LUẬN A TỲ ĐÀM BÁT KIỀN ĐỘ
Tác giả: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử
Hán dịch: Đời Phù Tần, Sa môn Tăng Già Đề Ba và Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 26

Kiền độ thứ 7: ĐỊNH

Phẩm 1: BÀN VỀ ĐẮC QUÁ KHỨ, phần 2

Hỏi: Các pháp vô sắc do tư duy đoạn sinh khởi, pháp đó nơi tâm của tư duy đoạn cùng có chăng?

Đáp: Hoặc pháp vô sắc do tư duy đoạn sinh khởi nơi tâm của tư duy đoạn cùng có. Hoặc pháp vô sắc do tư duy đoạn sinh khởi nơi tâm của kiến đế đoạn cùng có. Hoặc pháp vô sắc do tư duy đoạn sinh khởi nơi tâm không đoạn cùng có.

Thế nào là pháp vô sắc do tư duy đoạn sinh khởi nơi tâm của tư duy đoạn cùng có? Là các pháp tương ưng với tâm của tư duy đoạn kia, tâm ấy cùng có vô sắc do tư duy đoạn. Đây gọi là pháp vô sắc do tư duy đoạn sinh khởi nơi tâm của tư duy đoạn cùng có.

Thế nào là pháp vô sắc do tư duy đoạn sinh khởi nơi tâm của kiến đế đoạn cùng có? Là như tâm của kiến đế đoạn hoặc thoái, hoặc sinh, pháp do tư duy đoạn được sinh, như tâm của kiến đế đoạn an trụ, căn của tư duy đoạn được nuôi lớn, bốn đại tăng trưởng đẹp đẽ đầy đủ, pháp ấy là đắc, sinh, lão, vô thường. Đây gọi là pháp vô sắc do tư duy đoạn sinh khởi nơi tâm của kiến đế đoạn cùng có.

Thế nào là pháp vô sắc do tư duy đoạn sinh khởi nơi tâm không đoạn cùng có? Là như tâm không đoạn thắng tấn, pháp do tư duy đoạn được sinh, như tâm không đoạn an trụ, căn của tư duy đoạn được nuôi lớn, bốn đại tăng trưởng đẹp đẽ đầy đủ, pháp ấy là đắc, sinh, lão, vô thường. Đây gọi là pháp vô sắc do tư duy đoạn sinh khởi nơi tâm không đoạn cùng có.

Hỏi: Nếu như các pháp nơi tâm của tư duy đoạn cùng sinh, pháp đó là vô sắc do tư duy đoạn chăng?

Đáp: Hoặc pháp nơi tâm của tư duy đoạn cùng sinh là vô sắc do tư duy đoạn. Hoặc pháp nơi tâm của tư duy đoạn cùng sinh là vô sắc do kiến đế đoạn. Hoặc pháp nơi tâm của tư duy đoạn cùng sinh là vô sắc không đoạn.

Thế nào là pháp nơi tâm của tư duy đoạn cùng sinh là vô sắc do tư duy đoạn? Là các pháp tương ưng với tâm kia, tâm ấy cùng có vô sắc do tư duy đoạn. Đây gọi là pháp nơi tâm của tư duy đoạn cùng sinh là vô sắc do tư duy đoạn.

Thế nào là pháp nơi tâm của tư duy đoạn cùng sinh là vô sắc do kiến đế đoạn? Là như tâm của tư duy đoạn hoặc thoái, hoặc sinh, pháp do kiến đế đoạn được sinh. Đây gọi là pháp nơi tâm của tư duy đoạn cùng sinh là vô sắc do kiến đế đoạn.

Thế nào là pháp nơi tâm của tư duy đoạn cùng sinh là vô sắc không đoạn? Là như tâm của tư duy đoạn hoặc thoái, hoặc sinh, pháp không đoạn được sinh. Đây gọi là pháp nơi tâm của tư duy đoạn cùng sinh là vô sắc không đoạn.

Hỏi: Các pháp vô sắc không đoạn sinh khởi, pháp đó nơi tâm không đoạn cùng có chăng?

Đáp: Hoặc pháp vô sắc không đoạn sinh khởi nơi tâm không đoạn cùng có. Hoặc pháp vô sắc không đoạn sinh khởi nơi tâm của tư duy đoạn cùng có.

Thế nào là pháp vô sắc không đoạn sinh khởi nơi tâm không đoạn cùng có? Là các pháp tương ưng với tâm không đoạn kia, tâm ấy cùng có vô sắc không đoạn. Đây gọi là pháp vô sắc không đoạn sinh khởi nơi tâm không đoạn cùng có.

Thế nào là pháp vô sắc không đoạn sinh khởi nơi tâm của tư duy đoạn cùng có? Là như tâm của tư duy đoạn hoặc thoái, hoặc thắng tấn, pháp không đoạn được sinh. Đây gọi là pháp vô sắc không đoạn sinh khởi nơi tâm của tư duy đoạn cùng có.

Hỏi: Nếu như các pháp nơi tâm không đoạn cùng sinh, pháp đó là vô sắc không đoạn chăng?

Đáp: Hoặc pháp nơi tâm không đoạn cùng sinh là vô sắc không đoạn. Hoặc pháp nơi tâm không đoạn cùng sinh là vô sắc do tư duy đoạn.

Thế nào là pháp nơi tâm không đoạn cùng sinh là vô sắc không đoạn? Là các pháp tương ưng với tâm không đoạn kia, tâm ấy cùng có vô sắc không đoạn. Đây gọi là pháp nơi tâm không đoạn cùng sinh là vô sắc không đoạn.

Thế nào là pháp nơi tâm không đoạn cùng sinh là vô sắc do tư duy đoạn? Là như tâm không đoạn thắng tấn, pháp do tư duy đoạn được sinh, như tâm không đoạn an trụ, căn của tư duy đoạn được nuôi lớn, bốn đại tăng trưởng đẹp đẽ đầy đủ, pháp ấy là đắc, sinh, lão, vô thường. Đây gọi là pháp nơi tâm không đoạn cùng sinh là vô sắc do tư duy đoạn.

Hỏi: Tất cả thiền thứ nhất đều có năm chi chăng?

Đáp: Không nhiễm ô có năm, nhiễm ô không có năm.

Những gì là không có? Đáp: Viễn ly hỷ lạc (Ly sinh hỷ lạc).

Hỏi: Tất cả thiền thứ hai đều có bốn chi chăng?

Đáp: Không nhiễm ô có bốn, nhiễm ô không có bốn.

Những gì là không có? Đáp: Không có nội tín (Nội đẳng tịnh).

Hỏi: Tất cả thiền thứ ba đều có năm chi chăng?

Đáp: Không nhiễm ô có năm, nhiễm ô không có năm.

Những gì là không có? Đáp: Không có niệm trí (Chánh niệm, chánh trí).

Hỏi: Tất cả thiền thứ tư đều có bốn chi chăng?

Đáp: Không nhiễm ô có bốn, nhiễm ô không có bốn.

Những gì là không có? Đáp: Không có niệm hộ tịnh (Niệm xả thanh tịnh).

Hỏi: Vị tương ưng nơi thiền thứ nhất, nhập nên nói là vị hay khởi nên nói là vị?

Đáp: Đối với chủ thể nên nói là nhập. Nơi đối tượng nên nói là khởi (xuất).

Hỏi: Vị tương ưng cho đến cõi Hữu tưởng vô tưởng (Phi tưởng phi phi tưởng), nhập nên nói là vị hay khởi nên nói là vị?

Đáp: Đối với chủ thể nên nói là nhập. Nơi đối tượng nên nói là khởi.

Hỏi: Các vị tương ưng nơi thiền thứ nhất, tất cả vị đó là ẩn một vô ký (Hữu phú vô ký) chăng?

Đáp: Đúng vậy. Các vị tương ưng nơi thiền thứ nhất, tất cả vị đó đều là ẩn một vô ký.

Hỏi: Từng có vị là ẩn một vô ký, vị đó không tương ưng với thiền thứ nhất chăng?

Đáp: Có. Là trừ ái, còn lại là các thứ cấu nhiễm khác hiện ở trước.

Hỏi: Các vị tương ưng cho đến cõi Hữu tưởng vô tưởng, tất cả vị đó đều là ẩn một vô ký chăng?

Đáp: Đúng vậy. Các vị tương ưng cho đến cõi Hữu tưởng vô tưởng, tất cả vị đó đều là ẩn một vô ký.

Hỏi: Từng có vị là ẩn một vô ký, vị đó không tương ưng cho đến cõi Hữu tưởng vô tưởng chăng?

Đáp: Có. Là trừ ái, còn lại là các thứ cấu nhiễm khác hiện ở trước.

Hỏi: Từng có không nhập thiền thứ nhất mà nhập thiền thứ hai chăng?

Đáp: Nhập.

Hỏi: Từng có cho đến không nhập định Bất dụng (Vô sở hữu xứ) mà nhập Hữu tưởng vô tưởng chăng?

Đáp: Nhập.

Hỏi: Từng có không nhập thiền thứ nhất mà sinh nơi thiền thứ nhất chăng?

Đáp: Có sinh.

Hỏi: Từng có cho đến không nhập Hữu tưởng vô tưởng mà sinh nơi Hữu tưởng vô tưởng chăng?

Đáp: Có sinh.

Hỏi: Nếu được thiền thứ nhất không phải là thiền thứ hai, Hành giả kia mạng chung sẽ sinh vào xứ nào?

Đáp: Hoặc nơi cõi Phạm thiên, hoặc nơi cõi Quang âm, hoặc nơi cõi Biến tịnh, hoặc nơi cõi Quả thật, hoặc nơi Không xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ, hoặc nơi Hữu tưởng vô tưởng, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Nếu được cho đến Bất dụng xứ không phải là Hữu tưởng vô tưởng, Hành giả kia mạng chung sẽ sinh vào xứ nào?

Đáp: Hoặc Bất dụng xứ, hoặc Hữu tưởng vô tưởng, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Tư duy về những gì để nhập định Từ?

Đáp: Đem an lạc cho chúng sinh.

Hỏi: Tư duy về những gì để nhập định Bi?

Đáp: Dứt khổ cho chúng sinh.

Hỏi: Tư duy về những gì để nhập định Hỷ?

Đáp: Tạo vui thích cho chúng sinh.

Hỏi: Tư duy về những gì để nhập định Hộ (Xả)?

Đáp: Xả bỏ đối với chúng sinh.

Hỏi: Từ diệt trừ kiết hệ thuộc cõi nào?

Đáp: Không có.

Hỏi: Bi, Hỷ, Hộ diệt trừ kiết hệ thuộc cõi nào?

Đáp: Không có.

Hỏi: Thiền thứ nhất tịnh diệt trừ kiết hệ thuộc cõi nào?

Đáp: Không có.

Hỏi: Cho đến Hữu tưởng vô tưởng tịnh diệt trừ kiết hệ thuộc cõi nào?

Đáp: Không có.

Hỏi: Giải thoát thứ nhất, thứ hai, thứ ba diệt trừ kiết hệ thuộc cõi nào?

Đáp: Không có.

Hỏi: Giải thoát của Không xứ diệt trừ kiết hệ thuộc cõi nào?

Đáp: Hoặc hệ thuộc Không xứ, hoặc hệ thuộc Thức xứ, hoặc hệ thuộc Bất dụng xứ, hoặc hệ thuộc Hữu tưởng vô tưởng xứ, hoặc không có.

Hỏi: Giải thoát của Thức xứ diệt trừ kiết hệ thuộc cõi nào?

Đáp: Hoặc hệ thuộc Thức xứ, hoặc hệ thuộc Bất dụng xứ, hoặc hệ thuộc Hữu tưởng vô tưởng xứ, hoặc không có.

Hỏi: Giải thoát của Bất dụng xứ diệt trừ kiết hệ thuộc cõi nào?

Đáp: Hoặc hệ thuộc Bất dụng xứ, hoặc hệ thuộc Hữu tưởng vô tưởng, hoặc không có.

Hỏi: Giải thoát của Hữu tưởng vô tưởng, giải thoát của diệt tận diệt trừ kiết hệ thuộc cõi nào?

Đáp: Không có.

Hỏi: Trừ nhập (Thắng xứ) thứ nhất diệt trừ kiết hệ thuộc cõi nào?

Đáp: Không có.

Hỏi: Cho đến Trừ nhập thứ tám diệt trừ kiết hệ thuộc cõi nào?

Đáp: Không có.

Hỏi: Nhất thiết nhập (Biến xứ) thứ nhất diệt trừ kiết hệ thuộc cõi nào?

Đáp: Không có.

Hỏi: Cho đến Nhất thiết nhập thứ mười diệt trừ kiết hệ thuộc cõi nào?

Đáp: Không có.

Hỏi: Pháp trí diệt trừ kiết hệ thuộc cõi nào?

Đáp: Hoặc hệ thuộc cõi Dục, hoặc hệ thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Vị tri trí diệt trừ kiết hệ thuộc cõi nào?

Đáp: Hoặc hệ thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Tha tâm trí diệt trừ kiết hệ thuộc cõi nào?

Đáp: Không xứ sở.

Hỏi: Đẳng trí, khổ trí, tập trí, tận trí, đạo trí, không, vô tướng, vô nguyện diệt trừ kiết hệ thuộc cõi nào?

Đáp: Hoặc hệ thuộc cõi Dục, hoặc hệ thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Báo của Từ nơi nào thọ nhận?

Đáp: Hoặc cõi Phạm thiên, hoặc cõi Quang âm, hoặc cõi Biến tịnh, hoặc cõi Quả thật, hoặc không xứ sở.

Như Từ, Bi và Hộ cũng như vậy.

Hỏi: Báo của Hỷ nơi nào thọ nhận?

Đáp: Hoặc cõi Phạm thiên, hoặc cõi Quang âm, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Báo của thiền thứ nhất tịnh nơi nào thọ nhận?

Đáp: Hoặc cõi Phạm thiện, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Cho đến báo của Hữu tưởng vô tưởng nơi nào thọ nhận?

Đáp: Hoặc cõi Hữu tưởng vô tưởng, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Báo của giải thoát thứ nhất, thứ hai nơi nào thọ nhận?

Đáp: Hoặc cõi Phạm thiên, hoặc cõi Quang âm, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Báo của bốn Trừ nhập đầu nơi nào thọ nhận?

Đáp: Hoặc cõi Phạm thiên, hoặc cõi Quang âm, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Báo của bốn Trừ nhập sau, báo của giải thoát tịnh, báo của tám Nhất thiết nhập nơi nào thọ nhận?

Đáp: Hoặc nơi cõi Quả thật, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Báo của giải thoát Không xứ nơi nào thọ nhận?

Đáp: Hoặc nơi Không xứ, hoặc không xứ sở.

Như Không xứ, Nhất thiết nhập (Biến xứ) cũng như vậy.

Hỏi: Báo của giải thoát Thức xứ nơi nào thọ nhận?

Đáp: Hoặc nơi Thức xứ, hoặc không xứ sở.

Như Thức xứ, Nhất thiết nhập cũng như vậy.

Hỏi: Báo của giải thoát Bất dụng xứ nơi nào thọ nhận?

Đáp: Hoặc nơi Bất dụng xứ, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Báo của giải thoát Hữu tưởng vô tưởng nơi nào thọ nhận?

Đáp: Hoặc nơi Hữu tưởng vô tưởng, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Báo của giải thoát diệt tận nơi nào thọ nhận?

Đáp: Hoặc nơi Hữu tưởng vô tưởng, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Báo của tha tâm trí nơi nào thọ nhận?

Đáp: Hoặc cõi Phạm thiên, hoặc cõi Quang âm, hoặc cõi Biến tịnh, hoặc cõi Quả thật, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Báo của đẳng trí nơi nào thọ nhận?

Đáp: Hoặc nơi cõi Dục, hoặc nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc, hoặc không xứ sở.

***

Phẩm 2: BÀN VỀ DUYÊN

Tám Tam muội là: Bốn thiền, bốn định vô sắc. Ba định là: Vị tương ưng, tịnh, vô lậu.

Từng có thành tựu vị tương ưng nơi sơ thiền, không phải tịnh, không phải vô lậu chăng? Từng có thành tựu tịnh, không phải vị tương ưng, không phải vô lậu chăng? Từng có thành tựu vô lậu, không phải vị tương ưng, không phải tịnh chăng? Từng có thành tựu vị tương ưng, tịnh, không phải vô lậu chăng? Từng có thành tựu vị tương ưng, vô lậu, không phải tịnh chăng? Từng có thành tựu tịnh, vô lậu, không phải vị tương ưng chăng? Từng có thành tựu cả vị tương ưng, tịnh, vô lậu chăng?

Như thành tựu vị tương ưng, tịnh, vô lậu, không thành tựu, được, bỏ, thoái chuyển cũng như vậy.

Nếu tu sơ thiền thế tục thì Hành giả kia tu sơ thiền vô lậu chăng? Nếu như tu sơ thiền vô lậu thì Hành giả kia tu sơ thiền thế tục chăng? Cho đến Bất dụng xứ: Nếu tu Bất dụng xứ thế tục thì Hành giả kia tu Bất dụng xứ vô lậu chăng? Nếu như tu Bất dụng xứ vô lậu thì Hành giả kia tu Bất dụng xứ thế tục chăng?

Nếu đầu tiên nhập thiền thứ nhất vô lậu, lúc ấy được các tâm tâm pháp vô lậu vị lai khác, tất cả pháp đó nên nói là có giác có quán chăng? Nếu đầu tiên nhập thiền thứ hai vô lậu, lúc ấy được các tâm tâm pháp vô lậu vị lai khác, tất cả pháp đó nên nói là tương ưng với hỷ căn chăng? Nếu đầu tiên nhập thiền thứ ba vô lậu, lúc ấy được các tâm tâm pháp vô lậu vị lai khác, tất cả pháp đó nên nói là tương ưng với lạc căn chăng? Nếu đầu tiên nhập thiền thứ tư vô lậu, lúc ấy được các tâm tâm pháp vô lậu vị lai khác, tất cả pháp đó nên nói là tương ưng với hộ căn chăng?

Nếu đầu tiên nhập Không xứ vô lậu, lúc ấy được các tâm tâm pháp vô lậu vị lai khác, tất cả pháp đó nên nói là thuộc về Không xứ chăng? Nếu đầu tiên nhập Thức xứ vô lậu, lúc ấy được các tâm tâm pháp vô lậu vị lai khác, tất cả pháp đó nên nói là thuộc về Thức xứ chăng? Nếu đầu tiên nhập Bất dụng xứ vô lậu, lúc ấy được các tâm tâm pháp vô lậu vị lai khác, tất cả pháp đó nên nói là thuộc về Bất dụng xứ chăng?

Vị tương ưng nơi sơ thiền cùng với vị tương ưng nơi sơ thiền kia có bao nhiêu duyên? Tịnh có bao nhiêu duyên? Vô lậu có bao nhiêu duyên? Vị tương ưng trên có bao nhiêu duyên? Tịnh, vô lậu trên có bao nhiêu duyên?

Tịnh nơi sơ thiền cùng với tịnh nơi sơ thiền kia có bao nhiêu duyên? Vô lậu có bao nhiêu duyên? Vị tương ưng trên có bao nhiêu duyên? Tịnh, vô lậu trên có bao nhiêu duyên? Vị tương ưng nơi tự địa có bao nhiêu duyên?

Vô lậu nơi sơ thiền cùng với vô lậu nơi sơ thiền kia có bao nhiêu duyên? Vị tương ưng trên có bao duyên? Tịnh, vô lậu trên có bao nhiêu duyên? Tịnh nơi tự địa có bao nhiêu duyên?

Cho đến Bất dụng xứ cũng như vậy.

Vị tương ưng nơi Hữu tưởng vô tưởng cùng với vị tương ưng nơi Hữu tưởng vô tưởng có bao nhiêu duyên? Tịnh có bao nhiêu duyên? Vị tương ưng dưới có bao nhiêu duyên? Tịnh, vô lậu dưới có bao nhiêu duyên?

Tịnh nơi Hữu tưởng vô tưởng cùng với tịnh nơi Hữu tưởng vô tưởng kia có bao nhiêu duyên? Vị tương ưng dưới có bao nhiêu duyên? Tịnh, vô lậu dưới có bao nhiêu duyên? Vị tương ưng nơi tự địa có bao nhiêu duyên?

Về các nghĩa trên, chương nầy xin diễn nói đầy đủ.

*

Tám Tam muội là: Bốn thiền, bốn định vô sắc. Có ba định là: Vị tương ưng, tịnh, vô lậu.

Hỏi: Từng có thành tựu vị tương ưng nơi sơ thiền, không phải tịnh, không phải vô lậu chăng?

Đáp: Có. Là ái dục chưa hết.

Hỏi: Từng có thành tựu tịnh, không phải vị tương ưng, không phải vô lậu chăng?

Đáp: Có. Là người phàm phu sinh nơi cõi Dục, hoặc trên cõi Phạm thiên, ái trên cõi Phạm thiên đã hết.

Hỏi: Từng có thành tựu vô lậu, không phải vị tương ưng, không phải tịnh chăng?

Đáp: Có. Là người vô cấu (Thánh giả) sinh trên cõi Phạm thiên.

Hỏi: Từng có thành tựu vị tương ưng, tịnh, không phải vô lậu chăng?

Đáp: Có. Là người phàm phu sinh nơi cõi Dục, ái nơi cõi Dục đã hết, ái trên cõi Phạm thiên chưa hết. Hoặc sinh trên cõi Phạm thiên, ái nơi cõi ấy chưa hết.

Hỏi: Từng có thành tựu vị tương ưng, vô lậu, không phải tịnh chăng?

Đáp: Không có.

Hỏi: Từng có thành tựu tịnh, vô lậu, không phải vị tương ưng chăng?

Đáp: Có. Là người vô cấu sinh nơi cõi Dục hoặc trên cõi Phạm thiên, ái trên cõi Phạm thiên đã hết.

Hỏi: Từng có thành tựu cả vị tương ưng, tịnh, vô lậu chăng?

Đáp: Có. Là người vô cấu sinh nơi cõi Dục, ái nơi cõi Dục đã hết, ái trên cõi Phạm thiên chưa hết.

Hỏi: Từng có không thành tựu vị tương ưng nơi sơ thiền, không phải là không tịnh, không phải là không vô lậu chăng?

Đáp: Có. Là người vô cấu sinh nơi cõi Dục, hoặc nơi cõi Phạm thiên, ái nơi cõi ấy đã hết.

Hỏi: Từng có không thành tựu tịnh, không phải là không vị tương ưng, không phải là không vô lậu chăng?

Đáp: Không có.

Hỏi: Từng có không thành tựu vô lậu, không phải là không vị tương ưng, không phải là không tịnh chăng?

Đáp: Có. Là người phàm phu sinh nơi cõi Dục, ái dục đã hết, ái trên cõi Phạm thiên chưa hết. Hoặc sinh trên cõi Phạm thiên, ái nơi cõi ấy chưa hết.

Hỏi: Từng có không thành tựu vị tương ưng, tịnh, không phải là không vô lậu chăng?

Đáp: Có. Là người vô cấu sinh trên cõi Phạm thiên.

Hỏi: Từng có không thành tựu vị tương ưng, vô lậu, không phải là không tịnh chăng?

Đáp: Có. Là người phàm phu sinh nơi cõi Dục, hoặc nơi cõi Phạm thiên, ái nơi cõi ấy đã hết.

Hỏi: Từng có không thành tựu tịnh, vô lậu, không phải là không vị tương ưng chăng?

Đáp: Có. Là ái nơi cõi Dục chưa hết.

Hỏi: Từng có không thành tựu vị tương ưng, tịnh, vô lậu chăng?

Đáp: Có. Là người phàm phu sinh trên cõi Phạm thiên.

Hỏi: Từng có được vị tương ưng nơi sơ thiền, không phải tịnh, không phải vô lậu chăng?

Đáp: Được. Là từ trên cõi Phạm thiên không còn ái đã thoái chuyển.

Hỏi: Từng có được tịnh, không phải vị tương ưng, không phải vô lậu chăng?

Đáp: Được. Là người phàm phu đạt ái dục hết.

Hỏi: Từng có được vô lậu, không phải vị tương ưng, không phải tịnh chăng?

Đáp: Được. Là dựa vào sơ thiền, vượt thứ lớp thủ chứng sẽ đạt đến quả A-la-hán.

Hỏi: Từng có được vị tương ưng, tịnh, không phải vô lậu chăng?

Đáp: Được. Là mất ở địa trên, sinh trên cõi Phạm thiên.

Hỏi: Từng có được tịnh, vô lậu, không phải vị tương ưng chăng?

Đáp: Được. Là người vô cấu đạt ái dục hết.

Hỏi: Từng có được thứ khác chăng?

Đáp: Không có.

Hỏi: Từng có bỏ vị tương ưng nơi sơ thiền, không phải tịnh, không phải vô lậu chăng?

Đáp: Bỏ. Là vừa được ái trên cõi Phạm thiên đã hết.

Hỏi: Từng có bỏ tịnh, không phải vị tương ưng, không phải vô lậu chăng?

Đáp: Bỏ. Là người phàm phu nơi cõi Dục không còn ái dục đã thoái chuyển. Hoặc ở nơi cõi Phạm thiện mất, sinh nơi địa trên.

Hỏi: Từng có bỏ tịnh, vô lậu, không phải vị tương ưng chăng?

Đáp: Bỏ. Là người vô cấu ở nơi không còn ái dục đã thoái chuyển.

Hỏi: Từng có bỏ thứ khác chăng?

Đáp: Không có.

Hỏi: Từng có thoái chuyển vị tương ưng nơi sơ thiền, không phải tịnh, không phải vô lậu chăng?

Đáp: Không thoái chuyển.

Hỏi: Từng có thoái chuyển tịnh, không phải vị tương ưng, không phải vô lậu chăng?

Đáp: Thoái chuyển. Là người phàm phu ở nơi không còn ái dục đã thoái chuyển.

Hỏi: Từng có thoái chuyển tịnh, vô lậu, không phải vị tương ưng chăng?

Đáp: Thoái chuyển. Là người vô cấu ở nơi không còn ái dục đã thoái chuyển.

Hỏi: Từng có thoái chuyển thứ khác chăng?

Đáp: Không có.

Hỏi: Nếu tu thiền thứ nhất thế tục (tịnh) thì Hành giả kia tu thiền thứ nhất vô lậu chăng?

Đáp: Hoặc có tu thế tục không phải là tu vô lậu.

Thế nào là tu thế tục không phải là tu vô lậu? Là vốn đã được thiền thứ nhất thế tục hiện ở trước. Hoặc vốn không được thiền thứ nhất thế tục hiện ở trước, lúc nầy không tu thiền thứ nhất vô lậu. Hoặc vốn không được trí thế tục hiện ở trước, Hành giả kia không phải ở nơi thiền thứ nhất, lúc ấy có thể tu thiền thứ nhất thế tục, không phải vô lậu. Đây gọi là tu thế tục không phải là tu vô lậu.

Thế nào là tu vô lậu không phải là tu thế tục? Là vốn đã được thiền thứ nhất vô lậu hiện ở trước. Hoặc vốn không được thiền thứ nhất vô lậu hiện ở trước, lúc nầy không tu thiền thứ nhất thế tục. Hoặc vốn không được trí thế tục hiện ở trước, Hành giả kia không phải ở nơi thiền thứ nhất, lúc ấy có thể tu thiền thứ nhất vô lậu, không phải là thế tục. Hoặc vốn không được trí vô lậu hiện ở trước, Hành giả kia không phải ở nơi thiền thứ nhất, lúc ấy có thể tu thiền thứ nhất vô lậu, không phải là thế tục. Đây gọi là tu vô lậu không phải là tu thế tục.

Thế nào là tu thế tục cũng là tu vô lậu? Là vốn không được thiền thứ nhất thế tục hiện ở trước, lúc nầy được tu thiền thứ nhất vô lậu.

Hoặc vốn không được thiền thứ nhất vô lậu hiện ở trước, lúc nầy được tu thiền thứ nhất thế tục. Hoặc vốn không được trí thế tục hiện ở trước, Hành giả kia không phải ở nơi thiền thứ nhất, lúc ấy được tu thiền thứ nhất vô lậu và thế tục. Hoặc vốn không được trí vô lậu hiện ở trước, Hành giả kia không phải ở nơi thiền thứ nhất, lúc ấy được tu thiền thứ nhất vô lậu và thế tục. Đây gọi là tu thế tục cũng là tu vô lậu.

Thế nào là không phải tu thế tục cũng không phải tu vô lậu? Là vốn đã được trí thế tục hiện ở trước, Hành giả kia không phải ở nơi thiền thứ nhất. Hoặc vốn không được trí thế tục hiện ở trước, lúc nầy không tu thiền thứ nhất vô lậu và thế tục. Hoặc vốn đã được trí vô lậu hiện ở trước, trí ấy không phải ở nơi thiền thứ nhất. Hoặc vốn không được trí vô lậu hiện ở trước, lúc ấy cũng không tu thiền thứ nhất vô lậu và thế tục. Tất cả là tâm nhiễm ô, tâm vô ký, nhập định vô tưởng, định diệt tận, đều không tu thiền thứ nhất thế tục, không tu thiền thứ nhất vô lậu. Đây gọi là không phải tu thế tục cũng không phải tu vô lậu.

Như thiền thứ nhất, thiền thứ hai, thiền thứ ba cũng như vậy.

Hỏi: Nếu tu thiền thứ tư thế tục thì Hành giả kia tu thiền thứ tư vô lậu chăng?

Đáp: Hoặc có tu thế tục không phải là tu vô lậu.

Thế nào là tu thế tục không phải là tu vô lậu? Là vốn đã được thiền thứ tư thế tục hiện ở trước. Hoặc vốn không được thiền thứ tư thế tục hiện ở trước, lúc nầy không tu thiền thứ tư vô lậu. Hoặc vốn không được trí thế tục hiện ở trước, Hành giả kia không phải ở nơi thiền thứ tư thế tục, lúc ấy có thể tu thiền thứ tư thế tục, không phải là thiền thứ tư vô lậu. Đây gọi là tu thế tục không phải là tu vô lậu.

Thế nào là tu vô lậu không phải là tu thế tục? Là vốn đã được thiền thứ tư vô lậu hiện ở trước. Hoặc vốn không được thiền thứ tư vô lậu hiện ở trước, lúc ấy không tu thiền thứ tư thế tục. Hoặc vốn không được trí thế tục hiện ở trước, Hành giả kia không phải ở nơi thiền thứ tư, lúc ấy có thể tu thiền thứ tư vô lậu, không phải là thế tục. Hoặc vốn không được trí vô lậu hiện ở trước, Hành giả kia không phải ở nơi thiền thứ tư, lúc ấy có thể tu thiền thứ tư vô lậu, không phải là thế tục. Đây gọi là tu vô lậu không phải là tu thế tục.

Thế nào là tu thế tục cũng là tu vô lậu? Là vốn không được thiền thứ tư thế tục hiện ở trước, lúc ấy được tu thiền thứ tư vô lậu. Hoặc vốn không được thiền thứ tư vô lậu hiện ở trước, lúc ấy được tu thiền thứ tư thế tục. Hoặc vốn không được trí thế tục hiện ở trước, Hành giả kia không phải ở nơi thiền thứ tư, lúc ấy được tu thiền thứ tư vô lậu và thế tục. Hoặc vốn không được trí vô lậu hiện ở trước, Hành giả kia không phải ở nơi thiền thứ tư, lúc ấy được tu thiền thứ tư vô lậu và thế tục. Đây gọi là tu vô lậu cũng là tu thế tục.

Thế nào là không phải tu thế tục cũng không phải tu vô lậu? Là vốn đã được trí thế tục hiện ở trước, trí ấy không phải ở nơi thiền thứ tư. Hoặc vốn không được trí thế tục hiện ở trước, lúc nầy không tu thiền thứ tư vô lậu và thế tục. Hoặc vốn đã được trí vô lậu hiện ở trước, trí ấy không phải ở nơi thiền thứ tư. Hoặc vốn không được trí vô lậu hiện ở trước, lúc nầy cũng không tu thiền thứ tư vô lậu và thế tục. Tất cả là tâm nhiễm ô, tâm vô ký, nhập Tam muội vô tưởng, Tam muội diệt tận nơi cõi trời Vô tưởng, đều không tu thiền thứ tư thế tục, không tu thiền thứ tư vô lậu. Đây gọi là không phải tu thế tục cũng không phải tu vô lậu.

Cho đến định Bất dụng cũng như vậy.

Hỏi: Nếu đầu tiên nhập thiền thứ nhất vô lậu, lúc ấy được các tâm tâm pháp vô lậu vị lai khác, tất cả pháp đó nên nói là có giác có quán chăng?

Đáp: Các pháp đó hoặc có giác có quán, hoặc không giác có quán, hoặc không giác không quán.

Hỏi: Nếu đầu tiên nhập thiền thứ hai vô lậu, lúc ấy được các tâm tâm pháp vô lậu vị lai khác, tất cả pháp đó nên nói là tương ưng với hỷ căn chăng?

Đáp: Các pháp đó hoặc tương ưng với lạc căn, hoặc tương ưng với hỷ căn, hoặc tương ưng với hộ căn.

Hỏi: Nếu đầu tiên nhập thiền thứ ba vô lậu, lúc ấy được các tâm tâm pháp vô lậu vị lai khác, tất cả pháp đó nên nói là tương ưng với lạc căn chăng?

Đáp: Các pháp đó hoặc tương ưng với lạc căn, hoặc tương ưng với hỷ căn, hoặc tương ưng với hộ căn.

Hỏi: Nếu đầu tiên nhập thiền thứ tư vô lậu, lúc ấy được các tâm tâm pháp vô lậu vị lai khác, tất cả pháp đó nên nói là tương ưng với hộ căn (xả căn) chăng?

Đáp: Các pháp đó hoặc tương ưng với lạc căn, hoặc tương ưng với hỷ căn, hoặc tương ưng với hộ căn.

Hỏi: Nếu đầu tiên nhập Không xứ vô lậu, lúc ấy được các tâm tâm pháp vô lậu vị lai khác, tất cả pháp đó nên nói là thuộc về Không định chăng?

Đáp: Các pháp đó hoặc thuộc về Không định, hoặc thuộc về Thức định, hoặc thuộc về Bất dụng định.

Hỏi: Nếu đầu tiên nhập Thức xứ vô lậu, lúc ấy được các tâm tâm pháp vô lậu vị lai khác, tất cả pháp đó nên nói là thuộc về Thức định chăng?

Đáp: Các pháp đó hoặc thuộc về Không định, hoặc thuộc về Thức định, hoặc thuộc về Bất dụng định.

Hỏi: Nếu đầu tiên nhập Bất dụng xứ vô lậu, lúc ấy được các tâm tâm pháp vô lậu vị lai khác, tất cả pháp đó nên nói là thuộc về Bất dụng định chăng?

Đáp: Các pháp đó hoặc thuộc về Không định, hoặc thuộc về Thức định, hoặc thuộc về Bất dụng định.

Vị tương ưng nơi sơ thiền cùng với vị tương ưng nơi sơ thiền kia có bốn duyên là Nhân, Thứ đệ, Duyên duyên, Tăng thượng. Tịnh có ba duyên là Thứ đệ, Duyên duyên, Tăng thượng, không có Nhân. Vô lậu có hai duyên là Duyên duyên, Tăng thượng. Vị tương ưng còn lại có một duyên là Tăng thượng. Tịnh, vô lậu nơi thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư có hai duyên là Duyên duyên, Tăng thượng. Tịnh, vô lậu nơi định vô sắc có một duyên là Tăng thượng.

Tịnh nơi sơ thiền cùng với tịnh nơi sơ thiền kia có bốn duyên là Nhân, Thứ đế, Duyên duyên, Tăng thượng. Vô lậu có ba duyên là Thứ đệ, Duyên duyên, Tăng thượng, không có Nhân. Trừ vị tương ưng của tự địa, tất cả vị tương ưng còn lại có một duyên là Tăng thượng. Tịnh, vô lậu nơi thiền thứ hai, thiền thứ ba có ba duyên là Thứ đệ, Duyên duyên, Tăng thượng, không có Nhân. Tịnh, vô lậu nơi thiền thứ tư có hai duyên là Duyên duyên, Tăng thượng. Tịnh, vô lậu nơi định vô sắc có một duyên là Tăng thượng. Vị tương ưng nơi tự địa có ba duyên là Thứ đệ, Duyên duyên, Tăng thượng, không có Nhân.

Vô lậu nơi sơ thiền cùng với vô lậu nơi sơ thiền kia có bốn duyên là Nhân, Thứ đệ, Duyên duyên, Tăng thượng. Tất cả vị tương ưng có một duyên là Tăng thượng. Tịnh nơi sơ thiền, thiền thứ hai, thiền thứ ba có ba duyên là Thứ đệ, Duyên duyên, Tăng thượng, không có Nhân. Vô lậu nơi thiền thứ hai, thiền thứ ba có bốn duyên là Nhân, Thứ đệ, Duyên duyên, Tăng thượng. Tịnh nơi thiền thứ tư, tịnh nơi định vô sắc có hai duyên là Duyên duyên, Tăng thượng. Vô lậu nơi thiền thứ tư, vô lậu nơi định vô sắc có ba duyên là Nhân, Duyên duyên, Tăng thượng. Tịnh nơi tự địa có ba duyên là Thứ đệ, Duyên duyên, Tăng thượng.

Cho đến Bất dụng định cũng như vậy.

Vị tương ưng nơi Hữu tưởng vô tưởng cùng với vị tương ưng nơi Hữu tưởng vô tưởng kia có bốn duyên là Nhân, Thứ đệ, Duyên duyên, Tăng thượng. Tịnh có ba duyên là Thứ đệ, Duyên duyên, Tăng thượng, không có Nhân. Tịnh nơi Bất dụng xứ có ba duyên là Thứ đệ, Duyên duyên, Tăng thượng, không có Nhân. Các tịnh vô lậu còn lại nơi cõi dưới có hai duyên là Duyên duyên, Tăng thượng.

Tịnh nơi Hữu tưởng vô tưởng cùng với tịnh nơi Hữu tưởng vô tưởng kia có bốn duyên là Nhân, Thứ đệ, Duyên duyên, Tăng thượng. Vị tương ưng nơi cõi dưới có một duyên là Tăng thượng. Tịnh, vô lậu nơi Thức xứ, Bất dụng xứ có ba duyên là Thứ đệ, Duyên duyên, Tăng thượng, không có Nhân. Tịnh vô lậu còn lại có hai duyên là Duyên duyên, Tăng thượng. Vị tương ưng nơi tự địa có ba duyên là Thứ đệ, Duyên duyên, Tăng thượng, không có Nhân.

HẾT – QUYỂN 26