LUẬN A TỲ ĐÀM BÁT KIỀN ĐỘ
Tác giả: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử
Hán dịch: Đời Phù Tần, Sa môn Tăng Già Đề Ba và Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 22

Kiền độ thứ 6: CĂN

Phẩm 4: BÀN VỀ TÂM BẮT ĐẦU

Tâm của tất cả chúng sinh nên nói là vừa khởi, vừa trụ, vừa diệt chăng? Các tâm có dục, các tâm không dục, tâm nầy nên nói là vừa khởi, vừa trụ, vừa diệt chăng? Các tâm có giận – không giận, có si – không si, có nhiễm ô – không nhiễm ô, có loạn – không loạn, có lười – không lười, có nhỏ – có lớn, có tu – không tu, có Tam muội – không Tam muội, các tâm giải thoát – các tâm không giải thoát, tâm nầy nên nói là vừa khởi, vừa trụ, vừa diệt chăng?

Thọ mạng nên nói là cùng tâm chuyển hay không cùng tâm chuyển? Thọ mạng nên nói là thuận chuyển, nên nói là vừa sinh, trụ chăng?

Lại như Đức Thế Tôn nói: “Mạng người hao mòn hết dần, như nước nơi sông nhỏ. Các chúng sinh luôn mong có được thọ mạng, thọ mạng kia đã hết”. Thế nào là nhận biết thọ mạng kia đã hết? Nhập định vô tưởng, định diệt tận, hành của thọ mạng nên nói là chuyển hay không chuyển?

Nhập định vô tưởng, có bao nhiêu căn diệt? Tâm tâm pháp diệt hệ thuộc nơi cõi nào? Xuất Tam muội vô tưởng, có bao nhiêu căn hiện ở trước? Tâm tâm pháp hiện ở trước hệ thuộc nơi cõi nào?

Nhập định diệt tận, có bao nhiêu căn diệt? Tâm tâm pháp diệt hệ thuộc nơi cõi nào? Xuất Tam muội diệt tận, có bao nhiêu căn hiện ở trước? Tâm tâm pháp hiện ở trước hệ thuộc nơi cõi nào?

Chúng sinh nơi cõi Vô tưởng sinh, có bao nhiêu căn diệt? Tâm tâm pháp diệt hệ thuộc nơi cõi nào? Có bao nhiêu căn hiện ở trước? Tâm tâm pháp hiện ở trước hệ thuộc nơi cõi nào?

Chúng sinh nơi cõi Vô tưởng mất, có bao nhiêu căn diệt? Tâm tâm pháp diệt hệ thuộc nơi cõi nào? Có bao nhiêu căn hiện ở trước? Tâm tâm pháp hiện ở trước hệ thuộc nơi cõi nào?

Chúng sinh nơi cõi Vô tưởng nên nói là do tưởng sinh hay do vô tưởng sinh?

Lại như Đức Thế Tôn nói: “Tưởng sinh”. Chúng sinh kia, nơi xứ kia mất, là tưởng diệt chăng? Chúng sinh kia, nơi xứ kia mất, là không diệt chăng? Trụ nơi xứ nào diệt tưởng nầy? Tưởng nầy nên nói là thiện hay vô ký? Tưởng nầy có bao nhiêu sử sai khiến? Có bao nhiêu kiết trói buộc?

Lại như Đức Thế Tôn nói: “Tất cả chúng sinh do ăn mà tồn tại”. Chúng sinh nơi cõi Vô tưởng ăn những gì?

Nhãn căn gồm thâu bao nhiêu căn? Cho đến vô tri căn gồm thâu bao nhiêu căn? Tín lực cho đến tuệ lực, giác ý niệm cho đến giác ý hộ, đẳng kiến cho đến đẳng định, pháp trí cho đến đạo trí, Tam muội không, vô tướng, vô nguyện gồm thâu bao nhiêu căn chăng?

Ý căn có bao nhiêu căn tương ưng? Cho đến vô tri căn có bao nhiêu căn tương ưng? Tín lực cho đến tuệ lực, giác ý niệm cho đến giác ý hộ, đẳng kiến cho đến đẳng định, pháp trí cho đến đạo trí, Tam muội không, vô tướng, vô nguyện có bao nhiêu căn tương ưng?

Mất ở cõi Dục sinh nơi cõi Dục, có bao nhiêu căn diệt? Tâm tâm pháp diệt hệ thuộc nơi cõi nào? Có bao nhiêu căn hiện ở trước?

Tâm tâm pháp hiện ở trước hệ thuộc nơi cõi nào? Mất ở cõi Dục sinh nơi cõi Sắc, có bao nhiêu căn diệt? Tâm tâm pháp diệt hệ thuộc nơi cõi nào? Có bao nhiêu căn hiện ở trước? Tâm tâm pháp hiện ở trước hệ thuộc nơi cõi nào? Mất ở cõi Dục sinh nơi cõi Vô sắc, có bao nhiêu căn diệt? Tâm tâm pháp diệt hệ thuộc nơi cõi nào? Có bao nhiêu căn hiện ở trước? Tâm tâm pháp hiện ở trước hệ thuộc nơi cõi nào?

Mất ở cõi Sắc sinh nơi cõi Sắc, có bao nhiêu căn diệt? Tâm tâm pháp diệt hệ thuộc nơi cõi nào? Có bao nhiêu căn hiện ở trước? Tâm tâm pháp hiện ở trước hệ thuộc nơi cõi nào? Mất ở cõi Sắc sinh nơi cõi Dục, có bao nhiêu căn diệt? Tâm tâm pháp diệt hệ thuộc nơi cõi nào? Có bao nhiêu căn hiện ở trước? Tâm tâm pháp hiện ở trước hệ thuộc nơi cõi nào? Mất ở cõi Sắc sinh nơi cõi Vô sắc, có bao nhiêu căn diệt? Tâm tâm pháp diệt hệ thuộc nơi cõi nào? Có bao nhiêu căn hiện ở trước? Tâm tâm pháp hiện ở trước hệ thuộc nơi cõi nào?

Mất ở cõi Vô sắc sinh nơi cõi Vô sắc, có bao nhiêu căn diệt? Tâm tâm pháp diệt hệ thuộc nơi cõi nào? Có bao nhiêu căn hiện ở trước? Tâm tâm pháp hiện ở trước hệ thuộc nơi cõi nào? Mất ở cõi Vô sắc sinh nơi cõi Dục, có bao nhiêu căn diệt? Tâm tâm pháp diệt hệ thuộc nơi cõi nào? Có bao nhiêu căn hiện ở trước? Tâm tâm pháp hiện ở trước hệ thuộc nơi cõi nào? Mất ở cõi Vô sắc sinh nơi cõi Sắc, có bao nhiêu căn diệt? Tâm tâm pháp diệt hệ thuộc nơi cõi nào? Có bao nhiêu căn hiện ở trước? Tâm tâm pháp hiện ở trước hệ thuộc nơi cõi nào?

A-la-hán bát Nê-hoàn có bao nhiêu căn diệt sau cùng?

Về các nghĩa trên, chương nầy xin diễn nói đầy đủ.

*

Hỏi: Tâm của tất cả chúng sinh nên nói là vừa khởi, vừa trụ, vừa diệt chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Các tâm có dục, các tâm không dục, tâm nầy nên nói là vừa khởi, vừa trụ, vừa diệt chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Các tâm có giận – không giận, có si – không si, có nhiễm ô – không nhiễm ô, có loạn – không loạn, có lười – không lười, có nhỏ – có lớn, có tu – không tu, có Tam muội – không Tam muội, các tâm giải thoát – các tâm không giải thoát, tâm nầy nên nói là vừa khởi, vừa trụ, vừa diệt chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Thọ mạng nên nói là cùng tâm chuyển hay không cùng tâm chuyển?

Đáp: Thọ mạng nên nói là không cùng tâm chuyển.

Hỏi: Thọ mạng nên nói là thuận chuyển, nên nói là vừa sinh, trụ chăng?

Đáp: Chúng sinh nơi cõi Dục, không nhập Tam muội vô tưởng, Tam muội diệt tận, nên nói là thuận chuyển. Nếu nhập định vô tưởng, định diệt tận và các trời nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc, nên nói là vừa sinh, trụ.

Lại như Đức Thế Tôn nói: “Mạng người hao mòn hết dần, như nước nơi sông nhỏ. Các chúng sinh luôn mong có được thọ mạng, thọ mạng kia đã hết”.

Hỏi: Thế nào là nhận biết thọ mạng kia đã hết?

Đáp: Do đời tận, kiếp tận.

Hỏi: Nhập Tam muội vô tưởng, Tam muội diệt tận, hành của thọ mạng nên nói là thuận chuyển hay nên nói là trụ?

Đáp: Nên nói là trụ.

Hỏi: Nhập Tam muội vô tưởng có bao nhiêu căn diệt?

Đáp: Có bảy.

Hỏi: Tâm tâm pháp diệt hệ thuộc nơi cõi nào?

Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc.

Hỏi: Xuất Tam muội vô tưởng có bao nhiêu căn hiện ở trước?

Đáp: Có bảy.

Hỏi: Tâm tâm pháp hiện ở trước hệ thuộc nơi cõi nào?

Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc.

Hỏi: Nhập Tam muội diệt tận có bao nhiêu căn diệt?

Đáp: Có bảy.

Hỏi: Tâm tâm pháp diệt hệ thuộc nơi cõi nào?

Đáp: Hệ thuộc cõi Vô sắc.

Hỏi: Xuất Tam muội diệt tận có bao nhiêu căn hiện ở trước?

Đáp: Hoặc có bảy (Năm sắc căn cùng ý căn, hộ căn), hoặc tám (thêm dĩ tri căn), tâm hữu lậu bảy, tâm vô lậu tám.

Hỏi: Tâm tâm pháp hiện ở trước hệ thuộc nơi cõi nào?

Đáp: Hoặc hệ thuộc cõi Vô sắc, hoặc không hệ thuộc.

Hỏi: Chúng sinh nơi cõi Vô tưởng sinh, có bao nhiêu căn diệt?

Đáp: Có tám (Năm sắc căn cùng ý căn, mạng căn, hộ căn).

Hỏi: Tâm tâm pháp diệt hệ thuộc nơi cõi nào?

Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc.

Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện ở trước?

Đáp: Có tám.

Hỏi: Tâm tâm pháp hiện ở trước hệ thuộc nơi cõi nào?

Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc.

Hỏi: Chúng sinh nơi cõi Vô tưởng mất, có bao nhiêu căn diệt?

Đáp: Có tám.

Hỏi: Tâm tâm pháp diệt hệ thuộc nơi cõi nào?

Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc.

Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện ở trước?

Đáp: Hoặc tám căn, chín căn, mười căn: vô hình tám, một hình chín, hai hình mười.

Hỏi: Tâm tâm pháp hiện ở trước hệ thuộc nơi cõi nào?

Đáp: Hệ thuộc cõi Dục.

Hỏi: Chúng sinh nơi cõi Vô tưởng nên nói là do tưởng sinh hay do vô tưởng sinh?

Đáp: Chúng sinh nơi cõi Vô tưởng nên nói là do tưởng sinh.

Lại như Đức Thế Tôn nói: “Do tưởng sinh”.

Hỏi: Chúng sinh kia, nơi xứ kia mất, là tưởng diệt chăng? Chúng sinh kia, nơi xứ kia mất, là không diệt chăng?

Đáp: Tưởng kia diệt.

Chúng sinh kia, nơi xứ kia mất, không phải là không diệt trụ.

Hỏi: Trụ nơi xứ nào diệt tưởng kia?

Đáp: Tức trụ nơi tưởng kia diệt.

Hỏi: Tưởng nầy nên nói là thiện hay vô ký?

Đáp: Tưởng nầy hoặc là thiện, hoặc là vô ký.

Hỏi: Tưởng nầy có bao nhiêu sử sai khiến?

Đáp: Sử duyên nơi hữu lậu thuộc cõi Sắc.

Hỏi: Có bao nhiêu kiết trói buộc?

Đáp: Có sáu.

Lại như Đức Thế Tôn nói: “Tất cả chúng sinh do ăn mà tồn tại”.

Hỏi: Chúng sinh nơi cõi Vô tưởng ăn những gì?

Đáp: Xúc, ý niệm, thức.

Nhãn căn gồm thâu nhãn căn. Nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn cũng lại như vậy. Thân căn gồm thâu ba căn. Ý căn gồm thâu ý căn và phần ít của ba căn. Lạc căn, hỷ căn, hộ căn, tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn cũng lại như vậy. Nữ căn gồm thâu nữ căn và phần ít của thân căn. Nam căn gồm thâu nam căn và phần ít của thân căn. Mạng căn gồm thâu mạng căn. Khổ căn gồm thâu khổ căn. Ưu căn gồm thâu ưu căn. Vị tri căn gồm thâu vị tri căn và phần ít của chín căn. Dĩ tri căn, vô tri căn cũng lại như vậy.

Tín lực gồm thâu một căn và phần ít của ba căn. Tinh tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực cũng lại như vậy.

Giác ý niệm gồm thâu phần ít của bốn căn. Giác ý trạch pháp, giác ý tinh tấn, giác ý hỷ, giác ý định cũng lại như vậy. Giác ý ỷ (khinh an), giác ý hộ (xả) không gồm thâu căn.

Đẳng kiến, đẳng phương tiện, đẳng niệm, đẳng định, pháp trí, vị tri trí gồm thâu phần ít của bốn căn. Tha tâm trí gồm thâu phần ít của ba căn. Đẳng trí gồm thâu phần ít của một căn. Khổ trí, tập trí, tận trí, đạo trí, Tam muội không, vô tướng, vô nguyện gồm thâu phần ít của bốn căn.

Ý căn tương ưng với mười căn và phần ít của ba căn. Lạc căn, hỷ căn, hộ căn tương ưng với phần ít của chín căn. Khổ căn, ưu căn tương ưng với phần ít của sáu căn. Tín căn tương ưng với bốn căn và phần ít của chín căn. Tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn cũng lại như vậy. Vị tri căn tương ưng với phần ít của chín căn. Dĩ tri căn, vô tri căn cũng lại như vậy.

Tín lực tương ưng với bốn căn và phần ít của chín căn. Tinh tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực cũng lại như vậy.

Giác ý niệm tương ưng với phần ít của mười một căn. Giác ý tinh tấn, giác ý định cũng lại như vậy. Giác ý hỷ tương ưng với phần ít của chín căn. Giác ý ỷ, giác ý hộ tương ưng với ba căn và phần ít của chín căn.

Đẳng kiến, đẳng chí, đẳng phương tiện, đẳng niệm, đẳng định, pháp trí, vị tri trí tương ưng với phần ít của mười một căn. Tha tâm trí tương ưng với phần ít của mười căn. Đẳng trí tương ưng với hai căn và phần ít của tám căn. Khổ trí, tập trí, tận trí, đạo trí, Tam muội không, vô tướng, vô nguyện tương ưng với phần ít của mười một căn.

Hỏi: Mất ở cõi Dục sinh nơi cõi Dục, có bao nhiêu căn diệt?

Đáp: Hoặc bốn – hoặc chín, hoặc tám – hoặc mười ba, hoặc chín – hoặc mười bốn, hoặc mười – hoặc mười lăm. Hệ thuộc nơi cõi Dục, mạng chung dần: tâm vô ký bốn, tâm thiện chín. Mạng chung tức khắc: Nếu vô hình, tâm vô ký tám, tâm thiện mười ba. Nếu một hình, tâm vô ký chín, tâm thiện mười bốn. Nếu hai hình, tâm vô ký mười, tâm thiện mười lăm.

Hỏi: Tâm tâm pháp diệt hệ thuộc nơi cõi nào?

Đáp: Hệ thuộc cõi Dục.

Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện ở trước?

Đáp: Hoặc tám, hoặc chín, hoặc mười. Vô hình tám, một hình chín, hai hình mười.

Hỏi: Tâm tâm pháp hiện ở trước hệ thuộc nơi cõi nào?

Đáp: Hệ thuộc cõi Dục.

Hỏi: Mất ở cõi Dục sinh nơi cõi Sắc, có bao nhiêu căn diệt?

Đáp: Hoặc bốn, hoặc chín, hoặc mười bốn. Hệ thuộc nơi cõi Dục, mạng chung dần: tâm vô ký bốn, tâm thiện chín. Mạng chung tức khắc: tâm vô ký chín, tâm thiện mười bốn.

Hỏi: Tâm tâm pháp diệt hệ thuộc nơi cõi nào?

Đáp: Hệ thuộc cõi Dục.

Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện ở trước?

Đáp: Có tám.

Hỏi: Tâm tâm pháp hiện ở trước hệ thuộc nơi cõi nào?

Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc.

Hỏi: Mất ở cõi Dục sinh nơi cõi Vô sắc, có bao nhiêu căn diệt?

Đáp: Hoặc bốn, hoặc chín, hoặc mười bốn. Hệ thuộc nơi cõi Dục, mạng chung dần: tâm vô ký bốn, tâm thiện chín. Mạng chung tức khắc: tâm vô ký chín, tâm thiện mười bốn.

Hỏi: Tâm tâm pháp diệt hệ thuộc nơi cõi nào?

Đáp: Hệ thuộc cõi Dục.

Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện ở trước?

Đáp: Có ba.

Hỏi: Tâm tâm pháp hiện ở trước hệ thuộc nơi cõi nào?

Đáp: Hệ thuộc cõi Vô sắc.

Hỏi: Mất ở cõi Sắc sinh nơi cõi Sắc, có bao nhiêu căn diệt?

Đáp: Hoặc tám, hoặc mười ba. Tâm vô ký tám, tâm thiện mười ba.

Hỏi: Tâm tâm pháp diệt hệ thuộc nơi cõi nào?

Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc.

Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện ở trước?

Đáp: Có tám.

Hỏi: Tâm tâm pháp hiện ở trước hệ thuộc nơi cõi nào?

Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc.

Hỏi: Mất ở cõi Sắc sinh nơi cõi Dục, có bao nhiêu căn diệt?

Đáp: Hoặc tám, hoặc mười ba. Tâm vô ký tám, tâm thiện mười ba.

Hỏi: Tâm tâm pháp diệt hệ thuộc nơi cõi nào?

Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc.

Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện ở trước?

Đáp: Hoặc tám, hoặc chín, hoặc mười. Vô hình tám, một hình chín, hai hình mười.

Hỏi: Tâm tâm pháp hiện ở trước hệ thuộc nơi cõi nào?

Đáp: Hệ thuộc cõi Dục.

Hỏi: Mất ở cõi Sắc sinh nơi cõi Vô sắc, có bao nhiêu căn diệt?

Đáp: Hoặc tám, hoặc mười ba. Tâm vô ký tám, tâm thiện mười ba.

Hỏi: Tâm tâm pháp diệt hệ thuộc nơi cõi nào?

Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc.

Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện ở trước?

Đáp: Có ba.

Hỏi: Tâm tâm pháp hiện ở trước hệ thuộc nơi cõi nào?

Đáp: Hệ thuộc cõi Vô sắc.

Hỏi: Mất ở cõi Vô sắc sinh nơi cõi Vô sắc, có bao nhiêu căn diệt?

Đáp: Hoặc ba, hoặc tám. Tâm vô ký ba, tâm thiện tám.

Hỏi: Tâm tâm pháp diệt hệ thuộc nơi cõi nào?

Đáp: Hệ thuộc cõi Vô sắc.

Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện ở trước?

Đáp: Có ba.

Hỏi: Tâm tâm pháp hiện ở trước hệ thuộc nơi cõi nào?

Đáp: Hệ thuộc cõi Vô sắc.

Hỏi: Mất ở cõi Vô sắc sinh nơi cõi Dục, có bao nhiêu căn diệt?

Đáp: Hoặc ba, hoặc tám. Tâm vô ký ba, tâm thiện tám.

Hỏi: Tâm tâm pháp diệt hệ thuộc nơi cõi nào?

Đáp: Hệ thuộc cõi Vô sắc.

Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện ở trước?

Đáp: Hoặc tám, hoặc chín, hoặc mười. Vô hình tám, một hình chín, hai hình mười.

Hỏi: Tâm tâm pháp hiện ở trước hệ thuộc nơi cõi nào?

Đáp: Hệ thuộc cõi Dục.

Hỏi: Mất ở cõi Vô sắc sinh nơi cõi Sắc, có bao nhiêu căn diệt?

Đáp: Hoặc ba, hoặc tám. Tâm vô ký ba, tâm thiện tám.

Hỏi: Tâm tâm pháp diệt hệ thuộc nơi cõi nào?

Đáp: Hệ thuộc cõi Vô sắc.

Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện ở trước?

Đáp: Có tám.

Hỏi: Tâm tâm pháp hiện ở trước hệ thuộc nơi cõi nào?

Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc.

Hỏi: A-la-hán bát Nê hoàn có bao nhiêu căn diệt sau cùng?

Đáp: Hoặc bốn, hoặc chín, hoặc tám, hoặc ba. Ở nơi cõi Dục, bát Nê hoàn dần dần bốn, bát Nê hoàn tức khắc chín, ở cõi Sắc tám, cõi Vô sắc ba.

***

Phẩm 5: BÀN VỀ TÂM VỪA PHÁT KHỞI

Các pháp cùng tâm một khởi, một trụ, một diệt, pháp đó tương ưng với tâm chăng? Nếu như các pháp tương ưng với tâm, pháp đó cùng tâm một khởi, một trụ, một diệt chăng?

Các pháp cùng tâm một khởi, một trụ, một diệt, pháp đó cùng với tâm một duyên chăng? Nếu như các pháp cùng với tâm một duyên, pháp đó cùng tâm một khởi, một trụ, một diệt chăng?

Các pháp cùng tâm khởi không phải không dụng tâm, pháp đó khởi cùng tâm khởi không phải không dụng tâm chăng? Pháp đó trụ, diệt cùng tâm trụ, diệt, không phải không dụng tâm chăng?

Thế nào là không tu nhãn căn? Thế nào là không tu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý căn? Thế nào là tu nhãn căn? Thế nào là tu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý căn?

Nếu không thành tựu căn học mà được căn học, thì tất cả Hành giả kia đã vượt thứ lớp thủ chứng chăng? Nếu như vượt thứ lớp thủ chứng, thì tất cả Hành giả kia không thành tựu căn học mà được căn học chăng? Nếu không thành tựu căn học mà được căn học, thì tất cả pháp thứ nhất thế gian kia là thứ đệ (đẳng vô gián) chăng? Nếu như là thứ đệ nơi pháp thứ nhất thế gian, thì tất cả Hành giả kia không thành tựu căn học mà được căn học chăng?

Nếu bỏ căn vô lậu, được căn vô lậu, thì tất cả Hành giả kia đều từ quả đến quả chăng? Nếu như đã từ quả đến quả, thì tất cả Hành giả kia đã bỏ căn vô lậu, được căn vô lậu chăng? Nếu bỏ căn vô lậu, được căn vô lậu, thì tất cả Hành giả kia có căn vô lậu diệt, căn vô lậu hiện ở trước chăng? Nếu như có căn vô lậu diệt, căn vô lậu hiện ở trước, thì tất cả Hành giả kia đã bỏ căn vô lậu, được căn vô lậu chăng?

Các vị tri căn, tất cả căn ấy đều không tu đế (hiện quán về bốn Thánh đế) là có thể tu đế chăng? Nếu như không tu đế lại có thể tu đế, thì tất cả căn ấy là vị tri căn chăng?

Tận trí đầu tiên sinh thì tất cả đạo vô ngại kia là thứ đệ chăng? Nếu như đạo vô ngại là thứ đệ thì tất cả đạo ấy là tận trí chăng? Vô sinh trí đầu tiên khởi thì tất cả tận trí kia là thứ đệ chăng? Nếu như tận trí là thứ đệ thì tất cả chúng là vô sinh trí chăng?

Như duyên nơi đạo vô ngại thì cũng duyên nơi tận trí chăng? Như duyên nơi tận trí thì cũng duyên nơi đạo vô ngại chăng? Như duyên nơi tận trí thì cũng duyên nơi vô sinh trí chăng? Như duyên nơi vô sinh trí thì cũng duyên nơi tận trí chăng?

Tận trí nên nói là tận trí, pháp trí, vị tri trí, tha tâm trí, khổ trí, tập trí, tận trí, đạo trí chăng? Nên nói là có giác có quán, không giác có quán, không giác không quán chăng? Nên nói là tương ưng với lạc căn, hỷ căn, hộ căn, không, vô tướng, vô nguyện chăng? Nên nói là duyên hệ thuộc cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, duyên không hệ thuộc chăng? Vô sinh trí, đẳng kiến vô học cũng như vậy.

Các pháp tương ưng với đẳng kiến vô học, pháp đó tương ưng với đẳng chí vô học chăng? Nếu như các pháp tương ưng với đẳng chí vô học, pháp đó tương ưng với đẳng kiến vô học chăng? Các pháp tương ưng với đẳng kiến vô học, pháp đó tương ưng với đẳng phương tiện, đẳng niệm, đẳng định, đẳng giải thoát, đẳng trí vô học chăng? Nếu như các pháp tương ưng với đẳng trí vô học, pháp đó tương ưng với đẳng kiến vô học chăng? Các pháp cho đến tương ưng với đẳng giải thoát vô học, pháp đó tương ưng với đẳng trí vô học chăng? Nếu như các pháp tương ưng với đẳng trí vô học, pháp đó tương ưng với đẳng giải thoát vô học chăng?

Về các nghĩa trên, chương nầy xin diễn nói đầy đủ.

*

Hỏi: Các pháp cùng tâm một khởi, một trụ, một diệt, pháp đó tương ưng với tâm chăng?

Đáp: Đúng vậy. Các pháp cùng tâm tương ưng, pháp đó cùng tâm một khởi, một trụ, một diệt.

Hỏi: Từng có pháp cùng tâm một khởi, một trụ, một diệt, pháp đó không tương ưng với tâm chăng?

Đáp: Có. Là tâm tùy chuyển, sắc tâm tùy chuyển, tâm bất tương ưng hành.

Hỏi: Các pháp cùng tâm một khởi, một trụ, một diệt, pháp đó cùng tâm một duyên chăng?

Đáp: Đúng vậy. Các pháp cùng tâm một duyên, pháp đó cùng tâm một khởi, một trụ, một diệt.

Hỏi: Từng có pháp cùng tâm một khởi, một trụ, một diệt, pháp đó không cùng tâm một duyên chăng?

Đáp: Có. Là tâm tùy chuyển, sắc tâm tùy chuyển, tâm bất tương ưng hành.

Hỏi: Các pháp cùng tâm khởi không phải không dụng tâm, pháp đó khởi cùng tâm khởi không phải không dụng tâm chăng? Pháp đó trụ, diệt cùng tâm trụ, diệt không phải không dụng tâm chăng?

Đáp: Chúng sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc, không nhập Tam muội vô tưởng, Tam muội diệt tận, bốn đại nơi các căn, pháp kia khởi cùng tâm khởi không phải không dụng tâm, trụ diệt cùng tâm trụ diệt không phải không dụng tâm. Nếu nhập các định kia thì không dụng tâm.

Hỏi: Thế nào là không tu nhãn căn?

Đáp: Là ái của nhãn căn chưa hết, tham chưa hết, niệm chưa hết, khát dục chưa hết. Lại nữa, dùng đạo vô ngại dứt hết ái sắc, đối với đạo đó không tu, không dựa. Như vậy là không tu nhãn căn.

Như nhãn căn, các căn nhĩ, tỷ, thiệt, thân cũng như vậy.

Hỏi: Thế nào là không tu ý căn?

Đáp: Là ái của ý căn chưa hết, tham chưa hết, niệm chưa hết, khát dục chưa hết. Lại nữa, dùng đạo vô ngại dứt hết ái vô sắc, đối với đạo đó không tu, không dựa. Như vậy là không tu ý căn.

Hỏi: Thế nào là tu nhãn căn?

Đáp: Là ái của nhãn căn đã hết, tham hết, niệm hết, khát dục hết. Lại nữa, dùng đạo vô ngại dứt hết ái sắc, đối với đạo đó đã tu đã dựa. Như thế là tu nhãn căn.

Như nhãn căn, các căn nhĩ, tỷ, thiệt, thân cũng như vậy.

Hỏi: Thế nào là tu ý căn?

Đáp: Là ái của ý căn đã hết, tham hết, niệm hết, khát dục hết. Lại nữa, dùng đạo vô ngại dứt hết ái vô sắc, đối với đạo đó đã tu đã dựa. Như thế là tu ý căn.

Hỏi: Nếu không thành tựu căn học mà được căn học, thì tất cả Hành giả kia đã vượt thứ lớp thủ chứng (đẳng vô gián, nhập chánh tánh ly sinh) chăng?

Đáp: Đúng vậy. Các Hành giả kia vượt thứ lớp thủ chứng, tất cả họ không thành tựu căn học mà được căn học.

Hỏi: Từng có không thành tựu căn học mà được căn học, Hành giả kia không vượt thứ lớp thủ chứng chăng?

Đáp: Có. Là thoái chuyển quả A-la-hán.

Hỏi: Nếu không thành tựu căn học mà được căn học, thì tất cả pháp thứ nhất thế gian kia là thứ đệ (đẳng vô gián) chăng?

Đáp: Đúng vậy. Các pháp thứ nhất của thế gian là thứ đệ thì tất cả Hành giả kia không thành tựu căn học mà được căn học.

Hỏi: Từng có không thành tựu căn học mà được căn học, không phải là thứ đệ của pháp thứ nhất thế gian kia chăng?

Đáp: Có. Là thoái chuyển quả A-la-hán.

Hỏi: Nếu bỏ căn vô lậu, được căn vô lậu, thì tất cả Hành giả kia đều từ quả đến quả chăng?

Đáp: Đúng vậy. Các quả đã từ quả đến quả thì tất cả Hành giả kia đã bỏ căn vô lậu được căn vô lậu.

Hỏi: Từng có bỏ căn vô lậu, được căn vô lậu, các Hành giả kia không từ quả đến quả chăng?

Đáp: Có. Là đã tu đạo, vị tri trí hiện ở trước. Hoặc A-la-hán đẳng ý giải thoát được vô nghi (bất động).

Hỏi: Nếu bỏ căn vô lậu, được căn vô lậu, thì tất cả Hành giả kia có căn vô lậu diệt, căn vô lậu hiện ở trước chăng?

Đáp: Hoặc có bỏ căn vô lậu được căn vô lậu, Hành giả không phải có căn vô lậu diệt, căn vô lậu hiện ở trước.

Thế nào là bỏ căn vô lậu được căn vô lậu, Hành giả kia không phải có căn vô lậu diệt, căn vô lậu hiện ở trước? Là dùng đạo thế tục nhận lấy quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, thoái chuyển quả A-la-hán, thoái chuyển quả Tư-đà-hàm, A-na-hàm. Đây gọi là bỏ căn vô lậu được căn vô lậu, Hành giả kia không phải có căn vô lậu diệt, căn vô lậu hiện ở trước.

Thế nào là có căn vô lậu diệt, căn vô lậu hiện ở trước, Hành giả kia không phải là bỏ căn vô lậu được căn vô lậu? Là như vốn được căn vô lậu diệt và hiện ở trước. Đây gọi là có căn vô lậu diệt, căn vô lậu hiện ở trước, Hành giả kia không phải là bỏ căn vô lậu được căn vô lậu.

Thế nào là bỏ căn vô lậu được căn vô lậu, Hành giả kia có căn vô lậu diệt, căn vô lậu hiện ở trước? Là đã tu đạo, vị tri trí hiện ở trước, dùng đạo vô lậu nhận lấy quả Tư-đà-hàm, A-na-hàm, được quả A-la-hán, A-la-hán đẳng ý giải thoát được vô nghi (bất động). Đây gọi là bỏ căn vô lậu được căn vô lậu, Hành giả kia có căn vô lậu diệt, căn vô lậu hiện ở trước.

Thế nào là không phải bỏ căn vô lậu được căn vô lậu cũng không phải có căn vô lậu diệt, căn vô lậu hiện ở trước? Là trừ các sự việc nêu trên.

Hỏi: Các vị tri căn, tất cả căn ấy đều không tu đế (hiện quán về bốn Thánh đế) là có thể tu đế chăng?

Đáp: Hoặc có vị tri căn, căn ấy không phải không tu đế có thể tu đế.

Thế nào là vị tri căn, căn ấy không phải không tu đế có thể tu đế? Là các vị tri căn hoặc là quá khứ, vị lai. Đây gọi là vị tri căn, căn ấy không phải không tu đế có thể tu đế.

Thế nào là không tu đế có thể tu đế, căn ấy không phải là vị tri căn? Là các pháp không phải là căn không tu đế có thể tu đế. Đây gọi là không tu đế có thể tu đế, căn ấy không phải là vị tri căn.

Thế nào là vị tri căn, căn ấy không tu đế có thể tu đế? Là các vị tri căn không tu đế có thể tu đế. Đây gọi là vị tri căn, căn ấy không tu đế có thể tu đế.

Thế nào là không phải vị tri căn cũng không phải là không tu đế có thể tu đế? Là trừ các sự việc nêu trên.

Hỏi: Tận trí đầu tiên sinh, thì tất cả đạo vô ngại kia là thứ đệ (đẳng vô gián) chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu như đạo vô ngại là thứ đệ thì tất cả đạo ấy là tận trí chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Vô sinh trí đầu tiên sinh, thì tất cả tận trí kia là thứ đệ chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu như tận trí là thứ đệ thì tất cả chúng là vô sinh trí chăng?

Đáp: Hoặc là tận trí, hoặc là vô sinh trí, hoặc là đẳng kiến vô học. Hỏi: Như duyên nơi đạo vô ngại thì cũng duyên nơi tận trí chăng?

Đáp: Nếu duyên nơi loại đạo vô ngại nầy thì duyên nơi tận trí kia. Nếu không duyên nơi loại đạo vô ngại nầy thì không duyên nơi tận trí kia.

Hỏi: Như duyên nơi tận trí thì cũng duyên nơi vô sinh trí chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Như duyên nơi vô sinh trí thì cũng duyên nơi tận trí chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Tận trí nên nói là tận trí chăng?

Đáp: Tận trí nên nói là tận trí. Hoặc là pháp trí, vị tri trí, khổ trí, tập trí, tận trí, đạo trí. Hoặc có giác có quán, hoặc không giác có quán, hoặc không giác không quán. Hoặc tương ưng với lạc căn, hoặc tương ưng với hỷ căn, hộ căn, không, vô tướng, vô nguyện. Hoặc duyên hệ thuộc cõi Dục, hoặc duyên hệ thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc, hoặc duyên không hệ thuộc.

Như tận trí, vô sinh trí cũng như vậy.

Hỏi: Đẳng kiến vô học nên nói là đẳng kiến vô học chăng?

Đáp: Đẳng kiến vô học nên nói là đẳng kiến vô học. Hoặc là pháp trí, vị tri trí, tha tâm trí, khổ trí, tập trí, tận trí, đạo trí. Hoặc có giác có quán, hoặc không giác có quán, hoặc không giác không quán. Hoặc tương ưng với lạc căn, hoặc tương ưng với hỷ căn, hộ căn, không, vô tướng, vô nguyện. Hoặc duyên hệ thuộc cõi Dục, hoặc duyên hệ thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc, hoặc duyên không hệ thuộc.

Hỏi: Các pháp tương ưng với đẳng kiến vô học, pháp đó tương ưng với đẳng chí vô học chăng?

Đáp: Hoặc có đẳng kiến không phải là đẳng chí.

Thế nào là đẳng kiến không phải là đẳng chí? Là đẳng kiến tương ưng với đẳng chí, các đẳng chí không tương ưng với pháp tương ưng của đẳng kiến. Đây gọi là đẳng kiến không phải là đẳng chí.

Thế nào là đẳng chí không phải là đẳng kiến? Là đẳng chí tương ưng với đẳng kiến, các đẳng kiến không tương ưng với pháp tương ưng của đẳng chí. Đây gọi là đẳng chí không phải là đẳng kiến.

Thế nào là đẳng kiến cũng là đẳng chí? Là trừ đẳng kiến tương ưng với đẳng chí, còn lại là các pháp tương ưng của đẳng chí, đẳng kiến. Đây gọi là đẳng kiến cũng là đẳng chí.

Thế nào là không phải đẳng kiến cũng không phải là đẳng chí? Là đẳng kiến không tương ưng với đẳng chí, đẳng chí không tương ưng với đẳng kiến, cùng các tâm tâm pháp khác, sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành. Đây gọi là không phải đẳng kiến cũng không phải là đẳng chí.

Hỏi: Các pháp tương ưng với đẳng kiến vô học, pháp đó tương ưng với đẳng phương tiện vô học chăng?

Đáp: Hoặc có đẳng kiến không phải là đẳng phương tiện.

Thế nào là đẳng kiến không phải là đẳng phương tiện? Là đẳng kiến tương ưng với đẳng phương tiện. Đây gọi là đẳng kiến không phải là đẳng phương tiện.

Thế nào là đẳng phương tiện không phải là đẳng kiến? Là đẳng kiến, các đẳng kiến không tương ưng với pháp tương ưng của đẳng phương tiện. Đây gọi là đẳng phương tiện không phải là đẳng kiến.

Thế nào là đẳng kiến cũng là đẳng phương tiện? Là trừ đẳng phương tiện, còn lại là các pháp tương ưng của đẳng kiến. Đây gọi là đẳng kiến cũng là đẳng phương tiện.

Thế nào là không phải đẳng kiến cũng không phải là đẳng phương tiện? Là đẳng kiến không tương ưng với đẳng phương tiện, đẳng phương tiện không tương ưng với đẳng kiến, cùng các tâm tâm pháp khác, sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành. Đây gọi là không phải đẳng kiến cũng không phải là đẳng phương tiện.

Như đẳng phương tiện, đẳng niệm, đẳng định, đẳng giải thoát cũng như vậy.

Hỏi: Các pháp tương ưng với đẳng kiến vô học, pháp đó tương ưng với đẳng trí vô học chăng?

Đáp: Các pháp tương ưng với đẳng kiến vô học, pháp đó không phải là đẳng trí vô học. Nếu như các pháp tương ưng với đẳng trí vô học, pháp đó không phải là đẳng kiến vô học.

Hỏi: Các pháp tương ưng với đẳng chí vô học, pháp đó tương ưng với đẳng phương tiện vô học chăng?

Đáp: Hoặc có đẳng chí không phải là đẳng phương tiện.

Thế nào là đẳng chí không phải là đẳng phương tiện? Là đẳng chí tương ưng với đẳng phương tiện. Đây gọi là đẳng chí không phải là đẳng phương tiện.

Thế nào là đẳng phương tiện không phải là đẳng chí? Là đẳng chí các đẳng chí không tương ưng với pháp tương ưng của đẳng phương tiện. Đây gọi là đẳng phương tiện không phải là đẳng chí.

Thế nào là đẳng chí cũng là đẳng phương tiện? Là trừ đẳng phương tiện, còn lại là các pháp tương ưng của đẳng chí. Đây gọi là đẳng chí cũng là đẳng phương tiện.

Thế nào là không phải đẳng chí cũng không phải là đẳng phương tiện? Là đẳng chí không tương ưng với đẳng phương tiện, đẳng phương tiện không tương ưng với đẳng chí, cùng các tâm tâm pháp khác, sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành. Đây gọi là không phải đẳng chí cũng không phải là đẳng phương tiện.

Như đẳng phương tiện, đẳng niệm, đẳng định, đẳng giải thoát cũng như vậy.

Hỏi: Các pháp tương ưng với đẳng chí vô học, pháp đó tương ưng với đẳng trí vô học chăng?

Đáp: Hoặc có đẳng chí không phải là đẳng trí.

Thế nào là đẳng chí không phải là đẳng trí? Là đẳng chí tương ưng với đẳng trí, các đẳng trí không tương ưng với pháp tương ưng của đẳng chí. Đây gọi là đẳng chí không phải là đẳng trí.

Thế nào là đẳng trí không phải là đẳng chí? Là đẳng trí tương ưng với đẳng chí, các đẳng chí không tương ưng với pháp tương ưng của đẳng trí. Đây gọi là đẳng trí không phải là đẳng chí.

Thế nào là đẳng chí cũng là đẳng trí? Là trừ đẳng chí tương ưng với đẳng trí, còn lại là các pháp tương ưng của đẳng chỉ, đẳng trí. Đây gọi là đẳng chí cũng là đẳng trí.

Thế nào là không phải đẳng chí cũng không phải là đẳng trí? Là đẳng chí không tương ưng với đẳng trí, đẳng trí không tương ưng với đẳng chí, cùng các tâm tâm pháp khác, sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành. Đây gọi là không phải đẳng chí cũng không phải là đẳng trí.

Hỏi: Các pháp tương ưng với đẳng phương tiện vô học, pháp đó tương ưng với đẳng niệm vô học chăng?

Đáp: Hoặc có đẳng phương tiện không phải là đẳng niệm.

Thế nào là đẳng phương tiện không phải là đẳng niệm? Là đẳng niệm. Đây gọi là đẳng phương tiện không phải là đẳng niệm.

Thế nào là đẳng niệm không phải là đẳng phương tiện? Là đẳng phương tiện. Đây gọi là đẳng niệm không phải là đẳng phương tiện.

Thế nào là đẳng phương tiện cũng là đẳng niệm? Là trừ đẳng niệm, còn lại là các pháp tương ưng của đẳng phương tiện. Đây gọi là đẳng phương tiện cũng là đẳng niệm.

Thế nào là không phải đẳng phương tiện cũng không phải là đẳng niệm? Là đẳng niệm không tương ưng với đẳng phương tiện, đẳng phương tiện không tương ưng với đẳng niệm, cùng các tâm tâm pháp khác, sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành. Đây gọi là không phải đẳng phương tiện cũng không phải là đẳng niệm.

Như đẳng niệm, đẳng định, đẳng giải thoát cũng như vậy.

Hỏi: Các pháp tương ưng với đẳng phương tiện vô học, pháp đó tương ưng với đẳng trí vô học chăng?

Đáp: Hoặc có đẳng phương tiện không phải là đẳng trí.

Thế nào là đẳng phương tiện không phải là đẳng trí? Là đẳng trí, các đẳng trí không tương ưng với pháp tương ưng của đẳng phương tiện.. Đây gọi là đẳng phương tiện không phải là đẳng trí.

Thế nào là đẳng trí không phải là đẳng phương tiện? Là đẳng trí tương ưng với đẳng phương tiện. Đây gọi là đẳng trí không phải là đẳng phương tiện.

Thế nào là đẳng phương tiện cũng là đẳng trí? Là trừ đẳng phương tiện, còn lại là các pháp tương ưng của đẳng trí. Đây gọi là đẳng phương tiện cũng là đẳng trí.

Thế nào là không phải đẳng phương tiện cũng không phải là đẳng trí? Là đẳng trí không tương ưng với đẳng phương tiện, cùng các tâm tâm pháp khác, sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành. Đây gọi là không phải đẳng phương tiện cũng không phải là đẳng trí.

Đẳng niệm, đẳng định cũng như vậy.

Hỏi: Các pháp tương ưng với đẳng giải thoát vô học, pháp đó tương ưng với đẳng trí vô học chăng?

Đáp: Hoặc có đẳng giải thoát không phải là đẳng trí.

Thế nào là đẳng giải thoát không phải là đẳng trí? Là đẳng trí, các đẳng trí không tương ưng với pháp tương ưng của đẳng giải thoát. Đây gọi là đẳng giải thoát không phải là đẳng trí.

Thế nào là đẳng trí không phải là đẳng giải thoát? Là đẳng trí tương ưng với đẳng giải thoát. Đây gọi là đẳng trí không phải là đẳng giải thoát.

Thế nào là đẳng giải thoát cũng là đẳng trí? Là trừ đẳng giải thoát, còn lại là các pháp tương ưng của đẳng trí. Đây gọi là đẳng giải thoát cũng là đẳng trí.

Thế nào là không phải đẳng giải thoát cũng không phải là đẳng trí? Là đẳng trí không tương ưng với đẳng giải thoát, cùng các tâm tâm pháp khác, sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành. Đây gọi là không phải đẳng giải thoát cũng không phải là đẳng trí.

***

Phẩm 6: BÀN VỀ NGƯ TỬ

Hai mươi hai căn: Nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, ý căn, nam căn, nữ căn, mạng căn, lạc căn, khổ căn, hỷ căn, ưu căn, hộ căn, tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, vị tri căn, dĩ tri căn, vô tri căn.

Nếu thành tựu nhãn căn, đối với hai mươi hai căn nầy, có bao nhiêu căn thành tựu, bao nhiêu căn không thành tựu? Cho đến thành tựu vô tri căn, đối với hai mươi hai căn nầy, có bao nhiêu căn thành tựu, bao nhiêu căn không thành tựu?

Nếu thành tựu nhãn căn, đối với hai mươi hai căn nầy, có bao nhiêu căn thành tựu nơi quá khứ, vị lai, hiện tại? Bao nhiêu căn không thành tựu nơi quá khứ, vị lai, hiện tại? Cho đến nếu thành tựu vô tri căn, đối với hai mươi hai căn nầy, có bao nhiêu căn thành tựu nơi quá khứ, vị lai, hiện tại? Bao nhiêu căn không thành tựu nơi quá khứ, vị lai, hiện tại?

Nếu không thành tựu nhãn căn, đối với hai mươi hai căn nầy, có bao nhiêu căn thành tựu, bao nhiêu căn không thành tựu? Cho đến không thành tựu vô tri căn, đối với hai mươi hai căn nầy, có bao nhiêu căn thành tựu, bao nhiêu căn không thành tựu?

Nếu không thành tựu nhãn căn, đối với hai mươi hai căn nầy, có bao nhiêu căn thành tựu nơi quá khứ, vị lai, hiện tại? Bao nhiêu căn không thành tựu nơi quá khứ, vị lai, hiện tại? Cho đến nếu không thành tựu vô tri căn, đối với hai mươi hai căn nầy, có bao nhiêu căn thành tựu nơi quá khứ, vị lai, hiện tại? Bao nhiêu căn không thành tựu nơi quá khứ, vị lai, hiện tại?

Các căn thiện, căn ấy là nhân nơi căn thiện chăng? Nếu như các căn nhân nơi căn thiện, căn ấy là thiện chăng? Các căn bất thiện, căn ấy là nhân nơi căn bất thiện chăng? Nếu như các căn nhân nơi căn bất thiện, căn ấy là bất thiện chăng? Các căn vô ký, căn ấy là nhân nơi căn vô ký chăng? Nếu như các căn nhân nơi căn vô ký, căn ấy là vô ký chăng? Từng có căn không phải nhân nơi căn thiện, không phải nhân nơi căn bất thiện, không phải nhân nơi căn vô ký, căn ấy không phải là không nhân chăng?

Về các nghĩa trên, chương nầy xin diễn nói đầy đủ.

*

Hai mươi hai căn: Nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, ý căn, nam căn, nữ căn, mạng căn, lạc căn, khổ căn, hỷ căn, ưu căn, hộ căn, tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, vị tri căn, dĩ tri căn, vô tri căn.

Nếu thành tựu nhãn căn, Hành giả tất thành tựu năm căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Như nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn cũng như vậy.

Nếu thành tựu thân căn, Hành giả kia tất thành tựu bốn căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Nếu thành tựu ý căn, Hành giả kia tất thành tựu ba căn (ý, mạng, hộ), số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Như ý căn, mạng căn, hộ căn cũng như vậy.

Nếu thành tựu nam căn, nữ căn, Hành giả kia tất thành tựu tám căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Nếu thành tựu lạc căn, Hành giả kia tất thành tựu bốn căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Nếu tạo thành khổ căn, Hành giả kia tất thành tựu bảy căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Nếu thành tựu hỷ căn, Hành giả kia tất thành tựu năm căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Nếu tạo thành ưu căn, Hành giả kia tất thành tựu tám căn, tất không thành tựu một căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Nếu thành tựu tín căn, Hành giả kia tất thành tựu tám căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Như tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn cũng như vậy.

Nếu thành tựu vị tri căn, Hành giả kia tất thành tựu mười ba căn, tất không thành tựu hai căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Nếu thành tựu dĩ tri căn, Hành giả kia tất thành tựu mười một căn, tất không thành tựu hai căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Nếu thành tựu vô tri căn, Hành giả kia tất thành tựu mười một căn, tất không thành tựu ba căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Nếu thành tựu nhãn căn, Hành giả kia tất không thành tựu quá khứ, vị lai tám căn, tất thành tựu quá khứ, vị lai hai căn, hiện tại ba căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Như nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn cũng như vậy.

Nếu thành tựu thân căn, Hành giả kia tất không thành tựu quá khứ, vị lai tám căn, tất thành tựu quá khứ, vị lai hai căn, hiện tại hai căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Nếu thành tựu ý căn, Hành giả kia tất không thành tựu quá khứ, vị lai tám căn, tất thành tựu quá khứ, vị lai hai căn, hiện tại một căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Như ý căn, mạng căn, hộ căn cũng như vậy.

Nếu thành tựu nam căn, nữ căn, Hành giả kia tất không thành tựu quá khứ, vị lai tám căn, tất thành tựu quá khứ, vị lai năm căn, hiện tại ba căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Nếu thành tựu lạc căn, Hành giả kia tất không thành tựu quá khứ, vị lai tám căn, tất thành tựu quá khứ, vị lai hai căn, vị lai một, hiện tại một, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Nếu tạo thành khổ căn, Hành giả kia tất không thành tựu quá khứ, vị lai tám căn, tất thành tựu quá khứ, vị lai năm căn, hiện tại hai căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Nếu thành tựu hỷ căn, Hành giả kia tất không thành tựu quá khứ, vị lai tám căn, tất thành tựu quá khứ, vị lai hai căn, hiện tại một căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Nếu tạo thành ưu căn, Hành giả kia tất không thành tựu quá khứ, vị lai tám căn, tất không thành tựu quá khứ, vị lai, hiện tại một căn, tất thành tựu quá khứ, vị lai bốn căn, tất thành tựu quá khứ, vị lai, hiện tại hai căn, hiện tại hai căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Nếu thành tựu tín căn, Hành giả kia tất không thành tựu quá khứ, vị lai tám căn, tất thành tựu quá khứ, vị lai bảy căn, hiện tại một căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Như tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn cũng như vậy.

Nếu thành tựu vị tri căn, Hành giả kia tất không thành tựu quá khứ, vị lai tám căn, tất không thành tựu quá khứ, vị lai, hiện tại hai căn, tất thành tựu quá khứ, vị lai, hiện tại bảy căn, thành tựu quá khứ, vị lai ba, vị lai, hiện tại một, hiện tại hai, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Nếu thành tựu dĩ tri căn, Hành giả kia tất không thành tựu quá khứ, vị lai tám căn, tất không thành tựu quá khứ, vị lai, hiện tại hai căn, tất thành tựu quá khứ, vị lai bảy căn, vị lai ba, hiện tại một, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Nếu thành tựu vô tri căn, Hành giả kia tất không thành tựu quá khứ, vị lai tám căn, tất không thành tựu quá khứ, vị lai, hiện tại ba căn, tất thành tựu quá khứ, vị lai bảy căn, vị lai ba, hiện tại một, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Nếu không thành tựu nhãn căn, Hành giả kia tất không thành tựu một căn, tất thành tựu ba căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Như nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn cũng như vậy.

Nếu không thành tựu thân căn, Hành giả kia tất thành tựu tám căn, tất không thành tựu mười căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Ý căn, mạng căn, hộ căn đều thành tựu.

Nếu không thành tựu nam căn, nữ căn, Hành giả kia tất thành tựu ba căn, tất không thành tựu một căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Nếu không thành tựu lạc căn, Hành giả kia tất thành tựu tám căn, tất không thành tựu chín căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Nếu không tạo thành khổ căn, Hành giả kia tất thành tựu bảy căn, tất không thành tựu năm căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Nếu không thành tựu hỷ căn, Hành giả kia tất thành tựu tám căn, tất không thành tựu tám căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Nếu không tạo thành ưu căn, Hành giả kia tất thành tựu tám căn, tất không thành tựu một căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Nếu không thành tựu tín căn, Hành giả kia tất thành tựu tám căn, tất không thành tựu tám căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Như tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn cũng như vậy.

Nếu không thành tựu vị tri căn, Hành giả kia tất thành tựu ba căn, tất không thành tựu một căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Như vị tri căn, dĩ tri căn, vô tri căn cũng như vậy.

Nếu không thành tựu nhãn căn, Hành giả kia tất không thành tựu quá khứ, vị lai, hiện tại một căn, tất không thành tựu quá khứ, vị lai bảy căn, tất thành tựu quá khứ, vị lai hai căn, hiện tại một căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Như nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn cũng như vậy.

Nếu không thành tựu thân căn, Hành giả kia tất không thành tựu quá khứ, vị lai, hiện tại mười căn, tất không thành tựu quá khứ, vị lai một căn, tất thành tựu quá khứ, vị lai năm căn, quá khứ, vị lai, hiện tại hai căn, hiện tại một căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu. Ý căn, mạng căn, hộ căn đều thành tựu.

Nếu không thành tựu nam căn, nữ căn, Hành giả kia tất không thành tựu quá khứ, vị lai, hiện tại một căn, tất không thành tựu quá khứ, vị lai bảy căn, tất thành tựu quá khứ, vị lai hai căn, hiện tại một căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Nếu không thành tựu lạc căn, Hành giả kia tất không thành tựu quá khứ, vị lai, hiện tại chín căn, tất không thành tựu quá khứ, vị lai sáu căn, tất thành tựu quá khứ, vị lai bảy căn, hiện tại một căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Nếu không tạo thành khổ căn, Hành giả kia tất không thành tựu quá khứ, vị lai, hiện tại năm căn, tất không thành tựu quá khứ, vị lai sáu căn, tất thành tựu quá khứ, vị lai bảy căn, hiện tại một căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Nếu không thành tựu hỷ căn, Hành giả kia tất không thành tựu quá khứ, vị lai, hiện tại tám căn, tất không thành tựu quá khứ, vị lai sáu căn, tất thành tựu quá khứ, vị lai bảy căn, hiện tại một căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Nếu không tạo thành ưu căn, Hành giả kia tất không thành tựu quá khứ, vị lai, hiện tại một căn, tất không thành tựu quá khứ, vị lai tám căn, tất thành tựu quá khứ, vị lai bảy căn, hiện tại một căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Nếu không thành tựu tín căn, Hành giả kia tất không thành tựu quá khứ, vị lai, hiện tại tám căn, tất không thành tựu quá khứ, vị lai tám căn, tất thành tựu quá khứ, vị lai bốn căn, quá khứ, vị lai, hiện tại hai căn, hiện tại hai căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Như tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn cũng như vậy.

Nếu không thành tựu vị tri căn, Hành giả kia tất không thành tựu quá khứ, vị lai, hiện tại một căn, tất không thành tựu quá khứ, vị lai tám căn, tất thành tựu quá khứ, vị lai hai căn, hiện tại một căn, số còn lại hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Như vị tri căn, dĩ tri căn, vô tri căn cũng như vậy.

Hỏi: Các căn thiện, căn ấy là nhân nơi căn thiện chăng?

Đáp: Đúng vậy. Các căn thiện, căn ấy là nhân nơi căn thiện.

Hỏi: Từng có các căn nhân nơi căn thiện, căn ấy không phải là thiện chăng?

Đáp: Có. Là căn thiện vốn có báo và căn vô ký.

Hỏi: Các căn bất thiện, căn ấy là nhân nơi căn bất thiện chăng?

Đáp: Đúng vậy. Các căn bất thiện, căn ấy là nhân nơi căn bất thiện.

Hỏi: Từng có các căn nhân nơi căn bất thiện, căn ấy không phải là bất thiện chăng?

Đáp: Có. Là căn bất thiện vốn có báo và căn vô ký, hoặc căn tương ưng với thân kiến, biên kiến nơi cõi Dục.

Hỏi: Các căn vô ký, căn ấy là nhân nơi căn vô ký chăng?

Đáp: Hoặc có căn vô ký, căn ấy không phải nhân nơi căn vô ký.

Thế nào là căn vô ký, căn ấy không phải nhân nơi căn vô ký? Là căn vô ký không duyên. Đây là căn vô ký, căn ấy không phải nhân nơi căn vô ký.

Thế nào là căn nhân nơi căn vô ký, căn ấy không phải là vô ký? Là căn bất thiện. Đây gọi là căn nhân nơi căn vô ký, căn ấy không phải là vô ký.

Thế nào là căn vô ký, căn ấy đã nhân nơi căn vô ký? Là căn vô ký có duyên. Đây gọi là căn vô ký, căn ấy đã nhân nơi căn vô ký.

Thế nào là căn không phải vô ký, căn ấy cũng không phải nhân nơi căn vô ký? Là căn thiện. Đây gọi là căn không phải vô ký, căn ấy cũng không phải nhân nơi căn vô ký.

Hỏi: Từng có căn không phải nhân nơi căn thiện, không phải nhân nơi căn bất thiện, không phải nhân nơi căn vô ký, căn ấy không phải là không nhân chăng?

Đáp: Có. Là các căn không duyên, nhân nơi sắc tâm bất tương ưng hành.

HẾT – QUYỂN 22