KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN 
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Pháp Ðăng
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh

 

QUYỂN HẠ

[thienminh_vce_heading_style text=”Phẩm Thứ Mười: So Sánh Nhân Duyên Công Đức Của Sự Bố Thí” heading_style=”style7″ head_tag=”h4″ head_align=”center” extrabold=”bold” head_color=”#dd9933″]

Lúc đó Ngài Ðịa Tạng Bồ tát ma ha tát nương oai thần của đức Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, quì gối chắp tay bạch cùng đức Phật rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Con xem xét chúng sinh trong nghiệp đạo so sánh về sự bố thí có nhẹ có nặng. Có người hưởng phước trong một đời, có người hưởng phước trong mười đời, hoặc đến hưởng phước lợi lớn trong trăm đời, nghìn đời. Những sự ấy tại làm sao thế? Cúi xin đức Thế Tôn dạy cho”.

Bấy giờ Ðức Phật bảo Ngài Ðịa Tạng Bồ tát rằng: “Nay ta ở trong toàn thể chúng hội nơi cung trời Ðao Lợi này giảng về sự so sánh công đức khinh trọng của việc bố thí ở Diêm Phù Ðề. Ông phải lóng nghe, ta sẽ vì ông mà nói!”

Ngài Ðịa Tạng Bồ tát bạch cùng Ðức Phật rằng: “Chính con nghi ngờ về việc ấy. Con xin ưa muốn nghe”.

Ðức Phật bảo Ngài Ðịa Tạng Bồ tát rằng: “Trong cõi Nam Diêm Phù Ðề có các vị Quốc Vương, hàng Tể Phụ quan chức lớn, hàng đại Trưởng giả, hàng đại Sát Ðế Lợi, hàng đại Bà La Môn v.v…

Nếu gặp kẻ hết sức nghèo túng, nhẫn đến kẻ tật nguyền câm ngọng, kẻ điếc ngây mù quáng, gặp những hạng người thân thể không được vẹn toàn như thế.

Lúc các vị Quốc Vương đó v.v… muốn bố thí, nếu có thể đủ tâm từ bi lớn, lại có lòng vui vẻ tự hạ mình, tự tay mình đem của ra bố thí cho tất cả những kẻ đó, hoặc bảo người khác đem cho, lại dùng lời ôn hòa dịu dàng an ủi.

Các vị Quốc Vương, Ðại Thần đó v.v… đặng phước lợi bằng phước lợi công đức cúng dường cho một trăm hằng hà sa chư Phật vậy.

Tại làm sao? Chính bởi vị Quốc Vương đó v.v… phát tâm đại từ bi đối với kẻ rất mực nghèo cùng và với những người tàn tật kia, cho nên phước lành được hưởng quả báo như thế này, trong trăm nghìn đời thường được đầy đủ những đồ thất bảo, huống là những thứ để thọ dùng như y phục đồ uống ăn v.v…

Lại vầy nữa, này Ðịa Tạng Bồ tát! Trong đời sau, như có vị Quốc Vương cho đến hàng Bà La Môn v.v… gặp chùa tháp thờ Phật, hoặc hình tượng Phật, cho đến hình tượng Bồ tát, Thanh văn hay Bích Chi Phật, đích thân tự sửa sang, cúng dường bố thí.

Vị Quốc Vương đó, sẽ đặng trong ba kiếp làm vị trời Ðế Thích hưởng sự vui sướng tốt lạ.

Nếu có thể đem phước lành bố thí đó mà hồi hướng cho tất cả chúng sinh trong pháp giới, thời vị Quốc Vương đó, trong mười kiếp thường được làm vị trời Ðại Phạm Thiên Vương.

Lại thế này nữa, này Ðịa Tạng Bồ tát! Trong đời sau, nếu có vị Quốc Vương cho đến hàng Bà La Môn v.v… gặp chùa tháp của đức Phật thuở trước, hoặc là kinh điển hay hình tượng bị hư sụp rách rã, liền có thể phát tâm tu bổ lại.

Vị Quốc Vương đó, hoặc tự mình đích thân lo sửa sang, hoặc khuyến hóa người khác cho đến khuyến hóa trăm nghìn người khác cùng chung bố thí cúng dường để kết duyên lành.

Vị Quốc Vương đó, trong trăm nghìn đời thường làm Vua Chuyển Luân, còn những người khác chung cùng làm việc bố thí đó, trong trăm nghìn đời thường làm vua nước nhỏ.

Nếu lại ở trước chùa tháp có thể phát tâm đem công đức cúng dường bố thí đó mà hồi hướng về đạo vô thượng chánh giác, được như vậy thời vị Quốc Vương đó cho đến tất cả mọi người đều sẽ thành Phật cả, bởi quả báo ấy rộng lớn vô lượng vô biên.

Lại vầy nữa, này Ðịa Tạng Bồ tát! Trong đời sau, như có vị Quốc Vương hay hàng Bà La Môn, gặp những người già yếu tật bịnh và kẻ phụ nữ sanh đẻ, nếu trong khoảng chừng một niệm sanh lòng từ lớn đem thuốc men, cơm nước, giường chiếu bố thí, làm cho những kẻ ấy được an vui.

Phước đức đó rất không thể nghĩ bàn đến được, trong một trăm kiếp thường làm Vua Trời Tịnh Cư, trong hai trăm kiếp thường làm Vua sáu từng trời cõi Dục, không bao giờ còn đọa vào ác đạo, cho đến trong trăm nghìn đời, lỗ tai không hề nghe đến tiếng khổ, rốt ráo sẽ thành Phật đạo.

Lại vầy nữa, này Ðịa Tạng Bồ tát! trong đời sau như có vị Quốc Vương và Bà La Môn, có thể làm những việc bố thí như thế sẽ đặng vô lượng phước lành.

Nếu lại có thể đem phước đức đó hồi hướng đạo Bồ Ðề, thời không luận là nhiều hay ít, rốt ráo sẽ thành Phật cả, huống gì cả những quả trời Phạm Vương, trời Ðế Thích, Vua Chuyển Luân.

Này Ðịa Tạng Bồ tát, vì thế nên khuyến hóa tất cả chúng sinh đều phải học theo như thế.

Lại vầy nữa, này Ðịa Tạng Bồ tát! Trong đời sau, như có thiện nam kẻ thiện nữ nào ở trong Phật pháp mà gieo trồng chút ít cội phước lành chừng bằng cái lông, sợi tóc, hột cát, mảy bụi, phước lợi của những người đó sẽ hưởng thọ không thể ví dụ thế nào cho được.

Lại vầy nữa, này Ðịa Tạng Bồ tát! Trong đời sau, như có kẻ thiện nam cùng người thiện nữ nào gặp hình tượng Phật, hình tượng Bồ tát, hình tượng Bích Chi Phật, hình tượng Vua Chuyển Luân mà bố thí cúng dường, thời đặng vô lượng phước lành, thường sanh ở cõi người, cõi trời hưởng sự vui thù thắng vi diệu.

Như có thể đem công đức hồi hướng cho cả pháp giới chúng sinh thời phước lợi của người ấy không thể ví dụ thế nào cho được.

Lại vầy nữa, này Ðịa Tạng Bồ tát! Trong đời sau, như có kẻ thiện nam người thiện nữ nào gặp kinh điển Đại thừa hoặc nghe thấy một bài kệ, một câu kinh, rồi phát tâm ân cần trân trọng cung kính ngợi khen, bố thí cúng dường, người ấy được quả báo lớn vô lượng vô biên.

Nếu có thể đem phước đức hồi hướng cho khắp pháp giới cho chúng sinh thời phước lợi này không thể ví dụ thế nào cho được.

Lại vầy nữa, này Ðịa Tạng Bồ tát! Trong đời sau, như có kẻ thiện nam người thiện nữ nào gặp chùa tháp và kinh điển Đại thừa, nếu là kinh tháp mới thời bố thí cúng dường, chiêm ngưỡng lễ lạy ngợi khen chắp tay cung kính.

Nếu gặp kinh tháp cũ, hoặc hư rách thời sửa sang tu bổ, hoặc riêng mình phát tâm làm, hoặc khuyến người khác cùng đồng phát tâm.

Những người đồng phát tâm đây, trong ba mươi đời thường làm vua các nước nhỏ. Còn vị đàn việt chánh đó thường làm Vua Chuyển Luân, lại dùng pháp lành mà giáo hóa vua các nước nhỏ.

Lại vầy nữa, Ðịa Tạng Bồ tát! Trong đời sau, như có người thiện nam kẻ thiện nữ nào ở nơi cội phước lành đã gieo trồng trong Phật pháp, hoặc là bố thí cúng dường, hoặc là tu bổ chùa tháp, hoặc sửa sang kinh điển, cho đến chừng bằng một sợi lông, một mảy bụi, một hột cát, một giọt nước.

Những sự lành như thế không luận nhiều ít, chỉ có thể đem hồi hướng cho khắp pháp giới chúng sinh, thời công đức của người đó trong nghìn đời thường hưởng thọ sự vui thượng diệu.

Còn như chỉ hồi hướng cho thân quyến trong nhà hoặc tự mình được lợi ích thôi, như thế thời sẽ hưởng quả vui trong ba đời, cứ làm một phần sự lành, thời được hưởng báo tốt một muôn lần trội hơn.

Này Ðịa Tạng Bồ tát! Những nhơn duyên công đức về sự bố thí như thế đó.

 

[thienminh_vce_heading_style text=”Phẩm Thứ Mười Một: Địa Thần Hộ Pháp” heading_style=”style7″ head_tag=”h4″ head_align=”center” extrabold=”bold” head_color=”#dd9933″]

Lúc đó vị Kiên Lao Ðịa Thần bạch cùng Ðức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Từ trước đến nay, con từng chiêm ngưỡng đảnh lễ vô lượng vị đại Bồ tát, đều là những bực trí huệ thần thông lớn không thể nghĩ bàn độ khắp mọi loài chúng sinh.

Ngài Ðịa Tạng Bồ tát đây so với các vị Bồ tát chỗ thệ nguyện rất là sâu rộng.

Bạch đức Thế Tôn! Ngài Ðịa Tạng Bồ tát đây có nhơn duyên lớn với chúng sinh trong Diêm Phù Ðề.

Như Ngài Văn Thù, Ngài Phổ Hiền, Ngài Quan Âm, Ngài Di Lặc cũng hóa hiện trăm nghìn thân hình để độ chúng sinh trong sáu đường, nhưng chỗ phát nguyện của các Ngài còn có lúc hoàn mãn.

Ngài Ðịa Tạng Bồ tát đây phát thệ nguyện giáo hóa tất cả chúng sinh trong sáu đường trải đến kiếp số như số cát trong trăm nghìn ức sông Hằng.

Bạch đức Thế Tôn! Con xem xét chúng sinh ở hiện tại nay và về vị lai sau, nơi chỗ sạch sẽ ở phương nam trong cuộc đất của mình ở, dùng đất đá tre gỗ mà dựng cất cái khám cái thất.

Trong đó có thể họa vẽ, cho đến dùng vàng, bạc, đồng, sắt đúc nắn hình tượng Ðịa Tạng Bồ tát, đốt hương cúng dường, chiêm lễ ngợi khen, thời chỗ người đó ở được mười điều lợi ích.

Những gì là mười điều?
Một là đất cát tốt mầu,
Hai là nhà cửa an ổn mãi mãi,
Ba là người đã chết được sanh lên cõi trời,
Bốn là những người hiện còn hưởng sự lợi ích,
Năm là cầu chi cũng toại ý cả,
Sáu là không có tai họa về nước và lửa,
Bảy là trừ sạch việc hư hao,
Tám là dứt hẳn ác mộng,
Chín là khi ra lúc vào có thần theo hộ vệ,
Mười là thường gặp bực Thánh Nhơn.

Bạch đức Thế Tôn! Chúng sinh trong đời sau cùng hiện tại nay, nếu ở nơi phần đất của mình cư trụ mà có thể làm ra sự cúng dường Ngài Ðịa Tạng như thế, thời được sự lợi ích như vậy”.

Vị Kiên Lao Ðịa Thần lại bạch với đức Phật rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Trong đời sau này, như có người thiện nam kẻ thiện nữ nào ở trong chỗ của mình cư trụ mà có kinh điển này cùng hình tượng của đức Ðịa Tạng Bồ tát, người đó lại có thể đọc tụng kinh điển này và cúng dường hình tượng của Bồ tát.

Thời con dùng thần lực của con thường hộ vệ người đó, cho đến tất cả sự tai họa như nước, lửa, trộm, cướp, nạn lớn, nạn nhỏ, v.v… thảy đều tiêu sạch”.

Ðức Phật bảo Kiên Lao Ðịa Thần rằng: “Thần lực rộng lớn của ông, các thần khác ít ai bằng.

Vì cớ sao? Vì đất đai trong cõi Diêm Phù Ðề đều nhờ ông hộ trợ, cho đến cỏ cây, cát đá, lúa mè, tre lau, gạo thóc, của báu, tất cả những thứ từ đất mà có ra đều nhờ nơi sức thần của ông cả.

Nay ông lại tuyên bày những sự lợi ích của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát, thời công đức và thần thông của ông lại càng thêm trăm nghìn lần trội hơn lúc thường.

Này Ðịa Thần! Trong đời sau, như có kẻ thiện nam người thiện nữ nào cúng dường Ðịa Tạng Bồ tát cùng đọc tụng kinh điển này, chỉ có thể tu hành theo một việc mà trong kinh “Ðịa Tạng Bồ tát Bổn Nguyện” đã dạy.

Thời ông nên dùng thần lực của ông mà ủng hộ người đó, chớ để tất cả sự tai hại cùng sự không vừa ý đến nghe nơi tai, huống nữa là để cho phải chịu.

Chẳng phải chỉ riêng mình ông hộ trì người đó, cũng có hàng quyến thuộc của Phạm Vương, Ðế Thích, quyến thuộc của chư Thiên ủng hộ người đó.

Tại sao lại đặng các vị Hiền Thánh ủng hộ như thế?

Ðều do vì những người ấy chiêm lễ hình tượng của Ðịa Tạng Bồ tát và đọc tụng kinh “Bổn Nguyện” này, tự nhiên được rốt ráo xa lìa biển khổ chứng đạo Niết Bàn an vui, vì thế nên đặng ủng hộ một cách lớn lao như thế”.

 

[thienminh_vce_heading_style text=”Phẩm Thứ Mười Hai: Thấy Nghe Được Lợi Ích” heading_style=”style7″ head_tag=”h4″ head_align=”center” extrabold=”bold” head_color=”#dd9933″]

1/ Đức Phật Phóng Quang Tuyên Cáo.

Lúc đó, từ trên đảnh môn đức Thế Tôn phóng ra cả trăm nghìn muôn ức tia sáng lớn.

Như là: tia sáng sắc trắng, tia sáng sắc trắng lớn, tia sáng lành tốt, tia sáng ngọc, tia sáng ngọc lớn, tia sáng sắc tía, tia sáng sắc tía lớn, tia sáng sắc xanh, tia sáng sắc xanh lớn, tia sáng sắc biếc, tia sáng sắc biếc lớn, tia sáng sắc hồng, tia sáng sắc hồng lớn, tia sáng màu lục, tia sáng màu lục lớn, tia sáng màu vàng y, tia sáng màu vàng y lớn, tia sáng tướng mây lành, tia sáng tướng mây lành lớn, tia sáng tướng nghìn vòng tròn, tia sáng tướng nghìn vòng tròn lớn, tia sáng vòng tròn báu, tia sáng vòng tròn báu lớn, tia sáng vừng mặt trời, tia sáng vừng mặt trời lớn, tia sáng vừng mặt trăng, tia sáng vừng mặt trăng lớn, tia sáng tướng cung điện, tia sáng tướng cung điện lớn, tia sáng tướng mây biển, tia sáng tướng mây biển lớn.

Từ trên đảnh môn phóng ra những luồng ánh sáng như thế xong, lại nói ra những tiếng rất vi diệu mà bảo đại chúng rằng:

“Này tám bộ chúng Trời, Rồng, người cùng phi nhơn v.v…! Lóng nghe hôm nay ta ở tại cung trời Ðao Lợi tuyên bày ngợi khen những sự lợi ích trong hàng trời người, những sự không thể nghĩ bàn, những sự về nhơn hạnh lên bực Thánh, những sự chứng quả Thập Ðịa, những sự rốt ráo không lui sụt nơi đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác… của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát”.

2/ Quán Thế Âm Cầu Thỉnh.

Lúc Ðức Phật nói lời trên đó vừa dứt tiếng, trong Pháp hội có một vị đại Bồ tát hiệu là Quán Thế Âm từ chỗ ngồi đứng dậy, quì gối chắp tay mà bạch cùng Ðức Phật rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Ngài Ðịa Tạng Bồ tát đầy đủ đức từ bi lớn, Ngài thương xót chúng sinh mắc tội khổ ở trong muôn nghìn ức thế giới, ngài hóa hiện ra ức thân bao nhiêu công đức và sức oai thần chẳng thể nghĩ bàn của Ngài, con đã từng nghe đức Thế Tôn cùng vô lượng chư Phật trong mười phương, khác miệng đồng lời ngợi khen Ngài Ðịa Tạng Bồ tát.

Dầu cho các Ðức Phật trong thuở quá khứ, thuở hiện tại và thuở vị lai nói công đức của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát vẫn chẳng thể nói hết.

Vừa rồi lại được đức Thế Tôn bảo khắp trong đại chúng rằng đức Phật muốn tuyên nói các sự lợi ích của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát.

Cúi mong đức Thế Tôn vì tất cả chúng sinh ở hiện tại và vị lai mà tuyên nói những sự chẳng thể nghĩ bàn của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát, làm cho tám bộ chúng Trời, Rồng, v.v… chiêm ngưỡng lễ lạy Ngài Ðịa Tạng Bồ tát để đặng phước lành”.

3/ Đức Phật Tán Thán Và Hứa Khả.

Ðức Phật bảo Ngài Quán Thế Âm Bồ tát: “Ông có nhơn duyên rất lớn với chúng sinh trong cõi Ta Bà. Những hàng Trời, Rồng, hoặc Quỉ, cho đến chúng sinh mắc phải tội khổ trong sáu đường nếu kẻ nào nghe danh hiệu của ông, thấy hình tượng của ông, hay mến tưởng đến ông cùng khen ngợi ông.

Thời những chúng sinh ấy đều ở nơi đạo vô thượng chánh giác quyết chẳng còn thối chuyển, thường được sanh vào cõi người, cõi trời hưởng đủ sự vui vi diệu, khi nhơn quả sắp thành thục liền được Phật thọ ký cho.

Nay ông sẵn lòng từ bi lớn thương xót các loài chúng sinh và tám bộ chúng Trời, Rồng, v.v… mà muốn nghe ta nói những sự lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát.

Ông nên lóng nghe cho kỹ, nay ta sẽ nói đó!”

Ngài Quán Thế Âm Bồ tát bạch rằng: “Vâng! Bạch đức Thế Tôn con xin ưa muốn nghe.”

4/ Thấy Nghe Thêm Phước Trời.

Ðức Phật bảo Ngài Quán Thế Âm Bồ tát: “Trong các thế giới về thuở hiện tại nay và vị lai sau, có vị trời nào, hưởng phước trời đã mãn, năm tướng suy hao (19) hiện ra nơi thân, hoặc có kẻ phải đọa lạc vào nơi chốn ác đạo.

Các vị trời đó, hoặc nam hoặc nữ đương lúc tướng suy hao hiện, hoặc thấy hình tượng của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát, hoặc nghe tên Ngài Ðịa Tạng Bồ tát, rồi một lần chiêm ngưỡng một lần đảnh lễ. Thời các vị trời đó càng thêm lớn phước trời, hưởng sự vui Sướng rất nhiều không bao giờ còn phải bị đọa lạc vào ba ác đạo nữa.

Huống chi là những người thấy hình tượng Bồ tát, nghe danh hiệu Bồ tát rồi đem các thứ hương hoa, đồ y phục, đồ uống ăn, vật báu, chuỗi ngọc… mà bố thí cúng dường, thời người này đặng vô lượng vô biên công đức phước lợi.

5/ Người Bịnh Được Lợi.

Lại vầy nữa này Quán Thế Âm! Trong các thế giới về thuở hiện tại nay và vị lai sau, những hàng chúng sinh trong sáu đường, như có kẻ sắp mạng chung mà đặng nghe một tiếng danh hiệu của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát thoáng qua lỗ tai, thì kẻ mạng chung đó không còn bị đọa vào chốn khổ ba ác đạo.

Huống chi là lúc sắp mạng chung, cha mẹ cùng hàng thân quyến đem của cải nhà cửa, vật báu, y phục v.v… của người sắp mạng chung đó mà làm của chi phí để tô đắp hay họa vẽ hình tượng của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát.

Rồi làm cho người bịnh lúc chưa chết, hoặc mắt thấy tai nghe biết rằng hàng thân quyến đem nhà cửa vật báu v.v… vì mình mà tô vẽ hình tượng của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát.

Người bịnh đó nếu có nghiệp báo phải mang lấy bịnh nặng, thời nhờ công đức này liền được lành mạnh, tuổi thọ thêm lâu.

Còn nếu người bịnh đó có nghiệp báo số mạng đã hết, lại có đủ tất cả tội chướng nghiệp chướng đáng lẽ phải đọa vào chốn ác đạo, song vì nhờ công đức này nên sau khi mạng chung, liền được sanh vào cõi trời, cõi người hưởng quả vui thù thắng vi diệu, tất cả tội chướng thảy đều tiêu sạch.

6/ Tiên Vong Được Phước.

Lại vầy nữa, này Quán Thế Âm Bồ tát! Về đời sau, nếu có kẻ nam tử, người nữ nhơn nào, hoặc lúc còn bú mớm, hoặc lúc lên ba tuổi, hoặc lúc lên năm tuổi, mười tuổi trở xuống mà chết mất cha mẹ, cho đến chết mất anh em, chị em.

Ðến khi người đó khôn lớn nhớ tưởng đến cha mẹ cùng hàng thân quyến không rõ đọa lạc vào chốn nào, hay sanh về thế giới nào, hoặc sanh lên cõi trời nào?

Người đó như có thể tô vẽ hình tượng của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát, nhẫn đến nghe danh hiệu của Ngài rồi một lần chiêm ngưỡng một lần đảnh lễ, từ một ngày cho đến bảy ngày đừng thối thất tâm ban đầu, nghe danh hiệu thấy hình tượng chiêm lễ cúng dường.

Thời quyến thuộc đã sớm khuất của người đó nếu do ác nghiệp mà bị đọa vào ác đạo tính ra phải chịu đến số kiếp, nay nhờ công đức tô vẽ hình tượng của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát và chiêm lễ cúng dường của con cái, hay của anh em chị em, nên liền đặng giải thoát, được sanh lên cõi trời cõi người hưởng quả vui thù thắng vi diệu.

Còn như quyến thuộc đã sớm khuất của người đó có phước lành, đã được sanh lên cõi trời cõi người hưởng thọ quả vui thù thắng vi diệu rồi, thời nhờ công đức này càng thêm lớn nghiệp nhơn về bực Thánh, hưởng vô lượng quả vui.

Như người đó lại có thể trong hai mươi mốt ngày, chuyên lòng chiêm lễ hình tượng của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát và niệm lấy danh hiệu của Ngài đủ số một muôn biến, sẽ đặng Ðịa Tạng Bồ tát hiện vô biên thân, mách cho người đó rõ nơi cõi của hàng thân quyến sớm khuất kia đã sanh về.

Hoặc trong giấc mộng, Ðịa Tạng Bồ tát hiện sức thần thông lớn, tự dắt người đó đến các thế giới thấy hàng quyến thuộc.

Nếu người đó lại có thể trong mỗi ngày niệm danh hiệu của Bồ tát một nghìn biến luôn đến một nghìn ngày. Thời người đó sẽ được Bồ tát sai các vị Quỉ Thần ở tại chỗ đó hộ vệ trọn đời, hiện đời món ăn đồ mặc dư dật, không có các thứ bịnh khổ, cho đến các sự tai vạ còn không hề vào đến cửa, huống nữa là đến nơi thân. Rốt ráo rồi người đó được Ngài Ðịa Tạng Bồ tát xoa đảnh thọ ký cho.

7/ Nguyện Lớn Sớm Thành.

Lại vầy nữa, này Quán Thế Âm Bồ tát! Về đời sau, như có kẻ thiện nam người thiện nữ nào muốn phát lòng từ rộng lớn để cứu độ tất cả chúng sinh, muốn tu đạo vô lượng chánh giác, muốn thoát khỏi tam giới.

Những người đó thấy hình tượng và nghe danh hiệu của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát, rồi chí tâm quy y hoặc đem hương hoa, y phục, vật báu, đồ ăn uống, v.v… để cúng dường chiêm ngưỡng đảnh lễ thời chỗ nguyện cầu của kẻ thiện nam cùng thiện nữ đó mau được thành tựu không bao giờ bị chướng ngại.

Lại vầy nữa, này Quán Thế Âm Bồ tát! Trong đời sau, như có kẻ thiện nam, người thiện nữ nào, muốn cầu trăm nghìn muôn ức điều nguyện trăm nghìn muôn ức sự về hiện tại cùng vị lai, thời chỉ nên quy y chiêm ngưỡng đảnh lễ, cúng dường, ngợi khen hình tượng của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát. Ðược như thế thời nguyện những chi và cầu những chi thảy đều thành tựu cả.

Lại cầu mong Ðịa Tạng Bồ tát, vận đức từ bi rộng lớn ủng hộ mãi cho, người đó trong giấc chiêm bao liền đặng Ngài Ðịa Tạng Bồ tát xoa đảnh thọ ký.

8/ Được Trí Huệ.

Lại vầy nữa này Quán Thế Âm Bồ tát! Trong đời sau, như có người thiện nam, kẻ thiện nữ nào sanh lòng rất trân trọng đối với kinh điển Đại thừa, phát tâm bất tư nghị muốn đọc muốn tụng kinh điển ấy.

Dầu gặp đặng bực minh Sư truyền dạy cho những người đó học tập, nhưng đọc rồi quên rồi, trải đến cả tháng, cả năm vẫn không đọc tụng được.

Những kẻ thiện nam đó vì có nghiệp chướng đời trước chưa trừ sạch, cho nên ở nơi kinh điển Đại thừa không có công năng đọc tụng.

Nhưng hạng người này khi nghe danh hiệu của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát, cùng thấy hình tượng của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát đem hết bổn tâm cung kính bày tỏ với Bồ tát, rồi dùng hương hoa, y phục, đồ ăn, tất cả đồ ngọa cụ, v.v… cúng dường hình tượng Bồ tát.

Dùng một chén nước trong để trước tượng Bồ tát một ngày một đêm, sau đó cung kính chắp tay thỉnh để uống, xây mặt về hướng Nam.

Khi nước vào miệng phải chí tâm trịnh trọng, uống nước xong, phải cữ ngũ tân, rượu, thịt, tà dâm, vọng ngữ và các việc giết hại trong bảy ngày hoặc hai mươi mốt ngày.

Người thiện nam cùng thiện nữ đó trong giấc chiêm bao thấy Ðịa Tạng Bồ tát hiện thân vô biên rưới nước trên đảnh của người đó.

Sau khi thức dậy, người đó liền đặng thông minh, một phen nghe đến những kinh điển Đại thừa ấy liền sẽ nhớ mãi, không bao giờ còn quên một câu kệ nữa.

9/ Tai Nạn Tiêu Trừ.

Lại vầy nữa, này Quán Thế Âm Bồ tát! Về trong đời sau, như có những người nào ăn mặc không đủ, cầu chi cũng không toại nguyện, hoặc thân nhiều tật bịnh, hoặc nhiều sự hung suy, nhà cửa không yên ổn, quyến thuộc chia lìa, hoặc các sự tai vạ cứ đến khuấy nhiễu nơi thân luôn, trong giấc mộng thường phải kinh sợ.

Những người như thế đó, khi nghe danh hiệu của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát, thấy hình tượng của Ðịa Tạng Bồ tát nên chí tâm cung kính niệm đủ một muôn biến, thời những sự không toại ý trên đó sẽ tiêu sạch lần lần, liền đặng an vui, đồ ăn mặc dư dật, cho đến trong giấc mộng thảy đều an ổn vui vẻ.

10/ Khỏi Hiểm Nguy.

Lại vầy nữa, này Quán Thế Âm Bồ tát! Về đời sau, nếu có người thiện nam thiện nữ nào, hoặc nhơn sự làm ăn, hoặc nhơn sự công chuyện tư, hoặc nhơn sự sanh cùng tử, hoặc nhơn việc gấp mà phải vào trong rừng núi, hay là qua sông vượt biển hoặc gặp nước lụt lớn, hoặc đi ngang đường hiểm trở.

Người ấy trước khi đi nên niệm danh hiệu của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát một muôn biến, được thế thời đi qua nơi nào chốn nào cũng có các vị Quỉ Thần hộ vệ, lúc đi đứng, khi nằm ngồi, đều được an ổn vui vẻ luôn, cho đến dầu gặp loài hùm sói Sư tử… nhưng tất cả thứ độc hại đều không thể phạm đến người đó được.

Ðức Phật bảo Ngài Quán Thế Âm Bồ tát: “Ngài Ðịa Tạng Bồ tát có nhơn duyên rất lớn với cõi Diêm Phù Ðề. Nếu nói về những sự mà các hàng chúng sinh thấy hình nghe tên của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát được lợi ích, thời dầu nói đến trong trăm nghìn kiếp cũng không biết được.

Này Quán Thế Âm Bồ tát! Vì thế Ông nên dùng thần lực mà lưu truyền kinh này làm cho chúng sinh trong cõi Ta Bà đây mãi đến trăm nghìn kiếp được hưởng những sự an vui luôn”.

Bấy giờ, đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Ta xem Ðịa Tạng sức oai thần
Kiếp số Hằng sa khó tỏ trần,
Thấy nghe một niệm chiêm ngưỡng lễ,
Trời, người lợi ích sự không ngằn,
Hoặc Rồng hoặc Thần cùng nam nữ
Báo tận sẽ sa vào đường dữ,
Chí tâm qui mạng Ðại Sĩ thân,
Tuổi thọ thêm nhiều trừ tội dữ.
Trẻ thơ chết mất mẹ cùng cha,
Huynh đệ chị em kẻ ruột rà,
Lớn khôn nghĩ đến đều không biết,
Nẻo dữ đường lành ở đâu là?
Hoặc vẽ, hoặc tô Ðại Sĩ hình
Cảm thương chiêm lễ biệt chẳng đành,
Hăm mốt ngày luôn niệm danh hiệu.
Bồ tát hiện thân đến bên mình:
Chỉ rành quyến thuộc ở nơi nào,
Dầu sa ác thú cũng ra mau,
Nếu được không lui lòng kính ngưỡng,
Thánh ký, Bồ tát vuốt đầu trao.
Bồ đề vô thượng muốn tu hành,
Mong ra ba cõi khỏi tử sinh,
Người này đã phát lòng bi lớn
Trước nên chiêm lễ Ðại Sĩ hình.
Nghe tên quy y đấng trọn lành,
Cúng dường cung kính phát lòng thành,
Nghiệp chướng chẳng hề ngăn chướng đặng
Bao nhiêu mong ước sớm viên thành.
Có kẻ phát tâm tụng kinh sách
Muốn độ chúng sinh khỏi tai ách
Dầu lập nguyện lớn chẳng nghĩ bàn
Ðọc rồi quên rồi luôn sót mất.
Người này nghiệp chướng nó làm mê
Học Đại thừa kinh khó mọi bề
Y phục, uống ăn, các ngọa cụ,
Cúng dường Ðịa Tạng với hương hoa.
Dùng chén nước trong bày trước tượng,
Cách một ngày đêm bưng lấy uống,
Sanh lòng ân trọng cữ ngũ tân
Rượu thịt, tà dâm cùng dối luống.
Trong hăm mốt ngày chớ sát sanh,
Chuyên lòng tưởng niệm Thượng Nhơn danh,
Chiêm bao thấy rõ Tôn dung hiện,
Thức rồi, liền đặng trí khôn lanh.
Ðại Thừa kinh giáo nghe qua tai,
Nghìn vạn đời sau nhớ chẳng sai,
Chính nhờ Ðại Sĩ oai thần lớn
Thầm giúp người kia có huệ tài.
Chúng sinh nghèo khổ lại ốm đau,
Cửa nhà họa hoạn, người lìa nhau
Ngủ mê mộng mị không an giấc,
Cầu muốn hỏng hư chẳng được nào!
Dốc lòng chiêm lễ Ðịa Tạng Ngài,
Bao nhiêu việc ác thảy tiêu ngay
Nhẫn đến chiêm bao đều an cả,
Quỉ Thần phò hộ, của dư xài.
Muốn qua sông biển, đến núi rừng,
Cầm thú độc nguy, giặc đón đường,
Ác Thần, ác Quỉ, mưa gió dữ,
Nhiều nỗi gian nan khốn không lường,
Sắp sửa ra đi đối trước tượng
Cúng dường kính lễ cùng chiêm ngưỡng.
Núi rừng biển cả có vào trong
Ác tai tiêu sạch thường an sướng.
Quán Âm lóng nghe ta nói rõ
Ðịa Tạng vô lượng oai thần đó,
Trăm nghìn muôn kiếp thuật chẳng rồi,
Rộng tuyên Ðại Sĩ đầy sức nọ!
Như người nghe đến Ðịa Tạng danh,
Thấy hình chiêm lễ hết lòng thành,
Hương hoa, ăn uống, dưng y phục,
Trăm nghìn báo đẹp hưởng điều lành.
Nếu hay đem công hồi pháp giới,
Rốt ráo thành Phật, sanh tử khỏi,
Quán Âm nên biết gắng tuyên bày,
Truyền khắp Hằng sa nhiều nước cõi!

 

[thienminh_vce_heading_style text=”Phẩm Thứ Mười Ba: Dặn Dò Cứu Ðộ Nhơn Thiên” heading_style=”style7″ head_tag=”h4″ head_align=”center” extrabold=”bold” head_color=”#dd9933″]

1/ Đức Phật Giáo Phó.

Lúc đó đức Thế Tôn giơ cánh tay sắc vàng xoa đảnh Ngài Ðịa Tạng đại Bồ tát mà bảo rằng:

“Ðịa Tạng! Ðịa Tạng! Thần lực của ông không thể nghĩ bàn, đức từ bi của ông không thể nghĩ bàn, trí huệ của ông không thể nghĩ bàn.

Dầu cho các Ðức Phật ở mười phương khen ngợi tuyên nói những sự chẳng thể nghĩ bàn của ông trăm nghìn muôn kiếp cũng chẳng hết đặng.

Này Ðịa Tạng! Ðịa Tạng! Ông nên nhớ hôm nay ta ở trong cung trời Ðao Lợi, nơi pháp hội lớn có trăm nghìn muôn ức bất khả thuyết, bất khả thuyết tất cả các đức Phật, các vị Bồ tát, các hàng Trời, Rồng, tám bộ chúng đây, một lần nữa đem các hàng chúng sinh, những kẻ ở trong nhà lửa chưa ra khỏi ba cõi, mà giao phó cho ông.

Ông chớ để các chúng sinh đó phải bị đọa vào các ác đạo dầu là chừng một ngày, một đêm, huống chi lại để cho chúng nó phải bị đọa lạc vào địa ngục ngũ vô gián cùng địa ngục A Tỳ, mãi đến nghìn muôn ức kiếp không lúc nào mong ra khỏi ư.

Này Ðịa Tạng! Tâm tánh của chúng sinh cõi Diêm Phù Ðề không định, phần đông đều quen theo thói ác, thoảng hoặc có người phát tâm lành, nhưng rồi không bao lâu liền thối thất, còn như duyên ác lại luôn luôn tăng trưởng.

Cũng vì lẽ đó, nên ta phải chia thân này ra trăm nghìn ức để hóa độ, thuận theo căn tánh của chúng nó hầu làm cho chúng nó được giải thoát.

Này Ðịa Tạng! Hôm nay ta ân cần đem chúng Trời, Người giao phó cho ông.

Trong đời sau, như có hàng Trời, Người cùng thiện nam, thiện nữ nào trồng chút ít căn lành ở trong Phập pháp, chừng bằng sợi lông, mảy trần, hột cát, giọt nước, thời ông nên dùng đạo lực của ông ủng hộ người đó, làm cho người đó tu tập lần lần đạo hạnh vô thượng, chớ để họ thối thất.

Lại vầy nữa, này Ðịa Tạng Bồ tát! Trong đời sau, hoặc có trời hay người nào phải theo nghiệp mà thọ báo bị đọa vào chốn ác đạo, đến khi bị đọa vào ác đạo vừa bước đến cửa địa ngục, những chúng sinh đó nếu có thể niệm đặng danh hiệu của đức Phật, hay danh hiệu của một vị Bồ tát, cùng một câu kệ kinh điển Đại thừa.

Ông nên dùng thần lực của ông tìm phương chước cứu vớt các chúng sinh đó, ông nên hiện thân ra trước kẻ đó, phá tan địa ngục làm cho họ được sanh lên cõi trời hưởng những sự vui vi diệu thù thắng”.

Bấy giờ đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Ðời nay đời sau chúng Thiên, Nhơn
Nay ta ân cần dặn bảo ông;
Dùng đại thần thông quyền độ họ,
Ðừng cho ác đạo đọa vào trong.

2/ Bồ Tát Tuân Chỉ.

Bấy giờ Ngài Ðịa Tạng đại Bồ tát quỳ gối chắp tay bạch cùng Ðức Phật rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Cúi xin đức Thế Tôn chớ lo.

Trong đời sau, nếu có người thiện nam cùng kẻ nữ nào, đối với trong Phật pháp có một niệm cung kính, con cũng dùng trăm nghìn phương tiện độ thoát người đó, làm cho mau đặng giải thoát trong đường sanh tử, huống nữa là nghe các việc lành rồi luôn luôn tu hành, tự nhiên ở nơi đạo vô thượng không bao giờ còn thối chuyển”.

3/ Hư Không Tạng Bạch Hỏi.

Lúc Ngài Ðịa Tạng Bồ tát bạch lời nói trên đó vừa xong, trong pháp hội có một vị Bồ tát tên là Hư Không Tạng bạch cùng đức Phật rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Từ khi con đến cung trời Ðao Lợi này nghe đức Như Lai ngợi khen oai thần thế lực không thể nghĩ bàn của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát.

Trong đời sau, hoặc có người thiện nam cùng thiện nữ nào, cho đến tất cả hàng Trời, Rồng v.v… nghe kinh điển này và nghe danh tự của Ðịa Tạng Bồ tát, cùng với chiêm lễ hình tượng Ðịa Tạng Bồ tát, thời những kẻ ấy được bao nhiêu điều phước lợi?

Cúi mong đức Thế Tôn vì tất cả hàng chúng sinh ở hiện tại và vị lai mà nói lược việc ấy cho”.

4/ Hai Mươi Tám Điều Lợi.

Ðức Phật bảo Ngài Hư Không Tạng Bồ tát: “Lóng nghe! lóng nghe cho kỹ! Ta sẽ vì ông mà nói rõ việc ấy cho.

Trong đời sau, người thiện nam cùng thiện nữ nào thấy hình tượng của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát và nghe kinh này, cho đến đọc tụng, dùng hương hoa, đồ ăn món uống, y phục, vật báu mà bố thí cúng dường ngợi khen chiêm lễ thời kẻ ấy được hai mươi tám điều lợi sau đây:

1. Các hàng Trời, Rồng thường hộ niệm.
2. Quả lành càng ngày càng thêm lớn.
3. Chứa nhóm nhơn vô thượng của Thánh.
4. Mãi không còn thối thất đạo Bồ Ðề.
5. Ðồ mặc món ăn dồi dào đầy đủ.
6. Những bịnh tật không đến nơi thân.
7. Khỏi những tai nạn về lửa và nước.
8. Không có bị hại vì trộm cướp.
9. Người khác thấy đến sanh lòng cung kính.
10. Các hàng Quỉ Thần theo hộ trì.
11. Ðời sau thân gái sẽ chuyển thành thân trai.
12. Ðời sau sẽ làm con gái các hàng Vương Giả, Ðại Thần.
13. Thân tướng xinh đẹp.
14. Phần nhiều được sanh về cõi trời.
15. Hoặc làm bực vua chúa.
16. Có trí sáng biết rõ việc trong những đời trước.
17. Có mong cầu chi cũng được toại ý.
18. Quyến thuộc an vui.
19. Các tai vạ bất ngờ đều dứt sạch.
20. Các nghiệp về ác đạo đều trừ hẳn.
21. Ði đến đâu cũng đều không bị sự trở ngại.
22. Ðêm nằm chiêm bao an ổn vui vẻ.
23. Những người thân tộc đã chết nếu có tội thời được khỏi khổ.
24. Nếu về đời trước có phước thời được thọ sanh về cõi vui sướng.
25. Các bực Thánh ngợi khen.
26. Căn tánh lanh lợi thông minh.
27. Giàu lòng từ mẫn.
28. Rốt ráo thành Phật.

5/ Bảy Điều Lợi.

Lại vầy nữa, này Hư Không Tạng Bồ tát! Như hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở hiện tại và vị lai nghe danh hiệu của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát, đảnh lễ hình tượng của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát, hoặc nghe các sự về bổn nguyện tu hành của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát mà ngợi khen chiêm lễ, thời sẽ đặng bảy điều lợi ích:

1. Mau chứng bực Thánh.
2. Nghiệp ác tiêu diệt.
3. Chư Phật đến ủng hộ.
4. Không thối thất Bồ Ðề.
5. Bổn lực được tăng trưởng.
6. Việc đời trước đều rõ biết.
7. Rốt ráo thành Phật”.

6/ Ðại Hội Tán Thán.

Bấy giờ, bất khả thuyết tất cả các Ðức Phật và đại Bồ tát cùng tám bộ chúng Trời, Rồng… ở mười phương đến dự Pháp hội đó, nghe đức Thích Ca Mâu Ni Phật ngợi khen tuyên bày sức oai thần lớn chẳng thể nghĩ bàn của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát, đều khen là việc chưa từng có.

Lúc đó trời Ðao Lợi rưới vô lượng hương hoa, thiên y, chuỗi ngọc để cúng dường đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Ðịa Tạng Bồ tát xong rồi, tất cả đại chúng trong pháp hội đều lại chiêm lễ chắp tay mà lui ra.

 

Kinh Ðịa Tạng Bồ tát Bổn Nguyện

Quyển Hạ Hết.

Bổn thệ Ðịa Tạng,
So nhân trong kinh,
Tàn tật câm ngọng do tiền sinh,
Đời nay tụng Đại thừa,
Phước lợi vô cùng
Quyết sen báu vãng sinh.

Nam mô Thường Trụ Thập Phương Tăng. (3 lần)
Nam mô Đại Nguyện Ðịa Tạng Vương Bồ tát Ma Ha Tát. (3 lần)

 

[thienminh_vce_heading_style text=”Thích Nghĩa” heading_style=”style7″ head_tag=”h4″ head_align=”center” extrabold=”bold” head_color=”#dd9933″]

(1) Trời Đao Lợi: là từng trời thứ hai trong 6 từng trời ở cõi Dục. Đao lợi là tiếng Phạn, dịch là “tam thập tam” nghĩa là ba mươi ba, từng trời này ở tại núi Tu di nơi đó chia ra làm 33 nước trời, 32 nước ở bốn phương xung quanh, mỗi phương 8 nước; chính giữa là Thiện Kiến thành, cung của trời Đế Thích, vị trời này quyền thống nhiếp cả 33 nước trời.

Đương thời đó đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngự tại cung trời này mà thuyết pháp trong 3 tháng (từ tháng 4 đến tháng 7). Thánh mẫu là bà Ma Gia phu nhân sinh mẫu của Thái Tử Sĩ Đạt Ta. 7 ngày sau khi hạ sinh thái tử, bà bỏ thân người sinh lên cõi trời Đao Lợi. Bấy giờ đức Phật sắp nhập diệt, ngài ngự lên đó nói pháp, trước để đáp ơn sinh thành, sau nhân đó mà giáo hóa hàng chư Thiên, cùng Long, Thần bát bộ và cả thảy Thánh, phàm.

(2) Vô lượng, vô biên, vô số, bất khả thuyết, bất tư nghị v.v… đều là những con số lớn thường dùng bên Thiên Trúc.

(3) Đời ác ngũ trược: là hiện thời đủ cả năm điều nên thành đời ác.

1. Kiếp trược: thời gian biến đổi không ngừng, có đủ bốn món trược dưới đây.
2. Kiến trược: Sự thấy biết sai làm, tin nhận tà vạy chính là món “lợi sử” vậy.
3. Phiền não trược: Tham, sân hừng hẩy, si mê, điên đảo v.v… chính là những tính về “độn sử” vậy.
4. Chúng sinh trược: Sinh tử, tử sinh nối luôn không dứt.
5. Mạng trược: Thọ mạng ngắn ngủi.

Cang cường: Là tính tình ương ngạnh khó bảo khó dạy.

Pháp khổ pháp vui: tức là tứ chân đế lý:

1/ Khổ đế: Ba cõi sinh tử, già, đau, sống, chết v.v… không lường sự khổ hoạn, tức là quả khổ.
2/ Tập đế: phiền não chứa nhóm kết thành nghiệp nhân sinh tử, tức là nhân khổ.
3/ Diệt đế: Dứt hẳn phiền não, khỏi hẳn sinh tử, an vui vắng lặng (Niết bàn), tức là quả vui.
4/ Đạo đế: các thánh đạo những phương pháp tu hành để đoạn phiền não, chứng quả thánh, tức là nhân vui.

Trong bốn đế lý trên, khổ là quả báo khổ, tập là nghiệp nhân xấu, do nhân xấu mà phải thọ lấy quả báo khổ, đó là “pháp khổ”.

Diệt là quả an vui, đạo là đạo hành lành mà chứng lấy quả an vui, đó là “pháp”. Đức Phật dạy cho chúng sinh biết rõ pháp khổ để dứt trừ cũng thoát ly, dạy cho chúng sinh biết rõ pháp vui để tu hành cùng chứng lấy.

(4) Thị giả: là người hầu hạ, người hầu hạ Phật tức là Bồ tát vậy.

(5) Cõi dục có sáu từng trời:

1. Trời Tứ Thiên Vương, trời này ở giữa chừng núi Tu di.
2. Trời Đao Lợi, trời này ở tại đỉnh núi Tu di (2 từng trời này dùng ánh sáng mặt trời).
3. Trời Tu diệm ma, cũng gọi là trời Da ma.
4. Trời Đâu suất đà.
5. Trời Hóa Lạc.
6. Trời Tha hóa tự tại (4 từng trời này tự có ánh sáng riêng, và nương mây mà ở)

Từ trời Phạm chúng, trời Phạm phụ đến trời sắc cứu cánh, trời Ma hê thủ la thuộc về cõi Sắc (có sắc nhưng không còn lòng dục nhiễm).

Cõi vô sắc có 4 từng:

1. Không Vô biên Xứ Thiên,
2. Thức vô biên Xứ Thiên.
3. Vô Sở Hữu Xứ Thiên.
4. Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên (4 từng trời này chỉ có định quả thân chớ không có thân về sắc chất)

(6) Tám bộ chúng:

1. Thiên chúng, hàng chư Thiên chúng (Thiên tướng).
2. Long chúng (loài rồng).
3. Dạ xoa chúng (các thần Dạ xoa).
4. Càn thát bà chúng (các thần đánh nhạc của trời Đế Thích).
5. A tu la chúng (thần Phi Thiên).
6. Ca lâu la chúng (loài Kim sí điểu).
7. Khẩn na la chúng (thần múa hát của trời Đế Thích).
8. Ma hầu la dà chúng (Đại mãng xà thần).

(7) Sông Hằng: là một con sông to lớn, nguồn từ dãy núi Hy mã chảy ngang qua xứ Ấn Độ rồi đổ vào Ấn Độ dương, lòng sông cùng hai bên bãi, có rất nhiều cát mịn. Đương thời đức Phật thường nói pháp ở các nước thuộc lưu vực sông Hằng nên phàm nói một số lớn, đức Phật lấy một số cát trong sông Hằng để chỉ, mà nói là “hằng hà sa số”

Bồ tát thuộc về Đại thừa, có ba mươi bậc Hiền:

(Trụ vị 10 bậc, Hạnh vị 10 bậc, Hướng vị 10 bậc)

10 bậc thánh, tức là Thập Địa:

1. Hoan Hỷ địa
2. Ly Cấu địa
3. Pháp Quang địa
4. Diệm Huệ địa
5. Nan Thắng địa
6. Hiện Tiền địa
7. Viễn Hành địa
8. Bất Động địa
9. Thiện Huệ địa
10. Pháp Vân địa.

Trên Pháp Vân địa có bậc Đẳng giác Bồ tát, mãn bậc Đẳng giác thời thành Diệu giác (Phật quả).

Bích chi Phật thuộc về trung thừa có 2 hạng

A. Độc giác, ra đời không gặp Phật và Phật pháp, do sẵn có căn lành, ngó thấy cảnh tang thương hoa tàn, lá úp v.v… ngộ lý vô thường, phát tâm xuất ly dục trần tự tu tập vô thường mà chứng quả vô sinh khỏi vòng sinh tử trong tam giới.

B. Duyên giác, ra đời gặp Phật và Phật pháp tu tập thập nhị nhân duyên quán mà chứng quả vô sinh.

Hai hạng Bích chi Phật trên, về phần tu tập thời khác với Thanh văn, nhưng quả chứng thời đồng với bậc A la hán.

Thanh văn thuộc về tiểu thừa, y theo thánh giáo của Phật dạy tu tập tứ đế lý mà chứng Thánh quả. Có 4 bậc: 1. Tu đà hoàn (Dự lưu quả), 2. Tư đà hàm (Nhất lai quả), 3. A na hàm (Bất lai quả), 4. A la hán (Vô sinh quả).

(8) Ác đạo: ba đường dữ (Súc sinh đạo, Ngạ quỉ đạo và Địa ngục đạo).

(9) Ba ngôi báu quý: Phật, Pháp, Tăng.

(10) Chính kiến: kiến giải (thấy biết nhận hiểu chân chính). Phàm chỗ nhận hiểu đúng Phật pháp thời là chính kiến, ngoài Phật pháp mà nhận hiểu khác thời đều là tà kiến.

(11) Vô gián địa ngục: ở phẩm thứ ba có nói rõ.

(12) Quỷ vương: chúa loài quỉ.

(13) Oai thần: thần thông các bậc Thánh. Nghiệp lực: sức nghiệp ác của chúng sinh gây tạo ra.

(14) Do tuần: Cứ lấy số trung bình một do tuần độ 40 dặm.

(15) Ba nghiệp: thân, khẩu, ý. Nghiệp nghĩa là tạo tác thi vi, ba chỗ này có công năng tạo tác thi vi nên gọi là ba nghiệp.

(16) Mười hạnh lành:

Ba hạnh thuộc về thân: 1. Không sát sinh mà phóng sinh, 2. Không trộm cướp mà bố thí, 3. Không tà dâm mà đoan chính.

Bốn hạnh thuộc về khẩu: 1. Không nói dối mà nói thiệt, 2. Không nói lời chia rẽ mà nói hòa giải, 3. Không nói lời thô ác mà nói lời ôn hòa, nhã nhặn. 4. Không nói lời thêu dệt mà nói lời chắc đúng.

Ba hạnh thuộc về ý: 1. Không có lòng tham lam bỏn sẻn mà sinh lòng rộng rãi xả thí, 2. Không có lòng hờn giận ganh ghét mà sinh lòng tùy hỷ xót thương, 3. Không có lòng si mê tà kiến mà sinh lòng sáng suốt nhận hiểu chân chính.

(17) Nghĩa của các địa ngục:

Cực Vô gián: cùng tột Vô gián (nghĩa Vô gián đã có ở phẩm trước)

Đại A tỳ (Vô gián lớn)
Tứ giác (bốn góc)
Phi đao (đao bay)
Hỏa tiễn (tên lửa)
Giáp sơn (núi ép)
Thông thương (phóng dâm)
Thiết xa (xe sắt)
Thiết sàng (giường sắt)
Thiết ngưu (trâu sắt)
Thiết y (áo sắt)
Thiên nhẫn (nghìn mũi nhọn)
Thiết lư (lừa sắt)
Dương đồng (nước đồng sôi)
Bảo trụ (ôm cột đồng)
Lưu hỏa (lửa văng)
Canh thiệt (cày lưỡi)
Tỏa thủ (chém đầu)
Thiêu cước (đốt chân)
Đạm nhãn (móc mắt)
Thiết hoàn (hoàn sắt)
Tranh luận (cãi cọ)
Thiết thù (thù sắt)
Đa sân (nhiều giận).

(18) Các địa ngục như thế:

Kiếu oán (kêu la)
Bạt thiệt (kéo lưỡi)
Phẩn niếu (phẩn tiểu)
Đồng tỏa (khóa đồng)
Hỏa tượng (voi lửa)
Hỏa cẩu (chó lửa)
Hỏa mã (ngựa lửa)
Hỏa ngưu (trâu lửa)
Hỏa sơn (núi lửa)
Hỏa thạch (đá lửa)
Hỏa sàng (giường lửa)
Hỏa lương (sà lửa)
Hỏa ưng (diều lửa)
Cứ nha (cưa răng)
Bác bì (lột da)
Ẩm huyết (uống máu)
Thiêu thủ (đốt tay)
Đảo thích (đâm ngược)
Hỏa ốc (nhà lửa)
Hỏa lang (sói lửa).

(19) Năm tướng suy hao: khi một vị trời nào số thọ đã mãn, thì trước khi chết có năm tướng này hiện ra:

1. Hoa trên mão khô héo
2. Mất hào quang nơi thân.
3. Mình rịn chất hôi.
4. Ở không an
5. Quyến thuộc nhàm lánh

BÀI TỰA VỀ VĂN MƯỜI PHƯƠNG

Bài hồi hướng. “Thập phương”, văn chữ hán (số A) vốn là của ngài Đại Từ Bồ tát soạn ra. Sau khi tụng kinh cùng niệm Phật, tụng bài này cốt để đem bao nhiêu công đức tụng niệm đều hồi hướng cầu được vãng sinh về cõi Tây phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà. Tụng bài này phước đức lớn lắm nên từ xưa đến nay, ở nước ta cũng như nước Tàu, trong các chốn Thiền môn, luôn luôn dùng bài này phổ vào các thời khóa.

Còn từ “nhất giả” đến “thập giả” (số B) là mười điều nguyện rút ra trong phẩm “Phổ Hiền hạnh nguyện” của kinh Hoa Nghiêm. Trong kinh mỗi một nguyện ngài Phổ Hiền Bồ tát vì ngài Thiện Tài Đồng Tử và chúng hội Bồ tát mà giảng giải rất rộng, 10 câu tổng nên về mỗi nguyện thôi.

Phàm tụng văn hồi hướng, cần nhất người tụng phải hiểu rõ nghĩa lý trong văn, vì có hiểu thời chỗ hồi hướng phát nguyện mới thiết thiệt, tâm quán tưởng mới xác thật, công đức mới tăng trưởng. Nếu tụng mà không hiểu chi hết, thời hồi hướng đó là hồi hướng về đâu? Phát nguyện đó là phát những gì và như thế nào? Thành ra chỉ có tụng theo lệ suông thôi chắc khó thành tựu công đức được.

Vì lẽ trên đây, nên tôi không quản tài sơ văn vụng phỏng theo nguyên văn và y cứ nơi nghĩa trong kinh mà dịch cả hai bài (số A và số B) ra quốc văn. Dịch xong lại còn ngại vì trong sám văn có nhiều nghĩa sâu ẩn, khuất khúc, nên viết thêm đoạn thích nghĩa sau đây, (số 20 và 21) để giải rõ bổn quốc văn, ngõ hầu khi tụng đến, tụng chữ hiểu nghĩa, tâm và lý tương tương ứng khi hiệp, lâu lâu tinh thuần, thiện căn công đức chắc chắn là vô cùng vô tận vậy.

HÂN TỊNH TỲ KHEO

Cẩn chí

(20) Trong khoảng không gian vô tận, chẳng phải chỉ có nội một cõi Ta bà của đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật mà chúng ta hiện ở đây thôi, kỳ thật ngoài Ta bà ra còn có vô biên thế giới khác. Phàm hễ có một thế giới thời có một đức Phật làm giáo chủ, thế giới đã vô biên thời là có vô lượng chư Phật. Chẳng những hiện tại đây vô biên thế giới ở mười phương (Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, trên và dưới) có vô lượng chư Phật, và về thời kỳ quá khứ đã có vô lượng chư Phật và đến thời kỳ vị lai cũng sẽ có vô lượng chư Phật. Nên trong văn nói: Mười phương chư Phật ba đời.

Trong vô lượng chư Phật ở mười phương ba đời đó, suy ra thời đức Phật A Di Đà là bậc nhất.

Về Phật quả thời Phật đồng chứng như nhau, đồng trí viên, đồng hạnh mãn, đồng đức đủ, đồng nguyện toàn, công đức của chư Phật đã đồng sao lại nói Phật A Di Đà là bậc nhất? –Đây nói bậc nhất là cứ nơi ứng hóa thân của Phật mà so sánh thôi, chớ không phải nói đến pháp thân và báo thân, về pháp thân và báo thân của chư Phật quyết hẳn là đồng, vì hai thân đó là thật thân quả chứng của chư Phật vậy. Còn ứng hóa thân là những chiếc thân vì chúng sinh cảm cách đến Phật mà ứng hóa ra, chúng sinh cơ cảm có sai khác nên thân ứng hóa của chư Phật cùng tùy đó mà sai khác, lại sự sai khác đó cũng do vì bổn nguyện của chư Phật lúc còn tu hạnh Bồ tát không đồng nhau vậy.

Về sự thù thắng nơi ứng thân của đức Phật A Di Đà lược kể về phần đại khái thời có 4 điều nói:

A. Quang minh thường chiếu suốt các cõi nước ở mười phương không bị che ngăn, như Trong kinh Tiểu bổn A Di Đà nói Quang minh của đức Phật đó vô lượng chiếu các cõi nước ở mười phương không bị chướng ngại, nên hiệu A Di Đà”.

Trong kinh Đại bổn A Di Đà nói: “Giả sử khi ta đặng thành Phật mà quang minh có hạn lượng, ít nhất là chẳng soi suốt trăm nghìn ức na do tha cõi nước của chư Phật, thời ta nguyện không chứng quả chính giác” (điều nguyện thứ 12 trong 48 điều nguyện).

Còn quang minh nơi ứng thân của chư Phật, phần nhiều có hạn lượng, hoặc chiếu một do tuần, 10 do tuần, 100, 1.000… do tuần, hoặc chiếu 1 thế giới, 10, 100, 1.000… thế giới. Như quang minh nơi ứng thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ chiếu có 1 tầm!

Vì quang minh vô lượng nên đức Phật A Di Đà có 12 biệt hiệu như trong Đại bổn kinh:

1. Vô Lượng Quang,
2. Vô Biên Quang,
3. Vô Ngại Quang,
4. Vô Đối Quang,
5. Viêm Vương Quang (có chỗ để Diệm Vương Quang),
6. Thanh Tịnh Quang,
7. Hoan Hỷ Quang,
8. Trí Huệ Quang,
9. Nan Tư Quang,
10. Bất Đoạn Quang,
11. Vô Xứng Quang,
12. Siêu Nhật Quang.

Do đây nên về quang minh thường nơi ứng thân, thời đức A Di Đà được phần thù thắng trong hàng chư Phật vậy.

B. Thọ mạng ứng hiện ra đời của chư Phật phần nhiều đều có hạn lượng; hoặc 100 tuổi, 1.000 tuổi… hoặc 1 kiếp, 10 kiếp, 100 kiếp, 1.000 kiếp, v.v… như đức Phật Thích Ca ở đời chỉ có 80 năm.

Còn về ứng thân của đức Phật A Di Đà, thọ mạng vô lượng. Trong Tiểu bổn kinh nói: “Đức Phật đó sống lâu vô lượng vô biên vô số kiếp, nên hiệu là A Di Đà”. Điều nguyện thứ 13 trong Đại bổn kinh nói: “Giả sử khi ta đặng thành Phật mà thọ mạng có hạn lượng, ít nhất không được trăm nghìn ức na do tha kiếp đó, thời ta nguyện không chứng quả chính giác”. Nên đức Phật A Di Đà cùng hiệu là Vô Lượng Thọ Phật.

Đây là thọ mạng của đức Phật A Di Đà có phần thù thắng trong hàng chư Phật vậy.

C. Về phần đồng cư nơi Cực Lạc, là cõi nước của đức Phật A Di Đà cực kỳ trang nghiêm, thuần vui thanh tịnh, tuyệt không có mảy may khổ não, như trong Đại bổn kinh, Tiểu bổn kinh và Quán kinh đã rộng thuật.

Lại trong bộ Yếu giải nói: “Cực Lạc đồng cư, tứ độ viên dung, thọ lạc viên dung Ở nơi đồng cư độ (cõi phàm) mà viên kiến cả ba bộ trên (3 cõi thánh: Phương tiện độ, Thật báo độ, Thường tịch quang độ cõi trước là cõi của Nhị thừa thánh nhân, kế là cõi của đại Bồ tát, sau rốt là cõi của đức Phật).

Chứ so với các cõi khác, như Ta bà chẳng hạn, nơi chúng ta đồng sống đây chính là đồng cư độ của cõi Ta bà vậy, thời lại đủ thứ uế nhơ, nào tam khổ, bát khổ, vô lượng điều khổ sở ngũ trược v.v… lại hạng phàm phu không thể dự phần nơi cảnh Thánh.

Đây là cõi đức Phật A Di Đà, về phần đồng cư độ có phần đặc biệt trong các cõi nước ở mười phương vậy.

D. Nhân dân trong nước của đức Phật A Di Đà dầu là phàm, nhưng cũng đều trụ bậc “bất thối chuyển”, nghĩa là ở vào địa vị thẳng mãi đến thành Phật, không còn ngưng trệ lui sụt. Nói chi các bậc Thánh! Trong hàng Thánh của nước Cực Lạc, cứ về bậc “Nhất sinh bổ xứ Bồ tát” như ngài Quán Âm Thế Chí, hay là như Di Lặc v.v… số nhiều vô hạn, huống là bậc Thập địa, Địa tiền, cùng Thanh văn Duyên giác! Trong tiểu bổn kinh nói: “Nơi nước Cực Lạc, chúng sinh nào sinh về đó đều là bậc bất thối chuyển. A la hán và Bồ tát đều đồng vô lượng vô biên, không thể tính đếm mà biết được, chỉ có thể gượng nói là vô lượng vô biên vô số thôi”.

Bậc Thánh trong cõi khác hoặc là có số hạn, như cõi Ta bà có 62 ức hằng hà sa vị Bồ tát v.v…

Lại nhân dân nơi Cực Lạc tuổi thọ đồng với Phật, nghĩa là vô lượng, như Tiểu bổn kinh nói: “Thọ mạng của đức Phật đó và thọ mạng của nhân dân của ngài, vô lượng, vô biên, vô số kiếp”.

Đấy là nhân dân, La hán, Bồ tát của đức Phật A Di Đà trong các cõi nước mười phương vậy.

Vì những phần đặc thắng trên đây, nên trong văn nói:

Mười phương chư Phật ba đời, Di Đà bậc nhất.

Đối với chúng sinh, đức Phật A Di Đà có nguyện lực độ sinh rất lớn. Nguyện lực đó rõ ràng nhất là đã nêu bày trong 48 điều nguyện của ngài: những nguyện độ khắp Thánh phàm trong mười phương! Lại trong Quán kinh có câu: “Phật tâm đó là lòng đại từ bi vậy dùng vô duyên từ nhiếp độ các chúng sinh”. Kinh lại nói: “Đức Vô Lượng Thọ Phật có 84.000 tướng, trong mỗi tướng đều có 84.000 tùy hình hảo, trong mỗi hình hảo lại có 84.000 áng sáng, mỗi ánh sáng chiếu khắp các cõi nước ở mười phương. Ánh sáng này nhiếp thủ chúng sinh niệm Phật không lìa bỏ”.

Đức Phật A Di Đà có lòng từ, nguyện lớn, phóng quang minh tiếp độ chúng sinh không lìa bỏ, nên trong văn nói:

Di Đà bậc nhất chẳng rời quần sinh.

Do nguyện lực của đức Phật A Di Đà, nên những người được sinh về cõi Cực Lạc của ngài đều từ trong hoa sen báu nơi ao thất bảo mà hóa sinh, nghĩa là mượn hoa sen làm bào thai mà cho thân hình. Đó gọi là “liên hoa thanh tịnh hóa sinh”, cũng có câu “liên hoa vi phụ mẫu”. Vì người vãng sinh về đó nơi trí có cao thấp, nơi phước có nhiều ít không đồng nhau, nên hoa sen là chỗ thác sinh cũng có nhiều hạng, đại khái chia làm chín phẩm:

1. Thượng phẩm thượng sinh.
2. Thượng phẩm trung sinh.
3. Thượng phẩm hạ sinh (ba phẩm này thuộc bậc đại thừa Bồ tát).
4. Trung phẩm thượng sinh.
5. Trung phẩm trung sinh (hai phẩm đây thuộc hàng nhị thừa Thánh nhân).
6. Trung phẩm hạ sinh (một phẩm đây thuộc hàng có công đức lành ở đời).
7. Hạ phẩm thượng sinh.
8. Hạ phẩm trung sinh.
9. Hạ phẩm hạ sinh (ba phẩm này thuộc về hạng người tạo ác nghiệp).

Cứ nơi chín phẩm trên thấy, thời thấy rằng từ bậc đại thừa Bồ tát, nhị thừa Thánh nhân, người lành tốt trong đời cho đến kẻ tạo ác nghiệp, phạm ngũ nghịch thập ác v.v… mà có gia công niệm Phật, thời đều được vãng sinh về cõi Cực Lạc cả (trừ người hủy báng Tam Bảo).

Đức Phật A Di Đà sẳn đức từ bi nguyện lực, dùng chn phẩm liên hoa báu để chực chờ tiếp dẫn chúng sinh về nước của ngài. Nên trong văn nói:

Sen vàng chín phẩm sẵn dành.

Oai lực linh thông của Phật vô cùng, đức lành của Phật vô cực. Trí quang chiếu phá sự mê tối của chúng sinh khắp mười phương, đó là “oai lực”. Chúng sinh niệm Phật, thời liền hộ niệm giữ gìn cho được an ổn không thối không thất, và hiện vô lượng thân đến khắp vô lượng thế giới để tiếp dẫn chúng sinh về Cực Lạc. Đây là “linh thông”. Tâm của Phật không lúc nào quên chúng sinh, như cha mẹ hiền nhớ con, thương con. Lại không công đức nào mà Phật không hoàn mãn đây là “đức lành”. Như tiểu bổn kinh nói: “Nếu có người thiện nam, người thiện nữ nghe nói đến đức Phật A Di Đà rồi hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, chấp trì danh hiệu nhất tâm bất loạn. Người này đến lúc lâm chung, đức Phật A Di Đà và hàng Thánh chúng hiện ra nơi trước, người lúc chết tâm hồn không điên đảo, liền đặng vãng sinh về nước Cực Lạc của Phật A Di Đà”. Kinh Lăng Nghiêm có câu: “Các đức Như Lai trong mười phương thương nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con”. Lại có câu: “Người nào niệm danh hiệu Phật, thời hào quang của Phật chiếu đến người đó, làm cho các sự tai vạ tà ma, quỷ quái không đến gần được”.

Oai lực linh thông của Phật vô cùng, đức dày của Phật lại vô cực nên văn nói:

Oai linh đức cả đã dành vô biên.

Từ đây nhẫn lên là giải một câu kệ về phần tán thán công đức của Phật:

Mười phương chư Phật ba đời,
Di Đà bậc nhất chẳng rời quần sinh.
Sen vàng chín phẩm sẵn dành
Oai linh đất cả đã dành vô biên.

Đã rõ nơi đức Phật A Di Đà có vô lượng công đức thù thắng nếu không quy y với Phật còn quy y với ai. Quy y là đem cả thân mạng mình nương nơi Phật, gửi nơi Phật, giao phó cho Phật. Lại dùng lòng chí thành mà quy y. Trong văn nói:

Nay con dưng tấm lòng thiềng, quy y với Phật…

Từ thưở trước đến ngày nay, vì say mê nên đã lỡ lầm gây tạo ra không biết bao nhiêu tội lỗi. Ngày nay nhờ nghe kinh thấy Phật mà tỉnh ngộ, đã biết tự xét ăn năn, nên cũng mau mau dùng lòng chí thành mà sám hối tội lỗi, nghĩa là ăn năn tội trước, chừa cải lỗi sau. Nên trong văn nói:

Sám liền tội căn.

Nay tự suy lấy ta – Trong những đời đã qua, chắc có lẽ ta cũng đã có tu tạo ít nhiều phước lành chớ chẳng không, vì nếu không có phước lành thời quyết hẳn là không được sinh làm người, vì loài người thuộc về thiện đạo trong lục đạo. Lại trong kinh nói: gặp được Phật pháp là điều rất khó. Rất khó mà nay ta được nghe, thời chắc chắn ta đã có căn lành sẵn rồi, dầu có nhưng vì ta mê muội nên cách đời mà quên đi. Lại trong đời này, những ngày qua, hiện tại nay, và sau này, thời ta đã có làm lành, hiện tu tập và sẽ vun trồng cội phước. Dầu thế song còn thuộc hạng phàm phu, phiền não, nghiệp chướng đầy dẫy, thời làm lành đâu dám chắc là thiệt lành, làm phước đâu dám tự hào là thiệt phước, chỉ có trí huệ của đức Phật mới có thể nhận thiệt mà thôi, nên trong văn nói:

Phước lành con có chi chăng?

Nương phước mà ở mãi nơi Ta bà, thời chỉ được hưởng sự vui tạm bợ, hết phước tất phải khổ, huống trong vòng luân hồi, từ say mê càng vào mê, hễ mê thời dễ gây nghiệp, đâu bằng đem công đức hồi hướng cầu vãng sinh Cực Lạc thế giới ở Tây phương, để được hưởng sự vui thanh tịnh và bảo đảm giải thoát, đây văn nói:

Ít nhiều quyết cũng nguyện rằng về Tây.

Từ đây trở lên là giải về bốn câu kệ quy y, sám hối và hồi hướng:

Nay con dưng tấm lòng thiềng (thành)

Quy y với Phật, sám liền tội căn.

Phước lành con có chi chăng?

Ít nhiều cũng quyết niệm rằng về Tây.

Pháp lữ đề huề, thân cận thiện hữu, là điều cần thiết mà từ đức Phật đến chư Tổ đều luôn luôn nhắc nhở. Cùng dạy bảo cho nhau, những sự nghĩa chân chính, những lý thú thâm huyền. Cùng nhau đồng hành pháp sự, đồng tu tịnh nghiệp. Cùng nhau tùy hỷ khi đắc ích, khuyên răn lúc sái lười… Mến nhau như ruột thịt, coi nhau như tay chân. Vì thế nên chẳng phải chỉ nghĩ riêng về phần mình, mà tâm tâm niệm niệm không quên mong mỏi cho thiện hữu, cũng như trông cầu cho tự mình, sớm đặng kết thành ứng nghiệm lành trên đường tu tập: chính là nguyện bạn cùng mình, trong ngày hiện tại nơi đời sống này, hoặc lúc thiền quán, hoặc lúc mộng mơ, cảm cách đến Phật, đến Thánh chúng, đến Cực Lạc, mà được thấy kim thân của đức Phật, hoặc thấy hào quang, hoặc thấy liên hoa, hoặc thần du cõi Cực Lạc v.v… để cho lòng tin thêm kiên cố, nguyện hành càng tiến triển. Nên trong văn nói:

Nguyện cùng với bạn tu đây,

Tùy thời cảm ứng hiện ngay điềm lành.

Có nhân tất có quả. Nhân là tu tịnh nghiệp: niệm Phật cầu vãng sinh Cực Lạc quốc. Qủa là khi mãn báo thân trược uế được thác chất liên hoa nơi ao báu ở Tây phương Cực Lạc thế giới. Trước ngày lâm chung, nguyện đức Phật tin cho biết rõ ngày giờ, để vững lòng chờ đợi. Đến lúc lâm chung, xin đức Phật y lời bổn nguyện lực, hiện thân vàng cùng cảnh Thánh cho mình được thấy, nói pháp cho mình được đã được thấy Phật, nghe pháp rồi, thời chính niệm càng tinh tấn, bội hơn ngày thường nên văn nói:

Biết giờ biết khắc rõ rành

Lâm chung tạn mặt cảnh lành Tây phương.

Thấy nghe chính niệm hơn thường.

Chính niệm tinh tấn, tâm không mê muội, không điên đảo liền đặng vãng sinh về nước Cực Lạc thác chất nơi hoa sen thất bảo. Sau khi hoa nở, tâm nhãn khai thông đôi mắt thanh tịnh, thấy rõ thân quang minh tướng hảo của đức Phật, được Phật vì mình mà thuyết pháp mầu, liền ngộ lý vô sinh, chứng bậc bất thối, thoát hẳn vòng sinh tử luân hồi. Rồi cũng như đức Phật, dùng thần thông trí lực, vận dụng từ bi, hiện thân đến thập phương độ khắp mọi loài chúng sinh, đồng được giải thoát như mình đã được giải thoát. Như trong văn:

Vãng sinh lạc quốc đồng nương hoa vàng

Hoa nở thấy Phật rõ ràng

Thoát vòng sinh tử độ an muôn loài.

Từ đây nhẫn lên là giải về 8 câu kệ vì mình vì người mà phát nguyện:

Nguyện cùng với bạn tu đây,

Tùy thời cảm ứng hiện nay điềm lành.

Biết giờ biết khắc rõ rành

Lâm chung tạn mặt cảnh lành Tây phương.

Thấy nghe chính niệm hơn thường.

Vãng sinh lạc quốc đồng nương hoa vàng

Hoa nở thấy Phật rõ ràng

Thoát vòng sinh tử, độ an muôn loài.

Muốn sau khi vào Cực Lạc được ở phẩm cao, thời phải có hạnh nguyện đại thừa vì ba thượng phẩm trong chín phẩm chỉ có đại thừa Bồ tát mới được dự phần. Nên người tu Tịnh độ cần phát “Tứ hoằng thệ nguyện”. Bốn nguyện này là những điều nguyện chung mà tất cả chúng đại thừa ai cũng phải đủ.

I. Thệ dứt tất cả phiền não, dầu là vô biên như văn nói:

Phiền não vô biên, thệ dứt trừ.

II. Nguyện học thông và tu tập tất cả pháp môn chính đạo của đức Phật truyền dạy, dầu là vô lượng như văn nói:

Pháp môn tu học, chẳng còn dư.

III. Lợi tha là chính hạnh của đại thừa, là hoài bão của Bồ tát. Nên thệ độ tất cả chúng sinh dầu là vô tận, độ đến đâu? Độ đến giác ngạn kia. Như nói:

Chúng sinh nguyện độ, bờ kia đến.
IV. Và mục đích cuối cùng, là nguyện mình cùng tất cả muôn loài đồng viên mãn chính trí, chứng nhập như như, tức là thành Phật đạo hoàn toàn, Phật đạo vô thượng. Như văn nói:

Phật đạo cùng nhau chứng trí Như.

Từ đây nhẫn lên là giải về bốn câu hoằng thệ viết theo thể tứ cú để cho có phần đặc biệt, là ý muốn người tụng đến phải chú ý:

Phiền não vô biên, thệ dứt trừ,

Pháp môn tu học, chẳng còn dư,

Chúng sinh nguyện độ, bờ kia đến

Phật đạo cùng nhau chứng trí Như.

Từ đây nhẫn xuống là 4 câu kết thúc lập chí bền chắc, giữ nguyện kiên cố, hư không chẳng bao giờ cùng tận, cái không cùng tận mà giả tỷ cho nó cùng tận đi nữa, nhưng những điều mà đã thệ nguyện ở trên đó, quyết không cùng tận, không mảy may dời đổi. Đây là ý nguyện của ta bền chắc vững vàng hơn cõi hư không. Những loài tình thức (người, vật v.v…) cùng với những loài không tình thức (núi, sông v.v…) khắp trong thế giới, ta đều bình đẳng nguyện cầu cho tất cả đồng viên thành trí huệ nhiệm mầu của Phật. Như văn nói:

Hư không cõi nọ dầu cùng,

Nguyện trên còn mãi chẳng cùng chẳng thiên.

Không tình cùng có đồng nguyền,

Trí mầu của Phật đồng viên đồng thành.

Hỏi: Loài có tình thức tu tập viên thành Phật trí thì phải, còn vô tình sao cũng đồng thành?

Đáp: Có hai nghĩa:

A. Vô tình là y báo, hữu tình là chính báo. Y báo là do chính báo cảm ra. Nên khi chính báo (hữu tình) thành Phật trí thời y báo (vô tình) cũng chuyển thành Phật cảnh. Vì nơi Phật, cảnh cùng trí không sai biệt, nên đồng viên thành Phật trí cũng không ngại, đó là lấy trí nhiếp cảnh vậy.

B. Giác tính ở nơi hữu tình thời gọi là Phật tính, ở nơi vô tình thời gọi là Pháp tính. Phật tính và pháp tính đều là giác tính. Thành Phật là viên chứng giác tính, ráo rốt bình đẳng viên dung, thời đâu còn có hữu và vô sai biệt cách ngại như phàm phu. Như thế, há lại không phải là đồng viên đồng thành đó ư?

(21) Vì muốn cho các điều hạnh nguyện trên được dung thông pháp giới, rộng lớn tuyệt đối, nên tiếp tục mười điều nguyện vương của ngài Phổ Hiền Bồ tát tuyên thuyết nơi Hoa Nghiêm đại hội. Viên mãn 10 nguyện vương này thời tức là mãn quả Phật vậy.

Phật dạy: chúng sinh lưu lãng trong vòng sinh tử, chính là vì trái quên tính giác và dong ruổi theo trần lao. Trần lao là món vô thường nên theo đó tất cả cũng lưu chuyển như nó. Nếu chúng sinh thức tỉnh, biết xét trở lại, rời trần lao mà xoay về giác tính thời hẳn luân hồi, vì giác tính là bổn thể bất động.

Bậc chứng cùng giác tính là đức Phật nên đều nguyện thứ nhất lễ Phật đây là biểu tượng trái trần lao hiệp giác tính. Như văn nói:

Một là nguyện lạy Thế Tôn,

“Phật Thế Tôn” là đấng vô thượng chính giác tôn quý nhất trong thế gian và xuất thế gian.

Lạy Phật như thế nào?

Trong phẩm Hạnh nguyện, ngài Phổ Hiền có giảng giải điều đó như thế này: “Tất cả vi trần số chư Phật ở mười phương ba đời, do ta dùng sức hạnh nguyện Phổ Hiền, nên thâm tâm tin giải như đối trước mắt. Đều dùng thân, ngữ, ý ba nghiệp mà thường cung kính đảnh lễ luôn. Nơi mỗi đức Phật ta đều hiện ra vi trần số thân. Mỗi mỗi thân đảnh lễ khắp vi trần số đức Phật. Sự lễ kính của ta đây không có cùng tận, niệm niệm nối luôn không xó xen hở, ba nghiệp không có nhàm mỏi”.

Trong văn tóm tắt:

Hiện thân trước Phật hết lòng kính tin.

2. Điều nguyện vương thứ hai là “khen ngợi Như Lai”.

Về điều nguyện này trong “Hạnh nguyện phẩm” nói: “Tất cả cõi nước trong mười phương ba đời có bao nhiêu vi trần, trong mỗi vi trần đều có vi trần số Phật, nơi chỗ của mỗi đức Phật đều có hải hội Bồ tát vây quanh. Ta đều phải dùng sức thắng giải hiện tiền tri kiến rất sâu, đều dùng thiệt căn nhiệm mầu hơn cả Biện Tài Thiên nữ. Mỗi mỗi thiệt căn vang ra biển, âm thanh vô tận, mỗi mỗi âm thanh diễn ra biển tất cả lời nói ngợi khen tán thán biển các công đức của tất cả Như Lai, cùng tột thuở vị lai nối luôn không ngớt, tận hư không đều cùng khắp cả”.

Tóm nghĩa kinh, văn nói:

Hai, khen Phật đức rộng thinh,

Lời hay tiếng tốt tận tình ngợi ca.

3. Điều nguyện vương thứ ba là “Rộng sắm cúng dường”.

Hạnh nguyện phẩm giải rằng: Trong vi trần của tất cả cõi nước mười phương ba đời, mỗi mỗi đều có vi trần số cõi Phật, nơi chỗ của mỗi đức Phật, đều có hải hội các hàng Bồ tát vây quanh, ta do sức hạnh nguyện Phổ Hiền mà sinh tri kiến hiện tiền tín giải rất sâu, đều đem các thức đồ cúng dường thượng diệu để mà cúng dường. Những là mây hoa, mây tràng hoa, mây âm nhạc trời, mây tàn lọng, mây y phục trời, các thứ hương trời: hương xoa, hương bột, hương xông… mỗi mỗi thứ mây đó lượng lớn như núi Tu di. Thắp các thứ đèn, đèn tô, đèn dầu, các thứ đèn dầu thơm, mỗi tim đèn lượng như hòn núi Tu di, dầu trong mỗi đèn như nước biển lớn. Dùng các thứ đồ cúng dường như thế thường đem cúng dường.

Này thiện nam tử! Pháp cúng dường là hơn hết trong các cách cúng dường. Đó là: đúng theo lời Phật dạy mà tu hành để cúng dường, làm lợi ích cho chúng sinh để cúng dường, nhiếp thọ chúng sinh để cúng dường, thay thế sự khổ cho chúng sinh để cúng dường, siêng tu căn lành để cúng dường, chẳng bỏ hạnh nguyện Bồ tát để cúng dường, chẳng rời tâm Bồ đề để cúng dường.

Này thiện nam tử! với chừng một phần công đức của pháp cúng dường đem vô lượng phần công đức của tài cúng dường ở trước mà so sánh cũng không bằng một phần trăm, không bằng một phần nghìn, v.v…

Bởi sao? vì các đức Như Lai đều tôn trọng pháp vậy, vì tu hành đúng theo lời Phật dạy thời là xuất sinh các đức Phật vậy. Nếu các vị Bồ tát tu hành về pháp cúng dường, thời việc cúng dường đức Như Lai được thành tựu. Tu hành như thế là chân thật cúng dường. Cho nên đây là sự cúng dường rộng lớn tối thắng…”

Nơi văn lược nói:

Ba, thời sắm đủ hương hoa,

Tràng phan bảo cái dưng ra cúng dường.

4. Điều nguyện thứ tư là “sám hối nghiệp chướng”. “Sám” là phạm âm nói đủ là “sám ma”. Tàu dịch là “Hối quá”. Lấy chữ “sám” trong sám ma còn chữ “hối” trong hối quá mà gọi chung là ‘sám hối”, nghĩa là ăn năn chừa cải. “Nghiệp” là những việc tạo tác không lành của thân, khẩu, ý, nghiệp này nó làm ngại đường lành, nó ngăn đạo Thánh, nên gọi là nghiệp chướng.

Về điều nguyện này, trong phẩm giải rằng:

“Bồ tát tự nghĩ như vầy: ta trong vô thỉ kiếp về quá khứ, do lòng tham lam, sân hận, ngu si, phát ra nơi khẩu, ý mà đã làm ra vô lượng vô biên nghiệp chẳng lành. Nếu nghiệp ác đó mà có thể tưởng thiệt, thời tất cả cõi hư không cũng không thể dung thọ cho hết. Nay ta đều đem ba nghiệp thanh tịnh, đối khắp trước tất cả chư Phật cùng chúng Bồ tát, mà thành tâm sám hối, về sau không phạm nữa, luôn trụ nơi giới pháp thanh tịnh tất cả công đức…”

Trong văn nói:

Bốn, vì mê chấp lầm đường,

Tham sân nghiệp chướng con thường sám luôn.

5. Điều nguyện vương thứ năm là “tùy hỷ công đức”.

Thấy người khác có công đức mà mình thật tâm vui mừng tán thành, đó gọi là “tùy hỷ công đức”.

Về điều nguyện này, trong phẩm giải rằng:

Vi trần số chư Phật Như Lai, từ khi mới phát tâm vì cầu nhất thiết chủng trí mà siêng tu phước và huệ, chẳng tiếc thân mạng, trải qua vi trần số kiếp. Trong mỗi kiếp xả thí vi trần số đầu mắt tay chân, thật hành tất cả hạnh khổ khó làm như thế. Viên mãn các môn Ba la mật, chứng nhập các trí địa Bồ tát, thành tựu đạo vô thượng Bồ đề của chư Phật cho đến nhập Niết bàn phân chia Xá Lợi… Nơi đức Phật có bao nhiêu thiện căn thời ta đều tùy hỷ cả.

Và trong tất cả thế giới ở mười phương kia tất cả mọi loài lục đạo tứ sinh… có bao nhiêu công đức cho đến chừng một mảy trần ta đều tùy hỷ cả.

Tất cả Thanh văn và Bích Chi Phật, hàng hữu học cùng vô học trong mười phương ba đời, có bao nhiêu công đức ta đều tùy hỷ cả.

Bao quát nghĩa trên, trong văn nói:

Năm, suy công đức vàn muôn,

Của Phàm (tứ sinh) của Thánh (Phật, Bồ tát) con đồng vui ưa.

6. Điều nguyện vương thứ sáu là “Thỉnh chuyển pháp luân”.

“Thỉnh” là cầu thỉnh với đức Phật. “Chuyển” là diễn nói dạy trao. “Pháp luân” có hai nghĩa:

A. Vòng pháp, ý nói không cùng không tận, vô thỉ vô chung, không thể phân biệt nghĩ bàn, như vòng tròn.

B. Bánh xe pháp. Pháp của đức Phật có thể đưa người tu hành từ mê đến giác, từ phàm đến Thánh, từ khổ sang vui, từ sinh tử đến trường tồn lại hay phá trừ tứ ma các chướng v.v… Như bánh xe lăn từ đây sang kia, cán rạp chông gai sạn sỏi v.v…

Trong Hạnh nguyện phẩm giải rằng: “Trong vi trần của tất cả cõi nước ở mười phương ba đời, mỗi mỗi đều có vi trần số cõi nước rộng lớn, trong mỗi cõi nước niệm niệm đều có vi trần số đức Phật thành bậc Đẳng Chính Giác, mỗi đức Phật đều có tất cả hải hội Bồ tát vây quanh. Ta đều dùng thân, khẩu, ý đủ các phương tiện, để ân cần thỉnh tất cả chư Phật chuyển diệu pháp luân…”.

Bày nghĩa trên, văn nói:

Sáu, khi Phật chứng thượng thừa,
Pháp mầu con thỉnh đã vừa truyền trao.

“Thượng thừa” chính là tối thượng thừa, là Phật thừa chứng Phật thừa là thành Phật. “Pháp mầu” là vi diệu pháp luân. “Đã vừa” là vừa đến thời, vừa phải cơ.

Đức Phật thành Phật là vì chúng sinh mà thành Phật. Đã vì chúng sinh sao còn chờ cầu thỉnh?

a. Vì muốn cho chính pháp có phần quý trọng, có quý trọng mọi người mới sinh lòng hi hữu khao khát ngưỡng vọng, có khao khát ngưỡng vọng mới có thể được lợi ích.

b. Lòng của Bồ tát lúc nào cũng tha thiết nong nả đối với sự lợi người lợi mình. Mình cùng người được lợi không gì bằng được nghe Phật thuyết pháp, nên đức Phật chưa nói, mà Bồ tát đã cầu thỉnh trước.

7. Điều nguyện vương thứ bảy là “thỉnh Phật trụ lại đời”.

Trong Hạnh nguyện phẩm giải rằng: “vi trần số chư Phật Như Lai trong mười phương ba đời toan muốn nhập Niết bàn, và các Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác, hữu học, vô học, cho đến các vị thiện tri thức… ta đều cầu thỉnh tất cả xin chớ nhập Niết bàn, xin ở mãi nơi đời trải qua vi trần kiếp vì muốn cho tất cả chúng sinh được lợi lạc…”

Như trong văn nói:

Bảy, lòng chẳng chút lãng xao,
Cầu xin chư Phật chớ vào vô dư!

“Lòng chẳng lãng xao” là tâm tâm niệm niệm cầu thỉnh luôn không ngừng không hở. “Vô dư” là vô dư y Niết bàn. “Niết bàn”, là cảnh giới sở chứng của các bậc Thánh xuất thế, nơi đó “tịch tịnh an thường”, “tịch tịnh an thường là nghĩa chính của “Niết bàn” khác hẳn với cảnh phàm phiền nhiễu loạn động.

Niết bàn có 4:

1. Hữu dư y Niết bàn
2. Vô dư y Niết bàn
3. Vô trụ xứ Niết bàn
4. Tinh tịnh Niết bàn.

Đây về vô dư y Niết bàn, là quả Niết bàn không còn thừa những báo và vô minh. Báo là thân hiện tại nơi thế. Ngoài đức Phật ra, từ Đẳng giác Bồ tát trở xuống đến Bích chi Phật, A la hán, đều còn vô minh. Nên cứu cánh vô dư y Niết bàn chỉ có bậc Phật là cùng tột.

Các bậc Thánh xuất thế không còn hệ lụy trong vòng sinh tử, nên muốn ở đời bao lâu vẫn được tự tại vô ngại. Do đó mới khuyến thỉnh vậy.

8. Điều nguyện vương thứ tám là “Thường học theo Phật”.

Trong Hạnh nguyện phẩm giải rằng: “Như đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai trong cõi Ta bà này, từ khi mới phát tâm, thời tinh tấn luôn không lui sụt. Đem bất khả thuyết bất khả thuyết thân mạng mà bố thí. Ngài lột da làm giấy, chẻ xương làm viết, chích máu làm mực, để biên chép kinh điển, chứa nhiều như núi Tu di. Vì trọng pháp mà ngài không tiếc thân mạng, huống nữa là ngôi vua, thành ấp v.v… và các hạnh khổ khó làm khác. Cho đến dưới gốc cây ngài chứng quả Bồ đề. Ngài thị hiện và các món thần thông, khởi các thứ biến hóa hiện các hạng Phật thân ở các nơi chúng hội: hoặc ở trong chúng hội đạo tràng của các bậc đại Bồ tát, hoặc chúng hội đạo tràng Thanh văn, Bích chi Phật, cho đến chúng hội đạo tràng của Thiên, Long, bát bộ… Ở trong những chúng hội như thế, ngài dùng âm thanh viên mãn như sấm lớn vang dội, tùy theo chỗ hạp nghi của mỗi chúng hội mà nói pháp giáo hóa chúng sinh cho đến ngài thị hiện nhập Niết bàn. Tất cả công hạnh của ngài như thế ta đều học theo. Như với đức Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn với tất cả chư Phật ở mười phương ta cũng luôn luôn học theo cả.

Ngụ bày những ý nghĩa trên, trong văn nói:
Nguyện thường tu học Ðại thừa,
Bao giờ bằng Phật mới vừa lòng con.
Đã muốn bằng Phật sẽ tất nhiên là phải học theo Phật.

9. Điều nguyện thứ chín là “tùy thuận chúng sinh luôn”.

“Tùy thuận” đây chính ý là thiết tha lân mẫn chúng sinh, chiều theo chỗ hạp nghi, lòng nguyện vọng trong sạch của chúng sinh, mà thi hành những phương pháp gì để chúng sinh được lợi ích trên đường giải thoát khỏi khổ.

Hạnh nguyện phẩm giải rằng: “Bao nhiêu chúng sinh chủng loại sai khác ở mười phương, những là loài tứ sinh, hoặc loài nương nơi đất, nước, gió, lửa mà sinh trụ. Hoặc là loài nương nơi hư không và cỏ cây mà an trụ… cho đến Thiên, Long bát bộ, người cùng phi nhân, hoặc loài không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, loài có sắc không sắc, có tưởng không tưởng v.v… Ở nơi các thứ như thế, ta nên tùy thuận mà thật hành những điều kính thờ, cúng dường, kính như kính cha mẹ, sư trưởng, A la hán cho đến như kính đức Như Lai không khác.

Với kẻ bệnh khổ thời ta là ông lương y; với kẻ lạc đường thời ta là người chỉ con đường chính; với kẻ trong đêm tối thời ta là người soi sáng; với kẻ nghèo cùng thời ta làm cho họ được kho báu. Bồ tát bình đẳng, lợi ích tất cả chúng sinh như thế. Tại làm sao? Vì nếu có thể tùy thuận chúng sinh, thời là tùy thuận cúng dường chư Phật, ở nơi chúng sinh nếu có thể tôn trọng thừa sự Như Lai, nếu làm cho chúng sinh sinh lòng vui mừng thời là làm cho tất cả đức Như Lai vui mừng.

Tại làm sao? Vì chư Phật Như Lai dùng tâm đại bi mà làm thể vậy.

Nhân nơi chúng sinh mà sinh lòng đại bi, nhân nơi đại bi mà phát Bồ đề, nhân tâm Bồ đề mà thành bậc Đẳng Chính Giác.

Ví như trong đồng trống sa mạc có cây thọ vương lớn, nếu như cây đó được thấm nhuần, thời nhánh lá bông trái thảy đều sum suê.

Cây thọ vương trong đồng trống sinh tử cũng lại như thế, tất cả chúng sinh là gốc rễ của cây, chư Phật, Bồ tát là bông trái. Dùng nước đại bi làm lợi ích cho chúng sinh, thời tất có thể thành tựu bông Bồ tát cùng trái trí tuệ của chư Phật.

Bởi sao vậy? Vì nếu các Bồ tát dùng nước đại bi làm lợi ích cho chúng sinh thời có thể thành tựu vô thượng chính đẳng chính giác. Vì thế Bồ tát thuộc nơi chúng sinh, nếu không chúng sinh, thời tất cả Bồ tát trọn hẳn chẳng hề thành bậc vô thượng chính đẳng chính giác. Này thiện nam tử! Đối với nghĩa đó, ông nên hiểu như thế.

Bởi ở nơi chúng sinh mà tâm bình đẳng, thời có thể thành tựu đức đại bi viên mãn. Dùng lòng đại bi để tùy thuận chúng sinh như thế…”

Lược nghĩa trên, văn nói:

Chín, thề chẳng dám mỏi mòn,
Dắt dìu muôn loại đều tròn pháp thân.

“Pháp thân” là thân của chư Phật. Độ muôn loài viên mãn Phật quả chính là chỗ tùy thuận cứu cánh làm lợi ích cho chúng sinh vậy.

10. Điều nguyện vương thứ mười là “Đều hồi hướng khắp cả”.

Trong Hạnh nguyện phẩm giải rằng: “Từ việc lễ bái” đầu tiên cho đến “tùy thuận chúng sinh” mà có bao nhiêu công đức, ta thảy đều đem cả hồi hướng cho tất cả chúng sinh. Ta nguyện cho chúng sinh thường được an vui, không có các bệnh khổ. Như họ có muốn làm việc ác, thảy đều không thành. Còn những nghiệp lành của họ tu, thời đều mau thành tựu. Đóng bít tất cả cửa ác đạo, mở bảy đường chính: nhân, thiên, Niết bàn.

Nếu các chúng sinh, nhân vì họ gây tạo các nghiệp mà phải cảm vời lấy quả khổ rất nặng, thời ta nguyện chịu thế, để cho chúng sinh đó đặng giải thoát, rốt ráo thành tựu đạo vô thượng chính giác.

Bồ tát tu nguyện hồi hướng như thế…”
Gồm ý trên, trong văn nói:
Mười, đem tất cả công huân,
Mọi loài cùng hưởng, khắp trần cùng vui.

Trong Hạnh nguyện phẩm, sau khi giảng giải mười điều nguyện vương xong, nơi đoạn đắc ích, về trường hàng có nói như vầy: “Lại nữa, người đó lúc mạng chung đến sát na rốt sau, tất cả các căn thảy đều tán, hoại, tất cả hàng thân thuộc đều xa lìa, tất cả oai thế đều thối thất, nào quan phụ tướng đại thần, nào cung thanh nội ngoại, voi ngựa xe cộ của báu kho đụn… tất cả những món như thế không còn theo nhau, chỉ có 10 nguyện vương chẳng xa rời nhau, trong tất cả lúc nó dẫn đường nơi trước, trong khoảng một sát na liền đặng vãng sinh về cõi Cực Lạc. Đến rồi, liền thấy đức Phật A Di Đà, ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, ngài Phổ Hiền Bồ tát, ngài Quán Tự Tại Bồ tát, ngài Di Lặc Bồ tát v.v…

Và về phần kệ có những câu này:

Nguyện đến lúc tôi sắp mạng chung
Sạch trừ tất cả những chướng ngại,
Tận ắt thấy đức A Di Đà
Liền đặng vãng sinh về Cực Lạc,
Phật kia chúng hội đều thanh tịnh,
Ta liền từ thẳng liên hoa sinh,
Thấy rõ đức Phật Vô Lượng quang,
Hiện tiền trao tôi “Bồ đề ký”
Được đức Như Lai thọ ký xong,
Tôi hóa vô số trăm ức thân,
Sức trì “rộng lớn” khắp mười phương,
Lợi ích tất cả cõi chúng sinh.

Vì nương theo văn trong phẩm mà cũng chính là mục đích của người tu về pháp môn tịnh độ, nên sau mười nguyện liên tiếp nói:

Phổ Hiền nguyện lớn nguyện rồi,
Nguyện về Cực Lạc nguyện ngồi tòa sen.

Tất cả những đoạn giải thích trên đây, toàn là y cứ nơi kinh cả. Hoặc khi tụng sám văn, hoặc lúc xem thích nghĩa, chính đó là tụng xem nghĩa lý trong kinh thời công đức vô lượng. Như trong phẩm có nói: “Như có người thiện nam, người thiện nữ nào dùng của báu thượng diệu đầy đủ cả vi trần thế giới v.v… để bố thí chúng sinh trong tất cả thế giới, để cúng dường cho chư Phật, Bồ tát trong tất cả thế giới luôn luôn như vậy trải đến vi trần số kiếp không ngớt, công đức của người thiện nam hay thiện nữ này đặng sánh không bằng một phần trăm công đức, một phần nghìn công đức v.v… của người nghe nguyện vương này một phen thoáng qua tai…

Công đức của chúng sinh nào đọc tụng nguyện vương này và khắp vì người mà giảng nói, ngoài đức Phật ra không ai có thể biết được.

Dầu thế nào, đây cũng thuộc về phần tóm tắt. Nếu người nào muốn hiểu biết rõ ràng đầy đủ hơn, xin tụng đọc những bộ này:

1. Phật thuyết A Di Đà kinh, tức là tiểu bổn A Di Đà kinh.
2. Vô Lượng Thọ kinh, tức là Đại Bổn A Di Đà kinh.
3. Quán Vô Lượng Thọ kinh tức là Quán kinh.
4. Phổ Hiền hạnh nguyện phẩm.

-o0o-

NAM MÔ ĐẠI THÁNH ĐẠI TỪ
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.

Trang 1 2 3