KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG VÔ TƯỞNG
Hán dịch: Đời Bắc Lương, Tam tạng Pháp sư Đàm Vô Sấm, người Thiên Trúc
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN V

Chương 37: TĂNG TRƯỞNG

Bấy giờ, từ Hắc Sơn ở phương Nam, có vô lượng các Thiên tử đi đến chỗ Phật, đem các loại hương, hoa, phướn, lọng, kỹ nhạc v.v… cúng dường, đầu mặt lễ bái, nhiễu bên phải ba vòng, rồi bạch:

–Bạch Thế Tôn! Hôm nay Như Lai giảng nói kinh điển này, vô lượng vô biên Hằng hà sa chư Phật Thế Tôn ở thế giới phương Nam cũng giảng nói kinh này. Bạch Thế Tôn! Tên của kinh điển này là gì?

Phật đáp:

–Này thiện nam! Kinh điển này gồm có ba tên: Một là Đại Vân, hai là Đại Bát Niết Bàn và ba là Vô Tưởng.

Vì do Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng thưa hỏi nên gọi là Đại Vân.

Như Lai thường trụ, không có rốt ráo nhập Niết-bàn, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, cho nên gọi là Đại Bát Niết Bàn.

Thọ trì, đọc tụng kinh điển như vầy, tất đoạn trừ tất cả tưởng nên gọi là Vô Tưởng.

Này thiện nam! Có người thân cận vô lượng Hằng hà sa chư Phật Thế Tôn, thọ trì tịnh giới của chư Phật, cung kính cúng dường, tôn trọng tán thán, thành tựu đại công đức rồi sau đó mới được nghe kinh điển này. Tuy được nghe nhận nhưng không rộng nói cho người khác. Hoặc là ở nơi Hằng hà sa chư Phật Thế Tôn không thể tính, không thể đếm, thọ trì tịnh giới cho đến thành tựu đại công đức, nghe kinh này rồi, lại có khả năng phân biệt rộng nói cho mọi người.

Này thiện nam! Vào lúc chánh pháp sắp diệt, kinh này sẽ lưu hành rộng trong cõi Diêm-phù-đề.

Vào bốn mươi năm đầu, sau khi Phật Niết-bàn, kinh này cũng được lưu truyền rộng khắp.

Và hơn bốn mươi năm trước khi chánh pháp sắp diệt, kinh này cũng được lưu hành rộng rãi.

Vào khi hành ác được ưa chuộng, kinh Phương Đẳng bị hủy báng. Khi vua ác cai trị, khi các đệ của Ta hủy hoại giới cấm, khi gặp phải người đời mê loạn khinh chê, khi bốn bộ đệ tử không tu thân, không tu giới, không tu tâm, không tu tuệ, vô minh cuồng si theo thói buông lung, khi những hành vi của con người đồng với súc sinh, khi không còn nghe theo lời chỉ dạy của Hòa thượng, sư trưởng, và khi có sự chống trái với các vị Thượng tọa trưởng lão kỳ túc, thì khi đó, các đệ tử của Ta đối với kinh này không có khả năng tin nhận, lại cười cợt, cật vấn, xem thường.

Tại sao tà kiến nói là Phương Đẳng? Người cạo đầu gọi là Samôn? Tại sao trở lại đọc kinh điển tà kiến, thật chẳng phải lời dạy của Phật, mà vì lợi dưỡng nên nói đó là lời Phật dạy, ngang nhiên ở giữa chúng nói: “Như kinh đây chính là tà kiến, chẳng phải do Phật nói, cẩn thận, chớ đọc tụng, biên chép, thọ trì”.

Khi ấy, đại chúng liền cùng đáp: “Đại đức, chớ nói như vậy. Nghĩa tướng của kinh này thật sự do Phật nói”.

Nay Ta vì kinh này nên cùng nêu bày, đệ tử ấy của Ta vì cần được cúng dường mà không có tín tâm để thọ trì, đọc tụng, giảng nói, thì đó gọi là diệt pháp.

Lại nữa, này Thiên tử! Vào thời vị lai, khi chánh pháp sắp diệt, bốn bộ chúng của Ta phước mỏng, trí ít, không biết chán đủ, lui mất thiện căn, nghèo đói pháp tài, không có tâm thân gần Tam bảo Phật, Pháp, Tăng, chỉ vì việc ăn mặc mà cạo đầu, nhuộm y. Tâm họ thô ác như hàng tại gia cạo tóc, nuôi dưỡng nô tỳ, chứa cất vàng bạc, của cải, châu báu như: kha bối, lưu ly, pha lê; tích trữ lúa gạo, bò, ngựa, súc sinh, ruộng vườn, phòng xá, tọa cụ đủ màu, ăn thịt, ham mùi vị, trái bỏ chư Phật, tạo thành mười sáu thứ luật nghi bất thiện, gần gũi quan quyền hào phú, trưởng giả, nhận lãnh sứ mạng thông tin liên lạc với lân quốc; nhận người cúng dường mà lại sinh tâm ác, gây tạo tất cả pháp phi Sa-môn, pháp phi Bà-la-môn.

Này Thiên tử! Vào thời xấu ác, Tỳ-kheo xấu ác như vậy, Ta sẽ có một đệ tử trì giới thanh tịnh, thiểu dục tri túc như Tôn giả Đại Cadiếp, khéo có thể giáo hóa chúng sinh nơi cõi Diêm-phù-đề. Đối với những kẻ hành ác trong đám đệ tử của Ta, vị ấy sẽ nói những lời chân chánh, không tiếc thân mạng, mở rộng tạng bí mật sâu xa của Như Lai, tán dương những người trì giới, hành Đầu-đà, thành tựu đầy đủ Ba-lađề-mộc-xoa, khen ngợi hạnh tri túc, mặc y phấn tảo, khắp vì kẻ xấu ác mà nói như vầy: “Chư Đại đức! Thế Tôn không cho phép nhận chứa tất cả những đồ bất tịnh, tham vị, ăn thịt. Như Lai thường khen việc trì giới, quở trách việc phá giới. Đại đức, nay nếu thầy không chịu nghe lời tôi, tôi có đại uy lực, có khả năng điều phục thầy”.

Vị đệ tử này của Ta, do diệu lực của phước đức, đều khiến cho tất cả tin phục, không chống trái. Vì sao? Vì vị ấy đã từng thân gần vô lượng chư Phật Thế Tôn, rộng tu từ bi, ham thích Đại thừa, hộ trì chánh pháp.

Lúc ấy, thường có năm vạn tám ngàn các quỷ thần thiện theo bảo vệ vì nhằm hộ trì chánh pháp của Phật.

Thiên tử lại thưa:

–Bạch Thế Tôn! Vào đời vị lai, chúng con cũng sẽ hộ vệ những Tỳ-kheo trì pháp này.

Phật nói:

–Lành thay! Lành thay! Này Thiên tử! Như lời ông nói, khi pháp sắp diệt cần phải hộ trì.

Này Thiên tử! Lúc đó, Ta cũng có thể dùng uy thần nơi đạo lực hàng phục ma ác, trị các Tỳ-kheo ác. Khi ấy, vô lượng chư Phật trong mười phương cũng đồng tán thán vị đệ tử ấy của Ta.

Thế rồi, tất cả Thiên tử ở phương Nam lại đem hoa, hương cúng dường Đức Thế Tôn, rồi bạch:

–Bạch Thế Tôn! Vị đệ tử này tên gì, ở đâu và chừng nào xuất hiện?

Phật đáp:

–Này thiện nam! Khoảng một ngàn hai trăm năm, sau khi Ta Niết-bàn, tại Nam Thiên Trúc có một đại quốc vương tên Ta-da-bà-ana, vào thời gian hơn bốn mươi năm khi giáo pháp sắp diệt mất, người này xuất hiện, giảng nói kinh điển Phương Đẳng Đại Thừa, cứu giúp, làm hưng khởi giáo pháp sắp diệt, truyền bá rộng rãi kinh này ở đời, dạy người chấp trì đầy đủ, đọc tụng, biên chép, giảng giải, nghe nhận nghĩa lý của kinh. Nếu lúc ấy không thể thọ trì, giảng nói kinh điển này như vậy thì nên biết: Người ấy chẳng phải là đệ tử của Ta mà là quyến thuộc của ma.

Bấy giờ, vua Càn-thát-bà Lạc Kiến, bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn thương xót mà giảng nói về vị đệ tử trì pháp như Tôn giả Ca-diếp ở đời vị lai, thành tựu đại từ, đầy đủ tịnh giới, quyến thuộc, chủng tánh không thể chê trách.

Phật đáp:

–Này thiện nam! Hãy lắng nghe, Ta sẽ nói cho ông rõ. Vị đệ tử này của Ta giữ gìn chánh pháp, duy trì chủng tánh của Phật, là người tất cả chúng sinh đều ưa nhìn thấy.

Này thiện nam! Tại Nam Thiên Trúc có một nước nhỏ tên Tu-lạitrá, trong nước ấy có một con sông tên Thiện Phương Tiện, cạnh sông có thôn tên Hoa-man, nơi thôn nầy có Bà-la-môn sinh một đồng tử tức nay là Nhất Thiết Chúng Sinh Lạc Kiến Lê Xa. Thời sau lại gọi là Chúng Sinh Lạc Kiến. Vị Đại Bồ-tát này là bậc đại Hương tượng vương luôn được tất cả mọi người cung kính cúng dường, tôn trọng, khen ngợi. Đến năm hai mươi tuổi, xuất gia tu đạo, có nhiều đồ chúng tu trì tịnh giới, xưng tán kinh điển Đại Thừa của chư Phật, hộ trì chánh pháp không tiếc thân mạng. Các đệ tử của vị Tỳ-kheo này cũng như vậy. Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào nghe Tỳkheo này giảng nói chánh pháp thì nhất định sẽ đạt được quả vị Bồ-đề Vô thượng. Hàng quốc vương, đạt được, trưởng giả, cho đến tất cả mọi người đều vì kinh điển này mà cúng dường, cung kính vị Tỳ-kheo trì pháp. Diệu lực của kinh này đã khiến cho quốc vương đạt được đại uy lực, mọi nước khác không thể xâm lấn. Còn vị đệ tử của Ta thì quân ma không sao quấy nhiễu được.

Vào lúc ấy, nếu có người thọ trì, đọc tụng, biên chép kinh này thì được gọi là Đại Bồ-tát, là ruộng phước trong số các tịnh tăng.

Này Càn-thát-bà vương! Các đệ tử của Ta vào thời bấy giờ phần nhiều tin nhận kinh điển như thế, những người đạt được giải thoát cũng không phải là ít.

Này thiện nam! Nếu ai có khả năng thành tựu bốn việc thì có thể thọ trì kinh điển như vậy: Thứ nhất: Được nghe Tam-muội Thâm tấn đại hải thủy triều.

Thứ hai: Được nghe danh hiệu chư Phật ở phương Nam.

Thứ ba: Thân gần bậc tri thức thiện.

Thứ tư: Hết lòng tin vào Phật, Pháp, Tăng.

Nếu lúc ấy có người không thể tin nhận kinh điển này thì kẻ đó là quyến thuộc của ma. Còn nếu tin nhận thì đó là đệ tử của Phật.

Này thiện nam! Vào đời vị lai, người nào có tín tâm thì gọi là thân gần chư Phật Thế Tôn. Vì sao? Vì kinh điển như vậy là do chư Phật ấn phong. Nói ấn có nghĩa là tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, Như Lai thường trụ, không có biến đổi.

Này thiện nam! Nếu ai có khả năng tin tưởng kinh này thì nên biết người ấy chính là đệ tử của Phật. Nếu ai có khả năng cung kính vị trì pháp ấy, vào đời vị lai, người đó sẽ được làm quyến thuộc, đồ chúng của chư Phật. Vì sao? Vì vô lượng chư Phật đã sinh tâm hy hữu đối với người này. Vì sao? Vì Tỳ-kheo trì pháp ấy là không thể nghĩ bàn, ở quá khứ đã cùng Phật Nhiên Đăng phát đại thệ nguyện: Nơi đời vị lai, khi giáo pháp của Đức Như Lai Thích Ca sắp bị diệt, vào lúc ấy con sẽ xuất gia tu đạo, hộ trì chánh pháp không tiếc thân mạng.

Vua Đại Tinh Tấn Long Vương khi đó, nay tức là Lạc Kiến Lê Xa. Lạc Kiến Lê Xa này sẽ là Tỳ-kheo hộ pháp ở mai sau.

Này thiện nam! Ông nên khéo quan sát công đức ở đời vị lai nơi các vị đệ tử của Ta. Nếu ai có thể cung kính cúng dường vị đệ tử này của Ta, thì nên biết người ấy đã cung kính đối với chư Phật ở ba đời trong mười phương.

Nếu ở đời vị lai, các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưubà-di tin nhận những lời diễn nói của vị Tỳ-kheo trì pháp này, tức là tin nhận những lời giảng nói của chư Phật trong mười phương.

Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào ái kính việc không tiếc thân mạng của vị Tỳ-kheo trì pháp ấy tức là đã ái niệm sự tăng trưởng thọ mạng của chư Phật nơi ba đời trong mười phương.

Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào ở đời sau, cung kính cúng dường Tỳ-kheo trì giới pháp ấy, chuyên tâm buộc niệm, lắng nghe những điều vị Tỳ-kheo này giảng nói, không tìm cầu những thiếu sót, thì sẽ được chư Phật nơi ba đời trong mười phương tìm kiếm, hộ niệm, giữ gìn như La-hầu-la hộ niệm giới cấm.

Này thiện nam! Đối với các chúng sinh phước mỏng ở đời sau, các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nói như vầy: Than ôi! Các chúng sinh như vậy là ưa thích được thấy Tỳ-kheo nhưng thật sự chẳng phải là Tỳ-kheo mà tạo ra hình dáng Tỳ-kheo, xa lìa kinh điển của chư Phật giảng nói, tự cho mình tạo ra kinh Đại Vân, xa lìa những giới cấm do chư Phật chế, lại tự mình chế giới cấm cho chúng sinh.

Chư Đại đức! Các vị hãy lắng nghe. Nếu nói chứa nhóm vàng bạc, châu báu tức là phá giới, ai không chứa nhóm thì được gọi là trì giới. Như Lai ở nơi chốn nào giảng nói những lời ấy? Đây chẳng phải là lời Phật nói mà cho là lời Phật nói. Tại sao tôi phải không tiếc thân mạng để cung kính cúng dường những người ác như vậy? Nói lời ác mà cho đó là lời của Phật! Xướng nêu giới ác mà cho là giới của Phật.

Chư Đại đức! Tôi thật sự không thể tin nhận những lời của Tỳkheo ác này nói. Nếu ai cúng dường cho những người như vậy thì chỉ tốn công, hoàn toàn không có quả báo. Còn ai nghe những lời nói ấy, mọi tín tâm đều bị hoại diệt. Nếu ai tin nhận những lời ác này thì nên biết người đó từ chỗ tối lại bước vào chỗ tối. Còn nếu không tin nhận thì người này từ chỗ sáng bước vào chỗ sáng.

Này thiện nam! Ai tùy thuận theo lời ác này, kẻ ấy là quyến thuộc của ma. Còn ai không tùy thuận theo, đó mới chính là đệ tử của Ta.

Này thiện nam! Nghĩa lý của kinh Đại Vân này sâu kín, thâm diệu khó có thể lãnh hội. Nếu như bốn bộ chúng ở đời vị lai phước đức thuần thục, đạt được tâm Bồ-đề, siêng năng tu hành, nói như vầy: Lành thay! Tỳ-kheo chính là đệ tử của Phật, khéo trụ vào đại địa, là bậc Đại Bồ-tát, vị Đại sĩ dũng mãnh, chẳng phải là người thấp kém. Kẻ thấp kém không thể xoay chuyển trong biển cả như vậy. Chư Đại đức, các thầy có thể cùng nhau đến cúng dường Tỳ-kheo như thế!

Chư Đại đức! Nay tôi thấy Tỳ-kheo trì pháp này tức là quả báo

của vô lượng công đức nơi đời quá khứ. Tùy theo chỗ ở của vị Tỳ-kheo ấy, nên biết đất đai cùng chúng sinh tại đó, công đức cũng được trọn vẹn, an lạc, không sự lo lắng. Nếu ai thấy được Tỳ-kheo này, nên biết người ấy đã đạt đầy đủ thiên nhãn, pháp nhãn. Ta vì người ấy mà không tiếc thân mạng.

Nếu nghe những lời ấy, thà bỏ thân mạng, trọn không để quên mất. Ta thà vì một người như vậy mà không tiếc thân mạng chứ hoàn toàn không thể vì trăm ngàn vạn kẻ kết bè nhóm hành phi pháp mà xả bỏ thân mạng.

Này thiện nam! Một khi pháp ác như vậy xuất hiện, vào lúc đó, vị đệ tử này của Ta sẽ hộ trì giáo pháp của Như Lai.

Này thiện nam! Vào đời vị lai lúc giáo pháp sắp diệt, nếu có Tỳkheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào vì hộ trì chánh pháp mà không tiếc thân mạng thì người ấy được gọi là người thắp lên ngọn đèn trí tuệ, độ thoát chúng sinh, tu hành tất cả mọi hạnh của chư Phật, chắp cánh cho giáo pháp, phá trừ cảnh giới của ma, thân được tự tại, tâm được tự tại, là không thể nghĩ bàn, được hết thảy chúng sinh ái kính.

Này thiện nam! Vị Tỳ-kheo trì pháp này vào lúc giáo pháp sắp diệt, suốt sáu thời trong một ngày một đêm bảo với các chúng sinh: Các người nên cùng nhau thọ trì chánh pháp.

Các Tỳ-kheo xấu ác nghe nói thế, tâm không vui vẻ. Vì không vui nên mới nói: Đại đức! Pháp tà như vậy ai sẽ tin nhận? Im lặng là tốt. Còn nếu không im lặng được thì sẽ chấm dứt thọ mạng của ông!

Vị Tỳ-kheo trì pháp ấy lại nói: Ta thà xả bỏ thân mạng chứ trọn không im lặng.

Thế rồi, các Tỳ-kheo ác kia cùng nhau tìm đến hại vị Tỳ-kheo trì pháp ấy.

Này thiện nam! Người như vậy là đệ tử trì pháp cuối cùng của Ta. Ông nên biết, lúc ấy giáo pháp của Ta bị diệt. Nếu nói khi đó trong số đệ tử của Ta lại có người hộ trì pháp như thế thì hoàn toàn không thể có.

Vua Càn-thát-bà hỏi:

–Vị trì pháp ấy bỏ thân này rồi lại được thân gì?

Phật đáp:

–Này thiện nam! Xả bỏ thân này, vị ấy sẽ đạt được thân Phật, thân vô biên.

Vua Càn-thát-bà nói:

–Cúi xin Thế Tôn hãy vì các chúng sinh giảng nói rõ vị Tỳ-kheo ấy tại sao xả bỏ thân lại được thân Phật?

Phật đáp:

–Này thiện nam! Lành thay! Ông hãy lắng nghe, Ta sẽ giảng nói về công đức của vị đệ tử trì pháp ấy.

Trải qua Hiền kiếp này, sau khi một ngàn vị Phật diệt độ, trong suốt thời gian sáu vạn hai ngàn kiếp, hoàn toàn không có vị Phật nào xuất hiện ở đời. Thời gian này chỉ có vô lượng ức na-do-tha các vị Phật-bích-chi đang giáo hóa ở thế gian. Trải qua số kiếp như thế thì có bảy vị Phật xuất hiện. Và khi bảy vị Như Lai này nhập Niết-bàn rồi, cõi nước ấy lúc đó đổi tên là Hỷ Quang.

Tại cõi nước Hỷ Quang này có một vị Phật xuất hiện, hiệu là Trí Tụ Quang gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Người dân hiện có tại thế giới của vị Phật ấy hình dáng đoan nghiêm, thành tựu tín tâm.

Nếu người nào ở trong giáo pháp của ta, xả bỏ thân mạng để hộ trì, thì sẽ được sinh vào thế giới của vị Phật ấy và làm đại đệ tử. Đại đệ tử có nghĩa là Đại Bồ-tát, là đại trượng phu đích thật, là bậc đại Hương tượng vương. Dân chúng trong cõi đó đều không có tham dục, sân hận, si mê, tất cả đều thành tựu tín tâm thanh tịnh.

Đức Phật Trí Tụ Quang sống lâu đến mười lăm trung kiếp. Đức Phật đã vì các hàng đệ tử mở bày giáo pháp ba thừa. Tuy mở bày ba thừa nhưng phần nhiều nói về hạnh Nhất thừa của Bồ-tát. Khi ấy, tuy có Ma vương và con của ma nhưng tất cả đều phát tâm Bồ-đề. Hết thảy chúng sinh đều có đủ tâm đại từ đại bi, thảy đều xa lìa các khổ não của ba đường ác, không còn tám nạn. Thế giới thường thanh tịnh, giống như cõi Uất-đan-việt ở phương Bắc. Thiên ma Ba-tuần không thể thao túng tùy tiện và đã dứt hẳn tà kiến.

Khi Đức Phật Như Lai ấy nhập Niết-bàn, giáo pháp tồn tại đến ngàn ức năm sau đó mới diệt mất.

Nghe Phật giảng nói xong, tất cả đại chúng, các hàng trời, rồng, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, đem các loại hương hoa vi diệu, kỹ nhạc cúng dường Phật. Các vị đại đệ tử như Tôn giả Đại Ca-diếp v.v… vui mừng tán thán, cung kính đảnh lễ. Các vị Đại Bồ-tát lại đem hoa vi diệu lớn như núi Tu-di cúng dường Phật, rồi cùng nhau phát nguyện: Nguyện con sau này sinh vào thế giới của vị Phật ấy.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin Như Lai hãy vì những chúng sinh phước đức mỏng ở đời sau mà diễn nói Tam-muội Thâm tấn đại hải thủy triều.

Phật đáp:

–Này thiện nam! Nay ông chớ nên nói như vậy. Vì sao? Gặp Phật ra đời đã là khó. Nghe được kinh Đại Vân này cũng đã khó. Nếu có người biên chép, thọ trì, đọc tụng một câu, một chữ lại càng khó hơn. Vì sao phải thiên vị người đời sau? Ta sẽ mở rộng phân biệt cho khắp tất cả chúng sinh trong ba đời.

Này thiện nam! Ta vì những chúng sinh phước mỏng, tội căn sâu nặng ở đời vị lai nên mới giảng nói kinh này, mong sẽ được truyền bá rộng rãi vào đời sau.

Này thiện nam! Vào đời vị lai nếu ai có khả năng, có lòng tin, không nghi ngờ, đọc tụng một bài kệ trong kinh Đại Vân này thì người như thế rất là hiếm có.

–Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai lại nói như vầy?

–Này thiện nam! Ta cũng chẳng riêng vì đời sau mà nói. Tại sao lại phải sinh tâm nghi như vậy? Nếu ai có khả năng nghe một câu, một kệ do Như Lai giảng nói mà không sinh tâm nghi ngờ, thì người ấy thật là hiếm có trong ba đời. Vì sao? Vì chúng sinh trong ba đời khó đạt được các môn Tam-muội, Đà-la-ni tri ân báo ân. Chúng sinh đời vị lai không tri ân, cũng không thể báo ân. Do không tri ân nên tín tâm khó đạt. Tín tâm khó đạt nên Ta mới nói: Giảng nói kinh này vì đời vị lai. Nếu ai có thể đọc tụng, thọ trì một câu, một bài kệ của kinh này thì người ấy thật là hiếm có. Chúng sinh đời sau phước mỏng tội nặng nên lại nói: Nói kinh này vì đời vị lai.

Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng nói:

–Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ-tát nào an trụ vào Tam-muội Thâm tấn đại hải thủy triều thì sẽ thành tựu được vô lượng vô biên công đức. Đây chẳng phải là những điều mà các hàng Thanh văn, Duyên giác nhận biết được.

Phật nói:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Trụ vào Tam-muội này, các vị Bồ-tát ấy đạt được chỗ thật sâu xa, không thể lường tính. Ví như đại hải là nơi các dòng sông chảy về, số lượng không thể lường hết.

Này thiện nam! Đại hải như vậy còn có thể tính đếm, chứ các vị Bồ-tát thì thật không thể lường tính được. Vì sao? Vì do an trụ vào Tam-muội sâu xa ấy.

Lại nữa, này thiện nam! Nếu Bồ-tát nào trụ nơi Tam-muội này thì có năng lực dùng một sợi lông chân nhấc các đại thế giới của Hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới, cao đến vô lượng thế giới ở phương Trên, khiến cho các chúng sinh không còn có tưởng sợ hãi. Tất cả chúng sinh ở phương khác đều thấy được sự hóa độ ấy, cả đến mọi chúng sinh trong mười phương cũng đều như vậy.

–Bạch Thế Tôn! Tam-muội như thế chính là được thành tựu từ vô lượng vô biên công đức. Thế nên, Phật nói vì khắp cả chúng sinh trong ba đời.

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Thật đúng như những gì ông nói. Này thiện nam! Ví như đại hải thâu gồm tất cả nguồn nước từ các sông suối. Kinh Đại Vân này cũng như vậy, thâu gồm hết thảy vô lượng kinh điển.

Lại nữa, này thiện nam! Nếu các kinh điển nào có những Tammuội không vướng mắc như vậy, nên biết kinh ấy đã thâu gồm tất cả Tam-muội mà các hàng Thanh văn, Phật-bích-chi đạt được. So với Tam-muội này thì các Tam-muội kia không thể sánh bằng. Vì sao? Vì Thanh văn, Duyên giác không có thường, lạc, ngã, tịnh, còn Tam-muội không vướng mắc này rộng mở bày thường, lạc, ngã, tịnh của Như Lai không có biến đổi. Vì thế, không thể so sánh giữa hai loại Tam-muội ấy.

Này thiện nam! Nếu ai nghe Như Lai là thường hằng không biến

đổi mà có tín tâm thanh tịnh nên biết người ấy đã đạt được tâm Bồ-đề Vô thượng tu đạo Bồ-đề.

Này thiện nam! Nếu người nam hoặc người nữ nào muốn đạt được thường trụ, không có biến đổi, thì phải nên thọ trì, đọc tụng, biên chép, diễn nói kinh này.

Nếu ai có khả năng thọ trì, diễn nói kinh này như thế, nên biết người ấy không bao lâu sẽ đạt được quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.

Nếu ai có sinh tâm nghi ngờ, sợ hãi khi nghe nói Như Lai thường trụ, không biến đổi, nên biết người ấy không thể thấy được tướng chân thật của Như Lai. Nói tướng chân thật có nghĩa là Như Lai thường hằng bất biến, an trụ một cách yên lặng. Do vậy, người nghe không nên hồ nghi, sợ hãi, mà nên thọ trì, rộng nói cho người khác. Giảng nói như vậy nên biết pháp Phật sẽ tồn tại, không bị diệt mất.

Này thiện nam! Giống như dấu chân của tất cả chúng sinh nằm trọn trong dấu chân voi. Cũng vậy, tất cả Tam-muội cũng đều nhập vào trong kinh này.

Này thiện nam! Như tất cả núi, sông, cây cối, rừng rậm trong cõi Diêm-phù-đề, cho đến toàn bộ núi sông, cây cối, nhật, nguyệt, tinh tú trong bốn cõi thiên hạ đều nằm trọn trong ba ngàn đại thiên thế giới. Cũng vậy, hết thảy mọi công đức hiện có của các hàng phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, các vị Phật, Bồ-tát, hết thảy các thiền định Tam-muội cũng đều nằm trọn trong kinh Đại Vân này.

Nếu chúng sinh nào, ngay trong một niệm, niệm về sự thường trụ bất biến của chư Như Lai, nên biết, chúng sinh ấy tức đạt được quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.

Này thiện nam! Ví như ánh trăng mùa thu không bị mây mù che lấp. Hoặc khi bầu trời trong lành, mặt trời mới xuất hiện, ánh sáng đoan nghiêm, mọi người đều ưa thích, vì phá trừ mọi u ám tối tăm. Kinh Đại Vân này cũng như vậy, diễn ra ánh mặt trời dũng mạnh, thường hằng bất biến của Như Lai, ở tại hư không là mật ngữ thanh tịnh, phá trừ mọi ám chướng vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh của chúng sinh. Đoan nghiêm, ưa thích là dụ cho Như Lai trọn không rốt ráo nhập Niết-bàn.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như có người thân nhẹ, đi nhanh giống như Tứ phong vương, thọ mạng đầy đủ vô số ngàn năm, bay đi khắp các thế giới trong mười phương. Đi khắp nơi xong, người ấy liền trở về chỗ cũ. Như vậy, những nơi đi qua, anh ta đều dùng bảy báu và cả thân mình cúng dường Tam bảo suốt vô số ngàn năm.

Này thiện nam! Phước đức như vậy có thể tính lường được chăng?

–Bạch Thế Tôn! Không thể tính lường!

–Này thiện nam! Phước đức như vậy không sánh được với người chỉ trong một niệm nhớ nghĩ về Như Lai thường trụ, Pháp, Tăng không diệt.

Này thiện nam! Nếu lại có người nào vì lợi dưỡng, vì sợ hãi, vì thân gần mà diễn nói một câu, một chữ về sự thường hằng bất biến của Như Lai, phước đức đạt được so với công đức nêu trước thì công đức nêu trước kia không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, một phần trăm ngàn, một phần vạn, cho đến cả toán số thí dụ cũng không thể nào kịp.

Này thiện nam! Ví như cây thuốc, nếu có chúng sinh lấy nhánh, hoặc lấy thân, lá, hoa, quả, vỏ v.v… thì cây này cũng không sinh niệm: lấy nhánh, chớ lấy thân; lấy thân chớ lấy lá; lấy lá chớ lấy hoa; lấy hoa chớ lấy quả; lấy quả chớ lấy vỏ; mà ngược lại, tùy theo cách dùng cho từng loại người bệnh, khiến bệnh tình của tất cả chúng sinh càng mau chóng bình phục. Hoặc là trộn với nước, hoặc là trộn với sữa, hoặc nghiền thành bột, hoặc vo thành viên, hoặc bôi, hoặc uống, thảy khiến lành bệnh.

Kinh Đại Vân này cũng như vậy. Không quán chúng sinh hoặc nêu lên một bài kệ, hoặc nửa bài kệ, một tên, một nghĩa, một câu, nửa câu, tin nhận hai chữ, hoặc nói Như Lai thường, cũng không quan sát chúng sinh có tu Tam-muội Thâm tấn đại hải thủy triều, hoặc có tu đại từ, đại bi hay không, thảy đều khiến đoạn dứt các bệnh khổ nơi ba cõi ác.

Như Lai cũng không quan sát: Chúng sinh lấy một bài kệ, không nên lấy nửa bài kệ; lấy nửa bài kệ, không nên lấy tên; lấy tên, không nên lấy nghĩa; lấy nghĩa không nên lấy câu; lấy câu không nên lấy nửa câu; lấy nửa câu cho đến hai chữ v.v… mà Như Lai đều khiến cho bốn bộ chúng xa lìa ba nẻo ác.

Này thiện nam! Người đời sau không tu thân, không tu giới, không tu tâm, không tu tuệ, khinh chê, vì tìm lỗi lầm, cho đến do lợi dưỡng, ít đọc tụng, biên chép, nghe nhận… cũng được xa lìa vô lượng nghiệp ác, dứt hẳn các thứ bệnh tham dục, sân hận, ngu si.

Này thiện nam! Giống như khi ánh dương xuất hiện phá tan băng tuyết, kinh Đại Vân này cũng như vậy, nói Như Lai thường trụ có khả năng phá tan tất cả băng tuyết vô thường.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như gió mạnh nổi lên giữa hư không, thổi qua thân chúng sinh, nhập vào các lỗ chân lông, có khả năng trừ hết chứng bệnh nóng bức, thân được thư thái. Hư không dụ như kinh Đại Vân. Gió mạnh nổi lên dụ cho Như Lai thường trụ. Gió nhập vào lỗ chân lông dụ cho các chúng sinh đều có Phật tánh. Trừ bệnh nóng bức dụ cho đoạn dứt tâm của hàng Thanh văn, Phật-bích-chi.

Lại nữa, này thiện nam! Nếu ai có khả năng đọc tụng, thọ trì kinh điển này, hoàn toàn không vì quả vị Tu-đà-hoàn. Hộ trì giới cấm hoàn toàn không vì hướng Tư-đà-hàm hay đạt quả vị Tư-đà-hàm, hướng Ana-hàm hay đắc quả vị A-na-hàm, hướng A-la-hán hay đắc quả vị Ala-hán. Hộ trì giới cấm nếu là hướng Phật đạt lấy quả vị Vô thượng, thì người ấy được gọi là người trì giới cấm chân chánh, chứ chẳng phải vì ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp mà hộ trì giới cấm.

Nếu vì sự không thể nghĩ bàn của Như Lai mới gọi là hộ giới. Như Lai chẳng phải vì trụ tâm, tu tập vô lượng Tam-muội, cũng không vì trụ tâm tu tập cùng với chư Phật, cũng lại không vì trụ tâm tu tập vô lượng nhân quả, không vì trụ tâm tu tập vô lượng công đức của chư Phật. Như Lai trụ nơi không chỗ trụ, gọi là thật tướng.

Nếu xem thường ấn chứng vô thượng của Như Lai thì không gọi là hộ giới. Nếu nói Như Lai vì ấn này mà gọi là người hộ giới, thì đối với việc ấy ông nên cẩn thận, chớ sinh lòng nghi ngờ.

Như Lai vô tướng nên gọi là hộ giới. Nếu nói Như Lai vì tướng ấy mà gọi là người hộ giới, ông cũng đừng sinh lòng nghi ngờ.

Như Lai vô chủng hảo nên nên gọi là hộ giới. Nếu nói Như Lai vì chủng hảo mà gọi là người hộ giới, ông cũng đừng sinh lòng nghi ngờ.

Như Lai chẳng phải là nhân duyên thần thông nên gọi là hộ giới. Như Lai chẳng phải là mật tạng nên gọi là hộ giới.

Như Lai chẳng phải là ruộng phước vô thượng nên gọi là hộ giới.

Như Lai chẳng phải là tạng Như Lai nên gọi là hộ giới.

Như Lai vì đoạn trừ tất cả sự khổ não bức bách của sinh, già, bệnh, chết nơi chúng sinh nên gọi là hộ giới.

Vì muốn đem lại an lạc cho các chúng sinh nên gọi là hộ giới.

Vì đoạn dứt sự ràng buộc của sinh tử cho chúng sinh nên gọi là hộ giới.

Vì khiến cho chúng sinh chuyên hướng đến đạo Bồ-đề vô thượng nên gọi là hộ giới.

Vì các chúng sinh mà đạt quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng nên gọi là hộ giới.

Vì các chúng sinh mà chuyển bánh xe pháp nên gọi là hộ giới.

Vì khiến cho tất cả chúng sinh đều đạt danh tự Thánh tăng nên gọi là hộ giới.

Vì khiến cho chúng sinh không đoạn chủng tánh bậc Thánh của Như Lai nên gọi là hộ giới.

Vì khiến cho tất cả chúng sinh không đoạn Pháp, Tăng nên gọi là hộ giới.

Vì khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc Tam-muội thiền định, trí tuệ, giải thoát nên gọi là hộ giới.

Vì khiến cho chúng sinh đều đắc tịnh giới đầy đủ không thiếu nên gọi là hộ giới.

Như Lai vô giới nên gọi là hộ giới.

Đoạn tất cả giới nên gọi là hộ giới.

Như Lai chẳng có giới này nên gọi là hộ giới.

Chẳng phải không có giới này nên gọi là hộ giới.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu nói Như Lai không hộ giới, nghĩa ấy như thế nào? Nếu nói Bồ-tát trụ vào Tam-muội Thâm tấn đại hải thủy triều, không hộ giới, nghĩa ấy như thế nào? Như Lai chẳng phải vì ấn vô thượng nên gọi là hộ giới, nghĩa ấy như thế nào?

Phật đáp:

–Này thiện nam! Vị Đại Bồ-tát kể từ lúc trụ vào Tam-muội này trở đi, ban đầu chưa từng trụ vào nơi pháp hữu vi nên thành tựu đầy đủ tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì Tam-muội này đều đã thâu gồm tất cả pháp Phật.

Này thiện nam! Giống như đại bảo tụ có ngọc lưu ly xanh, màu sắc thanh tịnh, hễ ai nhìn vào không sinh lòng hồ nghi. Vị Đại Bồ-tát kể từ lúc được trụ vào Tam-muội ấy trở đi tức thấy Phật tánh một cách rõ ràng, không còn sự hồ nghi. Vì sao? Khi đã thấy rõ ràng mà còn hồ nghi, điều ấy không thể nào có được. Cảnh giới của Như Lai là không thể nghĩ bàn. Thiện nam! Bồ-tát trụ vào Tam-muội này thì thành tựu đầy đủ công đức của chư Phật.

–Bạch Thế Tôn! Vị Đại Bồ-tát trụ vào Tam-muội này có được rốt ráo không?

–Này thiện nam! Ông không nên hỏi vị Bồ-tát này có được rốt ráo không? Vì sao? Vì tất cả chúng sinh đắc Tam-muội này thảy đều thành tựu rốt ráo tận cùng quả vị Bồ-đề Vô thượng rồi, sao lại hỏi Bồtát này có được rốt ráo hay không?

–Bạch Thế Tôn! Như vậy, Tam-muội ấy thật là hiếm có. Nếu các chúng sinh không được nghe nhận, thật là đáng tiếc. Nếu ai được nghe thì nên biết người ấy đạt được lợi ích lớn lao.

Phật nói:

–Lành thay! Lành thay! Nếu ai nghe tên Tam-muội này thì nên biết người ấy là bậc trên trong loài người. Ví như vương tử Tộc Tánh đoan nghiêm, uy nghi dũng mãnh, hào phóng, trì giới thanh tịnh, không thể chê trách, mọi người đều yêu mến, quyến thuộc kính trọng, thống lãnh đất nước, dân chúng quy thuận. Vị Đại Bồ-tát trụ vào Tam-muội này cũng như vậy, đều thành tựu công đức của chư Phật.

Này thiện nam! Giống như hàng Chiên-đà-la hoàn toàn không thể làm vua. Nếu họ làm vua, việc ấy không thể có. Vì sao? Vì họ sẽ bị các tộc họ trên chê cười, chế nhạo. Cũng vậy, nếu có chúng sinh không hay thọ trì, đọc tụng, biên chép Tam-muội này, mà muốn thành tựu mọi công đức vi diệu của chư Phật thì không thể có được. Vì sao? Vì người ấy sẽ bị tất cả chư Bồ-tát chê cười.

Này thiện nam! Nay ông nên quán các vị Bồ-tát an trụ vào Tam-

muội này, có khả năng biết được Như Lai thường hằng bất biến. Nếu ai không thể trụ vào Tam-muội ấy thì không thể biết được Như Lai thường hằng không biến đổi. Vị Đại Bồ-tát nào vì các chúng sinh mà thọ trì, đọc tụng Tam-muội này thì sẽ đạt được đầy đủ Đàn Ba-la-mật. Vì sao? Vì Bồ-tát này thấy ai cầu xin thì tùy theo sự yêu cầu mà ban cho, hoặc đầu, mắt, tủy, não, các bộ phận tay chân, hoặc quốc thành, vợ con, nô tỳ, hầu bộc, voi, ngựa, bảy thứ châu báu… cả đến thân thể còn cho huống gì là những của báu bên ngoài. Khi cho thì vui vẻ, cho rồi không hối tiếc.

Đối với quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng – dù đắc hoặc không đắc – tâm không nghi ngờ, lo lắng, hoàn toàn không vì quả báo mà hành bố thí, nên nếu nói: Vì quả báo mà bố thí, thì không thể có được. Không vì tham mà hành bố thí, trái lại, vì thương xót mà ban ơn, bố thí, vì Như Lai là thường hằng, vì hộ pháp, vì muốn đầy đủ Đàn Bala-mật, diễn nói sự thường hằng bất biến của Như Lai mà ban ơn, bố thí.

Lại nữa, này thiện nam! Vị Bồ-tát nào trụ vào Tam-muội ấy rồi thì có thể biết tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, Như Lai thường hằng, không có biến đổi. Khi trụ vào Tam-muội ấy, vị Đại Bồ-tát thường quán như vầy: “Nay thân này của ta là không, là không thật có, đã đạt lợi ích lớn lao vô thượng. Nay ta đem mọi bộ phận tay, chân, đầu, mắt, tủy, não, da trong, da ngoài, máu, thịt… bố thí cho người để đời sau đạt được quả vị Bồ-đề Vô thượng.

–Bạch Thế Tôn! Vị Đại Bồ-tát trụ vào Tam-muội ấy, tại sao lại quán thân như vậy?

–Này thiện nam! Vị Đại Bồ-tát ấy không thấy thân này có tới lui, ngồi nằm, chỉ giống như bình rỗng. Thế nên Bồ-tát quán thân là vắng bặt, máu thịt, xương tủy gọi là thân không. Chư Bồ-tát trụ vào Tammuội ấy, đạt được thân phi máu thịt xương tủy, thành tựu pháp thân không gọi là thực thân.

–Bạch Thế Tôn! Pháp thân của Như Lai không gọi là thực thân, nghĩa ấy là sao? Pháp thân không hình dáng, không thể nhìn thấy, thế làm sao giáo hóa được chúng sinh? Như Lai thường nói trong các kinh ví như chim bay trong hư không, không để lại dấu vết. Pháp thân của Như Lai cũng như vậy, không tới, không lui, không chuyển, không nói, không thể hủy hoại.

*********

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Ông chớ nói như vậy.

–Như Lai thường hóa ra thân chúng sinh nên gọi là Hóa thân, nghĩa ấy như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Như Ngài đã nói: Trụ vào Tam-muội này thì đạt được Pháp thân, thế tại sao lại nói là thân biến hóa? Pháp thân của Như Lai nếu vì giáo hóa mà làm thân tạp thực, tại sao thân này chẳng phải là hư vọng? Chân pháp thân tại sao làm thân tạp thực? Nếu nói là thân tạp thực, nghĩa ấy thật chẳng phải vậy.

Phật đáp:

–Thôi, thôi! Chớ nói thế. Nếu Đại Bồ-tát nào trụ vào Tam-muội ấy mà có hóa thân thì thân ấy được gọi là huyễn thân.

–Bạch Thế Tôn! Tại sao điên đảo đem thân chẳng phải thân này gọi là thân? Gọi vật không phải vật là huyễn? Nếu nói là thân huyễn, tại sao lại được làm thân chúng sinh không lừa dối?

Phật đáp:

–Này thiện nam! Chớ quán như vậy. Trụ vào Tam-muội ấy vị Đại Bồ-tát không có thân trụ. Tuy không thân trụ nhưng cũng như cây thuốc chúa, như cây cỏ, gạch ngói. Thân Ta cũng vậy. Vì sao? Vì thân Ta không ngã, không ngã sở, không mạng, không ngữ, không tâm, không thật, không ấm, giới, nhập. Giống như cây thuốc có khả năng tiêu trừ tất cả bệnh khổ của chúng sinh, thân Ta cũng vậy, trừ diệt vô lượng bệnh khổ của chúng sinh. Vì sao? Vì thân như huyễn không thật.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như cây thuốc hoàn toàn không sinh ý niệm: Ngắt lá, đừng bẻ cành của tôi”. Đại Bồ-tát cũng như vậy, hoàn toàn không sinh tâm niệm: “Lấy tay, chớ lấy chân của tôi”. Vì sao? Vì Tam-muội này có năng lực trừ dứt tất cả bệnh tham dục, sân hận, ngu si của chúng sinh. Trụ vào Tam-muội ấy, vị Đại Bồ-tát không có thân bên trong, không có thân bên ngoài, không thân trong ngoài, không thân sinh tử mà đạt được thân cam lồ. Thân cam lồ có năng lực dứt trừ bệnh tham, sân, si của chúng sinh.

Lại nữa, này thiện nam! Trụ vào Tam-muội ấy, Đại Bồ-tát biến ra hóa thân, là vì đoạn tất cả các loại chim muông ác, cùng ba nẻo ác, giống như cây thuốc. Nếu có ai nói các loài chim muông ác gặp thân Bồ-tát mà bị đọa vào ba đường ác thì điều ấy không thể có. Nếu nói xả thân chuyển đến cõi trời, người, gặp được chư Phật, điều ấy thật sự là có.

Lại nữa, này thiện nam! Nếu nói bốn bộ chúng trụ vào Tam-muội ấy, được thân gần vô lượng chư Phật, điều đó là đúng.

Lại nữa, này thiện nam! Các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bàtắc, Ưu-bà-di nếu muốn tu tập Tam-muội ấy, trước hết nên tư duy: “Như Lai thường hằng, không có biến đổi, pháp Phật không diệt, không có rốt ráo nhập vào Niết-bàn”. Lại nghĩ như vầy: “Tất cả chúng sinh cần những thứ gì, ta sẽ cung cấp cho những thứ ấy, hoặc là chân, hoặc là tay, hoặc đầu, hoặc mắt… Vì chánh pháp, ta đều xả bỏ tất cả. Khi xả bỏ thì vui vẻ, không hối tiếc. Vì sao? Vì thân này của ta giống như cây thuốc”.

Nếu ai có khả năng khởi một niệm tư duy như vậy thì nên biết, không bao lâu người ấy đạt được Tam-muội này.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như tuấn mã bờm đuôi mịn dài, vào ngày mười lăm bố-tát, ở trong đại hải cất lên ba tiếng kêu đầy tình thương: “Ai muốn qua biển, ai muốn qua biển?”.

Hoặc có những người cỡi trên lưng, hoặc nắm đuôi, bờm, trán, cổ, đầu, cẳng v.v… tất cả đều đến được bờ kia của biển cả.

Kinh Đại Vân này cũng như vậy. Nếu ai có khả năng thọ trì, đọc tụng, giảng nói, biên chép cho đến chỉ một câu, một chữ, thì tất cả đều vượt qua bờ kia của biển ba ác, hoàn toàn được giải thoát.

Lại nữa, này thiện nam! Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào được nghe tên Tam-muội này thì đời đời thường được làm Chuyển luân Thánh vương, Đế thích, Phạm vương, hoàn toàn không thoái chuyển, thường được thân gần Phật, Pháp, Tăng; đối với tâm Bồ-đề vững chắc không lay động, không rời bỏ kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng.

–Bạch Thế Tôn! Tại sao Bồ-tát trụ vào Tam-muội này đối với tất cả pháp có được nhận thức chân chánh?

–Này thiện nam! Nếu có ai thành tựu được Tam-muội này, thấy Như Lai vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, rốt ráo Niết-bàn, thì không được gọi là sự thấy biết chân chánh.

Nếu thấy Như Lai thường, lạc, ngã, tịnh, trọn không rốt ráo nhập vào Niết-bàn, như vậy mới gọi là sự thấy biết chân chánh.

–Bạch Thế Tôn! Như Ngài đã nói: Nếu thấy Như Lai thường, lạc, ngã, tịnh, ý nghĩa ấy như thế nào?

–Này thiện nam! Thường, lạc, ngã, tịnh tức là tánh chân thật của Như Lai.

–Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy, tất cả phàm phu cũng có thể thành tựu thật tánh như vậy. Vì sao? Vì kẻ phàm phu cũng chấp vào thường, lạc, ngã, tịnh.

–Này thiện nam! Nay ông không nên nói như thế. Ta nói: Bồ-tát đạt đủ Tam-muội ấy mới có thể thấy được thường, lạc, ngã, tịnh. Vì vậy, chớ nên nói chỗ chấp điên đảo của hàng phàm phu về thường, lạc, ngã, tịnh.

–Bạch Thế Tôn! Như Ngài nói: Nếu ai thấy các pháp vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh thì người ấy thấy được thượng đạo, hạ đạo, đắc quả Tu-đà-hoàn, cho đến đắc quả vị Bồ-đề Vô thượng. Nếu như thấy các pháp thường, lạc, ngã, tịnh thì không thể nào đạt được quả Tu-đàhoàn, cho đến quả vị Bồ-đề Vô thượng. Thế tại sao Thế Tôn nói: Bồtát thành tựu Tam-muội này thì thấy được thường, lạc, ngã, tịnh?

Lại như Phật nói: Giải thoát đích thật giống như hư không. Như vậy, giải thoát tức là Niết-bàn, tại sao Như Lai nói: Niết-bàn thường, lạc, ngã, tịnh? Tất cả chúng sinh cũng như hư không, không trăng dưới nước, mộng huyễn, như cây chuối, mây, ánh chớp, không, vô tánh, tướng, không được tạm trụ, giống như vẽ trong nước, vẽ đâu hợp đó, thấy hiểu vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Thấy tướng như vậy gọi là cái thấy chân chánh. Người thấy chân chánh đạt được quả vị Tu-đàhoàn cho đến quả vị Bồ-đề Vô thượng, tại sao Như Lai lại nói: Bồ-tát thành tựu Tam-muội này mới thấy được thường, lạc, ngã, tịnh?

Như Ngài đã nói ở trước, chư Phật Như Lai quán tất cả pháp vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, không có thọ mạng, sĩ phu, chúng sinh, hoàn toàn không có gì cả. Đó gọi là tánh chân thật của các pháp. Thế mà nay Ngài lại nói: Thấy tất cả pháp thường, lạc, ngã, tịnh. Vậy nghĩa là sao?

–Này thiện nam! Thôi, thôi! Chớ nói như vậy.

Này thiện nam! Nếu Bồ-tát nào thành tựu đầy đủ Tam-muội này thì không còn hòa hợp với các pháp nữa. Không hòa hợp nên gọi là hộ giới, tu tập Tam-muội. Đại Bồ-tát không thấy tướng đoạn, tướng thường của các pháp. Không thấy đoạn nên không sinh vui vẻ. Không thấy thường nên không sinh lo buồn. Vì biết pháp ấn chẳng là hộ giới, cũng không được gọi là tu tập Tam-muội.

Như Lai không chấp trước nơi hộ giới hay hủy giới, thường hay vô thường, hiểu hay không hiểu, làm hay không làm, tịnh hay không tịnh, không hay bất không, giới hay chẳng phải giới, biết hay chẳng phải biết, danh hay chẳng phải danh, lấy hay chẳng phải lấy, sợ hay chẳng phải sợ, hãi hay chẳng phải hãi, nhân hay chẳng phải nhân, diệt hay chẳng phải diệt, Bồ-đề hay chẳng phải Bồ-đề, giải thoát hay chẳng phải giải thoát, Niết-bàn hay chẳng phải Niết-bàn…

Tất cả các pháp không có sợ hãi, vì giải thoát nên hộ trì giới cấm, tu tập Tam-muội. Tất cả các pháp không có lui mất. Bồ-tát biết vậy, tâm tư an vui, tu Tam-muội này, giảng nói cho các chúng sinh. Phật Như Lai là thường hằng, bất biến, chánh pháp không diệt mất, thế nên hộ giới, tu tập Tam-muội.

Lại nữa, này thiện nam! Nếu ai muốn đạt được Tam-muội này phải nên tu tập tưởng về thường, tưởng về ngã, thường về mạng, tưởng về nhân. Tu tập những tưởng này thì thành tựu đầy đủ Tam-muội ấy. Do đó, nếu nói không đạt được thì không có chuyện đó.

–Bạch Thế Tôn! Như Lai hoặc nói vô thường, vô lạc, vô ngã, vô

tịnh, hoặc có khi lại nói thường, lạc, ngã, tịnh. Nghĩa ấy như thế nào?

–Này thiện nam! Đạo thế tục lầm thấy các pháp là thường, lạc, ngã, tịnh nên Ta mới nói là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh.

–Bạch Thế Tôn! Pháp xuất thế có thường, lạc, ngã, tịnh không?

–Này thiện nam! Nếu Bồ-tát trụ vào Tam-muội này, khi muốn nói về ngã thì trước hết phải nói năm việc:

  1. Hạt (cốc tử).
  2. Cây (thọ tử).
  3. Vị béo (phì vị).
  4. Ẩn núp (phục tàng).
  5. Da rắn (xà bì).

Này thiện nam! Như hạt, khi nẩy mầm, khi ra thân, khi ra lá, khi trổ hoa, gọi là vô thường. Nếu thu lấy quả, hạt, chúng sinh thọ dụng được, gọi là thường.

Đại Bồ-tát nào nếu chưa thành tựu Tam-muội này thì gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu đã thành tựu thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.

Chưa có khả năng độ thoát tất cả chúng sinh, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng độ thoát thì được gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.

Không có khả năng phá trừ tất cả tà kiến, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng phá trừ tất cả tà kiến gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.

Không có khả năng dứt hẳn mọi phiền não, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.

Này thiện nam! Đó gọi là Hạt (Hạt thóc, lúa).

Lại nữa, này thiện nam! Như cây Am la khi chưa ra quả, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu ra quả, chúng sinh lấy dùng được, thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.

Đại Bồ-tát nào chưa thành tựu được Tam-muội này thì gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu thành tựu được, gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.

Nếu chưa có khả năng độ thoát các chúng sinh, gọi là vô thường,

vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng độ thoát, gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.

Không có khả phá trừ tất cả tà kiến, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng phá trừ tất cả tà kiến thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.

Không có khả năng dứt hẳn mọi phiền não, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng dứt hẳn thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.

Này thiện nam! Đó gọi là Cây.

Lại nữa, này thiện nam! Như hạt hồ ma khi chưa thành dầu, không thể tiêu trừ bệnh khổ cho chúng sinh, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu thành dầu rồi, có khả năng tiêu trừ mọi bệnh khổ cho chúng sinh thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.

Đại Bồ-tát nào chưa thành tựu được Tam-muội này thì gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu thành tựu được, gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.

Nếu chưa có khả năng độ thoát các chúng sinh, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng độ thoát thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.

Không có khả phá trừ tất cả tà kiến, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng phá trừ tất cả tà kiến thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.

Không có khả năng dứt hẳn mọi phiền não, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng dứt hẳn thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.

Này thiện nam! Đó gọi là Vị béo (Phì vị)

Lại nữa, này thiện nam! Như kho báu ẩn núp trong lòng đất, không thể làm thấm nhuần lợi ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu ra khỏi lòng đất, chúng sinh lấy dùng, được lợi ích lớn thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.

Đại Bồ-tát nào chưa thành tựu được Tam-muội này thì gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu thành tựu được, gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.

Nếu chưa có khả năng độ thoát các chúng sinh, gọi là vô thường,

vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng độ thoát, gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.

Không có khả phá trừ tất cả tà kiến, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng phá trừ tất cả tà kiến thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.

Không có khả năng dứt hẳn mọi phiền não, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng dứt hẳn thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.

Này thiện nam! Đó gọi là Bảo tạng (Phục tàng)

Lại nữa, này thiện nam! Giống như da rắn, khi chưa lột da gọi là gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu lột da rồi thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.

Đại Bồ-tát nào chưa thành tựu được Tam-muội này thì gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu thành tựu được, gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.

Nếu chưa có khả năng độ thoát các chúng sinh, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng độ thoát, gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.

Không có khả phá trừ tất cả tà kiến, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng phá trừ tất cả tà kiến thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.

Không có khả năng dứt hẳn mọi phiền não, gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Còn nếu có khả năng dứt hẳn thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.

Lại đoạn dứt bốn thứ tâm nghi ngờ nơi chúng sinh đã khởi lên đối với Phật, gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.

Này thiện nam! Đó gọi là Xà bì (da rắn).

Này thiện nam! Đại Bồ-tát trụ Tam-muội này dựa vào năm việc ấy mà diễn nói Như Lai là thường, lạc, ngã, tịnh, có thể nói về ngã, nhân, thường, chúng sinh, sĩ phu. Có khả năng thấy như vậy gọi là chánh kiến.

–Bạch Thế Tôn! Như Lai đã nói về năm việc ấy, nghĩa đó không phải như vậy. Vì sao? Như Lai thường nói trong các kinh, các pháp là vô thường như năm việc vừa nêu, nhân cũng vô thường, quả cũng vô thường. Nếu khiến Bồ-tát trụ vào Tam-muội này như năm việc ấy thì cũng phải là vô thường. Do ý nghĩa đó, tất cả các pháp đều là vô thường.

Bạch Thế Tôn! Có nhân tất có quả, có quả tất có nhân. Tất cả chúng sinh cùng với các vị Bồ-tát cũng như vậy. Có sinh ắt có tử, có tử ắt có sinh. Nếu như thế thì thường cũng vô thường, vô thường cũng là thường. Do ý nghĩa đó, tất cả các pháp đều có hai tánh: thường và vô thường. Chớ nên khẳng định thế pháp vô thường, pháp xuất thế là thường. Như Lai nói lời chân thật, tại sao lại phát ra những lời hư vọng ấy?

–Này thiện nam! Tại sao ông nay như con tằm tự trói buộc mình trong kén vậy?

Này thiện nam! Nếu có ai nói: “Người đoan nghiêm giống như mặt trăng tròn. Hương tượng đẹp trắng giống như núi Tuyết”, người thật ra chẳng phải mặt trăng, voi chẳng phải là núi Tuyết, phần nào có điểm giống nhau nên dẫn làm ví dụ.

Này thiện nam! Năm việc thế gian cũng như vậy, có phần nào đó là thường nên dẫn làm ví dụ. Thật ra, chư Phật Như Lai là không thể ví dụ. Giống như là dẫn ví dụ để làm ví dụ.

–Bạch Thế Tôn! Nếu Như Lai thường thì tại sao Như Lai lại nói trong các kinh khác là giống như ngọn đèn tắt mất. Giải thoát cũng vậy?

Bạch Thế Tôn! Nếu Như Lai thường, sao gọi là diệt mất? Còn diệt mất, sao gọi là thường? Nếu Như Lai nói: Cũng vừa thường, cũng vừa diệt thì đấy há chẳng phải là lời nói hư vọng sao?

Lại nữa, như Ngài đã nói: Tất cả các pháp giống như ánh trăng dưới nước, nếu các pháp là thường thì tại sao lại nói giống như ánh trăng dưới nước?

–Này thiện nam! Ta nói pháp hữu vi như ánh trăng dưới nước, thế nên Ta mới có pháp thường, có pháp vô thường:

Nếu có chúng sinh nào chưa được giải thoát, chưa đoạn trừ phiền não, chưa dứt bỏ danh, tướng, chưa đoạn dứt tướng chúng sinh, chưa đạt pháp tướng, chưa được tu tập Tam-muội này thì gọi là vô thường. Còn nếu chúng sinh nào đã được giải thoát, đã dứt hẳn phiền não, danh, tướng, tướng chúng sinh; đã đạt được pháp tướng, đã tu tập được Tam-muội này thì gọi là thường.

Vì vậy, mới nói có pháp thường và pháp vô thường.

–Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thì tại sao Như Lai nói Phật Niếtbàn giống như ngọn đèn tắt mất?

–Ngọn đèn tắt mất là dụ cho thân diệt, là dụ cho sự ràng buộc bị diệt. Giống như dầu không lìa đèn và đèn cũng không lìa dầu. Chúng sinh cũng vậy, thân không lìa sự ràng buộc, sự ràng buộc cũng không lìa nơi thân.

–Vậy tại sao nói là diệt?

Phật đáp:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Nếu thấy như vậy, gọi là cái thấy chân chánh.

Này thiện nam! Thân có hai loại: Thân phiền não và Pháp thân. Thân phiền não diệt, giống như ngọn đèn tắt mất, thế nên Ta nói là có pháp vô thường.

Pháp thân không diệt, giống như hư không, thế nên Ta nói là có pháp thường.

Đoạn trừ mọi thứ phiền não chất chứa gọi là giải thoát. Được giải thoát khỏi thân vô thường thì chư Phật Thế Tôn là đoạn kiến.

Nếu các thứ phiền não chất chứa là thường không diệt, thì chư Phật Thế Tôn là thường kiến.

Do trải qua vô lượng a-tăng-kỳ kiếp đoạn hai kiến chấp này, nên chư Phật Thế Tôn chắc chắn không còn hai kiến: thường – đoạn.

Nếu Như Lai có tướng chúng sinh thì phải là vô thường. Như Lai đã trải qua vô lượng kiếp đoạn tướng chúng sinh. Nếu nói Như Lai có tướng chúng sinh thì hoàn toàn không có chuyện đó.

Này thiện nam! Ví như đại vương xuất cung đi tuần. Khi ở ngoài cung, thì trong cung không thể thấy. Trong cung tuy không thấy, nhưng không thể nói là không có vua. Bên ngoài cũng như vậy.

Đại Bồ-tát trụ vào Tam-muội này thì đã đoạn vô thường. Do vì chúng sinh nên mới thọ thân vô thường. Nếu nói thân Như Lai vô thường, hoàn toàn không có chuyện đó.

Do vậy, Ta nói thường cùng với vô thường, nói ngã với vô ngã,

nói chúng sinh với phi chúng sinh, nói nhân với phi nhân, nói mạng với phi mạng, nói sĩ phu với phi sĩ phu. Như Lai thường nói pháp hữu vi đều là vô thường, chứ không nói là thường. Nếu nói thường, chuyện đó hoàn toàn không có.

Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát trụ vào Tam-muội này, đoạn trừ các thứ kiến chấp của thế gian, kiến chấp về thọ mạng, kiến chấp của hàng Nhị thừa, không có tham ái, không lấy, không cầu, thường hằng không biến đổi, thành tựu an trụ, được vô sở úy, không có kiêu mạn, không bị cấu nhiễm. Vì thế, Ta nói là thường, lạc, ngã, tịnh.

Này thiện nam! Ta nói Thanh văn, Phật-bích-chi thừa, tất cả người đời không thể nào lãnh hội được. Mặc dù họ không hiểu nhưng rốt cuộc cũng không thể thủ đắc.

Nói về trí tệ cũng như vậy. Người đời tuy thấy Như Lai vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, nhưng cũng không thể nói là người có trí tuệ, tức giống với kiến chấp kia.

Những kẻ phước mỏng, căn tánh chậm lụt, hành theo tà đạo, lại nói như vầy: “Như Lai vô thường, vĩnh viễn diệt độ, Niết-bàn”. Nếu nói Như Lai vĩnh viễn diệt độ, nên biết người ấy không lìa khỏi ba nẻo ác.

Này thiện nam! Ví như trong hồ nước vẩn đục sâu rộng kia có ngọc báu, thế nhưng mọi người không ai thấy được. Có người nói: “Trong hồ nước đục kia có ngọc báu”. Nghe thế, mọi người liền vội vàng tìm kiếm. Có người tìm được ngói, đá, cát, sỏi, hoặc là cỏ cây, nhưng hoàn toàn không ai tìm được ngọc báu. Do tìm không được nên liền cho là dối trá.

Thế rồi có một người khéo léo, biết cách đem bỏ hạt châu vô giá xuống hồ nước đục ấy, nước tức thì trong lại, nhân đó, mọi người đều thấy châu báu.

Này thiện nam! Các hàng Thanh văn, Duyên giác không hiểu diệu lực của Tam-muội này, nên nói: Như Lai vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, trống rỗng, không thật có. Họ không biết Như Lai thường hằng bất biến, dù luân chuyển trong sinh tử. Đại Bồ-tát trụ vào Tammuội này khéo giải những mật ngữ của Như Lai. Thế nên đem hạt châu vô giá ấy để dụ cho Tam-muội.

Này thiện nam! Nếu người nam, người nữ nào muốn thấy Như Lai thường hằng bất biến thì phải nên tu tập Tam-muội này. Đại Bồ-tát nào trụ vào Tam-muội ấy thì thấy được Như Lai thường hằng bất biến. Sự giải thoát cũng như vậy.

Này thiện nam! Ví như bóng cây, người đi đường dựa vào đó để nghỉ ngơi. Các vị Bồ-tát trụ vào Tam-muội này cũng như vậy, vì các chúng sinh mà làm bóng mát phủ che.

Thiện nam! Nếu có ai nói Như Lai vô thường, vĩnh viễn vào Niết-bàn thì kẻ ấy chính là đệ tử của ma. Nếu không phải như vậy, người đó mới đích thật là đệ tử của Ta.

Nếu ai nói Như Lai rốt ráo nhập vào Niết-bàn, nên biết kẻ ấy làm ô nhục pháp của Ta. Nếu ai tin nhận những lời như vậy thì thật là đáng thương.

Khi Đức Phật giảng nói xong phần pháp nầy, bốn phía chúng hội liền phát ra ánh sáng lớn. Ánh sáng màu vàng ấy chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, lấn át cả ánh sáng của Phạm thiên, mặt trời, mặt trăng, chỉ không thể lấn át được ánh sáng của Phật, ngoài ra, mọi ánh sáng khác thì bị lu mờ, không hiện. Từ núi Tu-di lớn nhỏ, rừng rậm, cỏ cây, khoảng giữa hai nước, những nơi tối tăm không nơi nào là không có ánh sáng ấy chiếu tới. Những chúng sinh nơi địa ngục gặp được ánh sáng ấy, mọi thống khổ đều chấm dứt, thân được an lạc.

Bấy giờ, phía trước đại chúng liền xuất ra sáu vạn ức hoa sen. Hoa ấy màu sắc vi diệu, hương thơm đầy đủ, ngàn cánh đầy đặn, làm bằng bốn báu. Mỗi một hoa sen phát ra hương thơm thù thắng lan khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Nơi các thế giới ấy, ngửi được mùi hương này, các hàng Trời, Rồng, Quỷ thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Thích, Phạm, Ma, Sa-môn, Bà-la-môn… tất cả chúng sinh thảy đều đạt sự ưa thích giáo pháp, tâm ưa Đại thừa, mong muốn nghe pháp, dứt mọi phiền não. Hoa này thành tựu hương thơm công đức vi diệu như vậy.

Lúc ấy, ngồi trong chúng hội, thấy những thần biến như thế, Đại Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng liền đứng dậy chấp tay, cung kính bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đây là hình tướng gì? Diệu lực nơi công đức ấy là của ai, khiến nơi đại hội này xuất hiện hoa vi diệu phát ra hương thơm vô lượng?

Khi ấy, Thiên nữ Tịnh Quang nói với Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng:

–Này thiện nam! Tất cả các pháp thảy đều vô tướng, tại sao lại hỏi: “Đây là hình tướng gì?”. Các pháp đều như mộng, sao lại điên đảo hỏi như kẻ mê loạn?

Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng nói:

–Lành thay! Lành thay! Này Thiên nữ! Chẳng phải tôi không thấy các pháp như mộng, nhưng vì tôi muốn cắt đứt sự lệ thuộc vào tướng kia nên mới hỏi như vậy.

Thiên nữ nói:

–Đại đức! Vì sao Bồ-tát thấy sự lệ thuộc vào tướng mà nêu ra câu hỏi này vậy?

–Thiên nữ! Như ta đã nói, vì muốn khiến cho chúng sinh được độ thoát nên mới hỏi như thế.

–Đại đức! Nếu không tự mình đoạn dứt cái thấy của ta, cái nghi của ta thì làm sao có thể độ thoát chúng sinh được? Nếu không tự mình đoạn dứt cái thấy của ta, cái nghi của ta, mà muốn đoạn trừ cái thấy, cái nghi cho chúng sinh, điều đó hoàn toàn không thể có.

Phật nói:

–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Thật đúng như những gì Thiên nữ nói. Đại Bồ-tát trụ vào Tam-muội ấy thì chỉ thấy vô tướng.

Này thiện nam! Nếu người nam, người nữ nào muốn thấy vô tướng, phải nên tinh tấn tu Tam-muội này. Đại Bồ-tát trụ vào Tammuội này thì có khả năng hiện các loại thân trong ba ngàn đại thiên thế giới.

–Bạch Thế Tôn! Vì sao các vị Bồ-tát trụ vào Tam-muội này, có khả năng hiện các thân trong ba ngàn đại thiên thế giới?

–Này thiện nam! Nếu có huyễn sư hoặc đệ tử của ông ta, ở giữa đại chúng có khả năng biến hóa ra đủ loại hoặc nam hoặc nữ, hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc sống hoặc chết, hoặc tới hoặc lui, hoặc nhà hoặc rừng, hoặc voi hoặc ngựa, hoặc cắt hoặc dứt, hoặc phá hoặc hoại, hoặc kết hoặc đoạn trừ… đại chúng nhìn thấy không sinh lòng kinh ngạc. Vì sao? Vì mọi người đã thấu rõ sự huyễn hóa.

Đại Bồ-tát cũng như vậy. Trụ vào Tam-muội này, tu tập chánh

đạo, hóa hiện ra các thân trong ba ngàn đại thiên thế giới là vì muốn độ thoát chúng sinh, nên mới trụ vào Tam-muội ấy. Các vị Bồ-tát thấy sự biến hóa này không sinh lòng kinh ngạc, không có tâm nghi ngờ, tùy thuận theo nghĩa, không có trái ngược. Vì sao? Vì biết chắc rằng đây chính là diệu lực của Tam-muội ấy.

Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát trụ vào Tam-muội này có khả năng hiện thân từng nơi, tùy theo vô số thứ loại hành vi của các chúng sinh nơi ba ngàn đại thiên thế giới.

Hoặc là hiện ở trong thai mẹ tại cõi Diêm-phù-đề. Tất cả chúng sinh thật thấy Bồ-tát ở nơi thai mẹ nhưng thật sự Bồ-tát này không ra khỏi thai. Hoặc tại cõi Diêm-phù-đề, hiện ra khỏi thai mẹ, chúng sinh cũng thấy Bồ-tát ra khỏi thai mẹ nhưng thật sự Bồ-tát này không phải ra khỏi thai.

Hoặc tại cõi Diêm-phù-đề, hiện ban đầu xuống tóc, tạo mọi thứ vui đùa, tất cả chúng sinh đều thấy như vậy, nhưng thật sự Bồ-tát không có tướng này.

Hoặc tại cõi Diêm-phù-đề, hiện đến học đường học các kỹ nghệ, thư sớ, toán số, tất cả chúng sinh đều thấy Bồ-tát ban đầu mới học tập, nhưng thật ra Bồ-tát này đã tu học trải qua vô lượng kiếp ở quá khứ.

Hoặc tại cõi Diêm-phù-đề hiện hành vi như người, sư tử, ngỗng trống… tất cả chúng sinh đều thấy Bồ-tát hiện hành vi như người, sư tử, ngỗng trắng… nhưng thật ra Bồ-tát đều không có tướng này.

Hoặc tại cõi Diêm-phù-đề thị hiện có vợ con, vui thú năm dục; tất cả chúng sinh đều thấy tướng ấy, nhưng Bồ-tát đã xa lìa nó từ kiếp xưa, chỉ lấy pháp lạc làm niềm vui thích cho chính mình.

Hoặc tại cõi Diêm-phù-đề thị hiện đại tiện tiểu tiện, tất cả chúng sinh cũng thấy tướng này, nhưng vị Bồ-tát này đắc pháp thân đích thật chẳng phải thân tạp thực.

Tại sao lại có đại tiện lợi, tiểu tiện lợi,`nhấm ngậm dương chi, mặc áo, rửa tay, chân mang giày dép, tay cầm dù lọng, thân đeo anh lạc, ăn uống, đói khát, sinh, già, bệnh, chết, hành đàn Ba-la-mật, được làm Chuyển luân vương, nô tỳ, nô bộc, nam nữ lớn nhỏ, hoặc làm người, trời, khổ hạnh Đầu-đà, hiện làm Tỳ-kheo tạo phước lợi cho chúng sinh, hiện quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, phá hoại chúng Tăng, nghe pháp, nói pháp, ăn nuốt cơm độc, phạm bốn trọng cấm, gây tội ngũ nghịch, hiện thân Thanh văn, Phậtbích-chi, xuất gia học đạo, bên gốc Bồ-đề chuyển bánh xe chánh pháp, hiện đại thần túc nhập vào Niết-bàn, hoặc làm Thích, Phạm, Ma Batuần, lưu chuyển các cõi giống như bánh xe cũng như vậy.

Này thiện nam! Tuy Đại Bồ-tát tùy thuận mọi hành vi của thế gian mà làm như vậy, đó là vì muốn độ thoát, hoàn toàn không sinh tướng chúng sinh, thường tu pháp tướng. Vì sao? Là vì diệu lực của Tam-muội ấy.

Đại Bồ-tát không có nơi đắm chấp, không chấp vào Thanh văn, không chấp nơi Duyên giác, vì lòng thương xót tất cả thế gian nên muốn độ thoát chúng sinh, bất kỳ nơi đâu, tùy theo sự ưa thích của họ mà hiện ra thân ấy. Thế nên Bồ-tát tu tập vô tướng, thấy vô tướng. Nếu ai có khả năng thấy vô tướng như vậy, thì gọi là chánh kiến. Thiên nữ Tịnh Quang cũng tu vô tướng. Chư Phật Thế Tôn trụ vào Tam-muội ấy, do đó là không thể nghĩ bàn.

–Bạch Thế Tôn! Thiên nữ Tịnh Quang này đã thành tựu đầy đủ trí tuệ thâm diệu. Nếu cảnh giới vô tướng không thể nghĩ bàn thì những ai tu tập cũng không thể nghĩ bàn.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn vui vẻ mỉm cười. Từ nơi kim diện phát ra vô lượng ánh sáng năm màu tỏa chiếu khắp vô lượng vô biên thế giới. Ánh sáng ấy trên chiếu đến cõi trời Phạm Thế, biến khắp tất cả, xoay quanh thân ba vòng rồi thu nhập vào miệng.

Khi ấy, đại địa chấn động đủ sáu cách, trang nghiêm thanh tịnh như cõi Uất-đan-việt. Ba ngàn đại thiên thế giới cũng như vậy. Nhờ vào thần lực của Phật, tất cả chúng sinh thảy đều được thấy.

Lúc này, Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng lại đứng dậy, sửa lại y phục, cung kính chấp tay bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì phóng ra ánh sáng này?

Phật đáp:

–Này thiện nam! Ông đã thưa hỏi, Ta đã trả lời, nên mới phóng ra ánh sáng đoan nghiêm này.

Này thiện nam! Về phương Tây của cõi nầy có một thế giới tên An lạc. Vị Phật nơi cõi ấy hiệu là Vô Lượng Thọ, nay ở đời này thường vì chúng sinh giảng nói chánh pháp, đã bảo một vị Bồ-tát: “Này thiện nam! Tại thế giới Sa Bà, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vì các chúng sinh phước ít, căn chậm lụt mà giảng nói kinh Đại Vân. Ông hãy đến nơi đó, hết lòng nghe, nhận”.

Thế rồi, vị Bồ-tát ấy muốn đến nơi đây, nên trước hết hiện bày tướng đoan nghiêm.

Này thiện nam! Ông quán tại thế giới đó, thân tướng của các vị Bồ-tát đầy đủ năm vạn sáu ngàn do-tuần.

–Bạch Thế Tôn! Vị Bồ-tát ấy danh hiệu là gì? Vì sao lại đến đây? Có lẽ chẳng phải vì độ thoát chúng sinh mà đến? Cúi xin Như Lai hãy vì các chúng sinh mà phân biệt nói rõ.

–Này thiện nam! Vị Bồ-tát nơi thế giới đó vì muốn lãnh hội việc được thọ ký của Thiên nữ Tịnh Quang và vì muốn cúng dường Tammuội này nên mới đến đây. Thiện nam! Vị Bồ-tát ấy tên Vô Biên Quang, thông đạt phương tiện, có khả năng khéo dạy dỗ, hướng dẫn.

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin Như Lai nói về vị Thiên nữ này đã phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề Vô thượng vào thời Đức Phật nào? Và lúc nào sẽ chuyển được thân nữ?

–Này thiện nam! Nay ông không nên hỏi về việc chuyển thân nữ. Thiên nữ trải qua vô lượng a-tăng-kỳ kiếp vì chúng sinh nên hiện thân nữ. Ông nên biết, đây chính là thân phương tiện, chẳng phải là thân nữ thật sự. Tại sao nói là khi nào sẽ được chuyển thân nữ này?

Này thiện nam! Đại Bồ-tát trụ vào Tam-muội ấy, thân được tự tại, có khả năng tạo ra vô số các thứ phương tiện tùy nghi. Mặc dù mang thân hình nữ, nhưng tâm không tham chấp, không bị cấu nhiễm theo tham dục.

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin Như Lai hãy vì chúng sinh mà giảng nói về những việc đời sau của Thiên nữ.

–Này thiện nam! Ông hãy lắng nghe, Ta sẽ nói về việc đó: Vào bảy trăm năm sau khi Ta dùng phương tiện nhập Niết-bàn, tại Nam Thiên Trúc này có một nước nhỏ tên Vô Minh. Nước ấy có sông tên Hắm Ám. Hướng bờ phía Nam có thành tên Thục Cốc. Thành đó có vua tên Đẳng Thừa. Phu nhân của vua này sinh được một công chúa tên Tăng Trưởng, hình dáng đoan nghiêm, được mọi người yêu mến, hộ trì giới cấm, siêng năng không biếng nhác.

Do sinh nàng công chúa này, đất nước của vị vua ấy luôn được mùa, lúa gạo sung túc, vô cùng an vui. Dân chúng đông đúc, không một mảy may bệnh khổ, lo buồn, sợ hãi, hoạn nạn, thành tựu đầy đủ tất cả việc tốt đẹp. Các vua lân cận đều đến quy thuận.

Pháp hữu vi là vô thường biến đổi, nên nhà vua bỗng nhiên băng hà. Khi ấy, các vị đại thần bèn tôn công chúa lên kế vị vua. Công chúa này nương theo lẽ phải, uy đức hàng phục khắp thiên hạ. Hết thảy các nước trong toàn cõi Diêm-phù-đề thảy đều tuân theo, không có chống đối.

Nữ vương tự tại, thu phục tà kiến. Vì muốn cúng dường xá-lợi Phật, nữ vương bèn cho xây tháp bảy báu khắp cõi Diêm-phù-đề, đem những vải lụa đủ màu, phướn lọng thượng diệu, hương chiên-đàn để cúng dường khắp cả. Thấy những ai hộ pháp, trì tịnh giới, nữ vương cung kính cúng dường. Thấy những ai phá giới, hủy hoại chánh pháp, nữ vương quở trách, xử trị, khiến chấm dứt, không còn tái phạm.

Nữ vương tu tập đầy đủ mười Ba-la-mật, thọ trì năm giới, cứu giúp kẻ bần cùng, dẫn dắt, dạy dỗ vô lượng chúng sinh, giảng nói kinh Đại Vân để điều phục tâm họ. Hễ ai nghe kinh Đại Thừa Phương Đẳng thì cung kính cúng dường, tôn trọng, tán thán.

Trọn hai mươi năm thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Đại Vân này, sau đó mạng sống chấm dứt, vào lúc ấy mới chuyển thân nữ. Vì hàng phục chúng sinh, nữ vương thị hiện đại thần thông và cũng vì muốn cúng dường Đức Phật Vô Lượng Thọ nên đã sinh vào thế giới của vị Phật ấy.

–Bạch Thế Tôn! Vị nữ vương này vào đời vị lai có đắc đạt được quả vị Bồ-đề Vô thượng không?

–Này thiện nam! Vào đời vị lai, trải qua vô lượng kiếp, nữ vương này sẽ thành Phật, hiệu là Tịnh Bảo Tăng Trưởng gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Bấy giờ, thế giới Ta-bà này trở nên trong sạch, sáng sủa. Khi ấy, có thành tên Thanh Tịnh Diệu Hương, chỉ toàn dùng bảy báu trang nghiêm, vô lượng tối thắng, giống như cung trời Đao-lợi. Trong thành gồm có chín vạn ức người, đất đai bằng phẳng, không có gai gốc, sỏi cát, ngói đá. Dân chúng nơi ấy không sinh tà kiến, ái trọng Đại thừa, không có tên Thanh văn, Duyên giác, tất cả chỉ thuần là Bồ-tát Đại sĩ, tu tập tâm từ, bi, hỷ, xả, thành tựu nhẫn nhục, thọ mạng vô lượng.

Này thiện nam! Nếu có chúng sinh nào nghe danh hiệu của Đức Phật Như Lai này, sẽ không còn bị đọa nơi ba nẻo ác, chuyển sinh nơi hàng trời, người.

Khi Đức Phật giảng nói kinh này xong, vô lượng chúng sinh đắc quả vị Bất thoái chuyển.

Pages: 1 2 3