KINH ĐỊA TẠNG BỒ-TÁT BẢN NGUYỆN
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Sa-môn Thật-xoa-nan-đà, người nước Vu-điền
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN THƯỢNG

Phẩm 1: THẦN THÔNG TẠI CUNG ĐAO-LỢI

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Thế Tôn ở tại Thiên cung Đao-lợi thuyết pháp cho mẹ. Bấy giờ, các Đức Phật và các Đại Bồ-tát, nhiều đến không thể nào nói hết, ở khắp mười phương vô lượng thế giới, đều đến tụ tập, ngợi khen Đức Thế Tôn ở trong cõi ác đầy cả năm thứ vẩn đục, mà hiện ra sức mạnh của trí tuệ và thần thông rộng lớn không thể nghĩ bàn để thuần hóa những kẻ ương ngạnh, làm cho họ biết được cái gì đau khổ, cái gì yên vui. Các Đức Phật còn sai khiến những vị hầu cận thăm hỏi Đức Thế Tôn.

Khi ấy, Thế Tôn mỉm cười, phóng ra vầng mây ánh sáng, đủ trăm ngàn vạn ức sắc màu, đó là vầng mây sáng đại viên mãn, vầng mây sáng đại Từ bi, vầng mây sáng đại trí tuệ, vầng mây sáng đại Bát-nhã, vầng mây sáng đại Tam-muội, vầng mây sáng đại cát tường, vầng mây sáng đại phước đức, vầng mây sáng đại công đức, vầng mây sáng đại quy y, vầng mây sáng đại tán thán. Phóng ra vầng mây sáng không thể nói hết như vậy rồi, Thế Tôn lại phát ra đủ loại âm thanh vi diệu, đó là âm thanh Bố thí ba-la-mật, âm thanh Trì giới bala-mật, âm thanh Nhẫn nhục ba-la-mật, âm thanh Tinh tấn ba-la-mật, âm thanh Thiền định ba-la-mật, âm thanh Bát-nhã ba-la-mật, âm thanh Từ, Bi, âm thanh Hỷ, Xả, âm thanh giải thoát, âm thanh vô lậu, âm thanh trí tuệ và đại trí tuệ, âm thanh sư tử hống và Đại sư tử gầm, âm thanh sấm động, sấm động lớn.

Đức Thế Tôn phát ra đủ loại âm thanh mà không thể nào, không thể nào nói hết như vậy rồi, ở cõi nước Ta-bà này và các cõi nước ở những phương khác, có vô số ức Trời, Rồng, Quỷ thần cũng đến tụ tập tại Thiên cung Đao-lợi. Các chúng ở các tầng trời: Tứ Thiên vương, Đao-lợi, Tu-diệm-ma, Đâu-suất-đà, Hóa lạc, Tha hóa tự tại; Phạm chúng, Phạm phụ, Đại phạm; Thiểu quang, Vô lượng quang, Quang âm; Thiểu tịnh, Vô lượng tịnh, Biến tịnh; Phước sinh, Phước ái, Quảng quả; Vô tưởng; Vô phiền, Vô nhiệt, Thiện kiến, Thiện hiện, Sắc cứu cánh; Ma-hê-thủ-la; cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Tất cả Thiên chúng như vậy cùng với long chúng, quỷ chúng và thần chúng đều đến tụ tập. Ở các cõi nước Ta-bà và cõi nước khác, lại có các Thần biển, Thần sông, Thần rào, Thần cây, Thần núi, Thần đất, Thần suối, Thần lúa, Thần ngày, Thần đêm, Thần không gian, Thần thiên giới, Thần ẩm thực, Thần thảo mộc, các Thần chúng như vậy cũng đến tụ tập. Ở các cõi nước Ta-bà và cõi nước khác, lại có các chúa quỷ lớn, như chúa quỷ mắt dữ, chúa quỷ ăn huyết, chúa quỷ ăn tinh khí, chúa quỷ ăn thai trứng, chúa quỷ gây bệnh tật, chúa quỷ trừ độc, chúa quỷ tâm Từ, chúa quỷ phước lợi, chúa quỷ rất yêu kính, những chúa quỷ như vậy cũng đến tụ tập.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi (là con của Pháp Vương):

–Ông hãy quan sát, các Đức Phật, các Đại Bồ-tát, cùng Trời, Rồng, Quỷ thần ở thế giới này hay thế giới khác, ở cõi nước này hay cõi nước khác, hiện đang tụ tập tại Thiên cung Đao-lợi đây. Ông có biết được số lượng bao nhiêu không?

Đại Bồ-tát Văn-thù thưa:

–Bạch Thế Tôn! Nếu đem năng lực thần trí của con mà tính đến ngàn đời, cũng không thể biết được.

Đức Thế Tôn nói:

–Như Lai lấy mắt Phật mà nhìn, cũng vẫn không đếm hết được số lượng ấy. Vậy mà số lượng ấy đều do Bồ-tát Địa Tạng, từ xa xưa đến bây giờ và sau này; đã hóa độ, đang hóa độ và sẽ hóa độ; đã tác thành, đang tác thành và sẽ tác thành.

Đại Bồ-tát Văn-thù thưa:

–Bạch Thế Tôn! Từ quá khứ, con đã thực hành căn lành lâu lắm, đã chứng được trí tuệ vô ngại, nên nghe Đức Thế Tôn dạy thì con tin tưởng và tiếp nhận tức khắc. Nhưng trí tuệ còn kém như các hàng Thanh văn, tám bộ thiên long và những chúng sinh trong đời vị lai thì dẫu được nghe lời nói thành thực của Đức Thế Tôn cũng vẫn nghi ngờ, có cung kính tiếp nhận đi nữa, cũng không khỏi dị nghị. Do đó, con thỉnh cầu Đức Thế Tôn nói một cách rộng rãi, Đại Bồ-tát Địa Tạng duyên vào đâu mà làm đã lập thệ nguyện gì, đã làm công hạnh gì, mà thành tựu được những việc không thể nghĩ bàn như Đức Thế Tôn vừa dạy.

Đức Thế Tôn nói:

–Này Văn-thù! Cả tam thiên đại thiên thế giới này, có bao nhiêu cỏ, cây, lùm, rừng, lúa, mè, tre, lau, núi, đá, bụi, trần… cứ mỗi vật giả thiết là một sông Hằng; với số cát trong các sông Hằng ấy, mỗi hạt giả thiết là một thế giới; với số bụi của các thế giới này, mỗi hạt giả thiết là một kiếp; mỗi kiếp này tích lũy bao nhiêu hạt bụi, đem cả ra mà giả thiết mỗi hạt bụi này là một kiếp nữa. Vậy mà Bồ-tát Địa Tạng từ khi thực hiện quả vị mười Địa cho đến ngày nay, thời gian ấy còn nhiều hơn cả ngàn lần số lượng về kiếp đã giả thiết trên, huống chi thời gian mà Bồ-tát Địa Tạng thực hiện quả vị Thanh văn và quả vị Bích-chi-phật. Này Văn-thù! Thần lực và nguyện lực của vị Bồ-tát này không thể nghĩ bàn. Trong đời vị lai, nếu có thiện nam, thiện nữ nào nghe được danh hiệu của vị Bồ-tát này mà xưng tụng, khen ngợi, chiêm ngưỡng, lễ bái, trì niệm, cúng dường, cho đến vẽ, khắc, đắp, sơn hình tượng của Bồ-tát thì người ấy sẽ được trăm lần sinh lên tầng trời Đao-lợi này, dứt khoát không còn rơi vào đường dữ.

Này Văn-thù! Đại Bồ-tát Địa Tạng trong quá khứ dài lâu, trước đây hàng nhiều kiếp đến không thể nào nói hết, bản thân Bồ-tát là con một vị đại trưởng giả. Thời kỳ ấy, thế giới này có Đức Phật xuất hiện, danh hiệu là Như Lai Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh. Vị con của đại trưởng giả nhìn thấy tướng tốt của Đức Như Lai ấy với ngàn phước trang nghiêm, nhân đó mới bạch hỏi Đức Phật kia đã thực hành hạnh nguyện gì mà được tướng tốt như vậy.

Đức Như Lai Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh nói: “Muốn có được thân tướng như vầy, phải trải qua thời gian dài, cứu độ hết thảy những tội khổ mà chúng sinh thọ lãnh.” Văn-thù! Lúc ấy, con của vị đại trưởng giả, nhân lời huấn dụ này mà phát nguyện: “Cho đến cùng tận đời vị lai, trải qua những kiếp không thể tính kể đi nữa, con nguyện vì những tội khổ mà chúng sinh lãnh thọ trong sáu đường, sẽ vận dụng mọi phương tiện, làm cho họ được giải thoát tất cả, bấy giờ bản thân con mới bước lên quả vị Phật.” Đứng trước Đức Như Lai Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh, Bồ-tát Địa Tạng đã lập thệ nguyện lớn lao như vậy, nên ngày nay, dẫu trải qua những kiếp nhiều đến trăm ngàn vạn ức trăm triệu không thể nào nói hết, ngài vẫn còn là vị Bồ-tát.

Thêm nữa, trong quá khứ cách nay những a-tăng-kỳ kiếp không thể nghĩ bàn, bấy giờ ở thế giới này có Đức Phật xuất hiện, danh hiệu là Như Lai Giác Hoa Định Tự Tại Vương. Đời sống của Ngài đến bốn trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ kiếp số. Trong thời kỳ tượng pháp, có một nữ nhân thuộc chủng tộc Bà-la-môn, phước đời trước sâu dày, quần chúng khâm phục, đi đứng nằm ngồi đều được chư Thiên hộ vệ.

Nhưng mẹ của nữ nhân lại mê tín tà thuyết, khinh thường Tam bảo. Nữ nhân như bậc Thánh ấy giải thích đủ cách để khuyên mẹ, ý nguyện làm cho mẹ phát sinh kiến thức chân chánh. Mẹ của nữ nhân chưa tin hoàn toàn thì chẳng bao lâu sinh mạng đã kết thúc, nghiệp thức sa vào ngục Vô gián. Nữ nhân Bà-la-môn biết mẹ lúc còn sống không tin nhân quả thì chắc phải tùy theo nghiệp dữ mà sa vào đường dữ, nên đem bán nhà cửa, sắm nhiều hoa hương và phẩm vật để cúng dường, tổ chức lớn sự cúng dường chư Phật và các chùa, tháp.

Tại một ngôi chùa, nữ nhân Bà-la-môn thấy Đức Như Lai Giác Hoa Định Tự Tại Vương, được đắp vẽ với đủ mọi nét đẹp Từ bi và trang nghiêm. Nữ nhân chiêm bái dung nhan của Phật, lòng thành kính ngưỡng mộ lại bội phần tăng lên. Nữ nhân tự nghĩ: “Phật là Bậc Đại Giác, hoàn thành trí thấu triệt toàn bộ. Nếu Đức Phật còn, khi mẹ con mất, con đến hỏi, chắc chắn Đức Phật biết được mẹ con sa lạc chỗ nào.” Nữ nhân khóc khá lâu, lại thiết tha chiêm ngưỡng Đức Như Lai Giác Hoa Định Tự Tại Vương. Thốt nhiên trong không gian như có tiếng bảo, nữ nhân đang khóc kia, con đừng quá bi lụy, ta sẽ chỉ cho con biết chỗ mẹ con sinh đến. Nữ nhẫn chắp tay, hướng lên không gian mà thưa:

–Vị nào định giải tỏa lo buồn cho con đây? Từ khi mất mẹ đến giờ, con thương nhớ ngày đêm, không có chỗ nào có thể hỏi để biết thế giới mẹ con sinh đến.

Trong không gian lại có tiếng nói:

–Ta là Như Lai Giác Hoa Định Tự Tại Vương, đã nhập diệt mà con đang chiêm ngưỡng lễ bái đó. Thấy con nhớ mẹ quá, hơn những kẻ thường tình, nên ta đến chỉ cho con.

Nữ nhân Bà-la-môn nghe nói như vậy, cả người đổ xuống, chân tay rã rời, hai bên đỡ cứu một lát mới tỉnh, lại hướng lên không gian, thưa:

–Xin Phật thương con, mau dạy cho con biết thế giới mẹ con sinh đến. Con cảm thấy cơ thể và tâm trí của con sắp phải chết mất.

Đức Như Lai Giác Hoa Định Tự Tại Vương bảo nữ nhân:

–Con cúng dường xong rồi trở về nhà, ngồi ngay thẳng mà trì niệm danh hiệu của ta thì sẽ biết ngay chỗ mẹ con sinh đến.

Nữ nhân lạy Phật, về nhà ngay. Với lòng nhớ thương mẹ, nữ nhân ngồi ngay thẳng, trì niệm danh hiệu của Đức Như Lai Giác Hoa Định Tự Tại Vương, suốt một ngày đêm. Bỗng thấy thân mình đến một bờ biển, nước biển đó sôi sục, có nhiều thú dữ, toàn là mình sắt, lướt nhảy trên mặt biển, xua bên này đuổi bên kia. Lại thấy trăm ngàn vạn kẻ, nam có nữ có, nổi lên ngập xuống trong biển ấy, bị các thứ thú dữ tranh nhau mà ăn. Lại thấy quỷ Dạ-xoa hình thù kỳ dị, lắm tay lắm mắt, nhiều chân nhiều đầu, nanh chĩa ngoài miệng và sắc nhọn như gươm, một mặt xua đuổi tội nhân đến cho thú dữ, mặt khác chúng tự chụp bắt, túm đầu chân lại. Thảm cảnh vạn trạng, không đủ cam đảm mà nhìn mãi.

Nữ nhân Bà-la-môn nhờ năng lực của sự niệm Phật nên không sợ hãi gì cả. Có một chúa quỷ, tên Vô Độc, bước đến cúi đầu đón tiếp, hỏi:

–Lành thay, Bồ-tát! Người cần gì mà đến đây?

Nữ nhân hỏi chúa quỷ:

–Chỗ này là gì?

Chúa quỷ thưa:

–Chỗ này là lớp biển thứ nhất, ở về phía Tây dãy núi Đại thiết vi.

Nữ nhân hỏi:

–Tôi nghe nói giữa dãy núi ấy có địa ngục ở trong đó, thật chăng?

Chúa quỷ thưa:

–Thật có địa ngục.

Nữ nhân hỏi:

–Làm sao tôi đến được nơi địa ngục này?

Chúa quỷ thưa:

–Nếu không thần lực thì nghiệp lực, thiếu hai lực ấy thì không thể nào đến được.

Nữ nhân lại hỏi:

–Lớp biển này vì sao nước sôi sục, lại có nhiều tội nhân và lắm thú dữ?

Chúa quỷ thưa:

–Tội nhân ấy là những kẻ làm ác ở châu Diêm-phù mới chết. Trải qua bốn mươi chín ngày, nếu trong dòng tộc không có ai làm công đức để cứu vớt họ, do khi còn sống họ cũng không tạo nhân lành thì sẽ y theo nghiệp dữ đã làm mà nhận quả khổ ở địa ngục, quả khổ đương nhiên là trước hết phải bơi qua lớp biển này. Phía Đông lớp biển này, cách mười vạn do-tuần, lại có một lớp biển nữa, khổ sở gấp đôi biển này. Phía Đông lớp biển sau này, lại còn một lớp biển khác nữa, khổ sở càng gấp đôi. Do nhân độc ác từ ba nghiệp thân, miệng, ý tạo ra, nên nó mang tên biển nghiệp, là ba chỗ này đây.

Nữ nhân lại hỏi chúa quỷ:

–Nhưng địa ngục thì ở chỗ nào?

Chúa quỷ thưa:

–Trong ba lớp biển này toàn là địa ngục, số lượng đến hàng trăm hàng ngàn và khác biệt với nhau. Lớn nhất thì có mười tám, kế đó thì có năm trăm, khổ hại không lượng, kế đó nữa thì có trăm ngàn, cũng vô lượng khổ sở.

Nữ nhân lại hỏi:

–Mẹ tôi mới mất, không biết nghiệp thức phải đến chỗ nào?

Chúa quỷ hỏi lại:

–Mẹ ngươi khi sống quen làm hạnh nghiệp gì?

Nữ nhân nói:

–Mẹ tôi tà kiến, phỉ báng Tam bảo, có lúc hơi tin nhưng toàn là bất kính, chết mới mấy ngày không biết sinh đến chỗ nào?

Chúa quỷ hỏi:

–Mẹ ngươi tên họ là gì?

Nữ nhân nói:

–Cha mẹ tôi đều là dòng dõi Bà-la-môn, cha là Thi-la Thiện Hiện, mẹ là Duyệt-đế-lợi.

Chúa quỷ chắp tay thưa:

–Xin Thánh nữ trở về, khỏi cần lo buồn thương nhớ. Nữ tội nhân Duyệt-đế-lợi đã sinh lên cõi trời cách nay ba ngày, được biết là nhờ hiếu nữ làm phước cho mẹ, bằng sự tu phước cúng dường chùa tháp, thờ phụng Đức Như Lai Giác Hoa Định Tự Tại Vương. Không phải một mình mẹ của Thánh nữ được thoát địa ngục, mà tội nhân ở ngục Vô gián trong ngày ấy cũng được vui vẻ, cùng sinh lên cõi trời với mẹ người. Nói rồi, chúa quỷ chắp tay thi lễ xin cáo lui.

Nữ nhân Bà-la-môn liền tỉnh mộng, ý thức việc này rồi, tức khắc đến trước hình tượng của Đức Như Lai Giác Hoa Định Tự Tại Vương thờ trong chùa tháp mà phát nguyện cao rộng: “Nguyện đến cùng tận đời vị lai, chúng sinh có bao kẻ tội khổ, con xin tìm đủ mọi cách làm cho họ được giải thoát.”

Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ-tát Văn-thù:

–Chúa quỷ Vô Độc lúc ấy là Bồ-tát Tài Thủ ngày nay, còn nữ nhân Bà-la-môn thì chính là Bồ-tát Địa Tạng.

 

Phẩm 2: THÂN PHÂN HÓA QUY TỤ LẠI

Khi ấy, tất cả thân hình của Bồ-tát Địa Tạng đã phân hóa tại các địa ngục, của những thế giới nhiều đến trăm ngàn vạn ức, không thể nghĩ bàn, không thể tính kể, vô số con số vô số, đều đến tụ tập tại Thiên cung Đao-lợi. Do thần lực của Đức Thế Tôn mà từ các phương xứ của mình, thân hình phân hóa nào cũng dẫn theo những người đã thoát khỏi đường dữ, nhiều đến số lượng ngàn vạn ức trăm triệu và đều cầm hương hoa đến cúng dường Đức Thế Tôn. Những người đi theo này, nhờ Bồ-tát Địa Tạng giáo hóa đối với đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đã vĩnh viễn không còn thoái chuyển. Những người này, từ bao kiếp lâu xa, đã bị trôi lăn trong biển lớn sinh tử, chịu khổ trong sáu đường không lúc nào dừng nghỉ. Ngày nay, nhờ Từ bi cao cả và thệ nguyện sâu xa của Bồ-tát Địa Tạng mà họ thực hiện được đạo quả. Khi đến Đao-lợi, lòng họ quá mừng, chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn mắt không rời một thoáng.

Vào lúc ấy, Đức Thế Tôn đưa cánh tay vàng xoa trên đỉnh đầu hết thảy thân hình của Bồ-tát Địa Tạng đã phân hóa tại các thế giới nhiều đến trăm ngàn vạn ức, không thể nghĩ bàn, không thể tính kể, vô số con số vô số, rồi bảo:

–Này Bồ-tát Địa Tạng! Như Lai đã ở trong cõi ác đầy cả năm thứ vẩn đục mà giáo hóa những kẻ ương ngạnh, làm cho tâm tính của họ thuần hậu, xa bỏ đường tà, quay về nẻo chánh. Nhưng trong mười phần, có một vài phần vẫn còn thói dữ. Chính Như Lai cũng vẫn phân hóa thân hình ra cả ngàn trăm ức, vận dụng đủ cách mà hóa độ. Kẻ trình độ cao thì nghe Như Lai dạy là tin tưởng và tiếp nhận tức khắc. Kẻ có quả báo tốt thì ân cần khuyến hóa rồi cũng được thành tựu. Kẻ ám độn thì giáo hóa thật lâu mới biết quay về. Còn kẻ nghiệp nặng thì không sinh tâm kính ngưỡng. Những kẻ như trên, khác nhau đến mấy, Như Lai cũng phân hóa thân hình mà cứu độ. Hoặc hiện thân nam, hoặc hiện thân nữ. Hoặc hiện thân là trời, là rồng, hoặc hiện thân là quỷ là thần. Hoặc hiện là núi rừng, dòng nước, đồng bằng, sông ngòi, ao hồ, suối giếng, tạo ích lợi khắp cả mọi người, ai cũng được độ thoát. Hoặc hiện thân Đế Thích, hoặc hiện thân Phạm vương, hoặc hiện thân Luân vương, hoặc hiện thân Cư sĩ, hoặc hiện thân Quốc vương, hoặc hiện thân tể tướng, hoặc hiện thân thuộc quan. Hoặc hiện các thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ. Cho đến các thân Thanh văn, La-hán, Bích-chi-phật, Bồ-tát. Như Lai hiện ra những thân như vậy để hóa độ. Không phải Như Lai chỉ hiện ra trước họ duy nhất thân hình Phật mà thôi.

Này Bồ-tát Địa Tạng! Ông hãy quan sát xem, Như Lai đã bao kiếp, siêng và khổ, hóa độ những kẻ tội khổ, ương ngạnh và khó dạy. Nhưng nhìn chung, vẫn còn những kẻ chưa thuần hậu thì cũng phải tùy nghiệp dữ mà chịu quả khổ. Trong quả khổ ấy, nếu họ sa vào đường dữ, lãnh chịu khổ sở khốc liệt thì ông hãy nhớ hôm nay, tại Thiên cung Đao-lợi này, Như Lai đem người ở cõi Ta-bà, trong quãng từ nay đến ngày Di-lặc Từ tôn xuất thế, thiết tha ký thác cho ông, làm sao cho họ được thoát hẳn mọi thống khổ, được gặp Phật và được tiếp nhận sự thọ ký.

Khi ấy, bao nhiêu thân hình của Bồ-tát Địa Tạng phân hóa tại các thế giới đều hợp lại một bản thân, cảm kích rơi lệ thưa với Phật:

–Bạch Thế Tôn! Từ bao kiếp đến nay, con nhờ Thế Tôn dìu dắt mà được thần lực siêu việt và trí tuệ vĩ đại. Thân hình phân hóa của con khắp các thế giới nhiều đến như cát của trăm ngàn vạn ức sông Hằng, mỗi thế giới con lại phân hóa trăm ngàn vạn ức thân hình, mỗi thân hình con hóa độ trăm ngàn vạn ức người, làm cho họ quy kính Tam bảo, rời sinh tử, đến Niết-bàn. Hễ biết làm lành theo lời huấn thị của Thế Tôn thì điều lành ấy dẫu bằng một sợi lông, một giọt nước, một hạt cát, một mảy bụi, hay chỉ bằng một chút lông tóc đi nữa, con cũng hóa độ cho họ dần dần được ích lợi lớn lao. Kính xin Thế Tôn đừng vì những kẻ tội ác trong vị lai mà lo nghĩ. Ba lần như vậy, Bồtát Địa Tạng vẫn kính xin Thế Tôn đừng vì những kẻ tội ác trong vị lai mà lo nghĩ.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi Bồ-tát Địa Tạng:

–Lành thay, lành thay! Như Lai rất vui mừng và sẽ hỗ trợ cho ông. Ông sẽ có đủ năng lực hoàn thành thệ nguyện vĩ đại đã phát ra từ bao kiếp lâu xa, sự hóa độ rộng lớn ấy hoàn tất sẽ chứng đắc quả vị Bồ-đề.

 

Phẩm 3: QUAN SÁT NGHIỆP DUYÊN CỦA CHÚNG SINH

Bấy giờ, thân mẫu của Đức Thế Tôn là Ma-da phu nhân, chắp tay một cách cung kính, hỏi đức Địa Tạng:

–Bạch Thánh giả! Người Diêm-phù gây ra bao nghiệp sai khác, vậy phải chịu quả khổ như thế nào?

Bồ-tát Địa Tạng nói:

–Kính thưa Phật mẫu, ngàn vạn thế giới các cõi, hoặc nơi có địa ngục, nơi không; hoặc nơi có nữ nhân, nơi không; hoặc nơi có Phật pháp, nơi không; cho đến Thanh văn, Bích-chi-phật cũng vậy, nơi có nơi không, chứ không phải chỉ có mỗi một tội báo là địa ngục.

Ma-da phu nhân lại thưa:

–Bạch Bồ-tát! Tôi xin được nghe trước về những tội báo phải thọ lãnh trong các nẻo ác của người Diêm-phù.

Địa Tạng đáp:

–Kính thưa Phật mẫu! Xin Phật mẫu nghe và tiếp nhận, tôi sẽ nói sơ lược về điều ấy.

Phật mẫu thưa:

–Xin Thánh giả nói cho.

Bấy giờ, Bồ-tát Địa Tạng nói:

–Kính thưa Phật mẫu! Tại phía Nam châu Diêm-phù này, nghiệp dữ gây quả khổ, có những danh xưng như thế này: Kẻ nào bất hiếu, thậm chí sát hại cha mẹ thì sẽ phải đọa vào địa ngục Vô gián, ngàn vạn ức kiếp cầu thoát cũng khó mong được thoát khỏi. Kẻ nào làm chảy máu thân Phật, phỉ báng Tam bảo, khinh thường kinh pháp, cũng sẽ đọa vào địa ngục Vô gián, ngàn vạn ức kiếp cầu thoát cũng khó mong được thoát khỏi. Kẻ nào xâm phạm làm tổn hại, hay vấy bẩn dù một chút chỗ Tăng, Ni thường trú, hoặc ngay trong chốn Giàlam mà phóng túng làm sự không phải phạm hạnh hay sự sát hại sinh mạng thì sẽ đọa vào địa ngục Vô gián, ngàn vạn ức kiếp, cầu thoát cũng khó mong được thoát khỏi. Kẻ nào giả làm Sa-môn tâm hạnh không phải Sa-môn, lạm dụng phá hoại sự thường trụ của Tăng chúng, lừa đảo thế nhân, vi phạm giới luật, tạc các việc ác thì sẽ đọa vào địa ngục Vô gián, ngàn vạn ức kiếp, cầu thoát cũng khó mong được thoát khỏi. Kẻ nào trộm cắp tài vật, thóc gạo, đồ ăn, đồ uống và đồ mặc của tăng chúng thường trú, cho đến một vật không cho mà cũng lấy thì sẽ đọa vào địa ngục Vô gián, ngàn vạn ức kiếp, cầu thoát cũng khó mong được thoát khỏi.

Bồ-tát Địa Tạng lại nói:

–Kính thưa Phật mẫu! Những kẻ làm những tội ác trên đây thì phải đọa vào địa ngục Vô gián, đó là nơi có năm nghiệp cảnh hành hạ liên tục không gián đoạn, mong mỏi sự khổ sở tạm ngừng cho một lát, cũng không thể có được.

Ma-da phu nhân lại hỏi:

–Bạch Bồ-tát Địa Tạng! Địa ngục Vô gián là gì?

Bồ-tát Địa Tạng nói:

–Kính thưa Phật mẫu! Địa ngục phần nhiều thường ở giữa dãy núi Đại thiết vi. Loại lớn thì có mười tám sở. Loại kế thì có năm trăm, tên gọi khác nhau. Loại kế đó nữa thì có trăm ngàn, tên gọi cũng khác. Địa ngục Vô gián có bờ thành chu vi hơn tám vạn dặm, làm toàn bằng sắt; thành ấy cao một vạn dặm, trên thành lửa dồn kín lại, ít có chỗ rống; trong thành, ngục sở liền nhau nhưng tên gọi khác nhau, trong đó có một ngục sở tên ngục Vô gián. Ngục sở ấy chu vi một vạn tám ngàn dặm. Tường ngục cao một ngàn dặm, làm toàn bằng sắt; lửa trên xuyên xuống dưới, lửa dưới thấu lên trên; có rắn sắt và chó sắt phun lửa thỏa thích, rượt đuổi tội nhân, chạy qua lại trên tường ngục. Trong ngục có cái giường, rộng đầy vạn dặm một người thọ tội, tự thấy thân mình nằm khắp mặt giường, mà ngàn vạn người cùng lúc thọ tội, ai cũng tự thấy thân mình nằm khắp mặt giường. Do nghiệp dữ của những người ấy mà chiêu cảm ra quả khổ như vậy.

Tội nhân trong địa ngục Vô gián phải chịu đủ thứ cực hình. Trăm ngàn Dạ-xoa và quỷ dữ nanh như gươm, mắt như điện, móng như đồng, móc kéo tội nhân. Lại có các Dạ-xoa khác, cầm kích sắt lớn đâm tội nhân, vào mình, vào miệng, vào mũi, vào bụng, vào lưng, rồi hất lên trên không, giơ kích đỡ lấy, hoặc xóc để trên giường. Lại có chim ưng bằng sắt móc mắt tội nhân. Có rắn sắt quấn cổ tội nhân mà siết. Cả trăm đốt xương và khớp của cơ thể đều bị đóng đinh dài. Lưỡi bị lôi ra mà cày, ruột bị rút ra mà chặt, miệng bị rót nước đồng sôi, mình quấn dây sắt nóng. Chết đi sống lại cả ngàn vạn lần. Vậy mà phải trải qua cả ức kiếp, cầu thoát nhưng khó mong được thoát khỏi. Hễ thế giới này hư hoại thì chuyển qua thế giới khác, thế giới khác hư hoại thì chuyển qua thế giới khác nữa, thế giới khác nữa hư hoại thì chuyển qua thế giới khác khác nữa. Sau khi thế giới này kết thành thì lại bị chuyển về. Quả khổ ngục Vô gián là như vậy.

Vì năm việc sau đây, do nghiệp dữ cảm ra liên tục không gián đoạn nên gọi là Vô gián. Những gì là năm?

1. Cực hình chịu suốt ngày đêm, cho đến hết số kiếp, không lúc nào gián đoạn, nên gọi là Vô gián.

2. Một tội nhân cũng tự thấy mình đầy cả ngục, mà nhiều tội nhân, ai cũng tự thấy mình đầy cả ngục, nên gọi là Vô gián.

3. Hình cụ như chĩa ba, gậy, chim ưng, rắn, sói, chó, cối giã, cối xay bằng đá, cưa, đục, đồ chặt, đồ phát, vạc nấu, nước sôi, lưới sắt, dây sắt, lừa sắt, ngựa sắt, da sống để quấn đầu, sắt sôi để dội thân, viên sắt nóng để bắt nuốt khi van đói, nước sắt sôi để bắt uống khi kêu khát, từ năm này qua năm khác, trọn hết số kiếp vài trăm triệu năm, các cực hình liên hợp mà lại liên tục, không có gián đoạn, nên gọi là Vô gián.

4. Bất kể nam nữ, mọi rợ, văn minh, già trẻ, sang hèn, rồng thần, trời quỷ, hễ tạo nghiệp dữ thì lãnh nhận quả khổ và đồng chịu như nhau, nên gọi là Vô gián.

5. Sa vào ngục Vô gián thì từ khi mới vào cho đến hết trăm ngàn kiếp, mỗi một ngày đêm, chết đi sống lại đến cả vạn lần, cầu lấy một lát tạm ngừng cũng không thể có được, trừ khi nghiệp dữ hết rồi mới được chết hẳn mà sinh làm loài khác: Sống chết liền liền như vậy, nên gọi là Vô gián.

Bồ-tát Địa Tạng nói với Phật mẫu:

–Địa ngục Vô gián nói đại lược là như vậy. Nếu nói rõ ràng về tên, về các dụng cụ tra tấn, về sự khổ sở trong đó thì suốt một kiếp muốn nói cho hết vẫn không hết được.

Ma-da phu nhân nghe rồi, buồn và lo, chắp tay đảnh lễ rồi lui về chỗ của mình.

 

Phẩm 4: SỰ CẢM ỨNG VỚI NGHIỆP CỦA NGƯỜI DIÊM-PHÙ

Bấy giờ, Bồ-tát Địa Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con nương nhờ thần lực của Thế Tôn mà khắp trong trăm ngàn vạn ức thế giới, con đã phân hóa thân hình mình để cứu vớt những kẻ đang chịu quả khổ của nghiệp dữ. Nếu không có thần lực Từ bi vĩ đại của Thế Tôn, con không thể có sự biến hóa được như vậy, nay con lại được Thế Tôn đem sáu đường chúng sinh, trong quãng từ nay đến ngày Di-lặc thành Phật, ký thác cho con, dạy con phải cứu độ cho họ giải thoát.

Bạch Thế Tôn! Con xin vâng lời. Xin Thế Tôn đừng lo nghĩ.

Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Địa Tạng:

–Hết thảy chúng sinh chưa giải thoát thì thức tánh vô định, làm dữ thì kết thành quả khổ, làm lành thì cảm ra phước báo, làm lành làm dữ gì cũng tùy vào hoàn cảnh mà phát sinh, rồi luân chuyển trong năm đường liên miên bất tận, trải qua những kiếp nhiều như cát bụi mà vẫn còn mê mờ, lầm lẫn, vẫn bị chướng nạn, như cá lội trong lưới, cuốn theo dòng nước chảy mãi: Đã sẩy vào trong dòng nước có lưới rồi thì dẫu có tạm ra vào, cũng chỉ lẩn quẩn trong lưới ấy mà thôi. Nên vì họ mà Như Lai lo nghĩ. Nay ông đã muốn hoàn thành lời nguyện căn bản và lời thề trọng đại trong nhiều kiếp đã qua, là hóa độ những kẻ tội khổ một cách sâu rộng thì Như Lai còn lo nghĩ gì nữa.

Khi Đức Thế Tôn nói ra lời ấy thì trong pháp hội có một vị Đại Bồ-tát danh hiệu Định Tự Tại Vương bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Địa Tạng từ bao kiếp đến nay đã phát những nguyện gì mà ngày nay được Thế Tôn ân cần xưng tụng, con thỉnh cầu Thế Tôn tóm tắt dạy cho chúng con.

Đức Thế Tôn dạy Đại Bồ-tát Định Tự Tại Vương:

–Hãy nghe cho kỹ, hãy khéo nghĩ và nhớ! Như Lai sẽ vì ông mà phân biệt giảng nói đây.

Trong quá khứ, cách nay bằng những kiếp nhiều đến vô lượng vô số trăm triệu không thể nào nói hết, lúc ấy có Đức Phật hiệu là Nhất Thiết Trí Thành Tựu, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật sống đến sáu vạn kiếp. Khi chưa xuất gia, Đức Phật là một tiểu quốc vương, kết bạn với một tiểu quốc vương lân bang, cùng nhau thực thi mười nghiệp lành, tạo lợi ích cho dân chúng. Nhưng dân chúng ở nước lân bang đa số làm ác. Hai vị quốc vương mới bàn tính tìm phương cách thích hợp. Một vị nguyện thành Phật sớm để hóa độ cho hết dân chúng ấy. Một vị thì nguyện: Nếu không hóa độ trước những kẻ tội khổ, làm cho họ được yên vui và đạt được sự toàn giác thì bản thân chưa muốn thành Phật.

Này Bồ-tát Định Tự Tại Vương! Vị quốc vương nguyện thành Phật sớm là Như Lai Nhất Thiết Trí Thành Tựu, còn vị quốc vương nguyện hóa độ lâu dài những kẻ tội khổ mà chưa thành Phật là Bồ-tát Địa Tạng.

Còn nữa, trong quá khứ, cách nay vô lượng vô số kiếp, có Đức Phật xuất hiện ở thế gian, danh hiệu của Đức Phật là Như Lai Thanh Tịnh Liên Hoa Mục. Đức Phật sống đến bốn chục kiếp. Trong thời kỳ tượng pháp có một vị La-hán, đem phước đức độ cho người, nhân đó mà tuần tự giáo hóa họ, vị La-hán ấy gặp một nữ nhân tên Quang Mục, thiết trai cúng dường. Vị La-hán hỏi cô ấy muốn cầu nguyện điều gì?

Quang Mục thưa:

–Gặp ngày mẹ con mất, con muốn nhờ phước đức cúng dường của Tôn giả để cứu vớt cho mẹ con, không biết mẹ con hiện nay sinh đến chỗ nào?

Vị La-hán liền nhập định quan sát, thấy mẹ Quang Mục đọa vào đường dữ, chịu khổ khốc liệt, sau đấy hỏi Quang Mục:

–Mẹ con lúc sống đã làm nghiệp dữ gì mà nay phải chịu khổ lớn ở trong đường dữ?

Quang Mục thưa:

–Thói quen của mẹ con thích ăn cá và ba ba, nhưng thích ăn nhất lại là cá và ba ba con. Bằng cách hoặc chiên hoặc nấu, mẹ con tha hồ mà ăn. Số lượng sinh mạng của chúng, tính ra đến ngàn vạn mà còn hơn nữa. Xin Tôn giả thương mà dạy cho con biết làm cách nào để cứu mẹ.

Vị La-hán tỏ lòng Từ bi chỉ dạy cách thức, khuyên Quang Mục:

–Hãy chí thành trì niệm danh hiệu của Đức Như Lai Thanh Tịnh Liên Hoa Mục, đắp vẽ hình tượng Như Lai mà thờ phụng thì người còn kẻ mất sẽ được phước báo.

Quang Mục nghe vậy, tức khắc xả bỏ cả những gì mình luyến tiếc, nhờ vẽ liền tượng Phật mà tôn thờ. Hết lòng tôn kính, Quang Mục khóc lạy, chiêm ngưỡng. Ngay sau đêm ấy, Quang Mục mộng thấy thân Phật ánh vàng rực rỡ, đồ sộ như núi Tu-di, phóng ra ánh sáng lớn bảo Quang Mục:

–Mẹ con không bao lâu nữa sẽ sinh trong nhà con, hễ biết đói lạnh là biết nói.

Sau đó, nữ tỳ trong nhà của Quang Mục sinh một đứa bé, chưa đầy ba ngày đã biết nói. Cúi đầu, tủi khóc, đứa bé nói với Quang Mục:

–Trong phạm vi sinh tử, hễ tự làm nghiệp dữ thì tự chịu quả khổ. Ta là mẹ con đây, lâu nay phải ở trong chỗ đen tối. Từ khi biệt ly với con, ta sa mãi vào trong địa ngục lớn. Nhờ phước con làm nên mới được sinh làm người, nhưng làm người hèn hạ mà chết yểu, năm mười ba tuổi sẽ lại bị sa vào đường dữ. Con có cách gì cứu mẹ cho khỏi?

Quang Mục nghe nói, biết đúng là mẹ mình, nghẹn ngào khóc mà hỏi:

–Nếu là mẫu thân thì tất phải biết tội mình đã làm những nghiệp gì mà phải sa vào đường dữ?

Đứa bé nói:

–Sát sinh và mắng nhiếc, vì hai nghiệp dữ ấy mà phải chịu quả khổ. Nếu không có phước con làm để cứu nạn cho mẹ thì với hai nghiệp dữ ấy lẽ đáng mẹ chưa được giải thoát.

Quang Mục hỏi:

–Quả khổ địa ngục như thế nào?

Đứa bé nói:

–Quả khổ ấy nói ra thật bất nhẫn. Mà có nói đi nữa, trăm ngàn năm cũng không hết.

Quang Mục nghe như vậy, hướng mặt lên không gian, kêu khóc, thưa:

–Con cầu nguyện cho mẹ thoát hẳn địa ngục, hết mười ba tuổi thì không còn tội nặng để phải sa vào đường dữ. Chư Phật mười phương xin thương tưởng con, chứng minh cho con vì mẹ mà phát thệ nguyện rộng lớn: “Nếu mẹ con được thoát hẳn ba nẻo đường ác và kiếp người hèn hạ, cho đến thân nữ nhân cũng vĩnh viễn không thọ sinh nữa, trước hình ảnh Đức Như Lai Thanh Tịnh Liên Hoa Mục, con nguyện từ nay sắp đi, đến trăm ngàn vạn ức kiếp sau này, có bao nhiêu những kẻ tội khổ ở trong địa ngục ngạ quỷ súc sinh của các thế giới, con thề cứu vớt cho họ thoát khỏi những chỗ ấy, khi những kẻ tội khổ thành Phật cả rồi, sau đó con mới bước lên quả vị Chánh giác.”

Phát thệ nguyện rộng lớn như vậy rồi, Quang Mục nghe rõ tiếng nói của Đức Như Lai Thanh Tịnh Liên Hoa Mục dạy bảo:

–Này Quang Mục! Lòng Từ bi của con thật lớn lao, biết vì mẹ mà phát nguyện vĩ đại. Ta thấy mẹ con hết mười ba tuổi, bỏ quả báo này rồi, sẽ sinh làm một Phạm chí, sống lâu trăm năm. Hết quả báo ấy thì vãng sinh quốc độ vô ưu, sống lâu với những kiếp không thể tính kể. Về sau thành Phật hóa độ sâu rộng, trong đó có nhân loại và chư Thiên, số người được hóa độ nhiều như cát sông Hằng.

Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ-tát Định Tự Tại Vương:

–Vị La-hán đem phước đức hóa độ Quang Mục lúc ấy là Bồtát Vô Tận Ý ngày nay. Mẹ của Quang Mục nay là Bồ-tát Giải Thoát. Còn Quang Mục thì chính là Bồ-tát Địa Tạng, trong những kiếp lâu xa của quá khứ, Bồ-tát Địa Tạng đã Từ bi như vậy, đã phát ra thệ nguyện nhiều như cát sông Hằng, đã quyết hóa độ chúng sinh một cách sâu rộng. Sau này, bất cứ nam tử hay nữ nhân, có kẻ làm lành, có kẻ làm dữ, có kẻ phủ nhận nguyên lý nhân quả, có kẻ tà dâm vọng ngữ, có kẻ lưỡng thiệt ác khẩu, có kẻ phỉ báng Đại thừa, những kẻ tạo nghiệp dữ như vậy, tất sa vào đường ác. Nhưng nếu gặp bạn lành khuyến khích quy y Bồ-tát Địa Tạng dẫu chỉ trong một thời gian rất ngắn, những kẻ ấy cũng có thể thoát được quả khổ trong ba đường ác. Nếu ai hết lòng tôn kính, quy y, chiêm ngưỡng, lễ bái, xưng tụng, hay phụng sự cúng dường những hoa hương, y phục, bảo vật, ẩm thực thì trong vị lai, trăm ngàn vạn ức kiếp thường được ở trên các cõi trời thọ hưởng sự yên vui thượng diệu. Phước báo chư Thiên hết rồi, sinh xuống nhân gian, cũng vẫn còn trăm ngàn kiếp được làm đế vương, nhớ được nhân quả gốc ngọn về đời trước của mình.

Này Định Tự Tại Vương! Bồ-tát Địa Tạng có thần lực lớn lao, không thể nào nghĩ bàn, làm ích lợi sâu rộng cho mọi người như vậy.

Bồ-tát các người hãy nhớ kinh này và truyền bá rộng rãi.

Đại Bồ-tát Định Tự Tại Vương thưa:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn đừng lo nghĩ. Chúng con, ngàn vạn ức Đại Bồ-tát, chắc chắn có năng lực nương theo uy thần của Thế Tôn mà truyền bá kinh này một cách rộng rãi tại châu Diêm-phù, để đem lợi ích cho chúng sinh.

Thưa Thế Tôn như vậy rồi, Đại Bồ-tát Định Tự Tại Vương chắp tay cung kính đảnh lễ, lui về chỗ của mình.

Lúc ấy, bốn vị Thiên vương ở bốn phương cùng đứng dậy khỏi chỗ họ ngồi, chắp tay cung kính thưa:

–Bạch Thế Tôn! Từ những kiếp lâu xa, Bồ-tát Địa Tạng đã phát đại nguyện như trên, vì lý do nào mà cho đến ngày nay sự hóa độ của Bồ-tát vẫn chưa hết, Bồ-tát vẫn còn lặp lại đại nguyện ấy? Chúng con thỉnh cầu Thế Tôn dạy cho chúng con rõ.

Đức Thế Tôn bảo bốn vị Thiên vương:

–Lành thay, lành thay! Như Lai hôm nay vì lợi ích sâu rộng cho các ông, cho hết thảy chư Thiên, nhân loại và các loài khác, trong hiện tại và vị lai, sẽ nói về những phương tiện mà Bồ-tát Địa Tạng ở trong các nẻo đường sinh tử của châu Diêm-phù, thuộc thế giới Ta-bà này, đã tỏ lòng thương cảm sâu xa cứu những kẻ tội khổ.

Bốn vị Thiên vương thưa:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con rất muốn được nghe.

Thế Tôn dạy bốn vị Thiên vương:

–Từ những kiếp lâu xa cho đến ngày nay, Bồ-tát Địa Tạng đã hóa độ chúng sinh mà vẫn chưa hoàn tất đại nguyện, là vì: Một mặt thương những kẻ tội khổ trong thời hiện tại, mặt khác nhìn đến vô số kiếp thuộc thời vị lai, những kẻ ấy gây tội khổ vẫn dây dưa không ngừng, nên Bồ-tát vẫn phải lặp lại thệ nguyện trọng đại.

Vì như vậy, nên ở tại châu Diêm-phù của thế giới Ta-bà, Bồtát đã vận dụng trăm ngàn vạn ức phương tiện mà giáo hóa. Này bốn vị Thiên vương, Bồ-tát Địa Tạng gặp người sát sinh thì nói về quả khổ đời trước gặp tai ương chết yểu, gặp người trộm cắp thì nói về quả khổ nghèo nàn và khốn khổ, gặp người tà dâm thì nói về quả khổ phải làm loài bồ câu uyên ương, gặp người ác khẩu thì nói về quả khổ bà con đánh cãi nhau, gặp người hủy báng thì nói về quả khổ không lưỡi hoặc lở miệng, gặp người sân giận thì nói về quả khổ xấu xí lại tàn tật, gặp người keo kiệt thì nói về quả khổ cầu gì cũng không được, gặp người ăn uống vô độ thì nói về quả khổ đói khát và bệnh tật, gặp người săn bắn tha hồ thì nói về quả khổ kinh hãi điên cuồng mà mất mạng, gặp người phản nghịch cha mẹ thì nói về quả khổ trời đất giết chết bằng tai nạn, gặp người thiêu đốt núi rừng thì nói về quả khổ cuồng sảng tự chuốc lấy cái chết, gặp cha ghẻ mẹ ghẻ ác độc thì nói về quả khổ phải chịu cảnh roi vọt tự gây ra ngay trong đời này, gặp người lưới bắt chim non thì nói về quả khổ cốt nhục phân ly, gặp người phỉ báng Tam bảo thì nói về quả khổ mù điếc câm ngọng, gặp người khinh ngạo giáo pháp thì nói về quả khổ sẽ đọa lâu trong các đường ác, gặp người phá tán lạm dụng của Tăng chúng thường trú thì nói về quả khổ nhiều đời luân hồi địa ngục, gặp người làm bẩn phạm hạnh vu khống Tăng, Ni thì nói về quả khổ ở lâu trong loài súc sinh; gặp người sát hại sinh vật bằng nước sôi, bằng lửa, bằng sự chém chặt thì nói về quả khổ luân hồi đền mạng lẫn nhau, gặp người phá giới phạm trai thì nói về quả khổ cầm thú đói khát, gặp người tiêu dùng phi lý thì nói về quả khổ nhu cầu thiếu thốn, gặp người ngã mạn cao ngạo thì nói về quả khổ tôi tớ hèn hạ, gặp người đâm thọc gây rối thì nói về quả khổ không lưỡi hay nhiều lưỡi, gặp người kiến thức sai lầm thì nói về quả khổ sinh chỗ không có pháp Phật.

Đại loại như vậy, người Diêm-phù từ thân, miệng, ý tạo ra nghiệp dữ và kết thành quả khổ có đến hàng trăm hàng ngàn, nay Như Lai chỉ nói sơ lược. Đối với nghiệp dữ và quả khổ khác nhau như vậy của người Diêm-phù, Bồ-tát Địa Tạng đã vận dụng hàng trăm hàng ngàn phương tiện mà giáo hóa cho họ. Vì lẽ những người ấy, sau khi chịu những quả khổ như Bồ-tát Địa Tạng đã nói, họ còn bị đọa vào địa ngục, trải qua nhiều đời kiếp khó có hy vọng thoát khỏi. Các ông là hộ vệ dân chúng và hộ vệ đất nước thì đừng để nghiệp dữ mê hoặc mọi người.

Bốn vị Thiên vương nghe Đức Thế Tôn dạy, buồn và khóc, chắp tay lạy Phật lui về chỗ của mình.

Pages: 1 2 3