KINH VĂN-THÙ-SƯ-LỢI VẤN

Hán dịch: Đời Lương, Tam tạng Tăng-già-bà-la, người nước Phù Nam
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Phẩm 1: TỰA

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật cùng với chúng đại Tỳ-kheo gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị, đang ở tại núi Kỳ-xà-quật, thuộc thành Vương xá. Các đại Tỳ-kheo này đều là những bậc A-la-hán, đã hết sạch các lậu, không còn phiền não, thân tâm đều được tự tại, tâm hoàn toàn giải thoát, tuệ hoàn toàn giải thoát, điều phục các căn, việc đáng làm đã làm xong, đã trút bỏ gánh nặng, thấu hiểu được sự và nghĩa, hữu lậu đã hết, chánh trí khéo giải thoát, cho đến tất cả tâm đều được tự tại. Tên của các vị là: Trưởng lão A-nhã Kiều-trần-như, Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-diếp, Ly-bà-đa, Tu-bà-hống, A-nan-đà, các vị như vậy, cho đến một ngàn hai trăm năm mươi vị A-la-hán. Lại còn có một ngàn ba trăm chúng Tỳ-kheo phàm phu.

Lại có Bồ-tát Kim Cang, Bồ-tát Đại Thế Chí, Bồ-tát Quán Thế Âm. Bồ-tát Đại Đức Dũng Mãnh, Bồ-tát Vô Tận Ý, Bồ-tát Đại Ý, Bồtát Văn-thù-sư-lợi… Các vị Bồ-tát nhiều vô lượng như vậy.

 

Phẩm 2: BỒ-TÁT GIỚI

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nay con muốn hỏi Thế Tôn về việc dùng thắng ngữ để nói về giới Bồ-tát ở thế gian. Cúi xin Thế Tôn vì con mà giảng nói, con xin lắng nghe.

Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Ông hãy lắng nghe! Nay ta sẽ giảng nói: Không giết hại chúng sinh, không trộm cắp của cải người khác, không phá phạm hạnh, không khởi lên lời nói dối, không uống rượu. Cần nên ghi nhớ như vậy. Không ca múa, xướng hát. Không đeo hoa, xoa hương và đội mão quý. Không nằm, ngồi giường cao rộng. Không ăn trái giờ giấc. Nếu phạm vào giới này thì không thành tựu ba thừa. Tại sao? Vì như thế là bị phạm. Tóc dài bằng hai ngón tay để ngang thì nên cạo, hoặc trong phạm vi hai tháng, nếu ngắn quá mà cạo là Bồ-tát không biết luật. Nếu tóc dài quá hai ngón tay, cũng là Bồ-tát không biết luật. Móng tay không được để dài, chỉ được để bằng hạt lúa nằm ngang. Tại sao? Vì để gãi ngứa. Như thế là Bồ-tát phân biệt.

Vì cúng dường Phật, Pháp, Tăng và Bát-nhã ba-la-mật, hoặc vì cha mẹ, anh em thì được cất giữ tiền bạc. Vì xây chùa, tạc tượng, bố thí… nếu có những trường hợp như vậy thì được nhận vàng, bạc, của cải mà không bị tội lỗi. Nếu ăn cơm vắt thì vắt bằng trứng gà lớn, ăn đúng giờ, không có duyên cớ gì thì không được ngó qua người khác. Như vậy là Bồ-tát phân biet.

Không được mua bán, nhận vật người cúng dường thì không được bán hay đổi chác. Nếu có người cúng dường đến ức vạn cũng nên nhận. Vì sao? Vì có nhân duyên. Tự thân không được làm ác, cũng không được dạy người khác làm ác. Không được vì sự lợi dưỡng mà nịnh khen người khác. Nếu họ vì mình mà sát sinh để cúng dường thì không được ăn. Nếu phải ăn thịt nên xem đó như là cây gỗ mục nát thì mới được ăn.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Neu người muốn ăn thịt thì nên tụng chú này: “Đa điệt tha (đây có nghĩa là như thị). A nại ma, a nại ma (đây có nghĩa là vô ngã vô ngã). A thị bà đa, A thị bà đa (đây có nghĩa là vô thọ mạng, vô thọ mạng). Na xá na xá (đây có nghĩa là thất, thất). Đà ha đà ha (đây có nghĩa là thiêu, thiêu). Bà phất bà phất (đây có nghĩa là phá phá). Tăng kha lật đa nhị (đây có nghĩa là hữu vi) Sa ha (đây có nghĩa là trừ sát khứ).

Tụng chú này ba lần như vậy rồi mới được ăn. Nếu như cơm thì cũng không được ăn. Vì sao? Vì không suy nghĩ về cơm nên không được ăn. Vậy nên biết chú này là chú ăn thịt.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu như được ăn thịt thì tại sao trong các kinh như kinh Tượng Quy, kinh Đại Vân, kinh Chỉ Man, kinh Lăng-già… đều lại cấm?

Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Như con sông sâu rộng không thấy bờ bên kia, nếu không có điều kiện thì không qua được. Nếu có điều kiện thì Bồ-tát có qua không?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con sẽ qua, con sẽ qua. Hoặc là con dùng thuyền, dùng bè, hoặc dùng các vật khác.

Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Vì chúng sinh không có sức từ bi, mang tâm ý sát hại, do nhân duyên ấy cho nên cấm việc ăn thịt. Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Có chúng sinh lại ưa y phấn tảo. Ta nói y phấn tảo như là: Sự khất thực, ngồi nơi gốc cây, ngồi nơi chỗ đất trống, ngồi ở nơi thanh vắng hay ở nơi nghĩa địa, một ngày ăn một bữa, quá giờ không ăn, nơi ở chỉ cần ba y. Vì giáo hóa chúng sinh nên ta nói về hạnh Đầu-đà. Như vậy, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Nếu chúng sinh có tâm sát hại, do tâm đó cho nên sinh ra vô số tội lỗi. Vì thế ta cấm ăn thịt. Nếu không mang tâm sát hại, với tâm đại Từ bi, vì giáo hóa tất cả chúng sinh nên không có tội lỗi. Không được ăn tỏi, nếu có lý do gì thì mới được ăn, hoặc là hòa với thuốc để trị bệnh thì mới được dùng. Không được uống rượu, nếu thầy thuốc bảo hòa thuốc với rượu thì nên hòa ít rượu mà nhiều thuốc mới được dùng. Không được dùng dầu thơm để thoa vào người, nếu có lý do mới được dùng. Được dùng sữa, bơ, và những thực phẩm làm ra từ sữa. Nếu vì phong, đàm, lạnh, trước tiên ta nên ăn cháo sữa. Phật liền nói kệ:

Thân bỏ ác làm thiện
Tâm, khẩu cũng đều bỏ
Hết thảy xứ sở bỏ
Điều Bồ-tát nên làm.

Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Có ba mươi lăm thứ đại cúng dường, Đại Bồ-tát cần phải biết. Đó là: Đèn, hương đốt, hương xoa thân, hương rải đất, hương bột, casa, dù hoặc là cờ của Long tử và các loại phướn khác, loa, trống, trống lớn, linh, phèn la, đồ múa hát và ngọa cụ, hoặc trống ba đoạn, hoặc trống có eo, trống tiết, trống triệt, hoa Mạn-đà-la, trì địa, sái địa, hoa xâu, lụa dây, cơm, nước uống và vật có thể ăn, có thể nuốt, cho đến hương có mùi vị và trầu cau, tăm, hương dùng để tắm và các vật dụng để tắm. Đấy gọi là những thứ đại cúng dường.

Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Có hai mươi sáu tà kiến, các Đại Bồ-tát cần nên tránh xa. Đó là: giết ngựa cúng lửa, giết người để tế lửa. Một lúc bắn bốn phương, giết ngựa để lấy bốn ngàn đầu. Trừ bỏ năm tạng lại bỏ bảy báu vào bên trong dâng cho Bà-la-môn. Giết người rồi đem của báu bỏ vào bên trong cũng lại như vậy. Bắn bốn phương làm cho tên bay khắp mọi nơi, bày đủ bảy thứ báu cúng cho Bà-la-môn. Cỡi ngựa chạy bốn phương không nơi nào là không đến. Trải bảy báu dâng cho Bà-lamôn, tới tận chỗ cùng cực mà tên bay, ngựa chạy đến, chúng sinh bị chết đầy dẫy trong đó, chất chứa đủ loại đồ vật, tất cả đều bị đốt sạch. Làm lễ tất cả Thiên thần. Làm lễ tất cả cây cối. Làm lễ tất cả thần núi. Làm lễ tất cả chỗ người xưa đã ở. Làm lễ những cây to lớn. Làm lễ các loại tượng thần: Ma-ha-thủ-la, Tỳ-nữu-câu-ma-lặc, Phạm thiên, vua Diêm-la, Năng Tỳ-sa-môn, Nhân-đà-la, Tửu thiên nữ, Cát-đa-dani, Độc-già-thiệt-đà-gi-giá, Văn-trì-ưu-ma-la. Tất cả đều giống với tà kiến. Các loại ấy nên tránh xa, không nên lễ bái. Này Bồ-tát Văn-thùsư-lợi! Ta không cho những việc này là công đức.

Đức Phật liền nói kệ:

Hai mươi sáu loại trên
Đều là tà chớ theo
Chẳng an ổn chẳng hơn
Không thoát khỏi các khổ.
Nếu nương Phật, Pháp, Tăng
Hay nương bốn Thánh đế
Nơi an ổn hơn hết
Giải thoát tất cả khổ.

Những loại tà kiến ấy, họ truyền với nhau cho đó là công đức: Giết ngựa có công đức, giết người có công đức, bắn bốn phương có công đức, giết tất cả chúng sinh có công đức, nhưng thật ra chẳng có công đức gì cả. Nếu khởi lên một tâm niệm từ bi thì công đức đó rộng lớn không thể nghĩ bàn.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Đấy là việc mà Bồ-tát nên làm.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con muốn hỏi Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri về các hạnh của các Bồ-tát ở đời vị lai. Nếu Đức Như Lai chấp nhận thì con sẽ hỏi.

Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Tùy ý ông hỏi.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Những lúc nào bốn chúng không được gây tiếng động? Dù cho tiếng đó có phát ra từ miệng, thân, gỗ, đá và các thứ khác?

Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Không được làm động trong sáu thời. Đó là: Khi lễ Phật, khi nghe pháp, khi chúng hòa hợp, khi khất thực, khi trong giờ ăn, khi đi đại tiểu tiện.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Cớ gì trong sáu thời không được gây tiếng động?

Đức Phật đáp:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Vì trong những lúc đó có chư Thiên đến. Các chư Thiên ấy tâm thường thanh tịnh, tâm không nhiễm ô, tâm rỗng lặng, tâm tùy Ba-la-mật, tâm quán pháp Phật. Nếu gây động trong những lúc đó thì làm cho tâm họ không định được. Do không định nên đều bỏ đi. Mà khi chư Thiên đi rồi thì quỷ ác đến, sẽ gây ra những việc không lợi ích, không an ổn, lại sinh ra tai họa, làm cho dân chúng đói khát, lại xâm phạm lẫn nhau. Vì thế, này Bồ-tát Văn-thùsư-lợi! Phải nên vắng lặng khi lễ Phật Ứng Cúng, Chánh Biến Tri. Đức Phật liền nói kệ:

Thân, khẩu không gây động
Kể cả tiếng gỗ, đá
Người vắng lặng lễ Phật
Được Như Lai khen ngợi.

 

Phẩm 3: KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con xin hỏi, mong Như Lai giải đáp cho.

Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Tùy ý ông hỏi.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi Phật:

–Thưa Thế Tôn! Vì sao Như Lai vào Niết-bàn?

Phật đáp:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Ta không vào Niết-bàn. Vì sao? Vì do chúng sinh. Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như ngọc lưu ly trong suốt, không cấu bẩn, nếu để nó vào chỗ có các vật trắng, xanh, vành, đỏ thì ngọc lưu ly ấy sẽ tùy theo màu sắc của vật đó. Lưu ly tuy vô tâm, nhưng nó làm cho người thấy sắc khác nhau.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như Lai cũng lại như vậy. Nếu có chúng sinh thấy Như Lai vào Niết-bàn, hoặc chuyển pháp luân, hoặc hàng phục các ma, hoac hiện thần thông, hoặc đại tiểu tiện, hoặc ăn, hoặc ngủ, hoặc đi, hoặc cười. Đó là tùy theo ý của chúng sinh, thấy Như Lai như vậy.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như hư không, không có sắc, nhưng

sắc lại hiện ra trong đó. Hư không không nắm bắt được, nhưng nắm bắt được các sắc. Hư không không có ý nhưng lại sinh nhớ tưởng. Hư không không có xứ sở, nhưng có xứ sở là vì chúng sinh. Hư không không rơi rớt, nhưng rơi rớt lại nương vào hư không. Pháp thân của Như Lai không phải là thân uế, không phải là thân máu thịt, mà là thân kim cang, thân không hủy hoại được. Thân không thể phá, thân không thể ví dụ, nhưng lại có khả năng hiện ra được tất cả các sắc, dùng thân trí tuệ kim cang hiện ra thân tan hoại.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Nếu Phật không vào Niết-bàn thì thế gian không biết Phật là Pháp thân, vì không phải kim cang thì bị hư nát, còn như kim cang thì không bị hư nát. Vì sao? Vì thân tuệ của Như Lai hiện ra Niết-bàn, chứ không phải là Niết-bàn thật, cho nên nói vào Niết-bàn chỉ là phương tiện.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Niết-bàn có nhiều nghĩa:

Lớn chẳng phải là Niết-bàn, gọi là Niết-bàn tức vô thức. Niếtbàn của Đại thừa gọi là Đại Bát Niết-bàn.

Niết-bàn nhỏ là Niết-bàn của hàng Duyên giác, Thanh văn.

Lớn chẳng phải là Niết-bàn, vì Niết-bàn như hư không.

Nhỏ là nghiệp của mình chứ không phải là nghiệp của người khác. Vì thế nên nói là Niết-bàn nhỏ. Niết-bàn là nghĩa thấp, ta nói chết là Niết-bàn. Nhưng Như Lai không chết. Vì sao? Vì Thanh văn hãy còn không sinh, già, chết, không lo sầu, khổ não, huống nữa là Pháp thân của Như Lai, là thân không thể nghĩ bàn, thân không sinh, thân không diệt, thân không thể thiêu đốt được. Chư Thiên ở cõi trời Trường Thọ thấy Như Lai nhập Niết-bàn liền cảm thương luyến tiếc, nên ra sức tạo nhân duyên gieo trồng Bát-nhã ba-la-mật, cũng ra sức tạo nhân duyên gieo trồng nhân Thanh văn, Duyên giác và Bồ-tát. Đức Phật liền nói kệ:

Như Lai thân kim cang
Ngày nay đã hư hoại
Thân này còn tan rã
Huống gì sức suy mòn.
Do đó sinh luyến thương
Để mau đạt Pháp thân
Vì vậy nên Như Lai
Thị hiện tướng Niết-bàn.
Như Lai thân diệu pháp
Chẳng phải pháp thấy nghe
Không sinh cũng không diệt
Không thể nghĩ bàn được.

Trong chúng hội, lúc ấy có Bồ-tát Đại Ý, cũng liền nói kệ:

Như Lai không Niết-bàn
Niết-bàn chẳng Như Lai
Chẳng phải tâm ý thức
Vì lìa tướng hữu, vô.
Nếu người thấy Mâu-ni
Vĩnh viễn lìa sinh tử
Thành tựu không chỗ chấp
Vì không vướng kia đây.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu Như Lai không có tâm ý thức thì làm thế nào để thực hiện việc độ chúng sinh? Chúng sinh đời vị lai sẽ có mối nghi này.

Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Như hư không không có tâm ý thức, nhưng lại là chỗ ở của tất cả chúng sinh. Bốn đại không có tâm ý thức nhưng lại là nơi nương tựa của tất cả chúng sinh. Mặt trời, mặt trăng không có tâm ý thức, nhưng lại chiếu sáng cho tất cả chúng sinh. Cây cối không có tâm thức nhưng có thể cung cấp cho chúng sinh những hoa và quả.

Như vậy, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Có ngọc ma-ni được gọi là Tùy theo ý của tất cả chúng sinh, được sinh sản từ trong biển, người ta đem đặt trên cột cờ, tùy theo sự mong muốn của chúng sinh mà nó tuôn ra nào là vàng, bạc, lưu ly, trân châu và các vật khác để nuôi dưỡng mạng sống của con người được lâu dài. Ngọc ma-ni không có tâm ý thức, nhưng lại tùy theo ý muốn của chúng sinh không có tổn giảm. Nếu thế gian này bị tiêu sạch, thì ngọc sẽ đi đến một phương khác. Hạt châu nếu chưa bị rơi mất thì biển cả không bị khô cạn.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như Lai cũng như vậy. Làm việc cho tất cả chúng sinh nhưng Như Lai không diệt. Vì sao? Vì Như Lai không tâm, ý, thức.

Đức Phật liền nói kệ:

Phật không tâm y thức
Làm tất cả các việc
Như Lai không nghĩ bàn
Người hãy tin như vậy.

Lúc đó, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi ca ngợi Đức Như Lai bằng kệ:

Con lễ tất cả Phật
Điều Ngự không ai bằng
Ứng thân và Pháp thân
Cũng lễ nơi tháp Phật.
Nơi đản sinh, thành đạo
Nơi pháp luân, Niết-bàn
Nơi đi, đứng, nằm, ngồi
Tất cả con đều lễ.
Chư Phật không nghĩ bàn
Pháp mầu cũng như vậy
Thâm tín và quả báo
Cũng không thể nghĩ bàn.
Nay đem bài kệ này
Ca ngợi Đức Như Lai
Trong ngàn vạn ức kiếp
Không đọa vào nẻo ác.

Phật liền khen Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Lành thay! Lành thay! Như Lai là không thể xưng lường, không thể nghĩ bàn.

Rồi Phật nói kệ:

Phật sinh dòng Cam Giá
Diệt rồi không sinh lại
Nếu ai quy y Phật
Không sợ khổ địa ngục.
Phật sinh dòng Cam Giá
Diệt rồi không sinh lại
Người nào quy y Phật
Không sợ khổ ngạ quỷ.
Phật sinh dòng Cam Giá
Diệt rồi không sinh lại
Nếu ai quy y Phật
Khỏi sợ khổ súc sinh.

 

Phẩm 4: VÔ NGÃ

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chúng sinh đời vị lai sẽ nói: “Có ngã hiện bày cùng khắp tất cả chốn.” Vì sao? Vì tất cả hành, nó ra khỏi ba đời, khổ, vui, yêu, giận đều là tướng của ngã. Thưa Thế Tôn! Ý của hàng ngoại đạo chấp ngã là như vậy.

Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Ví như nam châm hút hết mạt sắt, như vậy, mạt sắt là ngã hay nam châm là ngã? Nếu ông cho mạt sắt không phải là ngã, nam châm không phải là ngã, như vậy thì ngã không phải là hiện bày khắp. Nếu như nam châm, mạt sắt đều là ngã thì tại sao lại lấy ngã để hút ngã? Như vậy cũng không là hiện khắp. Vì sao? Vì nó tự hút thân nó. Những gì có hình sắc đều là bốn đại, tất cả đều vô thường. Nếu đã là vô thường thì không phải chân thật, đã không chân thật thì không chắc chắn, nếu không chắc chắn thì là không xứ. Do không xứ cho nên nói là vô ngã.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Giống như một người già ngồi trong đêm tối, sờ nơi hai đầu gối của mình mà nói: “Ta có hai đứa con thơ này chăng?” Nếu trong thân của người già ấy có ngã, thì tại sao không biết đấy là đầu gối mình, lại cho đó là con thơ? Do sự việc ấy, cho nên thật sự là không có ngã. Đây là do người có tà kiến, đối với không xứ lại chấp ngang. Ví như thấy bóng nắng tưởng là có nước, nhưng thật ra là không có nước. Do mắt bị loạn. Như vậy chẳng phải ngã mà lầm tưởng là ngã. Những người như thế là hang tối tăm, mê lầm, tà kiến, chẳng phải chánh kiến.

Nếu ngã có khắp tất cả, thì nó đi khắp cả năm đường, trong khi đó cõi trời, người là vui, còn địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh là khổ.

Nếu nói ngã có khắp tất cả thì khi ngã ấy chịu khổ, lẽ ra trời và người cũng phải cùng chịu khổ. Vui là do tạo nghiệp thiện mà được, khổ là do gây nghiệp ác phải chịu. Vui là sinh ra tham đắm, khổ là sinh ra giận dữ. Hoặc có người mạnh khỏe, hoặc có kẻ sợ sệt. Như vậy là tướng khác cho nên biết ngã không có cùng khắp. Ta không nói đây là sự suy nghĩ chân thật.

Nếu ngã vượt qua ba đời thì quá khứ đã qua, giống như đèn đã tắt. Vị lai vì chưa đến, cũng như đèn chưa thắp. Hiện tại thì không đứng lại, giống như dòng nước chảy. Như vậy, ngã chẳng phải là quá khứ, chẳng phải là vị lai, cũng chẳng phải là hiện tại, không có thời gian. Vì sao? Vì vượt quá thời gian. Nếu không thời thì không số. Do không số cho nên không có ngã. Vì sao? Vì có thể phân chia.

A là tiếng lìa ngã. Đa là không phá. Ma là diệt kiêu mạn. Lại nữa, A là chân thật lìa ngã. Vì chân thật lìa ngã cho nên cả hai bên nói A. Vì thế, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Do phân biệt chữ nên biết nhất định là không có ngã.

Đức Phật liền nói kệ:

Nam châm hút mạt sắt
Hai loại cái nào ngã
Không khắp và tự hút
Nhất định là không ngã.
Như khát thấy bóng nắng
Tưởng nước, nhưng không phải
Tà kiến lầm chấp ngã
Việc ấy cũng như vậy.
Phân biệt nơi chữ A
Nhất định biết không ngã.

 

Phẩm 5: NIẾT-BÀN

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Hàng Thanh văn, Duyên giác, phàm phu không thể phân biệt được. Chỉ có Đức Như Lai Chánh Biến Tri mới có thể nói được về Niết-bàn.

Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Niết-bàn không diệt. Vì sao? Vì không đoạn phiền não, nên không có chỗ đến. Vì sao? Vì không có chỗ. Đến, là nghĩa được. Không đến cho nên không được. Vì sao? Vì không khổ, không vui, không đoạn, chẳng đoạn, không thường, chẳng thường. Đức Phật liền nói kệ:

Không đoạn, không diệt
Không sinh, không khởi
Không đọa, không rơi
Không đi, không trụ.

Tướng của Niết-bàn là thường trụ, không đoạn, chẳng thường. Vì sao? Vì không có sinh tử.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Sinh tử ta hãy còn không thấy, huống nữa là thấy được lỗi lầm của sinh tử.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Niết-bàn ta hãy còn không thấy, huống nữa là thấy được công đức của Niết-bàn. Đức Phật liền nói kệ:

Nếu thấy có một pháp
Các pháp khác đều thấy
Một pháp đã là không
Hết thảy pháp cũng không.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nên biết! Các pháp là không. Nếu không diệt thì không sinh. Nếu không đoạn thì không diệt. Nếu không thường thì không sinh. Vì không phiền não, nên không đoạn, không diệt. Vì phiền não không có nơi chốn nên không sinh.

Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Do không chướng ngại nên không diệt, không diệt nên không chướng ngại. Do sinh thiện, ác, không thiện không ác nên không chướng ngại.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Đấy là nói về Niết-bàn. Đức Phật liền nói kệ:

Không diệt, không đến
Không đoạn, không thường
Không chướng, không ngại
Là nói Niết-bàn.

Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Niết-bàn thường trụ, không có mặt trời, mat trăng, sao, đất, nước, gió, lửa, không có ngày, đêm, số lượng, không hình, không sắc, không già, bệnh, chết, không năm tháng, không chỗ tạo ra, là thường, là hằng, lìa hết các nghiệp khổ. Đây là Niết-bàn mà người thiện đã nói.

Đức Phật liền nói kệ:

Niết-bàn không mặt trời
Trăng, sao và bốn đại
Không ngày, đêm, số lượng
Không hình, sắc, hư không.
Cũng không già, bệnh, chết
Không năm, tháng, tạo tác
Đã đoạn gốc sinh tử
Là thường cũng là hằng.
Tướng Niết-bàn cũng vậy
Người thiện đã nói thế.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Có các ngoại đạo nói: Thế gian là không. Lại có kẻ nói thế gian là chẳng không. Đây có phải là tà ý phân biệt của hàng ngoại đạo?

Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Đây là ý nghĩ không chân thật của ngoại đạo. Nếu nói thế gian này là không, thì không có sinh tử. Vì sao? Vì là không. Sinh tử nếu không, thì Niết-bàn cũng không. Nếu Niết-bàn là không, thì không có thần thông. Còn như nói thế gian là chẳng không, thì sinh tử cũng không. Vì sao? Vì là chẳng không. Do sinh tử là chẳng không, cho nên Niết-bàn cũng không. Nếu đã không có Niết-bàn, thì cũng không có thần thông.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Nếu thế gian đã không sinh, không hoại thì cần gì đến Niết-bàn? Nếu sinh tử không hoại, mất, thì không gọi là sinh tử. Vì sao? Vì không mất. Nếu sinh tử không mất, thì sinh tử tức là Niết-bàn. Do đấy, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Chẳng nên nói thế gian là không, là chẳng không. Cũng không nên nói thế gian nên đoạn cùng do chẳng đoạn. Vì sao? Vì do không có. Đoạn là đoạn phiền não. Không đoạn là chẳng phải đoạn phiền não. Cũng không phiền não cùng chẳng phải là phiền não. Cũng không giải thoát. Nếu không giải thoát tức không Niết-bàn.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Diệt cũng không. Vì sao? Vì sinh tử là không và chẳng không, thế nên không diệt. Nếu sinh tử như vậy thì ai thích đạt Niết-bàn?

Đức Phật liền nói kệ:

Nếu thế gian là không
Thì không có sinh tử
Do sinh tử là không
Nên Niết-bàn cũng không.
Thế gian nếu chẳng không
Cũng không có sinh tử
Sinh tử đã là không
Niết-bàn cũng chẳng có.
Sinh tử nếu như vậy
Ai sẽ thích Niết-bàn?

 

Phẩm 6: BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con xin hỏi về Bát-nhã ba-la-mật. Có phải tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác đều từ Bát-nhã ba-la-mật mà ra phải không? Có phải tất cả Phật, tất cả pháp đều từ Bát-nhã ba-la-mật mà ra phải không?

Phật đáp:

–Đúng vậy, đúng vậy! Tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác, tất cả Phật, tất cả pháp đều từ Bát-nhã ba-la-mật mà ra cả. Bồ-tát đối với sắc hanh, hành nơi tướng, đối với sắc hoại hành, hành nơi tướng. Nếu đối với sắc diệt hành thì hành nơi tướng. Nếu hành sắc không, thì hành nơi tướng. Như vậy là Bồ-tát không có phương tiện tu hành Bát-nhã ba-la-mật.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Bát-nhã ba-la-mật không dùng tâm ý thức mà tu hành.

–Bạch Thế Tôn! Nếu Bát-nhã ba-la-mật không nắm bắt được như thế thì làm sao tu hành Bát-nhã ba-la-mật?

Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Tu hành ấy chẳng phải là tu hành, là vì không dùng tâm ý thức. Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Tâm nghĩa là tích tụ, ý nghĩa là nhớ nghĩ, thức nghĩa là hiện biết. Như vậy là không dùng tâm ý thức này mà tu hành Bát-nhã ba-la-mat, không cho sự tu hành là tu hành, vì không xứ là tu hành.

Tu hành là không nương vào Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Không phải quá khứ, không phải vị lai, cũng không phải hiện tại. Không phải trong, ngoài, không phải trung gian. Tu hành như vậy là tu hành Bát-nhã ba-la-mật.

Không tu hình sắc là tu Bát-nhã ba-la-mật. Không phải đất, nước, gió, lửa là tu hành Bát-nhã. Không phải có, không phải không, không phải Thanh văn, Duyên giác, không phải thiện, bất thiện, vô ký, không phải mười hai nhân duyên, không phải nam, không phải nữ; không phải chẳng nam, không phải chẳng nữ, không phải thường, không phải trí, không phải sinh, không phải diệt, khong thể đếm, không thể bàn, không thể nói năng, không thể nương tựa, không danh tự, không tướng, không tướng khác, không tăng, không giảm, tự tánh thanh tịnh, chân thật, không thể biết, bao trùm khắp cả hư không, không sac, không tạo tác, vượt hơn ba đời, không khổ, không vui, không mặt trời, mặt trăng và các sao. Tu hành như vậy mới là tu hành Bát-nhã ba-la-mật.

Chân thật không phải là Bát-nhã ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật không phải là chân thật. Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Tu hành như vậy mới gọi là Bát-nhã ba-la-mật. Đức Phật liền nói kệ:

Pháp này không nghĩ bàn
Lìa cả tam ý thức
Đoạn tất cả ngôn ngữ
Là tu hành Bát-nhã.

 

Phẩm 7: HỮU DƯ KHÍ

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác có còn phát khởi phiền não không? Nếu khởi thì có bao nhiêu phiền não?

Phật đáp:

–Vì chưa trọn vẹn nên gọi là khởi. Ví như khí hương. Nói về khí thì có đến hai mươi bốn thứ nghiệp khí: Khí kiến xứ, khí nhiễm, khí sắc nhiễm, khí hữu nhiễm, khí vô minh nhiễm, khí hành, khí thức xứ, khí danh sắc, khí sáu nhập, khí xúc, khí thọ, khí ái, khí thủ, khí hữu, khí sinh, khí lão, khí bệnh, khí tử, khí ưu, khí bi, khí khổ, khí não, khí mệt nhọc, khí nương tựa. Đấy gọi là hai mươi bốn thứ khí. Ngoài thân, khẩu, ý ra thì đây gọi là nghiệp khí. Đoạn kiến, thường kiến, gọi đó là khí kiến xứ. Tham chấp vào y bát… đấy gọi là khí nhiễm. Mười thứ sắc ý, gọi đó là khí sắc nhiễm. Vô sắc giới gọi đó là khí hữu nhiễm. Trí không thanh tịnh, trí bị chướng ngại, trí không biết khắp, gọi đó là khí vô minh. Nếu thân, khẩu, ý giác quán đến các thứ, gọi đó là khí hành. Nhớ tưởng đến tất cả sắc có khổ, có vui, không khổ, không vui, tưởng phân biệt như vậy, gọi là khí thức xứ. Cứng, ướt, nóng, nhẹ, động, tất cả đều có, gọi đó là khí danh sắc. Mắt nhìn sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý đối với pháp, gọi đó là khí sáu nhập. Lạnh, nóng, cứng, ướt, đói, khát, ấm, trơn, đây gọi là khí xúc. Thọ nhận khổ, vui, không khổ, không vui, gọi đó là khí thọ. Họ, tên, đất, nước, dục giới, sắc giới, vô sắc giới, khổ não, đói khát… đối với những thứ ấy mà không biet đủ, thì gọi là khí ái. Dục thủ, kiến thủ, giới thủ, đây gọi là khí thủ. Dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu, gọi đó là khí hữu. Đời sau đối với khổ địa ắt sẽ sinh, gọi đó là khí sinh. Các căn bị suy hoại, gọi đó là khí lão. Các thứ bệnh hoạn gọi đó là khí bệnh. Tưởng Niết-bàn, tưởng chết, đây gọi là khí tử. Thân thể khô gầy, đây gọi là khí ưu. Kêu la, khóc lóc, đây gọi là khí bi. Thân thể bị phiền não, bức bách, gọi đó là khí khổ. Quá khổ, đây gọi là khí não. Thân tâm khốn đốn, gọi đó là khí mệt nhọc. Bị sợ hãi không có nơi nương tựa, gọi đó là khí nương tựa.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Đấy gọi là hai mươi bốn thứ khí. Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Chư Phật Thế Tôn không lấy sự quay về nương tựa vào khí, để làm chỗ quay về nương tựa. Vì sao? Vì chỉ có Đức Như Lai mới làm chỗ nương tựa cho chúng sinh. Tất cả chúng sinh không phải là nơi để quay về nương tựa. Đức Như Lai không có tướng, không lường xét, không tích tụ nhân, Thanh văn nghe pháp, Phật không nghe pháp. Vì sao? Vì không chỗ nào là không biết. Đức Phật liền nói kệ:

A-la-hán có khí
Là do có lỗi lầm
Chỉ có Phật vượt qua
Làm chỗ nương chúng sinh.

 

Phẩm 8: ĐI LẠI

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Lai khứ nghĩa là gì?

Phật đáp:

–Lai nghĩa là hướng tới. Khứ nghĩa là bỏ đi. Nếu không hướng tới, bỏ đi thì không đến, không đi, đấy là hành xứ của bậc Thánh. Lai nghĩa là si, khứ nghĩa là không si. Không phải si, không phải là không si, đấy là hành xứ của bậc Thánh. Lai là hữu vi, khứ là vô vi. Không hữu vi, không vô vi, đấy là hành xứ của bậc Thánh. Lai nghĩa là thức, khứ nghĩa là phi thức. Chẳng phải thức, chẳng phải là phi thức, đấy là hành xứ của bậc Thánh. Lai nghĩa là danh sắc, khứ là không phải danh sắc. Không phải danh sắc, không phải là không danh sắc, đấy là hành xứ của bậc Thánh. Lai nghĩa là sáu nhập, khứ là không phải sáu nhập. Không phải nhập, không phải là không nhập, là hành xứ của bậc Thánh. Cho đến lo, buồn, mệt mỏi cũng lại như vậy.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Lai nghĩa là ngã, khứ nghĩa là vô ngã. Chẳng phải ngã, chẳng phải là vô ngã, không đến, không đi, là hành xứ của bậc Thánh. Lai nghĩa là thường, khứ nghĩa là không thường. Chẳng phải thường, chẳng phải là không thường, là hành xứ của bậc Thánh. Lai nghĩa là đoạn, khứ nghĩa là không đoạn. Chẳng phải đoạn, chẳng phải là không đoạn, là hành xứ của bậc Thánh. Lai nghĩa là có, khứ nghĩa là không. Chẳng phải có, chẳng phải không, là hành xứ của bậc Thánh.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Nghĩa của lai, khứ là như vậy. Đức Phật liền nói kệ:

Nghĩa lai, khứ không tướng
Các pháp cũng như vậy
Không biết, không thể nói
Gọi là pháp lai khứ.

 

Phẩm 9: TRUNG ĐẠO

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Phật nói không có hai pháp. Tất cả Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát đều không nghi hoặc, đều biết trung đạo, cho đến phàm phu cũng có thể phát sinh lòng tin.

Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Minh, vô minh là không hai. Do không hai cho nên không thành ba trí. Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Đấy gọi là trung đạo đầy đủ, chân thật quán các pháp.

Hành, không hành là không hai. Do không hai cho nên không thành ba trí. Này Bồ-tát Van-thù-sư-lợi! Đấy gọi là trung đạo đầy đủ, chân thật quán các pháp. Thức không phải thức, cho đến già, chết, không phải già, chết là không hai cũng lại như vậy.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Nếu vô minh có, thì chỉ là một bên, còn nếu vô minh không thì cũng là một bên. Vậy, khoảng giữa của hai bên này, không có sắc, không thể thấy, không có xứ, không tướng, không tướng đối đãi, không tướng nêu lên. Này Bồ-tát Vănthù-sư-lợi! Đấy gọi là trung đạo. Hành, thức, cho đến lão, tử cũng lại như vậy.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Đấy là trung đạo đầy đủ, chân thật quán chánh pháp. Các pháp không hai. Không hai có nghĩa là gì? Nghĩa là Mạt-đà-ma (Mạt nghĩa là chư, không. Đà-ma nghĩa là trong, giữa. Chỗ vướng chấp ở giữa. Đó là Mạt-đà-ma). Vì sao? Vì không chấp giữ nơi thường kiến, hữu kiến, nên gọi là Mạt-đà-ma. Đức Phật liền nói kệ:

Các pháp không có hai
Cũng lại không có ba
Trung đạo ấy đầy đủ
Gọi là đạo chân thật.

 

Phẩm 10: GIỚI THẾ GIAN

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Màu sắc, y phục của Bồ-tát có bao nhiêu thứ? Sao gọi là quy y? Cúi xin Đức Thế Tôn vì con mà rộng giảng nói và để tạo lợi ích cho các Bồ-tát.

Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Màu: không đỏ lắm, không vàng lắm, không đen lắm, không trắng lắm, màu sắc phải thanh tịnh đúng như pháp. Ba pháp phục và các thứ y phục khác màu sắc đều cũng như vậy. Nếu chính mình nhuộm, hoặc nhờ người khác nhuộm thì phải nhồi, đập đúng như pháp mới thành. Tùy thời giặt giũ cho sạch sẽ, còn như đồ để ngồi được cho phép dùng màu xanh, vàng, hay tạp sắc.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Sắc y của Bồ-tát là như vậy. Trong tâm của Bồ-tát phải vắng lặng đúng như pháp mới mặc, đó là tương ưng với Đại thừa. Nếu mặc Niết-bàn tăng (quần) phải cách mắc cá hay ngón tay. Nếu Bồ-tát muốn nói chuyện cùng với quốc vương, đại thần, thì tùy theo phía khách hỏi một câu, trả lời một câu, chớ có sai khác, cứ như thật mà nói. Nếu khách hỏi nhiều câu thì cũng trả lời nhiều câu. Cứ thế, cho đến Bà-la-môn, Sát-lợi, Tỳ-xá, Thủ-đà, Samôn, Xà-lê, Hòa thượng và cha mẹ, vợ con, tôi tớ cùng với hạng nghèo cùng xin ăn, tùy theo thứ lớp hễ có hỏi thì tùy theo đó mà trả lời. Hoặc các chúng trời, rồng, Dạ-xoa, La-sát, Tỳ-xá-xà, A-tu-la, Calâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, hoặc người, hoặc quỷ, Phật, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tat, phàm phu, hễ có hỏi thì cũng đúng như pháp mà trả lời. Không vì việc nuôi sống, không vì lợi riêng cho mình, không tà mạng, không đùa cợt, cần nên nghĩ như vậy.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là quy y?

Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Người xin quy y, nên nói như vầy: “Bạch Đại đức! Con là: tên, họ… quy y Phật từ đây cho đến ngày chứng Bồ-đề.” Lần thứ hai, thứ ba cũng nói như vậy. Rồi lại nói: “Con là: tên, họ… đã quy y Phật rồi, đã quy y Pháp rồi, đã quy y Tăng rồi.” Nói như vậy ba lần. Tiếp đến nói: “Bạch Đại đức! Con: tên, họ… trì giới Bồ-tát từ nay cho đến ngày chứng Bồ-đề, không giết hại chúng sinh và xa lìa ý tưởng giết hại chúng sinh. Từ nay cho đến ngày chứng Bồ-đề, con không trộm cắp và xa lìa các ý tưởng trộm cắp. Từ nay cho đến ngày chứng Bồ-đề, con không phá bỏ phạm hạnh và xa lìa các ý tưởng phá bỏ phạm hạnh. Từ nay cho đến ngày chứng Bồ-đề, con không nói dối và xa lìa các ý tưởng nói dối. Từ nay cho đến ngày chứng Bồ-đề, con không uống các thứ rượu và xa lìa các ý tưởng uống rượu. Từ nay cho đến ngày chứng Bồ-đề, con không đeo hương hoa và xa lìa các ý tưởng đeo hương hoa. Từ nay cho đến ngày chứng Bồ-đề, con không ca múa, xướng hát, đàn nhạc và xa lìa các ý tưởng ca múa, xướng hát, đàn nhạc. Từ nay cho đến ngày chứng Bồ-đề, con không ngồi nằm nơi giường cao rộng và xa lìa ý tưởng ngồi nằm nơi giường cao rộng. Từ nay cho đến ngày chứng Bồ-đề, con không ăn quá ngọ và xa lìa các ý tưởng ăn quá ngọ. Từ nay cho đến ngày chứng Bồ-đề, con không cầm nắm vàng bạc, sinh tượng và xa lìa các ý tưởng cầm nắm vàng bạc, cho đến sẽ đầy đủ sáu Ba-la-mật, đại Từ, đại Bi. Đức Phật liền nói kệ:

Phát lời thề chánh giác
Nương tựa vào Tam bảo
Thọ trì mười giới cấm
Cũng thề đến Chánh giác.
Sáu độ cùng bốn Đẳng
Thực hành được đầy đủ
Tu hành được như vậy
Cùng Đại thừa tương ưng.

 

Phẩm 11: GIỚI XUẤT THẾ GIAN

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Giới xuất thế gian của Bồ-tát có bao nhiêu thứ?

Phật đáp:

–Nếu đem tâm phân biệt nam nữ, không phải nam, không phải nữ… đấy là Bồ-tát đã phạm tội Ba-la-di. Nếu đem tâm phân biệt súc sinh, ngạ quỷ, nam nữ, không phải nam, không phải nữ, các Thiên thần nam nữ, chẳng phải nam, chẳng phải nữ, đấy là Bồ-tát đã phạm tội Ba-la-di. Nếu đem thân, khẩu, hành không kham nổi ba thừa, hoặc thọ giới Bồ-tát xuất thế gian mà không khởi lên tâm Từ bi, đấy là Bồ-tát đã phạm tội Ba-la-di. Nếu đem thân, khẩu, hành không kham nổi ba thừa, đối với vật của người khác hoặc nhỏ, hoặc lớn, hoặc dài, hoặc ngắn, hoặc có sắc, hoặc có hình, hoặc trụ, hoặc động, hoặc cất giấu, hoặc dời đi, hoặc có phong gói, hoặc chứa đầy, nếu khởi lên ý tưởng trộm cắp thì phạm tội Ba-la-di. Nếu thân, khẩu, hành không kham nổi ba thừa, khởi tâm nói dối thì phạm tội Ba-ladi. Nếu thân, khau, hành không kham nổi ba thừa, khởi tâm muốn lấy cây lá, vỏ hay nước cây thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa của Bồ-tát. Nếu thân, khẩu, hành không kham nổi ba thừa mà khởi lên ý tưởng ca múa, đàn nhạc, hoa hương, anh lạc thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa của Bồ-tát. Nếu thân, khẩu, hành không kham nổi ba thừa mà khởi lên ý tưởng ngồi nằm giường cao rộng lớn thì phạm Tăng-già-bà-thisa của Bồ-tát. Nếu thân, khẩu, hành không kham nổi ba thừa mà khởi lên ý tưởng ăn quá ngọ, thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa của Bồ-tát. Nếu thân, khẩu, hành không kham nổi ba thừa mà khởi lên ý tưởng nắm giữ vàng bạc châu báu thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa của Bồ-tát. Nếu thân, khẩu, hành không kham nổi ba thừa mà cạo lông trên thân, hoặc cắt móng tay như mặt trăng mồng một, nếu khởi lên ý tưởng đó thì phạm Thâu-lan-giá của Bồ-tát. Nếu thân, khẩu, hành không kham nổi ba thừa mà khởi lên ý tưởng chặt phá cây cỏ thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu thân, khẩu, hành không kham nổi ba thừa mà khởi lên ý tưởng bài bác danh dự của người khác, như về hình sắc, hoặc dòng họ, hoặc của cải, hoặc kỹ thuật, hoặc xe cộ, hoặc thân lực… thì phạm Thâu-langiá. Nếu thân, khẩu, hành không kham nổi ba thừa, đối với vật dụng của Phật, Pháp, Tăng như là hương hoa, hương xoa, y phục, châu báu… nếu Bồ-tát dùng chân giẫm lên những thứ ấy thì phạm Ba-dạ-đề. Nếu giẫm đạp tháp Phật, hoặc nơi Phật đã tu hành, hoặc nơi cây Bồ-đề, hoặc nơi chuyển bánh xe pháp, thì phạm Ba-dạ-đề. Nếu người không tin, không kham nổi ba thừa, mà ói mửa, chớp mắt mất các oai nghi, ai khởi lên ý tưởng này, thì phạm Đột-kiết-la. Nếu thân, khẩu, hành không kham nổi ba thừa, thấy vật của người khác, hoặc là những thứ y phục mà người khác thích, rồi trá hiện để cầu lợi rồi đổ tội lỗi cho người, nếu khởi lên ý tưởng này, thì phạm Ba-la-đề-xá. Nếu thân, khẩu, hành không kham nổi ba thừa, từ trước tới giờ chưa phạm tội nghịch, bảo vệ khiến cho không sinh, đấy là Bồ-tát Tăng-diễm Giàđà-ni (Tăng-diễm nghĩa là nghịch thủ. Già-đà-ni nghĩa là làm cho không sinh). Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý khiến không khác, là điều Bồ-tát cần nên học. Đấy gọi là giới của Bồ-tát xuất thế gian.

 

Phẩm 12: GIỚI THƯỢNG XUẤT THẾ GIAN

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là giới thượng xuất thế gian, vô lậu không thể nghĩ bàn, không xứ, không có chỗ vướng mắc?

Phật đáp:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Giới là đối với chúng sinh, vô ngã, chẳng phải là vô ngã, không sự, không nhân, không người giáo hóa, không đi, không thể không đi, không chỗ đi, không danh, không sắc, không sắc tướng, không thể không sắc tướng, không vắng lặng, không phải là không vắng lặng, không thể lấy, không thể không lấy, không chân thật, không thể không chân thật, không thân, không lời, không nói, không tâm, không thế gian, không phải là không thế gian, không phải pháp thế gian, không phải là không pháp thế gian, không tự khen giới của mình, không hủy giới của người khác, không tìm lỗi của người khác, không vì trì giới mà coi thường người khác, không biết giới, không suy nghĩ về giới, không có chỗ biết, không có chỗ suy nghĩ.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Đấy gọi là Thánh giới thượng xuất thế gian. Nó không lậu, không sinh, không chỗ vướng mắc, vượt khỏi ba cõi, lìa tất cả chỗ nương tựa.

Đức Phật liền nói kệ:

Người giữ giới xuất thế
Không cấu, không thể có
Kiêu mạn và chỗ nương
Vô minh cùng trói buộc.
Các lỗi lầm như vậy
Tất cả đều không có
Không trong lặng, ngoài lặng
Cũng không trong ngoài lặng.
Biết trong ngoài cũng không
Người biết, được giải thoat.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Người có giới đối với pháp Phật không tự xem xét chính mình, không chấp vào thọ mạng, không chấp vào tất cả chúng sinh, sẽ đạt được chánh hạnh là chánh trụ.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Đấy gọi là người có giới, đối với pháp Phật không vướng mắc vào thế gian, không nương vào thế gian, được ánh sáng, không có tối tăm, không thật có, không tự mình tưởng, không tưởng đến người khác, không chìm đắm vào tưởng. Giới thanh tịnh là không có bờ bên này, không có bờ bên kia, không có giữa dòng, không chỗ vướng mắc, không bị trói buộc, không tội lỗi, không rơi rớt.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Đấy là người có giới đối với pháp Phật và danh sắc tâm không vướng mắc. Thường bình đẳng tạo lợi ích, tâm thường vắng lặng, không có ngã và ngã sở. Người này như trong giới đã nói, trụ vào không chỗ học, không giải thoát, không có chỗ tạo ra, là đạt được đạo vô thượng, là giới tướng thanh tịnh, đó là vô thắng giới, vô định giới, vô trí tuệ giới. Đấy là tánh của Thánh nhân không thể thủ đắc, là giới được Phật khen ngợi, là không, không cùng với giới của ngã…, có khả năng an ổn để vào định của bậc Thánh. Nếu định được thanh tịnh thì tu hành phát tuệ, nhờ tuệ mà được trí, nhờ trí mà được giải thoát.

 

Phẩm 13: BỒ-TÁT THỌ GIỚI

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ nào thọ giới pháp của các Bồ-tát đã thọ trì sẽ như thế nào?

Phật đáp:

–Người thọ giới, nên đến trước bàn Phật, hết lòng thành kính lễ bái, nói lên lời này:

“Con là: tên, họ… cúi xin chư Phật nhớ nghĩ đến con. Chư Phật Thế Tôn là bậc Chánh Tri, dùng trí tuệ Phật, không có sự vướng mắc. Con nay phát tâm Bồ-đề làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, cũng làm cho họ được an lạc. Con nay phát tâm đạo vô thượng, cũng như quá khứ, hiện tại, vị lai các Bồ-tát đã phát tâm. Con nay phát tâm Bồ-đề vô thượng, xem tất cả chúng sinh như cha mẹ, anh em, chị em, nam nữ, bạn bè thân thuộc… làm cho họ được giải thoát, vượt khỏi sinh tử, cho đến khi khiến được họ phát tâm Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, siêng năng tinh tấn, tùy theo sự cần dùng của chúng sinh mà tất cả tài, pháp đều đem ban cho cả, rồi dùng phương tiện tài, pháp này mà thâu nhận tất cả chúng sinh, dần dần tùy nghi, làm cho chúng sinh thoát khỏi sinh tử, cho đến khi khiến họ được an trụ nơi Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Con sẽ khởi luôn sáng suốt tiến tới, không buông lung.”

Nói lên ba lần như vậy. Đấy gọi là mới phát tâm Bồ-đề của Đại Bồ-tát.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Đấy là việc các Bồ-tát đã thọ, đã làm, vì muốn giáo hóa các Bồ-tát, chứ không vì hàng Thanh văn, Duyên Giac, không vì hàng phàm phu và những kẻ xấu ác.

 

Phẩm 14: TỰ MẪU

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Tất cả tự mẫu nên nói như thế nào? Tất cả các pháp đều nhập vào tự mẫu này và tự mẫu Đà-la-ni?

Phật nói:

–Tất cả các pháp đều nhập vào tự mẫu và tự mẫu Đà-la-ni. Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như nói chữ A là phát ra tiếng vô thường, nói chữ A kéo dài là phát ra tiếng lìa ngã. Nói chữ Y là phát ra tiếng các căn, nói chữ Y kéo dài là phát ra tiếng về bệnh tật. Nói chữ Ưu là phát ra tiếng hoang loạn, nói chữ Ưu kéo dài là phát ra tiếng nêu chúng sinh hạng kém. Nói chữ Ly là phát ra tiếng ngay thẳng, mềm dịu, tương tục, nói chữ Ly kéo dài là phát ra tiếng đoạn trừ nhiễm du hý. Nói chữ Lê là phát khởi tiếng nêu ra tướng sinh pháp, nói chữ Lê kéo dài là phát ra tiếng nói về tướng nhiễm nơi ba cõi. Nói chữ Kiên là phát ra tiếng nói về chỗ dấy khởi lỗi lầm tai họa. Nói chữ Ế là phát ra tiếng nói về Thánh đạo thù thắng. Nói chữ Ô là phát ra tiếng giữ lấy. Nói chữ Úc là phát ra tiếng hóa sinh bình đẳng. Nói chữ Am là phát ra tiếng vô ngã sở. Nói chữ Á là phát ra tiếng chìm mất, diệt tận. Nói chữ Ca là phát ra tiếng vượt qua quả báo của nghiệp. Nói chữ Khư là phát ra tiếng nêu hư không ngang bằng với tất cả các pháp. Nói chữ Già la phát ra tiếng nói về pháp sâu xa. Nói chữ Hằng là phát ra tiếng trừ cứng chắc, nặng, vô minh, si, ám, minh (tối tăm). Nói chữ Nga là phát ra tiếng tham dự nơi biết, hành. Nói chữ Già phát ra tiếng bốn Thánh đế. Nói chữ Xa là phát ra tiếng đoạn trừ dục nhiễm. Nói chữ Xà là phát ra tiếng vượt qua lão tử. Nói chữ Thiền là phát ra tiếng thâu phục ngôn ngữ xấu ác. Nói chữ Nhã phát ra tiếng nói về an trụ. Nói chữ Đa là phát ra tiếng đoạn trừ các kết. Nói chữ Tha là phát ra tiếng nêu đặt, giải đáp. Nói chữ Đà là phát ra tiếng hàng phục các ma oán. Nói chữ Đàn là phát ra tiếng diệt trừ các cảnh giới. Nói chữ Na là phát ra tiếng diệt trừ các phien não. Nói chữ Khinh Đa là phát ra tiếng như vậy, không khác, không phá. Nói chữ Khinh Tha là phát ra tiếng nói về lực dũng mãnh, mau chóng, vô úy. Nói chữ Khinh-đà là phát ra tiếng nói về chỗ hiện bày tịch tĩnh giữ gìn an ổn. Nói chữ Khinh-đàn là phát ra tiếng nói về bảy thứ tài sản bậc Thánh. Nói chữ Khinh-na là phát ra tiếng phân biệt về danh sắc. Nói chữ Phả là phát ra tiếng tác chứng được quả. Nói chữ Bà là phát ra tiếng giải thoát mọi trói buộc. Nói chữ Phạm là phát ra tiếng sinh khởi nơi ba cõi. Nói chữ Ma là phát ra tiếng đoạn trừ kiêu mạn. Nói chữ Da là phát ra tiếng phân biệt như pháp. Nói chữ La là phát ra tiếng ưa thích không ưa thích Đệ nhất nghĩa. Nói chữ Lạ là phát ra tiếng đoạn trừ tham ái. Nói chữ Bà là phát ra tiếng nói về thừa thù thắng. Nói chữ Xả là phát ra tiếng nói về tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ. Nói chữ Tỷ là phát ra tiếng thâu phục sáu nhập không thể không biết về sáu Thông. Nói chữ Sa là phát ra tiếng nhận biết về Nhất thiết trí. Nói chữ Ha là phát ra tiếng chính thức diệt trừ phiền não. Nói chữ La là phát ra tiếng nói về chữ sau cùng, vượt qua các pháp này không thể nói.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Đấy là nghĩa của tự mẫu, tất cả chữ đều nhập vào trong ấy.

Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Ta sẽ nói tám chữ. Những gì là tám? Chữ Bả là Đệ nhất nghĩa. Tất cả các pháp vô ngã đều nhập vào đây. Chữ La là dùng tướng hảo, không tướng hảo nhập vào nghĩa Pháp thân của Như Lai. Chữ Bà là pháp của người ngu, pháp của người tuệ, như pháp hóa độ, nghĩa không ngu si, không trí tuệ. Chữ Xà là nghĩa vượt qua sinh, lão, bệnh, tử để nhập vào không sinh, không lão, không bệnh, không tử. Chữ Già là nghĩa vượt qua quả báo của nghiệp để nhập vào chốn không nghiệp, quả báo. Chữ Tha là nghĩa Tổng trì các pháp, các ngôn ngữ, không, vô tướng, vô tác để nhập vào pháp giới. Chữ Xả là Xa-ma-tha (Chỉ) Tỳ-bà-xá-na (Quán) để nhập vào quán như thật về các pháp. Chữ Sa là tất cả pháp, niệm niệm sinh diệt, cũng không diệt, chẳng diệt, vì xưa nay thanh tịnh vắng lặng. Tất cả các pháp đều nhập nơi Niết-bàn. Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Đấy gọi là tám chữ có thể lãnh nhận để nhập vào tất cả các pháp.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là tiếng vô thường?

Phật đáp:

–Tiếng vô thường: Nghĩa là tất cả pháp hữu vi đều vô thường. Như nhãn nhập vô thường. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý nhập cũng vô thường. Sắc nhập vô thường. Thanh, hương, vị, xúc, pháp nhập cũng vô thường. Như nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới, cho đến ý giới, pháp giới, ý thức giới cũng vô thường. Sắc ấm vô thường cho đến thức ấm cũng như vậy. Đấy gọi là tiếng vô thường.

Tiếng vô ngã: Nghĩa là tất cả các pháp đều vô ngã. Nói có ngã, có người tạo ra, có việc tạo ra… hoặc đoạn, hoặc thường, thì đấy là ngã tưởng. Còn ngã giác là ngoại đạo nói. Do quá khứ thì đã diệt, vị lai thì chưa đến, còn hiện tại thì không dừng trụ. Mười hai nhập, mười tám giới, năm ấm đều không có ngã. Đấy là nghĩa chữ A kéo dài.

Tiếng các căn: Nghĩa là tiếng lớn. Như nhãn căn gọi là tiếng lớn. Nhĩ căn cho đến ý căn đều gọi là tiếng lớn. Đấy là gọi chữ Y, là tiếng lớn.

Tiếng nhiều bệnh tật: Nhãn rất nhiều bệnh tật, cho đến ý cũng lại như vậy. Cho nên gọi là tiếng nhiều bệnh tật.

Tiếng hoang loạn: Đất nước thì không yên, dân chúng lại ap bức lẫn nhau, giặc giã cứ nổi lên, lúa thóc thì mất mùa. Đây gọi là tiếng hoang loạn.

Tiếng chúng sinh thấp: Chúng sinh thấp kém, nghèo cùng, khốn khổ, không có căn lành và các loại cầm thú, trùng, ve… Đấy gọi la tiếng chúng sinh thấp.

Tiếng ngay thẳng mềm dịu tương tục: Ngay thẳng nghĩa là không dua nịnh, không dua nịnh là không quanh co, không quanh co tức là chân thật. Chân thật là làm đúng với lời nói. Làm đúng với lời nói là thực hành đúng lời Phật dạy. Đấy gọi là ngay thẳng. Mềm dịu có sáu thứ: Mắt dịu dàng, cho đến ý dịu dàng. Đấy gọi là mềm dịu. Tương tục nghĩa là không tách rời tất cả pháp thiện. Đấy gọi là tiếng ngay thẳng mềm dịu.

Tiếng đoạn nhiễm du hý: Đoạn nhiễm cõi Dục nơi ba mươi sáu thứ phiền não ràng buộc. Là suy nghĩ về sự dứt lìa bốn sử. Đoạn có nghĩa là trừ diệt. Du hý nghĩa là đầy đủ cả năm dục. Chúng sinh du hý ở trong năm dục đó, nen cần phải đoạn. Đấy gọi là tiếng đoạn nhiễm du hý.

Tiếng nêu ra tướng sinh pháp: Tất cả các pháp đều lấy vô ngã làm tướng, tướng của niệm niệm đều sinh diệt, vắng lặng. Lấy vô ngã làm tướng, nghĩa là sắc ấm vô thường, cho đến thức cũng như vậy. Đấy gọi là lấy vô ngã làm tướng. Còn niệm niệm sinh diệt, nghĩa là tất cả các hành được sinh ra trong từng niệm niệm, hễ sinh thì phải diệt. Đấy gọi là tất cả các pháp niệm niệm sinh diệt. Vắng lặng nghĩa là không, không xứ sở, không sắc, không thể, ngang bằng với hư không. Đấy gọi là tướng vắng lặng. Quá khứ, vị lai và hiện tại đều vô thường. Đấy là tiếng của tướng sinh pháp.

Tiếng nói về tướng nhiễm nơi ba cõi: Tướng là tướng đầy đủ năm thứ dục nơi dục giới, tướng nhiễm sắc nơi sắc giới, tướng nhiễm không sắc nơi vô sắc giới. Đấy gọi là tướng. Ba cõi: Cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc. Cõi Dục là những cõi nao? Là địa ngục cho đến trời Tha hóa tự tại. Cõi Sắc là những cõi nào? Là cõi Phạm thân cho đến cõi Sắc cứu cánh. Cõi Vô sắc là cõi nào? Là Không xứ cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nhiễm chấp ba cõi với chín mươi tám thứ phiền não ràng buộc. Đấy gọi là tiếng nêu ra tướng nhiễm của ba cõi.

Tiếng nói về chỗ dấy khởi lỗi lầm tai họa: Có ba thứ cầu: Cầu dục, cầu hữu, cầu phạm hạnh.

Cầu dục là cầu sắc, thanh, hương, vị, xúc. Sao gọi là cầu sắc? Cầu sắc có hai thứ: Một là hiển sắc, hai là hình sắc. Hiển sắc có mười hai thứ: Xanh, vàng, đỏ, trắng, khói, mây, bụi, sương mù, bóng ánh sáng, sáng, tối. Hình sắc có tám thứ: Dài, ngắn, vuông, tròn, cao, thấp, bằng, không bằng. Đấy gọi là sắc dục. Sao gọi là tiếng dục? Tiếng có bảy thứ: Tiếng loa, tiếng trống, tiếng trống con, tiếng trống lớn, tiếng hát, tiếng nam, tiếng nữ. Đấy gọi là tiếng dục. Sao gọi là hương dục? Hương có bảy thứ: Hương rễ, hương lõi, hương vỏ, hương đường, hương lá, hương hoa, hương trái, hoặc hương nam, hương nữ. Đấy là hương dục. Sao gọi là vị dục? Vị có bảy thứ: Vị ngọt, vị nồng, vị mặn, vị đắng, vị chát, vị nhạt, vị cay, hoặc vị nam, vị nữ. Đấy là vị dục. Sao gọi là xúc dục? Xúc có tám thứ: Lạnh, nóng, nặng, nhẹ, nhám, trơn, đói khát hoặc xúc nam, xúc nữ. Đấy gọi là xúc dục.

Sao gọi là cầu hữu? Cầu cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc. Đấy gọi là cầu hữu.

Sao gọi là cầu phạm hạnh? Vì xuất gia khổ hạnh nên muốn cầu về thiên đường, muốn cầu về Niết-bàn. Đấy gọi là cầu phạm hạnh. Cầu nghĩa là gì? Nghĩa là ưa thích tham chấp.

Sao gọi tiếng nói về chỗ khởi lỗi lầm tai họa? Vì các cõi của chúng sinh đều là lỗi lầm và hoạn nạn. Ngoại trừ thiên đường và Niếtbàn ra, còn tất cả cõi nơi xứ khác đều có lỗi lầm và hoạn nạn. Đấy gọi là tiếng nói về chỗ phát khởi lỗi lầm tai họa.

Tiếng Thánh đạo thù thắng: Là tám con đường chánh: Tức từ chánh kiến cho đến chánh định, không có lỗi lầm, không có sự vướng mắc, nên gọi là Thánh đạo. Đấy là tiếng Thánh đạo thù thắng.

Tiếng giữ lấy: Là nắm giữ các pháp, nên gọi đó là tiếng giữ lấy.

Tiếng hóa sinh: Bốn ấm thọ, tưởng, hành, thức, đấy gọi là hóa sinh. Lại nói thai sinh, noãn sinh, thấp sinh và hóa sinh.

Thai sinh có bốn: Châu Đông Phất-vu-đãi, Nam Diêm-phù-đề, Tây Câu-da-ni, Bắc Uất-đơn-việt. Sinh bằng trứng là chỉ có các loài chim, sinh nơi ẩm thấp là chỉ cho các loài muỗi, nhặng, rận… Hóa sinh là chỉ cho chư Thiên. Đấy gọi là tiếng hóa sinh.

Tiếng vô ngã sở: Tất cả các pháp đều không phải là sở hữu của ngã, cũng không khởi ngã. Vô ngã sở là không có ngã sở, mạn. Đấy là tiếng vô ngã sở.

Tiếng chìm mất diệt tận: Do vô minh diệt nên hành diệt, cho đến sinh diệt nên ưu bi, khổ não diệt.

Còn chìm mất diệt tận: Niết-bàn vắng lặng, không còn sinh trở lại. Đấy gọi là tiếng hoàn toàn diệt tận.

Tiếng vượt qua nghiệp quả báo: Nghiệp là ba nghiệp: Thân ba, miệng bốn và ý ba. Nghiệp quả báo là ba nghiệp thanh tịnh. Đấy gọi là tiếng vượt qua nghiệp quả báo.

Tiếng hư không… các pháp: Các pháp ngang bằng với hư không. Sao gọi là ngang bằng với hư không? Vì các pháp chỉ có danh, chỉ có tuởng, không có tướng, không phân biệt, không hình thể, không lay, không động, không thể nghĩ bàn, không khởi, không diệt, không chỗ làm theo, không tướng, không chỗ tạo ra, không có tướng mạo, không hình sắc, không chỗ đi, trụ, bình đẳng với hư không, không già, không chết, không lo buồn, khổ não.

Sắc thì bằng với hư không. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Quá khứ thì đã qua, vị lai thì chưa đến, hiện tại thì không dừng lại. Đấy gọi là tiếng các pháp ngang bằng với hư không.

Tiếng nói về pháp sâu xa: Từ vô minh duyên hành, cho đến sinh duyên lão tử, ưu bi, khổ não. Vô minh diệt thì hành diệt, cho đến sinh diệt thì ưu bi, khổ não cũng diệt. Vì lý đó là chân thật, nên gọi là sâu xa. Sâu xa nghĩa là mười hai nhân duyên ấy, chấm dứt đường ngôn ngữ không bờ bến, không xứ sở, không thời gian, hoàn cảnh, dứt lìa trượng phu, dứt lìa tánh thế gian, nhập vào bình đẳng, phá chấp của mình và người. Đấy gọi là tiếng nói về pháp sâu xa.

Tiếng trừ, kiên (cứng chắc) trong (nặng) vô minh, si, ám, minh (tối tăm): Kiên (cứng chắc) nghĩa là năm kiến chấp như thân kiến… Trọng (nặng) nghĩa là năm ấm. Vô minh là không biết được biên vực trước sau, có tội hay không có tội, không hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng, không biết người thí, giới, thiên, không biết ấm, giới, nhập. Đấy gọi là vô minh. Si là quên mất sự hiểu biết và nhớ nghĩ. Đấy gọi là si. Ám là vào thai khổ não, chịu tất cả sự không sạch, lại sinh tho lạc mê lầm, lui tới. Đấy gọi là ám. Minh (tối tăm) nghĩa là không biết ba đời, không có phương tiện, không hiểu rõ. Đấy gọi là minh (tối tăm). Trừ là chân thật chắc chắn, chỉ bày ánh sáng, trừ nhân quả, trừ phiền nao, trừ không phải phiền não, trừ các tập khí còn sót để nhập vào bình đẳng, không nghĩ bàn làm chính. Đó là nghĩa của trừ. Đấy gọi là tiếng trừ kiên trọng vô minh si ám minh.

Tiếng tham dự tri hành: Có tám thứ tham dự tri hành: Từ chánh kiến cho đến chánh định. Đấy gọi là tham dự tri hành của Bồ-tát. Trừ đoạn năm kiến gọi là chánh kiến, không suy nghĩ về tham, sân, si gọi là chánh tư duy. Thân, ý, nghiệp thanh tịnh gọi là chánh nghiệp. Khẩu nghiệp thanh tịnh gọi là chánh ngữ. Quanh co, dối gạt, trá hiện thiểu dục, đem lợi để cầu lợi. Mua bán năm thứ, như là buôn bán rượu, bán thịt, bán thuốc độc, bán đao kiếm và bán nữ sắc… ngoài những nghiệp ác này thì gọi là chánh mạng. Thân làm thiện, ý nghĩ thiện gọi là chánh tinh tấn. Luôn nhớ nghĩ đến bốn niệm xứ gọi là chánh niệm.

Tâm định, không vướng mắc, tướng vắng lặng, tướng diệt, tướng không là chánh định. Đấy gọi là tiếng tham dự tri hành.

Tiếng bốn Thánh đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo đế. Sao gọi là Khổ đế? Vì có khả năng đoạn mười sử. Sao gọi là Tập đế? Vì có khả năng đoạn bảy sử. Sao gọi là Đạo đế? Vì có khả năng đoạn tám sử, cắt đứt bốn dòng suy nghĩ, cho đến cắt đứt mọi sự trói buộc của cõi Sắc và cõi Vô sắc. Đấy gọi là tiếng bốn Thánh đế.

Tiếng đoạn trừ dục nhiễm: Dục là nhiễm, lạc, bất yếm (không chán), dục, trang nghiêm, trước, tư thái, tư duy nơi dục, tư duy nơi xúc, đãi, tập cận.

Nhiễm: Là trói buộc. Lạc: Là ưa thích nơi sáu trần. Bất yếm: Là chuyên tâm tham chấp vào duyên, không còn có một ý tưởng nào khác. Dục: Là ham thích. Trang nghiêm: Là ý khởi nhiễm. Trước: Là buông thả nơi dục. Tư thái: Là tạo ra các dáng vẻ, điệu bộ. Tư duy nơi dục: Là vướng mắc nơi năm dục. Tư duy nơi xúc: Là tướng dục quen gần. Đãi: Là dùng hương hoa để dẫn dắt. Tập cận: Là chạy theo tâm dục nhiễm. Đoạn: Là diệt trừ pháp bất thiện nêu trước. Đấy gọi là tiếng đoạn trừ dục nhiễm.

Tiếng vượt qua lão, tử: Lão là thân thể bị tiêu giảm, đi đứng phải chống đỡ, các căn bị suy mòn, gọi đó là già. Chet là các căn bị hủy hoại. Do đâu đã chết rồi lại đi tìm nơi khác để thọ sinh? Vì hành nghiệp đã thành thục. Đây gọi là chết. Già, chết có gì khác nhau? Các căn đã đến thời kỳ hao mòn, gọi là già. Các căn hoại diệt thì gọi là chết. Trước già, sau chết, gọi đó là già chết. Vượt qua khỏi già chết này thì gọi là độ. Độ có nghĩa gì? Nghĩa là vượt qua đến bờ bên kia, tự tại không còn bị sinh lại nữa. Đấy gọi là tiếng vượt qua già, chet.

Tiếng thâu phục lời nói ác: Thâu phục nghĩa là thâu phục lời nói, thâu phục thân thể. Sao gọi là thâu phục lời nói? Là đem lời nói của đồng loại để phá bỏ lời nói của loại khác. Dùng lời nói của loại khác để phá trừ lời nói đồng loại. Dùng lời chân thật thâu phục lời không chân thật. Dùng lời không chân thật thâu phục lời chân thật. Dùng phi ngôn ngữ để thâu phục ngôn ngữ. Dùng ngôn ngữ để thâu phục phi ngôn ngữ. Dùng Đệ nhất nghĩa để thâu phục chẳng phải Đệ nhất nghĩa. Dùng chẳng phải Đệ nhất nghĩa để thâu phục Đệ nhất nghĩa. Dùng lời quyết định để thâu phục lời không quyết định. Dùng lời không quyết định để thâu phục lời quyết định. Dùng một để thâu phục nhiều. Dùng nhiều để thâu phục một. Dùng không phạm để thâu phục bị phạm. Dùng bị phạm để thâu phục không phạm. Dùng hiện chứng để thâu phục không hiện chứng. Dùng không hiện chứng để thâu phục hiện chứng. Dùng mất để thâu phục không mất. Dùng không mất để thâu phục mất. Dùng chủng loại không được để thâu phục chủng loại. Dùng chẳng phải là chủng loại không được để thâu phục chẳng phải là chủng loại.

Ác là nói không chân thật, không chắc chắn, không phân biệt.

Thâu phục nghĩa là đoạn, là ngăn, là trừ. Đấy gọi là tiếng thâu phục lời nói ác.

Tiếng nói về an trụ: Là lời nói để phân biệt, chỉ bày rõ ràng, không làm trở ngại đạo, tùy theo pháp mà nói. Đấy gọi là nói. An trụ: Là đặt yên tại một chỗ. Là nói về Nê-hoàn, nói về xuất thế gian, là lời nói để thuật lại, lời nói không tướng, lời nói không có dung mạo, lời nói không khác, lời nói không tạo ra, lời nói giác ngộ, lời nói về không, lời nói vắng lặng. Đấy gọi là tiếng nói về an trụ.

Tiếng nói về đoạn trừ kết: Từ vô minh diệt cho đến lão tử diệt, diệt tất cả ấm. Diệt có nghĩa là làm cho mất đi, không sinh trở lại. Đấy gọi là diệt. Đoạn tức là cắt đứt mọi trói buộc, dứt sạch gốc rễ của phiền não, không còn sót lại. Đấy gọi là tiếng nói về đoạn trừ kết.

Tiếng nêu đặt, giải đáp: Là tùy vấn đáp, phân biệt đáp, phản vấn đáp, trí đáp.

Sao gọi là tùy vấn đáp? Nghĩa là theo câu hỏi mà trả lời.

Sao gọi là phân biệt đáp? Tùy theo câu hỏi của đối phương đưa ra mà phân biệt cho rộng.

Sao gọi là phản vấn đáp? Nếu có người hỏi thì có thể hỏi ngược lại để trả lời.

Sao gọi là nêu đặt, giải đáp ? Như đối phương hỏi về ngã đoạn, ngã thường thì nêu đặt, không trả lời ngay. Dùng câu hỏi phân biệt để hỏi, thì tùy theo cau hỏi mà trả lời. Dùng câu hỏi phản chất để hỏi, thì phân biệt mà trả lời. Dùng câu hỏi nêu đặt giải đáp để hỏi, thì phản chất mà trả lời. Dùng câu hỏi tùy vấn đáp để hỏi, thì nêu đặt mà trả lời. Đấy gọi là tiếng nêu đặt giải đáp.

Tiếng hàng phục các giặc ma: Ma tức là bốn ma. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, gọi là giặc ấm ma. Từ cõi này qua cõi khác, chấm dứt mọi việc, gọi là giặc tử ma. Vô minh, ái thủ, gọi là giặc phiền não ma. Năm dục đều đủ là hình thể của thiên ma, gọi là giặc thiên ma. Đấy gọi là tiếng hàng phục giặc ma.

Tiếng diệt trừ các cảnh giới: Diệt sắc cho đến diệt xúc. Cảnh giới là sắc, thanh, hương, vị, xúc. Đấy gọi la tiếng diệt trừ các cảnh giới.

Tiếng trừ diệt các phiền não: Là đoạn diệt phiền não. Trừ diệt phiền não: Nhiễm dục là thứ độc lớn, phải lấy quán bất tịnh làm thuốc để trừ. Sân hận cũng là thứ độc lớn, lấy từ bi làm thuốc để trừ. Vô minh cũng là thứ độc lớn, lấy quán mười hai nhân duyên làm thuốc để trừ. Đấy gọi là tiếng trừ diệt các phiền não.

Tiếng không khác, chẳng phá: Không khác là không phá, không khác. Là Đệ nhất nghĩa thật đế, không, không tướng, không hình, bình đẳng, không động, không thể nghĩ bàn. Đấy gọi là không khác. Chẳng phá: Là không có hình khác, bình đẳng, không tướng, không động, không phá, không đoạn, thuần nhất, không có lỗi lầm, không tâm, không trước sau. Đấy gọi là tiếng không khác, không phá.

Tiếng lực dũng mãnh mau chóng vô úy: Dũng mãnh nghĩa là tinh tấn. Lực là mười Lực. Chóng là nhanh chóng. Vô úy là không sợ bất cứ nơi nào. Đấy gọi là tiếng lực dũng mãnh mau chóng vô úy.

Tiếng thí, tịch tĩnh, giữ gìn an ổn: Thí có hai thứ: nội thí và ngoại thí. Sao gọi là nội thí? Là nói về bốn chân đế. Sao gọi là ngoại thí? Là thí da, thịt, máu, đất, nước, vợ con, trai gái, của cải, lúa thóc… Tịch tĩnh có ba: thân, khẩu, ý. Sao gọi là thân vắng lặng (tịch tĩnh)? Vì thân không làm ba việc lỗi lầm. Miệng vắng lặng: Không có bốn lỗi của miệng. Ý vắng lặng: Không tham, không sân, không si. Giữ gìn: Là giữ gìn các căn. An ổn: Là cùng chung với nhau, hòa hợp, không tìm lỗi của nhau, tri túc, thiểu dục, không vạch sở trường, sở đoản của nhau. Không tìm lỗi của người khác: Nghĩa là không tìm lỗi lầm của nhau. Không đem lời người này nói với người kia. Đấy gọi là tiếng thí vắng lặng, giữ gìn, an ổn.

Tiếng nói về bảy Thánh tài: Một là tín, hai là hổ, ba là thẹn, bốn là thí, năm là giới, sáu là văn (hiểu biết), bảy là tuệ. Đấy gọi là tiếng nói về bảy Thánh tài.

Tiếng phân biệt danh sắc: Danh là bốn ấm, sắc là bốn đại. Phân biệt là phân biệt về danh sắc. Đấy gọi là tiếng phân biệt danh sắc.

Tiếng Đệ nhất nghĩa: Là phân biệt năm ấm. Đấy gọi là tiếng Đệ nhất nghĩa.

Tiếng tác chứng đắc quả: Quả tức là bốn quả: Từ Tu-đà-hoàn cho đến A-la-hán và quả Duyên giác. Đắc: Nghĩa là nhập. Chứng: Là hiện chứng. Tác: Là tạo tác. Đấy gọi là tiếng tác chứng đắc quả.

Tiếng giải thoát mọi trói buộc: Trói buộc nghĩa là sự trói buộc của ba độc: tham, sân, si. Giải thoát: Là thoát khỏi ba độc trói buộc này. Đấy gọi là tiếng giải thoát khỏi mọi sự trói buộc của ba độc.

Tiếng sinh nơi ba hữu: Nghĩa là sinh hữu, hiện hữu và hậu hữu. Đấy gọi là tiếng sinh nơi ba hữu.

Tiếng đoạn kiêu mạn: Kiêu là kiêu ngạo về sắc, về sức trẻ, về sự giàu có, về sự tự tại, về tộc họ, về sự hành thiện, về thọ mạng, về sự thông sáng. Đấy gọi là tám kiêu ngạo. Mạn: Là mạn mạn, đại mạn, tăng thượng mạn, ngã mạn, bất như mạn, thắng mạn, tà mạn. Đấy gọi là bảy thứ mạn. Đoạn là cắt đứt sự kiêu mạn. Đấy gọi là tiếng cắt đứt sự kiêu mạn.

Tiếng thông đạt các pháp: Thông đạt nghĩa là biết đúng như cảnh. Các pháp: Là pháp thiện, pháp bất thiện, năm dục có đủ là pháp bất thiện, đoạn trừ năm dục là pháp thiện. Đấy gọi là tiếng thông đạt các pháp.

Tiếng phân biệt như pháp: Như là nghĩa cùng, bằng. Pháp là pháp thiện, pháp bất thiện. Pháp bất thiện là không đoạn trừ các thứ của năm dục. Pháp thiện là đoạn trừ các thứ của năm dục. Đoạn, có nghĩa là phá diệt. Đấy gọi là tiếng phan biệt như pháp.

Tiếng lạc, bất lạc Đệ nhất nghĩa: Lạc là cảnh giới của năm dục. Bất lạc là không vướng mắc nơi năm dục. Đệ nhất nghĩa: Là không, vô tướng. Đấy gọi là tiếng lạc, bất lạc Đệ nhất nghĩa.

Tiếng đoạn trừ ái: Ái là sắc ái, cho đến xúc ái. Đoạn là diệt trừ.

Đấy gọi là tiếng đoạn trừ ái.

Tiếng thừa thù thắng: Đó là ba thừa: Phật thừa, Duyên giác thừa và Thanh văn thừa.

Bát-nhã ba-la-mật, mười Địa là Phật thừa.

Điều phục được chính mình, chính mình được vắng lặng để nhập Niết-bàn, là Duyên giác thừa.

Các căn của chúng sinh được nhu hòa, vì sợ hãi muốn vượt qua sinh tử là Thanh văn thừa. Đấy gọi là tiếng nói về thừa thù thắng.

Tiếng tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ: Gắn bó nơi suy nghĩ, quán xét không đổi, gọi là tín. Siêng năng dũng mãnh, tấn tới, làm việc giữ gìn việc, gọi là tinh tấn. Chuyên nhất thâu giữ tâm gọi là niệm. Không bị lay động trước các cảnh động, gọi là định. Trí tuệ thuần nhất bình đẳng thì gọi là tuệ. Đấy gọi là tiếng tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ.

Tiếng thâu phục sáu nhập bất đắc bất tri sáu Thông: Sáu nhập là từ nhãn nhập cho đến ý nhập. Thâu phục là thâu phục sắc cho đến thâu phục pháp. Sáu Thông: Là Thiên nhãn, Thiên nhĩ, Tha tâm trí, Túc mạng trí, Thần túc và Lậu tận thông. Bất tri (không biết) tức là vô minh. Bất đắc bất tri (Không thể không biet) là trừ khử được vô minh. Đấy gọi là tiếng thâu phục sáu nhập không thể không biết sáu Thông.

Tiếng nhận biết Nhất thiết trí: Nhất thiết trí là biết hết về tất cả pháp thế gian. Thế gian nghĩa là niệm niệm sinh diệt. Lại nữa, thế gian là ấm, giới, nhập. Lại nữa, thế gian có hai thứ: một là thế gian của chúng sinh, hai là thế gian của hành. Thế gian của chúng sinh là chỉ cho tất cả chúng sinh. Thế gian của hành là có thể biết, hoặc biết hết trụ xứ của chúng sinh nơi tất cả thế giới. Trí có hai thứ: Trí Thanh văn và trí Nhất thiết. Trí giác: Biết được thân mình và biết được thân người. Đấy gọi là tiếng nhận biết Nhất thiết trí.

Tiếng chánh diệt trừ phiền não: Diệt trừ (sát) nghĩa là trừ đoạn. Phiền não là chín mươi tám thứ sử: Chỗ đoạn của Khổ đế nơi cõi Dục mười sử. Tập, Diệt bảy sử. Đạo đế tám sử. Tư duy bốn sử. Chỗ đoạn của Khổ đế nơi cõi Sắc chín sử. Tập, Diệt sáu sử. Đạo đế bảy sử. Tư duy bốn sử. Cõi Vô sắc cũng như vậy. Chánh: Nghĩa là trừ đoạn phân minh, không còn các thứ cấu uế khác. Đấy gọi là tiếng chánh diệt trừ phiền não.

Tiếng nói về đây là chữ cuối cùng, vượt qua được pháp này, thì không thể nói: Nếu không có chữ thì gọi là Niết-bàn. Còn như có chữ thì gọi là sinh tử. Sau cùng: Lại không có chữ nào, chỉ trừ chữ La. Không thể nói: Không thể nắm bắt được, không thể phân biệt được, vì vô sắc nên không thể nói. Các pháp là ấm, giới, nhập, ba mươi bảy phẩm. Đấy gọi là tiếng nói về chữ sau cùng, vượt qua đấy là không thể nói.

 

Phẩm 15: PHÂN BIỆT BỘ

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sau khi Thế Tôn nhập Niết-bàn, đệ tử ở đời vị lai sẽ phân biệt các bộ như thế nào và bộ căn bản ra sao?

Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Các đệ tử ở đời vị lai sẽ chia ra thành hai mươi bộ để làm cho các pháp được an trụ. Hai mươi bộ này đều chứng bốn quả, ba tạng bình đẳng, không có hạ, trung, thượng. Ví như vị của nước biển chỉ là một không có khác, như người có hai mươi đứa con. Những lời nói của Như Lai là chân thật.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Hai bộ căn bản xuất phát từ Đại thừa mà ra, từ Bát-nhã ba-la-mật mà ra. Thanh văn, Duyên giác, chư Phật, tất cả đều tư Bát-nhã ba-la-mật mà ra. Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Ví như đất, nước, gió, lửa, hư không là nơi để cho các chúng sinh an trụ. Cũng vậy, Bát-nhã ba-la-mật và Đại thừa là nơi phát xuất của tất cả Thanh văn, Duyên giác, chư Phật.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là bộ?

Phật đáp:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Hai bộ đầu tiên: Một là Ma-ha Tăng-kỳ (Đây là nói đại chúng già trẻ cùng chung một hội kết tập bộ Luật). Hai là Thể-tỳ-lý (Đây là nói chỉ thuần những bậc lão túc ở trong hội cùng kết tập bộ Luật). Sau khi ta Niết-bàn một trăm năm, hai bộ này sẽ phát triển lên. Từ Ma-ha Tăng-kỳ xuất ra bảy bộ. Khoảng một trăm năm này xuất hiện một bộ gọi là Chấp Nhất Ngữ Ngôn (Quan điểm của bộ này đồng với Tăng-kỳ, nên gọi là Nhất). Nơi một trăm năm đó, từ bộ Chấp Nhất Ngữ Ngôn, lại xuất hiện một bộ gọi là Xuất Thế Gian Ngữ Ngôn. Cũng trong một trăm năm, từ bộ Xuất Thế Gian

Ngữ Ngôn, xuất phát một bộ gọi là Cao-câu-lê-kha (Theo họ của Luật chủ mà ra). Cũng khoảng một trăm năm, từ bộ Cao-câu-lê-kha, xuất phát một bộ gọi là Đa Văn (Từ Luật chủ mà ra, nên có trí đa văn). Cũng trong một tram năm, từ bộ Đa Văn xuất phát một bộ gọi là Chỉđể-khả (Đây là tên núi, nơi Luật chủ ở). Lại, trong một trăm năm, từ bộ Chỉ-để-khả xuất phát một bộ gọi là Đông Sơn (Cũng là chỗ của Luật chủ ở). Cũng trong một trăm năm, từ bộ Đông Sơn xuất hiện một bộ gọi là Bắc Sơn (Cũng là chỗ của Luật chủ ở). Bảy bộ này đều xuất phát từ bộ Ma-ha Tăng-kỳ, cộng chung với bộ chính Ma-ha Tăng-kỳ này, thành ra tám bộ.

Lại, cũng trong một trăm năm, từ bộ Thể-tỳ-lý, sẽ liên tục xuất phát mười một bộ. Cụ thể là, trong một trăm năm xuất phát ra một bộ gọi là Nhất thiết ngữ ngôn (Luật chủ chấp có ba đời, nên tất cả đều thuộc về ngữ ngôn). Cũng trong một trăm năm, từ bộ Nhất thiết ngữ ngôn xuất phát một bộ gọi là Tuyết Sơn (Cũng là nơi Luật chủ ở). Cũng trong một trăm năm, từ bộ Tuyết Sơn xuất phát một bộ gọi là Độc Tử (Họ của Luật chủ). Cũng trong một trăm năm, từ bộ Độc Tử xuất phát một bộ gọi là Pháp Thắng (Tên của Luật chủ). Cũng trong một trăm năm, từ bộ Pháp Thắng xuất hiện một bộ gọi là Hiền (Tên Luật chủ). Cũng trong một trăm năm, từ bộ Hiền xuất phát một bộ gọi là Nhất Thiết Sở Quý (Do Luật chủ thông đạt nên mọi người tôn trọng như vậy). Cũng trong một trăm năm, từ bộ Nhất Thiết Sở Quý xuất phát một bộ gọi là Nhưng Sơn (Chỗ ở của Luật chủ). Cũng trong một trăm năm, từ Nhưng Sơn xuất phát một bộ gọi là Đại Bất Khả Khí (Lúc Luật chủ mới sinh, người mẹ đem bỏ xuống giếng. Người cha tìm con, tuy bị rơi nhưng chưa chết, nên gọi là Đại Bất Khả Khí, lại gọi là Năng Xạ). Cũng trong một trăm năm, từ bộ Đại Bất Khả Khí xuất phát một bộ gọi là Pháp Hộ (Tên của Luật chủ). Lại trong một trăm năm, từ bộ Pháp Hộ xuất phát một bộ gọi là Ca-diếptỷ (Họ của Luật chủ). Cũng trong một trăm năm, từ bộ Ca-diếp-tỷ xuất phát một bộ gọi là Tu-đố-lộ-cú (Luật chủ chấp nghĩa của kinh). Mười một bộ này đều xuất phát từ bộ Thể-tỳ-lý. Như vậy, cộng chung lại thành mười hai bộ.

Đức Phật liền nói kệ:

Bộ Ma-ha Tăng-kỳ
Xuất hiện thêm bảy bộ
Thể-tỳ-lý mười một
Cộng chung lại hai mươi
Mười tám, hai bộ chính
Phát xuất từ Đại thừa
Không đúng cũng không sai
Ta nói vị lai khởi.

 

Phẩm 16: TẠP VẤN

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lại bach Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đời vị lai, các ngoại đạo sẽ nói lời như vầy: “Xưa kia, có phải Đức Thế Tôn nói kinh Hỏa Tụ, làm cho sáu mươi Tỳ-kheo chết, sáu mươi Tỳ-kheo hoàn tục, sáu mươi Tỳ-kheo giải thoát.” Thế Tôn chẳng phải là Nhất thiết trí. Vì sao? Vì không thấy việc này. Ngoại đạo sẽ hỏi như vậy thì trả lời thế nào?

Phật đáp:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như người đốt đèn, mục đích không phải để giết trùng. Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như Lai cũng như vậy, tùy theo khả năng thọ nhận của chúng sinh để vì họ mà giảng nói. Như Lai giảng nói pháp không phải là không nhân duyên. Nếu chúng sinh tạo nghiệp sát sinh thì nhất định phải chịu quả báo. Do chúng sinh ấy không đủ sức thọ pháp cho nên hoàn tục, còn chúng sinh đủ sức thọ pháp thì được giải thoát, tất cả đều theo nhân duyên cả, chứ không phải do Đức Như Lai tạo ra. Vì sao? Vì Phật sinh ra từ thế gian, Phật không nói Phật tạo ra thế gian. Nếu người hay sát sinh thì phải chịu quả chết yểu. Nếu người không sát sinh thì được sống lâu và đạt quả giải thoát. Tuy các chúng sinh này hoàn tục, nhưng đời vị lai, Như Lai sẽ hóa độ họ. Thế nen, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như Lai không có lỗi.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như ánh sáng mặt trời, mặt trăng,

khi chiếu vào các hoa Câu-mâu-đầu, Phân-đà-lợi, Uất-ba-la… Hoặc có hoa còn búp, hoặc có hoa đã nở, hoặc có hoa đã tàn, rơi rụng xuống đất. Đây chẳng phải là mặt trời, mặt trăng, có tâm phân biệt. Vì sao? Vì mặt trời, mặt trăng vô tâm. Do vô tâm cho nên hoa tự nở, rồi tự rụng, chứ chẳng phải lỗi của mặt trời, mặt trăng. Này Bồ-tát Văn-thùsư-lợi! Như Lai giảng nói pháp cũng như vậy. Có chúng sinh sống lâu, chết yểu, không bệnh, có bệnh, nhiều bệnh, ít bệnh, đáng ghét, đáng thương, có hạ, trung, thượng, sang hèn, giàu nghèo, hoặc sinh vào châu Diêm-phù-đề, hoặc sinh vào châu Uất-đơn-việt, hoặc sinh nơi châu Câu-da-ni, Phất-vu-đãi, hoặc sinh lên cõi Tứ Thiên vương, cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Hoặc có chúng sinh lại sinh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-la… Tất cả đều lấy nghiệp mình tạo ra làm tài sản, lấy nghiệp làm phần, nghiệp làm chỗ sinh. Chỉ có nghiệp tạo ra chứ không phải là các vật khác tạo ra, có thượng, trung hạ, chẳng phải là do ta tạo. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh lấy nghiệp mình tạo ra làm tài sản.

Khi ấy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát rất chú trọng đến bố thí, có khi bố thí cả vợ con… Ví như Tu-đạt-noa đem hai con của mình thí cho Bà-lamôn xấu ác. Bà-la-môn này lại đánh đập hai đứa trẻ ấy. Thưa Thế Tôn! Do đâu không có tâm Từ bình đẳng? Nếu Bồ-tát không có tâm Từ bi thì không gọi là Bồ-tát. Thế Tôn, các Bồ-tát có tâm bình đẳng không? Nếu có tâm bình đẳng thì sao lại đem con của mình cho người khác đánh đập? Có người hỏi thế thì sẽ trả lời ra sao?

Phật đáp:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như người có hai đứa con, đem đứa con nhỏ cho đứa con lớn. Này Bo-tát Văn-thù! Như vậy cha mẹ đó có tâm bình đẳng không? Đứa anh đánh đứa em cho đến chết. Vậy ai có tội?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thưa:

–Bạch Thế Tôn! Tâm của cha mẹ bình đẳng, không có tội lỗi, đứa anh phải chịu tội nay.

Phật bảo:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Ta luôn dùng tâm bình đẳng đối

với tất cả chúng sinh, như La-hầu-la đáng yêu đáng nhớ, Đề-bà-đạt-đa cũng đáng yêu đáng nhớ. Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Vì vậy Bồ-tát không có tội lỗi.

Lại nữa, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như có một người ngày ngày thường bố thí thức ăn, có người đến xin, người này liền cho. Người xin nhận được thức ăn rồi, lại còn trộm cắp của cải của người ấy. Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Vậy ai là người mắc tội?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thưa:

–Bạch Thế Tôn! Người làm bố thí không mắc tội, vì người làm bố thí chỉ có ý cho chứ không có ý tạo điều kiện để cho người kia ăn trộm.

Phat bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Đúng vậy! Bồ-tát chỉ có ý ban cho, chứ không có tâm giết hại. Thế nên Bồ-tát không có tưởng hại. Người giết tự chuốc lấy tội giết người.

Đức Phật liền nói kệ:

Thường hành tâm bình đẳng
Lúc thí không tưởng hại
Người kia tạo tội giết
Ta bình đẳng, không lỗi.
Có thọ mạng, tưởng thọ
Lại có tâm giết hại
Mạng đoạn ngay khi đó
Người hại chịu tội giết.
Nếu không có thọ mạng
Mới khởi tâm thọ mạng
Khi ấy khởi tưởng hại
Thì đây cũng có tội.
Đề-bà và La-hầu
Thương nhớ không có khác
Tâm từ bi như vậy
Là Bồ-tát bình đẳng.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thưa:

–Bạch Thế Tôn! Đúng vậy, đúng vậy! Thật đúng như lời Phật nói.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đời vị lai nếu có người vấn nạn: Như Lai Thế Tôn thường nói: “Nếu người có thể nói về hai mươi bốn xứ thì liền sinh về hai mươi bốn xứ ấy. Hai mươi bốn xứ là: Vua nơi bốn châu, cõi Tứ Thiên vương, cho đến Tha hóa tự tại Thiên vương, Phạm thân, Phạm phú lâu, Đại phạm, đạt được Tu-đà-hoàn cho đến A-la-hán, có trí tuệ lớn, có các hạnh thiện, không động, không buông lung. Đấy là hai mươi bốn xứ. Nay Đức Như Lai đã có thể nói đến thì cũng nên đạt được chỗ này.” Khi tà kiến kia vấn nạn như thế thì trả lời ra sao?

Phật đáp:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như Lai giảng nói pháp không phải vì nhân duyên đó. Này Bồ-tát Văn-thù! Như ánh sáng của mặt trời, mặt trăng làm lợi ích cho các loại hoa, tuy có năng lực đó nhưng nó không mong cầu báo ân. Vì sao? Vì mặt trời, mặt trăng vô tâm.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như Lai cũng lại như vậy. Do không mong cầu báo ân nên mới vì người mà giảng nói pháp. Vì sao? Vì Như Lai vô tâm. Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như Lai không vướng mac đối với các pháp. Thế nên, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Pháp mà Như Lai đã nói ra không phải vì ta. Vì sao? Vì xưa kia, trong ba a-tăng-kỳ kiếp, Như Lai bố thí đầu, mắt, tủy, não, các phần tay chân, và cả đất nước, vợ con, nô tỳ, voi ngựa… Đối với người nhận của cho, Như Lai không có tâm mong cầu báo đáp. Như Lai không cầu quả báo thế gian. Vì sao? Vì ta giảng nói các pháp, không phải vì ta, không vì thân ta, không vì thân người, không vì thân ta và người. Nếu vì tự thân, tha nhân và thân ta và người, thì Như Lai đã bị vướng mắc.

Phật bảo:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Cũng như mặt trời, mặt trăng, không thể khởi lên suy nghĩ: Hoa sẽ báo ân ta hay không báo ân ta. Vì mặt trời, mặt trăng là vô tâm. Đức Như Lai cũng vô tâm. Vì sao? Vì Như Lai không thể nắm bắt. Đã không nắm bắt thì làm sao được báo. Trong đêm ấy, ta tuy nói đã chứng được đạo Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, nhưng ta chưa từng nói ra một chữ. Vì sao? Vì quả vị ấy là không thể thủ đắc. Như Lai không thể thủ đắc. Như Lai không có quả báo. Vì sao? Vì đã lìa khổ vui. Trước kia, ta suy nghĩ: Lúc chứng được Bồ-đề, tất cả chỗ mong cầu đều được, nhưng rồi cũng không chỗ thủ đắc, không hình, không tướng. Đức Phật liền nói kệ:

Nhật nguyệt chiếu các hoa
Không có tưởng báo ân
Như Lai không nắm bắt
Nên cũng không cầu báo.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Trước kia, Thế Tôn nói không có chúng sinh chết chẳng đúng thời tiết. Vì sao? Vì tuy sẽ chết nhưng chưa đến lúc chết thì không chết. Vì thế các người tà kiến sẽ hỏi lời này: “Đợi cho đến lúc chết ta mới được giết, như vậy người giết không có tội lỗi. Vì sao? Vì người kia đã đến lúc chết, nên ta giết là không có tội.” Như vậy thì trả lời thế nào?

Phật đáp:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Ví như có người xây cất cung điện, xây xong muốn ở đây, liền đi hỏi thầy tướng ngày nào tốt, ngày nào không tốt để biết chọn ngày ở. Thầy tướng đáp: Không nên ở. Vì sao? Vì sẽ bị lửa đốt. Nếu người có cố ý đốt cũng bị đốt, không có ý đốt cũng bị đốt. Người chủ lại hỏi: Nếu việc này xảy ra thì nên làm gì? Thầy tướng đáp: Cần phải đề phòng. Nghe vậy, người chủ hết sức cẩn thận, gia công đề phòng. Như vậy, nếu có người đem lửa đến đốt cung này, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Người đốt lửa đó có tội chăng?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Thưa Thế Tôn! Có tội, có tội.

–Đúng vậy! Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Hoặc đúng thơi chết, hoặc không đúng thời chết, nếu người cố tâm giết hại thì nhất định vào địa ngục, như đốt cung điện. Đức Phật liền nói kệ:

Đến lúc không đến lúc
Nếu người cố giết hại
Thì sẽ đọa địa ngục
Ví như đốt cung điện.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đời vị lai hạng tà kiến sẽ nói lời này: Có người giết người không bị mắc tội. Vì sao? Vì giết thân chứ không có giết mạng. Nếu thân là mạng thì như khi cha mẹ chết, người con đem thân cha mẹ đi thiêu, lẽ ra phải chịu tội giết. Vì sao? Vì thân là mạng. Thế nên biết thân không phải là thọ mạng, thọ mạng không phải là thân. Vì sao? Vì thân khác mạng khác. Nếu thân tức là mạng, hoặc mạng tức là thân, thì thiêu thân tức là thiêu mạng. Nếu thọ mạng đi đến đời sau thì thân cũng nên đi đến. Nếu thân bị thiêu, mạng không bị thiêu, do đó biết thân chẳng phải tức là mạng. Vì sao? Vì mạng không thể bị thiêu. Thế nên thân không phải là mạng, mạng không phải là thân. Do đó, giết thân không mắc tội. Vì sao? Vì nó khác mạng. Như người hỏi đường, cứ đi theo sự hướng dẫn của người kia. Như vậy, thưa Thế Tôn! Việc thiêu riêng, mắc tội riêng. Tại sao? Vì mạng đã qua đời sau mà thân vẫn còn đây. Do đó nên biết, thân chẳng phải là thọ mạng.

Thưa Thế Tôn! Có người nào có thể giết mạng được không? Nếu người có thể giết mạng thì không nên sinh lại. Nếu mạng đã bị giết thì không cần Niết-bàn. Nếu thân là thọ mạng thì khi thân bị giết, mạng cũng bị giết. Nếu thân là thọ mạng thì khi giết, thân liền được Niết-bàn. Vì sao? Vì không khác. Cho nên không co quả báo của sát sinh.

Thưa Thế Tôn! Nếu thân bị giết, thọ mạng sinh lại rồi đi nhận dòng họ khác, cho nên người này không mắc tội giết. Vì sao? Vì thọ mạng sinh lại. Sinh lại là sinh vào những nơi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-la… Đấy gọi là sinh lại. Thế nên, giết thân không gọi là giết mạng. Như các Thiền sư dạy các đệ tử phải trừ tâm ý thức. Như trừ tâm ý thức để không sinh lại. Đã không sinh lại thì không có thân trở lại, nếu không có thân trở lại thì cũng không có mạng, không có mạng thì không sinh lại. Như vậy thì Thiền sư giết thọ mạng của người. Thưa Thế Tôn! Sẽ đáp lại các tà kiến kia như thế nào?

Phật bảo:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Giới có hai thứ: Đó là giới thân, miệng, không phải tâm ý thức. Nếu tâm ý thức là giới thì không có người trì giới. Vì sao? Vì tâm phải duyên vào cảnh, khó chế ngự, không có chỗ trụ. Ví như dòng nước chảy xiết, như khỉ vượn chạy nhảy không dừng, không thể giữ lại. Thế nên, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Không có giới cho tâm ý thức, tuy thân miệng có giới nhưng tâm ý thức không phải là xứ của tội giết hại. Tại sao? Vì không phải xứ của giới. Nếu tâm vui thì có thể được định, tâm không vui thì không được định. Thế nên, người tu học dùng tâm định để giết, chẳng phải là người có thể giết. Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như vậy, định mắc tội giết, chứ không phải là tâm mắc tội giết.

Lại nữa, nếu giết tự thân thì không có tội báo. Vì sao? Như Bồtát tự sát thì chỉ được công đức, vì thân ta là do ngã. Nếu thân do ngã mà phải chịu tội báo, thì khi cắt móng tay làm tổn thương đến ngón tay, như vậy thì phải mắc tội. Vì sao? Vì tự gây thương tổn đến thân. Nếu thân tự chết, chúng sinh đến ăn thịt, lúc đầu không có tâm bố thí, như thế thì không được phước mà cũng không có tội. Vì sao? Vì các Bồ-tát xả thân không phải là vô ký, cho nên chỉ được công đức. Thế nên phiền não diệt thì tâm diệt, tâm diệt thì ý diệt, ý diệt thì thức diệt, thức diệt thì thân diệt, thân diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì mạng diệt, mạng diệt nên các căn diệt, các căn diệt nên các nhập diệt, các nhập diệt nên các giới diệt, các giới diệt nên các ấm diệt. Các ấm diệt nên không còn sự liên tục, không còn liên tục nên tâm ý thức không có xứ sở, tâm ý thức không có xứ sở cho nên thanh tịnh.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Ví như chiếc áo bị bẩn, dùng nước tro giặt tẩy đi, kết quả là nhơ bẩn hết nhưng áo vẫn còn. Vì sao? Vì cấu bẩn đã bị tẩy đi. Do tẩy bẩn nên áo được sạch. Như vậy, này Bồtát Văn-thù-sư-lợi! Các lỗi là bẩn, dùng nước trí tuệ tẩy trừ tâm cấu uế đó, do trừ tâm cấu uế nên được thanh tịnh. Đức Phật liền nói kệ:

Ví như chiếc áo bẩn
Dùng nước tro tẩy sạch
Nước tro tẩy sạch bẩn
Áo ấy được trong sạch.
Như vậy do lỗi lầm
Làm nhiễm ô tâm thức
Tẩy bằng nước trí tuệ
Tâm liền được thanh tịnh.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Ngoại đạo theo tà kiến ấy sẽ hỏi: “Nếu Thế Tôn là Bậc Nhất Thiết Trí thì vì sao khi trước không dự báo về việc hai nữ ngoại đạo là Tôn-đà-lợi và Chiên-già-ma-ni đến hủy báng Như Lai? Vì thế nên biết Như Lai chẳng phải là Bậc Nhất Thiết Trí, do không ngăn cản được việc hủy báng của họ, khiến nhiều kiếp phải rơi vào đường ác, cho đến đọa vào địa ngục vô gián.” Như vậy thì sẽ trả lời với họ bằng cách nào?

Phật đáp:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Nay ta hỏi ông, như có một vị thầy thuốc giỏi, biết rõ các bệnh phong đàm nhiệt của chúng sinh, nhưng khi bệnh chưa phát mà lo trị trước có được không?

–Không được, thưa Thế Tôn!

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! đấy là thầy thuốc biết bệnh phải không?

–Đúng vậy, thưa Thế Tôn!

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Ta cũng như vậy, biết các chúng sinh nhiều tham, nhiều sân, nhiều si, sống lâu, chết yểu, nghiệp ác, nghiệp thiện, Như Lai tuy biết trước nhưng chưa phải thời, thì không nói.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Hai người nữ Tôn-đà-lợi và Chiêngià-ma-ni này, đời quá khứ thường giết hại chúng sinh, khởi lên nghiệp xấu ác, thường chê bai Thánh nhân, nên phải bị đọa vào ngục A-tỳ.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Nghiệp ác của chúng sinh không phải do ta tạo ra. Nếu chúng sinh chịu khó nghe pháp thì ta sẽ vì họ mà giảng nói. Còn nếu không chịu khó nghe thì ta không giảng nói.

Này Bồ-tát Văn-thù! Như người bệnh quá nặng, không thể chữa trị, thầy thuốc đành phải bó tay trở về, không cho một ít thuốc nào, Như Lai cũng như vậy, biết hai người này không thể giáo hóa được, vì vậy nên im lặng, không làm trái việc ghi nhận.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Nếu người có thể thọ ký thì ta liền thọ ký, như ta đã thọ ký cho các đệ tử được quả vị Thanh văn, Duyên giác và Bồ-tát, hoặc không thọ ký nói se được ba thừa. Vì sao? Vì không thể định rõ.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Ý ông nghĩ thế nào? Nếu có người chê bai hư không, thì hư không sẽ đáp thế nào?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thưa:

–Thưa Thế Tôn! Hư không không ngôn ngữ. Vì sao? Vì hư không là không.

–Đúng vậy! Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như Lai bằng với hư không, hư không không có ngôn ngữ, Như Lai cũng không ngôn ngữ.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Có đời xấu ác đủ năm thứ ô trọc: Kiếp trược, chúng sinh trược, mạng trược, phiền não trược và kiến trược.

Sao gọi là kiếp trược? Vì khi ba thứ tai họa nổi lên, lại sát hại lẫn nhau, chúng sinh chịu đói khát, các bệnh tật phát sinh. Đấy gọi là kiếp trược.

Sao gọi là chúng sinh trược? Chúng sinh ác, chúng sinh thiện, chúng sinh hạng thấp, hạng vừa, hạng cao, chúng sinh hơn, kém, chúng sinh bậc nhất, chúng sinh không phải bậc nhất. Đấy gọi là chúng sinh trược.

Sao gọi là mang trược? Chúng sinh mười tuổi, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, sáu mươi, bảy mươi, tám mươi, chín mươi, một trăm tuổi, hai trăm tuổi, bốn trăm tuổi, tám trăm tuổi cho đến một ngàn tuổi, có thọ, có yểu. Đấy gọi là mang trược.

Sao gọi là phiền não trược? Vì nhiều tham, nhiều sân, nhiều si. Đấy gọi là phiền não trược.

Sao gọi là kiến trược? Kiến tà, giới thủ, kiến thủ, kiến thường, kiến đoạn, kiến hữu, kiến vô, kiến ngã, kiến chúng sinh. Đấy gọi là kiến trược.

Như Lai không có năm thứ ô trọc này. Đức Phật liền nói kệ:

Như Lai như hư không
Làm gì có ngôn ngữ!
Như Lai không năm trược
Cho nên không nghịch ký.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đời vị lai, người tà kiến sẽ chê bai Phật như vầy: “Nếu như Đức Như Lai là Bậc Nhất Thiết Trí, thì vì sao phải đợi chúng sinh tạo tội rồi sau mới chế giới?” Phật đáp:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như thế tức là tướng của Nhất thiết trí. Nếu ta làm ngược việc chế giới, thì người sẽ hủy báng ta. Vì sao? Vì tôi chưa tạo tội, tại sao phải cưỡng nói. Đấy chẳng phải là Nhất thiết trí. Vì sao? Vì tôi không có tội lỗi gì. Như Lai không tâm Từ bi, không tạo lợi ích, không thâu nhận chúng sinh.

Như người không có con nói là có con, vào lúc nào đó tôi sẽ sinh. Lời này là trống rỗng, đâu đáng để tin. Vì sao? Vì không chân thật. Nếu thật thấy sinh con thì mới tin. Như vậy, này Bồ-tát Văn-thùsư-lợi! Người chưa tạo tội, trời, người không thấy, thì tại sao lại nghịch chế giới. Ví như thầy thuốc giỏi biết được các bệnh phong, đàm, nhiệt… phát sinh từ đâu và cũng biết được thuốc để trị bệnh này.

Như người khỏe mạnh, không bệnh tật gì, có cần đến thầy thuốc không?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không cần trị. Nếu người ấy phát sinh bệnh, thầy thuốc liền điều trị, thế gian sẽ khen ngợi: Đấy là thầy thuốc bậc nhất.

–Như vậy, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Tất cả Thanh văn, tất cả chúng sinh, có người nên chế giới, có người không nên chế giới. Ta biết mọi nẻo hành nơi tâm của tất cả chúng sinh, nếu chưa tạo tội thì ta chưa chế giới. Nếu người đã tạo tội thì ta liền chế giới. Ta làm như vậy thì thế gian không chê bai. Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Chúng sinh có hạ, trung, thượng, Như Lai chế giới cũng lại như vậy. Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như gieo lúa, mè, đậu… khi nó mới nảy mầm liền đem dùng, có được không?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Thưa Thế Tôn! Không thể dùng được. Vì sao? Vì nó chưa thành sản phẩm.

Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Căn lành của tất cả chúng sinh chưa thuần thục cũng như vậy, không thể ép phải chế giới. Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như các hoa Câu-vật-đầu, Ưu-bát-la mới mọc, được ánh sáng mặt trời chiếu vào, có thể làm cho nở hoa được không?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Không thể được, thưa Thế Tôn. Vì sao? Vì nó mới mọc.

Phật bảo:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Khi căn lành chưa thành thục cũng lại như vậy. Như Lai cũng thế, không được chế giới. Vì sao? Vì không phải thời. Nếu không phải thời mà chế giới thì chúng sinh không thọ, lại còn nói: “Tôi không tội, cớ gì lại chế giới?”

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như gieo lúa chưa chín, có thể thu hoạch được không?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Không thể thu hoạch, thưa Thế Tôn! Không phải thời hãy còn chưa có hoa nở, huong gì là được gạo.

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Ta chưa chế giới cũng lại như vậy. Các đệ tử không có phạm, không có kết quả phạm. Vì vậy, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Ta không nghịch giới. Đức Phật liền nói kệ:

Không tội mà nghịch chế
Chúng sinh không tín thọ
Thế nên thấy có tội
Lúc đó mới chế giới.
Như cây vừa nảy mầm
Không thể kết hoa trái
Các Tỳ-kheo không tội
Cũng vậy, không chế giới.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Người tà kiến nói như vầy: “Trời Ma-hê-thủ-la tạo ra thế gian này.” Lời tà thuyết như vậy phải phá bỏ bằng cách nào?

Phật đáp:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Đấy là lời hư dối, không phải lời chân thật. Lại còn có ngoại đạo khác nói: Chẳng phải do Thủ-la tạo. Nếu do Thủ-la, thì không nên tự hủy báng. Vì sao? Vì do chính mình. Nếu do chính mình thì tất cả thế gian tôn thờ Thủ-la làm thầy, không có thầy nào khác. Nếu tất cả thế gian đều tự có thầy thì tất cả thế gian không phải do Thủ-la tạo ra. Nếu tất cả việc do Thủ-la tạo ra thì sự thờ Thủ-la không có gì đáng nghi. Vả lại, trong kinh Ma-hê-thủ-la không nói lời này. Nếu như có lời nay thì chúng sinh không nên sinh nghi. Thế nên, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Biết thế gian này không phải do Thủ-la tạo ra, đó chỉ là lời nói hư vọng, không thật. Đức Phật liền nói kệ:

Nếu các nghiệp thiện ác
Ma-hê-thủ-la tạo
Thế gian không việc chứng
Không người nói quyết đoán
Lời này không chân thật
Tuy nói nhưng không thành.

Khi ấy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Pháp thân của Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri là ở trong pháp mà có thân hay là lấy pháp làm thân? Tất cả các pháp làm sao ngang bằng với hư không?

Phật đáp:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Không ở trong pháp mà có thân. Vì sao? Vì như hư không. Giống như không ở trong hư không mà có hư không. Vì sao? Vì hư không là không xứ. Do không xứ nên gọi là hư không. Hư không không có ý vui để nắm bắt hư không. Lại nữa, hư không là không hình, không tạo ra, nên gọi là hư không.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Hư không là chẳng phải có chẳng phải không. Vì sao? Vì chẳng ở nơi có chẳng ở nơi không. Vì sao? Vì nếu ban đầu có, cho nên sau thành không. Hoặc ban đầu không về sau thành có. Hoặc ban đầu có thì sau sẽ có, hoặc sau không thì lúc đầu cũng không. Như vậy, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Tám loại ngôn ngữ là chung cho tất cả các pháp.

Phật nói tiếp:

–Này Bồ-tát Van-thù-sư-lợi! Ta không nói có sắc là thân. Vì sao? Vì tất cả chư Phật ngang bằng với hư không, vì biến khắp tất cả, vì không tư duy, vì không tâm thức, vì không xứ, vì không trong ngoài. Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như vậy mới gọi là Thế Tôn.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Gọi là Phật thì không thể lấy thân, khẩu, ý để biết, cho nên mới gọi là Phật. Vì sao? Vì hư không không lấy thân, khẩy, ý để biết hư không.

Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Nếu không có tâm ý thì xứ này là có hay là không. Nếu có thì quyết định là có, nếu không thì quyết định là không.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không có Thế Tôn, cũng không có Thiện Thệ. Vì sao? Vì không thể nắm bắt, vì ngang bằng với hư không. Nếu ngang bằng với hư không thì tại sao có sắc tướng? Nếu có sắc tướng thì là vô thường. Nếu đã là vô thường thì sao bằng với hư không?

Phật đáp:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Ví như vỗ hai tay lại thì phát ra tiếng. Tiếng đó là từ tay trái phát ra hay từ tay phải phát ra? Nếu từ tay trái phát ra, thì là tiếng thường có, nếu từ tay phải phát ra thì cũng vậy. Vì sao? Vì hai tay thường có, một tay thì không thể có tiếng, mà phải vỗ chung với nhau mới phát ra tiếng. Như vậy, Phật xuất hiện từ thế gian nhưng không vướng mắc ở thế gian, như hoa sen mọc từ nước, nhưng không bị dính nước. Như vỗ hai tay lại mới phát ra tiếng. Cũng có, cũng không, cũng hiện, không hiện, có thể nắm bắt, không thể nắm bắt, như trăng trong nước. Như Lai Chánh Biến Tri cũng lại như vậy.

 

Phẩm 17: CHÚC LỤY

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Nếu có người hoặc thọ trì pháp này, hoặc giảng nói pháp này, hoặc tụng, hoặc chép, hoặc dạy người khác chép, thì công đức có được là không thể lường tính, có thể làm phát sinh Nhất thiết chủng trí. Những thiện nam, thiện nữ như vậy nhap vào cảnh giới Phật, trụ vào cảnh giới Phật, theo Phật tu học, ý nguyện được thành tựu tròn đầy. Nếu ta đem bảy thứ báu có khắp nơi thế giới này và đủ loại y phục, hàng ngày dùng để bố thí thì công đức có được sẽ vô lượng, vô biên. Nếu thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng, biên chép kinh này thì công đức có được lấy một phần trăm chia ra làm trăm phần như vậy, lần lượt hơn trăm phần đó, lấy một phần sau, cũng còn gấp hơn vạn bội. Vì sao? Vì phát sinh Nhất thiết trí. Kinh này dù ở nơi nào cũng nên được cúng dường. Địa thanh tịnh này có khả năng trừ các ác, là nơi chốn thanh tịnh, vắng lặng, là nơi chư Thiên hành hóa, là nơi được chư Phật hộ niệm, nơi được trời người tôn quý, là trụ địa của Như Lai.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Kinh này gọi tên là gì? Và cách phụng trì ra sao?

Phật đáp:

–Này A-nan! Kinh này gọi tên là Văn-thù-sư-lợi Sở Vấn, ông nên theo đấy mà thọ trì. Cũng gọi là Chủng Chủng Lạc Thuyết. Cũng gọi là Đoạn Nhất Thiết Nghi. Cũng gọi là Bồ-tát Chư Hành Tu Đố Lộ, ông nên theo đấy mà thọ trì.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, việc gì đáng làm đã làm, việc gì nên làm đã làm xong, đã trút bỏ gánh nặng, đã cắt đứt mọi ràng buộc, đã trừ sạch tất cả phiền não, đã tẩy hết mọi thứ phiền não cấu uế, đã hàng phục các ma, đã được các pháp Phật, Nhất thiết trí, Nhất thiết kiến, thành tựu được mười Lực, bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng, đầy đủ năm nhãn, Phật nhãn không chướng ngại, thấy hết cả thế gian. Lúc đó Thế Tôn suy nghĩ như vầy: “Ta mới thành đạo, trước nên thuyết pháp cho ai? Chúng sinh nào có hạnh thiện, thanh tịnh? Người nào dễ giáo hóa, ít tham sân si? Người nào có đủ khả năng hiện chứng trí tuệ? Chúng sinh nếu không nghe pháp này thì nhất định sẽ bị thoái chuyển. Vì thế, việc trước hết ta nên giảng nói pháp, chúng sinh có thể gắng sức thọ nhận để không nghi ngờ, chê bai.” Thưa Thế Tôn! Vậy A-la-hán Chánh biến tri… có nghĩa là gì?

Phật đáp:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! A-la-hán-đa tức đã đạt được Chánh biến tri, nên gọi là A-la-hán-đa.

Lại nữa, A là nghĩa gì? Vượt qua phần vị phàm phu nên gọi là A.

La nghĩa là gì? Là từ nhiễm mà được không nhiễm. Đấy la nghĩa của La.

Ha nghĩa là gì? Nghĩa là do diệt phiền não nên được sáng suốt

Na nghĩa là gì? Nghĩa là thẳng đến đạo giác ngộ, không còn bị sinh tử trói buộc.

Đa nghĩa là gì? Là tìm cầu chân thật.

Tam-miệu Tam-phật-đà nghĩa là gì? Là tự giác, giác tha, thấy đúng khắp.

Bà nghĩa là gì? Là các pháp bình đẳng như hư không.

Ma nghĩa là gì? Là có khả năng diệt trừ kiêu mạn.

Da nghĩa là gì? Là phân biệt như pháp.

Am nghĩa là gì? Là biết được thân đời sau.

Ca nghĩa là gì? Là dứt nghiệp, chẳng phải nghiệp.

Sa nghĩa là gì? Là biết được biên vực luân chuyển của sinh tử.

Bà nghĩa là gì? Là giải thoát, thoát khỏi sự trói buộc.

Ưu nghĩa là gì? Là có khả năng đáp đúng theo câu hỏi.

Đà nghĩa là gì? Là được vắng lặng.

Tha nghĩa là gì? Là thọ trì pháp tánh không thể tướng.

Sở tác dĩ biện nghĩa là gì? Là xả bỏ tay chân nơi nhục thân, việc làm đã hoàn tất, nên gọi là đã xong việc.

Ca Ly: Nghĩa là đã xả bỏ rồi, không xả bỏ lại.

Ca: Nghĩa là thấy các pháp rõ như xem lòng bàn tay.

Ly: Nghĩa là tâm ngay thẳng, nhu hòa liên tục.

Ca: Nghĩa là đoạn các hành nghiệp.

Ly: Nghĩa là trừ tánh ba nghiệp.

Đa: Nghĩa là nhận biết đúng.

Da: Nghĩa là chấm dứt âm thanh, thành tựu như pháp.

Sở tác dĩ biện: Nghĩa là hoàn tất các căn lành, đã dứt bỏ được gánh nặng, không còn trở lại sinh tử.

Dĩ đoạn nhất thiết chư kiết: Nghĩa là cắt đứt hết tất cả sự trói buộc của tham, sân, si.

Đoạn tất cả phiền não: Nghĩa là diệt sạch các phiền não, vượt ra khỏi ba cõi.

Đã tẩy sạch các phiền não nhơ bẩn: Nghĩa là không còn tập khí của phiền não nơi nghiệp.

Đã hàng phục các ma: Nghĩa là trừ các tử ma.

Đã được các pháp Phật: Nghĩa là vượt qua tất cả Bát-nhã ba-lamật để đến tất cả Bát-nhã ba-la-mật. Đấy gọi là đã được các pháp Phật.

Nhất thiết trí: Nghĩa là không việc gì mà không biết.

Nhất thiết kiến: Nghĩa là hiện chứng tất cả các pháp.

Thành tựu mười Lực: Nghĩa là thần lực như pháp… Khen ngợi Phật lực hơn lực của tất cả chúng sinh, gấp trăm lần, ngàn lần, trăm ngàn vạn ức lần, không thể nghĩ bàn, không thể đếm. Phật thành tựu vô biên lực, từ Phật lực phát ra vô lượng lực, thành tựu tất cả các lực, cho nên gọi là thành tựu mười Lực.

Mười lực: Nghĩa là lực thị xứ phi xứ, lực nghiệp, lực định, lực căn, lực dục, lực tánh, lực chí xứ đạo, lực túc mạng, lực Thiên nhãn, lực lậu tận.

Bốn vô úy: Là Nhất thiết trí vô úy, Nhất thiết lậu tận vô úy, Năng thuyết chướng đạo vô úy, Thuyết tận khổ đạo vô úy.

Mười Lực, bốn Vô úy, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả là mười tám pháp Bất cộng.

Mười tám pháp Bất cộng thành tựu tròn đầy, nên năm nhãn cũng tròn đầy, đó là Thiên nhãn, Phật nhãn, Pháp nhãn, Tuệ nhãn và Nhục nhãn. Đức Phật có vô lượng nhãn. Vì sao? Vì cảnh giới vô lượng cho nên Phật thành tựu năm nhãn không bị chướng ngại, chỗ thấy thông suốt như hư không. Dùng nhãn này để thấy tất cả thế gian, dùng mắt không chướng ngại để thấy thế gian, dùng mắt chướng ngại cũng thấy tất cả thế gian. Thấy rồi, thì suy nghĩ như vậy.

Trước hết, ta nên nói pháp cho những người nào?

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Ta nói lời này có nghĩa gì?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Bạch Thế Tôn! Con chưa hiểu được ý của Thế Tôn.

Phật bảo:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Trong cảnh giới của Phật ở đây có vô số chúng sinh, nhưng trước nhất là giảng noi pháp cho A-la-la và Uất-đầu-lam-phất. Ngoài hai ông này ra không còn ai khác. Đáng tiếc là hai ông ấy đã qua đời cách đây bảy ngày. Ta trước hết sẽ dùng trí Phật để giảng nói về mười Địa của Bồ-tát, sau ta mới dùng trí thế gian để giảng nói pháp cho chúng sinh. Hai người này không nghe được pháp của ta nên bị thoái chuyển, thọ mạng chỉ hơn bảy ngày. Nghe lời ấy, chư Thiên đến thưa với ta: “Đúng vậy! Thưa Thế Tôn! A-la-la và Uất-đầu-lam-phất đã mất cách đây bảy ngày.”

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Sao gọi là hạnh thiện trong sạch của chúng sinh? Vì có thể hóa độ được và cũng dễ chỉ dạy.

Chúng sinh: Nghĩa là người nhiều công đức.

Thanh tịnh: Nghĩa là tâm thanh tịnh.

Hạnh thiện: Nghĩa là tự thực hành các căn lành.

Có thể hóa độ: Là chỉ nghe những lời tóm lược thì được độ.

Dễ chỉ dạy: Nghĩa là có khả năng phân biệt các pháp.

Nếu có chúng sinh khéo diệt trừ các cấu uế nơi thân, khẩu, ý, không bị ái kiến trói buộc, thì trước hết ta sẽ giảng nói pháp và làm cho họ hiểu rõ để không còn hủy báng ta nữa. Đức Phật liền nói kệ:

Uất-đầu-lam-phat
Tiên A-la-la
Mất đã bảy ngày
Ta trước đã ghi.
Sau có chư Thiên
Đến báo với ta:
Đúng vậy, Thế Tôn
Đúng vậy, Thiện Thệ
Hai người đã mất
Cách đây bảy ngày.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Không người nào có trí tuệ nhanh chóng, ngoại trừ Như Lai Thiện Thệ Thế Tôn.

Khi ấy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Tất cả công đức không bằng tâm xuất gia. Vì sao? Vì tại gia có vô lượng tội lỗi, xuất gia có vô lượng công đức.

Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

–Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Tất cả công đức không bằng tâm xuất gia. Vì sao? Vì tại gia có vô lượng lỗi lầm, xuất gia có vô lượng công đức.

Tại gia là bị chướng ngại, xuất gia không bị chướng ngại. Tại gia còn thu giữ các cấu uế, xuất gia lìa các uế tạp. Tại gia tạo các việc ác, xuất gia lìa các việc ác. Tại gia là nơi trần cấu, xuất gia là chỗ trừ các trần cấu. Tại gia là còn chìm đắm trong bùn đục, xuất gia là đã thoát khỏi bùn đục. Tại gia là theo pháp của người ngu, xuất gia là tránh xa pháp của người ngu. Tại gia là không được chánh mạng, xuất gia là được chánh mạng. Tại gia là nhiều oan gia, xuất gia là không còn oan gia. Tại gia là nhiều khổ, xuất gia là ít khổ. Tại gia là lo buồn, sầu não, xuất gia là vui vẻ. Tại gia là nấc thang bước vào đường ác, xuất gia là đường giải thoát. Tại gia là nơi trói buộc, xuất gia là nơi giải thoát. Tại gia là còn sợ hãi, xuất gia là không sợ hãi. Tại gia là có hình phạt, xuất gia không có hình phạt. Tại gia là nơi thương tổn, xuất gia là nơi không thương tổn. Tại gia có nhiệt não, xuất gia không có nhiệt não. Tại gia còn có vui tham lợi, xuất gia không còn vui tham lợi. Tại gia là chỗ ồn ào, xuất gia là nơi vắng lặng. Tại gia là chỗ keo kiệt, xuất gia chẳng còn chỗ keo kiệt. Tại gia là chỗ thấp kém, xuất gia là chỗ cao quý hơn hết. Tại gia bị phiền não thiêu đốt, xuất gia là dập tắt được lửa phiền não. Tại gia là thường vì người khác, xuất gia là thuờng vì mình. Tại gia là tâm hạnh nhỏ, xuất gia là tâm hạnh lớn. Tại gia là lấy khổ làm vui, xuất gia là lấy việc xuất ly làm vui. Tại gia phát triển gai gốc, xuất gia là diệt trừ gai gốc. Tại gia là thành tựu pháp nhỏ, xuất gia là thành tựu pháp lớn. Tại gia là không có dụng pháp, xuất gia là có dụng pháp. Tại gia là nhiều hối tiếc, xuất gia là không hối tiếc. Tại gia là càng tăng trưởng các thứ khổ đau, xuất gia không còn các thứ ấy. Tại gia là bị ba thừa chê trách, xuất gia là được ba thừa khen ngợi. Tại gia không biết đủ, xuất gia thường biết đủ. Tại gia ma vương luôn quyến luyến, xuất gia làm ma vương kinh sợ. Tại gia có nhiều buông lung, xuất gia không còn buông lung. Tại gia là chỗ bị khinh miệt, xuất gia không còn chỗ khinh miệt. Tại gia là kẻ làm nô bộc, xuất gia là kẻ làm chủ. Tại gia là bờ sinh tử, xuất gia là bờ Niết-bàn. Tại gia là chỗ đọa lạc, xuất gia là không còn đọa lạc. Tại gia là nơi đen tối, xuất gia là nơi sáng suốt. Tại gia các căn không bị câu thúc, xuất gia là thu giữ các căn. Tại gia nuôi lớn sự kiêu mạn, xuất gia là diệt trừ sự kiêu mạn. Tại gia là chỗ thấp kém, xuất gia là chỗ thanh cao. Tại gia có nhiều việc phải làm, xuất gia không còn chỗ làm. Tại gia ít quả báo, xuất gia nhiều quả báo. Tại gia là nhiều quanh co, xuất gia là tâm ngay thẳng. Tại gia thường hay buồn, xuất gia luôn vui vẻ. Tại gia như gai chích vào thân, xuất gia không bị gai chích. Tại gia là nơi bệnh tật, xuất gia là không bệnh tật. Tại gia là pháp già suy, xuất gia là pháp trai trẻ, mạnh khỏe. Tại gia là buông theo cái chết, xuất gia lấy tuệ làm thân mạng. Tại gia là pháp dối gạt, xuất gia là phap chân thật. Tại gia là tạo ra nhiều việc, xuất gia ít tạo ra các việc. Tại gia uống nhiều độc tố, xuất gia là uống chánh pháp. Tại gia nhiều tán loạn, xuất gia không tán loạn. Tại gia bị lưu chuyển, xuất gia không bị lưu chuyển. Tại gia như thuốc độc, xuất gia như cam lộ. Tại gia là thương yêu mà bị xa cách, xuất gia là không có xa cách. Tại gia nhiều ngu si, xuất gia là trí tuệ sâu xa. Tại gia ham pháp trần uế tạp, xuất gia vui pháp thanh tịnh. Tại gia mất sự suy nghĩ bên trong, xuất gia là được sự suy nghĩ bên trong. Tại gia là nơi không nương tựa, xuất gia là nơi có nương tựa. Tại gia là không tôn quý thù thắng, xuất gia là có tôn quý thù thắng. Tại gia là khong có chỗ định trụ, xuất gia là có chỗ định trụ. Tại gia không thể làm chỗ nương, xuất gia có thể làm chỗ nương. Tại gia nhiều sân giận, xuất gia nhiều từ bi. Tại gia mang gánh nặng, xuất gia bỏ gánh nặng. Tại gia không có việc rốt ráo, xuất gia có việc rốt ráo. Tại gia có tội lỗi, xuất gia không có tội lỗi. Tại gia có quá lỗi lầm, xuất gia không có lỗi lầm. Tại gia có nạn khổ, xuất gia không nạn khổ. Tại gia còn lưu chuyển trong sinh tử, xuất gia có kỳ hạn ra khỏi sinh tử. Tại gia có ô uế, xuất gia không có ô uế. Tại gia có ngã mạn, xuất gia không có còn mạn. Tại gia lấy của cải làm quý, xuất gia lấy công đức làm của báu. Tại gia nhiều tai họa bệnh dịch, xuất gia lìa tai họa bệnh dịch. Tại gia còn bị thoái lui, xuất gia thường tăng trưởng. Tại gia dễ được, xuất gia khó được. Tại gia có thể làm được, xuất gia không làm được. Tại gia là thuận dòng, xuất gia là nghịch dòng. Tại gia là biển phiền não, xuất gia như là thuyền bè. Tại gia là bờ bên này, xuất gia là bờ bên kia. Tại gia buộc càng thêm, xuất gia lìa trói buộc. Tại gia là gây ra oan gia, xuất gia là diệt oan gia. Tại gia được sự giáo giới của quốc vương, xuất gia là được sự giáo giới của pháp Phật. Tại gia có thể phạm tội, xuất gia không thể phạm tội. Tại gia là phát sinh ra khổ, xuất gia là phát sinh ra vui. Tại gia là cạn cợt, xuất gia là sâu xa. Tại gia là bạn dễ được, xuất gia là bạn khó được. Tại gia lấy vợ làm bạn, xuất gia lấy định làm bạn. Tại gia là lưới, xuất gia là phá lưới. Tại gia lấy sự thương tổn làm hơn hết, xuất gia lấy việc giữ gìn, lãnh thọ làm trên hết. Tại gia cầm cờ phướn của ma vương, xuất gia cầm cờ phướn của Phật. Tại gia là trụ bên này, xuất gia là trụ bên kia. Tại gia làm phát triển phiền não, xuất gia là thoát khỏi phiền não. Tại gia như rừng gai, xuất gia là lìa khỏi rừng gai đó.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Nếu ta chê trách tại gia, khen ngợi xuất gia, dù lời nói có đầy cả hư không cũng không hết. Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Đấy gọi là lỗi lầm của tại gia và công đức của xuất gia.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát có bao nhiêu tâm niệm?

Phật đáp:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Các Bồ-tát luôn tự nghĩ: “Lúc nào ta được xuất gia và ở trong Tăng chúng? Lúc nào ta hòa hợp tự tứ? Lúc nào ta tu hành giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Lúc nào ta mặc y phục như Đại Mâu-ni Tôn. Lúc nào ta được tướng tốt của bậc Tiên sư. Lúc nào ta được thuận tiện ở nơi vắng lặng. Lúc nào ta khất thực đối với tốt xấu, nhiều ít không sinh tăng giảm, hoặc được, hoặc không được, hoặc lạnh, hoặc nóng, hoặc thứ lớp đi khất thực, mục đích chỉ là trị bệnh đói, như mỡ bôi xe, vì muốn duy trì thọ mạng, dùng ít để tự nuôi sống. Lúc nào ta lìa được tám pháp thế gian, không bị tám pháp này làm chuyển động. Lúc nào ta lìa bỏ quốc thành để ham thích núi rừng, đối với mười hai nhập không vui không vướng mắc. Lúc nào ta phòng hộ sáu can khiến được thiền định. Lúc nào thì ta điều phục sáu căn như cai quản nô tỳ. Lúc nào thì ta ngồi thiền, siêng năng đọc tụng kinh sách và luôn vui vẻ đoạn trừ các phiền não ràng buộc, tu đầy đủ các hạnh. Lúc nào ta biet đủ. Lúc nào ta không còn ưa đến các vui thú. Lúc nào thì ta vì mình, vì người mà siêng năng tu hành tinh tấn. Lúc nào ta thực hành các đạo hạnh của Bồ-tát. Lúc nào thì ta làm chỗ tôn quý bậc nhất cho thế gian. Lúc nào ta thoát khỏi sự nô lệ của ái. Lúc nào ta thoát khỏi tại gia. Này Bồ-tát Văn-thù-sưlợi! Đấy gọi là tâm niệm của Bồ-tát. Đức Phật liền nói kệ:

Nếu ai tâm suy nghĩ Bồ-tát
Ta biết người ấy có công đức
Công đức vo lượng không cùng tận
Nhận được Pháp thân Phật thanh tịnh
Không đọa cõi ác chịu các khổ
Thành tựu đầy đủ trí tuệ Phật.

Khi ấy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Ngoài thế giới của Phật ra, các Phật ơ hiện tại, nếu có người ở đây muốn thấy Đức Phật ấy, thì bằng cách nào để thấy?

Phật đáp:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Nếu chuyên nhớ nghĩ đến mười tôn hiệu của Như Lai thì đối với người ấy, Phật luôn trụ tại đó, không diệt, người ấy cũng luôn được nghe chư Phật thuyết pháp và thấy Đức Phật kia đang ở trong bốn chúng. Như vậy càng làm tăng thêm tuổi thọ, không có các thứ bệnh tật. Thế nào là mười tôn hiệu Phật? Đó là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Nhớ nghĩ mười tôn hiệu là: Trước tiên nhớ nghĩ đến sắc thân có đầy đủ tướng tốt của Phật, lại nhớ nghĩ đến Pháp thân thọ mạng vô tận, từ đó suy nghĩ: “Phật không phải là sắc thân mà Phật là Pháp thân. Phải nắm giữ và nắm giữ một cách kiên trì, thì liền thấy Phật như hư không, do ưa thích hư không nên biết nghĩa của tất cả pháp.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như núi Tu-di, vì bị chướng ngại do các núi: núi Kiền-đà, núi Y-sa-đà, núi Tu-đà-lê, núi Kha-la-để-ca, núi A-thâu-ca-la, núi Tỳ-na-đa, núi Ny-dân-đà-la, núi Chước-ca-la. Nếu có người một lòng nhớ nghĩ về mười tôn hiệu Phật thì các núi này không thể làm chướng ngại được. Vì sao? Vì do chánh niệm, do oai thần của chư Phật.

Lại nữa, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Niệm mười tôn hiệu Phật giống như hư không, do biết như hư không nên không có lỗi lầm, do không lỗi lầm nên được Nhẫn vô sinh. Như vậy là nương vào danh tự để làm tăng trưởng chánh niệm, thấy được tướng hảo và chánh định đầy đủ của Phật. Chánh định đầy đủ rồi, liền thấy được các Đức Phật kia. Như soi gương nước thấy được bóng của mình. Thấy được các Đức Phật cũng lại như vậy. Đấy gọi là định ban đầu.

Lại nữa, như một tượng Phật hien rõ rệt trong gương, việc thấy rõ mười phương chư Phật cũng lại như vậy. Từ đó về sau, thường chánh niệm, suy nghĩ, liền có tướng khởi, do tướng khởi, cho nên thường vui thích thấy Phật. Khi nghĩ như vậy, chư Phật liền hiện ra, cũng không cần thần thông, không cần qua thế giới kia, chỉ ở tại nơi này cũng được gặp Đức Phật ấy và nghe Phật thuyết pháp, hiểu được nghĩa như thật.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Dùng pháp nào để khởi lên định quý báu này?

Phật đáp:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Cần nên gần gũi tri thức thiện, cúng dường, luôn luôn tinh tấn, không rời bỏ sự tinh tấn, không xả bỏ trí tuệ, không lay động trí tuệ, làm cho trí tuệ kiên cố, đem lợi ích cho trí tuệ, thường nhập vào sự tin sâu để cho rễ tinh tấn càng thêm vững chắc, không bị các thiên ma, Sa-môn, Bà-la-môn hủy hoại. Đó là bốn pháp có khả năng làm phát sinh định này.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Lại còn có pháp nào có thể làm phát sinh định ấy?

Phật đáp:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Biết hổ thẹn, sám hối, cung kính cúng dường, thờ kính những người nói pháp như cúng dường Phật. Bốn pháp này có khả năng làm phát sinh thiền định. Lại trong chín mươi ngày tu hành về tưởng vô ngã, ngồi thẳng, chuyên tâm nhớ nghĩ, không suy nghĩ tạp loạn, trừ những lúc ăn uống, kinh hành, đại tiểu tiện. Ngoài những trường hợp này ra đều không được ngoi dậy.

Lại có bốn pháp có khả năng làm phát khởi định ấy. Đó là: Thấy được chư Phật, khuyến khích người nghe pháp, không ganh ghét người phát tâm Bồ-đề, thực hành theo những việc làm của Bồ-tát.

Lại có bốn pháp: Một là tạo tượng. Hai là bố thí cho người có lòng tin. Ba là giáo hóa chúng sinh, khiến họ lìa sự kiêu mạn để được Bồ-đề. Bốn là bảo vệ, thu giữ, lãnh thọ chánh pháp của chư Phật.

Lại có bốn pháp: Ít nói năng, không ở tại gia; hòa hợp với người xuất gia, không vướng mắc các pháp tướng, ưa thích cảnh vắng lặng.

Lại có các pháp: Nhẫn vô sinh, nhàm chán tất cả các hành, tất cả chỗ sinh, tất cả tà kiến, tất cả năm dục cũng không suy nghĩ, tu hành vô lượng định, không nổi sân giận. Đối với bốn Nhiếp pháp thường nhớ không quên, thành tựu Từ, Bi, Hỷ, Xả, không vạch tìm lỗi người khác, thường nghe thuyết pháp, bản chất ngay thẳng, tu hành ba nghiệp thanh tịnh, vui thích khen ngợi việc tài thí, không khởi tâm bỏn sẻn, luôn ca ngợi việc pháp thí, không khởi lên pháp keo kiệt, tu hạnh nhẫn nhục, cùng ở nơi an lạc. Nếu có người khinh khi, mắng nhiếc, chê bai, đánh đập, trói buộc… thì nghĩ: “Đấy là nghiệp đời trước nên ta mới chịu quả báo này, không nên sân hận lại với họ.” Tùy theo sự ghi nhận thọ trì của mình mà đem diễn nói cho người khác, làm cho họ suy nghĩ tu hành chánh hạnh, không sinh ganh ghét, không khen mình chê người, bớt ngủ nghỉ, lìa biếng nhác, lúc nào cũng tin Phật, Pháp, Tăng, luôn cung kính bậc thượng trung hạ tọa, thấy người khác ít đức thì phải luôn ghi nhớ không quên, nói năng chân thật, không có những lời nói giả dối.

Lại nữa, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Người xuất gia có thể tu định này, người tại gia cũng có thể tu tập. Như người tại gia có thể tu định này, người xuất gia cũng có thể tu tập, cần giảng thuyết rộng rãi để cho mọi người tu hành.

Người tại gia có thể tu tập định này như thế nào? Dùng quả báo của tín nghiệp, xả bỏ tất cả tiền tài, quy y Tam bảo, thọ trì năm giới, không chê, không phá, không nhiễm, không thiếu, thọ trì mười việc thiện để làm phát sinh các việc thiện, tu hành phạm hạnh, hủy bỏ năm dục, không sinh ganh ghét, không luyến tiếc vợ con, vui thích việc xuất gia, thọ trì tám giới, luôn lui tới chỗ chúng Tăng, tâm biết hổ thẹn, thường sinh tâm cung kính đối với người xuất gia, không nên keo kiệt nơi pháp, luôn vui trong việc giáo hóa người khác, tỏ ra thương yêu, nhớ nghĩ cung kính các bậc Hòa thượng, A-xà-lê và những người thuyết pháp, tâm nhớ tưởng cha mẹ hay bậc tri thức thiện, cũng như nhớ tưởng Phật, làm sao cho cha mẹ và tri thức thiện được ở nơi an ổn. Đấy là cách tu định này của người tại gia.

Người xuất gia tu định này như thế nào? Là không phá giới, không làm nhiễm ô giới, không hủy phạm giới, thường phải tu giới thanh tịnh, giới không cấu, giới không tạp, giới không chỗ dựa, giới không chỗ thủ đắc, giới không đọa lạc, giới được bậc Thánh khen ngợi, giới người tuệ tán thán, khéo giữ gìn Ba-la-đề-mộc-xoa. Được như vậy thì thành tựu tất cả các hành xứ, thường sợ tội lỗi nhỏ, nghiệp thanh tịnh, mạng thanh tịnh, vui thích sâu xa về pháp Nhẫn vô sinh, không kinh sợ đối với khong, vô tướng, vô tác, trước mắt luôn siêng năng, tinh tấn, chánh niệm, luôn có sự tin nơi tâm, thành tựu hổ thẹn, không vướng mắc vào pháp thế gian, không mang tâm ganh ghét, thường thực hành công đức đầy đủ và nhàm chán cách nói năng theo thế gian, không thích nói năng trau chuốt. Biết ân và biết sự báo ân, biết kính sợ bậc Hòa thượng, A-xà-lê, không sinh tâm kiêu mạn. Thường vui thích với bậc thầy tối thắng và thích gần gũi bạn hiền. Nếu có bạn hiền, ta nên đến để hỏi pháp. Khi đã nghe pháp rồi thì theo lời dạy đó mà tu hành. Hoặc dựa vào kinh sách, hoặc dựa vào lời thầy dạy, luôn nhớ tưởng người nói pháp, cha mẹ, bạn hiền như nhớ tưởng Phật, thích ở nơi vắng lặng, không ham đến thế gian, tâm không bị trói buộc vào thân mạng, của cải. Nhớ đến việc chết chóc mà không dựa vào lợi dưỡng, không có sự xúc phạm, tâm không khao khát tham ái, thâu nhận chánh pháp, yêu thích bậc tôn trưởng, không cất giữ y bát, không ăn thức ăn cách đêm, luôn vui với hạnh khất thực, theo thứ lớp khất thực, luôn có tâm hổ thẹn, phải xét lại lỗi lầm của mình, không nắm giữ vàng bạc, châu báu. Đối với pháp chân thật không sinh kinh nghi, thường tu tâm Từ để đoạn trừ sân hận, luôn nuôi giữ tâm bi để đoạn trừ việc sát hại, lúc nào cũng làm nhiều lợi ích cho tất cả thế gian, phải hiện bày từ bi đối với mọi chúng sinh, luôn vui thích kinh hành, bớt ngủ nghỉ, bỏ biếng nhác. Nếu trụ được công đức như vậy thì có thể tu thiền định này.

Lại nữa, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Lúc nào cũng phải đầy đủ các điều thiện, thường nhớ nghĩ Như Lai, chuyên tâm suy nghĩ, không khởi lên đoạn tưởng, giữ gìn các căn. Đối với việc ăn uống cần phải biết đủ, đầu đêm và cuối đêm phải bớt việc ngủ nghỉ, lìa xa các phiền não. Được vậy mới có thể phát sinh thiền định. Không tham chấp vào thiền vị, phải phân biệt sắc tướng thì mới được tưởng bất tịnh. Không vướng mắc vào giới, ấm, nhập, không khen mình, không có kiêu mạn. Đối với tất cả các pháp luôn nghĩ tưởng đến Alan-nhã. Còn đối với tất cả chúng sinh thường sinh tưởng thân hữu. Không vì danh tiếng mà trì giới cấm, luôn thực hành thiền định, không nhàm chán sự học, nhờ sự học nên không sinh kiêu mạn. Đối với pháp không nên nghi ngờ, không chê bai Phật, không hủy hoại Pháp, không phá Tăng. Luôn gần gũi người thiện, phải tránh xa người không tốt. Vui thích với những lời nói xuất thế của Phật, thọ niệm sáu pháp, tu năm giải thoát, dứt khoát diệt chín thứ sân hận, cắt đứt tám biếng lười, tu tám tinh tấn, thực hành chín tưởng định, tu tám điều giác ngộ của bậc đại nhân, thành tựu các thiền giải thoát Tam-muội Tam-ma-bạt-đề. Không bị động trước mọi điều thấy. Tai luôn chú ý nghe pháp, phân biệt các ấm là không có tướng trụ. Sợ hãi sinh tử giống như người rút đao muốn hại mình. Đối với mười hai nhập, tưởng như xóm làng trống không. Đối với mười tám giới tưởng như rắn độc. Còn đối với Niết-ban thì sinh tưởng vắng lặng. Quán năm dục, tưởng như gai chích, muốn vượt ra khỏi sinh tử, không có tranh cãi, giáo hóa chúng sinh tu các công đức. Nếu người có khả năng thực hành như vậy thì đạt được thiền định sâu xa.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Nếu người tu hành định ấy, công đức có được vĩnh viễn không bị thoái chuyển.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như ba ngàn đại thiên thế giới nếu đem nghiền nát thành vi trần, thế giới nhiều ít như số bụi đó, với đầy cả bảy báu, đem ra bố thí, theo ý ông thì công đức của người bố thí có nhiều không?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Hết sức nhiều, thưa Thế Tôn!

–Nay ta nói cho ông biết! Nếu thiện nam, thiện nữ được trưc tiếp nghe định này, không có tâm sợ hãi, thì công đức có được còn nhiều hơn người bố thí kia, huống nữa là đem lòng tin mà suy nghĩ tu hành, thọ trì đọc tụng, lại còn rộng nói cho người khác, huống chi là người tu tập đạt được định này, số công đức đó ta không thể nói hết.

Thế nên, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Các thiện nam thiện nữ cần phải tu tập định này, nhớ luôn giữ gìn định này, lại còn diễn giảng rộng rãi cho người khác.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Đến thời kỳ kiếp thiêu, nếu có Bồtát đã thọ trì định này mà lại sợ lửa thiêu bức thì không có điều đó. Nếu gặp nạn vua, nạn quỷ thần ác và các thứ ác độc, thì những nạn đó không thể hại được Bồ-tát trì định. Chỉ trừ khi nghiệp ác quá nặng, quyết định phải chịu quả báo.

Lại nữa, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Nếu Đại Bồ-tát trì định này thì không có tật bệnh, sáu căn trong sạch, không có các phiền não.

Lại nữa, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Nếu người trì định ấy thì được chư Thiên, Rồng, Thần ủng hộ và được chư Thiên khen ngợi, cho đến chư Phật cũng thường ca tụng, chư Thiên luôn vui thấy, cho đến chư Phật cũng ưa thấy.

Lại nữa, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Nếu người thọ trì định ấy, những pháp chưa được nghe thì nay đều được nghe, cho đến trong giấc ngủ cũng mộng thấy định ấy.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! ta nói công đức của định ấy hoặc một kiếp hay hơn một kiếp cũng không thể hết, không có cùng tận, huống nữa là Bồ-tát đạt được định ấy.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Ví như có người thân mạnh mẽ, nhiều sức, đi qua hướng Đông, trải qua trăm ngàn năm, đi qua các phía Nam, Tây, Bắc, phương trên, phương dưới cũng lại như vậy. Ý ông nghĩ sao? Người nào có thể đếm số một do-tuần, hai do-tuần, cho đến trăm ngàn do-tuần, nơi người này đã đi qua không?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

–Bạch Thế Tôn! Ngoài Phật là bậc Nhất thiết chủng trí và đại trí Xá-lợi-phất cùng những vị Bồ-tát không thoái chuyển ra, thì không ai có thể đếm được.

Phật bảo:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Nếu có thiện nam, thiện nữ đem rất nhiều châu báu ngang với số đếm nơi người kia đã trải qua, để bố thí. Nếu lại có người nghe định này, nghe rồi tùy hỷ phát nguyện, muốn được Tam Bồ-đề, muốn được sự học rộng, đem công đức tùy hỷ này so với công đức bố thí trên, trăm phần, ngàn phần không thể so sánh được. Người này đã được chư Phật hiện tại và vị lai cùng tùy hỷ, ta cũng tùy hỷ.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thưa:

–Bạch Thế Tôn! Đúng vậy, đúng vậy! Công đức nơi quả báo của định này thật không thể nghĩ bàn.

Phật bảo:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Nếu trong một ngày Bồ-tát tu định này, so với công đức có được của chúng sinh trong quá khứ, hiện tại và vị lai thì công đức của chúng sinh không thể bằng một phần trong trăm ngàn vạn phần của định ấy. Đức Phật liền nói kệ:

Niệm mười hiệu Như Lai
Được vô biên công đức
Các công đức như thế
Không thể kể hết được.
Đem cho nhiều châu báu
Như đã nói ở trên
Nghe định tâm tùy hỷ
Công đức không thể đếm.

Khi ấy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Các thứ hoa đã cúng xong, dùng để trị các bệnh, hoặc làm cho tiêu trừ các ác độc, phương pháp ấy như thế nào? Nếu các loại hoa cúng dường Phật, hoa cúng dường Bát-nhã ba-la-mật, hoa cúng dường nơi Phật đản sinh, hoa cúng dường nơi cây Bồ-đề, hoa cúng dường nơi chuyển pháp luân, hoa cúng dường nơi pháp, hoa cúng dường Bồ-tát, hoa cúng dường chúng Tăng, hoa cúng dường tượng Phật, pháp ấy như thế nào? Làm thế nào để tất cả các hoa nhập vào trong hoa Phật? Thưa Thế Tôn! Cách dùng hoa này là một hay có nhiều thứ? Chú này có một hay nhiều chú?

Phật đáp:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Hễ mỗi mỗi hoa thì có mỗi mỗi chú, cứ một hoa tụng chú một trăm lẻ tám lần.

Tụng chú cúng dường hoa Phật: Nam-mô Phật thát tả dã sa ha.

Tụng chú cúng hoa Bát-nhã ba-la-mật: Na mạt kha lư lý bát nhã ba la mật ca đa sa.

Chú cúng hoa nơi Phật đản sinh: Na mạt ba đà chế điểm đam diêm sa ha.

Chú cúng hoa nơi cây Bồ-đề: Nam-mô bồ đề bức lực khám lam sa ha.

Chú cúng hoa nơi chuyển pháp luân: Nam-mo đạt ma chước kha la dạ sa ha.

Chú cúng hoa nơi tháp: Na mạt du bả ca sa ha.

Chú cúng hoa Bồ-tát: Nam-mô bồ đề tát đỏa dã sa ha.

Chú cúng hoa chúng Tăng: Na mạt tăng già dã sa ha.

Chú cúng hoa tượng Phật: Na mạt ba la để da sa ha.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Kinh chú như vậy ông nên thọ trì.

Đức Phật bảo:

–Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Cách dùng hoa này: Nếu Tỳkheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di tin theo mà tu hành thì nên dậy sớm, tắm rửa sạch sẽ, nhớ nghĩ đến công đức của Phật, cung kính hoa này, không nên giẫm đạp hoặc bước qua, cầm nắm phải đúng pháp và cắm nơi bình sạch. Nếu người bị lạnh nóng thì dùng hoa này vò vào nước lạnh rồi xoa lên thân. Nếu đầu, trán bị đau nhức thì cũng dùng nước đó mà xoa. Nếu bị ói mửa, xuất huyết, hoặc đầy bụng, đau nhức thì dùng hoa vò vào nuớc mà uống. Nếu miệng bị lở đau, dùng hoa vò vào nước ấm rồi uống. Nếu người quá nóng nay dùng nước lạnh và đường cát rồi vò hoa này hòa chung lại, lấy nước mà uống. Nếu quá nhiều tham lam trong người, vò hoa này vào nước tro rồi xoa ở nơi kín, lại dùng hoa vò trong nước lạnh xoa lên đỉnh đầu thì mối tham trong người lần lần tiêu sạch, luôn được mọi người kính yêu. Nếu trời mưa không ngớt thì dùng hoa này đốt ở nơi vắng vẻ, mưa liền dứt. Nếu trời làm khô hạn, cũng dùng hoa này cắm trong nước ở nơi vắng vẻ trong sạch, lại tung chú vào nước lạnh rồi rảy lên hoa thì khi ấy trời liền đổ mưa. Nếu trâu, ngựa, voi… bản tánh khó điều phục, dùng hoa này cho chúng ăn thì rất dễ điều phục. Nếu cây trái, hoa quả không tươi tốt thì dùng hoa này vò vào nước phân trâu lạnh, tưới vào gốc, khi tưới rồi không được giẫm qua thì hoa trái đậu rất nhiều. Nếu trong ruộng, cỏ mọc um tùm, lấn cả lúa mạ thì giã hoa cho vụn, rải vào ruộng lúa sẽ phát triển tươi tốt. Nếu ở những nơi cao nguyên, đại lục, không có nước thì mời bốn Tỳ-kheo đến rải hoa lên nơi ấy, trong một ngày tụng chú một trăm lẻ tám biến, cứ như vậy cho đến bảy ngày, đào giếng thì liền được nước. Nếu trong nước nhà nhiều bệnh tật xảy ra, dùng hoa vò vào nước lạnh rồi bôi lên loa, trống… thổi, đánh lên tiếng, làm cho người bệnh nghe, liền hết bệnh. Nếu địch của quốc gia hay oan gia muốn xâm nhập bờ cõi, dùng nước hoa rảy lên biên cương ấy thì giặc liền lui binh. Nếu trên núi cao có đá tảng, có rất nhiều Tỳ-kheo đến chà hoa trên tảng đá đó, chà hoa xong cùng nhau lễ bái, giây lâu trên đá liền sinh châu báu. Nếu người ngu si lấy những hoa cúng dường có đến trăm thứ, ít thì có đến bảy thứ, giã mịn, trước nên trì chú một trăm lẻ tám biến rồi hòa chung lại với sữa bò, xong làm thành viên lớn bằng viên đạn, ngày uống một viên. Khi uống cũng tụng chú một trăm lẻ tám biến thì lần lần sẽ được thông minh, căn tánh lanh lợi, trong một ngày có thể tụng thuộc một trăm bài kệ. Nếu người nào có thể lấy hoa Ưu-bát-la, hoa Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lợi, hoa Uất-bà-la… hoặc có thứ mọc dưới nước, có loại mọc trên đất, những hoa đó có đến trăm thứ, hái đem cúng dường, sau vò vào nước, tùy theo việc cần dùng, hoặc xoa, hoặc rải đều có hiệu quả. Nếu được trăm thứ hoa, đem nghiền thành bột, hòa chung với nước làm thành viên, nếu bị thương nặng, nên lấy thuốc đó xoa nhẹ lên vết thương thì liền bớt. Nếu bị ung nhọt hay bị các thứ độc khác, hoặc uống thuốc này, hoặc dùng thuốc này để xoa thì bệnh được trừ. Nếu người luôn khó thở bị đau tức, thân thể càng ngày càng gầy mòn, nên dùng nước của lá đại tiểu mạch vò chung lại với hoa này thoa lên người bệnh thì liền được thắm tươi trở lại. Lại có thể dùng nước hoa Mạt lợi hòa với bột hoa làm thành vien, thoa lên trán tất cả oan gia thấy được đều sinh yêu mến.

Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Bài chú của hoa này:

Nam-mô Phật thát tả dã ca ha (1) Na mạt kha lư lý bát nhã ba la mật đa tụ sa ha (2) Na mạt ba đà chế điểm đam diêm sa ha (3) Nammô bồ đề bức lực khám lam sa ha (4) Nam-mô đạt ma chước kha la dạ sa ha (5) Na mạt du bạc da sa ha (6) Nam-mô bồ đề tát đỏa dã sa ha (7) Na mạt tăng già dã sa ha (8) Na mạt ba la để da sa ha (9).

Mỗi mỗi chú tụng một trăm lẻ tám biến, chương cú của chú này, dù ở nơi nào ông cũng nên nói như pháp cúng hoa Phật, hay các hoa khác cũng như vậy.

Đức Phật liền nói kệ:

Bụi dưới chân người thiện
Là tối thắng đệ nhất
Ở trong các thế giới
Núi vàng không thể qua.
Bụi dưới chân Đức Phật
Cắt đứt khổ, buồn, lo
Không như núi vàng kia
Càng làm thêm sợ hãi.
Phật, Bát-nhã, đản sinh
Bồ-đề, xứ pháp luân
Tháp và các Bồ-tát
Chúng Tăng cùng tượng Phật.
Nơi đây có chín loại
Cần sửa lễ cúng dường
Là ở trong thế gian
Nên lễ bái cung kính.
Hay đoạn tất cả ác
Trừ phiền não ba cõi
Công đức tự tăng trưởng
Thọ mạng cũng tăng theo.
Sắc diện luôn tươi thắm
Thân ngay thẳng có sức
Việc làm luôn tốt đẹp
Chư Phật đều khen ngợi.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cùng với các Bồ-tát, Tôn giả Anhã Kiều-trần-như cùng với các Thanh văn, các chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân và tất cả đại chúng nghe Phật giảng dạy đều vui vẻ lãnh nhận phụng hành.