LUẬN A TỲ ĐÀM BÁT KIỀN ĐỘ
Tác giả: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử
Hán dịch: Đời Phù Tần, Sa môn Tăng Già Đề Ba và Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 7
Kiền độ thứ 2: KIẾT SỬ Phẩm 3: BÀN VỀ NGƯỜI
* Tụng nêu chung:
Kiết nơi hai thứ cõi quả: có năm
Chín mươi lăm kiết và ba kiết chủng
Môn nầy nêu rộng khắp nơi quả thật
Môn hữu dục xong, tám người nên học
Ba thứ gồm thân tử sinh thọ hữu
Tử nhưng không sinh hữu dục ở sau.
Hai thứ dựa vào thân, cõi Dục có hai, cõi Sắc có hai, cõi Vô sắc có hai.
Từng có kiết của cõi Dục: Cùng một thời có thể trói buộc chăng? Cùng một thời không thể trói buộc chăng? Dần dần có thể trói buộc chăng? Dần dần không thể trói buộc chăng? Từng có kiết của cõi Sắc: Cùng một thời có thể trói buộc chăng? Cùng một thời không thể trói buộc chăng? Dần dần có thể trói buộc chăng? Dần dần không thể trói buộc chăng? Từng có kiết của cõi Vô sắc: Cùng một thời có thể trói buộc chăng? Cùng một thời không thể trói buộc chăng? Dần dần có thể trói buộc chăng? Dần dần không thể trói buộc chăng?
Kiết nơi cõi Dục do bốn đế đoạn tận (dứt hết) là thuộc về quả nào? Kiết nơi cõi Dục do tư duy đoạn tận là thuộc về quả nào? Kiết nơi cõi Sắc do bốn đế đoạn tận là thuộc về quả nào? Kiết nơi cõi Sắc do tư duy đoạn tận là thuộc về quả nào? Kiết nơi cõi Vô sắc do bốn đế đoạn tận là thuộc về quả nào? Kiết nơi cõi Vô sắc do tư duy đoạn tận là thuộc về quả nào?
Năm kiết chủng (Năm bộ kiết): Là kiết chủng do khổ đế đoạn. Kiết chủng do tập đế đoạn. Kiết chủng do tận đế đoạn. Kiết chủng do đạo đế đoạn. Kiết chủng do tư duy đoạn. Kiết chủng do khổ đế đoạn tận (dứt hết) là thuộc về quả nào? Kiết chủng do tập đế, tận đế, đạo đế cùng tư duy đoạn tận là thuộc về quả nào?
Chín kiết chủng (Chín bộ kiết): Kiết chủng do khổ pháp trí đoạn. Kiết chủng do khổ vị tri trí đoạn. Kiết chủng do tập pháp trí đoạn. Kiết chủng do tập vị tri trí đoạn. Kiết chủng do tận pháp trí đoạn. Kiết chủng do tận vị tri trí đoạn. Kiết chủng do đạo pháp trí đoạn. Kiết chủng do đạo vị tri trí đoạn. Kiết chủng do tư duy đoạn. Kiết chủng do khổ pháp trí đoạn tận (dứt hết) là thuộc về quả nào? Kiết chủng do khổ vị tri trí đoạn, do tập pháp trí đoạn, do tập vị tri trí đoạn, do tận pháp trí đoạn, do tận vị tri trí đoạn, do đạo pháp trí đoạn, do đạo vị tri trí đoạn và kiết chủng do tư duy đoạn tận (dứt hết) là thuộc về quả nào?
Mười lăm kiết chủng (Mười lăm bộ kiết): Là kiết chủng nơi cõi Dục do khổ đế đoạn. Kiết chủng nơi cõi Dục do tập đế, tận đế, đạo đế cùng tư duy đoạn. Kiết chủng nơi cõi Sắc do khổ đế đoạn. Kiết chủng nơi cõi Sắc do tập đế, tận đế, đạo đế cùng tư duy đoạn. Kiết chủng nơi cõi Vô sắc do khổ đế đoạn. Kiết chủng nơi cõi Vô sắc do tập đế, tận đế, đạo đế cùng tư duy đoạn. Kiết chủng nơi cõi Dục do khổ đế đoạn tận (dứt hết) là thuộc về quả nào? Kiết chủng nơi cõi Dục do tập đế, tận đế, đạo đế cùng tư duy đoạn tận là thuộc về quả nào? Kiết chủng nơi cõi Sắc do khổ đế đoạn tận là thuộc về quả nào?
Kiết chủng nơi cõi Sắc do tập đế, tận đế, đạo đế cùng tư duy đoạn tận là thuộc về quả nào? Kiết chủng nơi cõi Vô sắc do khổ đế đoạn tận là thuộc về quả nào? Kiết chủng nơi cõi Vô sắc do tập đế, tận đế, đạo đế cùng tư duy đoạn tận (dứt hết) là thuộc về quả nào?
Ba kiết đoạn tận (dứt hết) là thuộc về quả nào? Cho đến chín mươi tám sử đoạn tận là thuộc về quả nào?
Đệ tử của Đức Thế Tôn đã thành tựu kiến đế, ái dục chưa hết, kiết nơi cõi Dục do tư duy đoạn tận là thuộc về quả nào? Ái dục đã hết, ái sắc chưa hết, kiết nơi cõi Sắc do tư duy đoạn tận là thuộc về quả nào? Ái sắc đã hết, ái vô sắc chưa hết, kiết nơi cõi Vô sắc do tư duy đoạn tận là thuộc về quả nào?
Tám người: Hướng đến Tu-đà-hoàn, chứng đắc Tu-đà-hoàn. Hướng đến Tư-đà-hàm, chứng đắc Tư-đà-hàm. Hướng đến A-nahàm, chứng đắc A-na-hàm. Hướng đến A-la-hán, chứng đắc A-la-hán. Người hướng chứng Tu-đà-hoàn kiết đã đoạn tận là thuộc về quả nào? Đắc quả Tu-đà-hoàn cho đến người hướng chứng A-la-hán kiết đã đoạn tận là thuộc về quả nào?
Các vị Tu-đà-hoàn đã thành tựu pháp học, pháp ấy thuộc về quả Tu-đà-hoàn chăng? Nếu như các pháp thuộc về quả Tu-đà-hoàn, pháp ấy là pháp học chăng? Tư-đà-hàm, A-na-hàm cũng lại như vậy. Các vị A-la-hán đã thành tựu pháp vô học, pháp ấy thuộc về quả A-la-hán chăng? Nếu như các pháp thuộc về quả A-la-hán, pháp ấy là pháp vô học chăng?
Các vị Tu-đà-hoàn đã thành tựu pháp vô lậu, pháp ấy thuộc về quả Tu-đà-hoàn chăng? Nếu như các pháp thuộc về quả Tu-đà-hoàn, pháp ấy là pháp vô lậu chăng? Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán cũng lại như vậy.
Các pháp Tu-đà-hoàn thành tựu, pháp ấy thuộc về quả Tu-đàhoàn chăng? Nếu như các pháp thuộc về quả Tu-đà-hoàn, pháp ấy là Tu-đà-hoàn thành tựu chăng? Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán cũng lại như vậy.
Từng có người từ cõi Dục mạng chung, sinh trở lại nơi cõi Dục, đều thọ hữu của cõi Dục chăng? Nếu thọ hữu của cõi Dục, là đều từ cõi Dục mạng chung, sinh trở lại nơi cõi Dục chăng? Từng có người từ cõi Sắc mạng chung, sinh trở lại nơi cõi Sắc, đều thọ hữu của cõi Sắc chăng? Nếu thọ hữu của cõi Sắc, là đều từ cõi Sắc mạng chung, sinh trở lại nơi cõi Sắc chăng? Từng có người từ cõi Vô sắc mạng chung, sinh trở lại nơi cõi Vô sắc, đều thọ hữu của cõi Vô sắc chăng? Nếu thọ hữu của cõi Vô sắc, là đều từ cõi Vô sắc mạng chung, sinh trở lại nơi cõi Vô sắc chăng?
Nếu có người từ cõi Dục mạng chung, sinh trở lại nơi cõi Dục, người nầy có bao nhiêu loại, bao nhiêu người bị sử sai khiến, bao nhiêu người bị kiết trói buộc? Nếu có người từ cõi Sắc mạng chung, sinh trở lại nơi cõi Sắc, người nầy có bao nhiêu loại, bao nhiêu người bị sử sai khiến, bao nhiêu người bị kiết trói buộc? Nếu có người từ cõi Vô sắc mạng chung, sinh trở lại nơi cõi Vô sắc, người nầy có bao nhiêu loại, bao nhiêu người bị sử sai khiến, bao nhiêu người bị kiết trói buộc?
Từng có người không từ cõi Dục mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, đều không thọ hữu của cõi Dục chăng? Nếu không thọ hữu của cõi Dục, đều không từ cõi Dục mất, sẽ không sinh nơi cõi Dục chăng? Từng có người không từ cõi Sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Sắc, đều không thọ hữu của cõi Sắc chăng? Nếu không thọ hữu của cõi Sắc, đều không từ cõi Sắc mất, sẽ không sinh nơi cõi Sắc chăng? Từng có người không từ cõi Vô sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Vô sắc, đều không thọ hữu của cõi Vô sắc chăng? Nếu không thọ hữu của cõi Vô sắc, đều không từ cõi Vô sắc mất, sẽ không sinh nơi cõi Vô sắc chăng?
Nếu có người không từ cõi Dục mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, người nầy có bao nhiêu loại, bao nhiêu người bị sử sai khiến, bao nhiêu người bị kiết trói buộc? Nếu có người không từ cõi Sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Sắc, người nầy có bao nhiêu loại, bao nhiêu người bị sử sai khiến, bao nhiêu người bị kiết trói buộc? Nếu có người không từ cõi Vô sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Vô sắc, người nầy có bao nhiêu loại, bao nhiêu người bị sử sai khiến, bao nhiêu người bị kiết trói buộc?
Từng có người ở cõi Dục mạng chung, không sinh nơi cõi Dục chăng? Từng có người ở cõi Dục mạng chung, không sinh nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc chăng? Từng có người ở cõi Sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Sắc chăng? Từng có người ở cõi Sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, cõi Vô sắc chăng? Từng có người ở cõi Vô sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Vô sắc chăng? Từng có người ở cõi Vô sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc chăng?
Nếu như người ở cõi Dục mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, người nầy có bao nhiêu loại, bao nhiêu người bị sử sai khiến, bao nhiêu người bị kiết trói buộc? Nếu như người ở cõi Dục mạng chung, không sinh nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc, người nầy có bao nhiêu loại, bao nhiêu người bị sử sai khiến, bao nhiêu người bị kiết trói buộc? Nếu như người ở cõi Sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Sắc, người nầy có bao nhiêu loại, bao nhiêu người bị sử sai khiến, bao nhiêu người bị kiết trói buộc? Nếu như người ở cõi Sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, cõi Vô sắc, người nầy có bao nhiêu loại, bao nhiêu người bị sử sai khiến, bao nhiêu người bị kiết trói buộc? Nếu như người ở cõi Vô sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Vô sắc, người nầy có bao nhiêu loại, bao nhiêu người bị sử sai khiến, bao nhiêu người bị kiết trói buộc? Nếu như người ở cõi Vô sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc, người nầy có bao nhiêu loại, bao nhiêu người bị sử sai khiến, bao nhiêu người bị kiết trói buộc?
Từng có người ở cõi Dục mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc chăng? Từng có người ở cõi Sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc chăng? Từng có người ở cõi Vô sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc chăng?
Nếu như người ở cõi Dục mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, người nầy có bao nhiêu loại, bao nhiêu người bị sử sai khiến, bao nhiêu người bị kiết trói buộc? Nếu có người ở cõi Sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, người nầy có bao nhiêu loại, bao nhiêu người bị sử sai khiến, bao nhiêu người bị kiết trói buộc? Nếu có người ở cõi Vô sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, người nầy có bao nhiêu loại, bao nhiêu người bị sử sai khiến, bao nhiêu người bị kiết trói buộc?
Từng có ái dục chưa hết, mạng chung, không sinh nơi cõi Dục chăng? Từng có ái sắc chưa hết, mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc chăng? Từng có ái vô sắc chưa hết, mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc chăng?
Nếu ái dục chưa hết, mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, người nầy có bao nhiêu loại, bao nhiêu người bị sử sai khiến, bao nhiêu người bị kiết trói buộc? Nếu ái sắc chưa hết, mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc, người nầy có bao nhiêu loại, bao nhiêu người bị sử sai khiến, bao nhiêu người bị kiết trói buộc? Nếu ái vô sắc chưa hết, mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, người nầy có bao nhiêu loại, bao nhiêu người bị sử sai khiến, bao nhiêu người bị kiết trói buộc?
Về các nghĩa trên, chương nầy xin diễn nói đầy đủ.
*
Hai thứ nơi cõi Dục, hai thứ nơi cõi Sắc, hai thứ nơi cõi Vô sắc là kiết chủng (bộ kiết) do bốn đế đoạn và kiết chủng (bộ kiết) do tư duy đoạn.
Hỏi: Từng có kiết của cõi Dục cùng một thời có thể trói buộc chăng?
Đáp: Có. Là người phàm phu ở cõi Dục, không có ái (lìa nhiễm), thoái lui, từ cõi Sắc, cõi Vô sắc mất sinh nơi cõi Dục.
Hỏi: Cùng một thời không thể trói buộc chăng?
Đáp: Có. Là người phàm phu được không có ái của cõi Dục.
Hỏi: Dần dần có thể trói buộc chăng?
Đáp: Không có.
Hỏi: Dần dần không thể trói buộc chăng?
Đáp: Có. Là đệ tử của Đức Thế Tôn, trước diệt kiết do bốn đế đoạn, sau diệt kiết do tư duy đoạn.
Hỏi: Từng có kiết của cõi Sắc: Cùng một thời có thể trói buộc chăng?
Đáp: Có. Là người phàm phu ở cõi Sắc, không có ái (lìa nhiễm), thoái lui, từ địa trên mất sinh nơi cõi Dục, hoặc trên cõi Phạm thiên.
Hỏi: Cùng một thời không thể trói buộc chăng?
Đáp: Có. Là người phàm phu được không có ái của cõi Sắc.
Hỏi: Dần dần có thể trói buộc chăng?
Đáp: Không được.
Hỏi: Dần dần không thể trói buộc chăng?
Đáp: Được. Là đệ tử của Đức Thế Tôn, trước diệt kiết do bốn đế đoạn, sau diệt kiết do tư duy đoạn.
Hỏi: Từng có kiết của cõi Vô sắc: Cùng một thời có thể trói buộc chăng?
Đáp: Không có.
Hỏi: Cùng một thời không thể trói buộc chăng?
Đáp: Không có.
Hỏi: Dần dần có thể trói buộc chăng?
Đáp: Không được.
Hỏi: Dần dần không thể trói buộc chăng?
Đáp: Được. Là đệ tử của Đức Thế Tôn, trước diệt kiết do bốn đế đoạn, sau diệt kiết do tư duy đoạn.
Hỏi: Kiết nơi cõi Dục do bốn đế đoạn tận (dứt hết) là thuộc về quả nào? Cho đến kiết nơi cõi Vô sắc do tư duy đoạn tận (dứt hết) là thuộc về quả nào?
Đáp: Kiết nơi cõi Dục do bốn đế đoạn dứt hết thuộc về hoặc bốn quả Sa-môn, hoặc vô xứ sở. Kiết nơi cõi Dục do tư duy đoạn dứt hết thuộc về hoặc quả A-na-hàm, hoặc quả A-la-hán, hoặc vô xứ sở.
Kiết nơi cõi Sắc do bốn đế đoạn dứt hết thuộc về hoặc bốn quả Sa-môn, hoặc vô xứ sở. Kiết nơi cõi Sắc do tư duy đoạn dứt hết thuộc về hoặc quả A-la-hán, hoặc vô xứ sở.
Kiết nơi cõi Vô sắc do bốn đế đoạn dứt hết thuộc về bốn quả Sa-môn. Kiết nơi cõi Vô sắc do tư duy đoạn dứt hết thuộc về quả A-la-hán.
Năm kiết chủng (Năm bộ kiết): Là kiết chủng do khổ đế đoạn, kiết chủng do tập đế đoạn, kiết chủng do tận đế đoạn, kiết chủng do đạo đế đoạn, kiết chủng do tư duy đoạn.
Hỏi: Kiết chủng do khổ đế đoạn tận (dứt hết) là thuộc về quả nào? Cho đến kiết chủng do tư duy đoạn tận (dứt hết) là thuộc về quả nào?
Đáp: Kiết chủng do khổ đế đoạn thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc vô xứ sở.
Kiết chủng do tập đế, tận đế đoạn thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc vô xứ sở.
Kiết chủng do đạo đế đoạn thuộc về bốn quả Sa-môn.
Kiết chủng do tư duy đoạn thuộc về quả A-la-hán.
Chín kiết chủng (Chín bộ kiết): Là kiết chủng do khổ pháp trí đoạn. Kiết chủng do khổ vị tri trí đoạn. Kiết chủng do tập pháp trí đoạn. Kiết chủng do tập vị tri trí đoạn. Kiết chủng do tận pháp trí đoạn. Kiết chủng do tận vị tri trí đoạn. Kiết chủng do đạo pháp trí đoạn. Kiết chủng do đạo vị tri trí đoạn. Kiết chủng do tư duy đoạn.
Hỏi: Kiết chủng do khổ pháp trí đoạn tận (dứt hết) là thuộc về quả nào? Cho đến kiết chủng do tư duy đoạn tận (dứt hết) là thuộc về quả nào?
Đáp: Kiết chủng do khổ pháp trí đoạn thuộc về bốn quả Samôn, hoặc vô xứ sở.
Kiết chủng do khổ vị tri trí đoạn, do tập pháp trí đoạn, do tập vị tri trí đoạn, do tận pháp trí đoạn, do tận vị tri trí đoạn, do đạo pháp trí đoạn thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc vô xứ sở.
Kiết chủng do đạo vị tri trí đoạn thuộc về bốn quả Sa-môn.
Kiết chủng do tư duy đoạn thuộc về quả A-la-hán.
Mười lăm kiết chủng (Mười lăm bộ kiết): Là kiết chủng nơi cõi Dục do khổ đế đoạn. Kiết chủng nơi cõi Dục do tập đế, tận đế, đạo đế cùng tư duy đoạn. Kiết chủng nơi cõi Sắc do khổ đế đoạn. Kiết chủng nơi cõi Sắc do tập đế, tận đế, đạo đế cùng tư duy đoạn. Kiết chủng nơi cõi Vô sắc do khổ đế đoạn. Kiết chủng nơi cõi Vô sắc do tập đế, tận đế, đạo đế cùng tư duy đoạn.
Hỏi: Kiết chủng nơi cõi Dục do khổ đế đoạn tận (dứt hết) là thuộc về quả nào? Cho đến kiết chủng nơi cõi Vô sắc do tư duy đoạn tận (dứt hết) là thuộc về quả nào?
Đáp: Kiết chủng nơi cõi Dục do khổ đế đoạn thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc vô xứ sở. Kiết chủng nơi cõi Dục do tập đế, tận đế, đạo đế đoạn thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc vô xứ sở. Kiết chủng nơi cõi Dục do tư duy đoạn thuộc về quả A-na-hàm, A-la-hán, hoặc vô xứ sở.
Kiết chủng nơi cõi Sắc do khổ đế đoạn thuộc về bốn quả Samôn, hoặc vô xứ sở. Kiết chủng nơi cõi Sắc do tập đế, tận đế, đạo đế đoạn thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc vô xứ sở. Kiết chủng nơi cõi Sắc do tư duy đoạn thuộc về quả A-la-hán, hoặc vô xứ sở.
Kiết chủng nơi cõi Vô sắc do khổ đế đoạn thuộc về bốn quả Samôn, hoặc vô xứ sở. Kiết chủng nơi cõi Vô sắc do tập đế, tận đế, đạo đế đoạn thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc vô xứ sở. Kiết chủng nơi cõi Vô sắc do tư duy đoạn thuộc về quả A-la-hán.
Hỏi: Ba kiết đoạn tận (dứt hết) là thuộc về quả nào? Cho đến chín mươi tám sử đoạn tận là thuộc về quả nào?
Đáp: Thân kiến đoạn tận thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc vô xứ sở. Trộm giới (giới cấm thủ), nghi đoạn tận thuộc về bốn quả Sa-môn.
Ba căn bất thiện tham, giận, si và dục lậu trong ba hữu lậu đoạn tận thuộc về quả A-na-hàm, A-la-hán, hoặc vô xứ sở. Hữu lậu, vô minh lậu đoạn tận thuộc về quả A-la-hán.
Trong bốn lưu (bộc lưu): Dục lưu đoạn tận thuộc về quả A-nahàm, A-la-hán, hoặc vô xứ sở. Hữu lưu, vô minh lưu đoạn tận thuộc về quả A-la-hán. Kiến lưu đoạn tận thuộc về bốn quả Sa-môn.
Như lưu, ách cũng như vậy.
Trong bốn thọ (thủ): Dục thọ đoạn tận thuộc về quả A-na-hàm, A-la-hán, hoặc vô xứ sở. Giới thọ, kiến thọ đoạn tận thuộc về bốn quả Sa-môn. Ngã thọ (ngã ngữ thủ) đoạn tận thuộc về quả A-la-hán.
Trong bốn phược: Tham dục trói buộc (phược) thân, giận dữ trói buộc thân đoạn tận thuộc về quả A-na-hàm, A-la-hán, hoặc vô xứ sở. Trộm giới, ngã kiến trói buộc thân đoạn tận thuộc về bốn quả Sa-môn.
Trong năm cái: Cái tham dục, cái giận dữ, cái thùy miên – trạo, cái hối đoạn tận thuộc về quả A-na-hàm, A-la-hán, hoặc vô xứ sở. Cái nghi đoạn tận thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc vô xứ sở.
Trong năm kiết: Các kiết giận dữ, kiết keo kiệt, kiết ganh tị đoạn tận thuộc về quả A-na-hàm, A-la-hán, hoặc vô xứ sở. Kiết ái, kiết kiêu mạn đoạn tận thuộc về quả A-la-hán.
Trong năm kiết phần dưới: Kiết tham dục, kiết giận dữ đoạn tận thuộc về quả A-na-hàm, A-la-hán, hoặc vô xứ sở. Kiết thân kiến đoạn tận thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc vô xứ sở. Kiết trộm giới, kiết nghi đoạn tận thuộc về bốn quả Sa-môn.
Trong năm kiến: Thân kiến, biên kiến đoạn tận thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc vô xứ sở. Tà kiến, trộm kiến (kiến thủ), trộm giới (giới cấm thủ) đoạn tận thuộc về bốn quả Sa-môn.
Nơi sáu ái thân: Ái thân do tỷ xúc, thiệt xúc sinh ra đoạn tận thuộc về quả A-na-hàm, A-la-hán, hoặc vô xứ sở. Ái thân do nhãn xúc, nhĩ xúc, thân xúc sinh ra đoạn tận thuộc về quả A-la-hán, hoặc vô xứ sở. Ái thân do ý xúc sinh ra đoạn tận thuộc về quả A-la-hán.
Nơi bảy sử: Hai sử tham dục, giận dữ đoạn tận thuộc về quả A-na-hàm, A-la-hán, hoặc vô xứ sở. Ba sử hữu ái, sử kiêu mạn, sử vô minh đoạn tận thuộc về quả A-la-hán. Hai sử kiến, sử nghi đoạn tận thuộc về bốn quả Sa-môn.
Trong chín kiết: Kiết giận dữ, kiết keo kiệt, kiết ganh tị đoạn tận thuộc về quả A-na-hàm, A-la-hán, hoặc vô xứ sở. Kiết ái, kiết kiêu mạn, kiết vô minh đoạn tận thuộc về quả A-la-hán. Kiết kiến, kiết thất nguyện (kiến thủ), kiết nghi đoạn tận thuộc về bốn quả Sa-môn.
Nơi chín mươi tám sử: Các sử nơi cõi Dục do bốn đế đoạn tận thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc vô xứ sở. Sử nơi cõi Dục do tư duy đoạn tận thuộc về quả A-na-hàm, A-la-hán, hoặc vô xứ sở.
Sử nơi cõi Sắc do bốn đế đoạn tận thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc vô xứ sở. Sử nơi cõi Sắc do tư duy đoạn tận thuộc về quả A-lahán, hoặc vô xứ sở.
Sử nơi cõi Vô sắc do khổ, tập, tận đế đoạn tận thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc vô xứ sở. Sử nơi cõi Vô sắc do đạo đế đoạn tận thuộc về bốn quả Sa-môn. Sử nơi cõi Vô sắc do tư duy đoạn tận thuộc về quả A-la-hán.
Hỏi: Đệ tử của Đức Thế Tôn đã thành tựu kiến đế, ái dục chưa hết, kiết nơi cõi Dục do tư duy đoạn tận là thuộc về quả nào?
Đáp: Thuộc về quả Tư-đà-hàm, hoặc vô xứ sở.
Hỏi: Ái dục đã hết, ái sắc chưa hết, kiết nơi cõi Sắc do tư duy đoạn tận là thuộc về quả nào?
Đáp: Thuộc về vô xứ sở.
Hỏi: Ái sắc đã hết, ái vô sắc chưa hết, kiết nơi cõi Vô sắc do tư duy đoạn tận là thuộc về quả nào?
Đáp: Thuộc về vô xứ sở.
Tám người: Hướng đến Tu-đà-hoàn, chứng đắc Tu-đàhoàn. Hướng đến Tư-đà-hàm, chứng đắc Tư-đà-hàm. Hướng đến A-na-hàm, chứng đắc A-na-hàm. Hướng đến A-la-hán, chứng đắc A-la-hán.
Hỏi: Người hướng chứng Tu-đà-hoàn kiết đã đoạn tận là thuộc về quả nào?
Đáp: Thuộc về vô xứ sở.
Đắc quả Tu-đà-hoàn, tức thuộc về quả Tu-đà-hoàn.
Hỏi: Người hướng chứng Tư-đà-hàm kiết đã đoạn tận là thuộc về quả nào?
Đáp: Thuộc về quả Tu-đà-hoàn, hoặc vô xứ sở.
Đắc quả Tư-đà-hàm, tức thuộc về quả Tư-đà-hàm.
Hỏi: Người hướng chứng A-na-hàm kiết đã đoạn tận là thuộc về quả nào?
Đáp: Thuộc về quả Tư-đà-hàm, hoặc vô xứ sở.
Đắc quả A-na-hàm, tức thuộc về quả A-na-hàm.
Hỏi: Người hướng chứng A-la-hán kiết đã đoạn tận là thuộc về quả nào?
Đáp: Thuộc về quả A-na-hàm, hoặc vô xứ sở.
Đắc quả A-la-hán tức thuộc về quả A-la-hán.
Hỏi: Các vị Tu-đà-hoàn đã thành tựu pháp học, pháp ấy thuộc về quả Tu-đà-hoàn chăng?
Đáp: Hoặc thuộc về, hoặc không thuộc về.
Thế nào là thuộc về? Là được quả Tu-đà-hoàn hữu vi không mất. Đây gọi là thuộc về.
Thế nào là không thuộc về? Là người Tu-đà-hoàn tăng ích, tiến tới được căn vô lậu vi diệu, được xong kiết đoạn tận, đạt chứng. Đây gọi là không thuộc về.
Hỏi: Nếu như các pháp thuộc về quả Tu-đà-hoàn, pháp ấy là pháp học chăng?
Đáp: Hoặc là pháp học, hoặc là pháp phi học phi vô học.
Thế nào là pháp học? Là quả Tu-đà-hoàn hữu vi. Đây gọi là pháp học.
Thế nào là pháp phi học phi vô học? Là quả Tu-đà-hoàn vô vi. Đây gọi là pháp phi học phi vô học.
Tư-đà-hàm, A-na-hàm cũng như vậy.
Hỏi: Các vị A-la-hán đã thành tựu pháp vô học, pháp ấy thuộc về quả A-la-hán chăng?
Đáp: Đúng thế.
Hỏi: Nếu như các pháp thuộc về quả A-la-hán, pháp ấy là pháp vô học chăng?
Đáp: Hoặc là pháp vô học, hoặc là pháp phi học phi vô học.
Thế nào là pháp vô học? Là quả A-la-hán hữu vi. Đây gọi là pháp vô học.
Thế nào là pháp phi học phi vô học? Là quả A-la-hán vô vi. Đây gọi là pháp phi học phi vô học.
Hỏi: Các vị Tu-đà-hoàn đã thành tựu pháp vô lậu, pháp ấy thuộc về quả Tu-đà-hoàn chăng?
Đáp: Hoặc thuộc về, hoặc không thuộc về.
Thế nào là thuộc về? Là được quả Tu-đà-hoàn không mất. Đây gọi là thuộc về.
Thế nào là không thuộc về? Là người Tu-đà-hoàn tăng ích, tiến tới được căn vô lậu tốt đẹp, được xong kiết đoạn tận, nhận chứng đắc, cũng là phi số duyên tận (Phi trạch diệt), thành tựu Tu-đà-hoàn. Đây gọi là không thuộc về.
Hỏi: Nếu như các pháp thuộc về quả Tu-đà-hoàn, pháp ấy là pháp vô lậu chăng?
Đáp: Đúng thế.
Như Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm cũng như vậy.
Hỏi: Các vị A-la-hán đã thành tựu pháp vô lậu, pháp ấy thuộc về quả A-la-hán chăng?
Đáp: Hoặc thuộc về, hoặc không thuộc về.
Thế nào là thuộc về? Là được quả A-la-hán không mất. Đây gọi là thuộc về.
Thế nào là không thuộc về? Là A-la-hán thành tựu phi số duyên tận (Phi trạch diệt). Đây gọi là không thuộc về.
Hỏi: Nếu như các pháp thuộc về quả A-la-hán, pháp ấy là pháp vô lậu chăng?
Đáp: Đúng thế.
Hỏi: Các pháp Tu-đà-hoàn thành tựu, pháp ấy thuộc về quả Tuđà-hoàn chăng?
Đáp: Hoặc có các pháp Tu-đà-hoàn thành tựu, pháp ấy không thuộc về quả Tu-đà-hoàn.
Thế nào là các pháp Tu-đà-hoàn thành tựu, pháp ấy không thuộc về quả Tu-đà-hoàn? Là Tu-đà-hoàn tăng ích, tiến tới được căn vô lậu vi diệu, được xong kiết đoạn tận, thọ chứng cũng là các phi số duyên tận, là Tu-đà-hoàn thành tựu pháp hữu lậu tức Tu-đà-hoàn thành tựu. Đây là các pháp Tu-đà-hoàn thành tựu, pháp ấy không thuộc về quả Tu-đà-hoàn.
Thế nào là các pháp thuộc về quả Tu-đà-hoàn, pháp ấy không phải là Tu-đà-hoàn thành tựu? Là chưa được quả Tu-đà-hoàn, được rồi liền mất. Đây là các pháp thuộc về quả Tu-đà-hoàn, pháp ấy không phải là Tu-đà-hoàn thành tựu.
Thế nào là các pháp Tu-đà-hoàn thành tựu, pháp ấy thuộc về quả Tu-đà-hoàn? Là được quả Tu-đà-hoàn không mất. Đây là các pháp Tu-đà-hoàn thành tựu, pháp ấy thuộc về quả Tu-đà-hoàn.
Thế nào là các pháp không phải Tu-đà-hoàn thành tựu, pháp ấy cũng không phải thuộc về quả Tu-đà-hoàn? Là trừ các sự việc đã nêu trên.
Như Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm cũng lại như vậy.
Hỏi: Các pháp A-la-hán thành tựu, pháp ấy thuộc về quả A-lahán chăng?
Đáp: Hoặc có các pháp A-la-hán thành tựu, pháp ấy không thuộc về quả A-la-hán.
Thế nào là các pháp A-la-hán thành tựu, pháp ấy không thuộc về quả A-la-hán? Là A-la-hán thành tựu phi số duyên tận và A-la-hán thành tựu pháp hữu lậu. Đây là các pháp A-la-hán thành tựu, pháp ấy không thuộc về quả A-la-hán.
Thế nào là các pháp thuộc về quả A-la-hán, pháp ấy không phải là A-la-hán thành tựu? Là hoặc chưa được A-la-hán, hoặc được rồi liền mất. Đây là các pháp thuộc về quả A-la-hán, pháp ấy không phải là A-la-hán thành tựu.
Thế nào là các pháp A-la-hán thành tựu, pháp ấy thuộc về quả A-la-hán? Là được A-la-hán không mất. Đây là các pháp A-la-hán thành tựu, pháp ấy thuộc về quả A-la-hán.
Thế nào là các pháp không phải A-la-hán thành tựu, pháp ấy cũng không phải thuộc về quả A-la-hán? Là trừ các sự việc đã nêu trên.
Hỏi: Từng có người từ cõi Dục mạng chung, sinh trở lại nơi cõi Dục, đều thọ hữu của cõi Dục chăng?
Đáp: Hoặc từ cõi Dục mất, sinh trở lại nơi cõi Dục, không thọ hữu của cõi Dục.
Thế nào là từ cõi Dục mất, sinh trở lại nơi cõi Dục, không thọ hữu của cõi Dục? Là từ cõi Dục mất, khởi trung ấm (trung hữu) trong cõi Sắc. Đây là từ cõi Dục mất, sinh trở lại nơi cõi Dục, không thọ hữu của cõi Dục.
Thế nào là thọ hữu của cõi Dục, không phải từ cõi Dục mất, không sinh nơi cõi Dục? Là từ cõi Sắc mất, khởi trung ấm trong cõi Dục. Đây là thọ hữu của cõi Dục, không phải từ cõi Dục mất, không sinh nơi cõi Dục.
Thế nào là từ cõi Dục mất, sinh trở lại nơi cõi Dục, thọ hữu của cõi Dục? Là từ cõi Dục mất, khởi trung ấm, sinh ấm trong cõi Dục. Đây là từ cõi Dục mất, sinh trở lại nơi cõi Dục, thọ hữu của cõi Dục.
Thế nào là không từ cõi Dục mất, không sinh nơi cõi Dục, không thọ hữu của cõi Dục? Là từ cõi Sắc mất, khởi trung ấm, sinh ấm trong cõi Sắc. Từ cõi Sắc mất sinh nơi cõi Vô sắc, từ cõi Vô sắc mất sinh nơi cõi Vô sắc, từ cõi Vô sắc mất sinh nơi cõi Sắc. Đây là không từ cõi Dục mất, không sinh nơi cõi Dục, không thọ hữu của cõi Dục.
Hỏi: Từng có người từ cõi Sắc mạng chung, sinh trở lại nơi cõi Sắc, đều thọ hữu của cõi Sắc chăng?
Đáp: Hoặc từ cõi Sắc mất, sinh trở lại nơi cõi Sắc, không thọ hữu của cõi Sắc.
Thế nào là từ cõi Sắc mất, sinh trở lại nơi cõi Sắc, không thọ hữu của cõi Sắc? Là từ cõi Sắc mất khởi trung ấm trong cõi Dục. Đây là từ cõi Sắc mất, sinh trở lại nơi cõi Sắc, không thọ hữu của cõi Sắc.
Thế nào là thọ hữu của cõi Sắc, không từ cõi Sắc mất, không sinh nơi cõi Sắc? Là từ cõi Dục mất khởi trung ấm trong cõi Sắc. Đây là thọ hữu của cõi Sắc, không từ cõi Sắc mất, không sinh nơi cõi Sắc.
Thế nào là từ cõi Sắc mất, sinh trở lại nơi cõi Sắc, thọ hữu của cõi Sắc? Là từ cõi Sắc mất, khởi trung ấm, sinh ấm trong cõi Sắc.
Đây là từ cõi Sắc mất, sinh trở lại nơi cõi Sắc, thọ hữu của cõi Sắc.
Thế nào là không từ cõi Sắc mất, không sinh nơi cõi Sắc, không thọ hữu của cõi Sắc? Là từ cõi Dục mất, khởi trung ấm, sinh ấm trong cõi Dục. Từ cõi Dục mất sinh nơi cõi Vô sắc, từ cõi Vô sắc mất sinh nơi cõi Vô sắc, từ cõi Vô sắc mất sinh nơi cõi Dục. Đây là không từ cõi Sắc mất, không sinh nơi cõi Sắc, không thọ hữu của cõi Sắc.
Hỏi: Từng có người từ cõi Vô sắc mạng chung, sinh trở lại nơi cõi Vô sắc, đều thọ hữu của cõi Vô sắc chăng?
Đáp: Đúng thế. Từ cõi Vô sắc mất, sinh nơi cõi Vô sắc, đều thọ hữu của cõi Vô sắc.
Hỏi: Từng có thọ hữu của cõi Vô sắc, không từ cõi Vô sắc mất, sinh nơi cõi Vô sắc chăng?
Đáp: Có. Nếu từ cõi Dục, cõi Sắc mất sinh nơi cõi Vô sắc.
Nếu có người từ cõi Dục mạng chung, sinh trở lại nơi cõi Dục, người nầy có bốn loại: Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Dục. Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Sắc.
Nếu có người từ cõi Sắc mạng chung, sinh trở lại nơi cõi Sắc, người nầy có ba loại: Phàm phu nơi cõi Dục. Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Sắc.
Nếu có người từ cõi Vô sắc mạng chung, sinh trở lại nơi cõi Vô sắc, người nầy có hai loại: Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Vô sắc.
Người phàm phu nơi cõi Dục bị chín mươi tám sử sai khiến, chín kiết trói buộc. Bậc Hiền Thánh nhân bị mười sử sai khiến, sáu kiết trói buộc.
Người phàm phu nơi cõi Sắc bị sáu mươi hai sử sai khiến, sáu kiết trói buộc. Bậc Hiền Thánh bị sáu sử sai khiến, ba kiết trói buộc.
Người phàm phu nơi cõi Vô sắc bị ba mươi mốt sử sai khiến, sáu kiết trói buộc. Bậc Hiền Thánh bị ba sử sai khiến, ba kiết trói buộc.
Hỏi: Từng có người không từ cõi Dục mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, đều không thọ hữu của cõi Dục chăng?
Đáp: Hoặc có không từ cõi Dục mất, không sinh nơi cõi Dục, không phải không thọ hữu của cõi Dục.
Thế nào là không từ cõi Dục mất, không sinh nơi cõi Dục, không phải không thọ hữu của cõi Dục? Là từ cõi Sắc mất, khởi trung ấm trong cõi Dục. Đây là không từ cõi Dục mất, không sinh nơi cõi Dục, không phải không thọ hữu của cõi Dục.
Thế nào là không thọ hữu của cõi Dục, không phải không từ cõi Dục mất, không phải không sinh nơi cõi Dục? Là từ cõi Dục mất, khởi trung ấm trong cõi Sắc. Đây là không thọ hữu của cõi Dục, không phải không từ cõi Dục mất, không phải không sinh nơi cõi Dục.
Thế nào là không từ cõi Dục mất, không sinh nơi cõi Dục, không thọ hữu của cõi Dục? Là từ cõi Sắc mất, khởi trung ấm, sinh ấm trong cõi Sắc. Từ cõi Sắc mất sinh nơi cõi Vô sắc, từ cõi Vô sắc mất sinh nơi cõi Vô sắc, từ cõi Vô sắc mất sinh nơi cõi Sắc. Đây là không từ cõi Dục mất, không sinh nơi cõi Dục, không thọ hữu của cõi Dục.
Thế nào là không phải không từ cõi Dục mất, không phải không từ cõi Dục sinh, không phải không thọ hữu của cõi Dục? Là từ cõi Dục mất, khởi trung ấm, sinh ấm trong cõi Dục. Đây là không phải không từ cõi Dục mất, không phải không sinh nơi cõi Dục, không phải không thọ hữu của cõi Dục.
Hỏi: Từng có người không từ cõi Sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Sắc, đều không thọ hữu của cõi Sắc chăng?
Đáp: Hoặc không từ cõi Sắc mất, không sinh nơi cõi Sắc, không phải không thọ hữu của cõi Sắc.
Thế nào là không từ cõi Sắc mất, không sinh nơi cõi Sắc, không phải không thọ hữu của cõi Sắc? Là từ cõi Dục mất, khởi trung ấm trong cõi Sắc. Đây là không từ cõi Sắc mất, không sinh nơi cõi Sắc, không phải không thọ hữu của cõi Sắc.
Thế nào là không thọ hữu của cõi Sắc, không phải không từ cõi Sắc mất, không phải không sinh nơi cõi Sắc? Là từ cõi Sắc mất, khởi trung ấm trong cõi Dục. Đây là không thọ hữu của cõi Sắc, không phải không từ cõi Sắc mất, không phải không sinh nơi cõi Sắc.
Thế nào là không từ cõi Sắc mất, không sinh nơi cõi Sắc, không thọ hữu của cõi Sắc? Là từ cõi Dục mất, khởi trung ấm, sinh ấm trong cõi Dục. Từ cõi Dục mất sinh nơi cõi Vô sắc, từ cõi Vô sắc mất sinh nơi cõi Vô sắc, từ cõi Vô sắc mất sinh nơi cõi Dục. Đây là không từ cõi Sắc mất, không sinh nơi cõi Sắc, không thọ hữu của cõi Sắc.
Thế nào là không phải không từ cõi Sắc mất, không phải không sinh nơi cõi Sắc, không phải không thọ hữu của cõi Sắc? Là từ cõi Sắc mất, khởi trung ấm, sinh ấm trong cõi Sắc. Đây là không phải không từ cõi Sắc mất, không phải không sinh nơi cõi Sắc, không phải không thọ hữu của cõi Sắc.
Hỏi: Từng có người không từ cõi Vô sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Vô sắc, đều không thọ hữu của cõi Vô sắc chăng?
Đáp: Đúng thế. Không từ cõi Vô sắc mất, không sinh nơi cõi Vô sắc, đều không thọ hữu của cõi Vô sắc.
Hỏi: Từng có không thọ hữu của cõi Vô sắc, không phải không từ cõi Vô sắc mất, không sinh nơi cõi Vô sắc chăng?
Đáp: Có. Là từ cõi Vô sắc mất sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc.
Nếu như người không từ cõi Dục mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, người nầy có năm loại: Phàm phu nơi cõi Dục. Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Sắc. Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Vô sắc.
Nếu như người không từ cõi Sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Sắc, người nầy có sáu loại: Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Dục. Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Sắc. Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Vô sắc.
Nếu như người không từ cõi Vô sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Vô sắc, người nầy có bốn loại: Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Dục. Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Sắc.
Vừa bị sử sai khiến, vừa bị kiết trói buộc.
Hỏi: Từng có người ở cõi Dục mạng chung, không sinh nơi cõi Dục chăng?
Đáp: Không sinh. Là khởi trung ấm trong cõi Dục, khởi trung ấm, sinh ấm trong cõi Sắc, sinh nơi cõi Vô sắc, bát Niết-bàn.
Hỏi: Từng có người ở cõi Dục mạng chung, không sinh nơi cõi Sắc chăng?
Đáp: Không sinh. Là khởi trung ấm trong cõi Sắc, khởi trung ấm nơi cõi Dục, sinh nơi cõi Vô sắc, bát Niết-bàn.
Hỏi: Từng có người ở cõi Dục mạng chung, không sinh nơi cõi Vô sắc chăng?
Đáp: Không sinh. Là khởi trung ấm, sinh ấm trong cõi Dục, cõi Sắc, hoặc bát Niết-bàn.
Hỏi: Từng có người ở cõi Sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Sắc chăng?
Đáp: Không sinh. Là khởi trung ấm trong cõi Sắc, khởi trung ấm, sinh ấm trong cõi Dục, sinh nơi cõi Vô sắc, bát Niết-bàn.
Hỏi: Từng có người ở cõi Sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Dục chăng?
Đáp: Không sinh. Là khởi trung ấm trong cõi Dục, khởi trung ấm, sinh ấm trong cõi Sắc, sinh nơi cõi Vô sắc, bát Niết-bàn.
Hỏi: Từng có người ở cõi Sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Vô sắc chăng?
Đáp: Không sinh. Là khởi trung ấm, sinh ấm trong cõi Dục, cõi Sắc, hoặc bát Niết-bàn.
Hỏi: Từng có người ở cõi Vô sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Vô sắc chăng?
Đáp: Không sinh. Là khởi trung ấm, sinh ấm trong cõi Dục, cõi Sắc, hoặc bát Niết-bàn.
Hỏi: Từng có người ở cõi Vô sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Dục chăng?
Đáp: Không sinh. Là khởi trung ấm trong cõi Dục, khởi trung ấm, sinh ấm trong cõi Sắc, sinh nơi cõi Vô sắc, bát Niết-bàn.
Hỏi: Từng có người ở cõi Vô sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Sắc chăng?
Đáp: Không sinh. Là khởi trung ấm trong cõi Sắc, khởi trung ấm, sinh ấm trong cõi Dục, sinh nơi cõi Vô sắc, bát Niết-bàn.
Nếu như người ở cõi Dục mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, người nầy có sáu loại: Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Dục. Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Sắc. Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Vô sắc. Nếu ở cõi Dục mạng chung, không sinh nơi cõi Sắc, người nầy có sáu loại: Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Dục. Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Sắc. Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Vô sắc. Nếu ở cõi Dục mạng chung, không sinh nơi cõi Vô sắc, người nầy có bốn loại: Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Dục. Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Sắc.
Nếu như người ở cõi Sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Sắc, người nầy có năm loại: Phàm phu nơi cõi Dục. Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Sắc. Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Vô sắc. Nếu ở cõi Sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, người nầy có năm loại: Phàm phu nơi cõi Dục. Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Sắc. Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Vô sắc. Nếu ở cõi Sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Vô sắc, người nầy có ba loại: Phàm phu nơi cõi Dục. Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Sắc.
Nếu như người ở cõi Vô sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Vô sắc, người nầy có hai loại: Phàm phu nơi cõi Dục. Phàm phu nơi cõi Sắc. Nếu ở cõi Vô sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, người nầy có bốn loại: Phàm phu nơi cõi Dục. Phàm phu nơi cõi Sắc. Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Vô sắc. Nếu ở cõi Vô sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Sắc, người nầy có bốn loại: Phàm phu nơi cõi Dục. Phàm phu nơi cõi Sắc. Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Vô sắc.
Vừa bị sử sai khiến, vừa bị kiết trói buộc.
Hỏi: Từng có người ở cõi Dục mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc chăng?
Đáp: Không sinh. Là khởi trung ấm trong cõi Dục, cõi Sắc, hoặc bát Niết-bàn.
Hỏi: Từng có người ở cõi Sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc chăng?
Đáp: Không sinh. Là khởi trung ấm trong cõi Dục, cõi Sắc, hoặc bát Niết-bàn.
Hỏi: Từng có người ở cõi Vô sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc chăng?
Đáp: Không sinh. Là khởi trung ấm trong cõi Dục, cõi Sắc, hoặc bát Niết-bàn.
Nếu như người ở cõi Dục mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, người nầy có bốn loại: Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Dục. Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Sắc.
Nếu như người ở cõi Sắc mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, người nầy có ba loại: Phàm phu nơi cõi Dục. Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Sắc.
Nếu như người ở cõi Vô sắc mạng chung, không sinh nơi cõi
Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, người nầy có hai loại: Phàm phu nơi cõi Dục. Phàm phu nơi cõi Sắc.
Vừa bị sử sai khiến, vừa bị kiết trói buộc.
Hỏi: Từng có ái dục chưa hết, mạng chung, không sinh nơi cõi Dục chăng?
Đáp: Không sinh. Là khởi trung ấm trong cõi Dục.
Hỏi: Từng có ái sắc chưa hết, mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc chăng?
Đáp: Không sinh. Là khởi trung ấm trong cõi Dục, cõi Sắc.
Hỏi: Từng có ái vô sắc chưa hết, mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc chăng?
Đáp: Không sinh. Là khởi trung ấm trong cõi Dục, cõi Sắc.
Nếu ái dục chưa hết, mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, người nầy có hai loại: Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Dục.
Nếu ái sắc chưa hết, mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc, người nầy có bốn loại: Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Dục.
Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Sắc.
Nếu ái vô sắc chưa hết, mạng chung, không sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, người nầy có bốn loại: Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Dục. Phàm phu, Thánh nhân nơi cõi Sắc.
Người phàm phu nơi cõi Dục bị chín mươi tám sử sai khiến, chín kiết trói buộc. Bậc Thánh nhân bị mười sử sai khiến, sáu kiệt trói buộc.
Người phàm phu nơi cõi Sắc bị sáu mươi hai sử sai khiến, sáu kiết trói buộc. Bậc Thánh nhân bị sáu sử sai khiến, ba kiết trói buộc.
Người phàm phu nơi cõi Vô sắc bị ba mươi mốt sử sai khiến, sáu kiết trói buộc. Bậc Thánh nhân bị ba sử sai khiến, ba kiết trói buộc.
HẾT – QUYỂN 7