KINH TRÌ THẾ
Hán dịch: Đời Hậu Tần, Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập, người nước Quy Tư
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Phẩm 2: NĂM ẤM
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Trì Thế:
–Nếu Đại Bồ-tát nào muốn chứng đắc thật tướng của tất cả pháp, hoặc muốn phân biệt rõ chương câu của tất cả pháp, muốn được niệm lực, muốn được trí tuệ phân biệt tất cả pháp, muốn được đầy đủ chánh niệm chuyển thân không gián đoạn, cho đến đạt được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì sẽ mau chóng nhập vào pháp môn này, chứng đắc ánh sáng của trí tuệ. Vì sao? Vì ở trong pháp ấy mau đạt được đầy đủ.
Lại nữa, này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát siêng năng tu tập pháp môn như vậy, nhập vào môn phương tiện này thì có thể phân biệt rõ phương tiện của ấm, phương tiện của giới, phương tiện của nhập, phương tiện của nhân duyên sinh pháp, phương tiện của bốn Niệm xứ, phương tiện của năm Căn, phương tiện của tám Thánh đạo, phương tiện của pháp thế gian, xuất thế gian, phương tiện để phân biệt pháp hữu vi, vô vi.
Này Bồ-tát Trì Thế! Thế nào là Bồ-tát phân biệt về phương tiện của năm ấm? Đại Bồ-tát chánh quán về năm thủ ấm, nghĩa là ấm vô minh ấm là năm thủ ấm, ấm khổ là năm thủ ấm, ấm si là năm thủ ấm, ấm bệnh, ấm ung nhọt, ấm như mũi tên nhập vào thân là năm thủ ấm.
Bồ-tát phân biệt quán chọn sắc thủ ấm.
Thế nào là phân biệt quán chọn sắc thủ ấm?
Sắc thủ ấm này từ bốn đại sinh ra, giả gọi là sắc thủ ấm. Sắc ấm này không có tự tánh, chỉ do bốn đại hòa hợp giả gọi là sắc ấm. Sắc ấm không có tác giả, không người sai khiến làm, không tạo tác, không dấy khởi, không xuất, gọi là sắc ấm. Chỉ do bốn đại thâu nhận nhân duyên của nghiệp từ đời trước nên gọi là sắc ấm, nên phi ấm là sắc am, ví như hư không. Ấm thật không có tướng sinh như nói ấm hư không. Vì trong ấy không có pháp sinh, chỉ có danh tự, nên gọi là ấm hư không.
Phàm phu đối với không ấm này tưởng là ấm, do tâm điên đảo nên không thật tưởng là thật, tham đắm năm ấm của ngã, năm ấm của ngã sở, sắc ấm của ngã, sắc ấm của ngã sở. Các phàm phu này tham đắm sắc như vậy rồi, ở trong sắc nương tựa ngã và ngã sở, có sắc, thọ nhận sắc, giữ lấy sắc, chấp trước sắc, dựa vào sắc, thọ nhận và tạo tác các nghiệp ác bất thiện. Chúng ta không nên học theo phàm phu. Chúng ta nên siêng năng tu tập pháp trợ Bồ-đề. Nay nên chánh quán sắc ấm. Khi Bồ-tát chánh quán sắc ấm, biết nó đồng như đống bọt nước.
Thế nào gọi là biết đồng như đống bọt nước? Không đống là đống bọt nước, chỉ từ các duyên sinh ra, không thể nắm bắt được, không có bền chắc, trong đống bọt nước không có tướng đám tụ, không đám tụ là đám bọt nước. Sắc ấm cũng như vậy. Trong sắc ấm không có tướng ấm. Khi Bồ-tát quán sát như vậy liền nghĩ thế này: “Phàm phu không thể chánh quán sắc hư vọng, không thể biết đúng như thật về sắc vô thường, không thể biết đúng như thật về tướng sắc. Chúng ta vào chánh đạo không nên tham chấp nơi hư vọng, không nên tham đắm sắc. Vì sao? Vì sắc là tướng không thể tham đắm. Sắc chỉ có danh tự, không có tướng nhất định, nên quán sắc ấy không có tướng quyết định, vì lìa danh tự, nên gọi đó là sắc.
Lại nói sắc là tướng não hoại. Người trí thông đạt biết rõ là vô tướng. Chúng ta phải khéo biết tu tập phương tiện về sắc vô tướng, không tham đắm tướng của sắc. Nếu người tham đắm tướng của sắc tức là tham đắm sắc. Chúng ta phải khéo biết về tướng của sắc nhập. Bồ-tát khi chánh quán như vậy, quán đúng như thật lựa chọn về sắc. Sắc ấm này đều do phàm phu tưởng nhớ, phân biệt mà sinh khởi. Nếu pháp do tưởng nhớ, phân biệt mà sinh khởi, tức là không sinh, vì tất cả sự tưởng nhớ, phân biệt đều không chân thật. Phàm phu do điên đảo, nương tựa vào đó để khởi lên sắc, nên bị sắc trói buộc, bị sắc làm hại, nên phải qua lại trong khổ não, vô minh, si ám. Tham đắm sắc không xả bỏ, thấy sắc có sự bền chắc, thường còn nên phàm phu này bị sắc trói buộc, vì sắc trói buộc nên qua lại trong cõi trời, người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Tham đắm sắc vị sâu nặng, không thấy trong sắc có những tội lỗi xấu ác. Chúng ta không nên học theo phàm phu, cần phải quán chọn, phân biệt, tu tập phương tiện của sắc. Khi phân biệt, quán sát, chọn lựa sắc thì thấy tánh của sắc như mộng huyễn, ví như sắc trong mộng đều từ nhớ tưởng, phân biệt, giác quán phát sinh. Do nhân duyên của thấy, nghe, hiểu biết mà sinh khởi nên trong mộng cũng biết có mình và người, cũng thấy có đất, nước, lửa, gió, cũng thấy núi sông, rừng rú. Sắc tướng của cảnh trong mộng không có nhất định, chỉ do nhớ tưởng mà có. Tướng của sắc ấm cũng như vậy. Từ nhân duyên của nghiệp nơi đời trước hiện ra, nên không có tánh nhất định. Bồ-tát tư duy như vậy nên không giữ lấy sắc, hoặc ngã, hoặc ngã sở, chỉ chánh quán như thật sắc là tướng vô thường, hư vọng, điên đảo. Chúng sinh điên đảo, tham đắm chấp thủ sắc hoặc sắc của ngã, hoặc sắc của ngã sở, hoặc sắc của người khác, hoặc sắc của chỗ thuộc người khác. Khi chánh quán lựa chọn về sắc như vậy, chẳng thủ đắc sắc, chẳng thấy tánh của sắc, cũng chẳng tham đắm sắc vô thường. Bồ-tát bấy giờ hoặc ở trong sắc dứt trừ hết mọi ái niệm, tham đắm. Biết rõ về tướng chánh của sắc, biết rõ về tướng bình đẳng của sắc, biết rõ về tướng diệt của sắc, biết rõ về tướng diệt đạo của sắc, biết rõ sắc ấm không từ đâu đến, cũng không đi về đâu.
Bồ-tát nghĩ thế này: “Thân sắc ấm này đều từ quả báo của nghiệp theo giác quán sinh khởi, bốn đại thâu tóm thân sắc ấm này, chẳng phải mình, chẳng phải người, không thuộc nơi nào, không từ đâu sinh ra. Quán sắc ấm như vậy, đối với nội sắc không tham không thọ nhận, đối với ngoại sắc không tham không thọ nhận, đối với sắc quá khứ không tham không thọ nhận, đối với sắc vị lai không tham không thọ nhận, đối với sắc hiện tại không tham không thọ nhận, liền biết tất cả sắc ấm là tướng vô sinh.” Bồ-tát này, bấy giờ không diệt sắc, cũng không cầu diệt sắc pháp.
Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát quán sát sắc thủ ấm như vậy.
Này Bồ-tát Trì Thế! Thế nào là Đại Bồ-tát quán sát lựa chọn về thọ thủ ấm? Bồ-tát tư duy: “Khổ thọ, lạc thọ, bất khổ bất lạc thọ này đều từ nhân duyên sinh ra, theo các nhân duyên vào trong tướng thọ, trong đó không có người thọ nhận, chỉ vì tham đắm, tham đắm tức không chân thật. Hư vọng là từ nhớ tưởng, phân biệt phát sinh.” Bồ-tát này khi tư duy như vậy lại nghĩ: “Phàm phu ấy vì thọ hư vọng nên bị trói buộc, bị ba thọ làm hại, nghĩa là khổ thọ, lạc thọ, chẳng khổ chẳng lạc thọ. Phàm phu này nếu thọ lạc là bị kết ái sai khiến, do kết ái sai khiến nên có thể sinh khởi các nghiệp ác. Nếu thọ khổ là bị kết giận dữ sai khiến, do kết giận dữ sai khiến nên khởi các nghiệp ác. Nếu thọ chẳng khổ chẳng lạc, là bị kết vô minh sai khiến, người này do kết vô minh sai khiến nên không thoát được ưu bi khổ não. Chúng ta nay không nên học theo phàm phu, nên chánh quán các pháp. Chúng ta nên quán đúng như thật về các thọ.”
Bồ-tát quán như thật về thọ ấm, nghĩ thế này: “Phi ấm là thọ ấm. Từ tưởng nghĩ, phân biệt phát sinh, tương ưng với điên đảo, không có người tho. Chỉ từ nghiệp nhân nơi đời trước sinh khởi, đời này duyên vào nên tự tánh của thọ vốn không, trong thọ không có tướng thọ.”
Bồ-tát quán rõ thọ ấm giống như bong bóng nước mưa, nổi lên liền tan không có nhất định. Thọ ấm cũng như vậy, theo thứ lớp nhân duyên phát sinh, theo các nhân duyên không có lúc dừng, hư dối không thật. Từ sự tưởng nghĩ tương ưng với điên đảo mà sinh khởi, Bồ-tát bấy giờ nghĩ thế này: “Phàm phu thật đáng thương xót, bị các thọ khống chế, vì không chánh quán thọ ấm nên được lạc thọ liền sinh tham đắm, bị khổ thọ cũng sinh đắm chấp, được bất khổ bất lạc thọ cũng sinh đắm chấp. Bị các thọ trói buộc mà giong ruổi qua lại, từ thân này đến thân khác nhận chịu sự trói buộc, trôi lăn trong năm đường, không lúc nào dừng nghỉ. Phàm phu này tham đắm nơi các thọ, bị thọ khống chế, bị thọ ràng buộc nên không thoát khỏi thọ ấm. Đối với thọ ấm không thấy nơi chốn xuất ly, không biết chánh quán thọ ấm nên không biết quán như thật về thọ ấm là vô thường. Ở trong thọ ấm bị dục nhiễm trói buộc, không biết tướng như thật của thọ ấm. Chúng ta ngày nay không nên học theo phàm phu, nên quán như thật nhận biết đúng về thọ ấm, tức thì quán như thật thọ ấm: ấm không là thọ ấm, ấm không thật là thọ ấm, ấm điên đảo là thọ ấm, ấm chẳng trụ là thọ ấm. Bấy giờ thấy tướng như thật của thọ ấm không có tác giả, không có người sai khiến, tạo tác, trong thọ ấm không thấy tướng thọ ấm. Quán thọ ấm như vậy không thấy thọ ấm ở trong, không thấy thọ ấm ở ngoài, không chấp trước thọ của ta, không chấp trước thọ của người. Biết thọ ấm không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, không có pháp nào có thể sinh thọ ấm. Chỉ theo nghiệp báo từ đời trước tương ưng với điên đảo mà gọi là thọ ấm. Thấy thọ ấm do nhân duyên hư vọng tiếp nối hiện hành. Bấy giờ, không tham, không thọ nhận, không chấp trước thọ ấm quá khứ; không tham, không thọ nhận, không chấp trước thọ ấm hiện tại; không tham, không thọ nhận, không chấp trước thọ ấm vị lai. Người này ngay trong lạc thọ dứt bỏ kết ái, trong khổ thọ trừ bỏ kết giận dữ, trong chẳng khổ chẳng lạc thọ thấy biết kết vô minh, nên siêng năng tinh tấn. Bồ-tát bấy giờ tâm không sinh ái với lạc thọ. Nếu thọ khổ thọ, tam không sinh giận dữ. Nếu thọ chẳng khổ chẳng lạc thọ, tâm không sinh si.
Này Bồ-tát Trì Thế! Phàm phu phần nhiều đối với lạc thọ sinh tham ái, với khổ thọ sinh sân hận, đối với chẳng khổ chẳng lạc thọ sinh si mê. Vì ái, giận, si nên các phàm phu này càng chìm sâu vào tăm tối, không thể biết như thật về thọ ấm, cũng không biết tướng của ái, giận, si nên càng tham đắm ái, giận, si, cho đây là ta, đây là của ta, là bỉ, thử…
Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát ở trong đó chánh quán về thọ ấm, không bị ái, giận, si dẫn dắt. Nếu ái, giận, si phát sinh liền có thể dứt trừ, hành theo chánh đạo. Ở trong lạc thọ dứt trừ kết sử ái, nên siêng năng tinh tấn. Trong khổ thọ dứt trừ kết sử giận, nên siêng năng tinh tấn. Ở trong chẳng khổ chẳng lạc thọ dứt trừ kết sử si, nên siêng năng tinh tấn, biết rõ tướng như thật của ba thọ. Bấy giờ, có chỗ thọ hoặc khổ, hoặc vui, hoặc không khổ không vui, đều xa lìa, không còn đắm chấp. Xa lìa kết sử ái, xa lìa kết sử giận, xa lìa kết sử si. Khi các thọ sinh ra đều có thể thấy biết, biết như thật về thọ ấm là vô thường. Nếu có thể biết được như vậy rồi, thì ở trong thọ ấm dứt trừ dục nhiễm. Vào trong con đường dứt trừ dục nhiễm của thọ ấm, không bị các thọ ấm làm nhiễm ô. Bồ-tát này nếu chánh quán thọ ấm như vậy, là biết như thật về thọ ấm, biết thọ ấm tập, thọ ấm diệt, thọ ấm diệt đạo, sau đó mới biết như thật thọ ấm là tướng không sinh. Vì tướng thọ ấm không sinh nên thông đạt thọ ấm là vô tướng.
Này Bồ-tát Trì Thế! Thế nào là Đại Bồ-tát quán sát tưởng ấm? Đại Bồ-tát khi chánh quán về tưởng ấm, thấy tưởng ấm đều do điên đảo sinh khởi, hư dối không chắc thật. Từ xưa đến nay là không tướng sinh, chỉ do nhân duyên hòa hợp và nghiệp lực từ đời trước sinh khởi, nên nghĩ thế này: Phi ấm là tưởng ấm, ấm hư vọng là tưởng ấm, ấm điên đảo là tưởng ấm. Trong tưởng ấm không có tướng của tưởng ấm. Ví như sau mùa Xuân mặt trời chiếu sáng, do danh tự cho nên nói là chiếu sáng. Tưởng ấm cũng như vậy. Do tướng của thức nên gọi là tưởng ấm. Phàm phu ở trong đó bị tưởng hư vọng trói buộc, hoặc biết vui, hoặc biết khổ, hoặc biết không vui không khổ, biết lạnh, nóng, nam, nữ, biết năm đường sinh tử, biết hợp tan, biết quá khư, hiện tại, vị lai, biết tốt, biết xấu, biết có, biết không. Tưởng nhận biết của phàm phu đều là hư vọng, điên đảo, thuộc các nhân duyên, chỉ giả gọi là tưởng ấm, trong đó hoặc ở trong hoặc ở ngoài, hoàn toàn không co người tưởng. Phàm phu bị tưởng hư vọng trói buộc nên nhận biết về tham dục, sân giận, ngu si, biết vợ con. Phàm phu nương tựa vào tưởng ấm này mà tham chấp nơi hư vọng. Do tưởng ấm ấy nên giong ruổi qua lại, không thể quan như thật về tưởng ấm là hư vọng. Phàm phu bị tưởng mình, tưởng người, tưởng nam, tưởng nữ trói buộc vào tưởng ấm nên không thể thoát được. Tham đắm tưởng ấm cho ngã là tưởng ấm, ngã sở là tưởng ấm. Chúng ta không nên học theo phàm phu.
Đại Bồ-tát chánh quán về tưởng ấm như vậy. Trong tưởng ấm thì tướng của tưởng ấm đó không thể thủ đắc, như ánh sáng trong bóng sáng, tướng của bóng sáng là không thể thủ đắc. Bồ-tát thấy tưởng ấm như tánh của ánh sáng, không tham, không thọ nhận, không đắm tưởng ấm quá khứ, không tham, không thọ nhận, không đắm tưởng ấm hiện tại, không tham, không thọ nhận, không đắm tưởng ấm vị lai, không phân biệt mình, người, liền đi vào con đường diệt tưởng thọ ấm. Hiểu rõ tưởng ấm là vô sinh, không thấy chỗ đến, chỗ đi của tưởng ấm, chỉ vì điên đảo tương ưng với nghiệp nhân nơi đời trước mà sinh khởi cùng duyên hiện tại trói buộc. Không am là tưởng ấm, quan sát tưởng ấm không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, liền thấu rõ tưởng ấm là không sinh, cũng không phân biệt tưởng ấm diệt. Chỉ vì diệt tất cả tưởng thọ ấm, cũng vì trú nơi sự thấy biết như thật. Khi Bồ-tát quán như thật về tưởng ấm, xa lìa tất cả tưởng về tâm đạo, cũng không trụ nơi tất cả tưởng đạo, chỉ trụ nơi sự thấy biết tưởng ấm. Cũng biết đúng như thật về tưởng ấm, không tham đắm tưởng ấm, quán sát như thật tất cả tưởng ấm, biết như thật về tập diệt tận của tưởng ấm.
Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát chánh quán về tưởng ấm như vậy thì xa lìa dục nhiễm của tưởng ấm, cũng có thể hành đạo đoạn trừ dục nhiễm của tưởng ấm.
Này Bồ-tát Trì Thế! Thế nào là Đại Bồ-tát quán sát về hành ấm?
Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát quán sát hành ấm từ điên đảo sinh khởi nhớ tưởng hư vọng, phân biệt, giả hợp mà có. Bấy giờ Bồ-tát hoặc than, khẩu, ý hành đều quán bất tịnh, vô thường, khổ, không, vô ngã. Khi quán như vậy, nghĩ thế này: Phi ấm là hành ấm, ấm khổ là hành ấm, ấm do các nhân duyên sinh là hành ấm, ấm tượng là hành ấm. Các hành ấm không tăng, không giảm, không tích tập. Thân hành, khẩu hành, ý hành không có tác giả. Người trí không tham nhận hành ấm này. Vì sao? Vì các thân hành này không ở trong thân, không ở ngoài thân, không ở trung gian. Khẩu hành, y hành cũng như vậy. Không ở trong ý, không ở ngoài ý, không ở trung gian. Trong hành ấm không có tướng của hành ấm. Vì sao? Vì hành ấm này do từ các nhân duyên điên đảo sinh khởi, hư dối không thật, do nghiệp báo của đời trước thâu tóm và cũng do nhân duyên đời này trói buộc, nên có chỗ hành, chỗ hành hiện có, hoặc thân hành, khẩu hành, ý hành, đều chẳng phải là hành chân thật. Là hành không thật có, là hành hư vọng, là hành điên đảo, cho nên nói phi ấm là hành ấm. Vì sao? Vì người trí không quyết chắc được tướng của hành ấm là thân hành, khẩu hành, ý hành, chỗ này, chỗ kia, hoặc trong, hoặc ngoài. Lại nữa, hành của thân khẩu ý hãy còn khong thể quyết định được về hành tướng để có thể đạt được, có thể nêu bày, huống chi là hành ấm mà có thể đạt được, có thể nêu bày? Cho nên nói không ấm là hành ấm.
Phàm phu khởi tưởng điên đảo tham đắm nơi hành của thân khẩu ý, nhớ nghĩ, phân biệt cho là hành ấm, nên bị hành ấm trói buộc mà giong ruổi, qua lại. Phàm phu do điên đảo nên sinh khởi hành thân, khẩu, ý, sinh khởi rồi, lại quay về tham đắm. Không có pháp mà sinh tưởng có pháp, không có ấm mà sinh tưởng có ấm, vì hành điên đảo, tham đắm nên bị hành ấm trói buộc khiến qua lại trong năm đường. Thường lệ thuộc nơi hành của thân, khẩu, ý, không thể quán như thật về hành của thân, khẩu, ý, nên không thể quán như thật về hành ấm. Do nghiệp của thân, khẩu, ý sinh khởi các hành, các phàm phu này vướng mắc nơi điên đảo, vì vướng mắc nơi pháp không chân thật, vì vướng mắc nơi hư vọng nên gọi là hành ấm.
Này Bồ-tát Trì Thế! Bồ-tát ở trong đó chánh quán về các hành không có gốc rễ như vậy, yếu kém không lực, do các duyên hòa hợp nên có thể gọi là hành ấm, ở đấy không có hành ấm chân thật, nên không ấm là hành ấm. Từ xưa đến này, không sinh là hành ấm, không tánh là hành ấm. Ba đời của các hành đều không thể thủ đắc. Khi không có chỗ trụ, các hành niệm niệm luôn sinh diệt.
Này Bồ-tát Trì Thế! Bồ-tát chánh quán hành ấm như vậy là không, là không thể thủ đắc, không có tướng bền chắc, cho đến mảy may cũng không thể thủ đắc, nên nghĩ thế này: “Các phàm phu ấy bị pháp không bền chắc trói buộc, bị hành ấm trói buộc, bị tham đắm trói buộc nen phát sinh hành của thân, khẩu, ý.” Cho ngã là hành, ngã sở là hành, khởi nghiệp như vậy là bị hành ấm trói buộc, không biết tánh của hành ấm nên nhập vào chốn vô minh si ám, ở trong các hành khởi tưởng cho là chân thật. Do điên đảo nên tham đắm nhận lãnh giữ lấy hành ấm. Người này vì tham đắm nhận lãnh giữ lấy hành ấm, nên hoặc khởi hành vui, hành khổ, hay khởi hành chẳng khổ chẳng vui.
Người này khởi hành vui xong, thân được vui vẻ, khởi hành khổ xong, thân bị khổ não, khởi hành chẳng khổ chẳng vui xong, thân được không khổ không vui.
Người này thân được vui sướng thì sinh ái, thân bị khổ thì sinh giận, thân được không khổ không vui thì sinh si.
Người ấydo ái, giận và si nên không thấy được lỗi lầm của các hành, không thể hành thân, khẩu, ý thanh tịnh. Người ấy do hành thân, khẩu, ý không thanh tịnh nên bị đọa trong đường không thanh tịnh là: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, hoặc có khi được tạm sinh trong hàng trời, người, thì tham đắm nơi hành thân, khẩu, ý tức càng đắm chấp sâu nặng nơi hành ấm. Đại Bồ-tát nên chánh quán như vậy. Chúng ta nay không nên học theo phàm phu. Chúng ta nên hành thân, khẩu, ý thanh tịnh, không nên tham đắm nơi hành ấm, nên quán lỗi lầm của hành ấm, nên tìm đường ra khỏi hành ấm. Người quán sát như vậy gọi là “chánh quán như thật về hành ấm”, cũng gọi là “chánh quán về hành ấm vô thường.” Ngay khi ấy, quán như thật về các hành, các hành tập, các hành diệt, các hành diệt đạo, không thọ nhận, không tham, không vướng các hành, cũng không tham, không vướng nơi hành ấm.
Khi quán như vậy, là xa lìa tướng của hành ấm, cũng đi trên con đường không hành ấm, tức quán các hành là không, ở trong tất cả các hành sinh tâm sợ hãi, nhàm chán. Chỉ khởi hành thân, khẩu, ý thanh tịnh, trừ bỏ tướng hành, vì lìa tướng của hành ấm nên người này có chỗ đạt được của thân đều thanh tịnh. Vì sao? Vì người ấy thân nghiệp thanh tịnh, khẩu nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp thanh tịnh, thân hành thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, ý hành thanh tịnh. Người ấy xa lìa tướng của hành ấm, hủy hoại các pháp và tướng căn bản. Khi chánh quán như vậy, thấy hành ấm không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, không thủ đắc tướng sinh nhất định của các hành, cũng không thủ đắc tướng diệt nhất định của các hành, tức quán các hành không có tướng sinh diệt, hết thảy các hành cũng không sinh diệt. Người này quán sát tất cả các hành không có tướng sinh diệt nên sinh tâm nhàm chán, thông đạt đúng đắn về tướng tập diệt của các hành. Tuy chứng đắc tướng vô sinh các hành nhưng vẫn khéo thông đạt tướng của các hành. Vì sao? Này Bồ-tát Trì Thế! Vì hành ấm này không có tướng nhất định, giống như thân cây chuối không thể có tướng bền chắc. Tướng không bền chắc ấy cũng không thể thủ đắc. Hành ấm này cũng như vậy, không thể có được tướng bền chắc, tướng không bền chắc ấy cũng không thể thủ đắc.
Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát quán sát lựa chọn, tư duy nhập vào hành ấm như vậy.
Này Bồ-tát Trì Thế! Thế nào là Đại Bồ-tát chánh quán về thức ấm?
Đại Bồ-tát quán phi ấm là thức ấm, ấm điên đảo là thức ấm, ấm hư vọng là thức ấm. Vì sao? Này Bồ-tát Trì Thế! Vì thức ấm này từ điên đảo sinh ra, hư vọng làm duyên trói buộc, theo nghiệp nơi đời trước mà có, là chỗ hệ thuộc nơi duyên hiện tại, thuộc về các nhân duyên, hư vọng không có thật, từ nghĩ tưởng, phân biệt dấy khởi, theo thức sinh ra, có đối tượng nhận biết của thức nên gọi là thức. Từ nghĩ tưởng, phân biệt theo giác quán mà sinh, giả mượn mà có, có đối tượng nhận biết nên thường gọi là thức. Do biết các vật, do khởi tâm nghiệp, do tư duy, các duyên sinh ra tướng, do khởi lên vô số tư duy, nên được gọi là thức ấm.
Do có chỗ nhận thức nên có hình tượng của thức sinh xuất, vì chỉ rõ về nghiệp của tâm, thâu tóm tư duy nên gọi là thức ấm, hoặc gọi là tâm, hoặc gọi là ý, hoặc gọi là thức, đều là do ý nghiệp phân biệt nên thuộc về thức ấm, hiện ra tướng thức, hành thức, tánh thức, nên gọi là thức ấm.
Như vậy, phi ấm là thức ấm, không sinh, không khởi, không tạo tác, chỉ do điên đảo tương ưng với duyên nơi hư vọng mà biết nên gọi là thức ấm. Vì sao? Vì thức ấm này từ các duyên sinh khởi, không có tự tánh, thứ lớp tiếp nối sinh khởi, từng niệm từng niệm sinh diệt. Thức này rốt cuộc không sinh tướng ấm.
Vì sao? Vì tướng sinh của thức ấm này là không thể thủ đắc, tướng nhất định cũng không thể thủ đắc. Vì tướng sinh không thể thủ đắc, tướng nhất định không thể thủ đắc, nên nguồn gốc vốn không thật có, vì tự tướng vốn không, vì sự bền chắc không thể thủ đắc nên người trí chánh quán thấu đạt phi ấm là thức ấm.
Phàm phu đối với phi thức ấm sinh tưởng về thức ấm, do giác quán tưởng nghĩ, phân biệt điên đảo, tương ưng với hư vọng nên bị trói buộc mà tạm gọi là thức ấm. Tham chấp thức ấm này, nương tựa nơi đối tượng nhận thức, nương tựa nơi thức chủng, hiện ra tư duy nên sinh khởi thức ấm. Người này với vô số phân biệt nên tham chấp nơi nội thức, tham chấp nơi ngoại thức, tham chấp nơi nội ngoại thức, tham chấp nơi thức xa, tham chấp nơi thức gần. Do tướng thức nên phân biệt sinh khởi thức ấm. Người này hoặc tâm, hoặc ý, hoặc thức do nhớ tưởng, phân biệt giả hợp nên tạm gọi là tâm, là ý, là thức.
Biết vô số tướng của tâm sinh như vậy là phàm phu tham chấp nơi thức ấm, bị thức ấm trói buộc, do tâm ý thức hòa hợp mà sinh khởi các loại thức ấm, phân biệt việc hư vọng, vì là một tướng, vì tướng quyết định, nên có thể đạt được tâm ấy, ý ấy, thức ấy, nên có thể được phân biệt ái chấp. Người này nương tựa nơi thức ấm, cùng tham chấp nơi thức ấm sâu dày, nên cũng được thức ấm quá khứ tham chấp nghĩ là có, cũng được thức ấm vị lai tham chấp nghĩ là có, cũng được thức ấm hiện tại tham chấp nghĩ là có.
Các phàm phu ở trong các pháp thấy, nghe, hay biết, chấp trước nên có thức ấm, tham chấp tưởng nghĩ là có. Người này tham chấp pháp thấy, nghe, hay biết nên bị thức ấm trói buộc, quý mến chỗ hiểu biết của mình. Do tâm ý thức hòa hợp trói buộc khiến giong ruổi qua lại, nghĩa là từ đời này đến đời khác, từ đời khác đến đời này đều bị thức ấm trói buộc nên không thể biết như thật về thức ấm. Thức ấm là hư vọng, không thật, tương ưng với điên đảo, vì thấy, nghe, hay biết mà sinh khởi, trong đó không có thức thật. Nếu không có thể thật quán như vậy hoặc khởi lên thức thiện, hoặc khởi lên thức bất thiện, hoặc khởi lên thức thiện, bất thiện. Người này thường hành động theo thức, không biết chỗ sinh của thức, không biết tướng như thật của thức.
Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát ở trong đó chánh quán như vậy, biết thức ấm là từ thức hư vọng sinh khởi. Nghĩa là trong pháp thấy, nghe, hay biết, các nhân duyên sinh khởi, vì không có pháp sinh pháp tưởng, nên tham chấp nơi thức ấm.
Chúng ta không nên học theo phàm phu, chúng ta phải chánh quán như thật về thức, chánh quán như thật về thức ấm. Các Bồ-tát này khi quán biết như thật thức ấm vốn hư vọng, không thật, từ xưa đến nay thường là không có tướng sinh, biết phi ấm là thức ấm, hình tượng ấm là thức ấm, huyễn ấm là thức ấm. Cũng như thức của người huyễn hóa, không ở bên trong, không ở bên ngoài, cũng không ở trung gian. Tánh của thức cũng như vậy, là tánh như huyễn, duyên sinh, hư vọng, theo tưởng nghĩ, phân biệt mà sinh khởi, không thật sự có, như người máy bằng gỗ. Thức cũng như vậy, từ điên đảo sinh khởi, do nhân duyên hư vọng hòa hợp nên có. Khi quán như vậy, biết thức đều là vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã, biết tướng của thức như huyễn, quán tánh của thức như huyễn. Bấy giờ Bồ-tát nghĩ thế này: “Thế gian thật là cuồng si, nghĩa là từ nơi thức nghĩ tưởng phân biệt sinh khởi nơi thế gian, cùng tâm ý thức hòa hợp, ba cõi chỉ đều là thức. Tâm ý thức ấy cũng không có hình tướng, không có phương hướng, không ở trong pháp, không ở ngoài pháp. Phàm phu vì tương ưng với hư vọng trói buộc nên ở nơi thức ấm tham chấp cho là ngã hoặc ngã sở. Người này tham chấp thức ấm bên trong, tham chấp thức ấm bên ngoài, tham chấp thức ấm bên trong ngoài, tham chấp thức ấm nơi mình, nơi người. Người này quý trọng thức am, bị thức ấm ấy trói buộc, thọ nhận mùi vị của thức ấm, nói tướng của thức ấm, nghĩa là hoặc tâm, hoặc ý, hoặc thức hoạt động theo mùi vị ấy nên tham nhận thức ấm. Người này bị thức trói buộc, thức ấm hợp nên bị tâm ý thức dẫn dắt. Do sức nơi nhân duyên của tâm ý thức nên sinh ra phàm phu. Nếu tư duy thấp kém, chịu thân thấp kém. Nếu tư duy cao thượng, được thân cao thượng. Nếu tư duy trung bình, được thân trung bình. Người này tùy theo sức của tâm ý thức, sinh khởi nương tựa nơi các nhập, vì tham chấp thức ấm, nên không thoát khỏi sinh, lão, bệnh, tử, ưu bi khổ não.”
Bồ-tát ở trong ấy chánh quán như thật về thức ấm. Quán như thật tướng của thức ấm là vô thường, nên không tham, không đắm, không nghĩ về thức ấm quá khứ. Biết phi ấm là thức ấm, cũng không tham, không đắm, không nghĩ về thức ấm vị lai. Biết phi ấm là thức ấm, cũng không nương tựa nơi thức ấm hiện tai. Biết như thật thức ấm là tướng vô thường, biết như thật thức ấm là tướng sinh diệt. Nếu người chánh quán tư duy về thức ấm như vậy gọi là người chánh quán đi vào con đường của thức ấm. Nghĩa là biết như thật về thức, biết như thật về thức tập, biết như thật về thức diệt, biết như thật về thức diệt đạo. Người này quán như thật về tướng tập diệt của thức ấm, có thể phá bỏ thức ấm, có thể đoạn trừ tất cả tướng. Biết tướng tập diệt của thức ấm, cũng là thấu rõ tướng tập diệt của thức ấm. Bồ-tát bấy giờ cũng không sinh thức ấm, cũng không diệt thức ấm, vì thức ấm này từ xưa đến nay không sinh. Khi quán như vậy không phân biệt tướng của thức diệt, thấu rõ tướng vô sinh của thức ấm. Vì sao? Này Bồ-tát Trì Thế! Vì thức ấm này không sinh, không tướng, không thành, vì tánh của thức ấm này hư vọng nên nhập vào tướng vô sinh. Này Bồ-tát Trì Thế! Thức ấm hoàn toàn không có tướng sinh diệt, vì tướng của thức ấm này từ các duyên sinh ra.
Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát quán pháp nhân duyên như vậy, nên biết. Phi ấm là thức ấm. Quán sát, tin hiểu, chứng biết, thông đạt các thức hiện có đều biết đúng như thật. Bồ-tát biết như thật về thức ấm nên phá bỏ tất cả pháp của đối tượng duyên, đối tượng nhận biết.
Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát quán thức ấm như vậy, biết thức ấm này không sinh, không tạo, không khởi, không nhận, không chỗ nhận, chỉ do các duyên sinh, các duyên hợp nên có. Duyên với pháp thấy, nghe, hay, biết nên bị buộc vào cái có, nhưng từ xưa đến nay rốt ráo là không. Khi quán thức ấm như vậy liền biết thức ấm là tướng không tạo, không khởi, không tham, không vướng.
Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát chánh quán như vậy mà vào thức ấm. Nếu Bồ-tát có thể theo phương tiện nhập nơi năm ấm như vậy, có thể theo phương tiện chánh quán về năm ấm như vậy, đó là người thông đạt, đi vào tập diệt đạo của năm ấm, đều có thể đoạn trừ tướng của các ấm, biết chân thật về phương tiện của năm ấm. Do phương tiện này nên đối với năm thủ ấm không tham, không chấp, không buộc, không trói, biết như thật về tướng của sắc là vô thường. Bồ-tát này đối với sắc nếu có tâm dục nhiễm thì có thể đoạn trừ. Cũng biết như thật về thọ, tưởng, hành, thức, cũng biết như thật về tướng của thọ, tưởng, hành, thức là vô thường. Nếu ở trong thọ, tưởng, hành, thức có tâm dục nhiễm thì có thể đoạn trừ. Bồ-tát ở trong năm thọ ấm vì đoạn trừ dục nhiễm nên tùy thuận, thông đạt, quyet định phương tiện của năm ấm. Khi quán như vậy thì có thể biết rõ tướng sinh diệt vi tế của năm thọ ấm.
Này Bồ-tát Trì Thế! Thế nào là Đại Bồ-tát quán sát tướng sinh diệt vi tế của năm thọ ấm?
Đại Bồ-tát quán chúng sinh ban đầu khi mới vào thai là Ca-l-la, năm ấm trước diệt, liền có năm ấm sinh. Từ đây trở đi quán tướng sinh diệt của năm ấm. Tuy thức trước diệt nhưng cũng biết tướng thức của năm ấm không đoạn diệt. Tuy nương tựa nơi Ca-la-la cũng biết năm ấm là không thường, không đến. Quán như vậy là quán tướng sinh diệt trong một niệm lúc mới vào thai của năm thọ ấm. Từ Ca-la-la cho đến lúc sinh ra và sau khi lớn lên, cho đến khi chết, quán tướng sinh diệt trong từng niệm của năm thọ ấm này. Như vậy là quán sát tướng sinh diệt vi tế của năm thọ ấm.
Này Bồ-tát Trì Thế! Đây là tướng sinh diệt vi tế của năm thọ ấm. Nghĩa là năm thọ ấm trước diệt, kế tiếp là không vật đến thai. Khi thức vừa mới hợp thì năm ấm liền có sinh diệt. Do năm thọ ấm của Ca-la-la mà tạm gọi là người. Vì sao? Này Bồ-tát Trì Thế! Vì thức không có chỗ nương thì không thể trụ. Chỗ thức nương tựa là năm thọ ấm.
Này Bồ-tát Trì Thế! Lại nữa, tướng sinh diệt vi tế nơi năm thọ ấm của chư Thiên trong Vô sắc giới cũng nên biết như vậy.
Này Bồ-tát Trì Thế! Tướng sinh diệt vi tế của năm thọ ấm như vậy, trí tuệ của Bích-chi-phật còn không thể hiểu tới, huống gì là trí tuệ của Thanh văn. Chỉ có trí tuệ của chư Phật, Như Lai mới hiểu rõ năm thọ ấm. Tướng sinh diệt vi tế từ khi mới vào thai cho đến sinh nơi cõi trời Vô sắc thì các ấm sinh diệt trong từng niệm. Nghĩa là Nhất thiết trí tuệ xuất sinh trí tuệ của tất cả thế gian. Đại Bồ-tát chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh đến cảnh giới của Phật tuệ. Người này tuy quán sát tướng vi tế của năm thọ ấm như vậy từ khi mơi nhập thai cho đến sinh nơi cõi trời Vô sắc, nhưng cũng không thể biết rốt ráo như chư Phật đã biết.
Này Bồ-tát Trì Thế! Chư Phật Như Lai không theo trí tuệ khác mà tự nhiên chứng đắc phương tiện của Nhất thiết trí tuệ, chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Trí tuệ của chư Phật thông đạt khắp tất cả. Trí tuệ của chư Phật vô ngại, ở trong tất cả pháp đạt được trí tuệ quyết định, ở trong tất cả pháp đạt được sức tự tại. Vì sao? Vì ở trong vô lượng, vô biên ngàn vạn ức a-tăng-kỳ kiếp, chư Phật đã từng hành pháp thâm diệu.
Này Bồ-tát Trì Thế! Tất cả phàm phu không thể quán năm thọ ấm theo phương tiện như vậy, huống hồ là quán tướng sinh diệt vi tế của năm thọ ấm. Vì sao? Vì các phàm phu không thể biết như thật về năm thọ ấm, phàm phu không biết thủ, không biết về thọ ấm.
Này Bồ-tát Trì Thế! Sao gọi là thủ? Thủ là thủ của ngã, thủ của chúng sinh, thủ của kiến chấp, thủ của giới, thủ của năm ấm, thủ của mười tám tánh, thủ của mười hai nhân duyên, đó là thủ. Cho đến tất cả pháp hiện có hoặc ở trong, hoặc ở ngoài, đó là thủ của dục, thủ của hữu, thủ của kiến, văn giác thức, thủ của ngã, thủ của ngã sở.
Này Bồ-tát Trì Thế! Phàm phu đối với thủ hư vọng này không thấy, không biết, do nhân duyên điên đảo mà chấp thủ các pháp, nên họ bị chấp thủ trói buộc. Do vô minh làm nhân duyen chấp thủ các hành, các hành làm nhân duyên chấp thủ thức, thức làm nhân duyên chấp thủ danh sắc. Chúng sinh nhiễm chấp tướng thô của danh sắc nên hướng đến các sắc, đó là sắc thủ, sắc hợp, sắc buộc và chấp thủ bốn ấm vô sắc là thọ, tưởng, hành, thức, phân biệt là danh.
Này Bồ-tát Trì Thế! Nếu không có chư Phật thì chúng sinh chắc chắn không thể thấy, không biết, không thể chánh quán được năm thọ ấm. Chư Phật xuất hiện ở thế gian phá trừ sự nương tựa của chúng sinh về sắc, phá trừ sự nương tựa của chúng sinh về thọ, tưởng, hành, thức, phá trừ sự hòa hợp nơi một tướng, nên chư Phật Như Lai phân biệt nói như vầy: Chỗ các ông nương tựa, cho các ông quy hướng, gọi là sắc, sắc đó chỉ do bốn đại hòa hợp. Thọ, tưởng, hành, thức chỉ có danh tự vì tướng của danh sắc thành tựu nên gọi là năm thọ ấm. Chúng sinh các ông chớ có tham chấp nương tựa vào năm thọ ấm không bền chắc này!
Này Bồ-tát Trì Thế! Vì sao Như Lai nói về thọ ấm?
Này Bồ-tát Trì Thế! Người phàm phu này từ điên đảo sinh ra, nhập vào lưới vô minh, giong ruổi qua lại không biết hướng đến chỗ nào. Tham thọ tướng của năm thọ ấm nên nghĩ thế này: “Ta nương tựa vào đây sẽ được an vui.” Người này do tưởng lạc mà tham nương vào năm ấm, do tưởng khổ, tưởng chẳng khổ chẳng lạc mà tham nương vào năm ấm. Chỗ người phàm phu quay về nương tựa, đó là năm ấm.
Này Bồ-tát Trì Thế! Các phàm phu từ khi sinh ra đến nay do tối tăm nên không biết năm ấm chính là những gì, không biết năm ấm từ chỗ nào đến, vì không biết như thật về năm ấm, tham thọ năm ấm cho nen gọi là thọ ấm.
Ở trong đó ai là người thọ? Trong đó, người thọ không thể thủ đắc nhưng vì điên đảo tham chấp, hư vọng phân biệt, mà tự trói buộc nơi vô minh si ám, chấp thủ ngã, ngã sở, chấp thủ bỉ, thử, nên gọi thọ ấm là năm ấm. Không có người thủ, cũng không có tướng quyết định, cho nên người trí biết phi ấm là năm thọ ấm, ấm điên đảo là năm thọ ấm, ấm vô minh là năm thọ ấm. Phàm phu bị trói buộc ở nơi đó, tham nương vào năm thủ ấm. Do tham nương vào đó nên không biết những gì là thủ, những gì là thủ ấm. Chỉ vì tham chấp về năm ấm nên qua lại trong sinh tử. Vì tham chấp năm ấm này cho nên bị giong ruổi trong các cõi. Tham về những gì? Tham chấp về chỗ thấy, nghe, tham chấp về biết, thức, ái, vô minh. Các phàm phu này bị ái trói buộc, tham ái năm thọ ấm, bị các triền cái che lấp nên chìm vào vô minh tăm tối, không biết, không giác ngộ. Nay chúng ta tham chấp chỗ nào? Chỗ nào trói buộc? Do không biết nên qua lại trong các đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, trời, người. Vì tham chấp sinh tử, không chịu buông bỏ nên bị sinh tử trói buộc, không đoạn trừ năm ấm, cũng không thể biet tướng như thật của năm ấm. Vì không biết như thật nên bị các khổ não làm hại, đọa mãi trong ngục Hư không, không biết đường nào ra. Vì người này không thấy đường ra, nên ở trong đường sinh tử từ vô thủy chịu các sinh tử, nên không thể thoát được sinh, lão, bệnh, tử, ưu bi, khổ não, cũng không vượt qua được vô lượng đường hiểm của sinh tử, cũng không thể thoát được vô số khổ lớn, rồi trở lại hướng tới khổ, tham chấp nơi khổ, bị khổ sai khiến. Những gì là khổ? Năm thọ ấm là khổ. Khi sinh thì khổ về sinh, khi diệt thì khổ về diệt.
Này Bồ-tát Trì Thế! Ta do nhân duyên này nên nói pháp cho các đệ tử: “Này các Tỳ-kheo! Phải chánh quán về sắc ấm. Cũng phải biết như thật về tướng của sắc là vô thường. Các ông nếu đối với sắc mà có dục nhiễm thì phải mau chóng đoạn trừ. Các ông nên chánh quán về thọ, tưởng, hành, thức. Cũng nên biết như thật về tướng thọ, tưởng, hành, thức là vô thường. Nếu đối với thọ, tưởng, hành, thức mà có dục nhiễm thì phải mau chóng đoạn từ. Đoạn trừ dục nhiễm nên tâm được giải thoát chân chánh.”
Này Bồ-tát Trì Thế! Nếu người nào hiểu nghĩa pháp của ta đã thuyết giảng, có thể y theo lời thuyết giảng này mà tu hành thì sẽ thoát khỏi sinh, lão, bệnh, tử, ưu bi khổ não. Nếu người nào không thể theo như lời thuyết giảng mà tu hành thì sẽ bị sắc trói buộc, bị ái trói buộc, rơi vào vô minh tăm tối tham giữ năm ấm. Người này vì tham giữ nơi năm ấm nên không thể thoát khỏi con đường hiểm sinh tử.
Này Bồ-tát Trì Thế! Vì nghĩa này nên ta nói thế gian cùng tranh chấp với ta, chứ ta không tranh chấp với thế gian. Những gì là thế gian? Đó là tham chấp nơi năm thọ ấm, bị lệ thuộc thế gian. Người này tham về năm ấm, bị năm ấm trói buộc, không biết tánh của năm ấm, không biết tướng của năm ấm là không nên tranh chấp với ta. Người này làm trái nghịch với lời Phật dạy, tranh chấp với Phật nên rơi vào sự suy não lớn.
Nếu người nào ngay khi Phật còn tại thế hay sau khi Phật đã diệt độ, có thể quán năm thọ ấm là hư vọng, là không có thực, từ vô minh tăm tối điên đảo sinh khởi, vọng tưởng hư dối, chỉ lừa dối phàm phu, không phải năm ấm cho là năm ấm. Người như vậy không tranh luận với Phật. Người không trái lời Phật dạy sẽ được thoát khỏi mọi khổ não nơi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.
Này Bồ-tát Trì Thế! Chư Phật không tranh chấp với người đời, dứt trừ tất cả mọi sự tranh tụng, đó là Phật. Chỉ diễn nói pháp thật cho chúng sinh, nêu dạy thế này: “Những điều cac ngươi giữ lấy trước kia đều là điên đảo. Tất cả chúng sinh do sức của điên đảo nên tham chấp về năm ấm, qua lại trong thế gian. Người này tham chấp về năm ấm rồi, phát sinh vô số tà kiến, tham chấp vô số danh tự, tham chấp vô số ưu bi khổ não. Người này bị vô số tà kiến phiền não, vô số ưu bi khổ não tàn hại, không thể làm người cứu hộ, làm nhà cửa, làm chỗ nương tựa, làm chỗ quy hướng. Chỉ có Phật mới có thể làm người cứu ho. Phàm phu tâm hẹp hòi, trí tuệ kém nên tham đắm nơi dục, nương tựa nơi năm ấm nhiều lỗi lầm. Phàm phu này tranh cãi với người cứu hộ, người khiến cho tất cả quay về, người làm chỗ nương tựa, người giải thoát tất cả kho não!
Này Bồ-tát Trì Thế! Nay ta đưa cánh tay lên, người ấy có thể tìm thấy được năm ấm, thấy tướng năm ấm, tham chấp năm ấm, ta chắc chắn không làm thầy người đó, người đó cũng chẳng phải là đệ tử của ta, không theo ta xuất gia, không theo ta tu hành, không quy y ta. Người này vào đường tà, vào đường hư vọng, người chấp thủ điều chẳng thật, đó là người điên đảo không biết ý Phật, không biết Phật tùy nghi thuyết giảng năm ấm, không biết về Đệ nhất nghĩa của Phật. Người này không lãnh thọ lời Phật dạy, không xứng đáng nhận lãnh sự cúng dường mà lại nhận. Người này xuất gia ta còn không cho, huống là sẽ được nhận sự cúng dường của người. Vì sao? Vì người như vậy là bè nhóm của ngoại đạo, nghĩa là người sinh ra tướng của năm ấm, người tham chấp, quy hướng về năm ấm.
Này Bồ-tát Trì Thế! Năm trăm năm về sau trong đời vị lai, khi chánh pháp sắp diệt, những người xuat gia trong giáo pháp của ta, phần nhiều sinh tướng năm ấm này, quyết định nói về tướng của năm ấm, tham chấp sâu dày nơi năm ấm, đi vào đường tà hư dối, ở trong pháp của ta được xuất gia khoác ca-sa, thường ưa tới lui nhà bạch y, nên biết người này cùng với ngoại đạo không khác, phần nhiều cũng nhờ nơi pháp của ta nên được nhiều người cung kính cúng dường. Này Bồ-tát Trì Thế! Ta nói đó là người thấy chấp về năm ấm, chắc chắn nói tướng của năm ấm, tham vướng nơi năm ấm, không thọ nhận của người một chén nước. Vì sao? Vì những người ấy đối với pháp của ta cho đến chẳng có được một pháp Nhẫn nhu thuận. Người ấy trái ngược với pháp của ta, trái bỏ hạnh Thánh.
Này Bồ-tát Trì Thế! Cho nên Đại Bồ-tát nơi đời xấu ác sau này, nên phát đại thệ nguyện như vầy: Đối với kinh điển thâm diệu như vậy của ta phải cùng nhau hộ trì, cũng đoạn trừ kiến chấp về năm ấm của chúng sinh để thuyết pháp cho họ.
Này Bồ-tát Trì Thế! Trong kinh này ta nói về sự phá trừ tất cả tướng của ấm, lìa tham chấp nơi tướng của ấm.
Bấy giờ có nhiều người tại gia, xuất gia nghe những kinh như
vậy, phát sinh tranh cãi về thật tướng không sinh. Đại Bồ-tát ở trong đó nên phát đại thệ nguyện: “Chúng ta ở nơi đời ác sau này luôn tạo lợi ích cho các chúng sinh tà kiến, tham đắm nơi năm ấm. Nghĩa là độ thoát cho chúng sinh tham đắm vào năm ấm, tùy thuận nơi phương tiện dùng pháp làm lợi ích.”
Thế nên, này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát nếu muốn hiểu rõ về thật tướng của các pháp, cũng khéo phân biệt rõ về chương cú của các pháp, muốn đạt được niệm lực, muốn được chuyển thân thành tựu niệm không gián đoạn, cho đến đạt được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nên thường quán tướng vô thường, tướng khổ, tướng vô ngã, tướng hư vọng, tướng không bền chắc, tướng rốt ráo không, tướng từ xưa đến nay không sinh của năm thứ ấm này. Khi thường chánh quán trong năm thọ ấm, thì tất cả dục nhiễm hiện có liền có thể đoạn trừ, cũng đạt được phương tiện trong những pháp sâu xa như vậy.
Này Bồ-tát Trì Thế! Trong quá khứ vô lượng a-tăng-kỳ kiếp về trước, có Phật hiệu Đại Ý Sơn Vương gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.
Này Bồ-tát Trì Thế! Phật Đại Ý Sơn Vương này có tám mươi ức na-do-tha chúng Thanh văn đều là A-la-hán, đã dứt hết các lậu và tám mươi ức na-do-tha học địa A-na-hàm, bốn mươi ức na-do-tha các Đại Bồ-tát. Phật Đại Ý Sơn Vương này thọ tám mươi vạn tuổi.
Này Bồ-tát Trì Thế! Bấy giờ có vua tên là Đức Ích. Vua Đức Ích này có hai vạn đại thành, dân chúng đông đúc, giàu có an vui. Thành đó có bảy lớp, ngang dọc mười hai do-tuần, đều dùng bốn thứ báu để xây nên. Có bảy lớp hào, đều có lan can, có bảy lớp hàng cây bao bọc chung quanh và các màn lưới báu trùm khắp bên trên. Các cây nơi hào thành và các màn lưới bao phủ ở trên đều dùng bốn thứ báu: vàng ròng, lưu ly, xa cừ, mã não hợp lại để tạo thành. Mỗi một thành lớn có năm trăm vườn rừng, đều có vỏ cây bảy báu đầy khắp trong đó. Mỗi một vườn rừng đều có năm trăm ao báu, tràn đầy nước tám công đức.
Này Bồ-tát Trì Thế! Vua Đức Ích này có tám vạn thể nữ, đại phu nhân của vua có hai người con: người thứ nhất tên Vô Lượng Ý, người thứ hai tên Vô Lượng Lực.
Này Bồ-tát Trì Thế! Hai vương tử này đều mười sáu tuổi, trong giấc mơ thấy Phật đoan nghiêm như ngọn cờ vàng Diêm-phù-đàn không gì có thể sánh bằng, nên đều rất hoan hỷ. Sau khi thức giấc, cả hai vương tử đều nói kệ.
Người thứ nhất nói:
Con nay mộng thấy Nhị Túc Tôn
Tướng kim sắc trăm phước trang nghiêm
Thành tựu vô lượng các công đức
Thấy xong, trong tâm rất hoan hỷ.
Người thứ hai nói kệ:
Mộng thấy Phật sáng như mặt trời
Đẹp đẽ đoan nghiêm, rất tôn quý
Cũng như Tu-di vua các núi
Cao vời rực rỡ thấy hoan hỷ.
Này Bồ-tát Trì Thế! Ngay khi ấy, hai Vương tử Vô Lượng Ý và Vô Lượng Lực cùng đi đến chỗ cha mẹ thưa đầy đủ việc này: “Kính thưa cha mẹ! Hôm nay hai anh em chúng con trong giấc mơ được thấy Phật. Cúi xin cha mẹ cho phép chúng con cùng đi đến chỗ Phật, vì rất lâu xa Phật mới xuất hiện ở đời, chúng con do buông lung nên không thể biết rõ, chìm đắm trong bùn năm dục, bị sắc trói buộc, bị thọ, tưởng, hành, thức trói buộc. Chúng con tại gia do phóng dật nên không thể gặp Phật.”
Này Bồ-tát Trì Thế! Hai vương tử này thưa với cha mẹ việc như vậy xong, liền đi đến chỗ Phật Đại Ý Sơn Vương. Khi đến nơi, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, thỉnh Phật và chúng Tăng cúng dường bốn sự: y phục, thức ăn uống, ngọa cụ, thuốc men trong ba tháng. Phía bên đại thành trang nghiêm, nơi vườn rừng vua Đức Ích thường dạo chơi được trang trí treo giăng cờ phướn, lọng báu, lụa màu, dùng các thứ hoa đẹp che phủ mặt đất, thỉnh Phật và chư Tăng đến ở nơi đó, trong ba tháng, hai vương tử dùng tất cả những vật dụng tạo an vui cúng dường Phật và chúng Tăng. Cúng dường xong hai vương tử cùng xin xuất gia trong pháp Phật.
Này Bồ-tát Trì Thế! Phật Đại Ý Sơn Vương biết sở nguyện nơi thâm tâm của hai vương tử ấy nên vì họ thuyết giảng kinh năm ấm, mười hai nhập, mười tám tánh phương tiện Bồ-tát. Trong bốn vạn năm hoàn toàn không ngủ nghỉ, thường không ăn nhiều, cũng không nằm nghiêng, chỉ hoặc ngồi, hoặc kinh hành. Lại trong bốn vạn năm không nghĩ đến việc khác, chỉ nghĩ về tướng của năm thọ ấm là không, là hư vọng. Biết năm thọ ấm này từ điên đảo sinh khởi, thấu rõ tướng của năm thọ ấm này rồi thì trong suốt thời gian thọ mạng thường tu phạm hạnh, sau khi mạng chung, liền được sinh lên cõi trơi Đâu-suất. Phật diệt độ rồi, được sinh trở lại nơi nhà đại cư sĩ trong cõi Diêm-phù-đề, đến năm mười sáu tuổi lại mộng thấy Phật, được Phật thuyết giảng kinh năm ấm, mười tám tánh phương tiện Bồ-tát này. Nghe pháp ấy xong rất kinh sợ và liền giác ngộ. Lại ở trong pháp Phật, mãn một vạn năm thường tu phạm hạnh, cũng lại theo phương tiện quán sâu xa về kinh năm thọ ấm, mười hai nhập, mười tám tánh phương tiện hành hóa của Bồ-tát này, mạng chung được sinh lên cõi trời Đao-lợi, khi thọ mạng nơi cõi trời hết, sinh vào nhà thuộc tộc họ Bà-la-môn lớn ở cõi Diêm-phù-đề. Trong một ngàn năm sau thời mạt pháp của Phật Đại Ý Sơn Vương, hai người này do nhân duyên xưa nên lại được xuất gia, học vấn rộng khắp, trí tuệ như biển, cũng khéo quán sát phân biệt về tánh của năm ấm, vào pháp thông suốt như thật, ngay trong đời ấy, giáo hóa hai vạn người và hai mươi ức chư Thiên đến với đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Này Bồ-tát Trì Thế! Hai vị Bồ-tát này từ đấy trở về sau, đời đời cùng một lòng, cùng được gặp mười ức na-do-tha Phật, sau đấy đạt được pháp Nhẫn vô sinh. Được pháp nhẫn rồi, lại được gặp một ức na-do-tha Phật và sau cùng thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cùng trong một kiếp, hai vị này lần lượt thành Phật, người thứ nhất hiệu là Vô Lượng Âm, người thứ hai hiệu là Vô Lượng Quang.
Này Bồ-tát Trì Thế! Thế nên, Đại Bồ-tát nếu muốn mau chóng chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, phải ở trong pháp thanh tịnh không nhiễm này siêng năng tu tập về tánh ấm nhập ấy và thuyết giảng về thật tướng của tri kiến trong các pháp hữu vi khác.