LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN (2)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận.
Hán dịch: đời Chu, Tam Tạng Thật Xoa Nan Đà
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN TÂN DỊCH – TỰA

Đồng thanh thì thích ứng, hợp đạo tự nhiên gần, vì giáo pháp hùng vĩ nầy là mạng mạch của tông chỉ dựa vào để tuyên dương với Pháp tử. Pháp vương xưa lưu truyền quy phạm nhờ đó truyền nhau thuật lại với bề tôi xưa nay. Vì Đức chắc chắn không đơn lẻ, Thánh không hề ứng hiện rỗng lặng. Luận Khởi Tín là bí điển của hệ tư tưởng Đại thừa. Hơn năm trăm năm sau khi Đức Phật diệt độ, có Bồ-tát Mã Minh xuất hiện giữa thế gian. Đương thời xưng gọi là vầng Mặt trời thứ tư, Đạo vương của cõi trời thứ năm, chuyển vận bánh xe Bất thoái, xây dựng pháp Nhẫn vô sanh, khắc vào trí ấn Tổng trì, ở nhà Chân không rốt ráo, được Ba xa phú chúc, gặp Thích tôn viễn ký, khéo nói Pháp yếu mở đường dẫn lối bến mê, mong muốn làm cho quần sanh nảy mầm tín căn bất hoại, gieo trồng Phật chủng khó suy, nên làm ra luận nầy. Làm thành luận ấy là chỉ ra vật quý vô giá, giải thích về Tối thượng thừa, phát triển hằng sa pháp môn, chỉ ở tại lòng người, mở kho tàng bí mật của chư Phật, vốn có từ một tâm nầy, loại bỏ cố chấp mà không mất đi sự chân thật, giữ lại tu tập mà cũng quên đi tướng trạng của nó, văn ít mà thâu gồm nhiều nghĩa, mượn danh mà hội nhập tông chỉ sâu xa. Lỗi lạc thay! Vầng trăng trí tuệ sáng rực giữa bầu trời quang đãng. Cuồn cuộn ngút ngàn thay! Dòng sông thiền định chảy vào biển cả lý tánh, bỏ mê mờ trở về nguồn cội không có con đường nào không đi qua đây.

Luận nầy truyền đến phương Đông (Trung Hoa) tổng cộng trải qua hai lần phiên dịch, Bản dịch đầu tiên là do Tam Tạng Pháp sư người vùng Tây Ấn Độ tên gọi là Ba La Mạt Đà, ở đây gọi là Chân Đế, từ ngày 10 tháng 9 năm Quý Dậu vào niên hiệu Thừa Thánh năm thứ ba thời Lương Vũ Đế, ở tại chùa Kiến Hưng, quận Thỉ Hưng, Hoành Châu, cùng với Sa-môn Trí Khải người Dương Châu đã phiên dịch. Bản nầy (Tân dịch) chính là do Tam Tạng Pháp sư Thật Xoa Nan Đà người nước Vu Điền, ôm bản Phạn văn đến đây. Lại vào trong tháp Từ Ân vùng Tây Kinh, gặp được bản Phạn văn đã từng có, cùng với các vị Samôn Nghĩa Học, Kinh Châu, Hoằng Cảnh, Sùng Phước, Pháp Tạng, vào ngày 8 tháng 10 năm Quý Hợi niên hiệu Thánh Lịch năm thứ ba thời Đại Chu, ở tại chùa Thọ Ký, cùng với Kinh Hoa Nghiêm theo thứ tự mà phiên dịch. Sa-môn Phục Lễ ghi lại, mở ra thành hai cuốn, nhưng cùng với bản dịch cũ đương thời có lúc lộ rõ, có lúc ẩn đi, đại khái là ý muốn của người phiên dịch. Vả lại, bản Phạn văn không phải là như nhau. Nói đến lý u huyền thì khó tin, đạo tôn quý thì ma thịnh hành, huống hồ đang là thời kỳ kiếp trược thì càng tăng thêm gấp bội! Vì thế khiến cho hạng có cách nhìn lệch lạc, chấp vào Thành Duy Thức mà phỉ báng luận nầy, đúng sai lẫn lộn với nhau. Đã biểu hiện ở trên ngôn ngữ tức thì làm sáng tỏ lúc lắng nghe, Phương Đẳng là vị cam lồ trở thành chất thuốc độc. Nên kinh nói: “Chỉ có Phật với Phật mới có năng lực suy xét tận cùng Thật tướng của các pháp”. Lẽ nào có thể vội vàng lấy tâm phàm phu đánh giá suy lượng nơi tông chỉ bậc Thánh sao?

Nói đến Chân như là tánh của vật. Đầy đủ nghiệp dụng khó nghĩ suy, tàng trữ công đức thù thắng của Bất không, bên trong huân tập vọng pháp khiến cho phát sanh tâm lý chán bỏ và mong cầu. Vì thế Kinh Thắng Man nói: “Vì có Như Lai tạng, khiến chán bỏ nỗi khổ sanh tử vui mừng cầu được Niết-bàn”. Kinh nầy lại nói: “Người hạng xiển đề, vị lai nhờ năng lực của Phật tánh, mà thiện căn phát sanh trở lại. Như ngọc quý trong suốt kia có năng lực làm trong nước đục”. Nghĩa lý thù thắng nầy là luôn luôn tốt đẹp, khác nào bầu trời rộng lớn không hề ghi nhận. Do đó kinh nói: “Phật tánh thường hằng nên không phải là ba đời thâu tóm, hư không không có nên chẳng phải ba đời thâu gồm”. Lẽ nào chấp sự không mà giống như là chân lý?

Luận về vọng thì dựa vào lý nên không nhận ra chân tánh, đi theo dòng chảy trở thành sai lầm trôi nổi không ngừng. Do đó kinh nói: “Tùy theo nơi lưu chuyển đó phát sanh các loại phân biệt hư vọng”. Lại trong kinh Lăng Già nói: “Như Lai tạng bị huân tập do những yếu tố giả dối và thói quen xấu ác từ vô thỉ, gọi là thức tạng”. Kinh Mật Nghiêm nói: “Đức Phật thuyết về Như Lai tạng, cho là A-lại-da”. Tuệ ác không có năng lực nhận biết, tạng chính là thức Lại-da, tuy đang ràng buộc mà thể trong sáng, tánh không thay đổi nhưng trở thành mê muội. Do đó kinh nói: “Đúng là vị thuốc đích thực thì lưu lại ở trên núi, giống như trăng tròn”. Lại nói: “Tuy ở trong năm nẻo nhận chịu thân hình sai khác, mà Phật tánh nầy thường hằng bất biến”. Nếu như nói Chân không huân tập vọng, vọng không huân tập chân, Chân và vọng là hai loại khác nhau lẽ nào lĩnh hội được Trung đạo? Vì thế trong Luận Lương Nhiếp nói: “Trí tuệ rất mù mờ đen tối, nói là Chân, tục cố chấp khác nhau”. Nay thì Chân trở thành Thể vọng, vọng mượn Chân làm thành, tánh tướng đều lưu thông, nhất dị cùng loại bỏ. Nên Kinh Mật Nghiêm nói: “Như Lai là kho tàng thanh tịnh, thế gian là A-lại-da thức, như vàng cùng với nhẫn đeo tay, chuyển qua chuyển lại không phân biệt”. Thánh giáo rõ ràng, nơi nào dẫn đến nghi ngờ? Vì vướng vào tướng mà trái với Chân, tìm ngọn mà bỏ mất gốc, ngôn từ vượt qua quy củ, chuyển động trở thành hý luận, tự để cho Thánh Hiền quở trách rất đáng xót thương thay!

Tôi từ lúc thơ dại đến nay, chuyên tâm vào luận nầy, nghiền ngẫm mãi không thôi, đọc tụng quên mệt mỏi, vụng về học hỏi truyền bá hơn hai mươi lần, tuy chưa suy xét kỹ nghĩa lý sâu xa, mà biết sơ qua ý văn, cho là gương sáng của Đại thừa chẳng pháp nào hơn được luận nầy. Hy vọng người có đức hạnh cùng tông chỉ và tư tưởng, luôn luôn xem luận văn nầy, ngõ hầu mỗi ngày tiến vào một sâu hơn, đành cố làm bài tựa dẫn lối nói như vậy.

 

LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN

QUYỂN THƯỢNG

Quy mạng chư Phật khắp mười phương
Tạo lợi ích to lớn mọi nơi
Bậc cứu giúp che chở thế gian
Trí tuệ tự tại không giới hạn.
Cùng với đại dương Thể tướng ấy
Pháp vô ngã câu nghĩa rõ ràng
Tăng kho giữ công đức vô biên
Nỗ lực cầu mong quả Chánh giác.
Do vì muốn làm cho chúng sanh
Trừ nghi ngờ loại bỏ chấp tà
Khởi tín kế thừa dòng giống Phật
Nên con soạn ra luận nầy.

Luận nói: Vì muốn phát khởi niềm tin trong sáng đối với Đại thừa, đoạn dứt những nghi ngờ đen tối và chấp trước sai lầm của chúng sanh, khiến chủng tánh Phật nối tiếp nhau không ngừng, nên soạn ra luận nầy.

Có pháp có năng lực phát sanh tín căn của Đại thừa, vì vậy cần phải nói ra. Nói ra có năm phần:

  1. Tác nhân.
  2. Lập nghĩa.
  3. Giải thích.
  4. Tu tín.
  5. Lợi ích.

Trong nầy, phần Tác nhân có tám:

1. Tổng tướng, vì khiến cho chúng sanh xa rời đau khổ, đạt được yên vui, không vì tham cầu danh vọng và mọi điều lợi dưỡng.

2. Vì hiển bày thật nghĩa căn bản của Như Lai, khiến các chúng sanh phát sanh lý giải chính đáng.

3. Vì khiến cho thiện căn được thành thục và chúng sanh không thoái lui tâm tín, đối với giáo pháp Đại thừa có đủ năng lực để đảm nhận.

4. Vì khiến cho chúng sanh có thiện căn ít ỏi, phát khởi tâm tín đến mức không còn thoái lui.

5. Vì khiến cho chúng sanh tiêu trừ mọi nghiệp chướng, điều phục tự tâm mình xa rời ba độc.

6. Vì khiến cho chúng sanh tu tập đích thực phương pháp Chỉ và Quán, đối trị tâm sai lầm của hàng phàm phu, Tiểu thừa.

7. Vì khiến cho chúng sanh tư duy đúng như lý đối với giáo pháp Đại thừa, được sanh ra trước nơi Đức Phật và kết quả cuối cùng là không lui thoái niềm tin vào Đại thừa.

8. Vì hiển bày lợi ích của niềm tin vui với Đại thừa, khuyến khích mọi hàm thức khiến họ hướng đến trở về.

Những câu nghĩa nầy trong kinh Đại thừa tuy đã có nói đến, nhưng do căn cơ được hóa độ có mong muốn không như nhau nên duyên đối đãi khác nhau, vì vậy soạn ra luận. Điều nầy lại nói thế nào? Nghĩa là lúc Như lai còn ở đời, chúng sanh được hóa độ thường là hàng lợi căn, thấy sắc tâm của Phật thù thắng, một âm thanh phát ra làm thông suốt vô biên nghĩa lý nên không cần tạo luận. Sau khi Đức Phật nhập Niếtbàn, hoặc có người có năng lực dùng sức mình, thấy ở nơi kinh ít mà hiểu rõ nhiều nghĩa. Lại có người có năng lực dùng sức mình xem nhiều kinh điển cho đến hiểu rõ nghĩa lý. Hoặc có người tự mình không có trí lực nhờ người khác luận bàn mở rộng mà được hiểu rõ nghĩa lý. Cũng có người tự mình không có trí lực sợ nói rộng, thích nghe luận tóm lược thâu tóm nghĩa lý rộng lớn mà tu hành một cách đúng đắn. Nay tôi vì hạng người sau cuối ấy, sơ lược thâu tóm vô biên nghĩa lý rất sâu xa và tốt đẹp nhất của Như Lai, soạn ra luận nầy.

Phần lập nghĩa nói gì? Nghĩa là hệ thống tư tưởng Đại thừa sơ lược có hai loại: Hữu pháp và pháp. Nói là hữu pháp, nghĩa là tâm của tất cả chúng sanh, tâm nầy thì thâu gồm hết thảy pháp thế gian và pháp xuất thế gian, dựa vào đây biểu hiện rõ nghĩa lý Đại thừa. Vì tâm nầy là tướng Chân như, tức nêu ra cái thể của Đại thừa, tâm nầy là tướng của nhân duyên sanh diệt, có thể biểu hiện rõ ràng thể, tướng, dụng của Đại thừa. Nói về pháp, tóm lược có ba loại:

1. Thể đại, nghĩa là tất cả các pháp Chân như dù là nhiễm hay tịnh nhưng tánh vẫn luôn luôn bình đẳng, không tăng không giảm không có gì sai khác.

2. Tướng đại, nghĩa là Như Lai tạng xưa nay đầy đủ vô lượng vô biên tánh của mọi công đức.

3. Dụng đại, có năng lực phát sanh tất cả nhân quả tốt đẹp của thế gian và xuất thế gian, hết thảy chư Phật vốn đã vận dụng, hết thảy Bồtát đều nhờ vào đây mà tiến vào quả vị Phật.

Phần giải thích nói gì? Phần nầy có ba vấn đề, đó là:

  1. Biểu hiện rõ về thật nghĩa.
  2. Đối trị các chấp tà.
  3. Phân biệt tướng tu hành của chánh đạo.

Trong đây biểu hiện rõ về thật nghĩa là dựa vào một tâm có hai phương diện, đó là: Phương diện tâm chân như và phương diện tâm sanh diệt. Cả hai phương diện nầy đều thâu tóm tất cả các pháp, vì hai phương diện nầy lần lượt không tách rời nhau. Tâm chân như chính là thể đồng nhất của pháp giới, là đại tổng tướng của mọi pháp môn. Vì bản tánh của tâm là trạng thái bất sanh bất diệt, tất cả các pháp đều do vọng niệm mà có sai biệt, nếu như tách rời vọng niệm thì không còn tướng trạng sai biệt của cảnh giới. Vì vậy các pháp từ xưa đến nay là tánh xa rời ngôn ngữ, tất cả văn tự không có năng lực giải thích hay biểu hiện, xa rời tâm bám theo duyên thì không có mọi tướng trạng, hoàn toàn bình đẳng, vĩnh viễn không hề chuyển biến không thể phá hủy, chỉ là một tâm nên nói là chân như. Do chân như cho nên từ xưa đến nay không thể giảng giải, không thể phân biệt. Tất cả ngôn từ nói năng chỉ là giả tạo chứ không chân thật, chỉ tùy theo vọng niệm mà không hề có gì. Nói là Chân như, thì Chân như nầy cũng không có tướng trạng, chỉ là tận cùng của hết thảy ngôn ngữ nói năng, dùng ngôn ngữ loại trừ ngôn ngữ, không phải là thể tánh đó có một chút gì đáng loại trừ hay một chút gì có thể thiết lập.

Hỏi: Nếu là như vậy thì chúng sanh làm thế nào tùy thuận mà thức tỉnh tiến vào? Đáp: Nếu như biết tuy nói tất cả các pháp nhưng không có chủ thể giảng giải và đối tượng được giảng giải, tuy phân biệt tất cả các pháp nhưng không có chủ thể phân biệt và đối tượng phân biệt, lúc nầy tùy thuận không còn vọng niệm, đó chính là gọi thức tỉnh tiến vào.

Vả lại, Chân như ấy dựa vào ngôn ngữ mà thành lập thì có hai loại khác biệt:

1. Chân thật không, là hoàn toàn tách rời tướng trạng không thật mà biểu hiện thật thể.

2. Chân thật bất không, vì bản tánh có thể của nó và đầy đủ mọi công đức không giới hạn.

Lại nữa, Chân thật không ấy từ xưa đến nay không tương ưng với tất cả các pháp nhiễm ô, tách rời tướng trạng sai biệt của tất cả các pháp, không có tâm phân biệt hư vọng. Phải nhận thức Chân như chẳng phải có tướng, chẳng phải không có tướng, chẳng phải có, không có tướng; không chẳng phải có, không có tướng. Chẳng phải đồng nhất, chẳng phải khác nhau, chẳng phải đồng nhất, khác biệt; không chẳng phải đồng nhất, khác biệt. Nói tóm lại, vì tất cả chúng sanh phân biệt sai lầm tâm vốn không thể nào tiếp xúc được nên nói là không. Căn cứ vào đạo lý chân thật, thì vọng niệm không phải là có, do đó tánh không cũng không. Vì đối tượng bị che lấp là không có, thì chủ thể che lấp cũng không có.

Nói về Chân thật bất không, thì vì vọng niệm rỗng lặng không có, tức là biểu hiện Chân tâm thường hằng bất biến đầy đủ trọn vẹn các pháp thanh tịnh nên gọi là bất không. Cũng không có trạng thái bất không, vì không phải là chốn hành của tâm vọng niệm, chỉ là sự chứng thực tách rời mọi phân biệt mà thôi.

Về phương diện tâm sanh diệt, nghĩa là dựa vào Như Lai tạng mà chuyển sang có tâm sanh diệt, không sanh diệt cùng với sanh diệt hòa hợp không phải đồng nhất cũng không phải khác biệt, gọi là thức A-lạida. Thức nầy có hai loại nghĩa: Có năng lực thâu tóm tất cả các pháp và có năng lực phát sanh tất cả các pháp. Lại có hai loại nghĩa lý:

  1. Nghĩa về giác.
  2. Nghĩa về bất giác.

– Nói về nghĩa giác, đó là tánh đệ nhất nghĩa của tâm nầy xa rời tất cả các trạng thái vọng niệm, xa rời như thế, nên bao la như hư không chẳng nơi nào là không bao phủ. Pháp giới đồng nhất tướng chính là Pháp thân bình đẳng của hết thảy Như Lai. Dựa vào Pháp thân nầy, nói hết thảy Như Lai là Bổn Giác, vì đối lại với Thỉ Giác mà thành lập Bổn Giác. Nhưng lúc là Thỉ Giác lại chính là Bổn Giác, không có Giác nào riêng được khởi lập.

Thỉ Giác, nghĩa là căn cứ vào Bổn Giác mà có Bất Giác, dựa vào Bất Giác nên nói là có Thỉ Giác. Lại vì nguồn gốc của tâm là giác nên gọi là Giác cứu cánh, nguồn gốc của tâm là Bất Giác nên không phải là Giác cứu cánh. Như người phàm phu, niệm trước không giác ngộ dấy lên mọi phiền não, niệm sau kìm chế lại làm cho không tiếp tục sanh khởi, lúc nầy tuy gọi là giác mà chính là Bất giác. Như người hàng Nhị thừa và Bồ-tát mới phát tâm, giác ngộ có ý niệm, không có ý niệm thì sai khác về thể tướng, vì xả bỏ sự phân biệt về phần thô, nên gọi là giác Tương tự. Như Pháp thân Bồ-tát, giác ngộ niệm và vô niệm đều không có trạng thái, xả bỏ sự phân biệt thuộc loại trung bình, nên gọi là Tùy phần giác. Nếu như vượt lên trên địa cuối cùng của Bồ-tát đầy đủ đạo quả, một niệm tâm giác ngộ tương ưng bắt đầu khơi dậy, mới gọi là giác. Rời xa trạng thái giác đến cuối cùng hết sạch mọi sự phân biệt vi tế, tánh căn bản của tâm thường trú hiện rõ ở trước, đây chính là Như Lai, gọi là giác cứu cánh. Vì vậy trong kinh điển đã nói: “Nếu có chúng sanh nào có thể quán xét tất cả vọng niệm là vô tướng, thì sẽ chứng được trí tuệ của Như Lai”.

Vả lại, nói về tâm sơ khởi, chỉ là tùy theo thế tục mà nói, cầu trạng thái ban đầu đó chung quy không thể đạt được, tâm hãy còn không có huống hồ có ban đầu? Vì thế tất cả chúng sanh không gọi là Giác, vì từ vô thỉ đến nay luôn luôn có vô minh vọng niệm liên tục theo nhau chưa từng tách rời. Nếu như vọng niệm ngừng lại, biết được quá trình sanh trú dị diệt của tâm tướng thảy đều vô tướng, do đối với một tâm trước sau đồng một lúc đều không tương ưng, không có tự tánh. Nhận thức như vậy rồi thì biết Thỉ Giác không thể đạt được, vì không khác biệt với Bổn Giác.

Hơn nữa, Bổn Giác tùy theo pháp ô nhiễm, phân biệt sanh ra hai loại trạng thái sai biệt:

  1. Trạng thái trí tuệ trong sáng.
  2. Trạng thái vận dụng không nghĩ bàn được.

Trạng thái trí tuệ trong sáng, nghĩa là dựa vào pháp huân tập mà tu hành đúng như thật đầy đủ các công hạnh, phá bỏ thức hòa hợp, diệt trừ trạng thái chuyển thành thức, hiển hiện Pháp thân và trí tuệ thanh tịnh. Trạng thái của tất cả tâm thức chính là trạng thái của vô minh, cùng với Bổn Giác chẳng phải đồng nhất chẳng phải khác biệt, không phải là có thể hủy hoại hay không phải không thể hủy hoại. Như nước biển và sóng không phải đồng nhất không phải khác biệt, sóng vì gió lay động chứ không phải tánh nước lay động. Nếu như gió ngừng lại thì sóng lay động lập tức không còn chứ không phải tánh nước diệt mất. Chúng sanh cũng như vậy, tự tánh thanh tịnh mà tâm bị gió vô minh lay động nên sóng nước của thức dâng trào. Ba sự việc như vậy đều không có hình tướng, chẳng phải đồng nhất chẳng phải khác biệt. Nhưng tánh thanh tịnh mà tâm là nguồn gốc của thức biến động, lúc vô minh diệt đi thì thức biến động theo đó cũng diệt mất, mà tánh của trí không hề hủy diệt. Trạng thái vận dụng không thể nghĩ bàn được, là dựa vào trí thanh tịnh, có năng lực phát sanh tất cả mọi cảnh giới thù thắng vi diệu luôn luôn không gián đoạn, nghĩa là thân Như Lai đầy đủ vô lượng công đức tăng thượng, tùy theo căn cơ chúng sanh, thị hiện thành tựu vô lượng lợi ích.

Tiếp theo nói về trạng thái của giác ngộ có bốn loại nghĩa lớn, thanh tịnh như gương sáng giữa hư không:

1. Nghĩa lớn về Chân thật không, giống như gương sáng giữa hư không, nghĩa là tất cả trạng thái cảnh giới của tâm và trạng thái của giác ngộ đều không thể đạt được.

2. Nghĩa lớn về Chân thật bất không, giống như gương sáng giữa hư không, nghĩa là tất cả các pháp thành tựu đầy đủ trọn vẹn không có năng lực hủy diệt tánh, tất cả trạng thái của cảnh giới thế gian đều hiện rõ ra từ trong đó, thường trú vào một tâm không ra, không vào, không hủy diệt, không biến hoại, tất cả các pháp ô nhiễm vốn không thể nào làm ô nhiễm, thể của trí đầy đủ vô biên công đức làm nhân, huân tập cho tâm của tất cả chúng sanh.

3. Nghĩa lớn về Chân thật bất không xa rời chướng ngại, giống như gương sáng giữa hư không, nghĩa là phiền não chướng và đối tượng nhận thức chướng vĩnh viễn đoạn trừ nên hòa hợp thức diệt mất, nên bản tánh thanh tịnh luôn luôn an trú. 4. Nghĩa lớn về Chân thật bất không chỉ bày rõ giống như gương sáng giữa hư không, nghĩa là dựa vào pháp xa rời chướng ngại tùy theo những gì cần phải chuyển hóa, hiện rõ các loại sắc, thanh của Như Lai, khiến cho chúng sanh tu hành thành tựu mọi thiện căn.

4. Nghĩa về Bất Giác, là vì từ vô thỉ đến nay biết không đúng như thật về pháp chân như đồng nhất, tâm không giác ngộ dấy lên mà có vọng niệm, nhưng vọng niệm ấy tự nó không có thật tướng, không xa rời tánh giác vốn có (Bổn Giác). Giống như người lạc đường dựa vào phương hướng nên không nhận ra, lạc đường không có tướng của nó nên không xa rời với phương hướng. Chúng sanh cũng như vậy, căn cứ vào tánh giác mà có nảy sanh không giác ngộ, vọng niệm và mê muội. Nhưng trạng thái không giác ngộ ấy tự nó không có thật tướng, không xa rời tánh giác vốn có. Vì đối lại với Bất giác mà nói là Chân giác, Bất giác đã không có thì Chân giác cũng loại trừ.

Vả lại, vì dựa vào tánh giác mà có Bất giác, nảy sanh ba loại trạng thái không tách rời nhau:

1. Tướng vô minh nghiệp, do dựa vào Bất giác mà tâm vọng động trở thành nghiệp, giác thì không vọng động, vọng động thì có khổ đau, vì quả không xa rời nhân.

2. Tướng năng kiến, vì dựa vào tâm vọng động mà có thể nhìn thấy cảnh giới, không vọng động thì không có thấy.

3. Tướng cảnh giới, vì dựa vào chủ thể nhìn thấy nên trạng thái cảnh giới hư vọng hiện bày, xa rời cái thấy thì không có cảnh giới tướng.

Vì có duyên vào cảnh giới hư vọng, tiếp tục phát sanh sáu loại trạng thái:

1. Tướng trí, nghĩa là duyên theo cảnh giới sanh ra tâm ý yêu thích hay chẳng yêu thích.

2. Tướng tương tục, nghĩa là dựa vào trí mà cảm giác nghĩ đến khổ và vui tương ưng liên tục.

3. Chấp trước tướng, nghĩa là dựa vào cảm giác nghĩ đến khổ và vui nối tiếp nhau mà sanh ra chấp trước.

4. Các tướng chấp vào tên gọi, nghĩa là dựa vào chấp trước phân biệt trên các tên gọi mà thành lập tướng trạng của nó.

5. Tướng khởi nghiệp, nghĩa là dựa vào chấp trước các tên gọi dấy lên rất nhiều các nghiệp sai biệt.

6. Nghiệp gắn liền với khổ đau, nghĩa là căn cứ theo nghiệp mà cảm thọ khổ đau không thể tự tại được. Vì vậy nên biết, tất cả các pháp nhiễm ô hoàn toàn không có tướng trạng của nó, đều do vô minh mà sanh khởi vậy thôi.

Hơn nữa, Giác và Bất giác có hai loại trạng thái:

  1. Đồng tướng.
  2. Dị tướng.

Nói về Đồng tướng, giống như các loại đồ vật bằng sành sứ đều là tướng đất như nhau, như vậy các loại huyễn dụng vô lậu hay vô minh, đều chung một tướng Chân như. Vì thế Đức Phật dạy: “Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay thường đi vào Niết-bàn, Bồ-đề không phải là tướng có thể tu tập, không phải là tướng có thể sanh ra, hoàn toàn không đạt được, không có sắc tướng nào mà có thể thấy được, thấy sắc tướng của trí sắc bất không, vì tướng của trí là không thể thủ đắc”. Rộng ra như nơi ấy đã nói.

Nói về Dị tướng, giống như các loại đồ vật bằng sành sứ tất cả mỗi loại đều không như nhau. Ở đây cũng như vậy, các loại huyễn dụng của vô lậu và vô minh có tướng trạng sai biệt. Vả lại, nhân duyên sanh diệt, là các chúng sanh dựa vào tâm mà chuyển thành ý thức. Nghĩa lý nầy nói sao? Vì dựa vào thức A-lại-da mà có vô minh và không giác ngộ dấy khởi, chủ động nhìn thấy, chủ động hiển bày, chủ động chọn lấy cảnh giới phân biệt nối theo nhau, đó gọi là ý. Ý nầy lại có năm tên gọi khác:

1. Gọi là nghiệp thức, là năng lực của vô minh làm biến động tâm không giác ngộ.

2. Gọi là chuyển thức, là dựa vào tâm biến động luôn luôn nhìn thấy tướng trạng của cảnh sắc.

3. Gọi là hiện thức, là hiện bày tất cả tướng trạng của các cảnh giới, giống như gương sáng hiện rõ ra nhiều cảnh sắc hình tướng. Hiện thức cũng vậy, nếu như năm cảnh tượng đối diện thì lập tức hiện bày, không có trước sau và không do công lực nào.

4. Gọi là trí thức, là phân biệt các pháp sai biệt về nhiễm hay tịnh.

5. Gọi là thức tương tục, là luôn tác ý tương ưng không ngừng, đảm nhận duy trì các nghiệp thiện ác trong quá khứ khiến không mất đi không hủy hoại, thành thục các báo ứng khổ vui của hiện tại và vị lai khiến không sai trái không vượt quá, việc đã từng trải qua bỗng nhiên nhớ đến, việc chưa hề trải qua vọng sanh ra phân biệt. Vì vậy mà ba cõi, tất cả đều lấy tâm làm tự tánh, xa rời tâm thì không có cảnh giới sáu trần. Tại sao? Vì tất cả các pháp lấy tâm làm chủ từ vọng niệm dấy lên, tất cả những gì phân biệt đều là phân biệt tự tâm mình, nhưng tâm không nhìn thấy, tâm không có tướng có thể đạt được. Vì vậy nên biết, tất cả tướng trạng cảnh giới của thế gian, đều dựa vào vô minh vọng niệm của chúng sanh mà được hình thành. Giống như cảnh tượng trong gương không có thể thật sự, chỉ từ nơi tâm phân biệt hư vọng biến hiện, tâm sanh thì các loại pháp sanh, tâm diệt thì các loại pháp diệt.

Nói về ý thức, nghĩa là hết thảy phàm phu dựa vào thức tương tục mà chấp ngã và ngã sở, vọng giữ lấy đủ loại, khắp tất cả sáu loại cảnh giới, cũng gọi là thức phân ly, cũng gọi là thức phân biệt sự. Do dựa vào các loại kiến và ái huân tập mà lớn thêm hơn nữa. Từ vô thỉ bị vô minh huân tập mà thức đã dấy lên, điều nầy không phải trí tuệ của phàm phu và Nhị thừa có thể biết được. Bồ-tát ở địa Giải hành bắt đầu học hỏi và quán sát, đến địa Pháp thân Bồ-tát thì có thể biết được phần ít, đến địa Bồ-tát cuối cùng hãy còn chưa biết hết được, chỉ có Như Lai có năng lực hiểu rõ tất cả. Nghĩa nầy nói gì? Vì tâm tánh đó xưa nay thanh tịnh, vì năng lực của vô minh nên tâm nhiễm ô cùng hiện rõ ra, tuy có tâm nhiễm ô mà thường trong sáng không có gì thay đổi. Lại vì bản tánh không có phân biệt, tuy tiếp tục phát sanh tất cả cảnh giới nhưng không hề biến dị. Do không giác ngộ pháp giới đồng nhất nên không tương ưng, mà vô minh phân biệt dấy lên sanh ra các tâm nhiễm ô. Nghĩa lý sâu xa khó lường như vậy, chỉ có Đức Phật có năng lực biết được chứ không phải ai cũng biết.

Tâm nhiễm ô đã sanh ra nầy có sáu loại khác:

1. Chấp tương ưng nhiễm, Thanh văn, Duyên giác và các Bồ-tát ở địa tín tương ưng có thể xa lìa.

2. Bất đoạn tương ưng nhiễm: Các Bồ-tát ở địa tín nỗ lực tu tập thì có thể xa rời được phần ít, đến địa tâm thanh tịnh thì vĩnh viễn hết sạch không sót lại gì.

3. Phân biệt trí tương ưng nhiễm, từ địa đầy đủ giới pháp cho đến địa trí tuệ hoàn hảo có thể xa rời được phần ít, đến địa vô tướng hành mới được hoàn toàn xa rời.

4. Hiện sắc bất tương ưng nhiễm, đây là sự trừ diệt ở địa tự tạivới sắc (cảnh giới).

5. Kiến tâm bất tương ưng nhiễm, đó là địa trừ diệt của tâm được tự tại.

6. Căn bản nghiệp bất tương ưng nhiễm, đây là sự trừ diệt ở địa Bồ-tát cuối cùng tiến vào địa Như Lai.

Không giác ngộ pháp giới là đồng nhất, tức là bắt đầu từ địa tín quán sát khởi hạnh, đến địa tâm thanh tịnh thì có thể xa rời được phần ít, tiến vào địa Như Lai mới được xa rời hoàn toàn. Nghĩa về tương ưng, là tâm phân biệt sai khác, nhiễm và tịnh phân biệt khác nhau, biết tướng duyên như nhau. Nghĩa về bất tương ưng tức là tâm không giác ngộ và luôn luôn không có gì sai khác, biết tướng duyên không giống như nhau. Tâm nhiễm là phiền não chướng, vì có thể làm chướng ngại cho trí căn bản của chân như. Vô minh là sở tri chướng, có thể làm chướng ngại cho trí tự tại của nghiệp thế gian. Nghĩa nầy nói gì? Vì dựa vào tâm nhiễm ô, chấp trước vô lượng cảnh giới hư vọng và chủ thể giữ lấy, đối tượng được giữ lấy, trái với tánh bình đẳng của tất cả các pháp. Tánh của tất cả các pháp là bình đẳng vắng lặng không có tướng nào phát sanh, vì vô minh không giác ngộ và hư vọng nên trái với tâm giác ngộ. Vì vậy đối với tất cả mọi nghiệp dụng sai biệt của các loại cảnh giới thế gian, tất cả đều không có năng lực biết đúng như thật.

Lại nữa, tâm phân biệt tướng sanh diệt có hai loại khác nhau:

  1. Thô, gọi là tâm tương ưng.
  2. Tế, nghĩa là tâm bất tương ưng.

Trí cảnh của phàm phu là cái thô trong cái thô, trí cảnh của Bồ-tát là cái tế trong cái thô và cái thô trong cái tế. Hai loại tướng nầy, đều do năng lực huân tập của vô minh mà nảy sanh. Nhưng dựa vào nhân diệt thì duyên diệt, duyên diệt nên tâm tương ưng diệt, nhân diệt vì tâm không tương ưng với diệt.

Hỏi: Nếu tâm diệt thì sao nói là tương tục, nếu tương tục thì sao nói là diệt?

Đáp: Thực sự như vậy. Nay nói là diệt, chỉ là tướng tâm diệt chứ không phải là thể tâm diệt. Như nước vì gió mà có tướng trạng của sóng dậy, vì gió lặng nên tướng trạng của sóng dậy lập tức không còn, không phải là thể của nước mất đi. Nếu như nước không còn thì tướng trạng của sóng dậy sẽ mất hẳn, vì không có khách thể nhờ cậy và không có chủ thể nhờ cậy (Sở y năng y), do đó thể của nước không mất thì tướng trạng của sóng vẫn tương tục. Chúng sanh cũng vậy, vì năng lực của vô minh làm cho tâm đó biến động, vô minh không còn nên trạng thái biến động mất hẳn, chứ không phải là thể của tâm mất đi. Nếu tâm mất thì chúng sanh mất hẳn, vì không có khách thể dựa vào và không có chủ thể y cứ, nên thể của tâm không mất đi thì tâm biến động không ngừng lại.

Hơn nữa, vì nghĩa huân tập của bốn loại pháp nên pháp nhiễm và tịnh dấy lên không hề có sự mất hẳn:

  1. Pháp tịnh, đó là chân như.
  2. Nhân nhiễm, đó là vô minh.
  3. Tâm vọng, đó là nghiệp thức.
  4. Cảnh vọng, đó là sáu trần cảnh.

Nghĩa của huân tập là giống như áo quần giữa cuộc đời chẳng hôi chẳng thơm, tùy theo dùng thứ gì xông ướp thì áo quần sẽ có mùi ấy. Chân như là pháp tịnh thì tánh chẳng phải là nhiễm ô, vì vô minh xông ướp thì sẽ có trạng thái nhiễm ô. Vô minh là pháp nhiễm thì thật sự không có nghiệp thanh tịnh, vì chân như xông ướp nên nói là có tác dụng thanh tịnh.

Sao nói là pháp nhiễm ô huân tập không ngừng? Đó gọi là dựa vào chân như mà khơi dậy vô minh làm các nhân của nhiễm ô. Nhưng vô minh nầy chính là xông ướp chân như, đã huân tập rồi thì tâm sanh ra vọng niệm. Tâm vọng niệm nầy trở lại xông ướp vô minh, vì huân tập nên không giác ngộ được pháp chân như. Do không giác ngộ nên cảnh hư vọng hình thành. Vì năng lực huân tập của tâm vọng niệm, nên phát sanh các loại chấp trước sai biệt tạo ra các loại nghiệp, nhận chịu quả báo đau khổ của các loại thân tâm. Nghĩa về cảnh hư vọng huân tập có hai loại khác nhau:

  1. Huân tập lớn thêm phân biệt.
  2. Huân tập lớn thêm chấp giữ.

Nghĩa về tâm hư vọng huân tập cũng có hai loại khác nhau:

1. Huân tập lớn thêm nghiệp thức căn bản, khiến cho A-la-hán, Phật-bích-chi và hết thảy Bồ-tát nhận chịu cái khổ sanh diệt.

2. Huân tập lớn thêm thức phân biệt sự, làm cho các phàm phu nhận chịu các khổ do nghiệp ràng buộc.

Nghĩa về vô minh huân tập cũng có hai loại khác nhau:

1. Huân tập căn bản, nghĩa là thành tựu nghiệp thức.

2. Huân tập kiến ái, nghĩa là thành tựu thức phân biệt sự.

Sao nói là pháp thanh tịnh huân tập không ngừng? Nghĩa là dùng chân như huân tập cho vô minh, vì năng lực của nhân duyên huân tập, khiến cho tâm vọng niệm chán bỏ nỗi khổ sanh tử mà cầu mong niềm vui Niết-bàn. Dùng nhân duyên chán bỏ và cầu mong của tâm vọng nầy trở lại huân tập chân như. Vì huân tập thì tự tin vào bản thân mình có pháp chân như và tánh vốn thanh tịnh, biết tất cả các cảnh giới chỉ do tâm vọng động chứ suy cho cùng là không có. Do có thể như vậy nên biết đúng như thật, tu pháp rời xa, khởi lên các loại công hạnh tùy thuận với tâm, không có phân biệt và không có gì nắm giữ lấy, trải qua vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, nỗ lực luyện tập xuyên suốt nên vô minh diệt hết, vô minh diệt đi nên tâm tướng không dấy lên, tâm không dấy lên nên tướng trạng cảnh giới mất hẳn. Như vậy tất cả nhân nhiễm, duyên nhiễm cho đến quả nhiễm và tướng tâm đều diệt hết thì gọi là đạt được Niết-bàn, thành tựu các loại nghiệp dụng tự tại.

Nghĩa về tâm vọng huân tập có hai loại riêng biệt:

1. Thức phân biệt sự huân tập, khiến cho tất cả phàm phu và Nhị thừa chán nỗi khổ sanh tử, tùy theo năng lực có thể hướng về đạo vô thượng.

2. Ý huân tập, khiến cho các Bồ-tát phát tâm dũng mãnh, nhanh chóng hướng về tiến vào Niết-bàn vô trú.

Nghĩa về chân như huân tập cũng có hai loại riêng biệt:

  1. Thể huân tập.
  2. Dụng huân tập.

Thể huân tập ấy có nghĩa là chân như từ vô thỉ đến nay đầy đủ tất cả vô lượng công đức vô lậu, cũng đầy đủ tác dụng của cảnh giới thù thắng khó nghĩ được, thường xuyên huân tập trong tâm chúng sanh, vì năng lực nầy nên làm cho các chúng sanh chán nỗi khổ sanh tử cầu mong niềm vui Niết-bàn, tự tin bản thân mình có pháp chân thật và phát tâm tu hành.

Hỏi: Nếu như tất cả chúng sanh cùng có chân như và đều huân tập chân như, tại sao lại có người tin, có người không tin? Từ mới phát tâm cho đến Niết-bàn, lại có vô lượng sai biệt và trước sau không như nhau? Như vậy thì tất cả đều phải bình đẳng như nhau mới hợp lý?

Đáp: Tuy tất cả chúng sanh đều có chân như, nhưng từ vô thỉ đến nay vô minh dày mỏng và tự tánh sai khác nhiều hơn hằng hà sa, các loại ngã kiến, ngã ái ràng buộc chằng chịt, do đó phiền não cũng giống như vậy. Chỉ có trí tuệ của Như Lai mới có năng lực biết rõ, vì thế khiến cho niềm tin của chúng sanh sai khác và có trước sau. Vả lại, các pháp Phật đều có nhân có duyên, nhân duyên đầy đủ thì sự việc mới được thành tựu. Như tánh lửa trong cây gỗ là chánh nhân của lửa, nếu không người nào biết hoặc là có người tuy biết cách mà không thi công, muốn khiến cho lửa phát ra đốt cháy cây gỗ là điều không thể. Chúng sanh cũng vậy, tuy có năng lực của nhân tố huân tập từ Thể chân như, nếu không gặp được Phật, các vị Bồ-tát và hàng tri thức thiện làm duyên, hoặc tuy không tu tập thắng hạnh, không phát sanh trí tuệ, không đoạn trừ phiền não mà có thể đạt được Niết-bàn, thì điều nầy thật vô lý. Hơn nữa, tuy có tri thức thiện làm duyên, nếu như bên trong không có năng lực từ nhân tố huân tập của chân như, thì chắc chắn cũng không thể chán nỗi khổ sanh tử, mong cầu niềm vui Niết-bàn. Cần phải đầy đủ nhân duyên mới có thể phát sanh chán nỗi khổ sanh tử và mong cầu niềm vui Niết-bàn. Sao nói là đầy đủ? Nghĩa là tự bên trong luôn luôn có năng lực huân tập, lại được chư Phật và các vị Bồ-tát từ bi gia hộ, mới có thể chán nỗi khổ sanh tử và mong cầu niềm vui Niết-bàn, gieo trồng các thiện căn và tu tập thành thục. Từ đây lại được gặp chư Phật và các vị Bồ-tát chỉ dạy rõ ràng mà được lợi ích vui vẻ, khiến cho tu tập thắng hạnh thẳng đến thành Phật tiến vào Niết-bàn.

Dụng huân tập, chính là năng lực ngoại duyên của chúng sanh, có vô số ý nghĩa, lược nói về hai loại:

  1. Duyên sai biệt.
  2. Duyên bình đẳng.

Duyên sai biệt, nghĩa là các chúng sanh từ lúc mới phát tâm cho đến lúc thành Phật, gặp được Phật Bồ-tát cùng các bậc tri thức thiện, tùy theo thích ứng hóa độ mà hiện thân, hoặc làm cha mẹ, hoặc làm vợ con, hoặc làm bà con, hoặc làm tôi tớ, hoặc làm bạn bè, hoặc làm kẻ thù, hoặc là thị hiện hình tướng các vị Thiên Vương, hoặc dùng bốn sự thâu hóa, hoặc lấy sáu hạnh Ba-la-mật, cho đến tất cả duyên tố thực hiện Bồ-đề, vì lòng đại bi chan chứa và kho tàng phước trí mênh mông, huân tập thuận theo hóa độ tất cả chúng sanh, khiến cho những chúng sanh ấy thấy nghe cho đến nhớ nghĩ các hình tướng của Đức Như Lai mà được lớn thêm thiện căn. Duyên nầy có hai loại:

  1. Duyên gần, là vì mau chóng đạt được Bồ-đề.
  2. Duyên xa, vì qua thời gian lâu dài mới đạt được kết quả.

Hai duyên sai biệt nầy lại có hai loại khác:

  1. Duyên tăng thêm công hạnh.
  2. Duyên tiến vào đạo pháp.

Nói về duyên bình đẳng, nghĩa là hết thảy chư Phật và các vị Bồtát, dùng trí tuệ bình đẳng và chí nguyện bình đẳng, mong cứu độ cho tất cả chúng sanh, tùy ý vận dụng liên tục không hề gián đoạn, dùng trí tuệ và tâm nguyện nầy huân tập chúng sanh, khiến họ nghĩ nhớ chư Phật và Bồ-tát, hoặc thấy hoặc nghe để thực hiện mọi điều lợi ích, tiến vào Tam muội thanh tịnh tùy theo đó đoạn chướng ngại đạt được ánh mắt không chướng ngại gì, tất cả mọi thế gian bình đẳng hiện rõ ra ở trong từng niệm từng niệm và được thấy vô lượng chư Phật cùng các vị Bồ-tát. Thể và tác dụng huân tập nầy lại có hai loại khác:

  1. Chưa tương ưng.
  2. Đã tương ưng.

Chưa tương ưng, nghĩa là hàng phàm phu, Nhị thừa và các vị Bồtát mới thực hành, dùng ý và ý thức huân tập, chỉ dựa vào sức mạnh của niềm tin mà tu hành, chưa có thể tu hành đúng với tâm không phân biệt, vì chưa tương ưng với Thể của chân như, chưa đạt được sự tu hành tự tại, vì chưa tương ưng với Dụng của chân như. Đã tương ưng, nghĩa là Pháp thân Bồ-tát đạt được tâm không phân biệt, tương ưng với Thể vi diệu của tất cả chư Phật, đạt được nghiệp tự tại nên tương ưng với trí dụng của hết thảy Như Lai, chỉ dựa vào pháp lực mà tùy ý vận dụng tu hành, huân tập chân như diệt trừ vô minh. Vả lại, huân tập pháp nhiễm từ vô thỉ đến nay không đoạn dứt, đến lúc thành Phật mới đoạn trừ. Huân tập pháp tịnh thì tận cùng vị lai hoàn toàn không đoạn mất. Vì pháp chân như luôn luôn huân tập, nên tâm vọng sẽ diệt trừ và Pháp thân được hiển bày rõ, tác dụng huân tập phát khởi, do đó không có gì là đoạn diệt.

Hơn nữa, thể tướng của chân như thì tất cả phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và chư Phật không hề có sự tăng giảm, không phải thời gian trước sanh ra, không phải thời gian sau diệt đi, mà hoàn toàn bất sanh bất diệt. Từ vô thỉ đến nay bản tánh có đầy đủ tất cả các công đức, đó là nghĩa lý của Đại trí tuệ quang minh, nghĩa lý của biến chiếu pháp giới, nghĩa lý của chân thật nhận biết rõ, nghĩa lý của bản tánh thanh tịnh tâm, nghĩa lý của thường lạc ngã tịnh, nghĩa lý của tịch tĩnh bất biến tự tại. Như vậy đều vượt quá hằng hà sa số pháp Phật không thể nghĩ bàn chẳng phải đồng nhất chẳng phải biệt dị và không hề có đoạn tuyệt. Căn cứ vào nghĩa lý nầy nên gọi là Như Lai tạng, cũng gọi là Pháp thân.

Hỏi: Trước đây đã nói chân như xa rời tất cả các tướng, tại sao ở đây nói là đầy đủ tất cả các tướng công đức?

Đáp: Tuy thực tế có đủ tất cả mọi công đức, nhưng không hề có tướng sai biệt, tất cả các pháp ấy đều cùng một vị đồng nhất chân như, xa rời tướng phân biệt nên không có hai tánh, vì dựa vào thức nghiệp và tướng sanh diệt, mà lập nên tướng của tất cả mọi sai biệt ấy. Ở đây sao nói là lập nên? Vì tất cả các pháp vốn có chỉ do tâm mà thực sự không có sai biệt, vì không giác ngộ nên tâm phân biệt dấy lên thấy có cảnh giới, thì gọi là vô minh. Tâm tánh vốn thanh tịnh vô minh không dấy lên, chính là đối với chân như lập nên nghĩa lý của đại trí tuệ quang minh. Nếu như tâm phát sanh thấy có cảnh giới thì xuất hiện trạng thái của không thấy, tâm tánh không tiếp xúc thì không có gì không thấy, ngay nơi chân như lập thành nghĩa lý của biến chiếu pháp giới. Nếu tâm có vọng động thì không phải là sự hiểu biết chân thật, không phải là bản tánh thanh tịnh, không phải là thường lạc ngã tịnh, không phải là tịch tĩnh, mà là biến dị không tự tại. Vì vậy đã dấy lên quá nhiều những sự tạp nhiễm hư vọng. Do tâm tánh không có vọng động nên ngay lập tức hình thành nghĩa lý của chân thật biết rõ, cho đến rất nhiều những nghĩa lý về tướng công đức thanh tịnh. Nếu tâm có dấy lên thấy có cảnh giới khác có thể phân biệt cầu tìm, thì đối với pháp bên trong có những sự thiếu sót, vì công đức vô biên tức là tự tánh của tâm đồng nhất, không thấy có pháp nào khác để có thể cầu thêm nữa. Vì vậy đầy đủ vô số lượng pháp chẳng biệt dị, chẳng đồng nhất, không thể nghĩ bàn của chư Phật và không có gì đoạn tuyệt, nên nói chân như được gọi là Như Lai tạng, lại cũng gọi là Pháp thân của Như Lai.

Nói về tác dụng của chân như, nghĩa là hết thảy chư Phật khi còn ở địa vị tu nhân phát khởi Đại từ bi, tu hạnh Ba-la-mật và thực hành bốn sự thâu hóa, quán xét chúng sanh tất cả khắp nơi bình đẳng mà cứu độ, tận cùng thời gian vị lai mà không hạn định kiếp số, hiểu biết đúng như thật mình và người đều bình đẳng, nhưng cũng không giữ lấy tướng của chúng sanh. Dùng trí phương tiện rộng lớn như vậy diệt trừ vô minh từ vô thỉ để chứng được Pháp thân vốn có, tùy ý vận dụng thành lập nghiệp bất tư nghị, thành tựu các loại tác dụng tự tại khác nhau, rộng khắp pháp giới sánh bằng hư không và đồng đẳng với chân như, mà cũng không có tướng dụng nào có thể đạt được. Tại sao? Vì hết thảy Như Lai chỉ là Pháp thân, là tác dụng của cảnh giới Đệ nhất nghĩa đế chứ không có tác dụng của cảnh giới thế tục đế, nhưng thuận theo sự thấy nghe của chúng sanh, mà phát sanh các loại tác dụng khác nhau.

Tác dụng nầy có hai loại:

1. Dựa vào thức phân biệt sự, nghĩa là cái thấy của tâm phàm phu và Nhị thừa thì gọi là Hóa thân. Những người nầy không biết chính do thức chuyển hóa mà ảnh hiện ra, trông thấy đến từ bên ngoài mà lấy sắc để hạn định phạm vi, nhưng Hóa thân của Phật thì không có hạn lượng.

2. Dựa vào thức nghiệp, nghĩa là cái thấy của tâm các vị Bồ-tát từ mới phát tâm cho đến địa cuối cùng của Bồ-tát ấy gọi là thân thọ dụng, thân có vô lượng sắc thái, sắc có vô lượng hình tướng, hình tướng có vô lượng vẻ đẹp, quả vị của thân ấy an trú cũng đầy đủ vô lượng công đức trang nghiêm, thuận theo những gì nhìn thấy đều là vô lượng vô biên, không thời gian và không đoạn mất, không phải ở ngoài tâm mà thấy như vậy. Các công đức nầy đều nhờ các Ba-la-mật và các hạnh vô lậu huân tập đạt đến sự thành tựu do huân tập không thể nghĩ bàn, nên đầy đủ vô biên tướng công đức an lạc và hoan hỷ, cũng gọi là Báo thân.

Vả lại, thân Phật mà các phàm phu nhìn thấy là tác dụng của thấy thô thiển, tùy theo sáu nẻo các loại sai khác, không có tướng an lạc của vô biên công đức nên gọi là Hóa thân. Hàng Bồ-tát mới thực hành (Sơ hạnh) nhìn thấy cái dụng bậc trung bình của thân, vì rất tin chân như nên được nhìn thấy phần ít, biết sắc thân Như Lai không đi không đến không có gì đoạn tuyệt, chỉ do tâm ảnh hiện không xa rời chân như. Nhưng Bồ-tát nầy còn chưa có năng lực xa rời sự phân biệt vi tế, vì chưa tiến vào địa Pháp thân, đến địa Bồ-tát tâm thanh tịnh thì thấy được cái dụng vi tế, như vậy chuyển sang thù thắng cho đến địa Bồ-tát cuối cùng nhìn thấy mới trọn vẹn. Cái dụng vi tế nầy là thân thọ dụng, vì có thức nghiệp nhìn thấy thân thọ dụng. Nếu xa rời nghiệp thức thì không có gì đáng thấy, vì thân của hết thảy Như Lai đều là Pháp thân, không có sắc tướng sai biệt nầy kia, và nhìn thấy lẫn nhau.

Hỏi: Nếu Pháp thân của Phật không có các loại sắc tướng sai biệt, sao nói là có năng lực hiện rõ ra các loại sắc tướng?

Đáp: Vì Pháp thân là thật thể của sắc tướng, nên có năng lực hiện rõ ra các loại sắc tướng, nghĩa là từ xưa đến nay sắc và tâm không có hai phạm vi tương phản, vì bản tánh của sắc chính là tự tánh của tâm, nên gọi là Trí thân. Vì bản tánh của tâm chính là tự tánh của sắc, nên gọi là Pháp thân. Dựa vào Pháp thân, hiện rõ ra sắc thân của hết thảy Như Lai, khắp tất cả mọi nơi không có gì gián đoạn. Bồ-tát mười phương tùy theo khả năng có thể đảm nhận và tùy theo niềm vui với hạnh nguyện của mình, thấy được vô lượng thân thọ dụng và vô lượng cõi nước trang nghiêm, tất cả đều sai biệt mà không chướng ngại nhau, không có gì đoạn tuyệt. Sắc thân đã hiện bày nầy không phải là tâm và ý thức của tất cả chúng sanh có năng lực suy nghĩ biết được, vì đều là tác dụng rất sâu xa và tự tại của chân như.

Vả lại, vì khiến cho chúng sanh từ phương diện tâm sanh diệt tiến vào phương diện chân như, đó là làm cho quán xét tướng trạng của các sắc đều không thành tựu. Sao nói là không thành tựu? Nghĩa là phân tích sắc thô dần dần đến vi trần, lại dùng phương pháp phân tích vi trần nầy, vì thế tất cả các sắc hoặc là thô hay tế, chỉ là tâm vọng phân biệt ảnh hiện ra chứ thật sự không có gì. Suy xét tìm kiếm các uẩn khác dần dần đến sát na, tìm cầu tướng trạng sát na nầy, không có một pháp vô vi nào khác cũng lại như vậy, xa rời pháp giới chung quy không thể đạt được. Như vậy hết thảy các pháp khắp mười phương thuận theo biết đều là như thế. Giống như người lầm đường nói Đông là Tây mà phương hướng thực sự không chuyển đổi. Chúng sanh cũng vậy, vì vô minh làm cho mê muội mà nói tâm là biến động nhưng thực sự là không biến động. Nếu như biết tâm biến động chính là không sanh diệt, tức là có thể tiến vào cửa ngõ của chân như.

 

LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN

QUYỂN HẠ

Nói về đối trị chấp tà, tất cả các chấp tà chẳng có chấp nào là không dựa vào ngã kiến mà dấy lên. Nếu xa rời ngã kiến thì không có chấp tà. Ngã kiến có hai loại:

  1. Ngã kiến của nhân.
  2. Ngã kiến của pháp.

Ngã kiến của nhân căn cứ vào các phàm phu nói ra có năm loại:

1. Như trong kinh nói: “Pháp thân Như Lai rốt ráo vắng lặng giống như hư không”. Hạng phàm phu ngu muội nghe điều ấy, không hiểu nghĩa lý đó, thì chấp là tánh Như Lai giống như hư không luôn luôn ở khắp nơi. Vì loại trừ chấp trước của họ, nên trình bày về tướng hư không chỉ là phân biệt chứ thật sự không thể đạt được. Có cách nhìn đối đãi do các sắc, dùng tâm phân biệt nên gọi là hư không. Sắc đã chỉ là tâm vọng phân biệt, nên biết hư không cũng không có thật thể, tất cả mọi cảnh tướng chỉ là những phân biệt của tâm vọng. Nếu xa rời tâm vọng thì tướng nơi cảnh giới không còn, chỉ riêng tâm chân như không nơi nào không đầy khắp, đây là nghĩa lý về tự tánh của Như Lai giống như hư không, chứ không phải là nói như không gian là thường còn, là luôn có.

2. Như trong kinh nói: “Tất cả pháp thế gian đều hoàn toàn rỗng lặng, thậm chí pháp Chân như, Niết-bàn cũng hoàn toàn là không, bản tánh như vậy xa rời tất cả mọi tướng”. Hạng phàm phu ngu muội nghe điều ấy, không hiểu nghĩa lý đó, liền chấp là pháp Niết-bàn, Chân như chỉ là không và chẳng có gì. Vì loại trừ kiến chấp của họ, nên trình bày về Pháp thân chân như tự thể bất không, vì đầy đủ vô lượng tánh công đức.

3. Như trong kinh nói: “Như Lai tạng đầy đủ các tánh công đức không tăng không giảm”. Hạng phàm phu ngu muội nghe rồi không hiểu nghĩa lý đó, liền chấp là Như Lai tạng có pháp sắc và tâm, tự sai biệt với nhau. Vì loại trừ kiến chấp nầy, nên trình bày về chân như vốn không có pháp nhiễm ô nào sai biệt, hình thành có tướng công đức vô biên, chứ không phải là tướng nhiễm ô.

4. Như trong kinh nói: “Tất cả các pháp tạp nhiễm của thế gian đều dựa vào Như Lai tạng mà phát sanh, tất cả các pháp không khác với chân như”. Hàng phàm phu ngu muội nghe điều ấy nhưng không hiểu nghĩa lý đó, liền nói Như Lai tạng có đủ tất cả pháp nhiễm ô phiền não. Vì trừ bỏ kiến chấp nầy, nên trình bày về Như Lai tạng vốn có vượt qua hằng sa số công đức thanh tịnh không khác với chân như, vượt qua hằng sa số các pháp phiền não, ô nhiễm chỉ là vọng phân biệt là có, chứ vốn không có vì tự tánh từ vô thỉ đến nay chưa từng có chút tương ưng với Như Lai tạng, nếu Như Lai tạng tương ưng với nhiễm ô mà khiến chứng đắc hội nhập dứt trừ vọng chấp thì không hợp lý.

5. Như trong kinh nói: “Dựa vào Như Lai tạng mà có sanh tử đạt được Niết-bàn”. Hàng phàm phu ngu muội nghe điều ấy nhưng không biết được nghĩa lý đó, liền nói dựa vào Như Lai tạng thì sanh tử có bắt đầu, vì thấy có bắt đầu nên lại nói Niết-bàn có điểm cuối cùng của Niết-bàn. Vì loại trừ kiến chấp nầy, nên trình bày về Như Lai tạng không có ranh giới ban đầu, vô minh theo đó mà có sanh tử từ vô thỉ. Nếu nói ngoài ba cõi lại lại có chúng sanh mới phát sanh, đó là luận thuyết trong kinh của ngoại đạo, chứ không phải là lời Phật thuyết ra. Vì Như Lai tạng không có thời gian sau cuối, chứng đạt chủng tử nầy thì mãi mãi đoạn dứt sanh tử, đạt được Niết-bàn cũng không có thời gian cuối cùng. Dựa vào ngã kiến của nhân mà phát sanh bốn loại nhận thức, vì thế từ đấy hình thành bốn loại kia.

Nói về ngã kiến của pháp, là vì hàng Nhị thừa độn căn, Đức Thế Tông chỉ vì họ thuyết giảng về con người là vô ngã, những người ấy liền chấp trước hoàn toàn vào năm uẩn sanh diệt, sợ hãi sanh tử, vọng giữ lấy Niết-bàn. Vì trừ bỏ kiến chấp nầy, nên trình bày về pháp năm uẩn vốn có tánh không sanh, không sanh nên cũng không có diệt, không diệt nên xưa nay là Niết-bàn. Nếu như hoàn toàn xa rời phân biệt chấp trước, thì biết tất cả pháp nhiễm hay pháp tịnh đều là đối đãi nhau mà hình thành. Vì vậy nên biết, tất cả các pháp từ xưa đến nay, chẳng phải sắc, chẳng phải tâm, chẳng phải trí, chẳng phải thức, chẳng phải không, chẳng phải có, suy cho cùng đều là tướng không thể diễn tả được, nhưng có ngôn ngữ diễn tả chỉ bày nên dạy về pháp ấy, đều là phương tiện khéo léo của Như Lai, mượn ngôn ngữ để dẫn dắt chúng sanh, khiến chúng sanh vượt khỏi văn tự phân biệt mà tiến vào chân như. Nếu như theo ngôn ngữ mà chấp trước nghĩa lý thì tăng thêm phân biệt hư vọng, không phát sanh trí tuệ chân thật và không đạt được Niết-bàn.

Phân biệt về tướng trạng tu hành chánh đạo, nghĩa là hết thảy Như Lai đạt được chánh nhân thành tựu đạo quả, tất cả Bồ-tát phát tâm tu tập, khiến cho hiện tại tiến lên thành tựu đạo nghiệp. Sơ lược mà nói thì phát tâm có ba loại tướng trạng:

  1. Tín thành tựu phát tâm.
  2. Giải hạnh phát tâm.
  3. Chứng phát tâm.

– Tín thành tựu phát tâm: Là dựa vào địa vị nào tu tập công hạnh gì, đạt được niềm tin vững chắc để có thể có năng lực phát tâm. Nên biết người nầy căn cứ vào chủng loại bất định (Bất định tụ), dùng năng lực của pháp huân tập thiện căn, tin sâu vào nghiệp quả mà thực hành mười nghiệp thiện, chán nỗi khổ sanh tử và mong cầu Vô thượng giác, được gặp chư Phật và các vị Bồ-tát, thừa sự cúng dường, tu hành các công hạnh, trải qua mười ngàn kiếp, niềm tin mới được thành tựu. Từ đấy về sau, hoặc là nhờ sức chỉ dạy của chư Phật và các vị Bồ-tát, hoặc vì lòng đại bi, hoặc vì chánh pháp sắp đến thời kỳ hoại diệt, do bảo vệ pháp Phật nên tự mình phát tâm. Đã phát tâm rồi tiến vào tụ chánh định, hoàn toàn không thoái lui, trú trong chủng tánh Phật tương ưng với nhân tố thù thắng. Hoặc có chúng sanh, từ lâu xa đến nay vì thiện căn kém cỏi, phiền não sâu dày che kín tâm tư, tuy được gặp chư Phật và các vị Bồ-tát lại thừa sự cúng dường, mà chỉ gieo chủng tử được sanh vào cõi trời, người, hoặc gieo trồng chủng tử Bồ-đề thuộc hàng Nhị thừa. Hoặc có người tuy cầu Đại đạo Bồ-đề, nhưng căn cơ không vững chắc nên có khi tiến lên, có khi thoái lui, hoặc có người được gặp Phật và các vị Bồ-tát lại cúng dường thừa sự tu hành các công hạnh, chưa đầy đủ được mười ngàn đại kiếp, trong thời gian ấy gặp được duyên mà phát tâm. Gặp được duyên như thế nào? Đó có nghĩa là hoặc được thấy hình tướng của Phật, hoặc cúng dường chúng Tăng, hoặc được hàng Nhị thừa chỉ dạy, hoặc thấy người khác phát tâm. Phát tâm thuộc loại nầy đều là chưa ổn định, nếu như gặp phải duyên xấu thì có người sẽ thoái lui, rơi vào phần vị Nhị thừa.

Lại nữa, tín thành tựu phát tâm, nói sơ lược có ba:

1. Phát tâm chánh trực, là đúng như lý nghĩ nhớ chính đáng về pháp chân như.

2. Phát tâm thâm trọng, là vui mừng tập hợp tất cả các hạnh thiện.

3. Phát tâm đại bi, là nguyện trừ bỏ tất cả đau khổ cho chúng sanh.

Hỏi: Tất cả chúng sanh và tất cả các pháp đều cùng chung một pháp giới, không có hai tướng, dựa theo lý thì chỉ cần nhớ nghĩ chính đáng về chân như, vì sao lại nhờ tu tập tất cả các hạnh thiện cứu giúp tất cả chúng sanh?

Đáp: Không phải như vậy. Giống như ngọc quý ma ni có bản tánh trong suốt lại ở trong quặng hỗn tạp, giả sử có người luôn luôn nhớ nghĩ đến điều ấy, mà không làm mọi cách và không dùng công sức để gạn lọc, thì mong muốn được trong suốt rốt cuộc không thể nào được. Pháp Chân như cũng lại như vậy, thể tuy trong sáng và đầy đủ mọi công đức, nhưng bị vô số phiền não làm cho nhiễm bẩn, giả sử có người luôn luôn nhớ nghĩ đến điều ấy, mà không thực hành phương tiện và không tu tập các công hạnh, muốn cầu được thanh tịnh thì cuối cùng không kết quả gì. Vì vậy cần phải trước mắt tập hợp tất cả các hạnh thiện để cứu giúp tất cả mọi chúng sanh, xa rời vô số phiền não cấu nhiễm kia để pháp chân như hiển hiện sáng ngời.

Phương tiện thực hành sơ lược có bốn loại:

1. Phương tiện thực hành căn bản, là quán xét tất cả các pháp bổn tánh vô sanh, xa rời vọng kiến không trú trong sanh tử.

Lại quán xét tất cả các pháp do nhân duyên hòa hợp thì nghiệp quả không mất, dấy lên lòng đại bi tu tập các hạnh thiện, thâu hóa chúng sanh chứ không trú vào Niết-bàn. Vì chân như tách rời tướng trạng sanh tử và Niết-bàn tùy thuận hạnh nầy để làm căn bản. Đây gọi là phương tiện thực hành căn bản.

2. Phương tiện có năng lực làm cho dừng lại, đó là sự hổ thẹn và hối hận về sai lầm của mình, năng lực nầy ngăn lại tất cả các pháp ác khiến không lớn thêm được. Vì chân như xa rời tất cả các tướng sai lầm, nên tùy thuận chân như mà ngăn lại các điều ác. Đây gọi là phương tiện có năng lực làm cho dừng lại.

3. Phương tiện phát sanh và nuôi lớn thiện căn, là tâm khởi lên sự cung kính đối với Tam bảo, tôn trọng, cúng dường, đảnh lễ và xưng tán, tùy hỷ khuyến thỉnh làm cho lớn thêm niềm tin chính đáng, cho đến chí nguyện cầu được Bồ-đề vô thượng, lại nhờ uy lực che chở của Tam bảo mà nghiệp chướng tiêu trừ sạch và thiện căn không bị giảm sút. Vì chân như xa rời tất cả mọi chướng ngại và đầy đủ tất cả các công đức, nên tùy thuận chân như tu hành mọi nghiệp thiện, đây gọi là phương tiện phát sanh và nuôi lớn thiện căn.

4. Phương tiện đại nguyện bình đẳng, là phát khởi thệ nguyện tận cùng thời gian vị lai, bình đẳng cứu độ cho tất cả chúng sanh, khiến tất cả được an trú Niết-bàn vô dư. Vì biết tất cả các pháp chỉ một thể tánh, thảy đều bình đẳng, hoàn toàn vắng lặng, tùy thuận chân như với ba loại tướng nầy phát khởi thệ nguyện vĩ đại. Đây gọi là phương tiện đại nguyện bình đẳng.

Lúc Bồ-tát phát tâm như vậy, được thấy một phần ít Pháp thân của Phật, có năng lực tùy theo sức mạnh của thệ nguyện hiện rõ ra tám loại hình thức, đó là từ cung trời Đâu Suất đến nhân gian đi vào thai mẹ – ở trong thai và sanh ra, xuất gia – thành Phật – chuyển pháp luân và nhập Niết-bàn. Nhưng các Bồ-tát nầy vẫn chưa được gọi là Pháp thân, vì các vị đó từ vô lượng đời kiếp quá khứ đến nay chưa đoạn trừ hết nghiệp hữu lậu, hoặc vì các nghiệp xấu mà cảm thọ nỗi khổ vi tế, nhờ nguyện lực đã chủ quản nên không phải là người bị ràng buộc lâu dài do nghiệp quả. Trong kinh có nơi nói: “Bồ-tát phát tâm nhờ niềm tin thành tựu, hoặc có vị thoái lui rơi vào trong nẻo xấu ác”. Đây là vì hàng Bồ-tát mới phát tâm đang còn nhiều biếng nhác không thể tiến vào vị chính thức, dùng lời nầy để làm cho họ tăng thêm sự dũng mãnh tu học chứ không phải diễn tả đúng như thật.

Vả lại, các vị Bồ-tát nầy một khi đã phát tâm, thì tu tập các hạnh gian khổ lợi mình và lợi người, tâm không còn yếu kém, không sợ rơi vào địa của hàng Nhị thừa, huống hồ là sợ rơi vào đường dữ. Nếu như nghe trải qua vô lượng A-tăng-kỳ kiếp chịu khó tu các loại khổ hạnh khó thực hành thì mới được thành Phật, các vị ấy cũng không hề sợ hãi, huống hồ có lúc khởi tâm địa Nhị thừa và rơi vào đường ác. Vì niềm tin quyết định tất cả các pháp từ xưa đến nay vốn là tánh Niết-bàn.

Giải hạnh phát tâm, nên biết là chuyển sang thù thắng, vì vô số kiếp đầu tiên sắp được đầy đủ, ở trong chân như được sự tỏ ngộ sâu xa, tu tất cả các hạnhđều không chấp trước. Bậc Bồ-tát nầy biết pháp tánh xa rời tướng tham tiếc là Thí độ thanh tịnh, tùy thuận tu hạnh Bố thí (Đàn-na) Ba-la-mật. Biết pháp tánh xa rời cảnh giới của năm dục và không có tướng phá giới là Giới độ thanh tịnh, tùy thuận tu hạnh Trì giới (Thi-la) Ba-la-mật. Biết pháp tánh không có tướng khổ não và xa rời tướng nóng giận làm hại là Nhẫn độ thanh tịnh, tùy thuận mà tu hành Nhẫn nhục (Sàn-đề) Ba-la-mật. Biết pháp tánh xa rời tướng thân tâm không có biếng nhác là Tấn độ thanh tịnh, tùy thuận mà tu hành Tinh tấn (Tỳ-lê-da) Ba-la-mật. Biết pháp tánh không biến động và không hỗn loạn là Thiền độ thanh tịnh, tùy thuận tu hành Thiền định (Thiền na) Ba-la-mật. Biết pháp tánh xa rời các sự ngu muội tối tăm là Tuệ độ thanh tịnh, tùy thuận tu hành Trí tuệ (Bát-nhã) Ba-la-mật.

Chứng phát tâm thì từ địa Bồ-tát tâm thanh tịnh cho đến địa Bồtát cuối cùng chứng đạt cảnh giới nào? Đó là chứng đạt chân như. Vì dựa vào chuyển thức diễn tả là cảnh giới, nhưng trong sự chứng đạt chân thật không có tướng của cảnh giới. Bậc Bồ-tát nầy dùng trí không phân biệt, chứng đạt Pháp thân chân như, xa lìa ngôn ngữ diễn tả, có năng lực ở trong một khoảnh khắc hướng đến tất cả thế giới khắp mười phương, cúng dường chư Phật và thỉnh cầu các Ngài chuyển pháp luân. Thực hiện như vậy chỉ vì chúng sanh mà làm lợi ích chứ không mong cầu nghe được âm thanh từ ngữ tuyệt vời. Hoặc vì chúng sanh yếu kém nên bày tỏ sự tinh tấn vĩ đại, vượt lên trước vô lượng kiếp nhanh chóng thành bậc Chánh giác, thành tựu vì chúng sanh lười biếng, nên trải qua vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, mãi mãi tu các hành khổ hạnh mới bắt đầu thành Phật. Thị hiện vô số phương tiện như vậy, đều vì lợi ích nhiều hơn cho tất cả chúng sanh, mà thật sự thì chủng tánh và các căn của Bồ-tát là bình đẳng, phát tâm và chứng ngộ bình đẳng, tất cả đều bình đẳng, không có pháp nào vượt lên trên, quyết định đều trải qua ba vô số kiếp thành tựu địa vị Chánh giác, chỉ tùy theo thế giới không như nhau của chúng sanh, cách nhìn, nhận thức, căn cơ và tánh ham muốn khác nhau mà bày tỏ những sự tu hành hết sức khác nhau. Trong chứng phát tâm nầy có ba loại tâm:

  1. Chân tâm, vì không có phân biệt.
  2. Phương tiện tâm, vì tùy ý vận dụng lợi ích cho người.
  3. Nghiệp thức tâm, vì sanh khởi và diệt đi rất là vi tế.

Hơn nữa, bậc Bồ-tát nầy đã đầy đủ trọn vẹn cả hai phương tiện trí tuệ và phước đức trang nghiêm, ở tại cõi Sắc Cứu Cánh có được thân tướng thù thắng tôn nghiêm nhất trong tất cả thế gian, dùng một ý niệm tương ưng với tuệ, lập tức trừ sạch mọi gốc rễ vô minh, đầy đủ Nhất thiết chủng trí, tùy thuận vận dụng mà xuất hiện nghiệp không thể nghĩ bàn được, hướng về vô lượng thế giới khắp mười phương hóa độ tất cả chúng sanh.

Hỏi: Hư không vô biên nên thế giới vô biên, thế giới vô biên nên chúng sanh vô biên, chúng sanh vô biên nên tâm hành sai biệt cũng lại vô biên, cảnh giới như vậy không có hạn định phạm vi, thật khó hiểu và khó biết được. Nếu như vô minh đoạn trừ thì vĩnh viễn không còn tâm tướng, làm sao có thể hiểu rõ tất cả các loại, thành tựu Nhất thiết chủng trí?

Đáp: Tất cả mọi cảnh giới huyễn vọng từ xưa đến nay, lý thật sự chỉ là một tâm làm tánh, tất cả chúng sanh vì chấp trước cảnh giới hư vọng, không thể biết được tánh đệ nhất nghĩa của tất cả các pháp. Chư Phật, Như Lai không có chấp trước, thì có năng lực ngay nơi ấy thấy rõ thật tánh của các pháp, lại có trí tuệ vĩ đại biểu hiện chiếu rọi tất cả mọi sự sai biệt về nhiễm – tịnh, dùng vô lượng vô biên phương tiện thiện xảo, tùy theo những gì thích hợp để làm lợi ích cho chúng sanh, vì vậy tâm vọng niệm diệt trừ, hiểu rõ tất cả mọi chủng loại và thành tựu Nhất thiết chủng trí.

Hỏi: Nếu chư Phật có vô lượng phương tiện, có năng lực đối với mười phương tùy ý vận dụng làm lợi ích cho các chúng sanh, tại sao chúng sanh không thường xuyên được thấy Phật, hoặc nhìn thấy Ngài biến hóa thần thông, hoặc nghe Ngài thuyết pháp?

Đáp: Như Lai thật sự có phương tiện như vậy, chỉ cần đợi đến lúc tâm của chúng sanh được thanh tịnh, thì Ngài mới hiện rõ thân tướng được. Như mặt gương có bụi bặm thì cảnh tượng hình sắc không hiện rõ được, trừ sạch bụi bặm thì hiện bày rõ. Chúng sanh cũng vậy, tâm chưa xa rời cấu nhiễm thì Pháp thân không hiện bày được, xa rời cấu nhiễm thì lập tức hiện bày rõ ràng.

Sao nói là tu tập phần tín? Đây là căn cứ vào chúng sanh chưa tiến vào chánh định mà nói: Thế nào là tâm tín? Làm sao để tu tập? Tín có bốn loại:

1. Niềm tin căn bản, đó là vui với ý nghĩ về pháp chân như.

2. Niềm tin vào Đức Phật có đầy đủ vô biên công đức, đó là luôn vui với sự cúng dường và lễ lạy cung kính, lắng nghe chánh pháp và tu hành đúng như pháp, để hồi hướng cho Nhất thiêt trí (Trí Phật).

3. Niềm tin vào pháp có lợi ích to lớn, đó là luôn luôn vui với sự tu hành các hạnh Ba-la-mật.

4. Niềm tin vào Tăng là bậc tu hành chính đáng, đó là luôn luôn cúng dường các vị Bồ-tát tu tập đích thực công hạnh lợi mình và lợi cho người. Tu tập năm phương diện thực hành, có năng lực thành tựu niềm tin nầy, đó là phương diện Bố thí, phương diện Trì giới, phương diện Nhẫn nhục, phương diện Tinh tấn, phương diện Chỉ và Quán.

Sao nói là tu trên phương diện Bố thí? Nghĩa là nếu thấy chúng sanh nào đến cầu xin, thì lấy tiền bạc đồ vật của mình tùy khả năng để giúp cho họ, xả bỏ tâm lý tham tiếc của mình làm cho người ấy hoan hỷ. Nếu thấy chúng sanh nào gặp nguy hiểm và tai họa bức bách, tìm mọi cách cứu giúp khiến họ không còn sợ hãi. Nếu gặp chúng sanh nào đến để cầu hiểu biết về giáo pháp, thì lấy những hiểu biết của mình tùy khả năng mà giảng giải cho họ. Lúc tu hành ba loại bố thí như vậy, không vì tiếng tăm, danh vọng và quyền lợi, cũng không tham đắm quả báo của thế gian, chỉ nghĩ đến sự lợi ích và yên vui cho mình lẫn người, hồi hướng công đức vun đắp quả vị Chánh đẳng Bồ đề Vô thượng.

Sao nói là tu trên phương diện Trì giới? Nghĩa là hàng Bồ-tát tại gia nên xa rời sự giết hại, trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, nói hung ác, nói thêu dệt, tham lam, nóng giận, ganh ghét, dua nịnh, dối gạt và tà kiến. Nếu là người xuất gia thì hãy phá bỏ và điều phục các phiền não, nên xa rời nơi ồn náo và luôn ở nơi vắng lặng, tu tập các hạnh ít ham muốn, biết vừa đủ, hành hạnh đầu đà, thậm chí sai lầm nhỏ cũng sanh khởi tâm lý sợ hãi vô cùng, luôn luôn cảm thấy hổ thẹn, hối hận và tự quở trách mình, bảo vệ giữ gìn giới cấm của Đức Như Lai đã chế định, không để cho người thấy phát sanh những sự mỉa mai hiềm nghi, luôn khiến chúng sanh xả bỏ điều ác, tu tập điều thiện.

Sao nói là tu tập trên phương diện Nhẫn nhục? Nghĩa là thấy điều ác không hiềm nghi, gặp điều khổ không biến động, luôn luôn vui với sự quán sát văn từ nghĩa lý rất sâu xa.

Sao nói là tu tập trên phương diện Tinh tấn? Nghĩa là tu các hạnh thiện nhưng tâm không lười nhác rút lui, nên nghĩ về vô số kiếp quá khứ đến nay, vì mưu cầu cảnh giới tham dục của thế gian, mà nhận chịu tất cả mọi nỗi khổ đau trên thân và tâm một cách vô ích, hoàn toàn không có một chút ý vị. Vì khiến cho đời vị lai rời xa nỗi đau khổ nầy, hãy nỗ lực tinh tấn đừng sanh ra biếng nhác, lòng đại bi làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Hàng Bồ-tát sơ học đó tuy tu hành trên phương diện tâm tín, nhưng vì đời trước đến nay có nhiều tội lỗi và nghiệp chướng sâu nặng, do đó hoặc là bị tà ma làm cho phiền muộn, hoặc bị ràng buộc do thế sự phiền toái, hoặc bị bức bách vì các loại bệnh tật khốn cùng, những sự việc như vậy làm cho khốn đốn không phải là ít, khiến người thực hành ấy bỏ dở sự nghiệp xây dựng phẩm chất tốt đẹp. Vì vậy cần phải dũng mãnh tinh tấn thực hành, ngày đêm sáu thời lễ lạy chư Phật, cúng dường ca ngợi, sám hối tội chướng và khuyến thỉnh tùy hỷ, hồi hướng mọi phước thiện cho quả vị Bồ-đề vô thượng, phát khởi thệ nguyện lớn lao không có sự ngừng nghỉ, khiến cho mọi chướng ngại xấu ác phải tiêu trừ và tất cả thiện căn được lớn mạnh.

Sao nói là tu trên phương diện Chỉ và Quán? Đó là ngừng hết tất cả cảnh giới hý luận là nghĩa về Chỉ, thấy rõ ràng tướng của nhân quả sanh diệt là nghĩa về Quán. Ban đầu đều tách biệt mà tu dần dần tăng lên, đến mức thành tựu thì tự nhiên vận dụng thực hành cả hai. Tu pháp Chỉ thì ở nơi vắng lặng ngồi kiết già, thân ngay thẳng – ý chuyên nhất, không theo hơi thở – không theo hình sắc, không dựa vào hư không, không dựa vào đất nước gió lửa, cho đến không dựa vào thấy nghe hiểu biết, tất cả mọi ý niệm phân biệt đều gạt bỏ, cũng loại trừ ý tưởng vì tất cả các pháp không sanh ra và không diệt đi, mọi pháp đều không có tướng trạng. Tâm trước dựa vào cảnh lần lượt xả bỏ đối với cảnh, niệm sau dựa theo tâm trở lại xả bỏ đối với tâm, vì tâm dong ruổi theo ngoại cảnh nên thâu gồm hướng về nội tâm, sau lại khởi tâm không giữ lấy trạng thái của tâm, vì xa rời chân như không thể nào đạt được. Mọi động thái đi đứng ngồi nằm trong tất cả mọi lúc cũng như vậy tu tập thực hành luôn luôn không đoạn dứt, dần dần được tiến vào tam muội chân như, đến cuối cùng làm cho tất cả phiền não phải khuất phục, tâm tín được lớn mạnh và mau chóng thành tựu không còn lui sụt. Nếu như tâm có sự nghi hoặc, phỉ báng không tin, nghiệp chướng ràng buộc do ngã mạn, lười nhác, thì những người như vậy vốn không có năng lực tiến vào.

Hơn nữa, dựa vào tam muội nầy mà chứng đạt tướng trạng pháp giới, biết Pháp thân của hết thảy Như Lai cùng với thân của tất cả chúng sanh bình đẳng không khác, đều là đồng nhất tướng, vì vậy gọi là tam muội Nhất tướng. Nếu tu tập tam muội nầy, thì có năng lực phát sanh vô lượng tam muội, vì chân như chính là nơi chốn căn bản của tất cả các tam muội.

Hoặc có chúng sanh vì thiện căn ít ỏi, bị các ma, ngoại đạo, quỷ thần làm cho mê hoặc hoảng loạn, có khi hiện ra hình tướng độc ác để làm cho tâm hành giả sợ hãi, có khi hiện ra thân hình đẹp đẽ để làm cho ý hành giả mê say. Có khi hiện ra hình tướng chư thiện hoặc là hình tướng Bồ-tát, thậm chí hình tướng trang nghiêm đầy đủ vẻ đẹp của Như Lai cũng có thể hiển bày được. Với những hình tướng nầy có khi nói ra Tổng trì, hoặc là nói về các Ba-la-mật, có khi lại diễn nói về các môn giải thoát, không oán thù, không thân thiết, không nhân tố, không kết quả, tất cả các pháp hoàn toàn rỗng lặng, tánh vốn có là Niết-bàn. Có khi lại khiến cho biết sự việc trong quá khứ, vị lai và biết tâm tư người khác, có tài biện luận diễn giảng không vướng mắc, không gián đoạn, làm cho hành giả tham đắm trong danh vọng và quyền lợi. Có khi làm cho hành giả trở nên thất thường, hay nóng giận, hay mừng vui, nhiều thương xót, nhiều yêu thích, có khi luôn luôn thích ngủ mê mệt, hoặc lâu lắm không ngủ. Có khi thân mắc bệnh tật, hoặc tính tình không chịu khó siêng năng, hoặc đột nhiên nổi lên tinh tấn rồi lập tức bỏ dở nữa chừng, hoặc tính tình lắm nghi hoặc và không phát sanh niềm tin được. Có khi rời bỏ công hạnh thù thắng ban đầu chuyển sang tu tập những điều tạp loạn, khiến chứng được các thiền định của ngoại đạo, hoặc định trong một ngày cho đến bảy ngày, trụ ở trong thiền định được ăn uống toàn những thức thượng diệu, thân và tâm vui vẻ khoan khoái không đói không khát. Có khi lại khuyến khích làm cho cảm thọ những sắc đẹp của người nữ, hoặc khiến cho hành giả ăn uống không điều độ, hoặc làm cho hình dáng hành giả thay đổi lúc đẹp lúc xấu. Nếu như bị những kiến hoặc phiền não nhiễu loạn, lập tức hủy bỏ mất thiện căn trước kia. Vì vậy cần phải quán sát tường tận, hãy dấy lên suy nghĩ: Đây đều là do thiện căn của mình quá ít ỏi mà nghiệp chướng lại quá sâu dày, nên bị sự mê hoặc của các loại tà ma quỷ quái. Biết như vậy rồi, nghĩ tất cả các cảnh tượng kia đều chỉ là do tâm. Tư duy như vậy trong phút chốc lập tức diệt hết, xa rời các tướng trạng tiến vào Tam muội chân như. Tâm tướng đã xa rời thì chân tướng cũng không còn, từ trong thiền định khởi lên các kiến hoặc phiền não đều không hiện hành, vì năng lực của tam muội phá trừ chủng tử của mọi phiền não, phẩm thiện thù thắng thuận theo nối tiếp nhau thêm nhiều, tất cả chướng nạn thảy đều rời xa, phát khởi tinh thần tinh tấn vĩ đại luôn không đoạn dứt.

Nếu như người không tu tập thực hành tam muội nầy, thì không ai có thể tiến vào trong chủng tánh Như Lai, vì những tam muội khác đều là có tướng, cùng với ngoại đạo giống nhau, nên không thể gặp được chư Phật và các vị Bồ-tát. Vì vậy, Bồ-tát đối với tam muội nầy hãy nỗ lực tu tập, khiến cho thành tựu hoàn toàn. Tu tập tam muội ấy, thân hiện tại sẽ đạt được mười loại lợi ích:

1. Thường được sự gia hộ che chở của chư Phật và Bồ-tát khắp mười phương.

2. Không bị sự não loạn của tất cả các loại ma tà quỷ ác.

3. Không bị tất cả các loại tà đạo làm cho mê hoặc.

4. Khiến cho tội nặng và nghiệp chướng của sự phỉ báng chánh pháp sâu xa đều dần dần giảm bớt đến tiêu hết.

5. Diệt trừ tất cả nghi ngờ và các nhận thức xấu ác.

6. Đối với cảnh giới của Như Lai thì niềm tin được lớn mạnh.

7. Xa rời buồn lo ân hận và vào trong sanh tử dũng mãnh không sợ hãi.

8. Xa rời tâm ý kiêu mạn, tính tình nhu hòa nhẫn nhục, luôn luôn được tất cả thế gian tôn kính.

9. Giả sử không trú trong Định nhưng ở trong tất cả mọi lúc, tất cả mọi cảnh, chủng tử phiền não dù nhỏ bé rốt cuộc vẫn không hiện khởi lên được.

10. Nếu như trú vào định thì không bị sự biến động hỗn loạn do các duyên của tất cả mọi âm thanh.

Vả lại, nếu chỉ tu pháp Chỉ, thì tâm sẽ chìm sâu xuống hoặc là sanh ra biếng nhác, không vui với các điều thiện, xa rời ý niệm đại bi, vì vậy cần phải tu gồm cả pháp Quán. Tu pháp Quán thế nào? Đó là hãy quán xét tất cả các pháp trên thế gian không ngừng sanh và diệt, vì vô thường nên khổ, khổ nên vô ngã. Nên quán xét pháp quá khứ như giấc mộng, pháp hiện tại như ánh chớp, pháp vị lai như bóng mây, bỗng nhiên như vậy mà dấy lên. Nên quán xét có thân đều là bất tịnh, các thứ giòi bọ ô uế và phiền não lẫn lộn với nhau. Quán xét các pháp đã thấy của các hạng phàm phu ngu muội, ở trong chỗ không có vọng chấp trước là có. Quán sát tất cả các pháp từ duyên sanh mà ra, đều như biến hóa kỳ ảo hoàn toàn không có thật. Quán xét Đệ nhất nghĩa đế không phải là động thái của tâm, không thể nào ví dụ, không thể nào nói năng diễn tả. Quán xét tất cả chúng sanh, từ vô thỉ đến nay đều vì sức mạnh huân tập của vô minh mà nhận chịu vô lượng nỗi khổ lớn đối với thân tâm, hiện tại và vị lai cũng lại như vậy, vô biên đau khổ, vô hạn thời gian khó thoát ra và khó vượt qua, luôn ở trong đó, không có năng lực giác ngộ, quán sát, thật là đáng thương xót.

Quán xét như vậy rồi sanh ra trí tuệ quyết định khởi lên ý niệm đại bi rộng lớn, phát đại dũng mãnh, lập đại thệ nguyện, nguyện cho tâm mình xa rời các phân biệt điên đảo, gần gũi tất cả chư Phật, Bồ-tát, đảnh lễ, cúng dường, cung kính và tán thán công hạnh siêu tuyệt của các Ngài, lắng nghe chánh pháp tu hành đúng như giáo pháp, tận cùng thời gian vị lai không có sự ngừng nghỉ, dùng vô lượng phương tiện cứu giúp tất cả các chúng sanh đang nổi trôi trong đại dương đau khổ, khiến trú vào niềm vui đệ nhất nghĩa của Niết-bàn. Phát ra thề nguyện như vậy rồi, đối với tất cả mọi lúc, tùy theo nặng lực có thể đảm đương mà tu hành công hạnh lợi mình và lợi người, đi đứng ngồi nằm luôn luôn nỗ lực quán sát điều gì phải làm và điều gì không nên làm. Đây gọi là tu pháp Quán.

Hơn nữa, nếu chỉ tu pháp Quán thì tâm không thể dừng lại, phát sanh lắm nghi hoặc và không tùy thuận với đệ nhất nghĩa đế, không sanh ra được trí vô phân biệt. Vì thế Chỉ và Quán nên tu hành song song cả hai pháp, nghĩa là tuy nghĩ tất cả các pháp đều vô tự tánh, không sanh không diệt, xưa nay vắng lặng, tự tánh là Niết-bàn, mà cũng ngay nơi ấy thấy nhân duyên hòa hợp, nghiệp báo thiện ác không mất và không bị hủy hoại. Tuy nghĩ nhân duyên hòa hợp, nghiệp báo thiện ác, nhưng cũng ngay nơi ấy thấy tất cả các pháp không có sanh ra, không có tánh thể cho đến Niết-bàn. Như vậy, tu hành pháp Chỉ, là đối trị sự mê say tham đắm trong sanh tử của hạng phàm phu, cũng đối trị sự chấp trước sanh tử sanh ra sợ hãi của hàng Nhị thừa. Tu hành pháp Quán, là đối trị lại hạng phàm phu không xây dựng thiện căn, cũng đối trị lại hàng Nhị thừa không phát khởi đại bi vì tâm địa hẹp kém. Vì vậy, Chỉ và Quán hỗ trợ thành tựu lẫn nhau mà không rời bỏ nhau. Nếu như Chỉ và Quán không đầy đủ, thì chắc chắn không có năng lực đạt được quả vị Bồ-đề vô thượng.

Vả lại, hàng Bồ-tát sơ học ở tại thế giới Ta bà nầy, hoặc gặp phải những nỗi khổ như nóng lạnh, gió mưa không hợp thời, mất mùa đói kém, hoặc thấy bất thiện thật là đáng sợ, chúng sanh bị ba độc tố ràng buộc cộng thêm tà kiến điên đảo, ruồng bỏ đạo thiện quen làm pháp ác, ở trong tâm Bồ-tát sanh ra khiếp nhược, sợ không thể gặp được chư Phật và các vị Bồ-tát, sợ không có năng lực thành tựu tâm tín thanh tịnh, nên nảy sanh nghi ngờ muốn lùi lại. Hãy nên suy nghĩ: Hết thảy chư Phật và Bồ-tát khắp mười phương, đều đạt được thần thông rất lớn không có chướng ngại, có năng lực dùng các loại phương tiện khéo léo, cứu giúp tất cả mọi tai ách đáng sợ cho chúng sanh. Khởi lên ý nghĩ nầy rồi phát khởi thệ nguyện rộng lớn, một lòng chuyên niệm Phật và Bồ-tát, vì sanh khởi tâm quyết định như vậy, nên ở tại cõi nầy mạng sống chấm dứt, chắc chắn được sanh vào trong cõi Phật phương khác, được thấy Phật và Bồ-tát thành tựu tâm tín, vĩnh viễn xa rời đường dữ. Như trong kinh nói: “Nếu người thiện nam, người thiện nữ nào, chuyên chú niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà là vị giáo chủ thế giới Cực Lạc nơi phương Tây, dùng các thiện căn hồi hướng nguyện cầu sanh đến thì quyết định được sanh đến, thường được thấy Đức Phật nên tâm tín lớn mạnh và vĩnh viễn không còn thoái chuyển, ở nơi cõi ấy được nghe pháp quán tưởng Pháp thân của Phật, dần dần tu tập và thực hành được tiến vào vị Chánh giác”.

Phần lợi ích nói gì? Văn từ nghĩa lý bí mật của Đại thừa như vậy nay đã nói sơ lược. Nếu có chúng sanh nào, muốn vào trong pháp rộng lớn và cảnh giới rất sâu xa của Như Lai để phát sanh tâm ý giải giác ngộ tin tưởng một cách trong sáng, tiến vào con đường Đại thừa không có chướng ngại, thì đối với luận văn sơ lược nầy hãy chịu khó lắng nghe tiếp nhận để tư duy tu tập. Nên biết người nầy quyết định nhanh chóng thành tựu Nhất thiết chủng trí. Nếu như nghe pháp nầy mà không sanh ra kinh động sợ hãi, nên biết người nầy chắc chắn kế thừa dòng giống của Phật và nhanh chóng được thọ ký thành vị Phật.

Giả sử có người, hóa độ chúng sanh trong ba ngàn đại thiên thế giới, khiến cho họ an trú trong mười nghiệp thiện, không bằng một người khác ở trong khoảnh khắc tư duy đích thực về pháp nầy, nên biết công đức người nầy hơn hẳn người trước đến mức vô lượng vô biên. Nếu như trong thời gian một ngày đêm như thuyết tu hành, thì công đức đã phát sanh vô lượng vô biên không thể nào diễn tả được. Dù cho hết thảy chư Phật khắp mười phương, đều ở trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, giảng nói công đức ấy cũng không thể hết. Vì công đức của chân như không có giới hạn, thời gian, nên công đức tu hành cũng lại không có giới hạn.

Nếu như đối với pháp nầy mà sanh ra phỉ báng thì nhận chịu vô lượng tội lỗi, ở trong A-tăng-kỳ kiếp thọ nhận vô lượng khổ đau. Vì vậy đối với pháp nầy hãy tin tưởng một cách tuyệt đối, đừng nảy sanh phỉ báng đến nỗi tự hại mình và hại người khác mất đi chủng tử Tam bảo. Hết thảy chư Phật dựa vào pháp nầy tu hành thành tựu trí vô thượng, hết thảy Bồ-tát từ nơi pháp nầy chứng được Pháp thân Như Lai, Bồ-tát đời quá khứ dựa vào pháp nầy được thành tựu niềm tin trong sáng đối với Đại thừa, các vị Bồ-tát đời hiện tại, vị lai đều sẽ thành tựu niềm tin trong sáng đối với Đại thừa. Vì vậy người nào muốn thành tựu hạnh nguyện thù thắng của hai phương diện Tự Lợi và Lợi Tha, hãy đối với luận nầy chịu khó tu học hơn nữa!

Hiện con đã giải thích sơ lược
Nghĩa lý rộng lớn thật sâu xa
Công đức giúp cho mọi chúng sanh
Cầu nguyện thấy được pháp Chân như.