏi: Nếu pháp là nhân tương ưng, pháp đó cũng là nhân biến hành chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:
1. Có pháp là nhân tương ưng không phải là nhân biến hành: Nghĩa là trừ tùy miên biến hành của quá khứ, hiện tại và pháp tương ưng với tùy miên kia, còn lại là các pháp tương ưng.
2. Có pháp là nhân biến hành không phải là nhân tương ưng: Nghĩa là tùy miên biến hành của quá khứ, hiện tại và sinh, trụ, lão, vô thường, cùng pháp tương ưng với tùy miên kia.
3. Có pháp là nhân tương ưng cũng là nhân biến hành: Nghĩa là tùy miên biến hành của quá khứ, hiện tại và pháp tương ưng với tùy miên đó.
4. Có pháp không phải là nhân tương ưng cũng không phải là nhân biến hành: Nghĩa là trừ tùy miên biến hành của quá khứ, hiện tại và pháp tương ưng với tùy miên kia, cùng sinh, lão, trụ, vô thường, còn lại là các pháp không tương ưng.
Hỏi: Nếu pháp là nhân tương ưng, pháp đó cũng là nhân dị thục chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:
1. Có pháp là nhân tương ưng không phải là nhân dị thục: Nghĩa là pháp tương ưng với vô ký, vô lậu.
2. Có pháp là nhân dị thục không phải là nhân tương ưng: Nghĩa là pháp không tương ưng với bất thiện, thiện hữu lậu.
3. Có pháp là nhân tương ưng cũng là nhân dị thục: Nghĩa là pháp tương ưng với bất thiện, thiện hữu lậu.
4. Có pháp không phải là nhân tương ưng cũng không phải là nhân dị thục: Nghĩa là pháp không tương ưng với vô ký, vô lậu.
Hỏi: Nếu pháp là nhân tương ưng, pháp đó cũng là nhân năng tác chăng?
Đáp: Nếu pháp là nhân tương ưng, pháp đó cũng là nhân năng tác. Có pháp là nhân năng tác, pháp đó không phải là nhân tương ưng: Nghĩa là pháp không tương ưng.
Hỏi: Nếu pháp là nhân câu hữu, pháp đó cũng là nhân đồng loại chăng?
Đáp: Nếu pháp là nhân đồng loại, pháp đó cũng là nhân câu hũu. Có pháp là nhân câu hữu, pháp đó không phải là nhân đồng loại: Nghĩa là pháp vị lai.
Hỏi: Nếu pháp là nhân câu hữu, pháp đó cũng là nhân biến hành chăng?
Đáp: Nếu pháp là nhân biến hành, pháp đó cũng là nhân câu hữu. Có pháp là nhân câu hữu, pháp đó không phải là nhân biến hành: Nghĩa là trừ tùy miên biến hành của quá khứ, hiện tại và pháp câu hữu tương ưng với tùy miên kia, còn lại là các pháp hữu vi khác.
Nếu pháp là nhân câu hữu, pháp đó cũng là nhân dị thục chăng?
Đáp: Nếu pháp là nhân dị thục, pháp đó cũng là nhân câu hữu. Có pháp là nhân câu hữu, pháp đó không phải là nhân dị thục: Nghĩa là pháp hữu vi vô ký, vô lậu.
Hỏi: Nếu pháp là nhân câu hữu, pháp đó cũng là nhân năng tác chăng?
Đáp: Nếu pháp là nhân câu hữu, pháp đó cũng là nhân năng tác. Có pháp là nhân năng tác, pháp đó không phải là nhân câu hữu: Nghĩa là pháp vô vi.
Hỏi: Nếu pháp là nhân đồng loại, pháp đó cũng là nhân biến hành chăng?
Đáp: Nếu pháp là nhân biến hành, pháp đó cũng là nhân đồng loại. Có pháp là nhân đồng loại, pháp đó không phải là nhân biến hành: Nghĩa là trừ tùy miên biến hành của quá khứ, hiện tại và pháp câu hữu tương ưng với tùy miên kia, còn lại là các pháp quá khứ, hiện tại.
Hỏi: Nếu pháp là nhân đồng loại, pháp đó cũng là nhân dị thục chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp
1. Có pháp là nhân đồng loại không phải là nhân dị thục: Nghĩa là pháp vô lậu, vô ký của quá khứ, hiện tại.
2. Có pháp là nhân dị thục không phải là nhân đồng loại: Nghĩa là pháp hữu lậu thiện, bất thiện ở vị lai.
3. Có pháp là nhân đồng loại cũng là nhân dị thục: Nghĩa là pháp hữu lậu thiện, bất thiện ở quá khứ, hiện tại.
4. Có pháp không phải là nhân đồng loại cũng không phải là nhân dị thục: Nghĩa là pháp vô lậu, vô ký ở vị lai và pháp vô vi.
Hỏi: Nếu pháp là nhân đồng loại, pháp đó cũng là nhân năng tác chăng?
Đáp: Nếu pháp là nhân đồng loại, pháp đó cũng là nhân năng tác. Có pháp là nhân năng tác, pháp đó không phải là nhân đồng loại: Nghĩa là pháp vị lai và pháp vô vi.
Hỏi: Nếu pháp là nhân biến hành, pháp đó cũng là nhân dị thục chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:
1. Có pháp là nhân biến hành không phải là nhân dị thục: Nghĩa là tùy miên biến hành vô ký nơi quá khứ, hiện tại và pháp câu hữu tương ưng với tùy miên kia.
2. Có pháp là nhân dị thục không phải là nhân biến hành: Nghĩa là trừ tùy miên biến hành bất thiện nơi quá khứ, hiện tại và pháp câu hữu tương ưng với tùy miên kia, còn lại là các pháp hữu lậu thiện, bất thiện.
3. Có pháp là nhân biến hành cũng là nhân dị thục: Nghĩa là tùy miên biến hành bất thiện nơi quá khứ, hiện tại và pháp câu hữu tương ưng với tùy miên kia.
4. Có pháp không phải là nhân biến hành cũng không phải là nhân dị thục: Nghĩa là trừ tùy miên biến hành vô ký nơi quá khứ, hiện tại và pháp câu hữu tương ưng với tùy miên kia, còn lại là các pháp vô ký và pháp vô lậu.
Hỏi: Nếu pháp là nhân biến hành, pháp đó cũng là nhân năng tác chăng?
Đáp: Nếu pháp là nhân biến hành, pháp đó cũng là nhân năng tác. Có pháp là nhân năng tác, pháp đó không phải là nhân biến hành: Nghĩa là trừ tùy miên biến hành nơi quá khứ, hiện tại và pháp câu hữu tương ưng với tùy miên kia, còn lại là tất cả pháp khác.
Nếu pháp là nhân dị thục, pháp đó cũng là nhân năng tác chăng?
Đáp: Nếu pháp là nhân dị thục, pháp đó cũng là nhân năng tác. Có pháp là nhân năng tác, pháp đó không khải là nhân dị thục: Nghĩa là pháp vô ký và pháp vô lậu.
Hỏi: Trong sáu nhân này, bao nhiêu thứ là sắc, bao nhiêu thứ là phi sắc?
Đáp: Hai nhân chỉ là phi sắc là nhân tương ưng và nhân biến hành. Ngoài ra đều chung cho cả sắc, phi sắc.
Như sắc, phi sắc, thì có thấy, không thấy, có đối, không đối, có chấp thọ, không chấp thọ, là nuôi lớn, không phải nuôi lớn, là đại chủng, không phải đại chủng, là sắc tạo, không phải sắc tạo cũng như thế.
Hỏi: Sáu nhân này, bao nhiêu thứ là hữu lậu, bao nhiêu thứ là vô lậu?
Đáp: Hai nhân chỉ là hữu lậu là nhân biến hành, nhân dị thục. Ngoài ra đều chung cho hữu lậu, vô lậu.
Hỏi: Sáu nhân này, bao nhiêu thứ là hữu vi, bao nhiêu thứ là vô vi?
Đáp: Năm nhân chỉ là hữu vi. Một nhân chung cho hữu vi và vô vi là nhân năng tác.
Hỏi: Sáu nhân này, bao nhiêu thứ là quá khứ, vị lai, hiện tại?
Đáp: Ba nhân chung cho cả ba đời là nhân tương ưng, nhân câu hữu, nhân dị thục. Hai nhân chỉ là quá khứ, hiện tại là nhân đồng loại, nhân biến hành. Một nhân chung cho ba đời, cũng lìa thế gian, là nhân năng tác.
Hỏi: Sáu nhân này, bao nhiêu thứ là thiện, bất thiện, vô ký?
Đáp: Một nhân chỉ là bất thiện, vô ký là nhân biến hành. Một nhân chỉ là thiện, bất thiện là nhân dị thục. Ngoài ra đều chung cho cả ba thứ.
Hỏi: Sáu nhân này, bao nhiêu thứ thuộc về cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc?
Đáp: Hai nhân chỉ thuộc về ba cõi là nhân biến hành và dị thục. Ngoài ra đều hệ thuộc chung cả ba cõi và không hệ thuộc.
Hỏi: Sáu nhân này, bao nhiêu thứ là học, vô học, phi học phi vô học?
Đáp: Hai nhân chỉ là phi học phi vô học là nhân biến hành và nhân dị thục. Ngoài ra là chung cho cả ba thứ.
Hỏi: Sáu nhân này, bao nhiêu thứ do kiến đạo đoạn, do tu đạo đoạn, do không đoạn?
Đáp: Một nhân chỉ do kiến đạo đoạn là nhân biến hành. Một nhân chỉ do kiến đạo đoạn, tu đạo đoạn là nhân dị thục. Các nhân còn lại chung cho cả ba thứ.
Hỏi: Sáu nhân này, bao nhiêu thứ là nhiễm ô, bao nhiêu thứ là không nhiễm ô?
Đáp: Một nhân chỉ là nhiễm ô là nhân biến hành. Ngoài ra đều chung cho cả hai thứ.
Như nhiễm ô, không nhiễm ô, thì có tội, không có tội, đen, trắng, hữu phú, vô phú, thoái chuyển, không thoái chuyển, cũng như thế.
Hỏi: Sáu nhân này, bao nhiêu thứ là có dị thục, bao nhiêu thứ không có dị thục?
Đáp: Một nhân có dị thục là nhân dị thục. Các nhân khác đều chung cho cả hai thứ.
Sáu nhân này, bao nhiêu thứ là dị thục, bao nhiêu thứ không phải là dị thục?
Đáp: Hai nhân không phải là dị thục là nhân biến hành, nhân dị thục. Ngoài ra là chung cho cả hai thứ.
Hỏi: Sáu nhân này, bao nhiêu thứ là tương ưng, bao nhiêu thứ là không tương ưng?
Đáp: Một nhân chỉ là tương ưng là nhân tương ưng. Ngoài ra là chung cho cả hai thứ.
Như tương ưng, không tương ưng, thì có chỗ nương dựa, không có chỗ nương dựa, có đối tượng duyên, không có đối tượng duyên, có hành tướng, không hành tướng, có cảnh giác, không cảnh giác, có đẳng vô gián, không có đẳng vô gián, cũng như thế.
Hỏi: Sáu nhân này, bao nhiêu thứ thuộc về bốn đế, bao nhiêu thứ không phải thuộc về bốn đế?
Đáp: Hai nhân chỉ thuộc về khổ đế, tập đế, là nhân biến hành, nhân dị thục. Ba nhân chỉ thuộc về khổ đế, tập đế, đạo đế, là nhân tương ưng, nhân câu hữu, nhân đồng loại. Một nhân chung cho cả bốn đế và không thuộc về đế là nhân năng tác.
Hỏi: Sáu nhân này, bao nhiêu thứ thuộc về năm uẩn, bao nhiêu thứ không phải thuộc về năm uẩn?
Đáp: Hai nhân chỉ thuộc về bốn uẩn, trừ sắc uẩn, là nhân tương ưng và nhân biến hành. Ba nhân thuộc chung về năm uẩn là nhân câu hữu, nhân đồng loại, nhân dị thục. Một nhân thuộc chung cho cả năm uẩn và không thuộc về uẩn là nhân năng tác.
Hỏi: Sáu nhân này, bao nhiêu thứ thuộc về xứ?
Đáp: Hai nhân chỉ thuộc về ý xứ, pháp xứ là nhân tương ưng và nhân biến hành. Một nhân chỉ thuộc về sắc, thanh, ý, pháp xứ là nhân dị thục. Ba nhân thuộc chung cả mười hai xứ là các nhân câu hữu, nhân đồng loại, nhân năng tác.
Hỏi: Sáu nhân này, bao nhiêu thứ thuộc về giới?
Đáp: Một nhân chỉ thuộc về ý, pháp, ý thức giới là nhân biến hành. Một nhân chỉ thuộc về bảy tâm pháp giớiđó là nhân tương ưng. Một nhân chỉ thuộc về sắc, thanh, bảy tâm pháp giới là nhân dị thục. Ba nhân thuộc chung về mười tám giới, là nhân câu hữu, nhân đồng loại và nhân năng tác.
Hỏi: Sáu nhân như thế, nhân nào có quả nào?
Đáp: Nhân tương ưng, nhân câu hữu có quả sĩ dụng. Nhân đồng loại, nhân biến hành có quả đẳng lưu. Nhân dị thục có quả dị thục. Nhân năng tác có quả tăng thượng. Về quả giải thoát: Là đạo đã chứng đắc không phải do nhân mà được.
Hỏi: Sáu nhân như thế, vào lúc nào nhận quả, vào lúc nào cho quả?
Đáp: Nhân tương ưng và nhân câu hữu: hiện tại nhận quả, hiện tại cho quả. Một sát-na nhận quả, một sát-na cho quả, nhận quả một sát-na, cho quả một sát-na.
Nhân đồng loại, nhân biến hành: hiện tại nhận quả, quá khứ, hiện tại cho quả. Một sát-na nhận quả, nhiều sát-na cho quả, nhận nhiều quả sát-na, cho nhiều quả sát-na.
Nhân dị thục: hiện tại nhận quả, quá khứ cho quả. Một sát-na nhận quả, nhiều sát-na cho quả, nhận quả nhiều sát-na, cho quả trong nhiều sát-na.
Nhân năng tác, có thuyết nói: Hiện tại nhận quả, quá khứ, hiện tại cho quả. Một sát-na nhận quả, nhiều sát-na cho quả, nhận nhiều quả sát-na, cho nhiều quả sát-na.
Có Sư khác nói: Nhân năng tác này quá khứ, hiện tại nhận quả, quá khứ, hiện tại cho quả. Nhiều sát-na nhận quả, nhiều sát-na cho quả. Hoặc lúc nhận quả tức có thể cho quả, ngoài ra như trước đã nói.
Nếu có thể nhận biết rõ sáu nhân như thế, tức đối với bốn quả có thể soi xét rõ ràng, như xem trái ngọt v.v… khác trong lòng bàn tay.
Lại nữa, tác dụng của các pháp tất nhờ nơi nhân duyên. Nhân đã biện luận rộng, tiếp theo nên nói về duyên.
Duyên có bốn thứ như Luận Thi Thiết và chương Kiến Uẩn đã biện minh. Tuy nhiên Luận Thi Thiết nêu bày như vầy: Có pháp là Nhân duyên, pháp đó cũng là Đẳng vô gián duyên, cũng là Sở duyên duyên, cũng là Tăng thượng duyên. Cho đến có pháp là Tăng thượng duyên, pháp đó cũng là Nhân duyên, cũng là Đẳng vô gián duyên, cũng là Sở duyên duyên.
Hỏi: Trong tất cả pháp có khả năng làm bốn duyên: Là như tâm tâm sở pháp. Có khả năng làm ba duyên: Như sắc, tâm bất tương ưng hành. Có khả năng làm hai duyên: Như pháp vô vi. Vì sao Luận Thi Thiết nói có pháp là Nhân duyên, pháp đó cũng là Đẳng vô gián duyên, cho đến nói rộng?
Đáp: Luận kia căn cứ vào sự dung nạp có được nên nói như thế. Nghĩa là trong các pháp có tâm tâm sở hội đủ tánh của bốn duyên, không nói tất cả pháp đều làm bốn duyên. Nếu xét tận lý thì nên nói như vậy.
Hỏi: Nếu pháp là Nhân duyên, pháp đó cũng là Đẳng vô gián duyên chăng?
Đáp: Nếu pháp là Đẳng vô gián duyên, pháp đó cũng là Nhân duyên. Có pháp là Nhân duyên, pháp đó không phải là Đẳng vô gián duyên: Nghĩa là trừ tâm tâm sở pháp không phải là sau cùng của quá khứ, hiện tại, còn lại là tất cả pháp hữu vi.
Hỏi: Nếu pháp là Nhân duyên, pháp đó cũng là Sở duyên duyên chăng?
Đáp: Nếu pháp là Nhân duyên, pháp đó cũng là Sở duyên duyên. Có pháp là Sở duyên duyên, pháp đó không phải là Nhân duyên: Nghĩa là pháp vô vi.
Hỏi: Nếu pháp là Nhân duyên, pháp đó cũng là Tăng thượng duyên chăng?
Đáp: Nếu pháp là Nhân duyên, pháp đó cũng là Tăng thượng duyên. Có pháp là Tăng thượng duyên , pháp đó không phải là Nhân duyên: Nghĩa là pháp vô vi.
Hỏi: Nếu pháp là Đẳng vô gián duyên, pháp đó cũng là Sở duyên duyên chăng?
Đáp: Nếu pháp là Đẳng vô gián duyên, pháp đó cũng là Sở duyên duyên. Có pháp là Sở duyên duyên, pháp đó không phải là Đẳng vô gián duyên: Nghĩa là trừ tâm tâm sở pháp không phải là sau cùng của quá khứ, hiện tại, còn lại là tất cả pháp khác.
Hỏi: Nếu pháp là Đẳng vô gián duyên, pháp đó cũng là Tăng thượng duyên chăng?
Đáp: Nếu pháp là Đẳng vô gián duyên, pháp đó cũng là Tăng thượng duyên. Có pháp là Tăng thượng duyên, pháp đó không phải là đẳng vô gián duyên: Nghĩa là trừ tâm tâm sở pháp không phải là sau cùng của quá khứ, hiện tại, còn lại là tất cả pháp khác.
Hỏi: Nếu pháp là Sở duyên duyên, pháp đó cũng là Tăng thượng duyên chăng?
Đáp: Như thế.
Hỏi: Nếu đối với một pháp hội đủ bốn duyên, chỉ nên lập một duyên sao lại lập bốn?
Đáp: Vì dựa vào tác dụng để lập, không dựa vào Thể của vật, vì trong Thể của một vật có bốn tác dụng. Nghĩa là tâm tâm sở pháp trong một sát-na đã dẫn khởi sát-na kế sau, là tâm tâm sở đồng loại, nên lập làm Nhân duyên. Tức đây là mở ra khiến cho tâm tâm sở pháp của sát-na kế sau được sinh, nên lập làm Đẳng vô gián duyên. Tức duyên này có khả năng khiến cho tâm tâm sở pháp ở sát-na kế sau nhận lấy cảnh, nên lập làm Sở duyên duyên. Tức duyên này không gây chướng ngại cho tâm tâm sở pháp thuộc sát-na kế sau, khiến chúng được sinh, nên lập làm Tăng thượng duyên. Ở đây, Nhân duyên như pháp hạt giống. Đẳng vô gián duyên như pháp mở mang, dẫn đường. Sở duyên duyên như pháp nắm giữ gậy dò tìm. Tăng thượng duyên như pháp không chướng ngại.
Quá khứ, hiện tại như thế v.v… không phải là tâm tâm sở pháp sau cùng, có đủ tánh của bốn duyên. Pháp hữu vi khác có tánh của ba duyên. Ba pháp vô vi có tánh của hai duyên, đều dựa vào nghĩa để nói. Không dựa vào Thể của vật, vì trong Thể của một vật có nhiều nghĩa. Như trong các pháp có khả năng hành tác.
Sáu nhân: Nghĩa là tùy miên biến hành bất thiện nơi quá khứ hiện tại và pháp tương ưng với tùy miên đó, có khả năng tạo tác.
Năm nhân: Nghĩa là tùy miên biến hành vô ký nơi quá khứ hiện tại và pháp tương ưng với tùy miên đó. Hoặc tùy miên biến hành bất thiện nơi quá khứ hiện tại và sinh, lão, trụ, vô thường, cùng pháp tương ưng với tùy miên kia. Hoặc tâm tâm sở pháp hữu lậu thiện, bất thiện, không phải là biến hành nơi quá khứ hiện tại, có khả năng tạo tác.
Bốn nhân: Nghĩa là tùy miên biến hành vô ký nơi quá khứ hiện tại và sinh, lão, trụ, vô thường cùng pháp tương ưng với tùy miên kia. Hoặc sắc, tâm bất tương ưng hành hữu lậu thiện, bất thiện, không phải là biến hành nơi quá khứ hiện tại. Hoặc tâm tâm sở pháp vô lậu nơi quá khứ hiện tại. Hoặc tâm tâm sở pháp vô ký, không phải là biến hành nơi quá khứ hiện tại. Hoặc tâm tâm sở pháp hữu lậu thiện, bất thiện ở vị lai, đều có khả năng tạo tác.
Ba nhân: Nghĩa là sắc, tâm bất tương ưng hành vô ký, không phải là biến hành nơi quá khứ hiện tại. Hoặc sắc, tâm bất tương ưng hành vô lậu nơi quá khứ hiện tại. Hoặc sắc, tâm bất tương ưng hành hữu lậu thiện, bất thiện nơi vị lai. Hoặc tâm tâm sở pháp vô lậu vô ký nơi vị lai, đều có khả năng tạo tác.
Hai nhân: Nghĩa là sắc, tâm bất tương ưng hành vô lậu vô ký nơi vị lai có khả năng tạo tác.
Một nhân: Nghĩa là pháp vô vi.
Như một pháp hữu vi có nhiều nhân nghĩa cùng không mâu thuẫn. Duyên cũng nên như thế.
Hỏi: Nếu thế thì nhân, duyên có sai biệt gì?
Đáp: Tôn giả Thế Hữu nói: Không có sai biệt. Vì nhân tức là duyên, duyên tức là nhân. Như Khế kinh nói: Hai nhân, hai duyên có thể phát sinh chánh kiến. Nghĩa là tiếng nói của người khác và bên trong tác ý như lý. Lại như Kinh Đại Nhân Duyên nói: Phật bảo Tôn giả A-nan: Chi lão tử có lý do như thế, có nhân như thế, có tập như thế, có sinh như thế, có duyên như thế, nghĩa là chi Sinh. Nên biết nhân duyên không có sai biệt.
Lại nói thế này: Nếu có đây tức có kia. Đây là nhân của kia, cũng là duyên của kia.
Hỏi: Do có chiếc bình nên có được sự hiểu biết về chiếc bình. Há sự hiểu biết về bình ấy chỉ có bình làm nhân chăng?
Đáp: Không phải chỉ có chiếc bình thì mới có được sự hiểu biết về bình, vì lúc không có chiếc bình, cũng có sự hiểu biết về bình. Tuy lúc có chiếc bình, không có sự hiểu biết về bình, nhưng vì có sự hòa hợp, nên có được sự nhận biết về chiếc bình. Thế nên sự hòa hợp là nhân duyên của sự nhận biết về bình.
Có thuyết nói: Hòa hợp là nhân, nhân của sự hòa hợp này gọi là duyên.
Hỏi: Nếu mỗi mỗi sự việc riêng không gọi là nhân thì các sự việc hòa hợp cũng nên không phải là nhân chăng?
Đáp: Như mỗi mỗi sự việc riêng không gọi là hòa hợp, nhưng nhiều sự tụ tập gọi là hòa hợp. Nên mỗi mỗi sự việc riêng không gọi là nhân, nhưng nhiều sự việc hòa hợp được gọi là nhân.
Lại có thuyết cho: Đồng loại là nhân, khác loại là duyên. Như lửa với lửa, lúa mì với mầm lúa mì, là gọi đồng loại.
Hỏi: Lúa mì với mầm lúa mì có đồng loại nào? Nếu đồng gọi lúa mì mà nên là đồng loại, tức nên đại chủng như ruộng, nước v.v… vì đồng nên cũng gọi là đồng loại? Thế thì ruộng, nước v.v… nên là nhân của lúa mì?
Đáp: Lại có thuyết nêu: Gần là nhân, xa là duyên.
Hỏi: Nếu thế thì nhân với đẳng vô gián duyên thành ra không khác nhau. Lại, tâm thiện vô gián khởi bất thiện, hoặc tâm vô ký nên là nhân không phải là duyên?
Đáp: Lại có thuyết biện: Không chung là nhân, chung là duyên.
Hỏi: Nếu thế thì mắt với nhãn thức nên là nhân không phải là duyên, vì không chung. Lại, lúa mì với mầm lúa mì và tro đất nên là duyên không phải là nhân, vì là chung?
Đáp: Lại có thuyết nói: Có khả năng sinh là nhân, tùy thuộc vào khả năng sinh là duyên.
Hỏi: Nếu thế thì chi sinh đối với lão tử nên không phải là duyên, vì tùy thuận với chi sinh. Hữu v.v… đối với lão tử nên không phải là nhân?
Đáp: Lại có thuyết nói: Khả năng nuôi lớn sự tự nối tiếp nhau là nhân. Khả năng nuôi lớn sự nối tiếp nhau của người khác là duyên.
Hỏi: Nếu thế thì duyên nơi tự nối tiếp nhau đã khởi tâm thiện, chỉ nuôi lớn sự tự nối tiếp nhau nên là nhân không phải là duyên?
Đáp: Đại đức nói: Chuyển là nhân, tùy chuyển là duyên. Gần là nhân, xa là duyên. Như gần xa, thì ở nơi này, nơi khác, hòa hợp, không hòa hợp, tại thân này, tại thân khác, nên biết cũng như thế.
Hỏi: Nếu thế thì đồng loại tùy chuyển nên là duyên không phải là nhân. Vô minh duyên hành v.v… nên là nhân không phải là duyên. Nên Thể của nhân duyên tuy không khác nhau nhưng nghĩa có sai biệt. Tức nghĩa của nhân là gần, nghĩa của duyên là xa.
Vì biểu thị nghĩa này, nên nói nhân có sáu, nói duyên có bốn.
Nếu không như thế, thì danh và số nên đồng.
HẾT – QUYỂN 21