KINH ĐỊA TẠNG BỒ-TÁT BẢN NGUYỆN
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Sa-môn Thật-xoa-nan-đà, người nước Vu-điền
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
QUYỂN TRUNG
Phẩm 5: DANH XƯNG ĐỊA NGỤC
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Phổ Hiền bạch đức Địa Tạng:
–Thưa nhân giả! Tôi thỉnh cầu ông nói cho tám bộ, cho bốn chúng, cho cả mọi người trong hiện tại, vị lai, về tên gọi và những cực hình của địa ngục, nơi chịu quả khổ của những kẻ gây tội ác ở thế giới Ta-bà, trong đó có châu Diêm-phù, để bao kẻ sau này, trong thời kỳ giáo pháp cuối cùng, biết rõ quả khổ ấy.
Địa Tạng đáp:
–Thưa nhân giả! Tôi sẽ dựa vào uy thần của Thế Tôn và của nhân giả mà nói sơ lược về tên gọi và những cực hình, những quả khổ ở địa ngục.
–Thưa nhân giả! Phía Đông Diêm-phù có dãy núi tên Thiết vi. Giữa dãy núi ấy đen tối thăm thẳm, không có ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, có địa ngục lớn nhất tên Cực vô gián, có địa ngục tên Đại a-tỳ, có địa ngục tên Bốn góc, có địa ngục tên Dao bay, có địa ngục tên Tên lửa, có địa ngục tên Núi ép, có địa ngục tên Phóng giáo, có địa ngục tên Xe sắt, có địa ngục tên Giường sắt, có địa ngục tên Bò sắt, có địa ngục tên Áo sắt, có địa ngục tên Ngàn mũi nhọn, có địa ngục tên Lừa sắt, có địa ngục tên Nước đồng sôi, có địa ngục tên Ôm cột đồng, có địa ngục tên Lửa tuôn, có địa ngục tên Cày lưỡi, có địa ngục tên Chặt đầu, có địa ngục tên Đốt chân, có địa ngục tên Ăn mắt, có địa ngục tên Viên sắt, có địa ngục tên Cãi cọ, có địa ngục tên Rìu sắt, có địa ngục tên Giận nhiều…
Bồ-tát Địa Tạng nói với Đại Bồ-tát Phổ Hiền:
–Thưa nhân giả! Trong dãy núi Thiết vi có những địa ngục như vậy, số lượng không có giới hạn. Lại còn có địa ngục Kêu la, địa ngục Rút lưỡi, địa ngục Phẩn giải, địa ngục Xích đồng, địa ngục Voi lửa, địa ngục Chó lửa, địa ngục Ngựa lửa, địa ngục Bò lửa, địa ngục Núi lửa, địa ngục Đá lửa, địa ngục Giường lửa, địa ngục Cầu lửa, địa ngục Chim ưng lửa, địa ngục Cưa răng, địa ngục Lột da, địa ngục Uống huyết, địa ngục Đốt tay, địa ngục Đốt chân, địa ngục Đâm ngược, địa ngục Nhà lửa, địa ngục Nhà sắt, địa ngục Sói lửa. Những địa ngục như vậy mỗi thứ còn có những địa ngục nhỏ phụ thuộc, hoặc một hoặc hai, hoặc ba hoặc bốn, cho đến hàng trăm hàng ngàn và có tên gọi khác nhau.
Bồ-tát Địa Tạng nói với Đại Bồ-tát Phổ Hiền:
–Thưa nhân giả! Tất cả địa ngục ấy được cảm ra do nghiệp lực của những kẻ làm ác ở châu Diêm-phù. Nghiệp lực cực lớn: Cao như núi Tu-di, sâu như biển cả, hại cả Thánh đạo. Vì vậy, mọi người đừng khinh thường những việc ác nhỏ, cho là không hại gì. Bởi lẽ chết rồi, quả báo đủ cả, một chút mảy may cũng phải chịu lấy. Chí thân như tình cha con đi nữa, cũng đường ai nấy đi. Giả sử có gặp nhau, cũng không được chịu thay cho nhau. Tôi nay dựa vào uy thần của Thế Tôn, chỉ kể sơ lược những cảnh tượng cực hình về quả khổ phải chịu ở trong địa ngục. Ước mong nhân giả nghe qua lời ấy.
Đại Bồ-tát Phổ Hiền nói:
–Chính vì tôi đã biết từ lâu về quả khổ nơi ba đường ác, nên mong muốn Đại sĩ nói để làm cho sau này, trong thời kỳ giáo pháp cuối cùng, những kẻ làm ác nghe lời Đại sĩ mà biết quay về với Phật.
Bồ-tát Địa Tạng nói:
–Thưa nhân giả! Cực hình ở địa ngục là như thế này. Có chỗ kéo lưỡi tội nhân cho bò cày. Có chỗ moi tim tội nhân cho Dạ-xoa ăn. Có chỗ đun vạc sôi cuồn cuộn mà nấu thân tội nhân. Có chỗ nung đỏ cột đồng mà bắt tội nhân ôm lấy. Có chỗ phun lửa táp vào tội nhân. Có chỗ toàn là băng lạnh. Có chỗ tràn đầy phẩn giải. Có chỗ phóng toàn viên sắt có cạnh sắc gai nhọn. Có chỗ đâm toàn giáo lửa. Có chỗ chỉ đánh lưng bụng. Có chỗ chỉ đốt tay chân. Có chỗ rắn sắt quấn siết. Có chỗ xua chó sắt cắn. Có chỗ toàn là bắt cỡi lừa sắt. Thưa nhân giả! Cực hình như vậy có trong các địa ngục được tạo do hàng trăm hàng ngàn hình cụ toàn là đồng, sắt, đá và lửa. Cả bốn thứ này đều do nghiệp dữ chung của mọi người cảm ra. Nếu kể cho rõ về cực hình ở địa ngục thì trong mỗi chỗ đã có cả trăm cả ngàn cảnh tượng thảm khốc, huống chi nhiều chỗ. Tôi nay dựa vào uy thần của Thế Tôn và của nhân giả mà nói sơ lược như trên. Nói và giải thích cho rõ thì trọn đời cũng không hết được.
Phẩm 6: THẾ TÔN TUYÊN DƯƠNG
Bấy giờ, toàn thân Đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng lớn, chiếu khắp các cõi Phật tương đương số cát của trăm ngàn vạn ức sông Hằng, rồi xuất ra âm thanh vĩ đại, tuyên cáo hết thảy chư Đại Bồ-tát cùng Thiên, Long, Quỷ thần, Nhân phi nhân trong các cõi Phật ấy:
–Các người hãy nghe, hôm nay Như Lai sẽ xưng tụng tán dương việc Đại Bồ-tát Địa Tạng khắp trong thế giới mười phương, đã vận dụng sức mạnh của uy thần và lòng Từ bi vô cùng vĩ đại, không thể nghĩ bàn, cứu vớt hộ trì hết thảy những kẻ tội khổ. Sau khi Như Lai nhập Niết-bàn, các người là những Bồ-tát, Đại sĩ và Thiên, Long, Quỷ thần hãy làm mọi cách mà kính giữ kinh này, để cho ai nấy đều thực hiện được Niết-bàn an vui.
Khi lời của Đức Thế Tôn được nói ra, trong pháp hội có một vị Đại Bồ-tát danh hiệu Phổ Quảng, chắp tay cung kính thưa:
–Bạch Thế Tôn! Hôm nay con thấy Thế Tôn xưng tụng Bồ-tát Địa Tạng có uy thần và Từ bi rất là vĩ đại không thể nghĩ bàn, nên con thỉnh cầu Thế Tôn, vì đời vị lai, vì những người trong thời kỳ giáo pháp cuối cùng, nói về việc Bồ-tát Địa Tạng đem lại ích lợi trong nhân loại và chư Thiên, lúc tạo nguyên nhân cũng như lúc hưởng chịu kết quả, để tám bộ thiên long cùng những kẻ trong vị lai biết tôn kính tiếp nhận huấn dụ của Thế Tôn.
Đức Thế Tôn nói:
–Này Đại Bồ-tát Phổ Quảng và cả bốn chúng! Hãy nghe cho kỹ, Như Lai sẽ nói sơ lược cho các người về việc Bồ-tát Địa Tạng làm lợi ích bằng cách tạo ra phước đức trong nhân loại và chư Thiên.
Đại Bồ-tát Phổ Quảng thưa:
–Bạch Thế Tôn! Chúng con xin tuân lời Thế Tôn, nguyện muốn được nghe.
Đức Thế Tôn dạy:
–Này Đại Bồ-tát Phổ Quảng! Trong đời vị lai, nếu có thiện nam hay thiện nữ nào nghe danh hiệu của Bồ-tát Địa Tạng mà chắp tay, xưng tụng, lễ bái hay ngưỡng mộ thì người ấy siêu thoát được tội mà đáng lẽ phải chịu khổ trong ba mươi kiếp.
Này Phổ Quảng! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào vẽ hình tượng của Bồ-tát Địa Tạng, hay tạc hình của Bồ-tát Địa Tạng bằng đất đá, keo sơn, bạc vàng, đồng sắt, dù chỉ để một lần chiêm ngưỡng hay một lần lễ bái thì kẻ đó vẫn được trăm lần sinh lên cõi trời Đao-lợi, trong một thời gian lâu dài không sa vào đường dữ. Giả sử phước báo ở cõi trời đã hết rồi, phải sinh xuống nhân gian thì cũng vẫn còn làm quốc vương không mất lợi ích lớn lao.
Này Phổ Quảng! Nếu có nữ nhân nào chán thân nữ nhân, chí thành cúng dường Bồ-tát Địa Tạng bằng cách vẽ tượng, hay đúc tượng bằng đất đá, keo sơn, đồng sắt, rồi ngày nào cũng tinh tấn cúng dường các thứ như hương hoa, đồ ăn uống, quần áo, gấm vóc, lụa là, cờ phướn, lọng báu, tiền của, vật báu thì nữ nhân ấy, sau khi thọ hết thân quả báo nữ nhân này rồi, trăm ngàn vạn kiếp không còn sinh vào thế giới nữ nhân, huống chi phải thọ lại thân ấy. Ngoại trừ trường hợp vì Từ bi, quyết phải thệ nguyện làm thân nữ nhân để hóa độ kẻ khác. Thiện nữ ấy, nhờ sức oai thần của đức Địa Tạng mà mình cúng dường và nhờ sức mạnh từ công đức cúng dường đức Địa Tạng, nên trăm ngàn vạn kiếp không còn làm thân nữ nữa.
Này Phổ Quảng! Nếu có nữ nhân nào chán ngán thân xấu xí nhiều bệnh hoạn thì hãy đến trước hình tượng Bồ-tát Địa Tạng mà chí tâm chiêm ngưỡng, lễ bái. Làm như vậy dẫu chỉ một thời gian ngắn, nữ nhân ấy ngàn vạn đời sẽ được thân tướng mạo toàn hảo, không còn những bệnh hoạn. Còn nếu nữ nhân xấu xí ấy không chán ngán thân nữ thì trong trăm ngàn vạn ức đời thường sẽ được làm vương nữ, vương phi, con gái của tể tướng, của quý tộc, của đại trưởng giả, sinh ra là đoan trang, tướng mạo tuyệt hảo. Vì lòng chí thành chiêm ngưỡng, lễ bái đức Địa Tạng mà được phước như vậy.
Này Phổ Quảng! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào đến trước hình tượng Địa Tạng mà diễn tấu âm nhạc, ca vịnh, tán dương, dùng hương hoa cúng dường, lại khuyến khích một người cho đến nhiều người cùng làm như vậy thì những người ấy, trong hiện tại cũng như trong vị lai, luôn luôn được hàng trăm hàng ngàn quỷ thần ngày đêm hộ vệ, không để cho việc dữ lọt vào tai họ, huống chi là để họ bị mọi sự ngang trái.
Này Phổ Quảng! Trong đời vị lai, nếu có người ác, quỷ ác và thần ác, thấy thiện nam hay thiện nữ nào biết quy y, tôn kính, cúng dường, xưng tụng, chiêm ngưỡng hay lễ bái hình tượng Bồ-tát Địa Tạng mà phát sinh lòng mỉa mai, phỉ báng, cho là việc vô phước và vô ích, hoặc nhe răng ra mà cười, hoặc công kích sau lưng, trước mặt, hoặc lôi cuốn một người hay nhiều người chung nhau phỉ báng thì sự phỉ báng này, dẫu chỉ trong một lát, kẻ phỉ báng ấy bị đọa vào địa ngục. Khi chư Phật ở Hiền kiếp đã nhập diệt cả rồi, quả khổ của sự phỉ báng ấy làm cho họ vẫn còn ở trong địa ngục A-tỳ, chịu hình phạt rất nặng. Hiền kiếp qua rồi mới được làm ngạ quỷ, ngàn kiếp sau đó mới được làm súc sinh, ngàn kiếp sau đó nữa mới được làm người. Dẫu được làm người, nhưng làm người nghèo nàn, hèn hạ, các căn không đủ, phần nhiều bị nghiệp dữ trở lại kết nơi tâm lý, nên không bao lâu lại sa vào đường dữ.
Này Phổ Quảng! Phỉ báng sự cúng dường Bồ-tát Địa Tạng của người khác mà còn bị quả khổ như vậy, huống chi chính mình phỉ báng Bồ-tát Địa Tạng bằng những ác kiến hủy diệt.
Này Phổ Quảng! Trong đời vị lai, nếu có người nam hay người nữ nào đau ốm liệt giường mòn gối, cầu sống không được, muốn chết cũng không xong. Ban đêm mộng thấy quỷ dữ, thấy bà con, thấy đi vào đường hiểm, thấy lắm sự kinh hãi, thấy đi với quỷ thần. Rồi ngày tháng dần dà chuyển thành lao bệnh, trong giấc ngủ kêu la thảm thiết. Đó là lúc đang bị luận định về nghiệp dữ, nặng nhẹ chưa quyết, nên chết đã khó mà làm lành càng khó hơn. Mắt phàm nam nữ làm sao rõ được việc ấy. Vậy thân nhân nên đến trước tượng Phật hay tượng Bồ-tát, cao tiếng mà tụng cho bệnh nhân một biến kinh này. Và cũng nên đem tài sản mà bệnh nhân vốn luyến tiếc như y phục, đồ quý, ruộng vườn, nhà cửa, đến trước bệnh nhân, cao tiếng nói rõ mình tên họ như vậy, xin vì bệnh nhân mà đến trước kinh Phật và tượng Phật đem tài sản của bệnh nhân cúng dường kinh tượng, hoặc tạo tượng Phật hay tượng Bồ-tát, hoặc làm chùa tháp, hoặc cúng vào quỹ hương đèn, hoặc cúng dường tăng chúng thường trú. Hãy nói ba lần như vậy cho bệnh nhân nghe và biết. Giả sử bệnh nhân ý thức đã tàn, đến nỗi hơi thở đã hết, cũng vẫn mỗi ngày cho đến bảy ngày, cao tiếng mà nói và cao tiếng tụng kinh. Như vậy bệnh nhân ấy, sau khi chết, nghiệp dữ đã làm dẫu nặng đến như năm tội phải đoạ vào ngục Vô gián đi nữa, cũng vẫn thoát khỏi lâu dài, sinh ra ở đâu cũng tự biết đời trước của mình. Ấy là bệnh nhân được người khác làm cho mà hiệu quả đến như vậy, huống chi chính thiện nam hay thiện nữ nào tự sao chép kinh Địa Tạng, hoặc khuyên người sao chép, tự đắp vẽ tượng Địa Tạng hay khuyên người đắp vẽ thì kết quả nhận được là lợi ích lớn.
Này Phổ Quảng! Vì lý do ấy, hễ thấy ai đọc hay tụng kinh Địa Tạng, dù trong chốc lát xưng tụng hay tôn kính kinh này, các người cũng phải vận dụng trăm ngàn phương tiện, khuyến khích cho họ nỗ lực đừng có thoái chí thì quyết chắc trong hiện tại cũng như trong vị lai, họ sẽ thực hiện được ngàn vạn ức công đức không thể nghĩ bàn.
Này Phổ Quảng! Trong đời vị lai, nếu có những kẻ chiêm bao hay ngủ say, thấy các quỷ thần với bao nhiêu biến dạng buồn có, khóc có, rầu có, than có, sợ có, hãi có thì đấy toàn là cha mẹ, con cái, anh em, chị em, hay vợ chồng, bà con, trong quá khứ một đời mười đời hay trăm đời ngàn đời, hiện ở trong đường dữ mà chưa được thoát khỏi, không biết hy vọng vào đâu làm phước để được cứu vớt, nên họ báo mộng cho những kẻ bà con ruột thịt trong quá khứ, trông mong làm phước để cứu họ thoát khỏi đường dữ. Này Phổ Quảng! Các người hãy vận dụng thần lực làm cho những kẻ bà con ruột thịt ấy biết tìm đến trước tượng Phật hay tượng Bồ-tát, chí tâm tự tụng kinh này hay cung thỉnh người khác tụng cho, số lượng phải ba biến hay bảy biến. Như vậy, những kẻ bà con còn ở trong đường dữ kia, hễ tiếng tụng kinh đủ biến chấm dứt thì họ cũng được siêu thoát, mộng mị cũng không bao giờ còn thấy họ nữa.
Này Phổ Quảng! Trong đời vị lai, nếu có những kẻ thấp kém, ví như những người làm tôi tớ cho đến những người không còn được tự do, ý thức về nghiệp cũ mà muốn sám hối thì hãy chí thành chiêm ngưỡng, lễ bái hình tượng Bồ-tát Địa Tạng và ít nhất cũng trong một tuần bảy ngày, trì niệm danh hiệu của Bồ-tát cho được vạn biến thì những người ấy hết quả báo này rồi, trong ngàn vạn đời sau thường sinh chỗ tôn quý, lại không còn trải qua quả khổ ở trong ba đường dữ. Này Phổ Quảng! Trong đời vị lai, tại châu Diêm-phù này, Sátđế-lợi hay Bà-la-môn, Trưởng giả, hay Cư sĩ, mọi người thuộc chủng tộc và sắc tội khác nhau. Nếu có con mới sinh thì bất cứ nam hay nữ, trong một tuần bảy ngày, hãy sớm đọc tụng cho chúng bản kinh không thể nghĩ bàn này, lại trì niệm cho chúng danh hiệu của Bồ-tát Địa Tạng đủ số vạn biến. Như vậy, những trẻ sơ sinh ấy, bất cứ nam hay nữ, nếu đời trước có nghiệp dữ sẽ chịu quả khổ thì cũng tiêu tan được cả, yên vui, dễ nuôi, tăng thêm tuổi thọ, nếu sinh ra do phước đức thì càng hạnh phúc và tuổi thọ lại càng thêm lên.
Này Phổ Quảng! Trong đời vị lai, mỗi tháng các ngày mồng một, mồng tám, mười bốn, rằm, mười tám, hăm ba, hăm bốn, hăm tám, hăm chín hay ba mươi, là những ngày tra cứu tội ác để phán định nặng nhẹ. Mà người ở phương Nam cõi Diêm-phù thì mỗi cử động hay suy tư toàn là nghiệp, toàn là tội, huống chi lại còn mặc ý sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, nghiệp dữ cả trăm cả ngàn. Trong những ngày thập trai trên đây, nếu kẻ nào biết đến trước tượng Phật, tượng Bồ-tát hay tượng Hiền thánh mà tụng một biến kinh này thì khu vực người ấy cư trú, Đông, Tây, Nam, Bắc chu vi một trăm do-tuần, mọi tai nạn sẽ không xảy ra và nhà ở của người ấy bất cứ lớn nhỏ, từ hiện tại đến vị lai, trong cả trăm cả ngàn năm đều thoát hẳn khỏi đường dữ. Mỗi ngày thập trai mà biết tụng kinh này một biến thì chỉ một việc ấy, ngay trong đời này, cũng đã làm cho cả nhà không có tai họa, bệnh tật, được ăn mặc sung túc.
Cho nên, này Phổ Quảng! Ông nên biết: Bồ-tát Địa Tạng đã dùng sức oai thần vĩ đại, để làm những sự ích lợi cho người đạt đến số lượng trăm ngàn vạn ức, không thể nói hết. Đối với Bồ-tát Địa Tạng, người ở Diêm-phù lại có nhân duyên lớn lao. Người ở đây nghe danh hiệu hay thấy hình tượng của Bồ-tát, cho đến nghe kinh này dầu chỉ được ba chữ hay năm chữ, hay một câu đủ nghĩa trong một bài kệ thì hiện tại đạt được sự yên vui vi diệu, mà vị lai trăm ngàn vạn đời luôn luôn được sinh ra trong nhà tôn quý, tướng mạo và tánh tình đều hoàn hảo.
Đại Bồ-tát Phổ Quảng nghe Đức Thế Tôn tán dương và xưng tụng Bồ-tát Địa Tạng rồi, liền quỳ xuống, chắp tay thưa:
–Bạch Thế Tôn! Từ lâu rồi con đã biết vị Bồ-tát này có thần lực không thể nghĩ bàn và nguyện lực vĩ đại như Thế Tôn dạy, nhưng vì con muốn làm cho bao kẻ sau này biết những sự ích lợi có được từ thần lực và nguyện lực ấy, nên đã thỉnh vấn Thế Tôn. Con xin cung kính, tiếp nhận những lời Thế Tôn huấn dụ.
Bạch Thế Tôn! Kinh này gọi tên là gì và dạy chúng con truyền bá như thế nào?
Đức Thế Tôn dạy Đại Bồ-tát Phổ Quảng:
–Kinh này có ba danh hiệu: Có thể mang tên là Bản Nguyện của Bồ-tát Địa Tạng, cũng có thể mang tên là Bản Hạnh của Bồ-tát Địa Tạng, lại có thể mang tên là Sức Bản Thệ Của Bồ-tát Địa Tạng. Cả ba danh hiệu ấy đều căn cứ vào thệ nguyện trọng đại vì lợi ích cho chúng sinh của Bồ-tát Địa Tạng đã phát ra từ bao kiếp lâu xa. Vì lý do ấy, các người hay y theo đại nguyện như vậy mà truyền bá kinh này.
Đại Bồ-tát Phổ Quảng nghe Đức Thế Tôn huấn dụ, chắp tay cung kính, làm lễ lui về chỗ của mình.
Phẩm 7: LỢI ÍCH CHO NGƯỜI CÒN, KẺ MẤT
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Địa Tạng bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Con thấy người Diêm-phù hễ tâm niệm mà dấy lên thì toàn là tội lỗi. Gặp được việc tốt phần nhiều hay lùi mất tâm chí ban đầu, còn gặp phải sự xấu thì tăng thêm tội lỗi ngay trong từng ý nghĩ. Những kẻ như vậy khác nào đi trên đường bùn lầy mà vác thêm đá nặng, càng khốn càng nặng, chân lún càng sâu. Nếu may mắn gặp được người hiểu biết vác bớt hay vác hết cho, người hiểu biết này lại có sức mạnh có thể vừa dìu đỡ kẻ ấy, vừa khuyến khích kẻ ấy mạnh chân lên, nên đến được đất bằng. Đến rồi thì phải biết rõ đường hiểm ấy, đừng bước vào đó nữa.
Bạch Thế Tôn! Người làm ác thì khởi đầu chỉ mảy may mà rồi đi đến vô lượng. Người ấy, lúc sắp chết, cha mẹ bà con nên làm phước giúp cho đời sau của họ, bằng cách hoặc treo lọng phướn báu, hoặc đốt dầu đèn, rồi trì tụng bản kinh tôn quý, hoặc cúng dường tượng Phật, tượng Hiền thánh, lại trì niệm danh hiệu của Phật, của Bồ-tát, của Bích-chi-phật. Mỗi một danh hiệu như vậy đều thấu vào thính giác của người sắp chết, hoặc được nghe qua “bản thức” của người ấy. Những người đó, nghiệp dữ họ đã làm thì quả khổ phải lãnh nhận tất phải sa vào đường dữ, nhưng nhờ cha mẹ bà con đã tạo cho họ khi sắp chết những nhân lành như trên, nên nghiệp dữ đến như thế nào cũng vẫn tan biến được cả. Sau khi người ấy chết rồi, nội trong bảy tuần bảy ngày, nếu cha mẹ bà con lại làm thêm cho họ những nhân lành như trên thì oai lực của việc làm ấy sẽ khiến cho người chết kia vĩnh viễn thoát khỏi đường dữ, được sinh trong kiếp người hay cõi trời, thọ hưởng sự yên vui vi diệu. Còn cha mẹ bà con đã tạo nhân lành cho họ thì được lợi ích vô lượng.
Chính vì lý do ấy, hôm nay, đứng trước Đức Thế Tôn, trước tám bộ thiên long, trước nhân loại và loài khác, con khuyến cáo người ở cõi Diêm-phù: Trong ngày mà người thân sắp chết, phải hết sức thận trọng, đừng sát hại sinh vật, đừng làm những việc dữ khác như tế lễ quỷ thần, cầu cúng yêu quái. Tại sao con khuyến cáo như vậy? Vì lẽ, bao nhiêu sự sát hại và cúng tế ấy không có một mảy may oai lực có thể đem lại ích lợi cho người sắp chết, mà ngược lại, chỉ kết thêm nghiệp dữ cho sâu và nặng hơn lên. Giả sử người sắp chết, hoặc ngay sau khi mới chết, hoặc lúc còn sống, đã có được phần nào nhân lành được sinh lại trong nhân loại hay sinh lên các cõi trời, nhưng bị cha mẹ bà con làm những nhân tố tạo ra tội ác như đã nói trên, cho nên người ấy lại phải đối chất về tai vạ như vậy mà bị trì hoãn việc sinh vào đường lành. Huống chi người sắp chết ấy, lúc sống đã không có một chút nghiệp lành, căn cứ nghiệp dữ tự làm đã phải tự chịu quả khổ trong đường dữ rồi, nỡ nào cha mẹ bà con còn bồi thêm vào nghiệp dữ ấy. Khác nào một kẻ từ đường sá xa xôi đến đây, hết ăn đã ba ngày, đồ vật gánh vác lại nặng quá trăm cân, vậy mà khi gặp được người làng xóm, người này lại chất thêm một ít đồ vật nhờ gánh vác, nên kẻ kia càng nặng và càng khốn đốn hơn lên.
Bạch Thế Tôn! Con thấy người ở cõi Diêm-phù nếu biết làm lành theo những huấn thị của Thế Tôn thì điều lành ấy dầu chỉ bằng một sợi lông, một giọt nước, hay bằng một hạt cát, một mảy bụi đi nữa, cũng sẽ tự đạt được tất cả lợi ích.
Khi Bồ-tát Địa Tạng nói như vậy, trong pháp hội có Trưởng giả tên Đại Biện, là vị Trưởng giả từ lâu đã chứng vô sinh, nhưng vì muốn hóa độ mười phương chúng sinh nên hiện thân làm Trưởng giả. Ông ta chắp tay cung kính, thưa hỏi đức Địa Tạng:
–Kính bạch Đại sĩ! Người ở phía Nam châu Diêm-phù này, sau khi chết, bà con lớn nhỏ làm phước cho họ bằng cách thiết trai cúng dường, tạo mọi nhân lành thì người chết ấy có được ích lợi và siêu thoát không?
–Này Trưởng giả! Những người hôm nay và sau này, trong ngày
sắp chết, nếu nghe được một danh hiệu Phật, một danh hiệu Bồ-tát, một danh hiệu Bích-chi-phật thì không kể là có tội hay không tội, đều được siêu thoát cả. Nếu có nam tử hay nữ nhân nào, sống không làm nghiệp lành mà cứ tạo ra nhiều nghiệp dữ, nhưng sau khi chết, nếu có bà con lớn nhỏ làm phước cho họ bằng mọi nhân lành thì trong bảy phần, người chết hưởng một, còn lại sáu phần người làm phước tự hưởng. Do đó, mà bây giờ và sau này, bất cứ thiện nam hay thiện nữ, nghe như vậy thì phải mạnh mẽ mà tự tu, bởi vì phần phước lành của người nào thì người ấy nhận được đủ cả.
Quỷ sứ lớn nhất là sự vô thường, nó đến không hề hẹn trước, nó đến trong cảnh mịt mù thăm thẳm, nghiệp thức chơi vơi, chưa biết sẽ chịu tội hay hưởng phước. Nên trong thời gian bảy lần bảy bốn mươi chín ngày, người chết như ngây như điếc, hoặc bị đưa đến những nơi liên hệ để đối biện về nghiệp và nghiệp quả. Sau khi thẩm định mới tùy nghiệp mà sinh vào các loài. Trong thời gian chưa đoán trước được mà khổ sở đã ngàn vạn rồi, huống chi sau đó phải đọa vào các đường dữ. Người chết ấy, lúc chưa sinh lại vào các loại, tức là trong thời gian bảy lần bảy bốn mươi chín ngày, ý nghĩ này liên tiếp ý nghĩ khác, trông ngóng bà con ruột thịt làm phước cứu vớt cho họ. Hết thời gian này rồi, phải tùy nghiệp mà chịu quả báo. Nếu là tội nặng thì trải qua hàng trăm hàng ngàn năm cũng chưa có ngày thoát khỏi. Nếu là năm tội Vô gián thì bị đọa vào địa ngục lớn nhất ấy, trải qua hàng ngàn hàng vạn kiếp, chịu đủ mọi thứ khổ sở cực hình.
Này Trưởng giả Đại Biện! Những người tạo nghiệp ác sau khi chết, bà con ruột thịt nên thiết trai cúng dường để cứu vớt giúp cho họ. Lúc sắp đặt trai soạn, nước, gạo và lá rau đừng đổ vãi xuống đất. Trai soạn chưa cúng dường Phật và Tăng, hoặc đã cúng dường mà thọ trai chưa xong thì đừng ăn trước, nếu ăn trước hay thiếu tinh khiết, cẩn trọng thì người chết chẳng hưởng được hiệu lực nào cả. Còn nếu tinh khiết, cẩn trọng, giữ gìn sạch sẽ mà phụng hiến Phật và phụng hiến Tăng thì người chết bảy phần sẽ được một. Này Trưởng giả Đại Biện! Cho nên người Diêm-phù nếu cha mẹ hay bà con đã chết mà thiết trai cúng dường một cách hết lòng cẩn trọng, chân thành, làm phước như vậy thì người còn kẻ mất đều được ích lợi tất cả.
Khi lời này của Bồ-tát Địa Tạng được nói ra, tại Thiên cung Đao-lợi có ngàn vạn ức trăm triệu quỷ thần ở châu Diêm-phù đều phát tâm Bồ-đề vô thượng. Còn Trưởng giả Đại Biện thì đảnh lễ rồi lui về chỗ của mình.
Phẩm 8: VUA TÔI DIÊM-LA XƯNG TỤNG
Lúc ấy, có vô số vua quỷ, vốn ở trong dãy núi Thiết vi đã cùng Diêm-la Thiên tử lên Đao-lợi, để đến chỗ Đức Thế Tôn, đó là vua quỷ Ác độc, vua quỷ Ác nhiều, vua quỷ tranh cãi dữ, vua quỷ Cọp trắng, vua quỷ Cọp huyết, vua quỷ Cọp đỏ, vua quỷ Gieo tai họa, vua quỷ Phi thân, vua quỷ Ánh điện, vua quỷ Nanh sói, vua quỷ Ngàn mắt, vua quỷ Ăn thú vật, vua quỷ Vác đá, vua quỷ Chúa hao tổn, vua quỷ Chúa tai họa, vua quỷ Chúa thực phẩm, vua quỷ Chủ tài sản, vua quỷ Chủ gia súc, vua quỷ Chủ loài chim, vua quỷ Chủ loài thú, vua quỷ Chúa mị, vua quỷ Chúa sản, vua quỷ Chủ sinh mạng, vua quỷ Chủ bệnh tật, vua quỷ Chủ hiểm nguy, vua quỷ Ba mắt, vua quỷ Bốn mắt, vua quỷ Năm mắt, vua quỷ Kỳ-lợi-thất, vua quỷ Đại Kỳ-lợi-thất, vua quỷ Kỳ-lợi-xoa, vua quỷ Đại Kỳ-lợi-xoa, vua quỷ A-na-tra, vua quỷ Đại A-na-tra. Những vua quỷ này ai cũng có cả trăm cả ngàn vua quỷ nhỏ, cùng ở tại châu Diêm-phù, có nhiệm vụ và có quyền hành riêng. Những vua quỷ này cùng Diêm-la Thiên tử, nhờ oai thần lực của Đức Thế Tôn và của Đại Bồ-tát Địa Tạng, mà cùng nhau đến được và đứng vào một chỗ tại Đao-lợi Thiên cung. Bấy giờ Diêm-la Thiên tử quỳ xuống, chắp tay thưa:
–Bạch Thế Tôn! Hôm nay con cùng với các vua quỷ nhờ oai thần lực của Thế Tôn và của Đại Bồ-tát Địa Tạng mới đến được pháp hội Đao-lợi lớn lao như thế này. Việc ấy đã là lợi ích tốt đẹp mà chúng con được hưởng. Bây giờ con có một nỗi hoài nghi nhỏ, dám xin thỉnh vấn Thế Tôn. Xin Thế Tôn Từ bi chỉ dạy cho con.
Đức Thế Tôn bảo Diêm-la Thiên tử:
–Tùy ý ông hỏi, Như Lai sẽ vì ông mà nói cho.
Bấy giờ, Diêm-la Thiên tử chiêm ngưỡng và đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi xoay qua chiêm ngưỡng Bồ-tát Địa Tạng, sau đó xoay lại thưa:
–Bạch Thế Tôn! Con thấy Bồ-tát Địa Tạng ở trong sáu đường, vận dụng hàng trăm hàng ngàn phương tiện cứu vớt những kẻ tội khổ, không sợ mệt nhọc. Đại Bồ-tát có thần lực không thể nghĩ bàn như vậy, nhưng vì sao mọi người khi thoát khỏi đường ác không lâu thì lại sa vào chốn ấy? Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Địa Tạng đã có thần lực không thể nghĩ bàn như vậy, tại sao không làm cho mọi người sống trong đường lành, siêu thoát mãi mãi? Con thỉnh cầu Thế Tôn giải thích cho con.
Thế Tôn nói:
–Này Diêm-la Thiên tử! Người ở phía Nam cõi Diêm-phù này tính khí ương ngạnh, khó hướng dẫn, khó chế ngự. Bồ-tát Địa Tạng trong hàng trăm hàng ngàn kiếp, đã phải cứu vớt từng người một, ước mong làm cho họ sớm được giải thoát. Đến nỗi những người tội chướng nặng nề bị sa vào nẻo đường rất dữ đi nữa, Bồ-tát cũng phải vận dụng năng lực phương tiện mà cứu vớt họ thoát khỏi nghiệp quả căn bản, làm cho họ biết rõ những việc đã làm trong đời trước. Người Diêm-phù đã tự mình kết quá nặng cái thói nghiệp dữ, nên đường dữ mới ra lại vào, làm mệt Đại sĩ bao kiếp hóa độ.
Ví như có kẻ quên mất nhà mình, lầm vào đường hiểm. Đường ấy lại lắm Dạ-xoa và cọp, sói, sư tử, hổ mang, bò cạp. Trong đường hiểm như vậy, kẻ lầm đường chỉ lát nữa là sẽ bị hại. Lại có người hiểu biết tốt, biết nhiều thuật giỏi, trị được Dạ-xoa và mãnh thú, bất ngờ bắt gặp kẻ lầm đường đang muốn đi sâu vào đường hiểm ấy, vội hỏi, quái lạ, cần gì mà anh vào đây? Anh có phép lạ nào để chế ngự những sự độc hại? Kẻ lầm đường nghe vậy mới biết là đường hiểm, tức khắc lùi bước, cầu thoát nơi ấy. Người bạn lành tri thức nắm tay dẫn ra khỏi đường hiểm, thoát khỏi những độc hại. Khi đến đường tốt, yên ổn vui mừng rồi, người bạn lành trí thức mới nói với kẻ lầm lạc: Từ nay về sau đừng bước vào con đường ấy nữa, đường ấy mà vào đã khó ra mà còn mất mạng.
Kẻ lầm đường cũng biết cảm kích ơn nặng. Lúc chia tay, người bạn lành tri thức lại bảo: Anh thấy ai, bất kể quen lạ, nam nữ hãy bảo cho họ biết đường ấy lắm độc và nhiều dữ, vào đó là mất mạng. Đừng để họ tự rước lấy cái chết.
Bồ-tát Địa Tạng với lòng Từ bi vĩ đại, cứu vớt những kẻ tội khổ ra khỏi đường ác, làm cho họ sinh trong nhân loại hay các cõi trời, hưởng sự yên vui vi diệu. Những kẻ tội khổ ấy, biết cái khổ ở đường dữ, nên thoát được rồi thì không bao giờ còn dám trở lại. Những kẻ lầm đường, lầm vào đường hiểm, được bạn lành tri thức dẫn ra rồi thì không bao giờ còn bước lại vào đó. Gặp ai bước vào cũng biết khuyên can, bằng cách tự nói chính vì mình đã lầm vào đó mà biết là đường hiểm, nay ra được rồi thì không dám vào lại nữa. Ngược lại, có những kẻ vẫn cứ bước vào, ấy là vì còn quá ngu và lầm, hoặc đã quên đó là đường hiểm mà trước đây mình đã lạc vào, nên có thể tự gây ra sự mất mạng cho mình. Khác nào những kẻ sa vào đường dữ đã được Bồ-tát Địa Tạng dùng năng lực phương tiện cứu cho thoát khỏi, sinh vào cõi người hay các cõi trời, nhưng liền sau đó lại tái phạm tiếp tục sa vào. Nghiệp dữ càng kết lại quá nặng nên ở mãi trong địa ngục, không biết bao giờ thoát khỏi.
Lúc ấy, vua quỷ Ác độc chắp tay cung kính thưa:
–Bạch Thế Tôn! Vua quỷ như chúng con số lượng nhiều lắm ở tại châu Diêm-phù, hoặc có kẻ giúp ích cho người, hoặc cũng có kẻ gây họa cho người, việc làm mỗi kẻ mỗi khác. Nhưng vì nghiệp và nghiệp báo của người Diêm-phù đã khiến cho thuộc hạ của chúng con đi đến đâu cũng gây họa nhiều hơn là giúp ích. Tuy nhiên, nếu họ có đi qua nhà cửa của ai, hoặc đô thị làng xóm, hoặc trang trại, phòng óc nào mà có kẻ, hoặc nam hoặc nữ, biết làm nghiệp lành dầu bằng tơ tóc, cho đến biết treo một lá cờ, một lá phướn, hoặc một cái lọng, biết sắm một ít hương hay một ít hoa để cúng dường hình tượng Phật hay hình tượng Bồ-tát, hoặc giả đốt hương và trì tụng bản kinh tôn quý này để cúng dường, dầu chỉ được một câu đủ nghĩa của một bài kệ, nhưng vua quỷ như chúng con vẫn kính lạy những người ấy như kính lạy chư Phật trong mọi thời gian quá khứ, hiện tại và vị lai. Chúng con lại hạ lịnh cho những quỷ nhỏ nhưng có sức lớn, cho kẻ có trách nhiệm về khu vực ấy, phải ra sức hộ vệ, làm cho việc ác và việc ngang trái, bệnh dữ và bệnh ngang trái, cho đến mọi sự không vừa ý, đều không đến gần được khu vực có nhà cửa, cho đến phòng ốc của những người ấy cư trú, huống chi để cho xâm nhập cửa ngõ.
Đức Thế Tôn khen vua quỷ Ác độc:
–Lành thay, lành thay! Việc các người với Thiên tử Diêm-la đã hộ vệ được như vậy đối với những thiện nam hay thiện nữ thì Như Lai cũng khuyến khích Phạm vương Đế Thích hộ vệ cho các người.
Khi Thế Tôn nói lời ấy thì trong pháp hội có một vua quỷ khác, tên là Chủ Sinh Mạng, bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nghiệp căn bản của con là chủ trì sinh mạng của người Diêm-phù. Lúc sinh cũng như lúc chết, con chủ trì cả. Bản nguyện của con rất muốn đem ích lợi cho họ, nhưng tự họ không biết ý con, nên sinh và chết đều không yên. Vì sao? Vì đối với việc sinh nở của người Diêm-phù, không kể nam nữ, lúc sắp sinh chỉ nên làm lành để ích lợi thêm cho nhà cửa, quỷ thần khu vực họ ở sẽ hoan hỷ vô lượng, mà hộ vệ cả mẹ lẫn con được sự yên vui to lớn và còn đem ích lợi đến cả thân thuộc, lúc sinh rồi thì phải hết sức thận trọng, tránh sự sát sinh để kiếm vị tươi ngon cung cấp cho sản phụ hoặc để tụ tập thân thuộc có rượu thịt uống ăn, ca hát đàn thổi. Nếu làm như vậy thì cả mẹ lẫn con sẽ không được yên vui. Vì lẽ lúc sinh nở luôn có vô số quỷ dữ yêu tinh muốn ăn uống những máu huyết hôi tanh, chỉ vì con đã ra lệnh trước cho các vị Thần linh khu vực, nên họ che chở hộ vệ cho cả mẹ lẫn con được yên vui ích lợi. Sản phụ và thân nhân thấy yên vui ích lợi đáng lẽ phải biết làm phước để gián tiếp đáp tạ thần linh khu vực, đằng này ngược lại, sát sinh và tụ tập bà con mà yến tiệc. Làm như vậy là phạm vào tội ác và đương nhiên tự chịu tai họa là mẹ con cùng bị thương tổn.
Lại nữa, người ở Diêm-phù khi sắp chết, bất cứ họ đã làm lành hay làm ác, con đều muốn làm cho ai nấy cũng đừng sa vào đường dữ, huống chi tự họ biết làm lành, gián tiếp tăng thêm năng lực cho con. Tại châu Diêm-phù này, những người biết làm lành, khi sắp chết vẫn có cả trăm cả ngàn quỷ thần ác biến ra giống như cha mẹ bà con của họ, dẫn dụ họ sa vào đường ác, huống chi là những kẻ vốn chỉ biết làm ác.
Bạch Thế Tôn! Như vậy, bất cứ nam nữ, người Diêm-phù lúc sắp chết, hầu hết nghiệp thức hôn mê, lành không biết dữ không hay, thị giác, thính giác hết cả khả năng thấy nghe. Lúc ấy thân nhân của họ nên cố gắng làm việc lớn để cúng dường, như trì tụng bản kinh tôn quý, trì niệm danh hiệu của Phật, của Bồ-tát. Nhân lành này sẽ có năng lực làm cho người chết thoát khỏi đường dữ, quỷ thần, ma vương cũng lùi bước và tản mất. Bạch Thế Tôn! Hết thảy mọi người khi sắp chết, nếu được nghe một danh hiệu Phật, một danh hiệu Bồ-tát, hoặc một câu đủ nghĩa trong một bài kệ của kinh điển Đại thừa thì con thấy những người ấy, ngoại trừ năm thứ tội Vô gián và tội sát hại, còn những tội tương đối nhỏ hơn thì vẫn có thể làm cho họ đáng lẽ sa vào đường dữ, tức khắc thoát khỏi được cả.
Thế Tôn nói:
–Này vua quỷ Chủ Sinh Mạng! Chính vì ông có lòng từ rộng lớn mới phát ra thệ nguyện trọng đại, nguyện ở trong sinh tử mà hộ vệ chúng sinh. Nếu trong đời vị lai, có người bất cứ nam nữ, lúc họ sinh hay lúc họ chết, ông đừng bỏ thệ nguyện của mình, hãy hộ vệ cho họ trong tất cả những lúc ấy được thoát khỏi tai họa, mãi mãi yên vui.
Vua quỷ Chủ Sinh Mạng bạch Thế Tôn:
–Xin Thế Tôn đừng lo nghĩ. Con nguyện suốt đời con, ý nghĩ này liên tiếp ý nghĩ khác, hộ vệ cho người Diêm-phù, làm cho họ lúc sinh cũng như lúc chết đều được yên vui. Con chỉ cầu nguyện mọi người, lúc sinh hay lúc chết, hãy tin theo lời con thì không ai mà không thoát khỏi tai họa và được ích lợi lớn lao.
Đức Thế Tôn nói với Bồ-tát Địa Tạng:
–Vua quỷ Chủ Sinh Mạng này đã hàng trăm hàng ngàn đời làm vua quỷ lớn, ở trong sinh tử mà hộ vệ chúng sinh. Vì thệ nguyện Từ bi mà vị Đại Bồ-tát này biến hình làm vua quỷ lớn, thật ra không phải quỷ đâu. Sau này, qua một trăm bảy chục kiếp nữa, vị Đại Bồtát này sẽ thành Phật với danh hiệu: Như Lai Vô Tướng, kiếp tên An lạc, thế giới tên Tịnh trụ. Như Lai Vô Tướng sống lâu không thể tính kể. Này Địa Tạng! Việc của vua quỷ lớn này đến như thế ấy, là không thể nghĩ bàn, nhân loại và chư Thiên mà vị ấy cứu độ cũng không thể nào tìm thấy giới hạn và số lượng.
Phẩm 9: XƯNG TỤNG DANH HIỆU CHƯ PHẬT
Đại Bồ-tát Địa Tạng khi ấy thưa:
–Bạch Thế Tôn! Bây giờ con xin vì những người trong đời vị lai mà nói đến một sự ích lợi. Trong lúc sống cũng như trong lúc chết, sự ấy làm cho họ được ích lợi vĩ đại. Con thỉnh cầu Thế Tôn cho phép con nói về sự ấy.
Thế Tôn nói:
–Này Địa Tạng! Bồ-tát muốn dấy lên lòng Từ bi cứu hết thảy những kẻ tội khổ trong sáu đường định nói đến việc không thể nghĩ bàn thì thật đúng lúc, nên nói liền đi. Như Lai sắp nhập Niết-bàn, nói đến sự ấy là Bồ-tát tự làm cho thệ nguyện của mình sớm được hoàn tất, lại làm cho Như Lai hết phải lo nghĩ về mọi người trong hiện tại và trong vị lai.
Bồ-tát Địa Tạng bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Trong quá khứ, trải qua vô số vô số kiếp, có Đức Phật xuất thế danh hiệu là Như Lai Vô Biên Thân. Nếu có nam tử hay nữ nhân nào nghe được danh hiệu của Phật, sinh tâm tôn kính thì dẫu chỉ trong chốc lát, người ấy cũng vượt được tội nặng sinh tử trong bốn mươi kiếp, huống chi còn biết đắp vẽ hình tượng của Phật mà cúng dường và xưng tụng. Phần phước mà người này đạt được thật là vô lượng, vô biên.
Cũng trong quá khứ, cách nay những kiếp nhiều như cát sông Hằng, có Đức Phật xuất thế danh hiệu là Như Lai Bảo Tánh. Nếu có nam tử hay nữ nhân nào nghe được danh hiệu của Phật mà đã phát tâm quy y, dẫu thời gian chỉ bằng khảy một tiếng thì người ấy đối với đạo Vô thượng sẽ không bao giờ thoái chuyển.
Cũng trong quá khứ, có Đức Phật xuất thế danh hiệu là Như Lai Ba-đầu-ma Thắng. Nếu có nam tử hay nữ nhân nào được danh hiệu của Đức Phật lướt qua thính giác thì người ấy sẽ được ngàn lần sinh lên sáu tầng trời cõi Dục, huống chi còn biết chí tâm trì niệm danh hiệu ấy.
Cũng trong quá khứ, trải qua vô số kiếp lâu đến không thể không thể nói hết, có Đức Phật xuất thế danh hiệu là Như Lai Sư Tử Hống. Nếu có nam tử hay nữ nhân nào nghe được danh hiệu của Đức Phật một lòng quy y thì sự phát tâm ấy dẫu trong chốc lát, người đó vẫn gặp được vô lượng chư Phật xoa đỉnh đầu, thọ ký cho.
Cũng trong quá khứ, có Đức Phật xuất thế danh hiệu là Phật Câu-lưu-tôn. Nếu có nam tử hay nữ nhân nào nghe được danh hiệu của Đức Phật, chí thành chiêm ngưỡng, lễ bái, xưng tụng thì người ấy, trong pháp hội của ngàn Đức Phật thuộc về Hiền kiếp này, đều được làm vị Phạm vương và được sự thọ ký tối thượng.
Cũng trong quá khứ, có Đức Phật xuất thế danh hiệu là Tỳ-bàthi. Nếu có nam tử hay nữ nhân nào nghe được danh hiệu Đức Phật thì vĩnh viễn không còn sa vào đường dữ, thường sinh trong kiếp người hay các cõi trời, hưởng sự yên vui vi diệu.
Cũng trong quá khứ, với những kiếp nhiều bằng số cát của vô lượng vô số sông Hằng, có Đức Phật xuất thế danh hiệu là Như Lai Bảo Thắng. Nếu có nam tử hay nữ nhân nào nghe được danh hiệu Đức Phật thì người ấy tuyệt đối hết còn sa vào đường dữ, thường ở các cõi trời hưởng sự yên vui thượng diệu.
Cũng trong quá khứ, có Đức Phật xuất thế danh hiệu là Như Lai Bảo Tướng. Nếu có nam tử hay nữ nhân nào nghe được danh hiệu Đức Phật, sinh lòng tôn kính thì người ấy không bao lâu sẽ đạt được quả A-la-hán.
Cũng trong quá khứ, trải qua vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, có Đức Phật xuất thế danh hiệu là Như Lai Ca-sa Tràng. Nếu có nam tử hay nữ nhân nào nghe được danh hiệu của Ngài thì vượt được tội lỗi của sinh tử trong một trăm đại kiếp.
Cũng trong quá khứ, có Đức Phật xuất thế danh hiệu là Như Lai Đại Thông Sơn Vương. Nếu có nam tử hay nữ nhân nào nghe được danh hiệu Đức Phật thì người ấy sẽ được hằng hà sa số chư Phật, sẽ được chư Phật rộng nói pháp Phật cho và quyết chắc sẽ thành tựu tuệ giác.
Cũng trong quá khứ, có Đức Phật Tịnh Nguyệt, Phật Sơn Vương, Phật Trí Thắng, Phật Tịnh Danh Vương, Phật Trí Thành Tựu, Phật Vô Thượng, Phật Diệu Thanh, Phật Mãn Nguyệt, Phật Nguyệt Diện. Các Đức Như Lai như vậy nhiều đến số lượng không thể nói hết. Bạch Thế Tôn! Hiện tại và vị lai, hết thảy mọi người, bất cứ là cõi trời hay cõi người, bất cứ nam tử hay nữ nhân, chỉ cần trì niệm danh hiệu của một Đức Phật thì công đức cũng đã vô lượng, huống chi được trì niệm nhiều danh hiệu. Những người ấy, lúc sống cũng như lúc chết, tự được ích lợi lớn lao, không bao giờ còn bị sa vào đường dữ.
Nếu có những kẻ sắp chết, mà thân nhân trong nhà, dầu chỉ một người biết vì kẻ sắp chết ấy mà cao tiếng niệm danh hiệu của một Đức Phật thì kẻ sắp chết ấy, ngoại trừ năm thứ tội Vô gián, còn lại các nghiệp dữ của những quả khổ khác đều tan biến hết thảy. Năm thứ nghiệp dữ Vô gián rất cực kỳ nặng nề, sẽ sa vào địa ngục, trải qua cả ức kiếp vẫn chưa thoát khỏi, nhưng nhờ lúc sắp chết được người khác niệm danh hiệu Phật cho mình, nên nghiệp dữ ấy cũng tiêu dần đi, huống chi có kẻ tự mình niệm được danh hiệu của Phật. Kẻ ấy, phước được đã vô lượng mà tội diệt cũng vô lượng.