KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG TỔNG TRÌ BẢO QUANG MINH

Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 10 thuộc Hoa Nghiêm bộ. Từ trang 884 đến trang 905, gồm 5 quyển
Tây Thiên trung Ấn Độ, nước Ma Già Đà, tại chùa Na Lan Đà, truyền giáo Đại sư Ngài Tam Tạng Tứ Tử Sa Môn Thần Pháp Thiên phụng chiếu dịch (thuộc nhà Triệu Tống).
Tỳ Kheo Thích Như Điển, Trụ Trì Chùa Viên Giác tại thành phố Hannover, nước Đức, thuộc đời Thủ Tướng Schröder, nhân mùa An Cư Kiết Hạ 2545 phụng dịch từ tiếng Hán sang tiếng Việt từ ngày 14 tháng 8 năm 2001 nhằm ngày 25 tháng 6 năm Tân Tỵ

 

Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Thế Tôn đang ở tại thành Vương Xá trong núi Linh Thứu cùng với trăm ngàn vị Tỳ Kheo đã đầy đủ các pháp thanh tịnh. Cũng có những bậc Sư Tử hống trí tuệ tròn đầy nhiều lợi ích cũng như các bậc Bồ Tát Ma Ha Tát. Các vị ấy có tên là :

Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát, Bảo Ấn Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát, Thường Hiện Bồ Tát Ma Ha Tát, Công Đức Trang Nghiêm Bồ Tát Ma Ha Tát, Phước Đức Âm Bồ Tát Ma Ha Tát, Đại Huệ Bồ Tát Ma Ha Tát, Đức Nghiêm Bồ Tát Ma Ha Tát, Kim Cang Tuệ Bồ Tát Ma Ha Tát, Kim Cang Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, Kim Cang Quang Bồ Tát Ma Ha Tát, Kim Cang Khí Trượng Bồ Tát Ma Ha Tát, Diệu Cang Bồ Tát Ma Ha Tát, Trì Địa Bồ Tát Ma Ha Tát, Hiện Nhứt Thiết Bồ Tát Ma Ha Tát, Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát, Đắc Đại Thế Bồ Tát Ma Ha Tát, Kiên Lao Huệ Bồ Tát Ma Ha Tát, Kim Cang Kiết Tường Bồ Tát Ma Ha Tát, Diệt Ác Thú Bồ Tát Ma Ha Tát, Trừ Nhứt Thiết Phiền Não Huệ Bồ Tát Ma Ha Tát, An Tường Bộ Bồ Tát Ma Ha Tát, Ly Thủ Xả Bồ Tát Ma Ha Tát, Chiên Đàn Hương Bồ Tát Ma Ha Tát, Hải Tuệ Bồ Tát Ma Ha Tát, Nan Thắng Bồ Tát Ma Ha Tát, Thật Thắng Bồ Tát Ma Ha Tát, Huệ Hạnh Bồ Tát Ma Ha Tát, Biện Tích Bồ Tát Ma Ha Tát, Diệu Hương Bồ Tát Ma Ha Tát, Từ Thị Bồ Tát Ma Ha Tát và rất nhiều vị Bồ Tát Ma Ha Tát như thế.

Tất cả đều an trụ nơi cửa của bất khả tư nghì giải thoát tam muội. Lại cũng đã chứng được phép không của vô lượng âm thanh. Xem nghe tất cả các âm thanh của các nước nơi có các Đức Phật, không sợ hãi. Thọ mệnh rất lâu chứng được tên lớn. Ba cõi không ngăn ngại lại cũng không bị phá hoại. Tất cả người trí đều là quyến thuộc. Thành tựu rất nhiều trí tuệ, làm cho chúng sanh đầy đủ. Tất cả đều đến bờ giác ngộ phía bên kia. Lại cũng chứng được phép không của thân, miệng, ý nghiệp. Chứng được tất cả trí tuệ và biết được rất nhiều hạnh nguyện. Chứng được phép không, vô tướng vô nguyện và pháp môn giải thoát. Những vị Bồ Tát như thế đều cùng đến đây để ngồi.

Lúc bấy giờ Ngài Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát từ trong chúng hội đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật và bạch Phật rằng:

Kính bạch Đức Thế Tôn: Phải hiểu pháp giới như thế nào?

Phật dạy rằng: Nầy Thiện Nam Tử! Với pháp giới nầy không có tánh không thể hiểu biết được. Vì sao vậy? Nầy Thiện Nam Tử! Ví như hư không, lìa những hí luận cũng chẳng mất hí luận, chẳng nhận chẳng bỏ; chẳng có tánh, chẳng phải chẳng có tánh. Lại cũng chẳng có nơi chốn. Nầy Thiện Nam Tử! Nên biết pháp giới là như vậy đó.

Lúc bấy giờ Ngài Phổ Hiền Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn: Pháp giới trụ ở chỗ nào?

Nầy Thiện Nam Tử! Nơi chốn còn chẳng có, huống gì có nơi để trụ. Nầy Thiện Nam Tử! Pháp giới nầy không thể biết không thể nghĩ, không có tự tánh, không thể hiểu rõ hết. Nầy Thiện Nam Tử! Pháp giới tánh kia không thể biết, không thể thấy.

Ngài Phổ Hiền Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn: Bồ Đề có những gì?

Phật bảo: Nầy Thiện Nam Tử! Bồ Đề có vô lượng hình tướng không thể đo lường được.

Phổ Hiền Bồ Tát lại hỏi: Kính bạch Đức Thế Tôn: Pháp giới lại có phân biệt như thế nào?

Phật bảo: Nầy Thiện Nam Tử! Pháp giới gốc của nó không có phân biệt.

Phổ Hiền Bồ Tát lại hỏi: Kính bạch Đức Thế Tôn: Nếu mà pháp giới không thể phân biệt được thì tại sao phàm phu chúng sanh có thể hiểu được?

Phật bảo rằng: Nầy Thiện Nam Tử! Nếu có kẻ phân biệt tức là những chúng sanh nầy mê muội nên mới sanh tâm phân biệt đối với việc không phân biệt nầy.

Ngài Phổ Hiền Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn: Sự giác ngộ của Như Lai thật sâu xa vi diệu khó thể giải thích được.

Phật bảo: Nầy Thiện Nam Tử! Bồ Đề tức là tất cả pháp vậy, lìa những hí luận, cho nên không có gì để phân biệt cả.

Lại cũng trong chúng hội có Ngài Diệu Cát Tường Đồng Tử từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật và bạch Phật rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn! Nguyện vì chúng con mà nói pháp môn “Bảo Quang Minh Tổng Trì” nầy.

Phật bảo: Nầy Thiện Nam Tử! Nay ta hỏi ông tất cả pháp hải nơi Biện Tài Bồ Tát Ma Ha Tát. Ông ta vì ngươi mà nói vậy.

Lúc ấy Diệu Cát Tường Đồng Tử ở trước Đức Như Lai hai tay chắp lại bạch Phật rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn: Như Lai là bậc nhất thiết trí, là người thấy biết tất cả, tại sao Ngài không nói?

Phật bảo rằng: Nầy Thiện Nam Tử! Vì có những Bồ Tát Ma Ha Tát, nên ở nghĩa nầy, Như Lai không nói.
Diệu Cát Tường thưa: Tuy nhiên bạch Thế Tôn! Tại sao Như Lai không nói pháp cho chúng con?

Phật bảo: Nầy Thiện Nam Tử! Vì ta không nói pháp cho hữu tình nơi đây. Cho nên Thiện Nam Tử! Ta hiển thị cho Bồ Tát kia nói lên bất khả tư nghì vậy.

Lúc ấy Ngài Cát Tường Đồng Tử bạch Phật rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn: Duy Nguyện Đức Như Lai lòng từ vô lượng hãy vì chúng con mà nói pháp môn “Bảo Quang Minh Tổng Trì”.

Phật bảo: Nầy Thiện Nam Tử! Nay ta hỏi Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát thay ta mà nói pháp môn nầy vậy. Nầy Thiện Nam Tử! Hãy biết rằng Bồ Tát Ma Ha Tát nầy trí huệ vô lượng.

Ngài Diệu Cát Tường: Nếu Như Lai bảo chúng con phải nghe Ngài Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát thì nay con hỏi.

Phật bảo: Nầy Diệu Cát Tường: Ta đã được các pháp môn giải thoát như vi trần. Tại sao lại hỏi Như Lai?

Diệu Cát Tường đáp rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Con chưa nghe một pháp nào không phải Phật nói cho đến tất cả các Đức Như Lai đều nói chơn như thật tánh. Từ đó con có thể nhớ nghĩ thọ trì không quên như ngày hôm nay.

Phật bảo: Lành thay! Lành thay Thiện Nam Tử! Nay ta sẽ nói. Phật bảo: Nầy Diệu Cát Tường! Nay ta sẽ hỏi Ngài Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát về pháp môn Tổng Trì nầy.

Lúc ấy Ngài Diệu Cát Tường Đồng Tử bạch Phật rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn! Ngài Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát nầy đã thâm nhập thật tướng của Đại Thừa chưa?

Phật bảo: Thiện Nam Tử! Các ngươi nên biết rằng tất cả đều tự tại như là một vị Pháp Vương đã chứng đắc không gì khác. Nầy Thiện Nam Tử! Hãy biết rằng với phước đức nhiều không thể kể nên đã đạt pháp không. Chứng được bất khả tư nghì giải thoát tam ma địa môn.

Lúc ấy Ngài Diệu Cát Tường Đồng Tử thừa Phật thánh chỉ nên đã đến trước Ngài Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát chắp tay cúi đầu một lòng cung kính bạch Ngài Phổ Hiền Bồ Tát rằng: Thưa Ngài: Nguyện vì chúng con mà nói hai chữ pháp môn.

Lúc ấy Ngài Phổ Hiền Bồ Tát đáp rằng: Nầy Thiện Nam Tử! Sẽ hỏi hai chữ gì nơi ta?
Lúc ấy Ngài Diệu Cát Tường Đồng Tử bạch Ngài Phổ Hiền Bồ Tát rằng: Thưa Ngài: Giác và người giác hai chữ nầy có tướng như thế nào?

Ngài Phổ Hiền Bồ Tát nói: Nầy Phật Tử: Giác vốn là không tướng, không tánh bất khả tư nghì, chẳng có chẳng không v.v… lìa các hí luận, cũng chẳng lìa các hí luận, không có ý nghĩa nên không thể đề cập đến được. Nầy Thiện Nam Tử! Đó là tánh giác của chư Phật vậy.

Ngài Diệu Cát Tường thưa: Thưa Ngài! Nếu Phật pháp chẳng hí luận. Vì sao mà Phật pháp làm như vậy?
Ngài Phổ Hiền Bồ Tát bảo với Ngài Diệu Cát Tường rằng: Nầy Phật Tử! Lìa lời nói cho nên gọi là như vậy.

Diệu Cát Tường thưa: Thưa Ngài: Thế nào là lìa ngôn ngữ để nói?
Ngài Phổ Hiền Bồ Tát đáp: Nầy Diệu Cát Tường! Trí lìa lời nói.
Ngài Diệu Cát Tường thưa: Thưa Ngài: Thế nào biết được trí?
Ngài Phổ Hiền Bồ Tát đáp: Nầy Diệu Cát Tường! Trí lìa lời nói.
Ngài Diệu Cát Tường thưa: Thưa Ngài: Thế nào biết được trí?

Ngài Phổ Hiền Bồ Tát đáp: Nầy Diệu Cát Tường: Nghĩa là biết vô tánh, biết chẳng phải vô tánh.
Ngài Diệu Cát Tường lại hỏi: Thưa Ngài: Thế nào gọi là biết vô tánh và biết chẳng phải vô tánh? Vì sao mà nói pháp tam thừa?

Ngài Phổ Hiền Bồ Tát nói: Nầy Diệu Cát Tường! Thế giới lìa sự nhiễm ô vì sao gọi là có nói.
Diệu Cát Tường hỏi: Vì sao tất cả các pháp lại cũng vô tánh mà nói tánh của Như Lai vô lậu và Ngũ uẩn tánh cũng không thể có được?

Diệu Cát Tường thưa tiếp: Vì sao mà Bồ Đề có hí luận?

Phổ Hiền Bồ Tát đáp: Nầy Phật Tử: Bồ Đề chẳng có hí luận mà cũng chẳng lìa hí luận. Tánh giác nầy chẳng có hí luận mà cũng chẳng phải chẳng hí luận, không lời nói nên không nói được vậy.

Lúc ấy Đức Phật tán dương Ngài Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát và nói rằng: Thiện tai! Thiện tai, Thiện Nam Tử: Như ta đã nói đây là pháp môn bất khả tư nghì, cao xa sâu sắc, cũng có thể nói lời rằng trên trời dưới đất loài người khó mà giải thích.

Lúc ấy Ngài Diệu Cát Tường Đồng Tử bạch Phật rằng: Kính bạch Thế Tôn: Tất cả pháp đều không thể biết, không thể thấy và không có pháp nào có thể nói.

Phật bảo: Nầy Thiện Nam Tử! Như thế đó, như thế đó.

Lúc ấy Ngài Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát lại bạch Phật rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn: Đây là pháp môn thanh tịnh lìa sự giãi bày, lìa sự hiểu biết.

Phật bảo: Nầy Thiện Nam Tử! Như thế đó, như thế đó.

Lúc ấy Ngài Huệ Hải Bồ Tát bạch Phật rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn: Ngài Phổ Hiền Bồ Tát đã nói pháp môn thanh tịnh vậy.

Phật bảo: Nầy Thiện Nam Tử! Như vậy đó, như vậy đó. Lại nữa Thiện Nam Tử! Tất cả các pháp đều thanh tịnh nên cơn mưa pháp nầy cũng lại như thế.

Liền lúc ấy Bình Đẳng Tịch Tỉnh Ba La Đại Bà La Môn tử bạch Phật rằng: Kính bạch Thế Tôn. Đây là sự giác ngộ bình đẳng bất khả tư nghì, lìa tướng văn tự chữ nghĩa khó thấy, lìa các sắc tướng.

Phật bảo rằng: Nầy Thiện Nam Tử! Như thế đó, như thế đó. Pháp giới tánh lìa khỏi tướng của sự tuyệt đối.

Lúc ấy Diệu Cát Tường Đồng Tử liền bạch Phật rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn! Tướng của không có phải là làm nên âm thanh, làm nên màu sắc, nên gọi là tướng?

Phật bảo: Nầy Diệu Cát Tường! Không có nghĩa là lìa âm thanh, lìa màu sắc, các lời nói mà cũng chẳng lìa những lời nói. Thiện Nam Tử! Pháp tánh là như vậy đó. Không có nghĩa là lìa chữ nghĩa nên gọi là không, lại cũng lìa lời nói nên gọi là không. Nầy Thiện Nam Tử! Không có nghĩa là tự tánh của tất cả pháp vậy.
Lúc ấy Ngài Trưởng Lão Xá Lợi Phất bạch Phật rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn! Như Lai xem việc chứng đắc nầy là một đại biến hiện bất khả tư nghì giải thoát Bồ Đề phải không?

Phật bảo Ngài Trưởng Lão Xá Lợi Phất rằng: Đối với trí tuệ của các A La Hán và trí huệ của các vị Bồ Tát mới phát tâm còn xa lắm, còn nói gì đến Bồ Tát nầy đây. Vì sao vậy? Vì sơ phát tâm Bồ Tát chỉ sẽ thành Phật. Quả vị A La Hán thì chưa thể đến được.

Lúc ấy Ngài Nhứt Thiết Pháp Tự Tại Vương Bồ Tát bạch Phật rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn! Như Đức Phật nói con nay đã hiểu. Vì Thanh Văn thì không thể chứng được pháp Thanh Văn.

Phật bảo: Nầy Thiện Nam Tử! Thanh Văn nầy chẳng thể chứng được pháp Thanh Văn. Lại nữa Thiện Nam Tử! Nếu mà Thanh Văn cùng với Bồ Tát tranh nhau về Trí Tuệ có được thì ở đây không thể đề cập đến.

Lúc bấy giờ Diệu Cát Tường bạch Phật rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn! Như Lai vì sao mà nói Ngài Xá Lợi Phất chứng đắc được trí tuệ đệ nhất?

Phật bảo Diệu Cát Tường rằng: Như ta đã nói thật chẳng có chỗ nào chứng đắc.

Lúc ấy Ngài Diệu Cát Tường Đồng Tử mới hỏi Ngài Xá Lợi Phất rằng: Trưởng Lão chứng được pháp Thanh Văn như thế nào?

Ngài Xá Lợi Phất bảo rằng: Ta ở nơi chẳng dính mắc.

Ngài Diệu Cát Tường thưa: Điều ấy có phải để cho những kẻ chẳng phải phàm phu chăng?

Chẳng phải vậy. Thiện Nam Tử.

Diệu Cát Tường bảo: Như vậy thế nào gọi là được trí tuệ đệ nhất?

Ngài Xá Lợi Phất bảo: Nên biết rằng không phải là kẻ phàm phu, lại cũng chẳng phải là kẻ trí tuệ đệ nhất.
Như vậy là người gì?

Ngài Xá Lợi Phất đáp: Nầy Thiện Nam Tử! Ta cũng chẳng biết! Trí huệ nầy có được nhiều do như biển cả. Cho nên ta nay chẳng phải đối đáp với ngươi.

Diệu Cát Tường hỏi: Thưa Ngài Trưởng Lão Xá Lợi Phất! Chưa nói lời nầy. Ngài tự biết mình là người đã huân tập phước đức nhiều năm, vì sao mà khiêm nhường như vậy?

Ngài Xá Lợi Phất trả lời: Nầy Thiện Nam Tử! Ta tuy nhiều năm, nhưng không công đức cũng chẳng chứng. Lại nữa Thiện Nam Tử! Dụ như tất cả sự sai biệt của vạn pháp là do từ núi cao với một hạt bụi đáng động nơi kim cương vậy. Nầy Thiện Nam Tử! Ta lại cũng như thế! Giống như một sợi lông mà đem trí huệ ấy so với số lượng của nhiều hạt bụi vậy. Tất cả chúng sinh đều giống như ta, lại chẳng sai khác gì. Nầy Thiện Nam Tử! Huống là ta chỉ có một mình, cho nên ta nay chẳng mắc vào đó. Nầy Thiện Nam Tử! Giống như con voi dữ có thân hình vĩ đại, sức mạnh cũng lắm. Thế mà con người chỉ dùng cây roi mà chế ngự được. Ta cũng giống vậy đó. Nầy Thiện Nam Tử! Vì sao vậy? Nay có trí lực lớn, nhưng lực của ta yếu. Nầy Thiện Nam Tử! Lực của các ngươi giống như rồng lớn. Vì sao mà lực của ta có thể địch với lực kia được.

Trưởng Lão Xá Lợi Phất bạch Phật rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn! Như người sanh ra mù muốn đi đến nơi khác, lúc ở giữa đường chắc chắn rằng chẳng có thể thấy thành ấp. Vì sao mà có thể đi du lịch như thế? Nầy Thiện Nam Tử! Điều nầy như thế nầy. Ta đối với kẻ kia cũng dụ như kẻ mù. Ta nay biết rằng Phật đạo sâu xa, tới đích thật lâu. Nên phải biết rằng như vậy.

Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất: Chớ làm như thế! Với uy đức của Như Lai có thể làm cho tất cả chúng sanh thay đổi cách nghe để được pháp nầy. Nầy Xá Lợi Phất! Huống là chứng được bất khả tư nghì giải thoát vậy. Lúc ấy Đức Thế Tôn nói pháp nầy rồi trên trời loài người có chín vạn hai ngàn chúng sanh đều chứng được pháp nầy.

Lúc ấy Ngài Pháp Huệ Bồ Tát nhờ uy thần của Phật nên nhập vào tam muội, tên Bồ Tát là Vô Biên Tướng Ưng Bảo Quang Minh Tam Ma Địa, lúc ấy Pháp Huệ Bồ Tát tức thời vào trong mười phương mười ngàn Phật sát vi trần thế giới. Cứ ở mỗi phương như thế đều có mười ngàn Phật sát vi trần chư Phật Thế Tôn, đều đến trước mặt. Lúc ấy các vị Phật mới hỏi Pháp Huệ Bồ Tát rằng: Một phương cũng như mười phương đều thế.

Lại được các Đức Thế Tôn tán thán. Lành thay! Lành thay Pháp Huệ! Nay nên nhập vào Bồ Tát Vô Biên Tướng Ứng Tam Ma Địa vậy. Lại nữa Thiện Nam Tử! Lúc ấy ở mỗi mỗi nơi có tất cả mười phương mười ngàn vị Phật ở trong sát độ vi trần cùng với các Đức Như Lai đến ngồi ở đó cũng giống như ta nay cùng với tất cả các Đức Như Lai cũng đồng một hiệu. Tất cả đều là Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na Như Lai có uy đức cao cả và có nguyện lực đầy đủ vậy. Được có lợi lớn cho đến việc chuyển đại pháp luân. Cũng giống như các vị Phật khác cùng nói kệ rằng:

Trí Phật vốn thanh tịnh
Phổ cập khắp pháp giới
Lại xem các chúng sanh
Vào ra trí Vô Ngại
Chẳng sánh tướng tương ưng
Tất cả lời nói lành
Liền chứng tất cả trí
Viên mãn nơi các pháp
Ba đời trí đều đủ
Nên nói pháp như vậy.

Nầy Thiện Nam Tử! Nay ta nhờ oai thần lực của Phật nên nói Bồ Tát ở vào pháp môn thập trụ.

Lúc ấy Đức Thế Tôn cùng với các vị Vô Ngại trí làm cho Pháp Huệ Bồ Tát chứng được Tam Ma Địa, có tên là Vô Ngại, Vô Đoạn, bất không pháp, bất không trí, vô lậu vô tế, vô tận, vô lai, vô khứ, vô biên bổn tánh, vô trước… chứng được những Tam Ma Địa như thế. Lúc ấy Đức Thế Tôn lấy tay phải xoa đầu Pháp Huệ Bồ Tát. Đức Phật sau khi xoa đầu Bồ Tát rồi, tức thời Pháp Huệ Bồ Tát từ Tam Ma Địa mà dậy nói với các Bồ Tát rằng: Nầy chư Phật Tử! Có vị Bồ Tát có quyến thuộc rất nhiều, tận đến các pháp giới hư không. Nầy chư Phật Tử! Bồ Tát Ma Ha Tát trong quá khứ từ tộc họ của Như Lai mà sanh ra. Trong hiện tại cũng từ trong dòng họ của Như Lai mà sanh và vị lai cũng từ trong dòng họ của Như Lai sẽ sanh như vậy.

Liền lúc đó các vị Bồ Tát Ma Ha Tát mới hỏi Ngài Pháp Huệ Bồ Tát rằng: Nầy Phật Tử! Nghe ta nói đây. Vị Bồ Tát Ma Ha Tát kia vì sao mà được sinh ra trong dòng họ của Như Lai từ trong quá khứ đến hiện tại và vị lai? Lại cũng được gọi là Bồ Tát, ở ngôi vị Bồ Tát vậy? Các vị Bồ Tát Ma Ha Tát hỏi Bồ Tát Pháp Huệ rằng: Nầy Phật Tử! Lành thay hãy vì chúng tôi mà nói pháp môn thập trụ của Bồ Tát. Quá khứ Phật đã nói, hiện tại Phật đang nói và vị lai Phật sẽ nói. Nầy Phật Tử! Vì sao nói là pháp hành của Thập Trụ Bồ Tát?

Điều thứ nhất là phát tâm trụ, thứ hai trì địa trụ, thứ ba tương ưng trụ, thứ tư sanh quý trụ, thứ năm phương tiện cụ túc trụ, thứ sáu chánh tâm trụ, thứ bảy bất thoái trụ, thứ tám đồng chơn trụ, thứ chín vương tử trụ và thứ mười là quán đảnh trụ. Nầy Phật Tử! Đó là pháp hành của Thập Trụ Bồ Tát vậy.

Điều nầy quá khứ hiện tại vị lai 3 đời chư Phật Thế Tôn đã nói và sẽ nói. Nầy Phật Tử! Vì sao gọi là Bồ Tát phát tâm trụ? Nghĩa là Bồ Tát nầy chứng được sắc tướng nơi chư Phật nguy nga đẹp đẽ tốt đẹp quảng đại, thuyết pháp không có gì sánh bằng và hóa độ chúng sanh cũng ngộ lớn. Thấy tất cả những biến hiện quảng đại như thế, lại cũng nghe những pháp sâu xa khác nữa. Được pháp chưa từng có. Lại thấy những chúng sanh khổ não cho nên Bồ Tát phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Tâm. Vì cầu Như Lai nhứt thiết trí, nhứt thiết tướng trí. Cho nên có tên là sơ phát tâm trụ. Lại cũng học mười lực. Những gì là mười?
Một là xứ phi xứ tri lực, hai là quá hiện vị lai phước nghiệp báo tri lực, ba là Thiền định giải thoát tam muội tri lực, bốn là đến tất cả xứ đạo tri lực, năm là vô số nhiều thế giới tri lực, sáu là vô số nhiều loại thắng giải tri lực, bảy là căn thắng liệt tri lực, tám là túc trụ ức niệm tri lực, chín là thiên nhãn tri lực và mười là vô lậu tri lực.

Nầy Phật Tử! Đây là sơ phát tâm Bồ Tát phải học 10 lực nầy. Các Bồ Tát sơ phát tâm tất cả các thời phải cung kính cúng dường các Đức Như Lai.

Các vị Bồ Tát ấy an trụ và xưng tán vậy. Vì thế gian là bậc đệ nhất thế chủ vậy. Cầu trí tuệ vô lượng của chư Phật. Cầu tịch tỉnh tướng tam ma địa, xa lìa luân hồi, chuyển bánh xe pháp. Cầu độ tất cả những khổ não của chúng sanh. Vì sao vậy? Vì chơn thật pháp mà phát tâm vậy. Nghe nhận gần gũi, xa lìa những tán loạn, kế tục không gián đoạn. Nầy Phật Tử! Do đây mà có tên là Bồ Tát sơ phát tâm vậy. Nầy Phật Tử! Lại nữa sao gọi là Bồ Tát Trì Địa Trụ?

Nầy Phật Tử! Trì Địa Trụ Bồ Tát nầy vì các chúng sanh đầu tiên phát ra mười loại tâm. Thế nào là mười?
Đó là tín tâm, niệm tâm, tinh tấn tâm, huệ tâm, nguyện tâm, giới tâm, hộ pháp tâm, xả tâm, định tâm và hồi hướng tâm. Nầy Phật Tử! Đây là Trì Địa Trụ Bồ Tát lại cũng đã phát mười loại tâm như vậy. Nầy Phật Tử! Đây là Trì Địa Trụ Bồ Tát thường nhớ nghĩ đến nghe nhiều, tương tục không gián đoạn, thường vui vẻ để phụng sự các thiện tri thức, cúng dường thân cận tất cả các bậc giác ngộ, phát ngôn khiêm nhường cung kính. Cầu kiên cố, vô úy trí, phát thú trí giác ngộ cho đến cầu tịch tỉnh dũng mãnh trí vậy. Cũng cầu diệu pháp lìa những hư giả, tâm không mê hoặc. Vì sao vậy? Nghĩa là phát ra những tâm thành thật như thế vì cầu tất cả Phật pháp vậy. Cho đến tùy theo nơi nào có thánh pháp đều tự mình đến đó để nghe thọ trì và gần gũi, lìa những tán loạn, liên tục không gián đoạn, chưa từng rời bỏ. Nầy Phật Tử! Cho nên có tên là Bồ Tát Trì Địa Trụ. Nầy Phật Tử! Lại nữa thế nào gọi là Bồ Tát Tương Ưng Trụ?

Nầy Phật Tử! Bồ Tát Tương Ưng Trụ nầy có mười việc muốn cầu tất cả pháp. Thế nào là mười? Đó là cầu tất cả vô thượng pháp. Xa rời tất cả những ưu não. Tất cả pháp không thể tính được. Lìa tất cả những nghi hoặc, không thể thay đổi được, chẳng có chẳng không, không lấy không bỏ. Nầy Phật Tử! Đó là Tương Ưng Trụ Bồ Tát vậy. Lại thấy tất cả chúng sanh giới đều bình đẳng, pháp giới bình đẳng thế giới bình đẳng, địa giới bình đẳng, thủy giới, hỏa giới, phong giới, hư không giới, dục giới, sắc giới, vô sắc giới như thế tất cả các thế giới đều bình đẳng.

Vì sao vậy? Nghĩa là tất cả các pháp, tự tánh của nó là bình đẳng. Vì cầu thắng pháp đến khắp mười phương. Ở nơi trước chư Phật mà gần gũi lắng nghe và ghi nhận. Lìa những tán loạn, niệm niệm tương tục, không có gián đoạn. Nầy Phật Tử! Cho nên có tên là Bồ Tát Tương Ưng Trụ vậy. Nầy Phật Tử! Lại nữa sao có tên gọi là Bồ Tát Sanh Quý Trụ? Được sanh mười loại tròn đầy tịnh nghiệp, giãi bày lời nói của thánh nhơn. Thế nào là mười? Đó là khi nghe Bồ Tát thuyết pháp thì tôn kính thọ nhận, dần dần tăng trưởng chẳng thoái lai, liễu đạt các pháp, quán các thế gian chẳng hoại diệt, quán tất cả nghiệp tánh lìa vọng tưởng, quán tất cả quả báo đều chẳng giữ bỏ, quán luân hồi không đến không đi, quán Niết Bàn yên vui tịch tịnh.

Nầy Phật Tử! Đây là Sanh Quý Trụ Bồ Tát vậy. Có được mười loại viên mãn tịnh nghiệp giải thoát ngôn thuyết. Lại bảo Phật Tử, Sanh Quý Trụ Bồ Tát quán quá khứ Phật pháp bình đẳng hay nhớ nghĩ liên tục không gián đoạn. Quán vị lai Phật pháp bình đẳng nguyện sẽ học. Quán hiện tại Phật pháp bình đẳng siêng năng tu tập. Quán tất cả Phật pháp đều bình đẳng như vậy cho nên được quá khứ, hiện tại và vị lai. Nơi 3 giai đoạn nầy chứng đắc trực ngộ. Như thế mà tu tập, nhớ nghĩ không quên, tất cả Phật pháp đều quý trọng cung kính. Lại cũng quán quá khứ Phật pháp và học sự tăng trưởng của bình đẳng. Quán hiện tại Phật pháp cũng phải học sự tăng trưởng của bình đẳng.

Nầy Phật Tử! Đó là Sanh Quý Trụ Bồ Tát, như thế mà quan sát hướng về tất cả Phật pháp, tất cả đều bình đẳng và tăng trưởng sự tu tập. Vì sao vậy? Nghĩa là 3 đời bình đẳng tối thắng chơn thật trụ nơi không hư dối vậy. Cho đến nghe thấy ở nơi khác có pháp như thế đều phải tự thân mình hoặc khuyến tấn siêng năng, tâm chẳng tán loạn, niệm niệm tương tục, không cho gián đoạn. Nầy Phật Tử! Cho nên có tên là Bồ Tát Sanh Quý Trụ. Nầy Phật Tử! Lại nữa tại sao có tên là Bồ Tát Phương Tiện Cụ Túc Trụ? Nầy Phật Tử! Phương Tiện Cụ Túc Trụ Bồ Tát nầy quán vô lượng vô biên vô số A Tăng Kỳ bất khả tư nghì, không gì so sánh với chúng sanh giới. Do hư không chẳng sanh chẳng diệt tự tánh thanh tịnh, đồng với chơn tế và tánh chơn thật. Như thế mà xem tất cả chúng sanh; nên gọi là Bồ Tát Phương Tiện Cụ Túc Trụ. Nầy Phật Tử! Phương Tiện Cụ Túc Trụ Bồ Tát nầy có 10 loại việc. Do tu thiện nghiệp mà làm phương tiện lợi lạc cho tất cả chúng sanh. Nghĩa là làm cho tất cả chúng sanh phát tâm vô thượng đạo không thối chuyển. Thương tưởng tất cả chúng sanh không xa lìa. Giúp đỡ làm cho tất cả chúng sanh được an vui. Có lòng từ bi đối với tất cả chúng sanh. Muốn làm cho tất cả chúng sanh đều chứng được đạo giải thoát một cách bất khả tư nghì. Làm cho tất cả chúng sanh rửa sạch được những nghiệp dơ. Nhiếp phục tất cả chúng sanh. Muốn làm cho tất cả chúng sanh hoan hỷ không chán ghét. Đó là những phương tiện dẫn đường cho tất cả chúng sanh vậy. Muốn làm cho tất cả chúng sanh được cứu cánh Niết Bàn tịch diệt an lạc.

Nầy Phật Tử! Đây là những phương tiện đầy đủ trụ nơi Bồ Tát như thế cho đến nghe và đem đi thuyết pháp ở nơi khác. Chính tự mình khuyến khích kẻ khác tu hành, tâm không tán loạn, niệm niệm liên tục không có gián đoạn. Nầy Phật Tử! Đây có tên là Bồ Tát Phương Tiện Cụ Túc Trụ. Nầy Phật Tử! Lại cũng có tên gọi là Bồ Tát Chánh Tâm Trụ. Nầy Phật Tử! Với Chánh Tâm Trụ nầy Bồ Tát có mười pháp khác nhau. Phải nên vui nghe khuyến khích ý chí và ở trong Phật pháp mà trụ được nơi chánh tâm. Nầy Phật Tử! Thế nào là mười?

Đó là Phật có hình tướng, không hình tướng và ở trong đó chứng được chánh tâm trụ. Thuyết pháp có hình tướng không hình tướng đều ở trong Phật pháp mà giữ tâm chơn chánh. Nói về việc làm của Bồ Tát có hình tướng và không hình tướng ở nơi Phật pháp mà giữ tâm chơn chánh, như thế cho đến nói việc nầy cho tất cả chúng sanh ở đây hoặc ở những nơi khác. Những chúng sanh ở nơi cảnh giới phiền não, không phiền não. Chúng sanh dễ độ, chúng sanh khó độ cho đến một thế giới to lớn hơn, ra ngoài thế giới ấy, thế giới có hình tướng, thế giới không hình tướng; thế giới có pháp, thế giới không có pháp. Nầy Phật Tử! Đây là những cách trụ tâm chân chánh của Bồ Tát. Như thế cho đến ở trong Phật pháp và nghe những pháp nầy, đều gọi là những Bồ Tát chứng được ở nơi tâm chơn chánh vậy. Nầy Phật Tử! Chánh Tâm Trụ Bồ Tát nầy lại cũng nghe mười loại pháp khác nhau, nhập vào chơn lý, khuyến thỉnh cho đến nghe tất cả các pháp vô thượng cho đến tu học. Thế nào là mười?

Nghĩa là: không tướng, không tánh, không thật, không nhiễm, xa lìa, không dính mắc, không có tự tánh, như huyễn, như mộng, lìa những nghi hoặc, nghe như thế tất cả pháp rồi nên phát tâm khuyến khích tu tập. Vì sao vậy? Vì với tâm chơn chánh nầy Bồ Tát ở vào nơi pháp môn chơn thật, như thế cho đến nghe và vì người khác và đi đến nơi khác để nói lại như thế. Tự mình phải khuyến khích và tu tập, tâm không tán loạn, niệm niệm tương tục không có gián đoạn. Nầy Phật Tử! Đây có tên là Bồ Tát chánh tâm trụ. Nầy Phật Tử! Lại cũng có tên là Bồ Tát bất thoái trụ.

Nầy Phật Tử! Bồ Tát bất thoái trụ nầy nghe mười pháp không dính mắc và từ trong Phật pháp tâm không lui sụt. Thế nào là mười? Nghĩa là khi nghe biết được có Phật và chẳng phải chẳng có Phật. Những vị Bồ Tát nầy ở trong Phật pháp tâm chẳng thối chuyển vậy. Chẳng có pháp nào có và cũng chẳng có pháp nào chẳng có. Từ nơi Phật pháp tâm chẳng thối chuyển. Chẳng có Bồ Tát mà cũng chẳng phải chẳng có Bồ Tát. Từ nơi Phật pháp mà tâm không thoái chuyển. Chẳng chấp giữ Bồ Tát mà cũng chẳng phải chẳng chấp giữ Bồ Tát. Chẳng phải lìa hạnh của Bồ Tát mà cũng chẳng phải chẳng lìa hạnh của Bồ Tát. Bồ Tát chẳng ra đời mà Bồ Tát cũng chẳng phải chẳng ra đời. Từ nơi Phật pháp mà sanh tâm không thoái chuyển. Quá khứ chư Phật chẳng có đến mà cũng chẳng phải chẳng có đến. Vị lai chư Phật không đến mà cũng chẳng phải chẳng đến. Hiện tại chư Phật không an trụ mà cũng chẳng phải chẳng an trụ. Như thế chư Phật trong 3 đời đều bình đẳng chỉ một tướng không tướng. Không có cái cuối cùng và cũng chẳng có cái chẳng cuối cùng, lìa các chướng ngại. Những Bồ Tát nghe những pháp như thế đó. Không phải chỗ Phật pháp mà tâm chẳng thối chuyển.

Nầy Phật Tử! Đây có tên gọi là Bồ Tát Bất Thoái Trụ. Nầy Phật Tử! Những Bồ Tát bất thoái trụ nầy lại nghe mười loại pháp khác nhau từ đó mà siêng tu tập. Thế nào là mười? Đó là nghe tất cả chúng sanh và vì tất cả pháp mà tinh cần tu tập. Với thắng nghĩa đế nầy vì do nhiều nhân duyên khởi mà thành thắng nghĩa đế vậy. Tức tánh tức vô tánh, tức tướng tức vô tướng, tức hữu sắc, tức vô sắc, lìa các tướng, tâm một lòng hướng đến sự tu tập. Vì sao vậy? Nghĩa là nghe như thế tất cả các pháp về nhơn quả một cách triệt để không nghi ngại về các pháp chơn thật ấy, rồi giãi bày một cách thành thục. Như thế đó cho đến sau khi nghe phải đem pháp nầy đi đến chỗ khác để nói ra. Chính mình phải khuyến khích kẻ khác tu tập, tâm không tán loạn, niệm niệm tương tục không có gián đoạn. Nầy Phật Tử! Cho nên có tên là Bồ Tát Bất Thoái Trụ.

Nầy Phật Tử! Lại nữa tại sao có tên là Bồ Tát Đồng Chơn Trụ? Nầy Phật Tử! Vị Đồng Chơn Trụ Bồ Tát nầy chứng được mười pháp. Thế nào là mười? Nghĩa là chứng được thân nghiệp thanh tịnh, khẩu nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp thanh tịnh, chứng được tất cả pháp khi chúng sanh khởi tâm động niệm. Vì tất cả chúng sanh khi bố thí thì đều hiểu rõ. Hay vì chúng sanh như thế mà giãi bày. Hay vì chúng sanh nhiều loại khác nhau ở các thế giới khác nhau cho đến địa giới, hỏa giới, phong giới, hư không giới, dục giới, sắc giới vô sắc giới, các thế giới như thế đều biết rõ mà giãi bày. Thần thông nhanh chóng tùy theo sự nhớ nghĩ mà đến. Nầy Phật Tử! Như thế cho nên có tên là Bồ Tát Đồng Chơn Trụ.

Nầy Phật Tử! Đồng Chơn Trụ Bồ Tát lại nghe mười pháp mà có thể tu tập. Thế nào là mười? Nghĩa là nghe về trí huệ của Phật, chấn động tất cả các Phật. Quán tất cả Phật, tìm đến các xứ Phật, đi đến các nơi Phật, qua lại nhiều A Tăng Kỳ thế giới, nghe A Tăng Kỳ nghĩa thú, xa lìa nhiều loại tự tánh sai biệt, phát một tâm niệm mà tỏa ra khắp A Tăng Kỳ nước Phật, nghe biết để tu tập. Vì sao vậy? Nghĩa là nghe những pháp chơn thật như thế đó. Thành thục giãi bày một nghĩa như thế. Như vậy cho đến sau khi nghe đem điều ấy đến phương khác mà thuyết pháp. Chính mình khuyến khích tu tập, tâm chẳng tán loạn, niệm niệm tương tục chẳng có gián đoạn. Nầy Phật Tử! Cho nên gọi đây là Bồ Tát Đồng Chơn Trụ.

Nầy Phật Tử! Lại nữa tại sao có tên gọi là Bồ Tát Pháp Vương Tử Trụ?

Nầy Phật Tử! Bồ Tát Pháp Vương Tử Trụ nầy có mười loại pháp có thể hiểu rõ. Thế nào là mười? Nghĩa là có thể biết tất cả nơi sanh của chúng sanh. Có thể biết tất cả phiền não của chúng sanh. Hay biết tất cả những sự yêu đắm của chúng sanh. Có thể biết tất cả nơi của chúng sanh, có thể biết tất cả các diệu pháp của chư Phật, có thể biết tất cả tánh chơn thật của chư Phật, có thể biết nhiều pháp sai biệt của thế giới. Có thể biết trí tuệ của quá khứ, vị lai, hiện tại 3 đời chư Phật, có thể biết thế gian rộng rãi, các pháp đều không chắc chắn. Hay biết chơn tánh như như y nhiên tịch tịnh. Nầy Phật Tử! Cho nên điều nầy có tên gọi là Bồ Tát Vương Tử Trụ.

Nầy Phật Tử! Pháp Vương Tử Trụ Bồ Tát nầy lại cũng có mười loại pháp có thể khuyến khích tu tập. Thế nào là mười?

Đó là siêng học tất cả sự tác dụng của tất cả thành của vua. Vui với tất cả lễ lạc của thành vua, vui với tất cả chỗ ở nơi vương thành. Hoan hỷ khi vào tất cả vương thành, hoan hỷ khi có thể tự tại du lịch tất cả vương thành, ở nơi quán đảnh của pháp vương, ở nơi quan sát của pháp vương, được tự tại lực của pháp vương, kế tục ngôi vị pháp vương, chứng được lời nói của pháp vương. Vì sao vậy? Nghĩa là tu tập tất cả các chơn thật pháp không ngại. Như thế cho đến nghe rồi đi đến nơi kia để thuyết pháp, thân cận tự mình khuyến khích tu tập, tâm không tán loạn, niệm niệm tương tục không có gián đoạn. Nầy Phật Tử! Đây có tên gọi là Bồ Tát Pháp Vương Tử Trụ.

Nầy Phật Tử! Lại nữa sao có tên gọi là Bồ Tát Quán Đảnh Trụ?

Với Bồ Tát nầy có được mười loại thần thông. Thế nào là mười?

Nghĩa là hay làm cho A Tăng Kỳ thế giới giao động nhiều loại khác nhau. Hay chiếu sáng nhiều A Tăng Kỳ thế giới khác nhau. Hay xem xét A Tăng Kỳ thế giới khác nhau. Hay cùng với A Tăng Kỳ thế giới gia tâm tu tập. Hay vì thành tựu các thiện nghiệp khác nhau của A Tăng Kỳ thế giới. Hay biết được tâm sai biệt của chúng sanh ở những A Tăng Kỳ thế giới khác nhau. Hay vì mỗi một chúng sanh trong A Tăng Kỳ thế giới mà cùng làm một lúc. Hay vì mỗi mỗi chúng sanh trong A Tăng Kỳ thế giới mà liễu giải căn tánh của họ. Hay vì sự giáo hóa chúng sanh trong A Tăng Kỳ thế giới. Hay biết được sự tác dụng tâm của chúng sanh trong A Tăng Kỳ thế giới vậy. Lại nữa Thiện Nam Tử! Đây là Quán Đảnh Trụ Bồ Tát và những việc làm ấy miên mật và những Phật sự nầy khó có người hiểu biết hết. Vì sao vậy? Nghĩa là thân nghiệp không thể biết, khẩu nghiệp chẳng thể biết, ý nghiệp chẳng thể biết, biến hiện chẳng thể biết, quán sát mọi loài biến hóa chẳng thể biết, quán sát quá khứ có làm chẳng thể biết, một thoáng chốc có làm không làm cũng chẳng thể biết, quán sát trí huệ chẳng thể biết, tâm ý chẳng thể biết, tất cả dụng trí chẳng thể biết.

Nầy Phật Tử! Đây là Quán Đảnh Trụ Địa Bồ Tát vậy. Lại nghe về thập trụ của Thế Tôn. Thế nào là mười? Đó là nghe 3 thế trí, Phật trí, Pháp trí, pháp giới phân biệt trí, thế giới trung biến trí, tất cả thế giới so sánh với pháp giới trí. Chiếu sáng tất cả thế giới trí. Viên mãn tất cả chúng sanh trí, tất cả pháp trí, vô biên Phật trí. Các Bồ Tát nầy tất cả đều ở nơi trí tuệ của chư Phật vậy. Vì sao thế? Nghĩa là nghe như thế rồi tất cả đều bằng trí huệ. Nầy Phật Tử! Đây gọi tên là Bồ Tát Quán Đảnh Trụ.

*********

Lúc ấy Ngài Pháp Huệ Bồ Tát Ma Ha Tát vì các Bồ Tát mà nói về thập trụ pháp của các Bồ Tát rồi, liền lúc ấy nhờ thần lực Phật mà mỗi mỗi phương trong 10.000 nước Phật cho đến các thế giới nhỏ, mỗi mỗi nước Phật như thế mặt đất có 6 điệu chấn động. Đó là: động biến động, đẳng biến động, chấn biến chấn, đẳng biến chấn, kích biến kích, đẳng biến kích và liên tục biến động với những âm thanh khác khởi dậy v.v… Đó là do thần lực của Phật mà có. Lại cũng có mưa nhiều loại hoa trời, nhiều loại hương trời, nhiều loại hương tẩm bột, nhiều loại tóc trời, nhiều loại hương gỗ quý từ trời; nhiều loại thiên y, nhiều loại bảo cái từ trời, nhiều loại hoa sen quý từ trời, nhiều loại anh lạc từ trời, nhiều loại mây quý từ trời… như thế đó… nhiều loại mây khác nhau để cúng dường, chung quanh biến thành mưa. Lại cũng có nhiều loại âm nhạc vi diệu từ trời, từ trên không trung không đánh tự kêu, vang ra âm thanh lớn, ánh sáng vi diệu chiếu khắp bốn châu, cho đến núi Diệu Cao, Thiết Vi cũng đều trùm khắp mười phương để cúng dường. Lúc ấy Ngài Pháp Huệ Bồ Tát cùng trong lúc ấy ở mười phương thế giới đồng thời cũng nói về thập trụ pháp. Cho đến câu văn lời nói ý nghĩa chẳng tăng chẳng giảm đều đồng một nghĩa. Điều nầy cũng do uy thần của Phật mà có, phóng ra mỗi mỗi 10.000 quốc độ Phật trong vi trần thế giới, mỗi mỗi trong 10.000 quốc độ Phật đều có Bồ Tát số nhiều như vi trần. Các vị từ mười phương vân tập đến hỏi Pháp Huệ Bồ Tát rằng:

Nầy Phật Tử! Lành thay! Lành thay Phật Tử! Như ta nói Bồ Tát thập trụ pháp. Phật Tử! Cùng với tên ta và cùng nói pháp như ta và tất cả như thế tất cả đều cùng một tên là Pháp Huệ Bồ Tát. Từ đây 10 phương Như Lai tất cả đều đến chốn nầy. Các bánh xe pháp của thế giới cũng do uy đức của Phật mà chuyển pháp luân đến tất cả các nơi. Như thế đó, tất cả các tánh, tướng, lời nói, câu văn, ý nghĩ đều không tăng chẳng giảm. Nầy Phật Tử! Liền lúc ấy do uy đức của Phật mà tất cả đều thấy các Bồ Tát đều đến nơi đây giống như ta đang đến thế giới nầy. Cũng như thế đó tất cả mười phương thế giới quốc độ Phật tất cả 4 châu núi Diệu Cao nơi cung trời Đế Thích, ở mười ngàn quốc độ Phật có vô số Bồ Tát đồng đến để vân tập. Lúc ấy Ngài Pháp Huệ Bồ Tát thừa Phật oai lực quán sát mười phương pháp giới chúng sanh đều câu hội; nên muốn tuyên lại nghĩa nầy mà nói kệ rằng:

Thấy chư Như Lai trí thanh tịnh
Nguy nguy biến hóa lực như thế
Mười lực công đức đều trang nghiêm
Cho nên do đấy phát bồ đề
Thấy đây nhiều loại thần thông lớn
Thuyết pháp lợi ích cho chúng sanh
Lại thấy luân hồi các khổ não
Cho nên phát tâm bồ đề vậy
Do vậy Phổ Hiền trước Như Lai
Được nghe tất cả biển công đức
Giống như hư không chẳng có tướng
Cho nên khởi phát bồ đề tâm
Tất cả nơi đây và chỗ kia
Tất cả tánh hạnh đều rõ ràng
Mỗi mỗi sai biệt tánh mong cầu
Vì vậy cho nên phát bồ đề
Cho nên quá khứ và hiện tại
Nhẫn đến vị lai các lành dữ
Vì cầu trí nầy tu thiện pháp
Cho nên khởi phát bồ đề tâm
Thiền định giải thoát và tam muội
Giữ cho thanh tịnh sinh tốt đẹp
Vì cầu trí tuệ sinh cung kính
Cho nên khởi phát bồ đề tâm
Hay biến thế gian các căn bản
Như như thanh tịnh đều giống vậy
Vì cầu trí nầy học nơi kia
Cho nên khởi phát bồ đề tâm
Bồ Đề giải thoát khắp thế gian
Trong ấy có được nhiều loại ý
Vì cầu trí tuệ chẳng lần đếm
Cho nên khởi phát bồ đề tâm
Nhiều loại chẳng kể trong tam giới
Trong ấy lại có nhiều thế giới
Giới là tự tánh cầu trí huệ
Cho nên khởi phát bồ đề tâm
Biến hóa tất cả cầu pháp nầy
Như thế nương vào được an lạc
Tự tánh chơn thật biết rõ ràng
Cho nên khởi phát bồ đề tâm
Tất cả mỗi mỗi mà sanh ra
Do như chúng sanh từ đất có
Vô số mắt tuệ cũng cầu thế
Cho nên khởi phát bồ đề tâm
Quá khứ hiện tại và vị lai
Nếu hiểu chúng sanh tánh tướng gì
Như vậy quá khứ việc đều biết
Cho nên khởi phát tâm bồ đề
Chứa nhóm chúng sanh đầy thế gian
Cho đến mỗi mỗi gần thân cận
Như vậy phiền não cũng nên biết
Cho nên khởi phát tâm bồ đề
Ba cõi trí huệ cũng nên biết
Vô tận pháp môn nên giãi bày
Vì cầu như vậy trí chơn thật
Cho nên khởi phát tâm bồ đề
Tất cả các pháp chẳng y cứ
Bổn tánh vốn không chẳng dính mắc
Vì cầu thắng nghĩa nên phải biết
Cho nên khởi phát tâm bồ đề
Hay chuyển vi trần các nước Phật
Làm cho sông biển cũng thấm nhuần
Vì cầu Như Lai trí tuệ nầy
Cho nên khởi phát bồ đề tâm
Lại phóng ánh sáng chiếu mười phương
Mỗi mỗi ánh sáng từ miệng ra
Vì cầu trí kia có ánh sáng
Cho nên khởi phát bồ đề tâm
Bất khả tư nghì nhiều loại khác
Thức ăn đồ uống đều cung cấp
Ta nguyện đầy đủ như trí ấy
Cho nên khởi phát bồ đề tâm
Tất cả chúng sanh và nước Phật
Hay làm xa rời việc giết hại
Vì cầu pháp nầy được bền lâu
Cho nên khởi phát tâm bồ đề
Giả sử biển lớn trong nước ấy
Một lông trôi nổi cũng phải biết
Như vậy trí tuệ cũng muốn cầu
Cho nên khởi phát bồ đề tâm
Mười phương cho đến mỗi quốc độ
Mỗi mỗi nước kia lớn nhỏ thảy
Như vậy trí tuệ phải hiểu hết
Cho nên khởi phát bồ đề tâm
Quá khứ nhẫn đến kiếp vị lai
Hiện tại tất cả các thế gian
Như vậy kiếp số phải biết rõ
Cho nên khởi phát tâm bồ đề
Ba đời tất cả các Như Lai
Cho đến Thanh Văn Bích Chi Phật
Pháp gì tự tánh phải hiểu rõ
Cho nên khởi phát bồ đề tâm
Vô lượng vô số các thế giới
Mảy lông trong ấy cũng phải rõ
Tánh của tự tánh phải nên biết
Cho nên khởi phát bồ đề tâm
Bất khả tư nghì cảnh giới khác
Mảy lông cũng phải nên biết rõ
Vì chỗ lớn nhỏ đều phải biết
Cho nên khởi phát bồ đề tâm
Vô lượng vô số các thế gian
Một khoảnh sát na nghe cùng khắp
Vì cầu trí tuệ nghe thanh tịnh
Cho nên khởi phát bồ đề tâm
Tất cả thế gian các ngôn ngữ
Một chữ diễn thuyết cũng chẳng thừa
Vì tánh chơn thật nên phải biết
Cho nên khởi phát bồ đề tâm
Vô số giáo hóa trong ba cõi
Tất cả chúng sanh đều vĩ đại
Vì cầu nói pháp lưỡi rộng lớn
Cho nên khởi phát tâm bồ đề
Như nói tất cả các nước Phật
Mỗi một sát na cũng phải thấy
Vì cầu thuyết pháp trí vô ngại
Cho nên khởi phát bồ đề tâm
Như Lai có cả những thế gian
Mỗi một sát na đều biến hiện
Như vậy Phật pháp hiểu chơn thật
Cho nên khởi phát bồ đề tâm
Vô số vi trần thế giới thảy
Đều cùng tự tánh mà phát sanh
Vì cầu như vậy những trí tuệ
Cho nên khởi phát bồ đề tâm
Quá khứ cho đến Phật tương lai
Lại nữa hiện tại các thế gian
Mỗi một sát na tâm nên biết
Cho nên khởi phát bồ đề tâm
Một câu nói pháp khó nghĩ bàn
Như vậy kiếp hết hoặc chẳng hết
Vì cầu như vậy ngôn ngữ nầy
Cho nên khởi phát bồ đề tâm
Tám phương tất cả các thế gian
Như vậy liên tục không gián đoạn
Vì tự tánh nầy tâm nên rõ
Cho nên khởi phát bồ đề tâm
Do nơi ba nghiệp thân miệng ý
Làm ra mười phương đủ các loại
Do đây phải hiểu ba cõi không
Cho nên khởi phát bồ đề tâm
Phát tâm bồ đề như thế rồi
Cần mẫn phụng sự các Đức Phật
Mười phương vô số kiếp làm hết
Cho nên tôn trọng tâm chẳng đổi
Cho đến thế gian một lòng thờ
Tám phương mỗi mỗi đều chu biến
Như vậy Phật kia cùng thuyết pháp
Mỗi mỗi tôn trọng tâm chẳng lùi
Nếu một Bồ Tát làm an lạc
Làm cho chúng sanh khỏi luân hồi
Nên làm thế gian tướng tròn đủ
Đây là cung kính tâm chẳng lui
Diệu pháp tối thượng tối hy hữu
Sâu xa khó giải lìa lời nói
Cùng các Bồ Tát mà tuyên dương
Vì kính tâm kia chẳng lùi sụt
Thế gian chẳng động và chỗ ở
Như vậy khó được thật hy hữu
Diễn thuyết thanh tịnh diệu pháp âm
Cho nên tâm nầy chẳng thối chuyển
Được sanh tất cả trong Như Lai
Vô ngã vô nhơn lìa kiêu mạng
Vì cầu pháp nầy nên hiện diện
Cho nên siêng năng chẳng lui sụt
Vô số vô lượng A Tăng Kỳ
Được các Như Lai Tam Ma Địa
Làm giống Bồ Tát như vậy làm
Cho nên siêng năng tâm chẳng sụt
Cho đến cứu cánh Tam Ma Địa
Siêu sanh bờ kia cũng nên biết
Như vậy nói pháp của chư Phật
Cho nên cung kính tâm chẳng lùi
Xa rời luân hồi trong ba cõi
Chuyển ư như vậy pháp luân lành
Hay vì thế gian chẳng gián đoạn
Bồ Tát phải nên nói như vậy
Tất cả thế gian đều khổ não
Như vậy ác trược trong tai nạn
Gần gũi tất cả các hữu tình
Cho nên Bồ Tát nên nói vậy
Bồ Tát đầu tiên nói pháp nầy
Nhơn đây phát khởi tâm bồ đề
Trì giới thuyết pháp không giới hạn
Cho nên tên gọi phát tâm trụ
Lúc ấy Bồ Tát ở nơi đất
Đầu tiên hàng phục tâm như thế
An lạc lợi ích nơi thế gian
Như Phật xa lìa già bệnh chết
Lòng tin nhớ nghĩ và tinh tấn
Huệ tâm nguyện tâm lẫn trì giới
Hộ pháp xa lìa chẳng đến đi
Quyết định hồi hướng các chúng sanh
Nếu trụ nơi ấy tâm như thế
Đọc tụng thọ trì kinh Đại Thừa
Xa rời ồn náo ở yên tịnh
Tìm cầu tất cả bạn lành thảy
Người lành gần gũi thuận trí thức
Siêng năng tìm kiếm người trí thật
Thông suốt tất cả những lời nói
Thắng nghĩa đế lý cũng như vậy
Khi hiểu Như Lai thắng nghĩa rồi
Lìa những điên đảo chẳng nghi hoặc
Như thế bình đẳng tự nhiên yên
Đây là Phật Tử nói pháp đúng
Chứng được trị trì cũng như thế
Lành hay quán sát các Bồ Tát
Diễn thuyết pháp lành cúng dường Phật
Cho nên Phật Tử cần phải học
Lại nữa Bồ Tát đệ tam trụ
Pháp Vương dạy dỗ cầu làm Phật
Nếu hiểu không, vô thường rốt ráo
Tất cả tự tánh chẳng đến đi
Các pháp vốn yên lìa tự tánh
Giải bày rõ ràng tâm quyết định
Ở đây tất cả chẳng nghi ngờ
Phật Tử hãy nên nói như vậy
Vì biết tất cả chỗ chúng sanh
Và mở tất cả các pháp giới
Như vậy thế giới phải nên biết
Cho nên có tên Tương Ưng hành
Đất đai lửa nước cùng hết thảy
Cho đến gió máy và hư không
Dục giới sắc giới vô sắc giới
Tất cả thế giới phải nên biết
Cho đến ở ngoài thế giới khác
Phải thấy tự tánh của pháp giới
Như vậy rộng tuyên trí huệ lớn
Dũng mãnh tinh tấn cầu trí Phật
Lúc ấy Bồ Tát sanh chỗ tốt
Xuất gia sanh ra nơi Như Lai
Hữu tánh vô tánh tâm quyết định
Sanh ra nơi ấy thường chánh kiến
Ở đây Bồ Tát không thối chuyển
Vì cầu Phật đạo tâm chẳng lùi
Tất cả các pháp hay tu tập
Quán cả chúng sanh đều tự tánh
Tội lỗi chúng sanh như bụi nhỏ
Xa rời luân hồi những quả báo
Phật Tử lành nên phân biệt sanh
Bồ Tát sẽ làm lìa già cả
Quá khứ hiện tại và vị lai
Tất cả huệ pháp nên hiểu rõ
Căn lành bạn hữu cùng sanh ra
Như Phật ra đời cũng vậy thôi
Tất cả Như Lai đều trang trọng
Vào đời ba cõi đều bình đẳng
Hãy làm như thế mà sanh ra
Vượt lên ba đời làm nhiều việc
Đây tên thứ tư Bồ Tát trụ
Hãy nên xưng tán hình thức nầy
Pháp nầy phải hay biết rõ ràng
Bồ Tát hiểu rõ sanh nơi ấy
Điều nầy sau xưng loại thứ năm
Tên gọi Phương Tiện Cụ Túc trụ
Nhiều loại phương tiện độ quần sanh
Cầu vui nghiệp phước nơi phương khác
Như thế mà làm phước lớn hơn
Làm cho chúng sanh được giải thoát
Tận tâm hồi hướng tất an ổn
Gần gũi mọi loài làm xa khổ
Thế gian gặp nạn liền cứu giúp
Nhiếp phục cho họ sinh hoan hỷ
Mỗi mỗi dẫn dắt các chúng sanh
Chứng đại Niết Bàn tâm tịch tịnh
Vô biên tất cả các thế gian
Như vậy vô lượng không tính đếm
Nhiều quá không thể tính đếm được
Chẳng tánh chẳng tướng chẳng cứu cánh
Đây là Bồ Tát đệ ngũ trụ
Đầy đủ phương tiện độ quần sanh
Phật kia như vậy sáng tròn đủ
Thị hiện tất cả các công đức
Vô biên tất cả những chúng sanh
Quán pháp tự tánh không mê hoặc
Lưới nghi có không đều rõ biết
Trên đời người trời đều bền chắc
Nương Phật nương Pháp trong Bồ Tát
Thường hành hạnh lành lìa các tướng
Như thế rộng lớn nhiều chúng sanh
Lắng nghe diễn thuyết pháp phương tiện
Phiền não chúng sanh làm thanh tịnh
Dễ độ khó độ đều điều phục
Pháp giới rộng nói và chỉ bày
Bồ Tát ba đời vui nghe giữ
Quán sát tất cả tâm không động
Như vậy siêng năng nơi Phật Pháp
Chẳng còn tánh tướng lẫn có không
Bản tánh lìa nhiễm ta cũng vậy
Hiểu biết tánh kiếp như mộng huyễn
Vì nghe như thế các pháp hay
Bất thoái Bồ Tát cũng như thế
Nơi Phật nơi Pháp trong Bồ Tát
Hãy xem hình thức chẳng có không
Bất thoái chẳng có cũng chẳng không
Sanh cùng chẳng sanh hết chẳng hết
Có tướng không tướng chẳng khác một
Nhiều loại chúng sanh cũng chỉ một
Thắng nghĩa đế lý lìa có không
Mỗi mỗi sai biệt đều trân quý
Bồ Tát nơi đây tâm chẳng thoái
Như vậy khác nhau qua hội họp
Mỗi mỗi cõi trời đều nghe thấy
Lại nữa Bồ Tát đồng chơn trụ
Thân khẩu ý nghiệp đều thanh tịnh
Đi làm Phật sự không dính mắc
Cho nên tùy ý mà được sanh
Đều vì chúng sanh mà thực hiện
Du hành ra đi từng đất nước
Trí huệ mau theo ý của mình
Mười phương siêng năng cung kính lễ
Bồ Tát nơi nầy tâm không hai
Nghe Phật diễn bày pháp vi diệu
Biết rằng nước khác đang giao động
Như vậy nên biết chẳng có thừa
Diễn thuyết đi đến các nước Phật
Sát na biến đổi A Tăng Kỳ
Tùy hỏi diễn thuyết vô số nghĩa
Tự tánh sai biệt tánh cũng vậy
Phương tiện âm thanh hay chiếu soi
Vô số nước Phật trong một niệm
Lại nói Bồ Tát Vương Tử Trụ
Mật hạnh chúng sanh khó đo lường
Phiền não chứng tiêu vọng tưởng hết
Sự lý tương ưng nói phương tiện
Nhiều loại vi diệu phải nên làm
Phân biệt thế gian nhiều đời kiếp
Chơn tục hai đế nên hiểu rõ
Đế cầu như vậy pháp vi diệu
Nếu hay phương tiện vào vương thành
Như vậy mà đi khắp đầy đủ
Đến đi tự tại chẳng khó khăn
Làm chủ vương thành hay chiếu rọi
Do như quán đảnh vua diệu pháp
Như vậy uy đức lực đầy đủ
Vào trong vương thành liền nói pháp
Cho nên đây gọi Vương Tử Trụ
Đây hay tùy thuận các chúng sanh
Như Phật giáo hóa cũng lại thế
Điều Ngự ra đời cũng giống vậy
Được Phật an ổn trụ vương tử
Phật Tử Bồ Tát quán đảnh trụ
Nơi nơi tối thượng hay lợi ích
Một lông giọt nước làm giới hạn
Suy nghĩ so sánh chẳng thể đo
Như vậy mà làm các pháp Phật
Do đây tất cả pháp vi trần
Chúng sanh khó lường cũng nên biết
Cho nên vô số hãy nên nói
Tất cả Như Lai và Bồ Tát
Cho đến quá khứ vị lai Phật
Nếu ở mười phương trong hiện tại
Cho đến Thanh Văn Bích Chi Phật
Từ đây phát sanh tâm bồ đề
Như vậy số nầy khó đo lường
Công đức số lượng cũng khó biết
Tối sơ một niệm tâm bồ đề
Như vậy thế giới độ quần sanh
Chẳng thể cao hơn qua khỏi kia

Lúc ấy Ngài Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát liền bảo Ngài Pháp Huệ Bồ Tát rằng: Nầy Thiện Nam Tử! Lành thay! Lành thay! Ta nay sẽ nói pháp môn “Bảo Quang Tổng Trì”. Lại nữa Thiện Nam Tử! Nơi các chúng sanh sẽ được vui vẻ bất khả tư nghì với công đức chư Phật tất cả bằng trí tuệ. Nầy Thiện Nam Tử! Nếu có chúng sanh khi nghe được danh hiệu của Bảo Quang Tổng Trì liền thọ trì đọc tụng một lòng cung kính thâm sâu quyết định sẽ chứng thành Phật quả.

Lúc ấy Ngài Pháp Huệ Bồ Tát thưa: Thưa Ngài, so với tôi đây được Như Lai xoa đầu, có trí tuệ sâu dầy. Nếu có Thiện nam tử hay Thiện nữ nhơn nào đến được trong pháp hội nầy và nghe được pháp nầy hoặc có chúng sanh nào dùng tay để mang kinh nầy thì phải biết rằng những chúng sanh đó ở trong Phật pháp đều được Phật thọ ký.

Lúc ấy Ngài Trưởng Lão Xá Lợi Phất từ chỗ ngồi đứng dậy liền bạch Phật rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn! Chúng con nay cũng như những người mù từ xưa đến nay chưa từng thấy nghe chánh pháp như thế nầy. Ngài chẳng chê trách chúng con. Nếu có chúng sanh nào chẳng nghe được pháp nầy thì chúng sanh kia cũng giống như kẻ sanh ra bị mù.

Phật bảo: Trưởng Lão! Như thế đấy! Như thế đấy! Nay ta đang nói.

Ngài Xá Lợi Phất liền bạch Phật rằng: Kính mong Ngài nói pháp khó thể nghĩ bàn nầy.

Phật bảo: Nầy Xá Lợi Phất! Nay ta làm cho các vị Phạm Vương, Đế Thích, hộ thế chư thiên cùng đến nơi nầy. Như Lai liền bảo Ngài Xá Lợi Phất: Đây là tối vi diệu pháp gọi là Bảo Quang Tổng Trì vì chúng hội nơi đạo tràng nầy mà thuyết pháp.

Lúc ấy Ngài Tôn Giả Xá Lợi Phất thọ lãnh lời dạy của Đức Phật mà hỏi về kinh Bảo Quang Tổng Trì pháp môn nầy. Sau khi vâng mệnh các vị Phạm Vương, Đế Thích hộ thế chư thiên đến rồi hỏi lời rằng: Tại Bảo Quang đạo tràng nầy Phật chờ chúng tôi đến đồng thời để nghe và lãnh hội pháp nầy. Ngay lúc ấy Đức Như Lai liền nói pháp Bảo Quang Tổng Trì bất khả tư nghì nầy. Các ngươi nên vân tập nhanh lên, thật khó gặp gỡ, bỏ qua sẽ hối hận. Đây là tối thắng pháp bảo vậy. Thế gian khó được, thật là hy hữu. Lúc chư Thiên nghe kinh nầy rồi liền vận thần thông, chỉ trong chốc lát các Phạm Vương, Đế Thích, hộ thế thiên đều vân tập lại, đến với Thế Tôn, đi nhiễu về bên mặt ba vòng, chắp tay cung kính, đối trước Đức Phật, yêu cầu Thế Tôn, duy nguyện Như Lai, thương tưởng đến chúng con và đời sau các chúng sanh mà nói pháp môn Bảo Quang Tổng Trì nầy.

Lúc ấy Đức Phật yên lặng chẳng đáp.

Liền đó chư thiên Phạm Vương, Đế Thích, hộ thế thiên thưa thỉnh 3 lần ân cần cung kính nhưng Thế Tôn vẫn yên lặng. Lúc bấy giờ Tôn Giả Xá Lợi Phất bạch với Thế Tôn rằng: Duy nguyện Đức Như Lai! Hãy nói pháp Bảo Quang Tổng Trì.

Phật bảo: Lành thay! Theo lời thỉnh cầu ta nói. Lúc ấy từ miệng Đức Thế Tôn phóng ra nhiều loại âm thanh biến khắp 3.000 thế giới. Đồng thời nếu Thiện Nam Tử nào được nghe pháp Bảo Quang Tổng Trì nầy mà thỉnh Như Lai thì chúng sanh ấy đều chứng được Bất Thoái chuyển chứng đến A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Lúc ấy Đức Thế Tôn lại bảo Ngài Tôn Giả Xá Lợi Phất rằng: Nầy Tôn Giả Xá Lợi Phất, hãy nên qua thỉnh Diệu Cát Tường Đồng Tử nói pháp nầy vậy. Diệu Cát Tường Đồng Tử đang ở tại xứ Phạt La ngồi dưới cây Bà La, đang thiền định tại đó, qua hơn trăm ngàn vạn không gian ánh sáng của trời trăng Ngài ở nơi lầu các đại trang nghiêm, các vị Phạm Vương, Đế Thích, Hộ Thế Thiên đang vây bọc chung quanh cung kính, toàn thân màu vàng, kiết tường trang nghiêm, hào quang chiếu dọi.

Lúc ấy Ngài Xá Lợi Phất phụng nghe lời Phật qua đến nơi Ngài Diệu Cát Tường Đồng Tử, đến liền bạch với Ngài Diệu Cát Tường rằng: Nầy Thiện Nam Tử! Như Lai thỉnh Ngài vì chúng con mà thuyết pháp môn Bảo Quang Tổng Trì.

Lúc ấy Ngài Diệu Cát Tường Đồng Tử đáp Ngài Xá Lợi Phật rằng: Ta đây làm sao so được với Như Lai.

Ngài Xá Lợi Phất thưa: Thưa Ngài! Trí huệ của Ngài cao xa, con không dám nói, cho nên con không dám bàn cãi cùng Ngài.

Ngài Diệu Cát Tường bảo: Hãy dừng lại Xá Lợi Phất! Ta thật ngu si; nhưng nếu muốn nghe, ta sẽ vì ông mà nói.

Ngài Xá Lợi Phất thưa: Bạch Ngài: Con nay vui nghe. Sau khi nói lời ấy rồi tức thời 3.000 Đại Thiên Thế Giới cho đến thanh tịnh thiên cung và các thiên chúng. Trên cõi A Ca Ni Sắc (Akanstha) dưới cho đến Tứ Thiên Vương chư thiên cùng các quyến thuộc vô số câu hội, Đại Dược Xoa cùng các Phạm Thiên Vương và Đế Thích, Hộ Thế Thiên cùng các Thiên nữ v.v… tất cả đều vui nghe pháp nầy nên đều vân tập. Cho đến các vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di cùng với 33 cõi trời như Dạ Ma Thiên, Đẩu Suất Đà Thiên, Hóa Lạc Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên, Đại Phạm Thiên Vương, A Ca Nị Sắc Thiên cho đến các vị thiên chúng v.v… đều đến vân tập. Lại có các Đại Thanh văn chúng như: Tôn Giả Tu Bồ Đề, Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp, Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên, Tôn Giả Xá Lợi Phất, Tôn Giả Ma Ha Ca Chiên Diên, Tôn Giả A Nậu Lâu Đà, Tôn Giả Già Da Ca Diếp, Tôn Giả Ma Ha Câu Hi La, Tôn Giả Tổ Nô Phán Đà Ca, Tôn Giả Lợi Bàn Đà, Tôn Giả Y Vỉ Ca Diếp, Tôn Giả Điểu Ngư Mao Tố Ca Diếp, Tôn Giả Bố La Cách Mai Hằng La, Tôn Giả Lịch Nhiếp Ba, Tôn Giả A Nan Đà như vậy đó các Đại Thanh Văn cho đến Da Du Đà La cùng với 500 Tỳ Kheo Ni v.v… đều tập trung tại đây. Lại có Chuyển Luân Vương và các Tiểu Vương, Sát Đế Lợi Bà La Môn, Trưởng giả Cư sĩ cũng đều vân tập.

Lúc ấy Tôn Giả Xá Lợi Phất nhiễu Phật 3 vòng rồi nói lời rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn! Vì nhơn duyên gì mà ngày hôm nay tất cả đại chúng đều vân tập như thế, chúng con muốn biết.

Phật bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất rằng: Đây là do uy đức của pháp Bảo Quang Tổng Trì vậy.

Ngài Xá Lợi Phất nói rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Pháp môn Bảo Quang Tổng Trì nầy nay chúng con đang muốn nghe.

Phật bảo: Nầy Xá Lợi Phất! Ngươi nên đến thỉnh Ngài Diệu Cát Tường Đồng Tử, Phổ Hiền Bồ Tát hai vị Đại Sĩ nầy sẽ vì ngươi mà nói.

Liền lúc ấy Ngài Tôn Giả Xá Lợi Phất bạch Ngài Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: Thiện Nam Tử! Hãy vì con mà nói vi diệu pháp bảo Bảo Quang Tam Ma Địa.

Ngài Diệu Cát Tường nói: Nầy Tôn Giả Xá Lợi Phất! Các người bây giờ đang muốn nghe pháp Bảo Quang Tổng Trì nầy phải không?

Ngài Xá Lợi Phất thưa: Nay có 4 chúng Phạm Vương, Đế Thích, Hộ Thế Chư Thiên vì nghe pháp nầy nên đã đến.

Lúc ấy Ngài Diệu Cát Tường liền cho Ngài Trưởng Lão Xá Lợi Phất biết như thế. Nầy Xá Lợi Phất! Pháp nầy mật yếu không thể thấy nghe, như huyễn như hóa. Vì sao phải nói và nói cho ai nghe?

Xá Lợi Phất thưa: Nầy Thiện Nam Tử! Ngài nay đang nói và con vui nghe.

Diệu Cát Tường hỏi Tôn Giả Xá Lợi Phất. Lời nói nầy được gọi là gì?

Đáp rằng: Diệu Cát Tường. Không làm không nói.

Diệu Cát Tường lại hỏi: Xá Lợi Phất nói không là thế nào?

Đáp rằng: Diệu Cát Tường. Không lìa lời nói.

Diệu Cát Tường nói: Tôn Giả Xá Lợi Phất! Nếu không nầy mà lìa lời nói thì ta sẽ nói gì? Tôn Giả Xá Lợi Phất: Tức tất cả pháp đều xa lìa lời nói. Nếu nói như thế, ai có thể nghe được?

Trưởng Lão Xá Lợi Phất thưa: Thiện Nam Tử! Tất cả các pháp đều lìa khỏi ngôn ngữ lời nói thảy, như thế mà nói. Cho nên nói không, vô tướng, vô nguyện, lìa thủ, lìa xả, chẳng khác, chẳng không, lại cũng chẳng không lìa hí luận, chẳng phải chẳng lìa hí luận.

Lúc ấy Ngài Diệu Cát Tường Đồng Tử nói với Tôn Giả Xá Lợi Phất như thế, các Đại Bồ Tát và Phạm Vương, Đế Thích, Hộ Thế chư thiên tâm đại hoan hỷ cùng tán thán rằng: Lành thay Thiện Nam Tử! Đây là pháp Bảo Quang Tổng Trì vậy.

Lúc ấy Tôn Giả Tu Bồ Đề bạch Ngài Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: Thiện Nam Tử! Bồ Tát Ma Ha Tát phải thọ trì đọc tụng như thế nào? vì họ mà giải thích pháp Bảo Quang Tổng Trì nầy vậy.

Ngài Diệu Cát Tường đáp: Nầy Tu Bồ Đề! Pháp Tổng Trì nầy không sanh không tịnh, như thế thọ trì, lìa tánh, lìa tướng, chẳng lìa lời nói, không lấy, không bỏ. Pháp nầy nên thọ trì như thế và vì họ mà giải nói.

Khi Ngài Diệu Cát Tường Đồng Tử nói pháp nầy rồi có 92 Bồ Tát đều dõng mãnh chứng được Tam Ma Địa. Lại có người và chư thiên 62 chúng sanh được vô sanh pháp nhẫn.

Lúc ấy Ngài Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát từ chỗ ngồi đứng dậy trạch áo bày vai phải, chắp tay cung kính bạch Phật rằng: Kính bạch Thế Tôn! Thế nào là làm cho Bồ Tát Ma Ha tát có lòng thương lớn?

Phật bảo: Nầy Thiện Nam Tử! Bồ Tát có lòng đại bi là Bồ Tát không xa rời 3 cõi nên có tên là Đại Bi. Hay làm cho tất cả chúng sanh thấy được quốc độ thanh tịnh của chư Phật nên có tên là Đại Bi. Nếu có những kẻ phá giới mà hay thương tưởng giữ gìn nên có tên là Đại Bi. Hay làm cho tất cả chúng sanh có ý chí cầu trí tuệ tu tập nên có tên là Đại Bi. Hay vì tất cả chúng sanh chẳng tiếc thân mệnh nên có tên là Đại Bi. Cho đến đầy mắt tủy não khó bỏ mà hay bỏ, khó làm mà hay làm cho tất cả chúng sanh nên có tên là Đại Bi.
Lại bảo: Nầy Thiện Nam Tử! Bồ Tát Ma Ha Tát vì các chúng sanh chẳng có tâm khác mà được an lạc lìa các tà kiến tức được giải thoát. Nầy Thiện Nam Tử! Đó là Bồ Tát Ma Ha Tát có lòng Đại Bi. Hãy cứ như thế mà giãi bày.

Lúc ấy Ngài Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn, duy nguyện Như Lai vì Đại Bi vô lượng vì các chúng sanh an lạc trong thế gian mà nói pháp Bảo Quang Tổng Trì vậy, làm cho chư thiên và loài người trong pháp hội nầy được lợi ích an lạc. Tức thời Đức Thế Tôn thương các chúng sanh mà xuất phạm âm nói với các vị Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: Các ngươi nay ta vì đời vị lai 500 năm sau khi chánh pháp đã hết rồi thì ai có thể thọ trì và lưu bố rộng rãi pháp Bảo Quang Tổng Trì nầy?

Tức thời lúc ấy Ngài Phổ Hiền Bồ Tát xa rời tất cả những lo âu của Bồ Tát cùng với Dược Vương Bồ Tát, Biện Tích Bồ Tát cùng với tất cả các vị Bồ Tát xuất sanh pháp vương như Vô Tận Ý Bồ Tát, Hải Huệ Bồ Tát, Bảo Sư Tử Bồ Tát, Bảo Hiền Bồ Tát, Bảo Quang Bồ Tát, Bảo Phát Bồ Tát, Quán Tự Tại Bồ Tát, Đẳng Quan Bồ Tát, Thường Quan Bồ Tát, Bảo Thủ Bồ Tát, Bảo Tích Bồ Tát, Bảo Trang Nghiêm Bồ Tát, Kiết Tường Tràng Bồ Tát, Pháp Kiết Tường Bồ Tát, Tài Kiết Tường Bồ Tát, Phước Đức Kiết Tường Bồ Tát, Chiên Đàn Kiết Tường Bồ Tát, Pháp Huệ Bồ Tát, Cam Lồ Huệ Bồ Tát, Bất Tư Nghì Bồ Tát, Phước Đức Trang Nghiêm Bồ Tát, Công Đức Trang Nghiêm Bồ Tát, Trướng Nghiêm Bồ Tát, Thường Hoan Hỷ Căn Bồ Tát, Chúng Trí Sơn Phùng Vương Bồ Tát, Biện Thuyết Bồ Tát, Thường Cử Thủ Bồ Tát, Trì Địa Bồ Tát, Biện Ý Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Nguyệt Tạng Bồ Tát, Thanh Tịnh Nguyệt Tạng Bồ Tát, Nhựt Tạng Bồ Tát, Xuất Sanh Vương Bồ Tát, Ma Ha Di Lô Bồ Tát, Kiên Lao Huệ Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát… như thế 62 trăm ngàn câu hội đều là những Đại Bồ Tát Ma Ha Tát cùng một âm thanh đồng thời nói rằng: Bạch Đức Thế Tôn chúng con nay có thể vì đời vị lai 500 năm sau khi chánh pháp hết thường hay thọ trì, nói rộng truyền khắp cho chúng sanh pháp môn Bảo Quang Tổng Trì nầy.

Phật bảo: Lành thay! Lành thay! Nầy các Thiện Nam Tử! Hy hữu, hy hữu. Nầy các Thiện Nam Tử! Nay các ngươi đã vì chúng sanh mà phát đại nguyện thanh tịnh như thế. Lúc ấy Đức Thế Tôn bảo Ngài Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: Hãy lắng nghe đây! Hãy lắng nghe đây! Nầy các Thiện Nam Tử! Đây là chánh pháp vi diệu thuộc Bảo Quang Tổng Trì. Vì muốn lợi ích an lạc cho tất cả chúng sanh. Sau khi Đức Phật nói lời ấy rồi liền thăng lên tòa Sư Tử trang nghiêm ngồi kiết già phu tọa tức thời thuyết Bảo Quang Minh Tổng Trì Đà La Ni như sau: Nẳng Mô Tam Mãn Đa Phạt Nại La Giả Mạo Địa Tát Hằng Phược Giả Lịch Hạ Tát Hằng Phược Giả Lịch Hạ Ca Lỗ Nị Ca Giả Đản Nhĩ Dã Tha Án Bà La Đệ Bà La Đệ Ba La Bà Lịnh Đế Tát Phược Ha.

Đức Thế Tôn nói 3 lần như thế về pháp bảo thậm thâm Bảo Quang Tổng Trì Bí Mật Vi Diệu Tối Thượng nầy. Liền lúc ấy Ngài Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn! Pháp nầy được gọi là pháp gì?

Phật bảo: Nầy Thiện Nam Tử! Chẳng có pháp nào gọi là pháp cả tức là tất cả nghĩa, tức là vô tánh, nghĩa là tất cả pháp sánh với hư không, nghĩa là tất cả pháp có vô số nghĩa. Vô số nghĩa tức là tất cả nghĩa vô số, tức là tất cả nghĩa của pháp.

Ngài Phổ Hiền Bồ Tát bạch Phật rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn! Vì sao mà gọi là tất cả pháp?
Phật bảo: Nầy Thiện Nam Tử! Ta nói tất cả pháp là mắt tai mũi lưỡi thân ý cho đến 6 thức và 12 nhân duyên. Nầy Thiện Nam Tử! Cho nên ta nay nói pháp nầy vậy. Tất cả các pháp cũng đều như thế. Lại nữa Thiện Nam Tử! Tất cả các pháp nguyên lai chẳng sanh diệt cho nên Diệu Cát Tường Đồng Tử bạch với Ngài Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: Hãy làm như thế! Phật Tử! Pháp môn Bảo Quang Tổng Trì nầy Bồ Tát phải thọ trì ra sao?

Ngài Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát bảo Ngài Diệu Cát Tường như thế nầy! Nầy Thiện Nam Tử! Hãy thọ trì Bảo Quang Tổng Trì nầy như đã nói mà thực hành. Vì sao vậy? Vì bổn tánh chẳng có sanh chẳng có diệt, chẳng có tướng chẳng có không. Vô tánh cũng có nghĩa là tự tánh. Tự tánh tức vô tánh vậy. Nầy Thiện Nam Tử! Hãy cứ như vậy mà thọ trì Bảo Quang Tổng Trì nầy, hãy quan sát kỹ lưỡng và đừng bị sự chấp trước vậy. Trí huệ là phần quyết định để trụ lại và phân biệt giãi bày. Bảo Quang Tổng Trì cũng có nghĩa là hãy quán sát tự tánh vậy.

*********

Lúc ấy Ngài Tôn Giả Xá Lợi Phất bạch với Ngài Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: Nầy Thiện Nam Tử! Diệu Pháp nầy trụ thế được bao lâu?

Ngài Diệu Cát Tường đáp: Nầy Xá Lợi Phất! Cũng giống như tam độc tham sân si vậy.

Ngài Xá Lợi Phất thưa: Nầy Thiện Nam Tử! Tham sân si nầy trụ lại bao lâu?

Ngài Diệu Cát Tường đáp: Nầy Xá Lợi Phất! Tam độc nầy cũng như thế giới vậy.

Ngài Xá Lợi Phất thưa: Nầy Thiện Nam Tử! Thế giới nầy tồn tại bao lâu?

Ngài Diệu Cát Tường bảo: Nầy Xá Lợi Phất! Tam độc của địa giới giống như vô minh vậy.

Ngài Xá Lợi Phất thưa: Nầy Thiện Nam Tử! Vô minh tam độc trụ lại bao lâu?

Ngài Diệu Cát Tường đáp: Nầy Xá Lợi Phất! Như hư không giới vậy.

Ngài Xá Lợi Phất thưa: Nầy Thiện Nam Tử! Tam độc hư không giới trụ lại bao lâu?

Ngài Diệu Cát Tường đáp: Nầy Xá Lợi Phất! Như vô tánh tự tánh pháp vậy.

Lúc ấy Ngài Xá Lợi Phất bạch với Ngài Diệu Cát Tường lời như thế nầy: Nầy Thiện Nam Tử! Chúng tôi biết rõ điều nầy vì sao tôi có được sự hiểu biết và so sánh? Lại nữa Thiện Nam Tử! Dụ như tất cả mèo chồn ở trên núi Tu Di cuối cùng cũng chẳng hết. Như thế đó! Như thế đó! Nầy Thiện Nam Tử! Chúng tôi cũng lại như vậy. Vì sao mà như thể mèo chồn? Giống như tất cả Thanh Văn cùng với một Bồ Tát đồng luận nghĩa. Cuối cùng rồi chẳng thể khuất phục được Bồ Tát, hà huống đây là Ngài Diệu Cát Tường Đồng Tử.

Liền lúc ấy Ngài Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát bảo Ngài Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: Nầy Thiện Nam Tử! Ta nay muốn bạch thưa Đức Như Lai. Kính bạch Ngài: Ở vào thời vị lai 500 năm sau phải hộ trì Bảo Quang Tổng Trì pháp bảo nầy như thế nào? Pháp sư trì kinh nầy phải làm sao cho được kiên cố?
Liền lúc ấy Ngài Diệu Cát Tường từ pháp tòa đứng dậy liền bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có Pháp sư thọ trì đọc tụng giải thích chánh pháp nầy thì được công đức gì?

Phật bảo rằng: Nầy Diệu Cát Tường! Nếu có Tỳ Kheo trì giữ pháp nầy tương lai sẽ sanh vào pháp thân thanh tịnh, sẽ chứng quả vị cứu cánh giác ngộ thành Phật. Cứ như thế ở khoảng giữa thường hay ở nơi Phật pháp tâm chẳng thoái chuyển. Tất cả thiên ma và quyến thuộc cũng không thể não hại được. Nếu có Thiện Nam Tử nào nương nơi Pháp sư mà khởi tâm từ trong khảy móng tay thì người ấy tức thời xa lìa luân hồi, cứu cánh cho đến giác ngộ thành Phật. Lại nữa! Nầy Diệu Cát Tường! kẻ trì Bảo Quang Pháp Vương nầy nếu có kẻ khởi tâm khinh mạn phỉ báng thì kẻ đó đời đời răng thô, mũi bằng, không có lưỡi, tay chân biến dị, thân hình hay bịnh nặng, bần thần, đui mù, sanh ra giải đãi bười biếng.

Phật bảo Ngài Diệu Cát Tường: Như thế đó có nhiều chúng sanh u mê, ta chỉ lược nói mà thôi. Nầy Thiện Nam Tử! Những chúng sanh ấy sau khi mạng chung thọ vô số địa ngục như từng sợi lông nhỏ, nhiều loại khổ não từ địa ngục sinh ra. Nếu sanh ra làm người thường hay bị mù câm ngọng. Lại nữa nầy Diệu Cát Tường! Nếu có kẻ thấy được kinh chánh pháp nầy mà chê bai thì kẻ đó được thân tà ngụy xấu xí, thân thể bị lở loét đen đủi, da bị ghẻ lác giống như quỷ đói.

Ngài Diệu Cát Tường bạch Phật rằng: Con biết được Như Lai có trí tuệ vô lượng khó thể nghĩ bàn. Kính bạch Đức Thế Tôn! Những chúng sanh u mê như thế sẽ sanh về đâu? Kính mong Ngài hãy vì chúng con mà nói.

Phật bảo: Diệu Cát Tường hãy ngừng lại! Không nên hỏi nữa. Nếu ta nói những chúng sanh ngu mê ấy khi phỉ báng pháp nầy sinh nơi đâu thì nếu có người trên đời nầy nghe sẽ sinh ra sợ sệt, tất cả đều sinh nơi chỗ cùng đường.

Ngài Diệu Cát Tường thưa: Kính mong Đức Thế Tôn mở lòng từ bi diễn nói phân biệt. Nếu các chúng sanh ấy nghe được điều nầy thì những chúng sanh kia không sanh tâm kiêu mạn đối với pháp môn vi diệu không sanh không diệt nầy.

Phật bảo Ngài Diệu Cát Tường: Ở dưới đất nầy có nhiều địa ngục tên gọi khác nhau. Như là Viêm Nhiệt địa ngục, Cực Viêm Nhiệt địa ngục, Hắc Thằng địa ngục, Thức Nhiên địa ngục, Cực Thức Nhiên địa ngục, Cực Ác địa ngục, Kiềm Khẩu địa ngục, Thiết Hoàn địa ngục, Thiết Bổng địa ngục,Băng Mai địa ngục, Huyền Đầu địa ngục, Đảo Huyền địa ngục, Hầu Diện địa ngục, Diệm Hằng Thức địa ngục, Nồng Huyết địa ngục, Thường Xú địa ngục, Đà Phạc địa ngục, Thường Sát địa ngục, Sanh Cực Đại Đống Thống địa ngục. Phật bảo Ngài Cát Tường, như vậy đó có những địa ngục mà chúng sanh phỉ báng pháp nầy bị sanh vào nơi đó.

Liền lúc ấy Ngài Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Đức Phật rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn! Những vị Pháp sư trì kinh nầy sau khi mạng chung sẽ sanh về đất nước nào?

Nầy nữa! Phổ Hiền Bồ Tát! Nếu có kẻ Thiện nam người Thiện nữ nào cùng các Pháp sư trì tụng kinh nầy thì sau khi mạng chung tức được vãng sanh về thế giới Bảo Trang Nghiêm. Đức Phật nói: Thế giới đó có nhiều vị Phật, có nhiều niềm vui không thể nói hết, có các Đức Như Lai đại biện thuyết. Lại cũng có vô số các vị Bồ Tát, thân tướng nguy nguy đặc biệt đẹp đẽ. Nầy Thiện Nam Tử! Khi các chúng sanh nầy mạng chung thì trong thế giới kia có 62 Câu Thi (một ức) đồng thời hiện tiền. Nầy Thiện Nam Tử! Nay ta lược nói; nếu nói rộng ra công đức vô lượng vô số kinh nầy cho đến trăm ngàn kiếp cũng chẳng thể cùng tận được. Ngài Phổ Hiền Bồ Tát liền bạch Phật rằng:

Kính bạch Đức Thế Tôn! Ở đời vị lai sẽ như thế nào nếu có chúng sanh khi nghe chánh pháp nầy mà không sanh tâm phỉ báng?

Phật bảo Ngài Phổ Hiền Bồ Tát: Nếu trong 4 chúng đệ tử khi nghe được kinh nầy, lời nói phi pháp mà nói đây là tà pháp chẳng phải lời của Như Lai nói, không phải kinh thật hoặc nói rằng đã nghe kinh nầy trước và kinh nầy không đúng chánh pháp nên sinh khinh mạng phỉ báng thì kẻ ấy vĩnh viễn không bao giờ được nghe pháp và xa rời Tam Bảo. Những chúng sanh ngu muội như thế sau khi mạng chung bị đọa vào hắc ám địa ngục. Trong ngục nầy có nhiều vòng sắt bao quanh nhọn như kim châm vào đầu, sau khi châm rồi lại châm lại như vậy trải qua vô lượng trăm ngàn kiếp và từ địa ngục nầy sẽ sanh lại làm người, trải qua vô lượng trăm ngàn vạn kiếp thường không có hai mắt, sau đó trải qua trăm ngàn kiếp chẳng làm thân người và nếu có sanh làm thân người ở bất cứ nơi đâu cũng đều bị mù lòa lại chẳng có lưỡi, đầu, mặt không cân, bụng lớn, chân yếu, tiếng thường khốn khó, đói khát hoành hành, sắc mặt khô khan, miệng hay hôi hám, cả người đều xấu xa. Tất cả chúng sanh khi thấy thế sân hận đều muốn xa lánh.

Lúc bấy giờ tất cả trong chúng hội mọi người khác miệng cùng nói lên lời rằng: Như Lai hôm nay đã vì chúng con mà nói pháp nầy và chánh pháp ấy chúng con đã nghe, chúng con theo lời Đức Thế Tôn, Đức Thiện Thệ và chúng con sẽ làm cho những người đời sau thấy được sự thọ trì kinh điển nầy mà không sanh tâm hủy báng khinh mạn. Chúng con u mê giống như con thơ, chẳng biết chẳng hiểu chẳng có trí tuệ. Kính bạch Đức Thế Tôn. Khi Ngài nói xong kinh nầy rồi các Đại Thanh Văn cùng với các Thiên Đế Thích, Đại Phạm Thiên Vương, Hộ Thế Thiên, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di mỗi mỗi đều nói lời rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn! Chúng con nghe nói những kẻ phỉ báng pháp nầy có những tội về thân như thế đều lo lắng sợ hãi rất nhiều.

Phật bảo: Như vậy đó, như vậy đó! như ta đã nói. Các ngươi cũng đừng lo lắng khi ta được thánh trí nầy cũng đều do từ chỗ sợ hãi kia, huống nữa những người đệ tử của ta, thì các Thiện Nam Tử nương nơi các vị Pháp sư sanh tâm kính ngưỡng, chẳng thể tự thắng. Nếu có Thiên Long Dược Xoa, Càn Thát Bà v.v… người cũng như chẳng phải người không thể phá hoại. Nầy Thiện Nam Tử! Nếu có Sa Môn, Bà La Môn thấy pháp vương nầy như thấy tháp miếu của Phật thì kinh nầy cũng lại làm cho trời người tôn kính bảo vật nầy.

Lúc ấy Ngài Diệu Cát Tường lại bạch Phật lần nữa: Kính bạch Đức Thế Tôn! Nếu trong tứ chúng đệ tử tin sâu và thọ trì kinh nầy thì được bao nhiêu phước đức?

Phật bảo Ngài Diệu Cát Tường rằng: Nếu có người hoặc Pháp sư thọ trì diệu pháp nầy cho đến nghe tên kinh hoặc một ngày hay trong khoảng khảy móng tay mà phát tâm từ bi thì ta liền biết, hoặc ngay lúc ấy phát tâm cúng dường đồ ăn thức uống hoặc cúng vườn tược, đất đai để làm Tăng phòng và nhiều loại cúng dường khác nhau thì rất quý.

Lúc ấy Ngài Tôn Giả Xá Lợi Phất liền bạch Đức Thế Tôn rằng: Như vậy những người nầy không còn bị tội ngũ vô gián nữa phải không?

Phật bảo Ngài Trưởng Lão Xá Lợi Phất rằng: Hãy dừng lại lời nầy. Vì sao vậy? Nếu các chúng sanh thọ trì chánh pháp nầy tức được tiêu trừ tội ngũ vô gián.

Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất! Những người mắc tội ngũ vô gián khi nghe được kinh nầy có uy đức lớn cho nghiệp của ngũ vô gián sẽ tiêu trừ và được trở lại làm thân người, đời đời sẽ sanh vào trong Phật pháp, vĩnh viễn không bị đọa vào trong 3 đường ác thú.

Liền lúc ấy Ngài Tôn Giả Xá Lợi Phất khóc lóc như mưa bạch Phật rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn! Như có người nói hủy báng kinh nầy cũng như chưa biết nghiệp báo sâu dầy, từ xưa đến nay chưa từng thấy, cho đến tội báo ở trong mộng cũng chưa từng thấy.

Lúc ấy Đức Thế Tôn bảo Ngài Trưởng Lão Xá Lợi Phất rằng: Hãy dừng lại Xá Lợi Phất! đừng nhớ nghĩ nữa. Lại nữa Xá Lợi Phất! Ta nói pháp môn vô ngại nầy cho các ngươi nghe. Nầy Xá Lợi Phất! Đối với các chúng sanh do tự nghiệp lực sinh ra nhiều tội, tự làm tự lãnh chứ không phải người khác. Mỗi mỗi chúng sanh đều do nghiệp lực của mình tự tạo vậy, thọ những bệnh khổ, chẳng phải không có nguyên do mà đến. Nầy Xá Lợi Phất! Ta thường nói rằng tất cả các chúng sanh đều là những bạn lành, ai cũng muốn cầu an lạc, lìa những sự sợ hãi, muốn đến Niết Bàn hưởng nước cam lồ. Ta thường hay nói Bồ Đề là con đường chơn chánh cho nên bây giờ nói lại cho các chúng sanh phóng túng tham sân tự tạo thân nghiệp khẩu nghiệp và ý nghiệp, tâm sanh tà kiến, chẳng thể hiểu biết chơn chánh, tạo tác nhiều tội gần gũi nhiều sự tà vạy, từ thân phân biệt tạo ra các nghiệp ác. Do vậy đọa vào địa ngục thọ nhiều loại khổ. Chúng sanh tự tạo, chẳng phải Như Lai chẳng nói. Lại nữa Xá Lợi Phất! Ta thường như thế lấy lòng đại bi vì các chúng sanh cho đến mỗi mỗi chúng sanh cho đến kiếp cuối ta nguyện thay thế nơi địa ngục để khổ được hết không bỏ sót một chúng sanh nào.

Nầy Xá Lợi Phất! Tâm từ bi của Như Lai thường có như thế, dụ như trên đời cha mẹ chỉ sinh một con có hình thù đẹp đẽ, phước tướng viên mãn chẳng thể sánh bằng. Một ngày nọ tự nhiên chết đi thì cha mẹ lúc ấy vì người con nầy sanh tâm áo não, tình cảm lo lắng sầu buồn sinh bịnh khổ não. Như vậy đó Xá Lợi Phất! Như Lai bậc chánh đẳng giác cũng lại như vậy. Lòng thương chúng sanh như thấy con một. Như Lai lo lắng chẳng biết sự dính mắc bao giờ mới có thể xa lìa. Vì sao vậy?

Nầy Xá Lợi Phất! Dụ như biển lớn không dừng tử thi.

Nầy Xá Lợi Phất! Như Lai và phiền não không bị dính mắc. Lại nữa Xá Lợi Phất! Thân như huyễn mộng, lại như tiếng vang, tứ đại hợp thành giả danh làm người, trong ấy chẳng có gì thật. Thấy các hình tướng đều chẳng ở yên, chẳng có nơi chốn, chẳng phải chẳng có nơi chốn, chẳng lo sợ bị nhiễm bởi kẻ khác. Nầy Xá Lợi Phất! Như Lai cũng lại như vậy quán các hình tướng hóa độ quần sanh chẳng tham tiếc. Duy nhất chỉ có một loài hình tướng, không thể chỉ, không thể bày, giống như hư không, lìa các nghi hoặc, chẳng có hí luận. Như Lai cũng lại như thế chẳng có nghi hoặc, lìa những hí luận; nhưng mà chúng sanh chỉ hướng về sự mê hoặc không có thay đổi. Như Lai hay có tâm từ nên thường hay tùy thuận. Như có chúng sanh muốn đến nơi Phật lại cũng có chúng sanh bị đọa rồi lại bị đọa nữa. Vì sao vậy?

Đó là bổn nguyện của các Đức Như Lai vậy. Lại nữa Xá Lợi Phất! Như Lai bậc Chánh Đẳng Giác chẳng có sai lầm. Như Lai không còn vô minh, Như Lai trí tuệ cũng chẳng mê hoặc. Nầy Xá Lợi Phất! Ta nay vì trời người, tối tôn tối quý trong nghĩa đệ nhất không thể so sánh, chẳng thể cân đo. Nầy Xá Lợi Phất! Chẳng phải lời quấy, chẳng sai lời nầy. Phật bảo: Nếu có chúng sanh tại gia hoặc xuất gia mà sanh tâm hủy báng chánh pháp nầy thì như trước đã nói, tất cả ác tướng, nhiều loại địa ngục khổ sở đều phải thọ nhận.

Lúc ấy Ngài Tôn Giả Tu Bồ Đề chắp tay cung kính bạch Phật rằng: Pháp nầy vi diệu thật là khó có thể nghe được. Kính bạch Thế Tôn! Các chúng sanh đối với pháp nầy mà sanh tâm hủy báng thì sẽ bị quả báo như thế nào?

Phật dạy Ngài Tu Bồ Đề rằng: Kẻ phỉ báng pháp nầy sanh ra lưỡi dài cả trăm ngàn do tuần và trên đó có 500 ức lưỡi dao nhọn đâm chém xuống lưỡi. Lại từ miệng sanh ra lửa cực nóng, trong đó ánh lửa nóng bức thiêu đốt hợp lại trải qua trăm ngàn kiếp thọ đại cực hình khổ như thế. Tu Bồ Đề biết vì sao thọ những nghiệp báo như thế không? Vì chúng sanh ngu si do khẩu nghiệp tạo ra. Nầy Tu Bồ Đề, do chúng sanh ngu si nên phỉ báng pháp nầy cho nên phải thọ quả báo như thế.

Liền lúc ấy tất cả trong chúng hội do oai lực Phật đồng nói lời rằng: Như Lai nói về sự ác sâu dầy nầy thật là hy hữu. Lúc ấy Đế Thích Thiên chủ bạch Phật rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn! Ta đương vì các vị Tỳ Kheo trì kinh Pháp sư ở đời vị lai mà thường hay tôn trọng, dùng hoa hương, đồ ăn uống, y phục thuốc men, hương bột, hương tẩm nhiều loại để cúng dường, ngày đêm 3 thời cung kính lễ bái tôn trọng tán thán, chí tâm hộ trì. Bạch Thế Tôn! Kẻ Thiện Nam ấy sẽ sanh vào trong pháp của Như Lai cho đến đồng tên gọi với Như Lai. Vì sao vậy?

Như Quán Đảnh Sát Đế Lợi Vương khi sanh con, đoan nghiêm nguy nguy đầy đủ tướng làm vua, thấy vậy vui mừng. Nhân dân ở nước đó tôn trọng, hỏi thăm. Cũng giống như thấy Pháp sư lại cũng lễ bái tôn trọng.

Lúc ấy Đức Thế Tôn bảo Ngài Phổ Hiền Bồ Tát rằng: Nầy Thiện Nam Tử! Đế Thích Thiên chủ cũng thường hay nói như thế. Đối với các vị Tỳ Kheo trì kinh thì hay lân mẫn nhiêu ích tán thán ca ngợi hộ trì.

Phổ Hiền Bồ Tát thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Con cũng lại như vậy. Nếu ở đời vị lai có Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhơn nào cũng lại được lân mẫn hộ trì nhiêu ích tức các tai nạn không có, làm cho an lạc. Ra khỏi cả hàng trăm do tuần cũng không sợ bị nhiễu hại.

Lúc ấy Đức Thế Tôn tán thán Ngài Phổ Hiền Bồ Tát rằng: Lành thay! Lành thay Thiện Nam Tử! Vì ngươi mà nói. Lúc ấy Đức Thế Tôn dùng Phạn âm mà nói lại kệ rằng:

Làm cho kẻ khác tâm yên ổn
Tức hay tùy thuận các chúng sanh
Ba nghiệp thanh tịnh hay xưng tán
Chẳng sánh công đức pháp quý giá

Lúc bấy giờ Ngài Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha tát bạch Phật rằng: Thế Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát làm sao có thể đắc được Bảo Quang Tổng Trì?

Phật bảo: Nầy Thiện Nam Tử! Bồ Tát Ma Ha Tát từ nơi Bảo Quang Tổng Trì nầy mà thực hành một pháp. Thế nào gọi là một pháp? Nghĩa là tất cả chúng sanh chẳng khởi ý sát hại làm cho được an lạc. Phổ Hiền Bồ Tát, lại có hai pháp. Thế nào là hai? Nghĩa là xa rời sân si, nói lời lành đẹp. Nầy Phổ Hiền Bồ Tát! Đây là hai pháp. Nếu có thể làm như thế, tức được pháp Bảo Quang Tổng Trì. Lại nữa Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát! Vì tất cả chúng sanh ý căn chẳng loạn, không có lúc nào rời bỏ. Lúc ấy lại bảo: Thiện Nam Tử! Bồ Tát Ma Ha Tát hãy vì tất cả chúng sanh mà xa lìa sự yêu ghét. Lúc ấy Bồ Tát nói công đức của Bảo Quang Tổng Trì nầy thời cũng xưng dương tán thán công đức tối thắng nầy. Lúc ấy trên cõi trời người đâu đâu cũng có vô số chúng sanh đều được pháp lành nầy. Lại cũng làm cho Bảo Quang Tổng Trì nầy được công đức cao cả nhờ vào việc xưng tán Pháp sư.

Lúc ấy Ngài A Nan từ chỗ ngồi đứng dậy, trạch áo bày vai mặt, cúi sát xuống đất, chắp tay cung kính ở trước Đức Phật mà bạch Phật rằng:

Kính bạch Đức Thế Tôn! Với Bảo Quang Tổng Trì chánh pháp vi diệu nầy như vậy rất cao xa.

Phật bảo A Nan: Như thế đó! như thế đó! Hình tướng cũng cao cả, thọ tưởng hành thức cũng sâu xa, việc không cũng sâu xa, như hư không sâu xa.

A Nan bạch Phật rằng: Con nay ở trước Như Lai được nghe 84 ngàn pháp tạng chưa từng nghe pháp vi diệu như thế.

Phật bảo A Nan: Bảo Quang chánh pháp nầy khó gặp khó nghe.

A Nan thưa: Phật nói chánh pháp nầy vi diệu như thế vì đời vị lai sau 500 năm khi chánh pháp mất đi thì có các chúng sanh muốn làm Phật sự phải nương vào pháp nào?

Phật bảo Ngài A Nan: Hãy nương vào chánh pháp của Thích Ca Mâu Ni Như Lai vậy. Cho đến các vị Pháp sư nếu có viết dịch, thọ trì cúng dường cung kính chánh pháp nầy thì phải biết rằng mắt thường chẳng bịnh, mũi lại chẳng bịnh, lưỡi cũng chẳng bịnh, răng cũng chẳng bịnh, tay cũng chẳng bịnh, chân cũng chẳng bịnh, đầu lại chẳng bịnh, tai cũng chẳng bịnh, các căn đều đầy đủ, thân không hôi hám lại chẳng chết yểu, thọ mệnh dài lâu, được tất cả chư thiên loài người thường hay hộ vệ. Đến cả vị Pháp sư kia khi mạng chung lại được sanh về thế giới tốt lành, sanh vào cõi trời, xa rời tất cả những việc hí luận.

A Nan thưa rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Ngài nói chánh pháp nầy? Ma Vương độc hại chẳng thể chướng ngại.

Phật bảo A Nan: Tất cả Ma Vương đều y nơi pháp nầy không làm chướng ngại.

Sau khi Đức Phật nói lời ấy rồi, lúc ấy Ma Vương có tâm độc hại liền suy nghĩ rằng. Nếu có Bảo Quang Tổng Trì pháp nầy thì ta sẽ bị chướng nạn cho nên lúc ấy Ma Vương tự chính nghiệp lực của mình, tự thấy lửa dữ đến thiêu thân mình sợ hãi vô lượng, thất kinh mà chạy. Nầy A Nan! Pháp nầy thâm dịu khó sánh, bất khả tư nghì vậy. Nếu chánh pháp nầy tùy nơi tùy xứ thì như tháp miếu của Phật.

A Nan thưa rằng: Nếu Như Lai ở trụ xứ nơi chánh pháp ấy thì con cũng ở nơi ấy được thấy Như Lai, đến gặp Như Lai, đảnh lễ Như Lai, sau đó nghe pháp. Có được như thế không?

Phật bảo A Nan: Ngươi đừng nên để mất. Vì sao vậy? Hãy đừng coi thường chánh pháp nầy. Phải biết vì sao ta được trên trời và người tôn trọng quý kính đệ nhứt như thế? Lại nữa A Nan! Ta từ trong quá khứ đầu tiên là nghe pháp nầy, sau đó mới được giác ngộ.

A Nan bạch Đức Thế Tôn rằng: Đức Thế Tôn cung kính cúng đường như thế nào? Và ở nơi nào Như Lai đã nghe thuyết pháp Bảo Quang Tam Ma Địa nầy?

Phật bảo A Nan rằng: Ta đã chẳng ở trên cõi đời tại Càn Đạt Phược đã cung kính cúng dường cầu nghe pháp nầy. Ta từ xa xưa khi còn là Bồ Tát có Phật Thế Tôn hiệu là Bất Không Tích Tụ khai mở Bảo Quang Minh Tạng Như Lai và ta đã đến đó để nghe. Phật bảo A Nan rằng: Đức Phật kia đã vì ta mà thọ ký và kể từ đó đến nay trải qua trăm ngàn ức kiếp hay tu khổ hạnh. Cũng vì muốn nghe pháp nầy. Nầy A Nan! Cho nên ta trước tiên là kính lễ giáo pháp, sau đó kính lễ Như Lai là vậy. Lúc ấy tất cả Phạm Vương, Đế Thích, Hộ Thế Chư Thiên cùng một âm thanh đồng nói lời rằng: Hoan hô pháp nầy chẳng có pháp nào trên. Đây là pháp tối thượng! Đây là pháp chẳng so sánh được. Thần biến như vậy. Nếu chỉ nghe đến chánh pháp nầy hoặc nghe đến tên của kinh thì nên hướng về đó để lễ bái. Vì sao vậy? Nếu có kẻ thọ trì đọc tụng hay vì kẻ khác mà nói thì kẻ đó như thấy Như Lai chẳng có sai khác.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn tán thán các vị Phạm Vương, Đế Thích, Hộ Thế Chư Thiên rằng: Lành thay! Lành thay! Thánh chúng nói lời hay. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn từ miệng phát ra tướng lưỡi rộng dài bao trùm 3.000 thế giới rồi, liền bảo Ngài Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: Nầy Thiện Nam Tử! Ngươi hãy nghe đây! Ta nay thỉnh ngươi vì các chúng sanh mà nói pháp nầy. Vì sao mà những chúng sanh gặp được pháp nầy? Chẳng phải giữ riêng làm cho lợi lạc, như người mù chẳng thấy ánh sáng, lại như người đi buôn chẳng có phương tiện để tự mua sắm, cũng như người nghèo chẳng tự siêng năng, thường thấy kẻ khác, không nghe pháp nầy cũng như thế đó. Hãy vì chúng sanh, ví như thuyết nầy.

Lúc ấy Ngài Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát từ chỗ ngồi đứng dậy cởi áo bày vai mặt cúi sát xuống đất chắp tay cung kính, đến ở trước Phật. Tức thời, Ngài Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát từ nơi pháp tòa an tường mà dậy, liền lúc ấy 3.000 thế giới cung điện của chư Thiên 6 điệu vang động như biên động, đẳng biên động, chấn biên chấn, đẳng biên chấn, kính biên kính, đẳng biên kính, khổng biên khổng, đẳng biên khổng, dũng biên dũng, đẳng biên dũng, khởi biên khởi, ánh sáng vi diệu chiếu khắp thế gian và Ngài Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Đức Phật rằng:

Kính bạch Đức Thế Tôn! Vì sao Đức Thế Tôn hỏi con? Vì sao hỏi con Đức Thiện Thệ Thế Tôn? Có phải bậc Nhứt Thiết Trí chẳng vì lòng bi mẫn đối với tất cả chúng sanh? Con chỉ là con của Đức Thế Tôn. Làm sao con có được trí tuệ của Như Lai? Làm sao con có lực của Như Lai? Cho đến nay con vẫn nương vào lời của Phật, y vào lời nói của Như Lai, con thường nương tựa. Do như cam lồ, chẳng hay trái mệnh, thường hay tùy thuận nơi Đức Thế Tôn.

Đức Phật tán thán Ngài Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát. Lành thay! Lành thay! Phật Tử! Ngươi tức trưởng tử của Như Lai tối thắng tối thượng. Ta vì chúng sanh mà nói pháp nầy. Nầy Thiện Nam Tử! Ngươi hãy nương nơi ta mà thường hay hộ trì và tôn kính pháp nầy. Do chỗ quý báu, giống như trân bảo chớ có bỏ rồi! Ở đời vị lai có các Tỳ Kheo phá giới chẳng sanh kính tin. Nầy Thiện Nam Tử! Đừng nương nơi đó.

Ngài Phổ Hiền Bồ Tát thưa: Thế Tôn hiểu con khi con xuất gia đã làm được hạnh gì?

Phật bảo: Thiện Nam Tử! Hãy đừng hỏi điều nầy nữa!

Phổ Hiền Bồ Tát thưa: Kính mong Đức Thế Tôn nói cho. Nếu Ngài không nói, làm sao bảo được là vì chúng sanh?

Phật bảo: Phổ Hiền Bồ Tát! Nay ngươi lắng nghe! Ta nay nói pháp nầy dụ như biển nước, Văn Thù Sư Lợi, Quan Thế Âm, vô lượng vô số vô biên các Bồ Tát Ma Ha Tát đều nhứt tâm lắng nghe. Vì đời vị lai, những người xuất gia kia sẽ tu hành như thế nào?

Lúc ấy Đức Thế Tôn bảo Ngài Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: Nầy Phật Tử! Những kẻ xuất gia kia khinh mạng chánh pháp nầy, cầu chỗ ở yên, tham trước lợi danh, chứa cất tài sản, làm nhà tốt đẹp, y phục chỗ nằm, đồ ăn uống, thuốc men muốn làm đầy đủ, tạo ra các ác nghiệp, chính mình tự phá tự hoại đó là những chúng sanh mê muội vậy. Ta nay nói kinh nầy làm cho lưu bố rộng rãi thường ở chẳng mất nhằm để giúp cho chúng sanh.

Lúc bấy giờ mười phương tất cả trời rồng Dược Xoa Càn Thác Bà v.v… đến Phật thưa rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn! Chúng con trời người 8 bộ cùng quyến thuộc suốt đời sẽ hộ trì kinh nầy và các vị Pháp sư cùng tất cả những Tỳ Kheo và các pháp tạng không bị nhiễu hại. Chúng con thường hay bảo trì tôn trọng cung kính, dùng hương hoa, y phục đủ loại quý giá để giữ gìn. Con cũng làm cho pháp nầy được ở dài lâu.

Lúc ấy Đức Thế Tôn vì Ngài Phổ Hiền và 93 ức Bồ Tát mà nói kệ rằng:

Lắng nghe tất cả lời nói đẹp
Tối thắng công đức đến bờ kia
Sai trái nguy hiểm đều phải bỏ
Một lòng chuyên tâm vui mà nghe
Nghe Phật tại xứ Ma Kiệt Đà
Bồ Đề gốc lớn tòa sư tử
Trú đại giải thoát Tam Ma Địa
Nơi đó như thể chúa của cây
Cho đến mười phương nhiều quốc độ
Được thấy Như Lai tướng chơn thật
Mười phương vô số sánh với Phật
Phật Tử đều có tên Cát Tường
Tất cả mười phương các cõi Phật
Phật Tử thường hay đi đây đó
Vì thế gian nầy nên được gặp
Văn Thù Sư Lợi trí vô biên
Hỏi cả chúng sanh tướng kiết tường
Phật Tử vì sao có công đức
Thế mà thực tế công đức lớn
Vô biên chúng sanh có thể giải
Hỏi những chúng sanh hiện cát tường
Văn Thù công đức hay giác ngộ
Phật Tử nếu mà nói pháp nầy
Được chứng thanh tịnh công đức Phật
Lại nữa Phật Tử phải nên biết
Sẽ được thực hiện công đức ấy
Phật Tử lắng nghe Hiền Cát Tường
Vô biên tối thắng công đức nầy
Ta nay lược nói phần nhỏ thôi
Như trong đại hải một giọt nước
Cho đến chứng được sự giác ngộ
Nếu có chúng sanh mới phát tâm
Vô biên công đức khó đo lường
Mỗi mỗi công đức tán dương hết
Ba La Mật Đa là công đức
Như Lai đã qua nhiều kiếp số
Chẳng thể nói hết công đức nầy
Như vậy mười phương tất cả Phật
So ra trong đó nói ít thôi
Sanh ra rất nhiều công đức lớn
Như chim trên trời khó đếm hết
Dưới đất một bụi khó thể so
Chẳng phải không nhân mà sanh vậy
Công đức bồ đề tùy nơi tâm
Phát lòng tin tưởng sanh nơi Phật
Như vậy hòa hợp sanh tâm rồi
Kia chẳng thương yêu vua phước ấy
Chẳng tự cầu an chẳng lợi danh
Diệt trừ thế gian những khổ não
Vì chúng sanh đây mà sanh ra
Ý ấy cũng vì các chúng sanh
Thanh tịnh quốc độ lẫn cúng dường
Tu tập pháp nầy chứng bồ đề
Từ tâm phát sanh trí thanh tịnh
Kia thường cung kính cầu giải thoát
Tôn trọng tất cả sanh ý Phật
Tất cả các pháp công đức giống
Sanh tâm như vậy hay cung kính
Phát tâm quy hướng nơi Phật Pháp
Phật Tử phát tâm làm việc nầy
Vô biên giác ngộ liền sanh ra
Sanh đại trượng phu ý cao cả
Phát tâm lực lớn chủ loài người
Cúng dường rộng rãi khó nghĩ bàn
Giáo pháp chẳng hoại khó nghĩ bàn
Sanh tâm cúng dường như vậy đó
Phát tâm nên chẳng khổ nơi thai
Dưỡng dục cù lao tất phải làm
Niềm vui theo đó tâm phát khởi
Cho nên lại thấy chỗ an lạc
Phát khởi vô biên tâm cung kính
Ta người kiêu mạn đều xả bỏ
Phát tâm tức là điều cao cả
Như vậy giữ gìn niềm an lạc
Phát tâm hay vì bỏ để vui
Phát tâm siêng làm những Phật sự
Phát tâm cầu được rừng công đức
Được Phật nói pháp tất cả nghe
Dũng mãnh lợi căn ánh sáng chiếu
Phát tâm kiên cố chẳng bị hoại
Tất cả phiền não đều tiêu trừ
Phát tâm hay nói Phật công đức
Phát tâm hòa hợp chẳng hòa hợp
Trong mỗi sát na đều xa lìa
Phát tâm vượt qua cảnh Ma Vương
Thấy đó là điều giải thoát lớn
Công đức chủng tử chẳng mất đi
Phát tâm trồng được gốc giác ngộ
Tối thượng trí tuệ đều tăng trưởng
Phát tâm được gặp tất cả Phật
Nghe Phật nói rõ đời quá khứ
Phát tâm bền vững được giải thoát
Pháp nầy thế gian khó gặp được
Do như biển lớn làm vua lớn
Nếu hay phát tâm cung kính Phật
Không tu không làm tất cả lìa
Lìa những quá hoạn các gièm pha
Lại hay xưng tán công đức kia
Trì giới cũng hay giữ tâm ngộ
Phương tiện tu học các công đức
Hay nương giới pháp mà tu học
Lại hay được Phật chỉ dạy cho
Nếu hay phát tâm cung kính Phật
Phật lại quảng đại hay cúng dường
Nơi Phật quảng đại cúng dường rồi
Lại hay quý trọng khó nghĩ bàn
Nếu thường phát tâm cúng dường pháp
Nghe kia Phật pháp tâm không lười
Nếu nơi Phật pháp tâm không lười
Bất tư nghì pháp làm giải thoát
Nếu hay phát tâm cung kính Tăng
Ở trong Tăng ấy tâm không thối
Như vậy phát tâm Tăng chẳng thối
Thường được phát tâm lực chẳng lui
Nếu được phát tâm lực chẳng lùi
Từ nơi căn tánh hiện ánh sáng
Nếu được lợi căn hiện quang minh
Lại hay xa rời ác tri thức
Nếu đã xa rời ác tri thức
Hãy nên cầu pháp nơi bạn lành
Nếu đã tìm pháp nơi bạn lành
Kia sẽ được giúp an lạc lớn
Nếu được an lạc lớn kia rồi
Chính lực của mình cũng phải bỏ
Nếu đã vứt bỏ tâm ngã mạn
Tức được chứng đến giải thoát lớn
Như vậy quảng đại giải thoát rồi
Tức được chư Phật thường chiếu soi
Nếu được chư Phật chiếu soi rồi
Tức khắc sẽ sanh tâm giác ngộ
Nếu đã được sanh tâm giác ngộ
Tức hộ giải thoát công đức lớn
Nếu được công đức giải thoát rồi
Tức được sanh vào nhà Như Lai
Sau khi sanh vào Như Lai rồi
Tức được giải thoát Diệu Tương Ưng
Nếu hay giải thoát Diệu Tương Ưng
Sự phát tâm kia đều thanh tịnh.

*********

Nếu được phát tâm ý thanh tịnh
Thuyết kia tối thượng tối thù thắng
Nếu đã tối thượng thù thắng rồi
Thường hay làm hạnh Ba La Mật
Nếu được Ba La Mật Đa rồi
Tức hay tùy thuận Đại Thừa nầy
Nếu đã tùy thuận Đại Thừa rồi
Tức hay tùy thuận cúng dường Phật
Nếu đã tùy thuận cúng dường Phật
Tức được trí huệ thật kiên cố
Nếu được trí huệ kiên cố rồi
Thường hay thấy Phật khó nghĩ bàn
Nếu hay thấy Phật khó nghĩ bàn
Thấy Phật chẳng đến chẳng ở lại
Nếu hay thấy Phật chẳng đi ở
Pháp nầy ở đời thường chẳng diệt
Nếu thấy pháp nầy thường chẳng diệt
Xa lìa khổ não đã chứa nhóm
Nếu được xa lìa nhơn phiền não
Tức hay thuyết pháp chẳng giới hạn
Nếu được thuyết pháp vô biên rồi
Lại có lòng từ ở thế gian
Nếu dùng tâm từ ở thế gian
Tức lòng đại bi giữ chắc mãi
Nếu được lòng từ giữ gìn mãi
Tức là vì người pháp sung mãn
Nếu được hỷ lạc pháp căn bản
Xa rời tạo tác nhiều tội lỗi
Nếu bỏ tạo tác những tội lỗi
Không ta không người lìa chúng sanh
Nếu chứng vô ngã lìa chúng sanh
Người hay tự lợi hoặc lợi tha
Nếu hay tự lợi hoặc lợi tha
Xa lìa luân hồi các khổ não
Sẽ được lực lớn khó nghĩ bàn
Nếu được lực lớn như thế đó
Tức được nắm bắt trí thanh tịnh
Nếu đã sanh được trí thanh tịnh
Lao vào thế gian để tu hành
Nếu hay vào chỗ khó tu hành
Thành thục thế gian thật khó thay
Nếu hay thành thục ở thế gian
Chứa nhóm thế gian nhiều trí tuệ
Nếu được trí tuệ thế gian nầy
Tức hay tùy thuận nơi tứ nhiếp
Nếu hay tùy thuận nơi tứ nhiếp
Tức vì thế gian rộng bố thí
Nếu ở thế gian rộng bố thí
Tức ở phương tiện lực trí huệ
Nếu được phương tiện lực trí huệ
Tức ở dũng mãnh đạo vô thượng
Nếu ở dũng mãnh vô thượng đạo
Tuyệt nhiên chẳng thấy chúng ma quân
Nếu được chẳng thấy chúng ma quân
Tức hay xa rời bốn ma đạo
Nếu được xa rời bốn ma đạo
Tức hay đến được bất thối địa
Nếu hay đến được bất thối địa
Tức được tên là vô sanh nhẫn
Nếu được vô sanh nhẫn như thế
Được Phật thọ ký hiệu Thế Đăng
Nếu được thọ ký hiệu Thế Đăng
Tức ở tất cả trước Như Lai
Nếu được hay ở trước Như Lai
Được Phật bí mật biến hóa trí
Nếu được Như Lai biến hóa trí
Tất cả Như Lai đều thọ ký
Nếu được chư Phật thọ ký rồi
Tất cả công đức chúng trang nghiêm
Nếu được công đức chúng trang nghiêm
Được diệu phước đức thân thanh tịnh
Nếu được như thế thân thanh tịnh
Sẽ được ánh sáng Kim Sơn chiếu
Nếu được như thế ánh Kim Sơn
Tức được tướng tốt ba mươi hai
Nếu được tướng tốt ba mươi hai
Tức được tướng hảo trang nghiêm thân
Nếu được tướng tốt trang nghiêm rồi
Thân phóng ánh sáng chiếu khắp cả
Nếu được ánh sáng chiếu khắp cả
Ánh sáng vô lượng trang nghiêm thân
Nếu được như vậy trang nghiêm thân
Ánh sáng dưới chân sanh hoa sen
Nếu được ánh sáng tạo liên hoa
Được Phật cảnh giới ngồi hoa sen
Nếu được Như Lai cho ngồi tòa
Tức nay thấy rõ mười phương cảnh
Nếu được thấy rõ cảnh mười phương
Giáo hóa chúng sanh chẳng có gì
Nếu được giáo hóa như chẳng làm
Tức được trí huệ thật vô cùng
Nếu được trí huệ vô cùng tận
Nói ra pháp khó nghĩ bàn nầy
Nếu được nói ra pháp khó nghĩ
Làm cho vô lượng người vui vẻ
Làm việc lợi lạc khó nghĩ bàn
Nếu được như vậy làm việc nhiều
Mỗi mỗi trí lực phải nên biết
Nếu được như vậy lực trí huệ
Thế gian tùy loại độ quần sanh
Nếu được tùy loại độ quần sanh
Đời sống trí tuệ đều thành tựu
Nếu được túc mệnh trí như thế
Ba nghiệp thanh tịnh chẳng gián đoạn
Nếu được ba nghiệp thường chẳng dứt
Do tự nguyện lực theo sở cầu
Nếu được nguyện lực theo sở cầu
Tùy các chúng sanh hiện nhiều loại
Nếu được tùy hiện nhiều chúng sanh
Được bất tư nghì âm thanh quý
Nếu được như vậy âm thanh quý
Hay sanh nhiều loại các âm thanh
Phát ra như thế những tiếng tốt
Tức hay rộng khắp các thế giới
Như vậy rộng khắp các thế giới
Trong mỗi sát na đều phải biết
Nếu được như vậy hiểu tâm người
Bất sanh bất diệt chẳng thối chuyển
Nếu lìa sanh diệt chẳng thoái chuyển
Tất cả chướng não chẳng sanh lại
Nếu được chướng não chẳng sanh lại
Pháp thân công đức trí huệ đầy
Nếu được pháp thân trí huệ đủ
Pháp hành quang minh chiếu thế gian
Nếu được ánh sáng chiếu thế gian
Tức được thập địa mười loại thân
Nếu được thập địa mười loại thân
Tức được Bát Nhã đường giải thoát
Quán đảnh trang nghiêm làm tối thượng
Nếu được quán đảnh như thế rồi
Tam Ma Địa đạo rất thành tựu
Như vậy Tam Ma Địa chứng rồi
Được thấy mười phương tất cả Phật
Nếu thấy tất cả chư Phật rồi
Như vậy chư Phật hay quán đảnh
Tức được chư Phật xoa đầu cho
Tức hay biến hiện với pháp không
Như vậy biến hiện với hư không
Tùy nơi tùy chốn thường bền vững
Nếu được tùy nơi hay kiên cố
Trên trời loài người khó sánh được
Cho đến người, trời khó đo lường
Như vậy hay lìa những lực lượng
Qua các đo lường lìa ngôn ngữ
Đó là tất cả lực chẳng có
Như vậy tất cả lực chẳng có
Nghe tên thấy thân hay phương tiện
Cho đến phương tiện là như vậy
Hay làm thí chủ cho thế gian
Lại tên bất không đại trượng phụ
Chẳng quản từ bi nói diệu pháp
Vì những ác đạo hóa quần sanh
Diễn thuyết Bảo Quang tối thượng thừa
Dụ như Kim Cang mây quý tụ
Tánh Phật ví như biển rộng lớn
Bất tăng bất giảm chẳng tổn hoại
Vô biên công đức cũng như vậy
Chẳng có lúc nào chẳng nghe pháp
Từ Phật hiện ra làm giác ngộ
Thấy đó giống như đại pháp tạng
Đó hay thuyết pháp lìa mê hoặc
Mười phương thế giới chẳng quái ngại
Giống như ánh trăng chiếu sáng khắp
Giáo hóa chúng sanh ngàn phương tiện
Sát na sát na Phật giác ngộ
Tức thấy mười phương các thế giới
Thường chuyển pháp luân giúp thế gian
Dũng mãnh biến chuyển khắp mười phương
Lại các Thanh Văn Bích Chi Phật
Vô biên biến hóa Phật trang nghiêm
Lại qua bất khả tư nghì kiếp
Làm cho chúng sanh qua lại nghe
Nếu có nam nữ, đồng nam nữ
Trời người Tu La vua rồng thảy
Dược Xoa cho đến Ma Hầu La
Vì giải thoát trí đều thấy được
Nếu trong thế gian nhiều chủng loại
Tùy họ lời nói tất giống nhau
Tất cả dũng mãnh đều thấy rõ
Như vậy dũng mãnh đều quan sát
Hải ấn tam muội từ miệng sanh
Được vậy hải ấn chúng tam muội
Hay đẹp bất khả tư nghì lần
Nghiêm sức khó nghĩ sát na rồi
Cúng dường thập phương chư Như Lai
Như vậy cúng dường nhiều loại rồi
Lại được ánh sáng trang sức thân
Nếu được ánh sáng bất tư nghì
Tức được vô biên trí giải thoát
Nếu được vô biên trí giải thoát
Được bất tư nghì thân biến hóa
Nếu được như vậy thân biến hóa
Miệng và trí huệ đều biện tài
Nếu được miệng trí vô quái ngại
Bố thí biến hóa chẳng nghĩ bàn
Nếu được bố thí chẳng nghĩ bàn
Trì giới nhẫn tiến cũng như vậy
Nếu được trì giới nhẫn tiến qua
Thần định thần biến khó đo lường
Nếu được Thần Định thần thông biến
Xuất sanh phương tiện thần biến trí
Được vậy phương tiện trí thần biến
Xuất sanh rất nhiều các công đức
Từ miệng Phật sanh Tam Ma Địa
Tam Ma Địa vào mỗi vi trần
Tất cả vi trần đều nhập vào
Trong mỗi vi trần khó nghĩ bàn
Mỗi mỗi vi trần đều thấy rõ
Như vậy Phật ở nhiều vi trần
Trong ấy mỗi Phật đều rõ thấu
Mỗi mỗi vi tế chúng thanh tịnh
Vô thượng quý trọng pháp vi diệu
Như thật xa rời ngoài thế gian
Ra ngoài bí mật vượt lên cả
Thường hay trừ tối phóng quang minh
Bủa khắp nơi nơi chẳng cuối cùng
Nếu như thấy được một ánh sáng
Như vậy tất cả các vi trần
Vị tiên nầy hành Tam Ma Địa
Tức thì vô biên được giải thoát
Tam Ma Địa lực cúng dường Phật
Tất cả Như Lai cúng dường rồi
Lại ở nơi tay biến ngàn vạn
Làm đại trượng phu và cúng dường
Cho đến mười phương hoa tốt đẹp
Hương thơm tỏa khắp toàn mùi lạ
Mỗi mỗi tay ấy đều bố thí
Bồ Đề nơi gốc đến chỗ Phật
Giá trị ngàn vạn y áo thơm
Các loại tràng phang và bảo cái
Diêm Phù Đàn dùng để trang nghiêm
Tự trong tay ấy đem bố thí
Vô biên tất cả đều thọ dụng
Thanh tịnh cúng dường các tiên nhơn
Trong tay có gì đem thí cả
Ở chỗ nơi Phật gốc giác ngộ
Cho đến tất cả các loại nhạc
Đánh trống phát ra âm thanh hay
Tất cả nhã nhạc ống tiêu địch
Mỗi mỗi trong tay đều có đủ
Thường hay tán thán Đức Thế Tôn
Mỗi mỗi xưng tán đức chơn thật
Vô biên tất cả khắp mười phương
Mỗi mỗi đều từ tay tạo ra
Hoặc nơi ánh sáng làm nên Phật
Tất cả phía mặt sinh động tác
Mùi hương bay khắp các đất Phật
Cúng dường tất cả đèn thế gian
Ánh sáng đẹp đẽ vừa đẹp ý
Liên Hoa lầu các khó nghĩ bàn
Hoa sen sắc đẹp nhiều vô kể
Mỗi mỗi đều đem cúng chư Phật
Phóng quang minh lớn làm hoa đẹp
Mỗi mỗi vi diệu hoa như biển
Như vậy hoa đẹp đều trải khắp
Rộng ra cúng dường các Đức Phật
Phóng quang minh lớn chứa mùi hương
Mỗi mỗi vi diệu biển mùi hương
Như vậy mùi thơm bay khắp nơi
Rộng ra cúng dường các Đức Phật
Phóng quang minh lớn tẩm hương cúng
Mỗi mỗi hương tẩm như biển mây
Như vậy hương tẩm đều cùng khắp
Rộng ra cúng dường các Đức Phật
Phóng ánh sáng lớn làm đẹp đẽ
Mỗi mỗi vi diệu biển mây đẹp
Như vậy tóc đẹp đều trải dài
Rộng thêm cúng dường các Đức Phật
Phóng ánh sáng lớn mùi trân quý
Mỗi mỗi cúng dường hương như biển
Như vậy mùi hương đều bay khắp
Rộng lớn cúng dường các Đức Phật
Phóng ánh sáng lớn áo đẹp đẽ
Mỗi mỗi vi diệu áo mây nước
Như vậy áo đẹp đều cùng khắp
Rộng lớn cúng dường các Đức Phật
Phóng ánh sáng lớn trang nghiêm đẹp
Mỗi mỗi vi diệu tàng mây biển
Như vậy tàng đẹp đều cùng khắp
Rộng khắp cúng dường các Đức Phật
Phóng ánh sáng lớn quý vô giá
Mỗi mỗi vi diệu mây quý hiển
Như vậy vật quý đều cùng khắp
Rộng ra cúng dường các Đức Phật
Phóng ánh sáng lớn đẹp hoa sen
Nhiều loại hoa sen nhiều như biển
Như vậy nhiều hoa đều cùng khắp
Rộng ra cúng dường các Đức Phật
Phóng ánh sáng lớn nơi lầu các
Mỗi mỗi anh lạc nhiều như biển
Như vậy anh lạc biến cùng khắp
Rộng ra cúng dường các Đức Phật
Phóng quang minh lớn phang trang nghiêm
Phang kia xanh vàng cùng đỏ trắng
Vô số đồ đẹp dùng trang nghiêm
Tràng phang làm đẹp nơi đất Phật
Mỗi mỗi trang sức lưới Ma Ni
Tràng phang bảo cái như kết hoa
Nơi đây phát ra như tiếng Phật
Hay ở trước mặt Đức Như Lai
Giả sử cúng dường một Đức Phật
Tay tự cung cấp nhiều vô kể
Như vậy cho đến tất cả Phật
Tâm nầy biến hóa Tam Ma Địa
Nhiếp phục thế gian trí thần thông
Đó là tối thượng Tam Ma Địa
Hay làm tất cả các phương tiện
Như vậy hóa độ các chúng sanh
Hoặc có cúng dường các Đức Phật
Nhiều loại bố thí khó nghĩ bàn
Giới đức thanh tịnh tu khổ hạnh
Vô tận nhẫn nại chẳng lui sụt
Hoặc hay siêng năng lẫn dũng mãnh
An vui thần định lành tu tập
Trí huệ chứng được các ý nghĩa
Hay làm tất cả phương tiện lành
Hoặc hành từ bi cùng hỷ xả
Đồng sự ái ngữ lẫn lợi tha
Do trí chứa nhóm các phước nghiệp
Giải thoát bốn đến mười hai duyên
Hoặc có căn lực hiểu việc làm
Trong Thanh Văn Thừa được giải thoát
Quán duyên thanh tịnh Duyên Giác thừa
Thần thông biến hóa tối thượng thừa
Hoặc thấy vô thường các khổ não
Chẳng có thân mệnh gì hết cả
Chẳng có phiền não làm chướng ngại
Tam Ma Địa lực hay giải trừ
Vì các thế gian mà tinh tấn
Diễn dương diệu pháp độ quần sanh
Cầu cho tất cả được giải thoát
Dụ các chúng sanh tùy thế gian
Cùng các loại hình khó thể đo
Thần thông mật diễn Tam Ma Địa
Nghiêm trì vui thích hay biến hóa
Tùy ý dẫn dắt các thế gian
Tất làm hoan hỷ và an lạc
Hãy nghĩ chúng sanh khó xả bỏ
Nếu gặp đói khát ở chúng sanh
Mỗi mỗi an lạc đem giúp cho
Tất cả niềm vui tức từ tâm
Vì các thế gian rộng mở bày
Thường dùng mùi ngon việc ăn uống
Mỗi mỗi phục vụ như chỗ chứa
Của tiền như vua ta đều bỏ
Tất cả thế gian tùy ý cho
Gìn giữ tốt đẹp tướng của thân
Nguy nguy hạnh cả thường chẳng động
Tẩm hương của hoa nơi tâm ý
Hiện ra sắc tướng độ quần sanh
Thấy các niềm vui sanh hoan hỷ
Trí huệ cao cả nhiều hình tướng
Thấy việc tối thượng nhiều hình tướng
Tùy ý dạy dỗ cho thế gian
Ca Lăng Tần Già xuất âm lành
Hạc trắng chim quý đều ca hát
Trông trời xuất ra âm thanh lạ
Hằng diễn giải thoát pháp Như Lai
Tám vạn bốn ngàn Như Lai tạng
Tất cả tột cùng hay nên làm
Sai biệt diệu pháp cũng nên biết
Tùy ý hóa độ các chúng sanh
Chúng sanh khổ não tất đồng hành
Chẳng ác chẳng thiện lại cùng quả
Tạo tác tất cả các hành nghiệp
Tùy ý hóa độ các chúng sanh
Nếu gặp tai nạn sinh khổ não
Hãy thấy điều đó khó nhẫn được
Thay cho chúng sanh thọ các khổ
An lạc tất cả các thế gian
Nếu pháp hoặc có hoặc chẳng có
Vô trí vô phước chẳng giải thoát
Như vua sánh kia cùng tán dương
Cứu khổ chúng sanh lìa sanh tử
Hay lìa tham ái chúng kết chặt
Tâm gọi thế gian giải thoát chủ
Tất cả muốn vui tận nên siêu
Xa rời giải thoát ánh sáng chiếu
Lại phóng ánh sáng mười loại khác
Hay làm bậc Thánh vì phương tiện
Tất cả Thánh làm đều rõ biết
Quán xem thế gian tùy ý tạo
Chúng sanh cũng đồng Vô Lượng Thọ
Hẳn nhiên an ổn mà vui vẻ
Sanh Lão Bệnh Khổ chẳng thể đến
Quyết định tự thấy vô thường qua
Như vậy chúng sanh vui ánh sáng
Thế gian ngu muội như ánh đèn
Lão bệnh chết khổ đều chứa nhóm
Thế gian dẫn dắt các chúng sanh
Mười phương siêng năng bốn vô úy
Như Lai mười tám bất cộng pháp
Ta suy nghĩ rộng công đức lớn
Vì các thế gian làm Phật sự
Dụ như thế gian các huyễn thuật
Hay hiện nhiều loại sắc tướng khác
Thấy các Đức Phật biến hóa thảy
Như vậy thần biến dẫn mọi loài
Ta vì phương tiện làm nhiều loại
Lời lành thí dụ các chúng sanh
Giống như hoa sen chẳng dính bùn
Tùy ý tạo tác nhiều sai biệt
Hoa đẹp lợi ích nhiều tán thán
Múa hát ca xướng tướng bên ngoài
Lầu các trang nghiêm múa lưu chuyển
Như uyển hiện tướng chẳng đồng nhau
Hoặc làm người buôn nơi thôn dã
Trưởng giả mua hàng từ phố đến
Cùng các Đại Thần và quân sứ
Thuốc thang nhiều loại cùng luận sư
Hoặc nơi đồng ruộng có cây lớn
Trân bảo thuốc hay chẳng lường được
Như ý Ma Ni làm đẹp đẽ
Mất đường quên lối làm người dẫn
Đến cả vị lai sanh thế gian
Chúng sanh chẳng biết tự tạo nghiệp
Kinh doanh nông vụ mọi phương tiện
Thế gian nghề nghiệp nhiều loại khác
Hoặc hiện giận dữ chẳng tình thương
An lạc tất cả các chúng sanh
Sáng suốt luận nghị pháp khác nhau
Phật kia khai mở đường ánh sáng
Nếu những tối thượng Phật đã làm
Trên trời loài người đều giải thoát
Nếu người xuất gia tu khổ hạnh
Mở bày tối thượng tất cả trí
Nếu có ngoại đạo cũng xuất gia
Thường giữ chẳng nói như Đức Phật
Ở trần chẳng động tướng Sa Môn
Lại tự hay nương lời Phật dạy
Hoặc hay thường trì bỏ pháp thân
Hoặc tức chấp có chấp chẳng có
Tóc dài râu dài tướng đồng tử
Lại tự nương tựa nơi Bổn Sư
Hoặc có việc làm ngày năm kiểu
Giới chó giới bò áo da hươu
Đi lại ba lần để cúng dường
Lại tự nương tựa nơi Bổn Sư
Hoặc hay vui vẻ trí chư thiên
Chẳng thiện chẳng ác bỏ không nhơn
Tìm cầu gốc gác đồ ăn uống
Chấp vì mùi ngon khó hiểu pháp
Hoặc ngồi yên chỗ y áo đỏ
Hoặc bôi đen người hoặc nằm cỏ
Cầm gậy có tên cũng tu hành
Lại tự nương vào nơi Bổn Sư
Cho đến mỗi mỗi những ngoại đạo
Đều được làm cho lìa trói buộc
Kia làm trí huệ khổ hạnh nhiều
Như vậy ngoại đạo đều dẫn dắt
Thế gian đủ loại đều giáo hóa
Tà kiến làm sai gốc bổn linh
Vì họ phương tiện diễn diệu pháp
Thuyết chánh pháp nầy bảo họ làm
Hoặc nói Đại Thừa lời ngay thật
Chánh pháp mật yếu lời tốt đẹp
Hoặc nơi chánh đạo nói lời thật
Trong ấy hoặc nói câu vi diệu
Hoặc nhờ văn tự được giải thoát
Pháp tập nghĩa hay câu Kim Cang
Trí huệ phá hoại lời ngoại đạo
Luận thuyết nhiều loại lời giải thoát
Hoặc nơi loài người nói thần chú
Tuyên dương tất cả câu hay đẹp
Trong ấy lại có lời chư Phật
Long Vương Dược Xoa cũng có nói
Hoặc như La Sát có nhiều lời
Dược Xoa Tốt Xá Càn Thác Bà
Khẩn Na La nữ hay múa hát
Diễn dịch diệu pháp nghĩa giải thoát
Họ vì trí tuệ mà nói pháp
Nếu Phật nếu Pháp cũng như vậy
Trí đạo là pháp bất tư nghì
Nói Tam Ma Địa biến hóa nầy
Giải rõ thế gian Tam Ma Địa
Làm cho tất cả các thế gian
Hoặc phóng quang minh khó nghĩ bàn
Quang minh soi rọi các chúng sanh
Hoặc phóng quang minh tên Diệu Quán
Cho đến chúng sanh vì đây tin
Được chứng pháp không quan sát kỹ
Vô Thượng Trí và Vô Thượng Nhơn
Được thấy chư Phật và nghe pháp
Hoặc thấy chúng Tăng có công đức
Thấy tháp khen Phật thật hy hữu
Và thấy thanh tịnh ánh quang minh
Hoặc phóng ánh sáng tên Phổ Chiếu
Biến chiếu tất cả các thế gian
Mỗi mỗi vi trần đều biết hết
Vì muốn an lạc cho thế gian
Ánh sáng kia mới chiếu thế gian
Thường dùng đèn sáng cúng dường Phật
Sau khi cúng dường đèn sáng rồi
Thế gian làm chủ ánh sáng ấy
Hoặc giả tim đèn hay dầu đèn
Cây tùy cỏ rác cùng đèn ấy
Mùi thơm ngào ngạt đèn trân quý
Tất cả ánh sáng cúng dường Phật
Lại phóng ánh sáng tên Biến Chiếu
Tất hay quan sát các chúng sanh
Tham ái luân hồi biển sanh tử
Vì muốn cứu vớt các chúng sanh
Ánh sáng chiếu vào luân hồi ái
Tất làm lợi lạc chúng hữu tình
Tất được xa rời bốn loài ma
Khổ não bức bách làm an lạc
Làm cho đẹp đẽ số không ít
Hoặc nơi sông nước làm thuyền bè
Giả làm mắng chửi khen tiêu diệt
Ánh sáng nơi kia chiếu tận cùng
Xa rời tham dục giúp lợi lạc
Thuyết pháp hóa đạo cũng như vậy
Được Phật rưới cho nước cam lồ
Cứu khổ thế gian đói khát nữa
Hoặc làm ao hồ hay giếng nước
Xuyên tạc tạo tác thành giác ngộ
Từng phần ái dục xưng tán định
Tất cả tham ái được tiêu trừ
Lân mẫn chúng sanh phóng ánh sáng
Ánh sáng kia đều chiếu chúng sanh
Vui kia biến hóa sanh giác ngộ
Niệm niệm sanh tam ta sẽ được
Trang nghiêm tướng hảo ngồi đài sen
Đại bi lân mẫn các chúng sanh
Hằng thời diễn thuyết Phật công đức
Phóng quang làm cho sanh vui mừng
Lại phóng ánh sáng tên thích ý
Ánh sáng nầy hay giác hữu tình
Nơi Phật nơi Pháp sinh ái kính
Và hay vui vẻ với chúng Tăng
Chứng được Phật Pháp sanh tâm vui
Lại hay chờ đợi nơi chúng Tăng
Liền lễ Như Lai công đức Thánh
Như vậy được Phật khó làm vậy
Gặp chư Như Lai các pháp lành
Được tối vô thượng hành nhẫn nại
Giác ngộ được nhiều loài hữu tình
Niệm Phật niệm Pháp công đức Thánh
Mỗi mỗi công đức tâm giác ngộ
Làm cho ánh sáng như yêu cầu
Lại phóng ánh sáng vào phước đức
Ánh sáng nầy hay giác hữu tình
Xả thí vô số nhiều loại khác
Khuyến thỉnh vô thượng đại Bồ Đề
Sở cầu như ý đều đầy đủ
Như vậy nhiều loại vật hay cho
Tất cả tùy ý cho đi rồi
Chứa nhóm phước ấy phóng ánh sáng
Như vậy trí nầy phóng ánh sáng
Ánh sáng ấy chiếu các chúng sanh
Một pháp miệng nói không cùng hết
Lợi lạc tuyên dương hay quan sát
Pháp huệ nhiếp phục các chúng sanh
Trí huệ tất hay giải bày thảy
Diệu pháp nghĩa cao tuyên dương rồi
Tức trí phóng ra ánh sáng lớn
Nếu được trí tuệ phóng ánh sáng
Ánh sáng ấy hay chiếu chúng sanh
Chúng sanh chẳng không không sanh diệt
Các pháp tự tánh tức vô tánh
Như huyễn như sương trăng trên nước
Như mộng lại như ảnh trong gương
Pháp không chủ tể nương nơi không
Thường hành xuất sanh đèn trí tuệ
Pháp lực biến hóa phóng ánh sáng
Ánh sáng ấy giác ngộ chúng sanh
Vô tận tổng trì ai đắc được
Giữ chư Như Lai pháp tạng lành
Tổng trì diệu pháp tu tập rồi
Đại Tiên các pháp thường hộ trì
Tuyên dương pháp nầy vì thế gian
Tức làm pháp ấy phóng ánh sáng
Hoặc xả bỏ nhiều phóng ánh sáng
Ánh sáng ấy hay thức chúng sanh
Vô thường chẳng lâu biết an vui
Như vậy xa rời đều chứng được
Nếu các chúng sanh khó phục ngã
Hãy biết tự tánh như mây nổi
Biết rồi trí sáng liền an ổn
Đó là bố thí phóng ánh sáng
Lại phóng ánh sáng tên sám hối
Chiếu vào mọi nơi của chúng sanh
Giới pháp thanh tịnh sám hối rồi
Tâm lìa ảo vọng sẽ thành Phật
Nếu các chúng sanh nhờ trì giới
Hiện nghiệp tiêu trừ sanh thanh tịnh
Sánh bằng với phát Bồ Đề tâm
Phóng ra ánh sáng đến chỗ sám
Nhẫn nại phóng quang nhằm nghiêm sức
Ánh sáng ấy chiếu khắp chúng sanh
Sân tâm cực ác ý khó điều
Đầu tiên việc nhẫn là trừ hết
Tự nghiệp khó làm nhẫn nại thảy
Nơi tâm không động ấy Bồ Đề
Thường hay xưng tán việc nhẫn nại
Đó là nhẫn nại làm trang nghiêm
Lại phóng ánh sáng tỏ tường hơn
Chiếu đến giải đãi của chúng sanh
Tam Bảo thượng diệu các phương tiện
Tương tục dài lâu hay cúng dường
Tam Bảo nhiều loại các phương tiện
Tương tục phương tiện cúng dường rồi
Tức hay xa rời bốn ác ma
Tức được vô thượng đại Bồ Đề
Dạy cho chúng sanh hành tinh tấn
Như vậy cúng dường Tam Bảo rồi
Hằng giữ diệu pháp chẳng kể lúc
Ánh sáng lành thay sẽ được ngay
Lại phóng ánh sáng làm nhẫn nại
Phổ độ giác ngộ các chúng sanh
Giác ngộ xa rời tham sân si
Được tâm bình thản không gián đoạn
Cho nên hành nghiệp đều tiêu trừ
Xa rời tất cả điều bất thiện
Xưng dương tán thán việc thiền định
Nhẫn nại thanh tịnh phóng ánh sáng
Trí huệ nghiêm sức phóng quang minh
Thường chỉ mê mờ cho chúng sanh
Nếu nói chánh pháp được giải thoát
Thường hay chứng nhập các căn trí
Nếu nghe chánh pháp được giải thoát
Biến đổi qua lại căn nguyên rồi
Tức được mặt trời Tam Ma Địa
Được Phật trí tuệ ánh quang minh
Vua là sở hữu lại hay cho
Vì cầu diệu pháp ở giác ngộ
Tức hay luôn luôn nói diệu pháp
Trí huệ quang minh được trang nghiêm
Nếu Phật phóng ra ánh sáng nầy
Ánh sáng ấy chiếu khắp chúng sanh
Vô số khó hiểu ngàn Như Lai
Hiện ngồi trên đó hoa sen đẹp
Đại giác Như Lai giải thoát ngã
Vô biên biến hóa nói lời Phật
Làm Phật Như Lai chiếu mạnh đến
Tức được chiếu sáng quang minh nầy
Lại phóng ánh sáng thí vô úy
Làm nhiều khủng bố các chúng sanh
Cầu được qua khỏi sự triền phược
Như vậy khủng bố bị nạn kia
Và các chúng sanh được an ổn
Tức hay lìa được sự giết hại
Cứu các nghiệp hoặc khó cứu được
Được đại vô úy phóng ánh sáng
Lại phóng ánh sáng tên an lạc
Làm cho bệnh khổ mau tiêu trừ
Tất cả tật đố được trị liệu
An lạc thiền định Tam Ma Địa
Nhiều loại thuốc men cùng hoa quả
Hương thơm quý giá mùi trân bảo
Nước hương giọt mật và dầu mè
Ăn uống cúng dường đều sung túc
Thấy các Như Lai phóng quang minh
Chiếu thấy chúng sanh lúc mạng chung
Chỉ cho niệm Phật tức thấy Phật
Mạng chung quyết định sanh đất Phật
Khi mạng chung rồi nếu niệm Phật
Thấy các Phật tượng sinh tín tâm
Phật vì vãng sanh mà cứu độ
Được thấy chư Phật đang thuyết pháp
Lại phóng quang minh tên pháp quang
Ánh sáng nầy hay giác chúng sanh
Nghe pháp in ấn đọc tụng kinh
Thường được ái lạc nơi các pháp
Khai mở diệu pháp thật khó lường
Khuyến cầu diệu pháp ý đầy đủ
Vì các phương tiện hộ pháp nầy
Cho nên thuyết pháp được quang minh
Lại phóng ánh sáng tên ngôn ngữ
Phật tử giác ngộ chúng sanh kia
Bổn nguyện nghe rền ba ngàn cõi
Nghe các Như Lai nhiều lời nói
Lớn tiếng xưng tán bậc Đại Thánh
Tiếng lớn cao cả như tiếng chuông
Vì các chúng sanh ngôn ngữ Phật
Cho nên chứng được sáng ngôn ngữ
Lại phóng quang minh cho cam lồ
Ánh sáng kia hay giác chúng sanh
Biết được chúng sanh lúc khởi tâm
Tất cả công đức đều tương ưng
Vô số khổ não tai ách ấy
Thường hay không giả chẳng an ổn
Nếu hay dừng lại các tai biến
Nói pháp cam lồ tức đều được
Lại phóng ánh sáng tên tối thắng
Ánh sáng nầy hay giác chúng sanh
Thắng giới đó là Tam Ma Địa
Nghe Phật tối thắng trí huệ lớn
Khó lường tịnh giới Tam Ma Địa
Trí huệ đệ nhất đại năng nhơn
Xưng dương tán thán thí giác ngộ
Kia sẽ chứng được ánh sáng nầy
Vì cho hết sạch pháp bảo quý
Pháp nầy cúng dường bậc Đại Giác
Như vậy cúng Phật và tháp Phật
Chúng sanh cầu tốt mà không hoại
Cho các của quý được làm Phật
Như vậy cho nên phóng bảo nghiêm
Lại phóng ánh sáng Vãng chiếu Diệu
Ánh sáng nầy giác ngộ chúng sanh
Thích ý hương thơm ngửi chẳng hôi
Kia làm công đức của Như Lai
Trên trời loài người đều tỏa hương
Dùng để cúng dường các Đức Phật
Cúng nhiều tháp Phật chẳng chấm dứt
Cho nên phóng ra ánh sáng nầy.

*********

Lại phóng ánh sáng nhiều loại đẹp
Mỗi mỗi tràng phang và bảo cái
Tạo nên âm nhạc và mùi thơm
Giữ gìn đầy đủ mùi hoa quý
Như vậy đủ loại cúng dường Phật
Hương hoa, hương xông và hương bột
Tràng phang bảo cái trương cao lên
Hay phát sinh ra điệu nhạc hay
Lại phóng ánh sáng sinh tâm tịnh
Tay cầm đồ báu đứng yên đó
Thanh tịnh trang nghiêm nơi tháp Phật
Chứng được thanh tịnh ánh sáng nầy
Lại phóng to lớn ánh sáng kia
Lại mưa đủ loại mùi hương quý
Hương ấy ngầm vào nơi tháp miếu
Cho nên chứng được ánh sáng màu
Lại phóng nhiều loại ánh sáng khác
Người không áo mặc được y đắp
Nhiều loại nhà cửa nhiều áo quần
Cho nên phát ra cho tất cả
Lại có ánh sáng cho đồ ăn
Cho cả những người nghèo đói khổ
Mỗi mỗi vị ngon của ăn uống
Cho rồi chứng được ánh sáng lớn
Lại có ánh sáng tên Thắng Nghĩa
Trong kho đồ quý cho người nghèo

Cúng dường Tam Bảo không chở hết
Đây gọi tên là Đàn Hành Thắng
Lại phóng ánh sáng mắt thanh tịnh
Kẻ mù được thấy các hình tướng
Như đèn cúng dường Phật và tháp
Giúp cho ánh sáng mắt thanh tịnh
Lại phóng ánh sáng tai thanh tịnh
Kẻ điếc đều có thể nghe được
Cúng Phật âm nhạc và tháp Phật
Giúp cho ánh sáng tai thanh tịnh
Lại phóng ánh sáng mũi thanh tịnh
Mũi căn không đủ nghe mùi hương
Cúng mùi hương quý Phật và tháp
Giúp cho ánh sáng mũi thanh tịnh
Lại phóng ánh sáng lưỡi thanh tịnh
Được Phật nhu nhuyến tiếng từ bi
Xa rời lời nói chẳng lợi ích
Giúp cho ánh sáng lưỡi đẹp đẽ
Lại phóng ánh sáng thân thanh tịnh
Thân căn chẳng đủ liền đầy đủ
Bỏ thân nhiều như Phật và tháp
Cho nên được thân thanh tịnh ấy
Lại phóng ánh sáng ý thanh tịnh
Tất cả ý hay đều chứng được
Nhờ ý nầy chứng Tam Ma Địa
Chứng được ánh sáng ý thanh tịnh
Lại phóng ánh sáng sắc thanh tịnh
Liền thấy tướng đẹp của Nhơn Vương
Nhiều loại màu sắc chẳng sánh bằng
Được gìn trang nghiêm ánh sáng tháp
Lại phóng ánh sáng nghe thanh tịnh
Chẳng nghe không nghe đều biết rõ
Sanh tin đều do ảnh hưởng nầy
Phóng ra ánh sáng nghe thanh tịnh
Lại phóng ánh sáng hương thanh tịnh
Tất cả mùi hôi thành mùi thơm
Mùi thơm làm nước cúng tháp Phật
Phóng sáng ở nơi gốc Bồ Đề
Lại phóng ánh sáng mùi thanh tịnh
Có độc chẳng độc biến mùi ngon
Cúng Phật Thanh Văn và cha mẹ
Cúng các vị ngon được ánh sáng
Lại phóng ánh sáng xúc thanh tịnh
Sờ mó tiếp xúc được an lạc
Kiếm bắn tên nhọn như mây mưa
Biến thành hoa báu đẹp đẽ lạ
Vô số áo mền xúc được vui
Làm cho chúng sanh qua đất Phật
Hoa tốt mùi hương áo thanh tịnh
Được cúng bảo cái phóng ánh sáng
Lại phóng ánh sáng pháp thanh tịnh
Tất cả những ai khó nghe pháp
Vì các thế gian mà xuất hiện
Được Phật diễn nói tất cả pháp
Tin pháp tự tánh thật chẳng sanh
Pháp thân báo thân cũng như vậy
Pháp hay vắng lặng giống hư không
Cho nên chứng được thanh tịnh pháp
Ánh sáng hiện tiền nên như vậy
Ngay nơi trước mặt một mảng lông
Cũng sanh tức khắc nhiều ánh sáng
Tất cả cũng đều tùy nghiệp duyên
Cũng như hiện tại một hạt bụi
Xuất hiện thêm vào hạt bụi khác
Như vậy tất cả cùng góp vào
Nơi Tam Ma Địa chư Phật hiện
Nếu phóng ánh sáng như vậy đó
Với ánh sáng nầy quá khứ giống
Nếu đây chẳng hiện ánh sáng ấy
Vì sao biến hóa sánh với Phật
Kia được phước đức lại có nhân
Tùy hỷ khuyến khích cũng như vậy
Nếu có được thấy tất an lạc
Sáng ấy thấy được nơi kẻ khác
Nếu làm phước đức được an hòa
Tương tục chẳng dứt cúng dường Phật
Như Lai công đức nên vui cầu
Thấy được quang minh như vậy đó
Do như người mù chẳng thấy sáng
Chẳng rõ ngày đêm và thế gian
Vì sao mắt ấy hay thấy sắc
Mỗi mỗi pháp ghi đều rành rõ
Điều Ngự phóng sáng cũng như vậy
Rõ ràng cho thấy chẳng cho mình
Chưa rời điên đảo lời vọng tưởng
Cứu cánh chưa được ý sâu dày
Ở nơi điện báu đều tốt đẹp
Mỗi mỗi đồ riêng đều tẩm hương
Đại chúng chẳng có thể biết hết
Giống như bệnh tật khó xa rời
Điều Ngự ánh sáng cũng như thế
Sáng nầy bị che chẳng thể biết
Hư cuồng nói dối chưa trừ hết
Cứu cánh chưa thể tâm rộng lớn
Thấy được ánh sáng hay phân biệt
Thường được điều lành và an lạc
Thân kia chẳng nghi ngoài vọng tưởng
Lìa ngã tức hiểu nhiều công đức
Biến hóa chủ bạn làm trang nghiêm
Nương vào vô thượng Tam Ma Địa
Vô biên tất cả đến mười phương
Hiển thị con Phật làm chủ bạn
Mỗi mỗi ba ngàn vi trần nước
Ánh sáng trang nghiêm ngồi đài sen
Tất cả thân đều ngồi xếp bằng
Biến hóa chỉ bày Tam Ma Địa
Đây đó mười độ nhiều như thế
Liên hoa ngồi đấy các quyến thuộc
Số nhiều Phật Tử vây chung quanh
An trụ vào ra Tam Ma Địa
Phật kia hóa đạo dùng năng lực
Chúng sanh từ Phật tạo công đức
Hỗ tương vây quanh hoa sen lớn
Đồng thời chắp tay và cung kính
Pháp nầy là Đức Điều Ngự Sư
Nếu vào trong tịnh Tam Ma Địa
Được các đệ tử vây chung quanh
Giống như vì sao quanh mặt trăng
Như bị trôi vào một phương nào
Hiển thị con Phật và quyến thuộc
Tất cả trong ấy đều như thế
Biến hóa trở thành Tam Ma Địa
Phương kia lại đóng chẳng loại trừ
Tối thượng Tam Ma Địa người vào
Hoặc có từ nơi Tam Muội vậy
Tự thân hiển thị ở mười phương
Hoặc tại phương Đông trong Tam Muội
Tây phương chẳng khởi hay dao động
Hoặc ở Tây phương trong Tam Muội
Đông phương liền hiện tướng người lớn
Tức hay vào ở trong mười phương
Phương khác lại hiện các Tam Muội
Rộng hay hiện khắp trí công đức
Phật kia thần biến Tam Ma Địa
Nếu tận phương khác đều như thế
Vô số Như Lai đều lui tới
Mỗi mỗi bước chân đều kính ngưỡng
Hiện tại an lạc Tam Ma Địa
Hoặc từ Tam Muội hiện chúng sanh
Tây thiên cuối cùng đều tịch lặng
Tất cả Như Lai đều hiện tiền
Hiện làm tất cả việc cúng dường
Như vậy Tây phương đã thấy rồi
Lại đến A Tăng Kỳ nước Phật
Từ nơi dưới chân mà đảnh lễ
Được ở yên ổn Tam Ma Địa
Kia được sánh với điều chánh kiến
Tận đến Đông phương các nước Phật
Tất cả Như Lai đều hiện tiền
Lại thấy vô số sự cúng dường
Vào ở trong đây các nước Phật
Mỗi mỗi nơi chẳng có động giao
Ở trong ấy hiện các Tam Muội
Mỗi mỗi cúng dường ánh sáng Phật
Tại nơi nhãn trần và Tam Muội
Hay hiện sắc tướng các cảnh giới
Thấy được bất khả tư nghì màu
Trên trời người đời đều ngạc nhiên
Sau thấy sắc trần Tam Muội rồi
Làm phút tư duy đến nhãn trần
Tự tánh của mắt chẳng sanh diệt
Như vậy khai mở những tướng không
Hoặc ở nhĩ trần nơi Tam Muội
Hay hiện tướng lớn các cảnh giới
Nhập vào tất cả loại ngôn ngữ
Trời người hỏi đến đều ngạc nhiên
Tức thấy thanh trần Tam Muội rồi
Phán bảo suy nghĩ cảnh giới nghe
Tự tánh của nghe chẳng sanh diệt
Cho nên mở bày các tướng không
Hoặc tại Tỉ trần nơi Tam Muội
Hay hiện hương thơm các cảnh giới
Như vậy hương thơm hay bay đến
Trên trời dưới người đều ngạc nhiên
Thấy nghe hương trần Tam Muội rồi
Lại cố tư duy đến Tỉ trần
Mũi kia tự tánh chẳng sanh diệt
Cho nên khai mở chẳng tướng không
Hoặc có thiệt trần trong Tam Muội
Hay hiện lưỡi lớn các cảnh giới
Như vậy vị ngon đều phổ cập
Trên trời loài người đều ngạc nhiên
Lại được mùi ngon Tam Muội rồi
Lắng tâm tư duy nơi thiệt trần
Tự tánh của lưỡi chẳng sanh diệt
Cho nên khai mở chẳng có tướng
Hoặc có thân trần nơi Tam Muội
Hay việc xúc lớn nơi cảnh giới
Thế gian xúc trần đều biến vào
Trên trời loài người đều ngạc nhiên
Tức thấy xúc trần Tam Muội rồi
Thân trần biến đổi để tư duy
Tự tánh của thân chẳng sanh diệt
Cho nên khai mở tướng chẳng có
Hoặc có tâm trần trong Tam Muội
Hay hiện cảnh giới pháp trần lớn
Liền thấy pháp trần Tam Muội rồi
Lại hiểu suy nghĩ của tâm trần
Tự tánh của tâm chẳng sanh diệt
Cho nên khai mở tướng chẳng có
Tam Muội ví như thân trẻ con
Xuất hiện lớn lên ở lâu dài
Hiện ra tráng niên Tam Muội rồi
Lại ở cho đến thân già nua
Ở đó thân già nơi Tam Muội
Lại phát tâm làm cận sự nam
Ở nơi Tam Muội Ưu Bà Tắc
Cải đổi biến thành thân Tỳ Kheo
Trụ ở Tam Muội thân Tỳ Kheo
Tức được đa văn thân Tỳ Kheo
Trụ ở đa văn thân Tam Muội
Tức được hữu học vô học thân
Liền ở như thế thân Tam Muội
Tức được ở nơi thân Như Lai
Ở đó Như Lai thân Tam Muội
Được Phật tối thượng sắc thân đẹp
Trụ ở tối thượng thân Tam Muội
Hóa thân hiện làm thân trời người
Từ chỗ hình trời thân Tam Muội
Xuất sanh nhiều loại thân của rồng
Từ chỗ thân rồng chứng Tam Muội
Sản sinh ra thêm thân Dược Xoa
Từ chỗ thân Dược Xoa Tam Muội
Xuất sanh tất cả thân Bộ Đa
Từ chỗ thân Bộ Đa Tam Muội
Hiện đó xuất sanh một mảng bông
Từ nơi bông nầy sanh Tam Muội
Xuất sanh tất cả những loại bông
Từ chỗ tất cả nơi bông ấy
Xuất sanh một sợi lông thật nhỏ
Từ chỗ thật nhỏ tóc Tam Muội
Xuất hiện tất cả cảnh phác trần
Mỗi mỗi phác trần trong Tam Muội
Lại hay xuất hiện số vi trần
Nếu thấy mỗi trần Tam Muội rồi
Xuất sanh tất cả các vi trần
Nếu thấy mỗi mỗi trần Tam Muội
Xuất sanh biển lớn các Kim Cang
Từ chỗ Kim Cang Tam muội nầy
Xuất sanh cây Ma Ni hoa quả
Từ chỗ Tam Muội Ma Ni nầy
Xuất hiện ánh sáng lớn Như Lai
Xuất hiện tất cả nước sông biển
Từ chỗ Tam Muội nước sông biển
Lại hiện lửa trần cảnh giới lớn
Từ chỗ hỏa trần Tam Muội ấy
Xuất sanh nhớ nghĩ đến phong trần
Từ chỗ Tam Muội nơi phong trần
Xuất sanh cảnh giới Đại Địa Trần
Từ chỗ Địa Trần trong Tam Muội
Xuất sanh tất cả cung điện trời
Từ nơi cung điện sanh Tam Muội
Suy nghĩ cho đến hư không giới
Tam Muội giải thoát khó nghĩ bàn
Tức được vô biên các công đức
Lại hay chiếu rọi nhiều kiếp số
Tất cả Như Lai chẳng thể lường
Tất cả Như Lai đều nói vậy
Nghiệp quả thế gian khó nghĩ bàn
Hóa rồng mây nước Phật nhập định
Trong định biến hóa bất tư nghì
Thấy đó xuất sanh nói phần nhỏ
Từ nơi đại chúng tất kinh ngạc
Pháp sư phương tiện trí nên biết
Cho nên liền nói hãy nên hiểu
Tức được trụ nơi tám giải thoát
Thanh Văn chứng một tức thành nhiều
Hoặc là được nhiều do từ một
Xem xét hư không ánh sáng ấy
Mờ nhạt sáng lớn đều tự nhiên
Bao vây đầy đủ thành lửa lớn
Lửa xong tiêu đi đến nạn nước
Nơi pháp ngồi nằm đều an trụ
Sát na thân biến bất tư nghì
Chúng kia chẳng có tâm Đại Bi
Bồ Đề xa rời nơi thế gian
Chỉ thân biến hóa bất tư nghì
Chẳng hề lợi tha cho thế gian
Giống như trời trăng đi nơi khác
Thường hay chiếu rọi khắp mười phương
Khe hồ ao rạch đều thành suối
Tròn đầy lớn nhỏ biển sông quý
Tức hiện sắc tướng bất tư nghì
Như mặt trời chiếu sáng mười phương
Như trí giải thoát các Tam Muội
Nếu thấy Như Lai Phật như vậy
Lên bốn phía hồ đều có lính
Mỗi mỗi bên trong đều hiện hình
Có kiếm cung đao tên áo giáp
Như mưa trên cỏ đều bằng thép
Màu sắc như thế mà trang nghiêm
Thấy được Như Lai lưới quang minh
Chẳng phân giận yêu lìa nghi hoặc
Giải thoát công đức Tam Ma Địa
Trong trời ngoài biển nói tên kia
Cho đến chúng sanh ra vào biển
Nghe kia nói vậy cần nên hiểu
Tự thân ngôn ngữ đều vui vẻ
Ái lạc tham sân tạp ngôn ngữ
Tất cả tùy loại hay biết cả
Được diệu tổng trì lực của pháp
Người đời trên trời chẳng có không
Tên là thấy được Bà Nhạ Sa
Bà La Môn nữ xưng tán họ
Chí nguyện chẳng có ái si tâm
Vì chẳng đố kỵ được siêu sanh
Chỉ có biện tài ái si còn
Chẳng thể thành tựu việc làm lớn
Danh xưng xa nghe ở thế gian
Vô nhơn chẳng vui biết công đức
Dụ như trí sáng làm huyễn thuật
Hay hiện đủ loại nhiều màu sắc
Hoặc ở ngày đêm tháng một lần
Trăm năm dụ như cơn gió thoảng
Vì sao huyễn hóa sanh ái si
Thế gian biến hóa như huyễn mộng
Định huệ xa rời nơi giải thoát
Hãy biết người lành hay hoan hỷ
Trời và Tu La đều đấu tranh
Trời được Tu La tự lui bước
Binh khí lên xe cho đi khỏi
Lính tráng tự lui để đi bộ
Tu La vì vậy sinh ái si
Tự nói thân biến chẳng nghĩ bàn
Giàu có mạnh mẽ khó thể địch
Hiện thân biến hóa hay như thế
Hay giữ rồng lớn và Kim Cang
Đế Thích quyến thuộc thành voi lớn
Voi nầy hiện ba mươi ba đầu
Mỗi mỗi lại hiện ra sáu ngà
Trên mỗi ngà ấy đều có hồ
Trong hồ nước hiện đều đầy đủ
Mỗi mỗi hồ ấy bảy hoa sen
Hoa sen mỗi mỗi đều trang nghiêm
Trong mỗi hoa ấy lại hiện bảy
Thiên nữ tất cả đều nên biết
Thường hay múa hát hoặc đờn địch
Đế Thích Thiên chúng cùng hòa vui
Cũng biết tự thân là thân rồng
Được cùng tất cả mà biến hóa
Mỗi mỗi tạo tác để trang nghiêm
Hoặc lúc hiện rồng là tối thượng
Kia hiện có yêu có hờn giận
Tư do phước nghiệp hiện thần biến
Trí lực phương tiện việc tương ưng
Chẳng Tam Ma Địa chẳng nên làm
Do như La Hầu thân biến hiện
Biến thành Kim Cang ở dưới chân
Hiện thân trong biển nước đến rốn
Đầu và Diệu Cao cũng bằng nhau
Kia có yêu giận tham sân si
La Hầu thần biến lực như vậy
Ma Vương phá hoại ánh đèn thế
Nếu hiện thần biến chẳng có hạn
Đế Thích hóa hiện bất tư nghì
Trời và Tu La lúc đấu tranh
Chế phục Tu La chẳng thể biến
Kia lại hiện thân làm Đế Thích
Hay biết Tu La lực rất mạnh
Đồng thời chạy đến trước Đế Thích
Mỗi mỗi chấp trì lực Kim Cang
Tu La chấp trì mà chiến đấu
Biến hiện ngàn mắt nên sợ hãi
Ánh sáng rực rỡ chấp Kim Cang
Thân phá áo giáp dùng lực mạnh
Tu La thấy vậy mới rút lui
Kia đó phước mỏng lực chẳng đủ
Đế Thích vì Trời hiện Thần biến
Tất cả thế gian đều hay cứu
Nói thần biến nầy phước vô tận
Không trung trống trời khuyến chư thiên
Nói cho họ nghe nghiệp quả báo
Biết Trời đắm say nơi dục lạc
Trống trời vang lên để cứu độ
Quán thân vô thường chẳng dừng nghỉ
Việc nầy tự tánh chẳng hiểu hết
Như huyễn như mây và sao trăng
Vạn vật tự tánh biết như mộng
Tất cả phiền não sợ nguyên nhơn
Trừ được cam lồ lìa vô thường
Trong ấy nếu có vui say đắm
Vô thường đến sớm như cọ sát
Tất cả quyến thuộc gặp đau khổ
Thánh giả tăng trưởng về tất cả
Đắm vui muốn vui như kẻ mù
Nếu có nghe pháp thoát vô thường
Tiếng trống Đế Thích thường khuyến bảo
Và các thiên chúng nói diệu pháp
Thường hay xiển dương lời nói đẹp
Vô biên phiền não đều nói rộng
Kia hay hiện nọ không sắc tướng
Trống trời vang lên âm thanh lớn
Tùy ý chư thiên hiện nhiều màu
Rộng vì chẳng làm cho chúng sanh
Trời và Tu La lúc bấy giờ
Chư thiên do phước mà thành tựu
Tiếng trống giữa trời khuyến chư thiên
Ra đấy tiếng vang đều giống nhau
Trống trời ra lệnh sanh hoan hỷ
Được sanh xa rời binh sợ hãi
Tu La Vương chúng tự rút lui
Sát na khủng hoảng đều mất đi
Trống như cam lồ qua nhiều kiếp
Cứu độ tất cả các thế gian
Xa rời phiền não chúng Ma Vương
Chẳng thọ phiền não nói an lạc
Đế Thích Thiên nữ chín mươi hai
Hóa thân làm cho kia hoan hỷ
Mỗi một huyễn thân cũng đồng vậy
Tất cả thiên nữ hiện như nhau
Các nữ đồng thời muốn vui chơi
Nếu ở tự tại trong tháp ấy
Bởi vì mở bày diễn pháp lành
Đế Thích thần biến mỗi sát na
Đế Thích có yêu có giận si
Chỉ tự vui say với quyến thuộc
Chẳng ai nơi đời chê phương tiện
Thế gian biến hóa lìa ái dục
Ma Vương đấu tranh ở thế gian
Nhiếp phục tất cả loài chúng sanh
Phiền não nghiệp lực đều trói buộc
Ngu mê chúng sanh chẳng thể thoát
Kia đó có yêu có giận si
Tất cả thế gian Ma Vương nhiếp
Ở trong mười loại nghiệp lực ấy
Tất cả thế gian tự phá hoại
Phạm Vương cung điện ba ngàn chủ
Cho đến Phạm Vương ba ngàn điện
Phổ hiện thân nầy ở trong đó
Phạm Thiên Vương xuất âm thanh hay
Phạm Vương vì đó ở thế gian
Định biết Phạm Vương hay biến hóa
Trải qua kiếp số như sát na
Chẳng thể một niệm sanh bi trí
Qua khỏi tam tai kiếp hoại rồi
Bất tư nghì tâm các thế gian
Chúng sanh nghiệp báo tâm sanh gió
Gió hay thành tựu cõi thế gian
Bốn biển núi non cung điện trời
Rộng khắp nhiều loại ánh sáng quý
Gió hay làm mây trở thành mưa
Mưa dừng gió hết mây tự tan
Gió hay thành thục trong thế gian
An lạc nhiều người của thế gian
Kia chẳng học nơi Ba La Mật
Lại chẳng học Phật các công đức
Hay luận thế gian bất tư nghì
Duy chỉ như vậy người chưa thấy
Cho đến bay chạy các loại thú
Tiếng nữ đồng nam cùng đồng nữ
Sấm sét chấn động nghe hải triều
Chúng sanh mỗi mỗi đều hay biết
Mỗi mỗi đều nghe tiếng tự tánh
Nói rộng giải nhiều chẳng ngại gì
Sông nước nơi nơi tiếng rõ ràng
Thế gian vui vẻ với âm thanh
Như Lai biển pháp thật hy hữu
Hay nhiếp tất cả chúng như biển
Biển được của quý nước chẳng cùng
Sông nước chảy xiết chẳng hề tăng
Do như tất cả biển thế gian
Định huệ giải thoát phước vô tận
Trí huệ xuất sanh các công đức
Được phước công đức cũng chẳng tăng
Sa Ngụ La rồng hay tự tại
Từ dưới qua cõi Hóa Lạc Thiên
Rộng mưa nhuần khắp bốn đại châu
Vô số chủng chủng để trang nghiêm
Trong Hóa Lạc Thiên có Diêm Phù
Hiện mây che khắp màu êm dịu
Hoặc biến màu hồng ánh sáng trong
Thấy được nhiều trời màu tuyết vàng
Trong cõi Diệm Ma Phệ Lưu Ly
Trong cõi Đao Lợi giữ lưu ly
Bốn Đại Thiên Vương màu thủy tinh
Kiêm Cang kiên cố màu mây biển
Khẩn Na La cung phát ra mùi
Trong cung của rồng màu liên hoa
Hiền Thủ lực lớn chim màu đen
A Tu La cung màu núi đá
Trên đó ánh sáng vàng đẹp đẽ
Thành khác châu khác mỗi mỗi đẹp
Trong Thiệm Bộ Châu màu xanh bích
Màu mây mỗi mỗi tùy châu hiện
Hóa Lạc Thiên ấy mây vàng hiện
Do như ánh sáng màu mặt trời
Sắc đẹp cũng giống vành trăng lặn
Thấy được nhiều trời màu vàng tím
Trong cõi Diệm Ma mây màu vàng
Trong cõi Đao Lợi màu lưu ly
Cõi Tứ Thiên Vương màu thủy tinh
Kim Cang kiên cố màu mây biển
Khẩn Na La cung núi đầy đủ
Trong cung Long Vương màu hoa sen
Hiền Thủ đại lực chim màu đen
Cung A Tu La màu Thiết Vi
Trên đó thanh tịnh ma ni sáng
Mỗi mỗi sai biệt mà trang nghiêm
Trong Thiệm Bộ Châu nguyệt ma ni
Ánh điện chiếu đến như mây kéo
Hóa Lạc Thiên và Phạm Vương Thiên
Đồng hiện đánh trống nghe khắp cả
Thấy được nhiều trời ưa vui nghe
Trong cung Diệm Ma Thiên Nữ nghe
Tứ Đại Vương Thiên Càn Thát Bà
Tướng núi vang vọng tiếng hải triều
Khẩn Na La thổi nhạc thành tiếng
Long Cung nghe tiếng ca Lăng Tần
Trong cung Hiền Thủ tiếng Long Nữ
Trong cung Tu La nghe tiếng đàn
Người hay vui nghe tiếng sáo thổi
Trong cõi Hóa Lạc mùi hương quý
Mưa hoa mỗi mỗi đều trang nghiêm
Diệu Ma Ni nguyệt trong mặt trăng
Mạn Đà La hoa và mùi hương
Thấy được nhiều trời màu ma ni
Mỗi mỗi đồ quý được trưng bày
Như ánh mặt trăng chiếu sáng cả
Mưa rơi màu vàng dính trên áo
Nhiều loại tràng phan và bảo cái
Nghiêm trì tẩm hương và hoa báu
Màu vàng chơn châu màu y hồng
Nơi cõi Diệm Ma cũng đang mưa
Trong cõi Đao Lợi châu như ý
Tẩm hương Chiên Đàn và trầm thủy
Trời Công Cô Ma Nhị sắc đẹp
Nước hoa cùng mưa các hoa quý
Trân quý ăn uống lực tăng trưởng
Được hương mỹ vị càng vui vẻ
Mang theo đồ quý bất tư nghì
Mưa khắp Thiên Vương và Long Cung
Mưa rơi biển lớn hay liên tục
Như vậy rất nhiều chẳng cùng tận
Kho báu chẳng hết còn lớn thêm
Mưa ấy kéo dài chẳng dứt hẳn
Áo đẹp trang nghiêm đều đầy đủ
Lại mưa mùi hương và mạt lợi
Hoặc đánh êm dịu tiếng Tỳ Bà
Khẩn Na La nữ mưa Anh Lạc
Long Cung hay mưa châu màu hồng
Ngục tối ánh sáng Ma Ni bảo
Phá hoại nhà ngục cung tên bắn
Trong cung Tu La mưa kiếm nhọn
Vô giá Anh Lạc làm cho yên
Mưa cũng có loại Chiêm Ba Ca
Mưa làm tươi mát các khí cụ
Từ mưa sinh ra nhiều ánh sáng
Người Diêm Phù Đề đều hoan hỷ
Lại hay vui vẻ với mưa pháp
Cây hoa, hoa quỷ và hương hoa
Những loại như thế yên cõi người
Như thế khó hiểu mây trang nghiêm
Tiếng sấm dội nghe mưa trang nghiêm
Như vậy rồng biến khó nghĩ bàn
Loài kia ở ngay nơi biển cả
Rồng hiện biến hóa khó hiểu hết
Nếu vào pháp hải trong công đức
Vô biên biến hóa không thể đo
Nghĩa nầy ví như nói phần nhỏ
Như vậy nói đó Điều Ngự Sư
Trí dũng mãnh nầy khó thí dụ
Nếu đây hiện ở cửa giải thoát
Nói giải thoát nầy là tối thượng
Quảng đại vi diệu ý vô thượng
Được điều chưa có ý chơn thật
Như vậy trên hết ý thậm thâm
Như pháp khó làm thật hy hữu
Thế gian sở hữu người người làm
Nếu nghe tối thượng giải thoát rồi
Thế gian cung kính mà xưng tán
Chúng sanh các loài khó nghe được
Như vậy pháp nầy nên tôn trọng
Nếu hay làm phước sinh an lạc
Tự mình và người sanh cung kính
So với nhơn gian khó nghi hoặc
Trong Thanh Văn thừa chẳng sanh nghi
Bích Chi Phật thừa cũng như vậy
Lại cũng chẳng nghi các thừa khác
Ở nơi Đại Thừa thật là khó
Cung kính kinh nầy thật khó được
Vì sao đọc tụng và thọ trì
Nếu pháp nầy còn làm sao được
Giả sử ba ngàn núi và biển
Tận kiếp vị lai cũng chuyên chở
Những điều khổ nhọc chưa hề khó
Cung kính kinh nầy lại khó hơn
Ba ngàn vi trần với chúng sanh
Mỗi mỗi đều qua trước mỗi kiếp
Như vậy phước ấy cũng chưa khó
Tin được kinh nầy mới là khó
Giả sử mười lần núi và biển
Như ở trong ấy hay chấp trì
Như vậy cố gắng cũng chưa khó
Cung kính kinh nầy thật khó được
Mười giây vi trần cùng chúng sanh
Mỗi mỗi trước mặt qua kiếp số
Tối thắng phước báo cũng chưa khó
Tin được kinh nầy thật là khó
Mười cõi vi trần với Như Lai
Mỗi mỗi kiếp qua trước mặt ở
Nếu trong pháp ấy giữ đọc tụng
Lại hơn công đức Khả Dứu Đa
Tất hay hàng phục cung Ma Vương
Dẫn đường vô tội tức an ổn
Nếu trong mười phương chúa Sư Tử
Ở trong miệng ấy hiện ra cả
Trong tay an ổn trên đầu cũng
Vô biên công đức phổ kiết tường
Tất cả Như Lai trong miệng ra
Như Lai dùng tay xoa đỉnh đầu
Giải thoát pháp môn nói pháp lành
Các người nên nói rộng pháp nầy
Đừng cho pháp nầy bị đoạn tuyệt
Thế Tôn Phật nói điều ấy rồi
Xong xuôi yên lặng mà ở đó

Lúc bấy giờ 3.000 Đại Thiên thế giới, tất cả chư thiên và nhơn dân như biển cả đồng thanh nói lời rằng: Đây là lần thứ hai Đức Thế Tôn chuyển pháp luân. Lành thay, lành thay! Hy hữu thay Đức Thế Tôn! Chúng con quá khứ chưa từng nghe lời nói như chánh pháp nầy. Nếu có chúng sanh nghe chánh pháp nầy cũng thật là hy hữu, tức thời chẳng sanh vào nhà bần cùng hạ tặc, tâm được bình đẳng, do vì cúng dường cung kính cho nhiều Đức Phật. Đối với các chúng sanh nầy được thay đổi cách sống. Như tháp miếu Phật, với các chúng sanh nầy, trên trời loài người, ma vương quyến thuộc sẽ không có thể hại được. Nếu trời và người, xuất gia hoặc tại gia cho đến các Vua, Đại Thần, Trưởng Giả, Tể Quan cũng chẳng có thể hại được.

Liền lúc ấy Ngài Tôn Giả Tu Bồ Đề bạch với Đức Phật rằng: Hy hữu thay Đức Thế Tôn! Làm sao chứng được? Làm sao kinh Bảo Quang Minh nầy thực hành ở thế gian? Kinh nầy quý giá. Tất cả đều do oai thần của Đức Như Lai mà xuất hiện nơi đời. Lại nữa các chúng sanh được nghe pháp nầy cũng nhờ vào thần lực của Đức Như Lai vậy.

Lúc ấy Đức Thế Tôn lại khai kim khẩu nói với Tôn Giả A Nan rằng: Ngươi nên thọ trì! Nầy A Nan! Với chánh pháp nầy hãy nên siêng năng tinh tấn thọ trì đọc tụng.

Lúc ấy Ngài Tôn Giả A Nan liền đi nhiễu quanh Phật 3 vòng mà thưa rằng: Kính bạch Đức Thế tôn! Con nay đang thọ trì chánh pháp nầy và luôn làm cho đừng mất đi.

Sau khi Phật nói kinh nầy xong, tất cả Thánh chúng Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Diệu Cát Tường Đồng Tử, Tôn Giả Xá Lợi Phất v.v… chư Đại Thanh Văn, Trời, Người, A Tu La, Càn Thát Bà v.v… nghe Phật nói rồi, tất cả đều hoan hỷ đảnh lễ rồi lui ra.

Kinh Đại Phương Quảng Tổng Trì Bảo Quang Minh

HẾT

(TRỌN BỘ 5 QUYỂN)