LUẬN A TỲ ĐÀM BÁT KIỀN ĐỘ
Tác giả: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử
Hán dịch: Đời Phù Tần, Sa môn Tăng Già Đề Ba và Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 30

Kiền độ thứ 8: KIẾN

Phẩm 3: BÀN VỀ TƯỞNG

Mười tưởng: Tưởng về vô thường, tưởng về vô thường – khổ, tưởng về vô ngã – khổ, tưởng về bất tịnh, tưởng quán về ăn uống, tưởng về tất cả thế gian không thể vui, tưởng về sự chết, tưởng về đoạn, tưởng về không dục, tưởng về diệt.

Các pháp do tưởng về vô thường sinh, pháp đó tương ưng với tưởng về vô thường chăng? Nếu như các pháp tương ưng với tưởng về vô thường, pháp đó do tưởng về vô thường sinh chăng? Tưởng về vô thường – khổ, tưởng về vô ngã – khổ, tưởng về bất tịnh, tưởng quán về ăn uống, tưởng về tất cả thế gian không thể vui, tưởng về sự chết, tưởng về đoạn, tưởng về không dục, tưởng về diệt cũng như vậy.

Các pháp do tưởng về vô thường sinh, pháp đó là một duyên của tưởng về vô thường chăng? Nếu như các pháp là một duyên của tưởng về vô thường, pháp đó là do tưởng về vô thường sinh chăng? Cho đến tưởng về diệt cũng như vậy.

Từng có pháp, trí phân biệt, không đoạn, không tu, không tác chứng chăng? Từng có pháp, trí phân biệt, không đoạn, không tu, tác chứng chăng? Từng có pháp, trí phân biệt, không đoạn, tu, tác chứng chăng? Từng có pháp, trí phân biệt, đoạn, tu, tác chứng chăng? Từng có pháp, trí phân biệt, đoạn, không tu, tác chứng chăng? Từng có pháp, trí phân biệt, đoạn, không tu, không tác chứng chăng?

Từng có pháp không duyên nơi nhân duyên, không duyên nơi pháp duyên, duyên nơi pháp cùng sinh là có, là có hình tượng (tánh), không phải là không có, không phải là không có tánh, sắc khác, thọ khác, tưởng khác, thức khác, pháp tương ưng khác. Pháp nầy đối với pháp kia nên nói là nhân, nên nói là duyên chăng? Hoặc nên nói là duyên, nên nói là không phải nhân chăng? Pháp kia nên nói là thiện, là bất thiện, là vô ký chăng? Pháp đó có bao nhiêu sử sai khiến? Có bao nhiêu kiết trói buộc?

Các pháp do tâm cùng sinh, không phải không do tâm, như tâm sinh, pháp kia cũng thế chăng? Như tâm diệt, pháp kia cũng thế chăng? Như khi tâm đạt được, pháp kia cũng thế chăng? Như khi tâm xả bỏ, pháp kia cũng thế chăng? Như khi tâm thọ báo, pháp kia cũng thế chăng?

Kiến tương ưng với thọ, có bao nhiêu sử sai khiến? Kiến không tương ưng với thọ, có bao nhiêu sử sai khiến? Nghi tương ưng với thọ, có bao nhiêu sử sai khiến? Nghi không tương ưng với thọ, có bao nhiêu sử sai khiến?

Pháp nhân nơi đạo duyên sinh gồm thâu bao nhiêu Trì (Giới), bao nhiêu Nhập (Xứ), bao nhiêu Ấm (Uẩn)? Trừ nhãn xúc v.v… sinh tưởng thọ, pháp của tâm tương ưng và trừ nhĩ xúc v.v… sinh tưởng thọ, pháp của tâm không tương ưng, các pháp còn lại gồm thâu bao nhiêu trì, bao nhiêu nhập, bao nhiêu ấm? Cho đến trừ thân xúc v.v… sinh tưởng thọ, pháp của tâm tương ưng và trừ ý xúc v.v… sinh tưởng thọ, pháp của tâm không tương ưng, các pháp còn lại gồm thâu bao nhiêu trì, bao nhiêu nhập, bao nhiêu ấm?

Về các nghĩa trên, chương nầy xin diễn nói đầy đủ.

*

Mười tưởng: Tưởng về vô thường, tưởng về vô thường – khổ, tưởng về vô ngã – khổ, tưởng về bất tịnh, tưởng quán về ăn uống, tưởng về tất cả thế gian không thể vui, tưởng về sự chết, tưởng về đoạn, tưởng về không dục, tưởng về diệt.

Hỏi: Các pháp do tưởng về vô thường sinh, pháp đó tương ưng với tưởng về vô thường chăng?

Đáp: Hoặc có pháp do tưởng về vô thường sinh, pháp đó không phải tương ưng với tưởng về vô thường.

Thế nào là pháp do tưởng về vô thường sinh, pháp đó không phải tương ưng với tưởng về vô thường? Là như tưởng về vô thường hiện ở trước tất diệt, các tưởng khác hiện ở trước tất sinh các pháp tương ưng kia. Đây gọi là pháp do tưởng về vô thường sinh, pháp đó không phải tương ưng với tưởng về vô thường.

Thế nào là pháp tương ưng với tưởng về vô thường, pháp đó không phải do tưởng về vô thường sinh? Là như tưởng khác hiện ở trước tất diệt, tưởng về vô thường hiện ở trước tất sinh các pháp tương ưng kia. Đây gọi là pháp tương ưng với tưởng về vô thường, pháp đó không phải do tưởng về vô thường sinh.

Thế nào là pháp do tưởng về vô thường sinh, pháp đó tương ưng với tưởng về vô thường? Là như tưởng về vô thường hiện ở trước tất diệt, tưởng về vô thường hiện ở trước tất sinh các pháp tương ưng kia. Đây gọi là pháp do tưởng về vô thường sinh, pháp đó tương ưng với tưởng về vô thường.

Thế nào là pháp không phải do tưởng về vô thường sinh, pháp đó không phải tương ưng với tưởng về vô thường? Là như tưởng khác hiện ở trước tất diệt, tưởng khác hiện ở trước tất sinh các pháp tương ưng kia. Đây gọi là pháp không phải do tưởng về vô thường sinh, pháp đó không phải tương ưng với tưởng về vô thường.

Như tưởng về vô thường, tưởng về vô thường – khổ, tưởng về vô ngã – khổ, tưởng về bất tịnh, tưởng quán về ăn uống, tưởng về tất cả thế gian không thể vui, tưởng về sự chết, tưởng về đoạn, tưởng về không dục, tưởng về diệt cũng như vậy.

Hỏi: Các pháp do tưởng về vô thường sinh, pháp đó là một duyên của tưởng về vô thường chăng?

Đáp: Hoặc có pháp do tưởng về vô thường sinh, pháp đó không phải là một duyên của tưởng về vô thường.

Thế nào là pháp do tưởng về vô thường sinh, pháp đó không phải là một duyên của tưởng về vô thường? Là như tưởng về vô thường hiện ở trước tất diệt, tưởng khác hiện ở trước tất sinh, tưởng kia có duyên khác. Đây gọi là pháp do tưởng về vô thường sinh, pháp đó không phải là một duyên của tưởng về vô thường.

Thế nào là pháp là một duyên của tưởng về vô thường, pháp đó không phải do tưởng về vô thường sinh? Là như tưởng khác hiện ở trước tất diệt, tưởng về vô thường hiện ở trước tất sinh, tưởng kia có duyên ấy. Đây gọi là pháp là một duyên của tưởng về vô thường, pháp đó không phải do tưởng về vô thường sinh.

Thế nào là pháp do tưởng về vô thường sinh, pháp đó là một duyên của tưởng về vô thường? Là như tưởng về vô thường hiện ở trước tất diệt, tưởng về vô thường hiện ở trước tất sinh, tưởng kia có duyên ấy. Đây gọi là pháp do tưởng về vô thường sinh, pháp đó là một duyên của tưởng về vô thường.

Thế nào là pháp không phải do tưởng về vô thường sinh, pháp đó không phải là một duyên của tưởng về vô thường? Là như tưởng khác hiện ở trước tất diệt, tưởng khác hiện ở trước tất sinh, tưởng kia có duyên khác. Đây gọi là pháp không phải do tưởng về vô thường sinh, pháp đó không phải là một duyên của tưởng về vô thường.

Như tưởng về vô thường, cho đến tưởng về diệt cũng như vậy.

Hỏi: Từng có pháp, trí phân biệt, không đoạn, không tu, không tác chứng chăng?

Đáp: Có. Là hư không phi số duyên tận (Hư không phi trạch diệt).

Hỏi: Từng có pháp, trí phân biệt, không đoạn, không tu, tác chứng chăng?

Đáp: Có. Là số duyên tận (Trạch diệt).

Hỏi: Từng có pháp, trí phân biệt, không đoạn, tu, tác chứng chăng?

Đáp: Có. Là pháp hữu vi vô lậu.

Hỏi: Từng có pháp, trí phân biệt, đoạn, tu, tác chứng chăng?

Đáp: Có. Là pháp hữu lậu thiện.

Hỏi: Từng có pháp, trí phân biệt, đoạn, không tu, tác chứng chăng?

Đáp: Có. Là thiên nhãn, thiên nhĩ.

Hỏi: Từng có pháp, trí phân biệt, đoạn, không tu, không tác chứng chăng?

Đáp: Có. Là trừ thiên nhãn, thiên nhĩ, còn lại là các pháp hữu vi vô ký và pháp bất thiện.

Hỏi: Từng có pháp không duyên nơi nhân duyên, không duyên nơi pháp duyên, duyên nơi pháp cùng sinh chăng?

Đáp: Có. Là các năm thức thân cùng tương ưng, các ý thức thân cùng tương ưng và sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành, các đắc, sinh, lão, vô thường duyên nơi pháp kia. Đây gọi là pháp không duyên nơi nhân duyên, không duyên nơi pháp duyên, duyên nơi pháp cùng sinh. Pháp ấy là có, là có tánh, không phải là không có, không phải là không có tánh. Sắc khác, pháp ấy không phải là sắc. Thọ khác, pháp ấy không phải là thọ. Tưởng khác, pháp ấy không phải là tưởng.

Thức khác, pháp ấy không phải là thức. Pháp tương ưng khác, pháp ấy không tương ưng. Thế nên pháp không tương ưng khác.

Hỏi: Pháp nầy đối với pháp kia nên nói là nhân, nên nói là duyên chăng? Hoặc nên nói là duyên, nên nói là không phải nhân chăng?

Đáp: Đời trước, đời sau nên nói là nhân, nên nói là duyên. Đời sau, đời trước, nên nói là duyên, không nên nói là nhân.

Hỏi: Pháp kia nên nói là thiện, là bất thiện, là vô ký chăng?

Đáp: Trong pháp thiện nên nói là thiện, trong pháp bất thiện nên nói là bất thiện, trong pháp vô ký nên nói là vô ký.

Hỏi: Pháp đó có bao nhiêu sử sai khiến?

Đáp: Sử duyên nơi hữu lậu của ba cõi.

Hỏi: Có bao nhiêu kiết trói buộc?

Đáp: Có chín.

Hỏi: Các pháp do tâm cùng sinh, không phải không do tâm: Như tâm sinh, pháp kia cũng thế chăng?

Đáp: Tâm sinh trước, pháp kia sau.

Hỏi: Như tâm diệt, pháp kia cũng thế chăng?

Đáp: Tâm diệt trước, pháp kia sau.

Hỏi: Như khi tâm đạt được, pháp kia cũng thế chăng?

Đáp: Tâm đạt được trước, pháp kia sau.

Hỏi: Như khi tâm xả bỏ, pháp kia cũng thế chăng?

Đáp: Pháp xả bỏ trước, tâm xả bỏ sau.

Hỏi: Như khi tâm thọ báo, pháp kia cũng thế chăng?

Đáp: Hoặc lúc ấy, hoặc khi khác.

Hỏi: Kiến tương ưng với thọ, có bao nhiêu sử sai khiến (Tùy miên tùy tăng)?

Đáp: Kiến duyên nơi hữu lậu cùng kiến duyên nơi vô lậu tương ưng với vô minh là sử sai khiến.

Hỏi: Kiến không tương ưng với thọ, có bao nhiêu sử sai khiến?

Đáp: Là trừ kiến duyên nơi vô lậu tương ưng với vô minh, số còn lại là sử sai khiến.

Hỏi: Nghi tương ưng với thọ, có bao nhiêu sử sai khiến?

Đáp: Nghi duyên nơi hữu lậu của ba cõi do kiến đế đoạn cùng nghi duyên nơi vô lậu tương ưng với vô minh là sử sai khiến.

Hỏi: Nghi không tương ưng với thọ, có bao nhiêu sử sai khiến?

Đáp: Là trừ nghi duyên nơi vô lậu tương ưng với vô minh, tất cả còn lại là sử sai khiến.

Hỏi: Pháp nhân nơi đạo duyên sinh gồm thâu bao nhiêu Trì (Giới), bao nhiêu Nhập (Xứ), bao nhiêu Ấm (Uẩn)?

Đáp: Gồm thâu mười tám trì, mười hai nhập, năm ấm.

Hỏi: Trừ nhãn xúc v.v… sinh tưởng thọ, pháp của tâm tương ưng và trừ nhĩ xúc v.v… sinh tưởng thọ, pháp của tâm không tương ưng, các pháp còn lại gồm thâu bao nhiêu trì, bao nhiêu nhập, bao nhiêu ấm?

Đáp: Gồm thâu mười tám trì, mười hai nhập, năm ấm.

Hỏi: Cho đến trừ thân xúc v.v… sinh tưởng thọ, pháp của tâm tương ưng và trừ ý xúc v.v… sinh tưởng thọ, pháp của tâm không tương ưng, các pháp còn lại gồm thâu bao nhiêu trì, bao nhiêu nhập, bao nhiêu ấm?

Đáp: Gồm thâu mười tám trì, mười hai nhập, năm ấm.

***

Phẩm 4: BÀN VỀ TRÍ THỜI

Các tụ trí, tụ ấy là đoạn chăng? Nếu như tụ đoạn, tụ ấy là trí chăng? Các tụ chán lìa, tụ ấy là không dục chăng? Nếu như tụ không dục, tụ ấy là chán lìa chăng? Các tụ chán lìa, tụ ấy là tu chán lìa chăng? Nếu như tụ tu chán lìa, tụ ấy là chán lìa chăng? Các tụ không dục, tụ ấy là tu chán lìa chăng? Nếu như tụ tu chán lìa, tụ ấy là không dục chăng?

Nếu pháp làm Nhân duyên cho các pháp kia, hoặc có lúc pháp ấy không phải là Nhân duyên cho pháp kia chăng? Nếu pháp làm Thứ đệ, Duyên duyên, Tăng thượng cho các pháp kia, hoặc có lúc pháp ấy không phải là Thứ đệ, Duyên duyên, Tăng thượng cho pháp kia chăng?

Các ý xúc, tất cả ý xúc ấy là xúc của ba thứ hòa hợp chăng? Nếu như là xúc của ba thứ hòa hợp, xúc ấy là tất cả ý xúc chăng?

Các mạn, tất cả mạn ấy là tự chấp nơi mình chăng? Nếu như là tự chấp nơi mình tất cả mạn ấy là mạn chăng? Các mạn, tất cả mạn ấy là không tịch tĩnh chăng? Nếu như là không tịch tĩnh, tất cả mạn ấy là mạn chăng?

Các hành (Nghiệp), tất cả hành ấy không phải là hộ (Luật nghi) chăng? Nếu như không phải là hộ, tất cả hành ấy là hành chăng? Các hành (Nghiệp), tất cả hành ấy là hộ (Luật nghi) chăng? Nếu như là hộ, tất cả hành ấy là hành chăng?

Nếu tụ không được, tụ ấy là không thành tựu chăng? Nếu như tụ không thành tựu, tụ ấy là không được chăng? Nếu tụ được, tụ ấy là thành tựu chăng? Nếu như tụ thành tựu, tụ ấy là được chăng?

Trừ khổ Thánh đế cùng pháp nhập (pháp xứ), các pháp còn lại gồm thâu bao nhiêu trì (Giới) bao nhiêu nhập (Xứ) bao nhiêu ấm (Uẩn)? Tập Thánh đế cũng như vậy. Trừ tận (Diệt) Thánh đế cùng pháp nhập, các pháp còn lại gồm thâu bao nhiều trì, bao nhiêu nhập, bao nhiêu ấm? Đạo Thánh đế cũng như vậy.

Trừ pháp có sắc cùng pháp nhập (Pháp xứ), các pháp còn lại gồm thâu bao nhiêu trì, bao nhiêu nhập, bao nhiêu ấm? Các pháp không sắc, có thể thấy – không thể thấy, có đối – không đối, hữu lậu – vô lậu, hữu vi – vô vi. Các pháp quá khứ, vị lai, hiện tại, thiện, bất thiện, vô ký, hệ thuộc cõi Dục, hệ thuộc cõi Sắc, hệ thuộc cõi Vô sắc, học, vô học, phi học phi vô học, do kiến đế đoạn, do tư duy đoạn, không đoạn, trừ các pháp trên cùng pháp nhập, các pháp còn lại gồm thâu bao nhiêu trì, bao nhiêu nhập, bao nhiêu ấm?

Trừ pháp khởi cùng các pháp tất không khởi, các pháp còn lại gồm thâu bao nhiêu trì, bao nhiêu nhập, bao nhiêu ấm?

Trừ pháp chưa sinh cùng các pháp tất không sinh, các pháp còn lại gồm thâu bao nhiêu trì, bao nhiêu nhập, bao nhiêu ấm? Các pháp có sắc – không sắc, có thể thấy – không thể thấy, có đối – không đối, hữu lậu – vô lậu, hữu vi – vô vi. Các pháp quá khứ, vị lai, hiện tại, thiện, bất thiện, vô ký, hệ thuộc cõi Dục, hệ thuộc cõi Sắc, hệ thuộc cõi Vô sắc, học, vô học, phi học phi vô học, do kiến đế đoạn, do tư duy đoạn, không đoạn, trừ các pháp trên cùng pháp tất không sinh, các pháp còn lại gồm thâu bao nhiêu trì, bao nhiêu nhập, bao nhiêu ấm?

Từng có một trì, một nhập, một ấm, gồm thâu tất cả các pháp chăng?

Về các nghĩa trên, chương nầy xin diễn nói đầy đủ.

*

Hỏi: Các tụ trí, tụ ấy là đoạn chăng?

Đáp: Hoặc có tụ trí, tụ ấy không đoạn.

Thế nào là tụ trí, tụ ấy không đoạn? Là do khổ trí, tập, tận, đạo trí không dứt trừ cấu uế. Đó gọi là tụ trí, tụ ấy không đoạn.

Thế nào là tụ đoạn, tụ ấy không là trí? Là do khổ nhẫn, tập, tận, đạo nhẫn đoạn trừ cấu uế. Đó gọi là tụ đoạn, tụ ấy không là trí.

Thế nào là tụ trí, tụ ấy là đoạn? Là do khổ trí, tập, tận, đạo trí đoạn trừ cấu uế. Đó gọi là tụ trí, tụ ấy là đoạn.

Thế nào là tụ không phải là trí, tụ ấy không đoạn? Là do khổ nhẫn, tập, tận, đạo nhẫn không đoạn trừ cấu uế. Đó gọi là tụ không phải là trí, tụ ấy không đoạn.

Hỏi: Các tụ chán lìa, tụ ấy là không dục chăng?

Đáp: Hoặc có tụ chán lìa, tụ ấy không phải là không dục.

Thế nào là tụ chán lìa, tụ ấy không phải là không dục? Là do khổ nhẫn, tập nhẫn, do khổ trí, tập trí không đoạn trừ cấu uế. Đó gọi là tụ chán lìa, tụ ấy không phải là không dục.

Thế nào là tụ không dục, tụ ấy không phải là chán lìa? Là do tận nhẫn, đạo nhẫn, do tận trí, đạo trí đoạn trừ cấu uế. Đó gọi là tụ không dục, tụ ấy không phải là chán lìa.

Thế nào là tụ chán lìa, tụ ấy là không dục? Là do khổ nhẫn, tập nhẫn, do khổ trí, tập trí đoạn trừ cấu uế. Đó gọi là tụ chán lìa, tụ ấy là không dục.

Thế nào là tụ không phải là chán lìa, tụ ấy không phải là không dục? Là do tận nhẫn, đạo nhẫn, do tận trí, đạo trí không đoạn trừ cấu uế. Đó gọi là tụ không phải là chán lìa, tụ ấy không phải là không dục.

Hỏi: Các tụ chán lìa, tụ ấy tu chán lìa chăng?

Đáp: Đúng vậy. Các tụ chán lìa, tụ ấy tu chán lìa.

Hỏi: Từng có tụ tu chán lìa, tụ ấy không phải là chán lìa chăng?

Đáp: Có. Là do tận trí, đạo trí đoạn trừ cấu uế.

Hỏi: Các tụ không dục, tụ ấy tu chán lìa chăng?

Đáp: Hoặc có tụ không dục, tụ ấy không tu chán lìa.

Thế nào là tụ không dục, tụ ấy không tu chán lìa? Là do tận nhẫn, đạo nhẫn đoạn trừ cấu uế. Đó gọi là tụ không dục, tụ ấy không tu chán lìa.

Thế nào là tụ tu chán lìa, tụ ấy không phải là không dục? Là do khổ nhẫn, tập nhẫn, do khổ trí, tập trí không đoạn trừ cấu uế. Đó gọi là tụ tu chán lìa, tụ ấy không phải là không dục.

Thế nào là tụ không dục, tụ ấy tu chán lìa? Là do khổ nhẫn, tập nhẫn, do khổ trí, tập, tận, đạo trí đoạn trừ cấu uế. Đó gọi là tu không dục, tụ ấy tu chán lìa.

Thế nào là tụ không phải không dục, tụ ấy không tu chán lìa? Là do tận nhẫn, đạo nhẫn không đoạn trừ cấu uế. Đó gọi là tụ không phải không dục, tụ ấy không tu chán lìa.

Hỏi: Nếu pháp làm Nhân duyên cho các pháp kia, hoặc có lúc pháp ấy không phải là nhân duyên cho pháp kia chăng?

Đáp: Không có.

Hỏi: Nếu pháp làm Thứ đệ (Đẳng vô gián) cho các pháp kia, hoặc có lúc pháp ấy không phải là thứ đệ cho pháp kia chăng?

Đáp: Nếu pháp kia chưa sinh.

Hỏi: Nếu pháp làm Duyên (Sở duyên), Tăng thượng cho các pháp kia, hoặc có lúc pháp ấy không phải là duyên, tăng thượng cho pháp kia chăng?

Đáp: Không có.

Hỏi: Các ý xúc, tất cả ý xúc ấy là xúc của ba thứ hòa hợp chăng?

Đáp: Đúng vậy. Các ý xúc, tất cả ý xúc ấy là xúc của ba thứ hòa hợp.

Hỏi: Từng có xúc của ba thứ hòa hợp, xúc ấy không phải là tất cả ý xúc chăng?

Đáp: Có. Là xúc tương ưng với năm thức thân.

Đức Thế Tôn cũng nói: Tỳ-kheo nên biết! Có ý trì, pháp trì (ý giới, pháp giới), có vô minh xúc sinh ra thọ đã tiếp xúc. Kẻ ngu không hiểu biết bèn chấp có chấp không, hoặc chấp có – không.

Hỏi: Các mạn, tất cả các mạn ấy là tự chấp nơi mình chăng?

Đáp: Đúng vậy. Các mạn, tất cả các mạn ấy là tự chấp nơi mình.

Hỏi: Từng có tự chấp nơi mình không phải là mạn chăng?

Đáp: Có. Là kiến. Đức Thế Tôn cũng nói: Tỳ-kheo nên biết! Tự chấp có ngã, tự chấp có ngã sở.

Hỏi: Các mạn, tất cả mạn ấy là không tịch tĩnh chăng? Đáp: Đúng vậy. Các mạn, tất cả mạn ấy là không tịch tĩnh

Hỏi: Từng có không tịch tĩnh không phải là mạn chăng?

Đáp: Có. Là trừ mạn, các cấu uế khác hiện ở trước. Đức Thế Tôn cũng nói: Tỳ-kheo nên biết! Động là bị ma trói buộc. Không động là giải thoát khỏi ma Ba-tuần.

Hỏi: Các hành (nghiệp), tất cả hành ấy không phải là hộ (luật nghi) chăng?

Đáp: Hoặc có hành, hành ấy không phải là không hộ.

Thế nào là hành, hành ấy không phải là không hộ? Là thân hộ, khẩu hộ (luật nghi nơi thân, miệng). Đó gọi là hành, hành ấy không phải là không hộ.

Thế nào là không hộ, hộ ấy không phải là hành? Là căn không hộ. Đó gọi là không hộ, hộ ấy không phải là hành.

Thế nào là hành, hành ấy là không hộ? Là thân không hộ, miệng không hộ. Đó gọi là hành, hành ấy là không hộ.

Thế nào là không phải hành, hành ấy không phải là không hộ? Là căn hộ. Đó gọi là không phải hành, hành ấy không phải là không hộ.

Hỏi: Các hành (nghiệp), tất cả hành ấy là hộ (luật nghi) chăng?

Đáp: Hoặc có hành, hành ấy không phải là hộ.

Thế nào là hành, hành ấy không phải là hộ? Là thân không hộ, miệng không hộ. Đó gọi là hành, hành ấy không phải là hộ.

Thế nào là hộ, hộ ấy không phải là hành? Là căn hộ. Đó gọi là hộ, hộ ấy không phải là hành.

Thế nào là hành, hành ấy là hộ? Là thân hộ, miệng hộ. Đó gọi là hành, hành ấy là hộ.

Thế nào là không phải hành, hành ấy không phải là hộ? Là căn không hộ. Đó gọi là không phải hành, hành ấy không phải là hộ.

Hỏi: Nếu tụ không được, tụ ấy là không thành tựu chăng?

Đáp: Đúng vậy. Nếu tụ không được, tụ ấy là không thành tựu.

Hỏi: Từng có tụ không thành tựu, tụ ấy không phải là không được chăng?

Đáp: Có. Là như tụ được liền mất.

Hỏi: Nếu tụ được, tụ ấy là thành tựu chăng?

Đáp: Đúng vậy. Nếu tụ thành tựu, tụ ấy là được.

Hỏi: Từng có tụ được, tụ ấy không phải là thành tựu chăng?

Đáp: Có. Là như tụ được liền mất.

Trừ khổ Thánh đế cùng pháp nhập (Pháp xứ), các pháp còn lại gồm thâu hai trì (giới), một nhập (xứ), một ấm (uẩn).

Như khổ Thánh đế, tập Thánh đế cũng như vậy.

Trừ tận Thánh đế cùng pháp nhập, các pháp còn lại gồm thâu mười bảy trì, mười một nhập, hai ấm.

Như tận Thánh đế, đạo Thánh đế cũng như vậy.

Trừ pháp có sắc cùng pháp nhập (Pháp xứ), các pháp còn lại gồm thâu bảy trì, một nhập, một ấm. Trừ pháp không sắc cùng pháp nhập, các pháp còn lại gồm thâu mười trì, mười nhập, một ấm.

Trừ pháp có thể thấy cùng pháp nhập, các pháp còn lại gồm thâu mười sáu trì, mười nhập, hai ấm. Trừ pháp không thể thấy cùng pháp nhập, các pháp còn lại gồm thâu một trì, một nhập, một ấm.

Trừ pháp có đối cùng pháp nhập, các pháp còn lại gồm thâu bảy trì, một nhập, một ấm. Trừ pháp không đối cùng pháp nhập, các pháp còn lại gồm thâu mười trì, mười nhập, một ấm.

Trừ pháp hữu lậu cùng pháp nhập, các pháp còn lại gồm thâu hai trì, một nhập, một ấm. Trừ pháp vô lậu cùng pháp nhập, các pháp còn lại gồm thâu mười bảy trì, mười một nhập, hai ấm.

Trừ pháp hữu vi cùng pháp nhập, các pháp còn lại tức trừ tất cả pháp không tụ nên không bàn. Trừ pháp vô vi cùng pháp nhập, các pháp còn lại gồm thâu mười bảy trì, mười một nhập, hai ấm.

Trừ pháp quá khứ, hiện tại cùng pháp nhập, các pháp còn lại gồm thâu mười bảy trì, mười một nhập, hai ấm. Trừ pháp vị lai cùng pháp nhập, các pháp còn lại gồm thâu mười bảy trì, mười một nhập, hai ấm.

Trừ pháp thiện, bất thiện cùng pháp nhập, các pháp còn lại gồm thâu mười bảy trì, mười một nhập, hai ấm. Trừ pháp vô ký cùng pháp nhập, các pháp còn lại gồm thâu chín trì, ba nhập, hai ấm.

Trừ pháp hệ thuộc cõi Dục cùng pháp nhập, các pháp còn lại gồm thâu mười ba trì, chín nhập, hai ấm. Trừ pháp hệ thuộc cõi Sắc, pháp hệ thuộc cõi Vô sắc, pháp học, pháp vô học cùng pháp nhập, các pháp còn lại gồm thâu mười bảy trì, mười một nhập, hai ấm. Trừ pháp phi học phi vô học cùng pháp nhập, các pháp còn lại gồm thâu hai trì, một nhập, một ấm.

Trừ pháp do kiến đế đoạn, pháp không đoạn cùng pháp nhập, các pháp còn lại gồm thâu mười bảy trì, mười một nhập, hai ấm. Trừ pháp do tư duy đoạn cùng pháp nhập, các pháp còn lại gồm thâu hai trì, một nhập, một ấm.

Trừ pháp khởi cùng các pháp tất không khởi, các pháp còn lại gồm thâu mười tám trì, mười hai nhập, năm ấm.

Trừ pháp chưa sinh cùng các pháp tất không sinh, tức trừ hết thảy pháp không tụ nên không bàn.

Trừ pháp có sắc cùng các pháp tất không sinh, các pháp còn lại gồm thâu tám trì, hai nhập, bốn ấm. Trừ pháp không sắc cùng các pháp tất không sinh, các pháp còn lại gồm thâu mười một trì, mười một nhập, một ấm.

Trừ pháp có thể thấy cùng các pháp tất không sinh, các pháp còn lại gồm thâu mười bảy trì, mười một nhập, năm ấm. Trừ pháp không thể thấy cùng các pháp tất không sinh, các pháp còn lại gồm thâu một trì, một nhập, một ấm.

Trừ pháp có đối cùng các pháp tất không sinh, các pháp còn lại gồm thâu tám trì, hai nhập, năm ấm. Trừ pháp không đối cùng các pháp tất không sinh, các pháp còn lại gồm thâu mười trì, mười nhập, một ấm.

Trừ pháp hữu lậu cùng các pháp tất không sinh, các pháp còn lại gồm thâu ba trì, hai nhập, năm ấm. Trừ pháp vô lậu cùng các pháp tất không sinh, các pháp còn lại gồm thâu mười tám trì, mười hai nhập, năm ấm.

Trừ pháp hữu vi cùng các pháp tất không sinh, tức trừ hết thảy pháp không tụ nên không bàn. Trừ pháp vô vi cùng các pháp tất không sinh, các pháp còn lại gồm thâu mười tám trì, mười hai nhập, năm ấm.

Trừ pháp quá khứ, hiện tại cùng các pháp tất không sinh, các pháp còn lại gồm thâu mười tám trì, mười hai nhập, năm ấm. Trừ pháp vị lai cùng các pháp tất không sinh, tức trừ hết thảy pháp không tụ nên không bàn.

Trừ pháp thiện, bất thiện cùng các pháp tất không sinh, các pháp còn lại gồm thâu mười tám trì, mười hai nhập, năm ấm.

Trừ pháp vô ký cùng các pháp tất không sinh, các pháp còn lại gồm thâu mười trì, bốn nhập, năm ấm.

Trừ pháp hệ thuộc cõi Dục cùng các pháp tất không sinh, các pháp còn lại gồm thâu mười bốn trì, mười nhập, năm ấm. Trừ pháp hệ thuộc cõi Sắc, pháp hệ thuộc cõi Vô sắc, pháp học, pháp vô học cùng các pháp tất không sinh, các pháp còn lại gồm thâu mười tám trì, mười hai nhập, năm ấm. Trừ pháp phi học phi vô học cùng các pháp tất không sinh, các pháp còn lại gồm thâu ba trì, hai nhập, năm ấm.

Trừ pháp do kiến đế đoạn, pháp không đoạn cùng các pháp tất không sinh, các pháp còn lại gồm thâu mười tám trì, mười hai nhập, năm ấm.

Trừ pháp do tư duy đoạn cùng các pháp tất không sinh, các pháp còn lại gồm thâu ba trì, hai nhập, năm ấm.

Hỏi: Từng có một trì, một nhập, một ấm gồm thâu tất cả pháp chăng?

Đáp: Có. Một trì là pháp trì (Pháp giới), một nhập là ý nhập (ý xứ), một ấm là sắc ấm (sắc uẩn).

***

Phẩm 5: BÀN VỀ KIẾN

* Tụng nêu chung:

Tà kiến đoạn cấu, tịnh

Không nhân, không trí kiến

Trí lực, không tinh tấn

Tạo bảy nhân thân sĩ.

Bốn bản, duyên hoàn không

Không nhân, tự cũng tha

Ngã tạo, tác không nhân

Đây kia, ngã, sáu kiến.

Dục, lạc cùng các thiền

Không có, không phi gió

Ngã tạo cũng có mạn

Hoặc được hoặc sẽ được.

Nên gọi là phẩm Kiến.

Như có kiến nầy: Không thí, không phước, không nêu bày: Tà kiến nầy là do Tập đế đoạn trừ.

Không có quả báo của hành thiện, ác: Tà kiến nầy do Khổ đế đoạn.

Không có đời nay, đời sau, không cha không mẹ: Tà kiến nầy do Tập đế đoạn.

Không có pháp lạc nơi bậc A-la-hán ở thế gian: Tà kiến nầy do Đạo đế đoạn.

Không có đẳng pháp: Tà kiến nầy do Tận đế đoạn.

Không có chứng đắc nơi đời nầy đời sau. Tự trí tác chứng đạt đến thành tựu: Tà kiến nầy do Đạo đế đoạn.

Như có kiến nầy: Đối với mạng sống ấy, ở nơi chốn khác đoạn hoại, không có chết. Biên kiến nầy thuộc về Kiến đoạn diệt do Khổ đế đoạn.

Như có kiến nầy: Bốn đại nơi thân người, khi mạng chung, lúc ấy chất đất nơi thân thuộc về đất, chất nước nơi thân thuộc về nước, chất lửa nơi thân thuộc về lửa, chất gió nơi thân thuộc về gió, căn quy về hư không, thân trống rỗng, xe chở là thứ năm mang tử thi đến bỏ nơi gò mả, dấu vết hiện bày. Biên kiến nầy thuộc về Hữu thường kiến do Khổ đế đoạn.

Như có kiến nầy: Xương trắng, màu sắc chim bồ câu ngã biến v.v… là tro, hoặc lửa duyên nơi ngã. Đây không phải kiến mà là tà trí. Nếu ngã duyên nơi hành hữu lậu, đây là Tà kiến do Tập đế đoạn. Nếu ngã kiến nơi hành vô lậu, Tà kiến nầy do Đạo đế đoạn.

Như có kiến nầy: Đối với kẻ tham thì tán thán bố thí, kẻ trí thì tán thán thọ nhận, là phỉ báng trí pháp. Tà kiến nầy do Đạo đế đoạn.

Như có kiến nầy: Kẻ kia hoàn toàn vọng ngữ, đây là ngu, không phải trí. Các việc tạo tác như nói, đối với mạng sống hiện có, ở nơi chốn khác đoạn hoại, từng không có chết. Sự ngu tối nầy là Biên kiến, thuộc về Hữu thường kiến do Khổ đế đoạn.

Như có kiến nầy: Không nhân không duyên, đối với mọi phiền não cấu uế hiện có của chúng sinh là không nhân không duyên. Tà kiến nầy do Tập đế đoạn.

Như có kiến nầy: Không nhân, không duyên khiến các chúng sinh thanh tịnh. Không phải nhân, không phải duyên mà các chúng sinh thanh tịnh. Tà kiến nầy do Đạo đế đoạn.

Như có kiến nầy: Không nhân, không duyên khiến các chúng sinh không trí, không kiến. Không phải nhân, không phải duyên mà các chúng sinh không trí, không kiến. Tà kiến nầy do Tập đế đoạn.

Như có kiến nầy: Không nhân, không duyên khiến các chúng sinh có trí, có kiến. Không phải nhân, không phải duyên mà chúng sinh có trí, có kiến. Tà kiến nầy do Đạo đế đoạn.

Như có kiến nầy: Không có lực, không có tinh tấn, không lực tinh tấn, không tự tạo, không tha tạo, không sĩ phu tạo, không phải tự tạo, không phải tha tạo, không phải sĩ phu tạo. Tất cả chúng sinh, tất cả loài trùng, tất cả thần là không lực, không tự tại, không tinh tấn, không phương tiện. Có hành báo là không nhân, không duyên, chúng sinh thọ nhận khổ vui nơi sáu thắng sinh. Nếu phỉ báng lực, tinh tấn hữu lậu, tà kiến nầy do Tập đế đoạn. Nếu phỉ báng lực, tinh tấn vô lậu, tà kiến nầy do Đạo đế đoạn.

Như có kiến nầy: Tạo tác, chỉ dạy sai lạc, đối với các việc giết hại chúng sinh, không cho mà lấy, hành hạnh tà dâm, vọng ngữ, uống rượu, đục tường, phá kho để trộm vật báu, gian dâm vợ người, gây hại cho thôn xóm, làng nước sinh mạng v.v… cho đấy không phải là việc xấu ác, cho là không nhân, không duyên, không có báo ác. Ở bên tả sông Hằng thì bố thí, tạo phước, nói pháp. Ở bên hữu sông Hằng thì đánh đập, chém giết, đều cho là không phước, không ác, không duyên, không nhân. Tà kiến nầy do Tập đế đoạn.

Như có kiến nầy: Đây là thân bảy sĩ, không làm mà làm, không hóa mà hóa, thật sự an trụ, luôn an trụ, không dời động, không có chuyển biến, đều không xúc chạm nhau. Những gì là bảy? Tức là đất, nước, lửa, gió, khổ, vui, thọ mạng. Đó là thân bảy sĩ, không làm mà làm, không hóa mà hóa, thật trụ, thường trụ, an lập không lay động đều không xúc chạm nhau. Hoặc phước, hoặc tội, hoặc phước tội, hoặc khổ, hoặc vui, hoặc khổ vui, không thể chuyển biến, cũng không thể làm cho cùng trở ngại, cùng xúc chạm. Biên kiến nầy thuộc về Hữu thường kiến do Khổ đế đoạn.

(*) Như có kiến nầy: Có mười bốn ức sáu vạn sáu trăm môn sinh. Năm nghiệp, ba nghiệp, hai nghiệp, một nghiệp, nửa nghiệp, sáu mươi hai hành tích, sáu mươi hai trung kiếp, một trăm ba mươi sáu địa ngục, một trăm hai mươi căn, ba mươi sáu trần giới, bốn vạn chín ngàn nhà rồng, bốn vạn chín ngàn nhà chim kim sí, bốn vạn chín ngàn nhà dị học, bốn vạn chín ngàn nhà sinh sống, bảy tạng hữu tưởng, bảy tạng vô tưởng, bảy tạng lìa trói buộc, bảy A-tu-luân, bảy Tất-xá-giá, bảy trời, bảy người, bảy mộng, bảy trăm giấc mộng, bảy giác, bảy trăm giác, bảy ao, bảy trăm ao, bảy đường hiểm, bảy trăm đường hiểm, bảy giảm, bảy trăm giảm, bảy tăng, bảy trăm tăng, sáu loại thắng sinh, tám Đại sĩ địa. Nơi xứ như thế, trải qua tám vạn bốn ngàn đại kiếp, hoặc ngu hoặc trí lưu chuyển qua lại, nên quyết định có thể tạo ra biên vực khổ, như ném cuộn chỉ, chỉ hết nên dừng lại.

Ở đây, không có Sa môn, hoặc Bà la môn có thể nói thế nầy: Ta dùng giới, hoặc dùng tinh tấn, hoặc dùng phạm hạnh khiến cho nghiệp hiện có chưa thành thục được thành thục, thành thục xúc chạm xong tức liền biến đổi, loại bỏ.

Do hướng định về biên vực khổ, vui nơi sinh tử như thế, không thể thiết lập có tăng có giảm, cũng không thể nói, hoặc rõ ràng, hoặc không rõ ràng. Đây là không phải nhân chấp là nhân, thuộc Trộm giới (Giới cấm thủ) do Khổ đế đoạn.

Như có kiến nầy: Tất cả sĩ phu, chúng sinh, các Hữu đã thọ, tất cả đều cho do đời trước tạo tác làm nhân. Đây là không phải nhân chấp là nhân, thuộc Giới cấm thủ do Khổ đế đoạn.

Như có kiến nầy: Tất cả sĩ phu, chúng sinh, các Hữu đã thọ nhận, đều cho do sự biến hóa của Tự tại làm nhân. Đây là không phải nhân chấp là nhân, thuộc Giới cấm thủ do Khổ đế đoạn.

Như có kiến nầy: Tất cả sĩ phu, chúng sinh đã thọ nhận đều cho là không có nhân, không có duyên. Đây là tà kiến hủy báng về nhân, do Tập đế đoạn.

Như có kiến nầy: Tự tạo ra khổ vui, người khác tạo ra khổ vui, mình và người khác tạo ra khổ vui. Đây không phải là nhân chấp là nhân, thuộc giới cấm thủ do Khổ đế đoạn.

Như có kiến nầy: Các khổ vui đã thọ nhận, không phải tự tạo, không phải người khác tạo, không có nhân mà sinh. Đây là tà kiến hủy báng nhân do Tập đế đoạn.

Như có kiến nầy: Ngã và thế gian thường hằng, an trụ kiên cố, là pháp không biến dịch, luôn an trụ như vậy. Biên kiến nầy thuộc về Hữu thường kiến do Khổ đế đoạn.

Như có kiến nầy: Là đế là trụ, nên ta có ngã. Biên kiến nầy thuộc về Hữu thường kiến, do Khổ đế đoạn.

Như có kiến nầy: Là đế là trụ, nên ta không có ngã. Biên kiến nầy thuộc về Đoạn diệt kiến, do Khổ đế đoạn.

Như có kiến nầy: Ngã quán ngã, nhãn sắc tức là ngã. Đây là Thân kiến do Khổ đế đoạn.

Như có kiến nầy: Ngã quán không ngã, mắt tức là ngã, sắc là các công cụ. Đây là Thân kiến, do Khổ đế đoạn.

Như có kiến nầy: Không ngã quán ngã, sắc tức là ngã, mắt là các công cụ. Đây là Thân kiến, do Khổ đế đoạn.

Như có kiến nầy: Đây là ngã, là chúng sinh, là thọ mạng, sự sinh, người nuôi dạy, con người, ý sinh, nho đồng, kẻ tạo tác, chỉ dạy, người sinh, người cùng sinh, người khởi, người cùng khởi, người nói, người nhận biết. Cùng lãnh nhận, không phải từng không có, không phải sẽ không có, nơi các xứ kia tạo nghiệp thiện ác. Nơi các xứ kia thọ nhận quả báo, bỏ ấm nầy nối tiếp ấm khác. Biên kiến nầy thuộc về Hữu thường kiến, do Khổ đế đoạn.

Như có kiến nầy: Thọ nhận năm dục vui đẹp, gọi là được Niếtbàn của hiện pháp thứ nhất. Đây là lấy pháp thấp kém cho là thù thắng, thuộc về Trộm kiến (kiến thủ), do Khổ đế đoạn.

Như có kiến nầy: Lìa pháp dục ác bất thiện, có giác có quán, ly sinh hỷ lạc, nhập trụ đầy đủ nơi thiền thứ nhất, gọi là đạt Niết-bàn của hiện pháp thứ nhất.

Giác, quán tĩnh lặng, nội cùng tịnh, tánh của tâm một cảnh.

Không giác, quán, định sinh hỷ lạc, nhập trụ đầy đủ nơi thiền thứ hai, gọi là được Niết-bàn của hiện pháp thứ nhất.

Lìa hỷ, trụ xả, chánh niệm chánh tri, thân thọ an lạc bậc Thánh, gọi là có thể xả, đủ niệm lạc trụ, nhập trụ đầy đủ nơi thiền thứ ba, gọi là đạt Niết-bàn của hiện pháp thứ nhất.

Đoạn vui, dứt khổ, trước hết là hỷ, ưu mất hẳn, không khổ không vui, xả niệm thanh tịnh, nhập trụ đầy đủ nơi thiền thứ tư, gọi là đạt Niết-bàn của hiện pháp thứ nhất. Đây là lấy pháp thấp kém cho là thù thắng, thuộc về kiến thủ, do Khổ đế đoạn.

Có chín loại mạn: Tức ta hơn, ta bằng, ta kém. Có người hơn ta, có người bằng ta, có người kém ta. Không ai hơn ta, không ai bằng ta, không ai kém ta.

Ta hơn: Là dựa vào kiến, khởi quá mạn.

Ta bằng: Là dựa vào kiến, khởi mạn.

Ta kém: Là dựa vào kiến, khởi ty mạn.

Có kẻ hơn ta: Là dựa vào kiến, khởi ty mạn.

Có kẻ bằng ta: Là dựa vào kiến, khởi mạn.

Có kẻ kém ta: Là dựa vào kiến, khởi quá mạn.

Không ai hơn ta: Là dựa vào kiến, khởi mạn Không ai bằng ta: Là dựa vào kiến, khởi quá mạn.

Không ai kém ta: Là dựa vào kiến, khởi ty mạn.

Như có kiến nầy: Gió không thổi, sông không trôi, lửa không cháy, sữa không chảy ra, thai không mang, mặt trời mặt trăng không mọc, không lặn, trụ nơi tự tánh nhiễm tịnh, không tăng không giảm. Đây là Biên kiến thuộc về Hữu thường kiến, do Khổ đế đoạn.

Như trong Khế kinh nói:

Chúng sinh chấp ngã tạo

Chấp người tạo cũng vậy Đều không thể như thật Quán biết là mũi tên.

Hỏi: Lời nầy có ý nghĩa gì?

Đáp: Chúng sinh là chỉ cho ngoại đạo. Ngoại đạo kia tạo ra chấp nầy: “Ngã có thể tạo tác, ngã có thể sinh, ngã có thể biến hóa”, nên nói: “Chúng sinh chấp ngã tạo”.

Lại có ngoại đạo chấp cho người khác có thể tạo, người khác có thể sinh, có thể biến hóa, nên nói: “Chấp người tạo cũng vậy”. Tức đều cho mỗi mỗi không phải là tất cả mũi tên: Nghĩa là ác kiến có thể bị trúng thương, nên kẻ kia đối với kiến nầy không thể quán biết như thật về mũi tên ấy.

Nên quán mũi tên nầy

Chúng sinh chấp trước chặt

Như thế tức không có

Ta tạo, người khác tạo.

Nên quán mũi tên nầy: Là nên quán biết như thật về kiến ấy đúng là mũi tên độc, nó là sự dẫn đường đi trước cho già, bệnh, chết.

Chúng sinh chấp trước chặt: Chúng sinh là chỉ cho ngoại đạo, ở trong cõi kiến đã chấp trước sâu dày, không thể xuất ly. Nếu có thể quán biết đúng như thật như thế tức không còn chấp có ngã tạo tác, có ngã sinh, ngã biến hóa, cũng không còn chấp có người khác tạo tác, người khác sinh, biến hóa, do nhận biết đối với không phải có, vọng chấp là có:

Chúng sinh đủ mạn

Mạn chấp mạn buộc

Nơi kiến trái nhau

Không vượt sinh tử.

Đủ mạn: Là làm rõ việc tạo thành bảy mạn. Chúng sinh: Nghĩa là ngoại đạo. Họ đối với bảy mạn đã chấp, chấp trước nhiều, vướng mắc khắp, nên nói là “Mạn chấp”. Trói buộc, trói buộc nhiều, trói buộc khắp, nên nói là “Mạn buộc”.

Nơi kiến trái nhau: Là loại đoạn kiến, thường kiến hỗ tương trái nhau.

Không vượt sinh tử: Là các ngoại đạo kia đối với nẻo sinh tử không bờ bến, không thể vượt qua để đạt đến Niết-bàn.

Được, sẽ được, cùng hợp

Học, kém, giới, cấm, gội

Phạm, khổ, sự, một biên

Thọ dục tịnh, thứ hai

Không thấy, tột chìm, chạy

Mắt sáng thấy, nên khác

Đối kia không bụi, mạn

Dứt đường đến bờ khổ.

Được: Là chỉ rõ đã được các ấm (uẩn), trì (giới), nhập (xứ).

Sẽ được: Là hiển bày việc chưa được các thứ ấy.

Cùng hợp: Là hai thứ ấy cùng làm tham, sân, si, là phiền não cấu uế tụ hợp, tụ hợp khắp, tụ hợp tột cùng.

Kém: Có hai nghĩa: Chỉ cho bệnh và chỉ cho ngoại đạo. Nay nói ngoại đạo là kẻ thua kém, vì họ ở đây là theo học nên gọi là học kém. Họ nói thế nầy: Các chúng sinh học cỡi voi, ngựa, chèo thuyền, lái xe, khiêng kiệu, cầm giữ cung, gậy, móc sắt, bánh xe, lụa là, in ấn, sách vở, toán số, đều khiến thiện xảo v.v…, do đấy nên được tịnh thoát, xuất ly khỏi biên vực tận cùng của khổ vui. Đây là không phải nhân chấp là nhân, thuộc Giới cấm thủ do kiến khổ đoạn.

Giới: Là có các ngoại đạo khởi kiến chấp nầy, lập luận nầy: Các chúng sinh thọ giữ các thứ giới của bò, nai, chó, lõa hình v.v…, do đấy nên được tịnh thoát, xuất ly khỏi biên vực tận cùng của khổ vui. Đây là không phải nhân chấp là nhân, thuộc Giới cấm thủ do kiến khổ đoạn.

Cấm: Là có các ngoại đạo khởi kiến chấp nầy, lập luận nầy: Các chúng sinh thọ giữ sự ngăn cấm của các loài chim, sự ngăn cấm phải yên lặng v.v…, do đấy nên được tịnh thoát, xuất ly khỏi biên vực tận cùng của khổ vui. Đây là không phải nhân chấp là nhân, thuộc Giới cấm thủ do kiến khổ đoạn.

Gội: Là có các ngoại đạo khởi kiến chấp nầy, lập luận nầy: Các chúng sinh ở nơi ba ao lớn như Ma-nại-bà v.v… là cửa ngõ của sông Hằng tắm gội, do đấy nên được tịnh thoát, xuất ly khỏi biên vực tận cùng của khổ vui. Đây là không phải nhân chấp là nhân, thuộc Giới cấm thủ do kiến khổ đoạn.

Phạm: Là phạm hạnh. Có các ngoại đạo khởi kiến chấp nầy, lập luận nầy: Các chúng sinh thọ giữ phạm hạnh, xa lìa dâm dục, do đấy nên được tịnh thoát, xuất ly khỏi biên vực tận cùng của khổ vui. Đây là không phải nhân chấp là nhân, thuộc Giới cấm thủ do kiến khổ đoạn.

Khổ: Là khổ hạnh. Có các ngoại đạo khởi kiến chấp nầy, lập luận nầy: Các chúng sinh thọ nhận đủ các thứ khổ hạnh, do đấy nên được tịnh thoát, xuất ly khỏi biên vực tận cùng của khổ vui. Đó là không phải nhân chấp là nhân, thuộc Giới cấm thủ do kiến khổ đoạn.

Sự: Là thừa sự. Có các ngoại đạo khởi kiến chấp nầy, lập luận nầy: Các chúng sinh điều phục các loại voi, ngựa, bò, thờ mặt trời mặt trăng tinh tú, lửa v.v…, do đấy nên được tịnh thoát, xuất ly khỏi biên vực tận cùng của khổ vui. Đây là không phải nhân chấp là nhân, thuộc Giới cấm thủ do kiến khổ đoạn.

Một biên: Là biên khổ hạnh như trên đã nói.

Thọ dục tịnh: Là có các ngoại đạo khởi kiến chấp nầy, lập luận nầy: Các dục tịnh tinh đẹp, vừa ý thọ dụng, không có lỗi lầm. Đây là lấy pháp thấp kém làm thù thắng, là Kiến thủ do kiến khổ đoạn.

Thứ hai: Tức ở đây nói đến một biên của lạc hạnh.

Không thấy: Là các ngoại đạo đối với hai biên trên, không thấy đúng như thật.

Tột chìm, chạy: Là các ngoại đạo kia, do không thấy, nên một loại khởi ái gọi là tột cùng chìm, một loại khởi kiến gọi là tột cùng chạy. Lại nữa, một loại lười biếng nên gọi là tột cùng chìm, một loại trạo cử gọi là tột cùng chạy. Lại nữa, một loại khởi mạn nên gọi là tột cùng chìm, một loại khởi quá mạn nên gọi là tột cùng chạy.

Mắt sáng trông thấy: Mắt sáng: Là Phật và đệ tử của Phật. Thấy: Là nơi hai biên đã nói ở trên, thấy biết đúng như thật.

Có thể khác: Là do thấy biết đúng như thật, nên không đồng với sự chìm, chạy tột cùng của ngoại đạo kia, do đã có thể không dấy khởi ái, kiến.

Đối kia không có bụi: Nghĩa là đối với ấm (uẩn), nhập (xứ), trì (giới) đã được, chưa được, không khởi các thứ bụi bặm tham, sân, si.

Đối kia không có mạn: Nghĩa là đối với hai biên, tuy cùng xa lìa, nhưng tâm không hề dựa cậy.

Dứt đường: Nếu có thể hành như thế, tức dứt tuyệt ba con đường là phiền não, nghiệp, khổ.

Đến biên vực tận cùng của khổ: Khổ tức là khổ của Năm thủ ấm. Biên vực tận cùng nghĩa là Niết-bàn. Nếu dứt tuyệt ba đường, nên đạt tới biên vực tận cùng của ấm khổ ấy.

Chú ý: Đoạn luận từ (*) tới cuối phẩm nầy đã dựa hẳn theo bản Hán dịch của Pháp sư Huyền Tráng để dịch (N0 1544/20). Vì bản Hán dịch N0 1543/30 văn rất khó đọc, khó hiểu.

 

Phẩm 6: BÀN VỀ KỆ

* Tụng nêu chung:

Thấy, phạm, phụ hơn, lưới

Xe vốn tin lưu chuyển

Mẫu vương tuệ thoát căn

Chương nầy xin nói đủ.

Đã thấy nên thấy biết

Đã thấy và không thấy

Người không thấy, không thấy

Không thấy và đã thấy.

Đã thấy: Nghĩa là những người đã thấy về khổ, tập, diệt, đạo.

Có thể thấy, Đã thấy và không thấy: Nghĩa là những người kia có thể thấy, các kẻ khác đã thấy cùng không thấy về khổ, tập, diệt, đạo.

Người không thấy: Nghĩa là những kẻ không thấy về khổ, tập, diệt, đạo.

Không thấy, không thấy và đã thấy: Nghĩa là những người kia không thấy, các kẻ khác không thấy và đã thấy về khổ, tập, diệt, đạo.

Không nên hại Phạm chí

Cũng lại không nên bỏ

Nếu hại họ hoặc bỏ

Người trí đời đều chê.

Không nên hại Phạm chí: Phạm chí tức là A-la-hán. Nghĩa là không nên dùng tay, hòn đất đá, dao, gậy để hại A-la-hán.

Cũng lại không nên bỏ: Nghĩa là đối với A-la-hán nên dùng y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc thang và các vật dụng cần thiết cho cho đời sống khác, cung kính cúng dường, không nên lìa bỏ.

Nếu hại họ hoặc bỏ, Người trí đời đều chê: Nghĩa là đối với A-la-hán nếu dùng tay, đất, đá v.v… để hại, hoặc lại còn từ bỏ không cung kính cúng dường, đều bị các người trí của thế gian chê trách quở mắng.

Nghịch hại nơi cha mẹ

Vua cùng hai đa văn

Diệt nước và tùy hành

Vô ngại quá Phạm chí.

Nghịch hại nơi cha mẹ,

Vua cùng hai đa văn: Mẹ tức dụ cho ái, do có thể sinh. Như Đức Thế Tôn nói:

Sĩ phu do ái sinh

Do tâm nên dong ruổi

Hữu tình ở sinh tử

Khổ là sợ hãi lớn.

Cha tức dụ cho nghiệp hữu lậu, do có thể dẫn dắt. Như Đức Thế Tôn nói: “Bí-sô! Hữu tình như thế tạo hữu lậu thiện, nghiệp do tu thành, được sinh ở cõi kia, vì thọ dị thục của quả, nên Ta nói hữu tình kia theo nghiệp mà hành”.

Vua tức dụ cho hữu, thủ, thức. Như Đức Thế Tôn nói:

Vua, tăng thượng thứ sáu

Nhiễm, khi nhiễm tự chọn

Không nhiễm mà có nhiễm

Người nhiễm gọi kẻ ngu.

Lại như Đức Thế Tôn nói: “Bí-sô nên biết! Ta nói về chủ thành, tức hữu, thủ, thức”.

Hai đa văn tức dụ cho kiến thủ, giới cấm thủ. Như cúng tế, tĩnh lặng, hai người đa văn ở trong bụi bặm cấu uế cùng tạo mọi thứ hý luận.

Hai thủ như thế, đối với pháp hữu lậu, chấp cho là hơn hết, là bậc nhất. Hoặc lại cho là tịnh thoát, xuất ly. Trừ bỏ thức thủ của nghiệp ái, vĩnh viễn đoạn trừ, nên gọi là nghịch hại.

Cõi nước dụ cho phiền não. Tùy hành dụ cho tầm, tứ tương ưng với thức thủ kia.

Tru diệt nghĩa là giết hết, tức từ bỏ, vĩnh viễn đoạn trừ phiền não tầm tứ, nên gọi là tru diệt.

Vô ngại, ngại có ba thứ, là tham, sân, si. A-la-hán kia đối với ba thứ nầy đã đoạn trừ, đã nhận biết khắp, nên gọi là vô ngại.

Quá nghĩa là ra khỏi. A-la-hán kia vì vô ngại nên vượt ra ngoài ba cõi, vì đoạn trừ vĩnh viễn pháp ác nên gọi là Phạm chí. Như Đức Thế Tôn nói:

Phật hằng trụ chánh niệm

Du hóa nơi thế gian

Diệt pháp ác, hết kiết

Nên gọi là Phạm chí.

Nghịch hại nơi cha mẹ

Vua cùng hai đa văn

Trừ cọp, oán thứ năm

Người ấy gọi thanh tịnh.

Ở đây nghĩa của hai câu trên, như trước đã nói.

Cọp dụ cho triền sân, như bẩm tánh của cọp là bạo ác, hung dữ, ăn uống máu, thịt. Triền sân cũng như vậy, bạo ác, hung hiểm, diệt các căn thiện.

Oán thứ năm dụ cho cái thứ năm trong năm cái, hoặc dụ cho kiết thứ năm trong năm kiết thuận phần dưới. Do dứt bỏ, đoạn trừ vĩnh viễn, nên nói là trừ. Do người nầy đã vĩnh viễn đoạn trừ tham, sân, si nên nói là thanh tịnh.

Thắng rồi không còn thắng

Đã thắng, không chốn tùy

Nẻo hành Phật vô biên

Không dấu do đâu đến.

Thắng rồi: Nghĩa là các phiền não đã đoạn trừ, đã nhận biết khắp. Sự thắng kia có thắng lại, có không thắng lại.

Ai thắng lại? Nghĩa là đã đoạn trừ phiền não, về sau trở lại thoái chuyển. Ai không thắng lại? Nghĩa là đã đoạn trừ phiền não, không còn thoái chuyển nữa.

Người không thắng lại là phân biệt chỗ khác với kẻ thắng lại.

Đã thắng, không chốn tùy: Nghĩa là nếu phiền não chưa đoạn trừ, chưa nhận biết khắp, tức tùy theo ba cõi, lưu chuyển tuần hoàn. Các phiền não đã đoạn trừ, đã nhận biết khắp, nên không còn nơi chốn tùy thuộc.

Nẻo hành Phật vô biên: Nghĩa là Đức Phật, Thế Tôn trí kiến vô học, giác ngộ sáng tỏ, tuệ soi hiện quán, khởi đạt thành tựu nên gọi là Phật.

Bốn niệm trụ gọi là nẻo hành hóa của Phật. Vì hành tướng nơi đối tượng duyên của bốn niệm trụ nầy đều là không biên vực nên gọi là vô biên.

Không dấu do đâu đến: Dấu vết: Nghĩa là dấu chân, tức dụ cho phiền não. Nếu các phiền não chưa đoạn trừ, chưa nhận biết khắp, nên các chúng sinh kia phải đi đến những nẻo ác nơi ba cõi. Các phiền não đã đoạn trừ, đã nhận biết khắp, nên không còn do đâu đi đến.

Các lưới không thể giăng

Ái không chỗ nào dẫn

Nẻo hành Phật vô biên

Không dấu do đâu đến?

Các lưới không thể giăng: Lưới tức dụ cho ái. Như Đức Thế Tôn nói: “Ta nói lưới ái bủa giăng khắp rừng núi, ao hồ. Nếu ái chưa đoạn trừ, chưa nhận biết khắp, thì có thể giăng mắc lưới hiện bày khắp cả ba cõi. Do đã đoạn trừ, đã nhận biết khắp nên không thể giăng bày”.

Ái không chỗ nào dẫn: Nghĩa là nếu ái chưa đoạn trừ, chưa nhận biết khắp, tức có thể dẫn đến ba cõi. Do đã đoạn trừ, đã nhận biết khắp, nên không nơi chốn để dẫn đến.

Hai câu sau nơi tụng, nghĩa như trước đã nói.

Xe đã hư, đứt dây

Chảy rót và tùy hành

Vượt qua hào, thế gian

Chỉ Phật xưng Phạm chí.

Xe đã hư, đứt dây, Chảy rót và tùy hành: Xe dụ cho ngã mạn, dây tức dụ cho ái. Như xe chuyên chở các vật do xe nên cao, do dây buộc giữ, nên đi xa mới đến nơi. Hữu tình cũng vậy, do mạn nên cao, do ái buộc gìn nên lưu chuyển nơi sinh tử.

Chảy rót tức dụ cho tất cả phiền não. Tùy hành dụ cho tầm, tứ tương ưng với phiền não kia. Đã đoạn trừ, đã nhận biết khắp mạn, ái, phiền não cùng tầm, tứ tương ưng, nên gọi là đã đoạn hoại.

Vượt qua hào: Hào dụ cho vô minh. Đã đoạn trừ, đã nhận biết khắp nên gọi là vượt qua. Như Đức Thế Tôn nói: “Ngang tới đâu được gọi là đã vượt qua hào? Nghĩa là đã đoạn trừ, đã nhận biết khắp về vô minh”.

Thế gian, Chỉ Phật xưng Phạm chí: Phật và Phạm chí nghĩa như trước đã giải thích. Nơi các thế gian, chỉ Đức Phật được xưng là Phạm chí chân thật, là bậc Vô Thượng Giác, mới có thể vĩnh viễn diệt trừ các pháp ác.

Một gốc, hai dòng xoáy

Ba cấu, năm lưu chuyển

Biển lớn, mười hai, hiểm

Mâu-ni đều đã vượt.

Một gốc: Là dụ cho vô minh, là căn bản của sinh tử, như Đức Thế Tôn nói:

Các nẻo ác hiện có

Đời nầy và đời sau

Đều vô minh làm gốc

Dục tham cùng hỗ trợ.

Hai dòng xoáy: Là dụ cho danh sắc, vì hữu tình ở trong đó khó có thể ra khỏi.

Ba cấu: Là cấu uế của tham, sân, si.

Năm lưu chuyển: Là dụ cho năm nẻo (thú), hữu tình ở trong ấy luôn lưu chuyển.

Biển lớn: Là dụ cho sáu nội xứ.

Mười hai: Là mười hai tướng, dụ cho sáu nội xứ và sáu ngoại xứ.

Hiểm: Là hầm hố hiểm trở dụ cho các phiền não.

Mâu-ni đều đã vượt: Mâu ni có hai là học và vô học. Học là đang vượt qua hầm hố phiền não hiểm trở kia. Vô học là đã vượt qua hầm hố phiền não hiểm trở đó.

Không tin, không biết ân

Đoạn kín, không xứ dung

Luôn hy vọng, biến đổi

Là trượng phu tối thượng.

Không tin: Là A-la-hán đối với Tam bảo, bốn đế, đều tự chứng biết, không phải tin nơi lời người khác nói.

Không biết ân: Ân nghĩa là hữu vi, vì có tác dụng, Niết-bàn gọi là phi ân. Các A-la-hán có trí kiến thù thắng, nhận biết về phi ân, nên gọi là không biết ân.

Đoạn kín: Kín nghĩa là nối tiếp. Sự nối tiếp nầy có hai thứ: 1. Sự nối tiếp của cõi Dục, cõi Sắc. 2. Sự nối tiếp của cõi Sắc, cõi Vô sắc.

Do A-la-hán đã lìa sự nối tiếp nầy, nên gọi là đoạn kín.

Không xứ dung: Nghĩa là A-la-hán đã lìa sự nối tiếp, nên ở trong ba cõi không dung nạp xứ sinh.

Luôn hy vọng, biến đổi: Hy vọng có hai: 1. Hy vọng về của cải, địa vị. 2. Hy vọng về thọ mạng.

A-la-hán kia đối với hai thứ nầy, vì đã đoạn trừ, đã nhận biết khắp, nên gọi là biến đổi, tức là nghĩa luôn hy vọng dứt bỏ.

Là trượng phu tối thượng: Nghĩa là vì A-la-hán đã đạt được công đức tối thượng, tối thắng bậc nhất đã nói ở trên, nên trong hàng trượng phu gọi là tối thượng, tối thắng bậc nhất.

Ba mươi sáu dòng chảy

Ý đã dẫn, tăng thịnh

Kẻ ác kiến, nhân ngự

Phân biệt chấp chỗ dựa.

Ba mươi sáu dòng chảy: Dụ cho ba mươi sáu hành ái.

Ý đã dẫn: Tức là ý tập, ý đã sinh khởi, là chủng loại của ý.

Tăng thịnh: Là phẩm thượng, mạnh, nhanh, đầy đủ.

Kẻ ác kiến: Nghĩa là các ngoại đạo. Họ đã nhân theo đấy đi đến Nại-lạc-ca, bàng sinh, quỷ giới, nên gọi là Nhân ngự (Nhân theo đấy).

Phân biệt: Nghĩa là ba thứ phân biệt: 1. Phân biệt của dục. 2. Phân biệt của sân. 3. Phân biệt của hại.

Chấp chỗ dựa: Chấp nghĩa là tham dục, giận dữ, ngu si. Ở đây đã dựa vào kia để khởi, nên gọi là chỗ dựa.

Bỏ hành ác thân

Và hành ác miệng

Bỏ hành ác ý

Cùng lỗi lầm khác.

Bỏ hành ác thân: Là đoạn trừ ba hành ác của thân.

Và hành ác miệng: Là đoạn trừ bốn hành ác của miệng.

Bỏ hành ác ý: Là đoạn trừ ba hành ác của ý.

Cùng lỗi lầm khác: Là đoạn trừ các lỗi lầm khác nơi mười thứ hành ác trước.

Ông đối điều thấy, nghe

Chỉ có điều thấy, nghe

Cùng những gì hiểu, biết

Chỉ có điều hiểu, biết.

Do vì ông chỉ có

Không đây, kia, gần, xa

Cũng không hai trung gian

Nên đến biên vực khổ.

Hai tụng như thế là hiển bày lại trong kinh: Phật bảo Đại mẫu! Ông đối với chỗ thấy, chỉ có chỗ đã thấy. Ông đối với chỗ nghe, chỉ có chỗ đã nghe. Ông đối với chỗ hiểu, chỉ có chỗ đã hiểu. Ông đối với chỗ biết, chỉ có chỗ đã biết.

Do ông chỉ có chỗ đã thấy, nghe v.v… nên ông không có sự thấy nghe đây. Do ông không có sự thấy nghe đây, nên ông không có sự thấy nghe kia. Do ông không có sự thấy nghe kia, nên ông không có gần, không có xa, không có hai trung gian. Vì nhân duyên ấy nên đã đến được biên vực của khổ.

Ở đây, nhãn thức đã lãnh thọ, phân biệt nhận biết nên gọi là chỗ thấy. Có kẻ đối với chỗ thấy, chỉ có chỗ thấy. Có kẻ đối với chỗ thấy, không phải chỉ có chỗ thấy. Ai đối với chỗ thấy, chỉ có chỗ thấy? Nghĩa là đối với nhãn thức đã thọ lãnh, phân biệt nhận biết, không dấy khởi phiền não. Ai đối với chỗ thấy không phải chỉ có chỗ thấy? Nghĩa là đối với nhãn thức đã thọ lãnh, phân biệt nhận biết, đã dấy khởi các phiền não.

Nhĩ thức đã thọ lãnh, phân biệt nhận biết, gọi là chỗ nghe. Có kẻ đối với chỗ nghe, chỉ có chỗ nghe. Có kẻ đối với chỗ nghe, không phải chỉ có chỗ nghe. Ai đối với chỗ nghe, chỉ có chỗ nghe? Nghĩa là đối với nhĩ thức, đã thọ lãnh, phân biệt nhận biết, không dấy khởi phiền não. Ai đối với chỗ nghe, không phải chỉ có chỗ nghe? Nghĩa là đối với nhĩ thức đã thọ lãnh, phân biệt nhận biết, đã dấy khởi các phiền não.

Ba thức tỷ, thiệt, thân đã thọ lãnh, phân biệt nhận biết, gọi là chỗ hiểu. Có kẻ đối với chỗ hiểu, chỉ có chỗ hiểu. Có kẻ đối với chỗ hiểu, không phải chỉ có chỗ hiểu. Ai đối với chỗ hiểu, chỉ có chỗ hiểu? Nghĩa là đối với ba thức đã thọ lãnh, phân biệt nhận biết, không dấy khởi phiền não. Ai đối với chỗ hiểu, không phải chỉ có chỗ hiểu? Nghĩa là đối với ba thức đã thọ lãnh, phân biệt nhận biết, đã dấy khởi các phiền não.

Ý thức đã thọ lãnh, phân biệt nhận biết, gọi là chỗ nhận biết. Có kẻ đối với chỗ nhận biết, chỉ có chỗ nhận biết. Có kẻ đối với chỗ nhận biết, không phải chỉ có chỗ nhận biết. Ai đối với chỗ nhận biết, chỉ có chỗ nhận biết? Nghĩa là đối với ý thức đã thọ lãnh, phân biệt nhận biết, không dấy khởi phiền não. Ai đối với chỗ nhận biết, không phải chỉ có chỗ nhận biết? Nghĩa là đối với ý thức đã thọ lãnh, phân biệt nhận biết, đã dấy khởi các phiền não.

Do Đại mẫu kia đối với chỗ thấy, nghe, hiểu, biết, chỉ có chỗ thấy, nghe, hiểu, biết, không khởi phiền não, nên không có lỗi lầm nầy: Nghĩa là không khởi tâm mạn, tâm kiêu ngạo, tâm đề cao, ưa thích mạnh mẽ. Do vì Đại mẫu không có các tâm nầy, nên đã không có lỗi lầm kia: Tức là không khởi tham, sân, si. Do Đại mẫu không có tham, sân, si kia, nên không có gần, không có xa, không có hai trung gian, tức đối với cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc đều không có xứ sinh.

Do lý như thế, nên đến biên vực của khổ.

Khổ: Nghĩa là năm thủ ấm. Biên vực của khổ ấy: Tức là từ bỏ tất cả chỗ nương dựa, ái hết, nhiễm lìa, là Niết-bàn vĩnh viễn tịch diệt.

Y-nê và Mê-nê

Đạp-phô, Đạt-điệp-phô

Chớ mong, nên mừng, lặng

Lìa khắp đến biên khổ.

Một tụng như thế, hiển bày lại trong kinh: Đức Phật đã vì hai vị vua Hộ thế, dùng ngôn ngữ Miệt-lệ-xa để nói về bốn Thánh đế v.v…, khiến họ liền lãnh hội: Y-nê: Hiển bày về khổ Thánh đế. Mê-nê: Hiển bày về tập Thánh đế. Đạp-phô: Hiển bày về diệt Thánh đế. Đạt-điệpphô: Hiển bày về đạo Thánh đế.

Chớ mong: Là khuyên hai vị kia chớ mong cầu nơi ba cõi.

Nên mừng: Là khuyên hai vua kia: Nếu đã nghe Phật chứng pháp Bồ-đề, là Tăng khéo giảng nói về tu hành diệu: Sắc là vô thường. Thọ, tưởng, hành, thức là vô thường. Khéo thiết lập khổ đế, khéo thiết lập tập, diệt, đạo đế, nên sinh vui mừng.

Nên tĩnh lặng: Tức khuyên hai vua kia: Nếu khi khởi tham, sân, si, nên tĩnh lặng cùng tĩnh lặng, tĩnh lặng tột bực.

Nên lìa khắp: Tức khuyên hai vua kia: Tâm nên lìa đối với các cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc.

Đến biên khổ: Nghĩa là nếu hai vua kia có khả năng như thế, tức đến được biên vực của khổ. Nói biên vực của khổ, nghĩa như trước đã nêu bày.

Biết thân như bọt tụ

Cũng hiểu đồng dợn nắng

Đoạn ma hoa, tiểu hoa

Không thấy vua chết khiến.

Biết thân như bọt tụ: Nghĩa là biết như thật về thân như bọt tụ, không có lực, trống rỗng, yếu kém, không thể giữ lấy.

Cũng biết đồng dợn nắng (Dương diệm): Nghĩa là biết như thật về thân đồng với dợn nắng, nhân nơi nhiệt não sinh, luôn dời đổi, trôi chảy không dừng.

Đoạn ma hoa, tiểu hoa: Ma có bốn thứ: Là ma phiền não, ma ấm, ma chết, ma Tự tại thiên.

Nên biết, ở đây nói ma phiền não do kiến đạo đoạn nên gọi là ma hoa, do tu đạo đoạn gọi là tiểu hoa.

Từ bỏ bốn ma kia, vĩnh viễn dứt trừ, gọi là đoạn.

Không thấy vua chết khiến: Vô thường có thể hủy diệt gọi là vua chết. Già, bệnh theo đuổi bức bách gọi là vua chết sai khiến.

Quán trụ, biết gần xa

Nên mừng các nghiệp không

Biết đời có hưng suy

Tâm thiện, giải thoát khắp.

Quán trụ: Nghĩa là nên quán xét. Trụ có ba thứ: 1. Không. 2. Vô nguyện. 3. Vô tướng.

Biết gần, xa: Biết, nghĩa là tuệ nhận biết, thông sáng, thuận hợp. Đối với cảnh trong, ngoài, nên sinh khởi thích đáng.

Nên mừng: Nghĩa là nếu nghe nói Phật đã chứng pháp Bồ-đề, là Tăng khéo giảng nói về tu hành diệu: Sắc là vô thường. Thọ, tưởng, hành, thức là vô thường. Khéo thiết lập khổ đế, khéo thiết lập tập đế, diệt đế, đạo đế, nên sinh vui mừng.

Các nghiệp không: Nghĩa là không tạo thành để có thể chiêu cảm nghiệp thân, miệng, ý của đời sau.

Biết đời có hưng suy: Biết nghĩa là thấu đạt. Đời nghĩa là năm thủ ấm. Hưng suy nghĩa là sinh, diệt. Tức là nghĩa tùy thuận quán về năm ấm hữu lậu, có dấy khởi, cùng tận.

Tâm thiện: Nghĩa là tâm quyết định lựa chọn, tâm thiện xảo, tâm thuận hợp.

Giải thoát khắp: Nghĩa là ở các nẻo, các hữu, các sinh, đã giải thoát, giải thoát khắp, giải thoát tận cùng.

Tuy thoát nhưng lại đọa

Ham ăn nên trở lại

Được an vẫn ưa vui

Nhân vui đến chốn vui.

Tuy thoát: Tức các ngoại đạo tuy thoát nơi cõi Dục, nhưng lại đọa: Nghĩa là ngoại đạo kia vẫn còn bị đọa, sinh nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc và rơi vào sự tham thọ sinh nơi cõi kia.

Ham ăn nên trở lại: Nghĩa là ngoại đạo kia đối với năm kiết thuận phần dưới tuy đã đoạn trừ phần ít, nhưng vì còn nhiều kiết khác, nên về sau tất khởi tham, sinh trở lại cõi Dục.

Được an: An nghĩa là cảnh giới Niết-bàn hữu dư y. Các A-lahán kia đã chứng nên gọi là đắc.

Vẫn ưa vui: Vui nghĩa là cảnh giới Niết-bàn vô dư y. Các A-lahán kia vì luôn ưa thích mến mộ nên gọi là ưa.

Nhân vui đến chốn vui: Nghĩa là nhân nơi đạo an lạc đạt đến Niết-bàn an lạc.

Không rễ nơi cõi đất

Không lá cũng không cành

Người dũng mãnh cởi buộc

Ai đâu lại hủy báng?

Rễ: Dụ cho thức của hữu, thủ. Cõi đất: Dụ cho bốn thức trụ. Như Đức Thế Tôn nói: “Năm hạt giống là chỉ rõ về hữu, thủ, thức, cõi đất hiển bày về bốn thức trụ”.

Lá: Dụ cho ngã mạn. Như Đức Thế Tôn nói: “Thế nào là đốt lá? Nghĩa là ngã mạn đã đoạn, đã nhận biết khắp”. Cành: Dụ cho ái. Như Đức Thế Tôn nói:

Năm diệu sắc trong cung

Nếu có cành ái sinh

Mâu-ni thấy ái sinh

Dùng tuệ chóng trừ đoạn.

Các A-la-hán ở trong bốn thức trụ, không có thức của hữu thủ dẫn dắt để có đời sau. Không có mạn, không có ái, nên nói là Không rễ nơi cõi đất, Không lá cũng không cành.

Người dũng mãnh: Nghĩa là A-la-hán kia đã thành tựu, nên có thể thành pháp dũng mãnh, tức cũng gọi là dũng mãnh.

Cởi buộc: Buộc có ba thứ: Nghĩa là tham, sân, si. A-la-hán kia đối với sự trói buộc nầy đã giải thoát, giải thoát khắp, giải thoát tận cùng.

Ai đâu lại hủy báng: Nghĩa là loại hữu tình như thế chỉ nên khen ngợi, không nên hủy báng. Nếu tạo sự hủy báng sẽ mắc phải vô biên tội, vì làm tổn hại đến phước điền chân thật của thế gian. Như Đức Thế Tôn đã nói:

Nếu nên chê mà khen

Cùng nên khen mà chê

Miệng kia góp tai họa

Tất không thọ an lạc.

HẾT – QUYỂN 30