Đ a n g t i d l i u . . .

Kinh Nhiều Trí Tuệ Tới Niết Bàn Phật Quyển 87

Kinh Nhiều Trí Tuệ Tới Niết Bàn Phật Quyển 87

Kinh Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn Phật
(Đại Bát nhã Ba La Mật đa Kinh)
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Phật Tử Bùi Đức Huề và Phật Tử Bùi Anh Tuấn dịch năm 2015

 

Kinh Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn Phật, quyển thứ tám mươi bảy.

Thứ ba phần hai mươi sáu Phẩm Học Trí tuệ phần đầu.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học với Nhiều Bố thí tới Niết Bàn. Do không có hai phần. Hay học với Nhiều Giới hạnh sạch, yên Nhịn, Tinh tiến, nghĩ Tĩnh lặng, Trí tuệ tới Niết Bàn. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Cớ là sao ? Do không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học với Rỗng bên trong. Do không có hai phần. Hay học với Rỗng bên ngoài, Rỗng bên trong ngoài, Rỗng của trống rỗng, Rỗng lớn nhất, Rỗng của nghĩa tốt, Rỗng của Có làm, Rỗng của Không có làm, Rỗng của thành quả, Rỗng của không giới hạn, Rỗng của tan rời, Rỗng của không biến đổi, Rỗng của bản tính, Rỗng của tự tướng, Rỗng của cùng hình tướng, Rỗng của tất cả Pháp, Rỗng của không thể được, Rỗng của không tính, Rỗng của Tự tính, Rỗng của tự tính không có tính. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Cớ là sao ? Do không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học với Chân Như. Do không có hai phần. Hay học với Cõi Pháp, tính Pháp, tính không ảo vọng, tính không biến đổi, tính Bình đẳng, tính rời sinh, yên định Pháp, dừng ở Pháp, thực tế, Cõi khoảng không, Cõi không nghĩ bàn. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Cớ là sao ? Do không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học với Khổ Chân lý bậc Thánh. Do không có hai phần. Hay học với Tập hợp khổ, mất khổ, Đạo mất Khổ Chân lý bậc Thánh. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Cớ là sao ? Do không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học với bốn nghĩ Tĩnh lặng. Do không có hai phần.  Hay học với bốn Vô lượng, bốn Định Không có Sắc thân. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Cớ là sao ? Do không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học với tám Giải thoát. Do không có hai phần. Hay học với tám nơi tốt, chín Định tiếp theo, mười khắp nơi. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Cớ là sao ? Do không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học với bốn dừng ở nghĩ nhớ. Do không có hai phần.  Hay học với bốn cắt đứt đúng, bốn Thần biến, năm Căn, năm Lực, bảy loại nhánh hiểu, tám nhánh Đạo Thánh. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Cớ là sao ? Do không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học với môn Giải thoát Rỗng. Do không có hai phần.  Hay học với môn Giải thoát không có hình tướng, không có nguyện. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Cớ là sao ? Do không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học với năm Mắt. Do không có hai phần. Hay học với sáu Thần thông. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Cớ là sao ? Do không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học với mười Lực của Phật. Do không có hai phần.  Hay học với bốn Không đâu sợ, bốn Hiểu không trở ngại, Từ lớn nhất, Bi lớn nhất, Vui lớn nhất, Bố thí lớn nhất, mười tám không cùng Pháp Phật. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Cớ là sao ? Do không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học với Pháp không quên mất. Do không có hai phần.  Hay học với thường dừng ở tính vứt bỏ. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Cớ là sao ? Do không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học với Tất cả Trí tuệ. Do không có hai phần.  Hay học với Trí tuệ của hình tướng Đạo, Trí tuệ của tất cả hình tướng. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Cớ là sao ? Do không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học với tất cả môn Đà La Ni. Do không có hai phần.  Hay học với tất cả môn Tam muội. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Cớ là sao ? Do không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học với Tu Đà Hoàn. Do không có hai phần. Hay học với Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Cớ là sao ? Do không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học với Hướng Tu Đà Hoàn quả Tu Đà Hoàn. Do không có hai phần. Hay học với Hướng Tư Đà Hàm quả Tư Đà Hàm, Hướng A Na Hàm quả A Na Hàm, Hướng A La Hán quả A La Hán. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Cớ là sao ? Do không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học với Duyên Giác. Do không có hai phần. Hay học với Hướng Duyên Giác quả Duyên Giác. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Cớ là sao ? Do không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học với Bồ Tát Bồ Tát lớn. Do không có hai phần.  Hay học với Chính Biến Tri. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Cớ là sao ? Do không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học với Pháp Bồ Tát Bồ Tát lớn. Do không có hai phần. Hay học với Bình Đẳng Chính Đẳng Bồ Đề. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Cớ là sao ? Do không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học với Bậc Thanh Văn. Do không có hai phần. Hay học với Bậc Duyên Giác, Bậc Bình Đẳng. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Cớ là sao ? Do không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm Sắc thân cho nên học. Không vì tăng giảm Nhận, Tưởng nhớ, Làm, Biết cho nên học. Cớ là sao ? Vì các Bóng che Sắc thân cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm nơi Mắt cho nên học. Không vì tăng giảm nơi Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý cho nên học. Cớ là sao ? Vì các nơi Mắt cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm nơi Sắc thân cho nên học. Không vì tăng giảm nơi Tiếng nói, Hương, Vị, Xúc chạm, Pháp cho nên học. Cớ là sao ? Vì các nơi Sắc thân cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm cảnh giới Mắt cho nên học. Không vì tăng giảm Cõi Sắc thân, cảnh biết của Mắt và chạm biết của Mắt, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mắt cho nên học. Cớ là sao ? Vì các cảnh giới Mắt cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm cảnh giới Tai cho nên học. Không vì tăng giảm cảnh giới Tiếng nói, cảnh biết của Tai và chạm biết của Tai, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Tai cho nên học. Cớ là sao ? Vì các cảnh giới Tai cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm cảnh giới Mũi cho nên học. Không vì tăng giảm cảnh giới Hương, cảnh biết của Mũi và chạm biết của Mũi, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mũi cho nên học. Cớ là sao ? Vì các cảnh giới Mũi cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm cảnh giới Lưỡi cho nên học. Không vì tăng giảm cảnh giới mùi Vị, cảnh biết của Lưỡi và chạm biết của Lưỡi, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Lưỡi cho nên học. Cớ là sao ? Vì các cảnh giới Lưỡi cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm cảnh giới Thân cho nên học. Không vì tăng giảm cảnh giới Xúc chạm, cảnh biết của Thân và chạm biết của Thân, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Thân cho nên học. Cớ là sao ? Vì các cảnh giới Thân cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm cảnh giới Ý cho nên học. Không vì tăng giảm Cõi Pháp, cảnh biết của Ý và chạm biết của Ý, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Ý cho nên học. Cớ là sao ? Vì các cảnh giới Ý cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm Cõi Đất cho nên học. Không vì tăng giảm Cõi Nước, Lửa, Gió, Rỗng, Biết cho nên học. Cớ là sao ? Vì các Cõi Đất cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm Khổ Chân lý bậc Thánh cho nên học. Không vì tăng giảm Tập hợp khổ, mất khổ, Đạo mất Khổ Chân lý bậc Thánh cho nên học. Cớ là sao ? Vì các Khổ Chân lý bậc Thánh cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm Ngu tối cho nên học. Không vì tăng giảm Làm, Biết, Sắc thân giả, sáu Nơi, Xúc chạm, Nhận, Yêu, Lấy, Có, Sinh, Già, Chết, Buồn than, Khổ, Lo buồn cho nên học. Cớ là sao ? Vì các Ngu tối cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm Rỗng bên trong cho nên học. Không vì tăng giảm Rỗng bên ngoài, Rỗng bên trong ngoài, Rỗng của trống rỗng, Rỗng lớn nhất, Rỗng của nghĩa tốt, Rỗng của Có làm, Rỗng của Không có làm, Rỗng của thành quả, Rỗng của không giới hạn, Rỗng của tan rời, Rỗng của không biến đổi, Rỗng của bản tính, Rỗng của tự tướng, Rỗng của cùng hình tướng, Rỗng của tất cả Pháp, Rỗng của không thể được, Rỗng của không tính, Rỗng của Tự tính, Rỗng của tự tính không có tính cho nên học. Cớ là sao ? Vì các Rỗng bên trong cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm Chân Như cho nên học. Không vì tăng giảm Cõi Pháp, tính Pháp, tính không ảo vọng, tính không biến đổi, tính Bình đẳng, tính rời sinh, yên định Pháp, dừng ở Pháp, thực tế, Cõi khoảng không, Cõi không nghĩ bàn cho nên học.   ưCớ là sao ? Vì các Chân Như cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm Nhiều Bố thí tới Niết Bàn cho nên học. Không vì tăng giảm Nhiều Giới hạnh sạch, yên Nhịn, Tinh tiến, nghĩ Tĩnh lặng, Trí tuệ tới Niết Bàn cho nên học. Cớ là sao ? Vì các Nhiều Bố thí tới Niết Bàn cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm bốn nghĩ Tĩnh lặng cho nên học. Không vì tăng giảm bốn Vô lượng, bốn Định Không có Sắc thân cho nên học. Cớ là sao ? Vì các bốn nghĩ Tĩnh lặng cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm tám Giải thoát cho nên học. Không vì tăng giảm tám nơi tốt, chín Định tiếp theo, mười khắp nơi cho nên học. Cớ là sao ? Vì các tám Giải thoát cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm bốn dừng ở nghĩ nhớ cho nên học. Không vì tăng giảm bốn cắt đứt đúng, bốn Thần biến, năm Căn, năm Lực, bảy loại nhánh hiểu, tám nhánh Đạo Thánh cho nên học. Cớ là sao ? Vì các bốn dừng ở nghĩ nhớ cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm môn Giải thoát Rỗng cho nên học. Không vì tăng giảm môn Giải thoát không có hình tướng, không có nguyện cho nên học. Cớ là sao ? Vì các môn Giải thoát Rỗng cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm năm Mắt cho nên học. Không vì tăng giảm sáu Thần thông cho nên học. Cớ là sao ? Vì các năm Mắt cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm mười Lực của Phật cho nên học. Không vì tăng giảm bốn Không đâu sợ, bốn Hiểu không trở ngại, Từ lớn nhất, Bi lớn nhất, Vui lớn nhất, Bố thí lớn nhất, mười tám không cùng Pháp Phật cho nên học. Cớ là sao ? Vì các mười Lực của Phật cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm Pháp không quên mất cho nên học. Không vì tăng giảm thường dừng ở tính vứt bỏ cho nên học. Cớ là sao ? Vì các Pháp không quên mất cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm Tất cả Trí tuệ cho nên học. Không vì tăng giảm Trí tuệ của hình tướng Đạo, Trí tuệ của tất cả hình tướng cho nên học. Cớ là sao ? Vì các Tất cả Trí tuệ cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm tất cả môn Đà La Ni cho nên học. Không vì tăng giảm tất cả môn Tam muội cho nên học. Cớ là sao ? Vì các tất cả môn Đà La Ni cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm Tu Đà Hoàn cho nên học. Không vì tăng giảm Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán cho nên học. Cớ là sao ? Vì các Tu Đà Hoàn cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm Hướng Tu Đà Hoàn quả Tu Đà Hoàn cho nên học. Không vì tăng giảm Hướng Tư Đà Hàm quả Tư Đà Hàm, Hướng A Na Hàm quả A Na Hàm, Hướng A La Hán quả A La Hán cho nên học. Cớ là sao ? Vì các Hướng Tu Đà Hoàn quả Tu Đà Hoàn cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm Duyên Giác cho nên học. Không vì tăng giảm Hướng Duyên Giác quả Duyên Giác cho nên học. Cớ là sao ? Vì các Duyên Giác cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm Bồ Tát Bồ Tát lớn cho nên học. Không vì tăng giảm Chính Biến Tri cho nên học. Cớ là sao ? Vì các Bồ Tát Bồ Tát lớn cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm Pháp Bồ Tát Bồ Tát lớn cho nên học. Không vì tăng giảm Bình Đẳng Chính Đẳng Bồ Đề cho nên học. Cớ là sao ? Vì các Pháp Bồ Tát Bồ Tát lớn cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn hay học vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn Pháp Phật Thanh tịnh. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tăng giảm Bậc Thanh Văn cho nên học. Không vì tăng giảm Bậc Duyên Giác, Bậc Bình Đẳng cho nên học. Cớ là sao ? Vì các Bậc Thanh Văn cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm Sắc thân cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm Nhận, Tưởng nhớ, Làm, Biết cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì Sắc thân hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Nhận, Tưởng nhớ, Làm, Biết hút lấy hỏng mất cho nên học. Cớ là sao ? Vì các Bóng che Sắc thân cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm nơi Mắt cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm nơi Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì nơi Mắt hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì nơi Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý hút lấy hỏng mất cho nên học. Cớ là sao ? Vì các nơi Mắt cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm nơi Sắc thân cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm nơi Tiếng nói, Hương, Vị, Xúc chạm, Pháp cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì nơi Sắc thân hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì nơi Tiếng nói, Hương, Vị, Xúc chạm, Pháp hút lấy hỏng mất cho nên học. Cớ là sao ? Vì các nơi Sắc thân cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm cảnh giới Mắt cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm Cõi Sắc thân, cảnh biết của Mắt và chạm biết của Mắt, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mắt cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì cảnh giới Mắt hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Cõi Sắc thân thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mắt hút lấy hỏng mất cho nên học. Cớ là sao ? Vì các cảnh giới Mắt cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm cảnh giới Tai cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm cảnh giới Tiếng nói, cảnh biết của Tai và chạm biết của Tai, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Tai cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì cảnh giới Tai hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì cảnh giới Tiếng nói thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Tai hút lấy hỏng mất cho nên học. Cớ là sao ? Vì các cảnh giới Tai cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm cảnh giới Mũi cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm cảnh giới Hương, cảnh biết của Mũi và chạm biết của Mũi, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mũi cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì cảnh giới Mũi hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì cảnh giới Hương thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mũi hút lấy hỏng mất cho nên học. Cớ là sao ? Vì các cảnh giới Mũi cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm cảnh giới Lưỡi cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm cảnh giới mùi Vị, cảnh biết của Lưỡi và chạm biết của Lưỡi, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Lưỡi cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì cảnh giới Lưỡi hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì cảnh giới mùi Vị thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Lưỡi hút lấy hỏng mất cho nên học. Cớ là sao ? Vì các cảnh giới Lưỡi cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm cảnh giới Thân cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm cảnh giới Xúc chạm, cảnh biết của Thân và chạm biết của Thân, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Thân cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì cảnh giới Thân hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì cảnh giới Xúc chạm thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Thân hút lấy hỏng mất cho nên học. Cớ là sao ? Vì các cảnh giới Thân cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm cảnh giới Ý cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm Cõi Pháp, cảnh biết của Ý và chạm biết của Ý, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Ý cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì cảnh giới Ý hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Cõi Pháp thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Ý hút lấy hỏng mất cho nên học. Cớ là sao ? Vì các cảnh giới Ý cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm Cõi Đất cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm Cõi Nước, Lửa, Gió, Rỗng, Biết cho nên học. Do không có hai phần.    Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì Cõi Đất hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Cõi Nước, Lửa, Gió, Rỗng, Biết hút lấy hỏng mất cho nên học. Cớ là sao ? Vì các Cõi Đất cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm Khổ Chân lý bậc Thánh cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm Tập hợp khổ, mất khổ, Đạo mất Khổ Chân lý bậc Thánh cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì Khổ Chân lý bậc Thánh hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Tập hợp khổ, mất khổ, Đạo mất Khổ Chân lý bậc Thánh hút lấy hỏng mất cho nên học. Cớ là sao ? Vì các Khổ Chân lý bậc Thánh cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm Ngu tối cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm Làm, Biết, Sắc thân giả, sáu Nơi, Xúc chạm, Nhận, Yêu, Lấy, Có, Sinh, Già, Chết, Buồn than, Khổ, Lo buồn cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì Ngu tối hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Làm thậm chí Già, Chết, Buồn than, Khổ, Lo buồn hút lấy hỏng mất cho nên học. Cớ là sao ? Vì các Ngu tối cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm Rỗng bên trong cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm Rỗng bên ngoài, Rỗng bên trong ngoài, Rỗng của trống rỗng, Rỗng lớn nhất, Rỗng của nghĩa tốt, Rỗng của Có làm, Rỗng của Không có làm, Rỗng của thành quả, Rỗng của không giới hạn, Rỗng của tan rời, Rỗng của không biến đổi, Rỗng của bản tính, Rỗng của tự tướng, Rỗng của cùng hình tướng, Rỗng của tất cả Pháp, Rỗng của không thể được, Rỗng của không tính, Rỗng của Tự tính, Rỗng của tự tính không có tính cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì Rỗng bên trong hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Rỗng bên ngoài thậm chí Rỗng của tự tính không có tính hút lấy hỏng mất cho nên học.

Cớ là sao ? Vì các Rỗng bên trong cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm Chân Như cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm Cõi Pháp, tính Pháp, tính không ảo vọng, tính không biến đổi, tính Bình đẳng, tính rời sinh, yên định Pháp, dừng ở Pháp, thực tế, Cõi khoảng không, Cõi không nghĩ bàn cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì Chân Như hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Cõi Pháp thậm chí Cõi không nghĩ bàn hút lấy hỏng mất cho nên học. Cớ là sao ? Vì các Chân Như cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm Nhiều Bố thí tới Niết Bàn cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm Nhiều Giới hạnh sạch, yên Nhịn, Tinh tiến, nghĩ Tĩnh lặng, Trí tuệ tới Niết Bàn cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì Nhiều Bố thí tới Niết Bàn hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Nhiều Giới hạnh sạch, yên Nhịn, Tinh tiến, nghĩ Tĩnh lặng, Trí tuệ tới Niết Bàn hút lấy hỏng mất cho nên học. Cớ là sao ? Vì các Nhiều Bố thí tới Niết Bàn cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm bốn nghĩ Tĩnh lặng cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm bốn Vô lượng, bốn Định Không có Sắc thân cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì bốn nghĩ Tĩnh lặng hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì bốn Vô lượng, bốn Định Không có Sắc thân hút lấy hỏng mất cho nên học.

Cớ là sao ? Vì các bốn nghĩ Tĩnh lặng cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm tám Giải thoát cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm tám nơi tốt, chín Định tiếp theo, mười khắp nơi cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tám Giải thoát hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì tám nơi tốt, chín Định tiếp theo, mười khắp nơi hút lấy hỏng mất cho nên học. Cớ là sao ? Vì các tám Giải thoát cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm bốn dừng ở nghĩ nhớ cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm bốn cắt đứt đúng, bốn Thần biến, năm Căn, năm Lực, bảy loại nhánh hiểu, tám nhánh Đạo Thánh cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì bốn dừng ở nghĩ nhớ hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì bốn cắt đứt đúng thậm chí tám nhánh Đạo Thánh hút lấy hỏng mất cho nên học. Cớ là sao ? Vì các bốn dừng ở nghĩ nhớ cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm môn Giải thoát Rỗng cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm môn Giải thoát không có hình tướng, không có nguyện cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì môn Giải thoát Rỗng hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì môn Giải thoát không có hình tướng, không có nguyện hút lấy hỏng mất cho nên học. Cớ là sao ? Vì các môn Giải thoát Rỗng cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm năm Mắt cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm sáu Thần thông cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì năm Mắt hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì sáu Thần thông hút lấy hỏng mất cho nên học. Cớ là sao ? Vì các năm Mắt cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm mười Lực của Phật cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm bốn Không đâu sợ, bốn Hiểu không trở ngại, Từ lớn nhất, Bi lớn nhất, Vui lớn nhất, Bố thí lớn nhất, mười tám không cùng Pháp Phật cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì mười Lực của Phật hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì bốn Không đâu sợ thậm chí mười tám không cùng Pháp Phật hút lấy hỏng mất cho nên học. Cớ là sao ? Vì các mười Lực của Phật cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm Pháp không quên mất cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm thường dừng ở tính vứt bỏ cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì Pháp không quên mất hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì thường dừng ở tính vứt bỏ hút lấy hỏng mất cho nên học. Cớ là sao ? Vì các Pháp không quên mất cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm Tất cả Trí tuệ cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm Trí tuệ của hình tướng Đạo, Trí tuệ của tất cả hình tướng cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì Tất cả Trí tuệ hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Trí tuệ của hình tướng Đạo, Trí tuệ của tất cả hình tướng hút lấy hỏng mất cho nên học. Cớ là sao ? Vì các Tất cả Trí tuệ cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm tất cả môn Đà La Ni cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm tất cả môn Tam muội cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì tất cả môn Đà La Ni hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì tất cả môn Tam muội hút lấy hỏng mất cho nên học. Cớ là sao ? Vì các tất cả môn Đà La Ni cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm Tu Đà Hoàn cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì Tu Đà Hoàn hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán hút lấy hỏng mất cho nên học. Cớ là sao ? Vì các Tu Đà Hoàn cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm Hướng Tu Đà Hoàn quả Tu Đà Hoàn cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm Hướng Tư Đà Hàm quả Tư Đà Hàm, Hướng A Na Hàm quả A Na Hàm, Hướng A La Hán quả A La Hán cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì Hướng Tu Đà Hoàn quả Tu Đà Hoàn hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Hướng Tư Đà Hàm quả Tư Đà Hàm, Hướng A Na Hàm quả A Na Hàm, Hướng A La Hán quả A La Hán hút lấy hỏng mất cho nên học. Cớ là sao ? Vì các Hướng Tu Đà Hoàn quả Tu Đà Hoàn cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm Duyên Giác cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm Hướng Duyên Giác quả Duyên Giác cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì Duyên Giác hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Hướng Duyên Giác quả Duyên Giác hút lấy hỏng mất cho nên học. Cớ là sao ? Vì các Duyên Giác cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm Bồ Tát Bồ Tát lớn cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm Chính Biến Tri cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì Bồ Tát Bồ Tát lớn hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Chính Biến Tri hút lấy hỏng mất cho nên học. Cớ là sao ? Vì các Bồ Tát Bồ Tát lớn cho nên không có hai phần.

Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm Pháp Bồ Tát Bồ Tát lớn cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm Bình Đẳng Chính Đẳng Bồ Đề cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì Pháp Bồ Tát Bồ Tát lớn hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Bình Đẳng Chính Đẳng Bồ Đề hút lấy hỏng mất cho nên học. Cớ là sao ? Vì các Pháp Bồ Tát Bồ Tát lớn cho nên không có hai phần.  Kiêu Thi Ca ! Nếu Bồ Tát Bồ Tát lớn không vì tăng giảm Bậc Thanh Văn cho nên học. Do không có hai phần. Không vì tăng giảm Bậc Duyên Giác, Bậc Bình Đẳng cho nên học. Do không có hai phần. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó không vì Bậc Thanh Văn hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Bậc Duyên Giác, Bậc Bình Đẳng hút lấy hỏng mất cho nên học. Cớ là sao ? Vì các Bậc Thanh Văn cho nên không có hai phần.

Thời Xá Lợi Phất hỏi Thiện Hiện nói rằng :

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì Sắc thân hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Nhận, Tưởng nhớ, Làm, Biết hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì nơi Mắt hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì nơi Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì nơi Sắc thân hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì nơi Tiếng nói, Hương, Vị, Xúc chạm, Pháp hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì cảnh giới Mắt hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Cõi Sắc thân, cảnh biết của Mắt và chạm biết của Mắt, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mắt hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì cảnh giới Tai hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì cảnh giới Tiếng nói, cảnh biết của Tai và chạm biết của Tai, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Tai hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì cảnh giới Mũi hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì cảnh giới Hương, cảnh biết của Mũi và chạm biết của Mũi, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mũi hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì cảnh giới Lưỡi hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì cảnh giới mùi Vị, cảnh biết của Lưỡi và chạm biết của Lưỡi, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Lưỡi hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì cảnh giới Thân hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì cảnh giới Xúc chạm, cảnh biết của Thân và chạm biết của Thân, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Thân hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì cảnh giới Ý hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Cõi Pháp, cảnh biết của Ý và chạm biết của Ý, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Ý hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì Cõi Đất hút lấy hỏng mất cho nên học.

Không vì Cõi Nước, Lửa, Gió, Rỗng, Biết hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì Khổ Chân lý bậc Thánh hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Tập hợp khổ, mất khổ, Đạo mất Khổ Chân lý bậc Thánh hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì Ngu tối hút lấy hỏng mất cho nên học.

Không vì Làm, Biết, Sắc thân giả, sáu Nơi, Xúc chạm, Nhận, Yêu, Lấy, Có, Sinh, Già, Chết, Buồn than, Khổ, Lo buồn hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì Rỗng bên trong hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Rỗng bên ngoài, Rỗng bên trong ngoài, Rỗng của trống rỗng, Rỗng lớn nhất, Rỗng của nghĩa tốt, Rỗng của Có làm, Rỗng của Không có làm, Rỗng của thành quả, Rỗng của không giới hạn, Rỗng của tan rời, Rỗng của không biến đổi, Rỗng của bản tính, Rỗng của tự tướng, Rỗng của cùng hình tướng, Rỗng của tất cả Pháp, Rỗng của không thể được, Rỗng của không tính, Rỗng của Tự tính, Rỗng của tự tính không có tính hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì Chân Như hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Cõi Pháp, tính Pháp, tính không ảo vọng, tính không biến đổi, tính Bình đẳng, tính rời sinh, yên định Pháp, dừng ở Pháp, thực tế, Cõi khoảng không, Cõi không nghĩ bàn hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì Nhiều Bố thí tới Niết Bàn hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Nhiều Giới hạnh sạch, yên Nhịn, Tinh tiến, nghĩ Tĩnh lặng, Trí tuệ tới Niết Bàn hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì bốn nghĩ Tĩnh lặng hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì bốn Vô lượng, bốn Định Không có Sắc thân hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì tám Giải thoát hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì tám nơi tốt, chín Định tiếp theo, mười khắp nơi hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì bốn dừng ở nghĩ nhớ hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì bốn cắt đứt đúng, bốn Thần biến, năm Căn, năm Lực, bảy loại nhánh hiểu, tám nhánh Đạo Thánh hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì môn Giải thoát Rỗng hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì môn Giải thoát không có hình tướng, không có nguyện hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì năm Mắt hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì sáu Thần thông hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì mười Lực của Phật hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì bốn Không đâu sợ, bốn Hiểu không trở ngại, Từ lớn nhất, Bi lớn nhất, Vui lớn nhất, Bố thí lớn nhất, mười tám không cùng Pháp Phật hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì Pháp không quên mất hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì thường dừng ở tính vứt bỏ hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì Tất cả Trí tuệ hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Trí tuệ của hình tướng Đạo, Trí tuệ của tất cả hình tướng hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì tất cả môn Đà La Ni hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì tất cả môn Tam muội hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì Tu Đà Hoàn hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì Hướng Tu Đà Hoàn quả Tu Đà Hoàn hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Hướng Tư Đà Hàm quả Tư Đà Hàm, Hướng A Na Hàm quả A Na Hàm, Hướng A La Hán quả A La Hán hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì Duyên Giác hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Hướng Duyên Giác quả Duyên Giác hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì Bồ Tát Bồ Tát lớn hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Chính Biến Tri hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì Pháp Bồ Tát Bồ Tát lớn hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Bình Đẳng Chính Đẳng Bồ Đề hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Thiện Hiện ! Bồ Tát Bồ Tát lớn khi học như thế. Không vì Bậc Thanh Văn hút lấy hỏng mất cho nên học. Không vì Bậc Duyên Giác, Bậc Bình Đẳng hút lấy hỏng mất cho nên học sao ?

Kinh Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn Phật, quyển thứ tám mươi bảy.

0 0 Phiếu
Xếp Hạng Bài Viết
Đăng ký
Thông báo về
guest

0 Bình Luận
Mới nhất
Cũ nhất Được bình chọn nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả ý kiến