PHẬT NÓI KINH DI LẶC HẠ SINH THÀNH PHẬT
Hán dịch: Đời Đường_ Tam Tạng Pháp Sư NGHĨA TỊNH phụng chế dịch
Việt dịch: HUYỀN THANH
Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Bạc Già Phạm (Bhagavaṃ: Thế Tôn) ngự trên núi Thứu Phong (Gṛdhra-kuṭa) tại thành Vương Xá (Rājagṛha) cùng với chúng Đại Bật Sô đến dự.
Bấy giờ Đại Trí Xá Lợi Tử (Śāriputra) là vị tướng giỏi nhất trong Pháp, thương xót Thế Gian, từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo hở vai phải, quỳ gối phải sát đất, chắp tay cung kính tồi bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Nay con muốn thỉnh hỏi chút ít, nguyện xin rũ thương nghe hứa”
Đức Phật bảo Xá Lợi Phất (Śāriputra): “Tùy theo điều ông hỏi, Ta sẽ vì ông nói”.
Thời Xá Lợi Tử liền dùng Già Tha (Gāthā:Kệ Tụng) thỉnh Đức Thế Tôn rằng:
“Đại Sư đã thọ ký (Vyākaraṇa)
Phật đương lai sinh xuống
Tên hiệu là Từ Thị (Maitreya)
Như Kinh (Śūtra) trước sau nói
Nguyện xin Nhân Trung Tôn (Đức Hiệu của Phật)
Dùng Già Đà (Gāthā:Kệ Tụng) phân biệt
Uy Đức Thần Thông ấy
Nay con vui muốn nghe”
_ Phật bảo Xá Lợi Tử:
“Nên chí Tâm nghe kỹ
Từ Thị Tôn đương lai
Vì ông rộng tuyên nói
_ Khi ấy nước biển lớn
Dần giảm bới ba ngàn
Hai trăm Du Thiện Na (Yojana)
Hiển lối nẻo Luân Vương (Cakra-rāja)
_ Thiệm Bộ Châu (Jambu-dvīpa) dài rộng
Có vạn Du Thiện Na
Hữu tình trụ trong đấy
Nơi chốn đều sung mãn
_ Cõi nước đều giàu có
Không hình phạt, tai ách
Các hạng người nam nữ
Đều do nghiệp lành (Kuśala-karma:Thiện Nghiệp), sinh
_ Đất không có gai góc
Chỉ sinh cỏ mềm xanh
Tùy chân người dẫm đạp
Ví như tơ Đổ La
_ Gạo thơm tự nhiên hiện
Đầy đủ vị ngon ngọt
Các cây sinh quần áo
Mọi lụa màu trang nghiêm
Cây cao ba Câu Xá
Thường tràn đầy hoa quả
_Thời người trong nước ấy
Đều thọ tám vạn tuổi
Không có các bệnh khổ
Lìa phiền não, an vui
Đầy đủ tướng đoan nghiêm
Sắc Lực (sắc đẹp, sức mạnh) đều viên mãn
Người chỉ lo ba loại
Ăn, già yếu, tiêu tiểu
Người nữ năm trăm tuổi
Mới tạo dựng hôn nhân
Chư Hữu (mọi người) muốn tiêu tiểu
Đất nứt ra nhận chứa
Mạng người sắp chấm dứt
Tự đi đến Thi Lâm (Rừng chứa xác chết, nghĩa địa)
_ Thành tên Diệu Tràng Tướng
Kinh đô của Luân Vương
Ngang hai mươi Do Tuần
Rộng khoảng bảy Do Tuần
Người cư ngụ trong đấy
Đều từng gieo Diệu Nhân (Nhân màu nhiệm)
Thành này có Thắng Đức (Đức thù thắng)
Người trụ đều vui vẻ
Lâu đài ngăn chống giặc
Do bảy báu tạo thành
Then cài với cửa nẻo
Nghiêm sức bằng mọi báu
Các thành hào vòng quanh
Đều tràn châu ngọc báu
_ Hoa thơm đẹp tràn đầy
Chim tốt bay lượn đến
Bảy hàng cây Đa La (Tāla)
Giáp vòng vây chung quanh
Dùng mọi báu trang nghiêm
Đều treo lưới, chuông rung
Gió nhẹ thổi cây báu
Diễn ra mọi Diệu Thanh (âm thanh màu nhiệm)
Giống như tấu tám âm
Người nghe, sinh vui vẻ
_ Nơi nơi có ao, đầm
Hoa đủ màu che khắp
Vườn dược chọn cây thơm
Trang nghiêm thành quách này
_ Trong nước có Thánh Chủ
Tên gọi là Hướng Khư
Kim Luân Vương bốn châu
Giàu có, nhiều uy lực
Nghiệp Phước Đức của vua
Mạnh cứng kiêm bốn binh
Bảy báu đều thành tựu
Đầy đủ ngàn đứa con
Bốn biển đều an bình
Không có trận binh đao
Dùng Chính Pháp trị dân
Giáo hóa đều bình đẳng
_ Vua có bốn Đại Tạng (kho tàng to lớn)
Đều ở trong các nước
Mỗi kho tàng đều có
Trăm vạn ức châu báu
Trong nước Yết Lăng Già
Tạng tên Băng Kiệt La
Trong nước Mật Hy La
Đại Tạng Bát Trục Ca
Tạng Y La Bát La
Để ở nước Kiền Đà
Bà La Nhiếp Tư Cảnh
Tạng tên là Hướng Khư
Cả bốn kho tàng này
Đều thuộc vua Hướng Khư
Của cải của trăm Phước
Quả báo đều thành tựu
_ Vị Đại Thần phụ quốc (trợ giúp sửa trị nước nhà)
Bà La Môn Thiện Tịnh
Đều thấu đạt bốn Minh
Đa Văn làm quốc sư
Thông thạo các Tạp Luận
Khéo dạy, có Văn Trì (nghe dạy Pháp thì ý gìn giữ chẳng quên) Huấn Giải (Dạy dỗ giải thích nói) với Thanh Minh (Śabda-vidyā: nghiên cứu văn tự)
Nghiên cứu thấu đáo hết
_ Người nữ tên Tịnh Diệu
Là vợ của Đại Thần
Tiếng tăm, tướng đoan nghiêm
Người thấy đều ưa thích
_ Đại Trượng Phu Từ Thị (Maitreya: Di Lặc Bồ Tát)
Từ cõi Trời Hỷ Túc (Tuṣita: Đâu Suất)
Đến nương phu nhân ấy
Làm nơi sinh thân sau
_ Mang thai Đại Thánh này
Đầy đủ suốt mười tháng
Lúc đó mẹ Từ Thị
Dạo chơi vườn hoa đẹp
Đến trong vườn ấy xong
Chẳng ngồi cũng chẳng nằm
Thong thả vịn cây hoa
Chốc lát sinh Từ Tôn
_Bấy giờ Tối Thắng Tôn (chỉ đức Di Lặc)
Từ hông phải mẹ ra
Như nhật (mặt trời) ra khỏi mây
Phóng khắp ánh sáng lớn
Chẳng nhiễm chạm bào thai
Như hoa sen rời nước
Sáng khắp trong ba cõi
Đều nương ánh Đại Từ (Mahā-maitra)
_ Ngay lúc Giáng Sinh ấy
Thiên Nhãn Đế Thích Chủ
Khom mình nâng Bồ Tát
Mừng gặp Lưỡng Túc Tôn (Dvipadottama:Tôn Hiệu của Phật)
_ Vào lúc này, Bồ Tát Tự nhiên đi bảy bước
Nơi bàn chân dẫm đạp
Đều hiện hoa sen báu
Quán sát khắp mười phương
Bảo các chúng Trời Người
“Thân cuối cùng của Ta
Vô Sinh (Anutpāda) chứng Niết Bàn (Nirvāṇa)”
_ Rồng tuôn nước trong mát
Tắm gội thân Đại Bi
_ Trời rải hoa thù diệu
Phất phới khắp hư không
_ Chư Thiên cầm lọng trắng
Che đậy Đại Từ Tôn
Đều sinh Tâm hiếm có
Thủ hộ cho Bồ Tát
_ Bảo Mẫu nâng Bồ Tát Thân ba mươi hai tướng
Đầy đủ các ánh sáng
Nâng giữ đưa cho mẹ
Người hầu dâng Điêu Liễn (xe hoa đẹp)
Đều dùng báu trang nghiêm
Mẹ con lên trong xe
Chư Thiên cùng giữ xe
Ngàn loại âm nhạc hay
Dẫn đường quay về cung
_ Từ Thị (Maitreya) vào đô thành
Hoa Trời như mưa tuôn
Ngày Từ Tôn đản sinh
Các Thể Nữ mang thai
Được khắp thân an ổn
Sinh con trai Trí Tuệ
_ Thiện Tịnh cha Từ Tôn
Nhìn con đẹp kỳ diệu
Đủ ba mươi hai tướng
Tâm sinh đại hoan hỷ
Cha dựa Pháp Chiêm Sát
Biết con có hai tướng
Ở đời (thế tục) làm Luân Vương
Xuất gia thành Chính Giác
_ Bồ Tát đã trưởng thành
Thương lo các quần sinh
Trong mọi hiểm nạn khổ
Luân hồi thường chẳng ngưng
_ Ánh sáng vàng rực rỡ
Tiếng như Đại Phạm Âm
Mắt như cánh sen xanh
Chi Thể đều viên mãn
Thân dài tám mươi khuỷu
Vai khoảng hai mươi khuỷu
Mặt rộng bằng nửa vai
Tướng trăng đầy đoan nghiêm
_ Bồ Tát thông mọi nghề
Khéo dạy người theo học
Nhóm Đồng Mông (người ấu trĩ ngu muội) thỉnh nghiệp
Tám vạn bốn ngàn người
_ Thời vua Hướng Khư ấy
Dựng lập phướng bảy báu
Phướng cao bảy mươi Tầm (1Tầm= 8 thước=8/3 m)
Rộng có sáu mươi Tầm
Phướng báu tạo thành xong
Vua phát Tâm Đại Xả
Ban cho Bà La Môn (Brāhmaṇa)
Đặt bày hội Vô Già (Pañca-vārṣika maha)
Khi ấy các Phạm Chí (Brāhmaṇa)
Số có một ngàn người
Được phướng diệu bảo này
Hủy xé trong chốc lát
_ Bồ Tát thấy việc này
Nghĩ Thế Tục đều thế
Khổ sinh tử giam nhốt
Nghĩ cầu chốn lìa ra
Cầu thành Đạo Tịch Diệt
Vứt Tục, rồi Xuất Gia
Trong sinh già bệnh chết
Cứu giúp khiến ra khỏi
_ Từ Tôn dấy lên nguyện:
“Tám vạn bốn ngàn người
Đều sinh Tâm chán lìa
Đều tùy tu Phạm Hạnh”
_ Vào đêm mới phát Tâm
Buông Tục rồi Xuất Gia
Ngay ở trong đêm này
Vượt lên Địa Đẳng Giác
_ Thời có cây Bồ Đề
Tên hiệu là Long Hoa (Nāga-puṣpa)
Cao bốn Du Thiện Na
Um tùm rất xum xuê
Cành nhánh trùm bốn mặt
Che sáu Câu Lô Xá
Từ Thị Đại Bi Tôn
Ở dưới, thành Chính Giác
_ Nơi Nhân Trung Tôn Thắng
Đủ tám tiếng Phạm Âm
Nói Pháp độ chúng sinh
Khiến lìa các phiền não
Khổ với nơi Khổ Sinh
Tất cả đều trừ diệt
Hay tu tám Chính Đạo
Lên bờ Niết Bàn kia
Vì các kẻ Thanh Tín (người có niềm tin trong sạch)
Nói bốn Chân Đế này
Được nghe Pháp Như này
Chí thành mà phụng trì
_ Ở vườn hoa xinh đẹp
Các Chúng đến như mây
Tràn đầy trăm Do Tuần
Quyến thuộc đều sung mãn
_ Luân Vương Hướng Khư ấy
Nghe Pháp sâu mầu (thâm diệu) xong
Vui buông các châu báu
Tâm hâm mộ Xuất Gia
Chẳng lưu luyến cung vi
Chí cầu nơi lìa khỏi Tám vạn bốn ngàn Chúng
Đều tùy thuận Xuất Gia
_ Lại tám vạn bốn ngàn
Bà La Môn Đồng Tử
Nghe vua buông trần tục
Cũng đến cầu Xuất Gia
_ Chủ Tạng Thần trưởng giả
Tên gọi là Thiện Tài
Cùng với ngàn quyến thuộc
Cũng đến cầu Xuất Gia
_ Nữ báu Tỳ Xá Khư
Với các kẻ theo hầu
Tám vạn bốn ngàn Chúng
Cũng đến cầu Xuất Gia
_ Lại hơn trăm ngàn số Hàng Thiện Nam, Thiện Nữ
Nghe Phật tuyên Diệu Pháp
Cũng đến cầu Xuất Gia
_ Thiên Thượng Thiên Nhân Tôn
Đại Từ Bi Thánh Chủ
Quán khắp mọi Tâm xong
Diễn nói Pháp thiết yếu
Bảo Chúng: “Ngươi nên biết
Từ Bi Thích Ca Chủ
Dạy ngươi tu Chính Đạo
Đến sinh trong Pháp Ta
_ Hoặc đem hương, vòng hoa
Phướng, phan, lọng nghiêm sức
Cúng dường Mâu Ni Chủ
Đến sinh trong Pháp Ta
_ Hoặc Uất Kim, Trầm Thủy
Bùn thơm dùng xoa lau
Cúng dường tháp Mâu Ni
Đến sinh trong Pháp Ta
_ Hoặc quy Phật Pháp Tăng
Cung kính, thường gần gũi
Nên tu các Hạnh lành
Đến sinh trong Pháp Ta
_ Hoặc ở trong Phật Pháp
Thọ trì các chỗ học
Khéo giữ, không khuyết phạm
Đến sinh trong Pháp Ta
_ Hoặc với Tăng bốn phương
Cho quần áo, ăn uống Dâng phụng thuốc men tốt
Đến sinh trong Pháp Ta
_ Hoặc vào bốn ngày Trai
Với tại tháng Thần Thông
Thọ trì Giới tám chi
Đến sinh trong Pháp Ta”
_ Hoặc dùng ba loại Thông
Thần Cảnh đã dạy truyền
Hóa đạo chúng Thanh Văn
Đều khiến trừ Phiền Hoặc
_ Hội đầu tiên, nói Pháp
Rộng độ các Thanh Văn
Chín mươi chín ức người
Rời khỏi Phiền Não Chướng
_ Hội thứ hai, nói Pháp
Rộng độ các Thanh Văn
Chín mươi chín ức người
Khiến vượt biển Vô Minh
_ Hội thứ ba, nói Pháp
Rộng độ các Thanh Văn
Chín mươi chín ức người
Khiến Tâm khéo điều phục
_ Ba lần chuyển Pháp Luân
Người, Trời thuần Tịnh khắp
Đem các chúng Đệ Tử
Khất Thực vào trong thành
Đã vào thành Diệu Tràng
Đường đi đều nghiêm sức
Vì cúng dường Phật nên
Trời mưa hoa Mạn Đà
_ Bốn vua (bốn vị Thiên Vương) với Phạm Vương
Kèm các Thiên Chúng khác
Hương, vòng hoa cúng dường
Theo hầu Đại Bi Tôn
_ Chư Thiên uy đức lớn
Khen dùng quần áo đẹp
Phất phới khắp thành ấp
Chiêm ngưỡng Đại Y Vương (tức Đức Di Lặc)
Dùng diệu bảo, hương, hoa
Rưới vảy các nẻo đường
Dẫm đạp lên bên trên
Ví như tơ Đổ La
Âm nhạc với phướng, phan
Xếp bày hai bên đường
_ Người, Trời, Chúng Đế Thích
Xưng tán Đại Từ Tôn:
“Nam mô Thiên Thượng Tôn
Nam mô Sĩ Trung Thắng
Lành thay ! Bạc Già Phạm
Hay thương xót Thế Gian”
_ Có Trời Đại Uy Đức
Đang làm chúng Ma Vương
Quy Tâm, chắp tay lễ
Khen, ngắm đấng Đạo Sư
_ Phạm Vương, các Thiên Chúng
Quyến thuộc vây chung quanh
Đều dùng tiếng Phạm Âm
Xiển dương Pháp vi diệu
_ Ở trong Thế Giới này
Phần lớn là La Hán (Arhat: A La Hán)
Trừ sạch Nghiệp Hữu Lậu
Lìa hẳn khổ phiền não
_Hàng người, Trời, Rồng, Thần
Càn Thát, A Tu La
La Sát với Dược Xoa
Đều vui vẻ cúng dường.
_ Các Đại Chúng thời ấy
Đoạn Chướng, trừ nghi hoặc
Vượt qua dòng Sinh Tử
Khéo tu Hạnh thanh tịnh
_ Các Đại Chúng thời ấy
Lìa Trước (vướng mắc), vứt tiền của (trân tài) Không: Tâm Ta (ngã), của Ta (ngã sở)
Khéo tu Hạnh thanh tịnh.
_ Các Đại Chúng thời ấy
Hủy phá lưới Tham Ái
Viên mãn Tâm Tĩnh Lự (Thiền Định)
Khéo tu Hạnh thanh tịnh.
_ Từ Thị Nhân Thiên Tôn
Thương xót loài hữu tình
Ngài ở sáu vạn năm
Nói Pháp độ chúng sinh
Hóa đủ trăm ngàn ức
Khiến vượt biển phiền não
Có Duyên đều cứu giúp
Mới vào thành Niết Bàn
_ Từ Thị Đại Bi Tôn
Sau khi vào Niết Bàn
Chính Pháp trụ ở đời
Cũng đủ sáu vạn năm
_ Nếu ở trong Pháp Ta
Thâm Tâm hay tin nhận
Ngày hạ sinh đương lai
Ắt phụng Đại Bi Tôn (Đức Di lặc)
_ Nếu có kẻ thông tuệ
Nghe nói việc như vậy
Há chẳng khởi mừng vui
Nguyện gặp Từ Thị Tôn
_ Nếu người cầu giải thoát
Hiếm gặp Hội Long Hoa
Thường cúng đường Tam Bảo
Cần phải đừng phóng dật”
Bấy giờ Đức Thế Tôn vì Xá Lợi Tử với các Đại Chúng, đã nói việc của Từ Thị trong thời đương lai xong, lại bảo Xá Lợi Tử: “Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện nghe Pháp này xong mà thọ trì, đọc tụng, vì người khác diễn nói như Thuyết tu hành, đem hương hoa cúng dường, viết chép Kinh Điển. Nhóm người như vậy, ở đời đương lai ắt được gặp thấy Đức Từ Thị hạ sinh, ở trong ba Hội đều mong được cứu độ”.
Khi ấy Đức Thế Tôn nói Tụng này xong thời Xá Lợi Tử với các Đại Chúng vui vẻ, tin nhận, đội trên đỉnh đầu, phụng hành.
PHẬT NÓI KINH DI LẶC HẠ SINH THÀNH PHẬT
_Hết_
Căn cứ theo Khai Nguyên Lục thì Kinh Di Lặc Hạ Sinh trước sau có sáu bản dịch: ba bản còn, ba bản mất… mà bản này là một trong ba bản còn lưu giữ, tức Tống Tạng không có Kinh này, đã bị mất vậy.
Nay được nơi Đan Tạng nên biên chép đưa vào.
24/02/2012